Phương cách cai trị những Đô thị, những Vương quốc đã có sẵn nền sinh hoạt và luật pháp
Ở những xử bị chiếm đóng mà dân gian đã quen sống trong nền tự do với luật lệ riêng của họ, kẻ xâm lăng có ba kế hoạch để giữ vững ngôi trị vì: - Một là tàn phá hết - Hai là đích thân đến đóng ở tại chỗ - Ba là cứ để cho dân sống theo tập tục của họ, ta chỉ thụ hưởng lợi lộc cống hiến rồi lập nên một tiểu chính phủ địa phương với nhiệm vụ duy trì tình hữu nghị của nhân dân bản xứ với ta. Bọn người ít ỏi được Chúa nâng lên địa vị này chỉ là một thiểu số, tự biết là họ giữ vững được địa vị lâu dài nhờ uy quyền và lòng tín nhiệm của Chúa, nên họ tận tâm hết sức bảo vệ quyền thống trị của Chúa. Chắc chắn là, nếu ta thật không có tâm muốn làm phá sản một đô thị đã quen sống trong tự do, việc thu dùng những công dân địa phương vào những trách vụ cai trị là phương sách tốt nhất.
Ta có hai tỉ dụ là người Lacédémoniens và người Romains (La Mã). Người Lacédémoniens chiếm cứ hai thành Athènes và Thèbes rồi chỉ để lại một số công chức cai trị nhưng sau này cũng mất cả hai xứ đó. Trái lại người Romains (La Mã), sau khi chiếm cứ những xứ Capoue, Carthage và Numance, đều tàn nhẫn thì lại giữ được lâu dài.
Đến khi chiếm cứ được nước Hy Lạp, người La Mã cũng muốn xử trí như người Lacédémoniens, nghĩa là để cho dân bản xứ sống theo tập tục, luật lệ của họ. Nhưng kết quả không tốt đẹp, đến nỗi về sau lại phải tàn phá mấy đô thị rồi tình thế chung mới được ổn định và giữ được toàn lãnh thổ này lâu đời. Sự thực hiển nhiên, khi ta muốn chiếm giữ vững chắc một lãnh thổ không có cách gì hay hơn là hãy tàn phá nó đi đã. Vị Chúa nào khi mới chiếm đoạt được chính quyền trên một lãnh thổ đã quen sống trong tự do, mà không tàn phá nó đi thì có ngày nó sẽ quay lại tiêu diệt Chúa đó. Bởi vì lúc nào nó cũng ấp ủ những âm mưu khởi loạn dưới danh nghĩa bảo vệ tự do và cổ tục của nhân dân. Dù thời gian trị vì có lâu chăng nữa nhân dân lãnh thổ bị trị cũng không bao giờ quên hai danh từ ấy đâu. Dù làm cách nào chăng nữa nếu không phải là đuổi đi nơi khác hay phân tán đi xa, họ cũng không quên và khi có dịp là họ lại nêu cao danh nghĩa của hai điểm này. Cũng như trường hợp của Pise sau một trăm năm bị dân Florentins đô hộ.
Nhưng trong một Đô thị hay một Quốc gia đã lâu đời sống dưới quyền thống trị của một Quốc vương, khi dòng dõi nhà Vua bị diệt vong; vì sự phục tùng đã trở nên một thói quen, nhân dân không sao thỏa hiệp cùng nhau để chọn lấy một vị tân Vương giữa họ với nhau được. Vì không quen sống trong tự do nên họ rất chậm chạp, lừng khừng khi cần tranh đấu bằng vũ lực. Ở tình trạng này, một tân Chúa xâm lăng rất dễ đánh bại họ và giam chặt họ trong vòng thống trị. Trái lại ở những xứ Cộng hòa, sinh lực nhân dân mạnh hơn, sự oán ghét lòng thích báo thù rửa hận mạnh mẽ hơn; họ không quên nổi nếp tự do cũ để thản nhiên sống cuộc đời bị trị được. Thế cho nên muốn thống trị họ, chỉ có cách chắc chắn hơn hết là tiêu diệt họ hoặc phải đích thân tới trú đóng ngay trong đất họ.
Nhũng lãnh thổ mới chiếm được nhờ võ lực và tài năng của kẻ chiến thắng
Đề cập tới những lãnh thổ hoàn toàn mới, trong đó vị lãnh tụ cũng như cơ cấu chính quyền đều mới cả, xin đừng ai lấy làm lạ khi thấy tôi đưa ra những tấm gương lịch sử vĩ đại, bởi vì còn người đại đa số luôn luôn noi theo con đường đã do người khác vạch sẵn, các hành vi cũng rập theo cùng một kiểu. Nhưng khốn nỗi không phải việc gì cũng đi đúng đường lối của tiền nhân được. Trên phương diện đạo đức cũng chưa chắc sánh kịp với người làm gương. Cho nên người khôn ngoan, thận trọng phải biết con đường hay của những bậc vĩ nhân có chân tài mà noi theo, để rồi nếu chính mình không đủ tài năng đúng mức thì ít ra cũng hưởng thụ được dư vị lưu truyền của tiền nhân. Ta lấy làm tỉ dụ các nhà thiện xạ. Họ biết ra tầm mức khả năng cây cung của họ, nếu cần bắn vào cái đích ở xa quá tầm, họ phải nhắm mũi tên cao hơn vị trí của đích. Sở dĩ tới đích được là vì mũi tên phải theo đường vòng lên cao rồi mới rơi xuống trúng đích.
Vậy khi tôi nói các lãnh thổ hoàn toàn mới, với một vị Chúa công mới, việc cai trị khó khăn hay dễ dãi là do chính sách nghiêm khắc hay nhu nhược của kẻ cầm quyền. Sau một cuộc phiêu lưu, kẻ bình dân nhảy lên được đến ngôi vị Chúa, ta phải đoán ngay kẻ ấy thành công là nhờ ở tài năng riêng hoặc nhờ ở số mệnh hên của hắn. Có được một trong hai điều kiện đó, vị tân Chúa cũng đỡ phần khó khăn trong việc trị quốc. Nhưng dù sao kẻ thật sự có chân tài sẽ ở vững trên địa vị hơn kẻ ỷ lại vào số mệnh may rủi. Kẻ này lại còn có thể thâu lượm thêm được nhiều chiến thắng. Khi đề cập đến những nhân vật hoàn toàn do tài năng riêng, chứ không nhờ tới số mệnh may rủi, mà trở nên bậc Chúa công, tôi xin kể những vị hiển hách nhất là Moise, Cyrus, Omulus, Thésée, và nhiều người khác nữa. Ta không cần phải phê bình tới Moise, vì Moise là vị thừa hành mệnh lệnh của Thượng đế, như vậy đủ để ta tôn kính rồi. Nhưng nếu ta nghĩ tới Cyrus và mấy vị khác, cùng những vị đã chiếm cứ đất đai và sáng lập nên những Vương quốc, ta thấy họ là những hạng người đáng tôn phục. Vì nếu ta xét kỹ công việc và cách hành sự của họ, ta sẽ thấy họ không kém gì Moise, luôn luôn được Thượng đế hướng dẫn. Khi xét kỹ sự nghiệp và tiểu sử của các vị này, ta thấy điều may mắn độc nhất của họ là đã gặp thời cơ. Thời cơ đem lại chất liệu để họ đúc tạc thành những hình thể mà họ ưa thích. Thời cơ đã đưa lại cho họ những vấn đề, những sự việc để họ giải quyết hay uốn nắn tùy theo sở thích. Nếu không có cơ hội, tài năng trí óc của họ đã bị tiêu ma và nếu không có tài năng trí óc thì cơ hội cũng trôi qua uổng phí.
Phải có cơ hội là lúc dân Do Thái (Israel) cư trú trên đất Ai Cập đang bị người nước này xem như nô lệ, đè nén, ức hiếp thì Moise mới được dân Do Thái phục tùng cầu khẩn xin cứu thoát khỏi vòng xiềng xích. Phải nhờ nguyên do Romulus đã sống trong khoảng đất quá chật hẹp của xứ Albe, và là một đứa trẻ bị ruồng bỏ từ thửa sơ sinh, ông mới trở thành vị anh hùng sáng lập nên kinh thành La Mã (Rome) và là chúa tể trên toàn xứ. Còn Cyrus nổi danh là nhờ sống giữa lúc dân tộc Perses (Ba Tư) đang oán ghét Đế quốc người Mèdes; giống người này vì đã được hưởng thụ thanh bình lâu quá nên trở thành ươn hèn nhu nhược. Thésée đã thi thố hết tài năng là vì lúc đó dân tộc Athéniens (Nhã Điển - Hy Lạp) đang ở trong tình trạng phân hóa chia rẽ. Vậy ta thấy cơ hội, thời thế đã tạo nên các vị anh hùng, và các vị anh hùng này có đủ trí ốc thông minh, tài năng để nắm lấy cơ hội, thời thế đó. Kết cuộc là xứ sở họ trở nên hùng mạnh và dân tộc họ sống trong hạnh phúc hoàn toàn.
Đề cập đến những kẻ khác cũng đi chiếm một Vương quốc cho mình (như các vị trên đây) bằng hành vi quyết liệt; khi chiếm đóng họ phải khó nhọc thật, nhưng đến lúc trị vì thì lại dễ dàng. Những khó khăn phải vượt qua do chỗ họ bắt buộc phải ban bố những sắc luật, đặt ra các định chế để sáng tạo nên một cơ cấu chính quyền và để củng cố uy quyền cá nhân họ. Không có gì khó giải quyết, khó thành công và nguy hiểm bằng cuộc phiêu lưu trong công tác sáng lập một chế độ mới toàn diện cho một Quốc gia.
Bởi vì người lãnh đạo cuộc cách mạng này sẽ gặp những kẻ thù, tức là những kẻ đã đã được hưởng nhiều lợi lộc của chế độ cũ, và bênh vực mình một cách hời hợt, họa chăng chỉ là những kẻ vừa được hưởng thụ những lợi lộc mới. Sự ủng hộ lừng khừng vì bọn cộng tác viên mới vẫn sợ sệt, kiêng nể kẻ thù đứng sau lưng pháp luật cũ, phần khác họ chưa thấy gì đảm bảo chắc chắn là chính sách của chế độ mới sẽ bền vững lâu dài. Do đó, ta thấy nhiều trường hợp những kẻ thù cũ phản công lại dễ dàng và bọn mới chỉ chống cự lại một cách hời hợt, yếu ớt để rồi bị thất bại.
Nếu muốn thấu triệt vấn đề ta phải tự hỏi người đi tìm cái mới có thể tự lực làm được gì hay còn phải tùy thuộc vào những người khác nữa? Nghĩa là muốn thành công cần phải kêu gọi sự giúp đỡ của người khác hay chỉ trông cậy vào sức mạnh của mình là đủ?
Trường hợp thứ nhất thì luôn luôn thất bại, trường hợp thứ hai, nếu biết tự lực và xử dụng sức mạnh của mình, thì it khi thất bại. Vậy ta có thể kết luận kẻ nào có binh lực hùng mạnh trong tay là phải thắng kẻ có binh lực thua kém. Ngoài những điểm nói trên, ta còn phải nghĩ tới tính chất bất nhất của tâm lý quần chúng. Ta có thể thuyết phục dễ dàng để họ tin theo một việc nhưng rất khó giữ vững niềm tin ấy trong lòng họ. Thế nên ta phải giữ vững trật tự để khi nào họ không tin nữa, ta có thể dùng sức mạnh bắt họ phải tin theo. Moise, Cyrus, Thésée nếu không có võ khí dồi dào cũng chẳng bảo vệ được lâu dài chế độ của họ. Ngay như thời đại đương kim ta thấy Linh mục Jérôme Savonarole đã bị lật đổ ngay khi đặt xong nền trật tự mới mà ông đã sáng lập. Bởi vì khi dân chúng bắt đầu hết tin ở ông thì ông lại không có đủ lực lượng đủ để giữ vững lòng tin của những kẻ đã tin và để thu phục thêm những kẻ chưa tin ông. Vậy những lãnh tụ ở trong hoàn cảnh như ông thật là khó khăn, biết bao nguy hiểm đặt giữa đường đi, phải có đủ tài năng mới vượt qua nổi. Khi những khó khăn đã vượt qua, những kẻ ghen ty đã bị diệt trừ hết, lúc đó được đám dân chúng tôn sùng quý mến, vị lãnh tụ sẽ ở yên ổn trên địa vị hùng cường, bảo đảm, với đầy đủ vinh quang và hạnh phúc.
Ngoài những tấm gương lịch sử vĩ đại nêu trên tôi muốn kể thêm một tỷ dụ nhỏ hơn, nhưng cũng cùng một tính chất, trong số nhiều trường hợp tương tự. Tôi muốn nói tới Hiéron xứ Syracuse: Vị này xuất thân là một thường dân sau trở thành một Chúa công.
Sự may mắn độc nhất của ông là đã gặp thời cơ. Nguyên do dân gian xứ Syracuse, bị thúc đẩy bởi chiến tranh và sự khẩn thiết nội bộ phải vội bầu Hiéron lên làm chỉ huy quân lực. Từ địa vị này, ông dần dần tỏ ra là một nhân vật đủ tư cách làm Chúa. Vốn dĩ từ khi chưa có địa vị, ông đã là người có rất nhiều tài năng lỗi lạc. Cho nên lúc đó đã có người bảo rằng ông chỉ thiếu Vương quốc để trở thành Đế vương. Ông giải tán hết đội quân dân vệ cũ để lập ngay một đoàn binh sĩ mới. Ngoài những thân hữu cũ vẫn luôn luôn được tôn trọng ông còn tạo thêm nhiều bạn đồng tâm đồng chí mới nữa. Như thế ông đã tự lực gây nên một đoàn thân hữu đồng chí và một đạo binh sĩ tin cẩn riêng của mình. Trên nền tảng vững như vậy, ông muốn xây cất lâu đài nào cũng được. Quả thật, khi tranh đấu khó nhọc bao nhiêu thì đến lúc thụ hưởng được thỏa mãn bấy nhiêu.
Nhũng lãnh thổ mới chiếm được nhờ võ lực và tài lực của kẻ khác
Những kẻ xuất thân từ lớp thường dân chỉ nhờ vận may mà trở thành Chúa, khi lên tới địa vị thì không khó nhọc gì, nhưng giữ vững được địa vị lại là việc khó khăn vô cùng. Gặp vận may bốc lên như diều, đường đi chẳng gặp chút chông gai, nhưng khi an vị, các công việc nan giải nảy ra liên miên. Đó là những kẻ mang tiền tài mua lấy địa vị, hoặc do người khác ban ân cho. Trường hợp này gặp nhiều trên đất Hy Lạp như ở các đô thị Lonie và Hellespont. Ở các nơi này Hoàng đế Darius tạo nên những Tiểu chúa để họ giữ gìn an ninh và uy danh cho Hoàng đế. Cả đến các Hoàng đế La Mã cũng vậy, ai có tiền bỏ ra nuôi được nhiều binh sĩ là có thể bước tới đế vị. Bọn Chúa công này được tại vị nhờ thế lực Thần Tài, và do ý muốn của những kẻ khác cắt đặt họ lên địa vị cao quý. Hai điều này chỉ là những điều thất thường và mong manh. Cứ thực mà nói, bọn họ không biết cách và không thể giữ nổi địa vị. Vì quen song trong giới hạ lưu, họ không biết quyền chỉ huy là gì, trừ khi họ có trí óc phi thường và có sự cuồng nhiệt trong hành động. Họ không thể làm gì được, vì họ không có trong tay một lực lượng trung kiên thành tín. Hơn nữa những lãnh thổ rơi vào tay họ quá lẹ, cũng như tất cả các thực vật thiên nhiên, vi sinh mọc lớn quá mau lẹ, nên không làm sao có đủ rễ, đủ sợi, đủ thớ để có thể đứng vững trước một trận cuồng phong đột khởi. Đó là số phận của những kẻ bột phát trở thành Chúa trong khoảnh khắc, nếu họ không có tài năng đặc sắc để nắm giữ những sự may mắn đưa đến tay, và nếu sau khi tại vị, họ không biết xây dựng nền móng vững vàng cho địa vị của họ, điều mà các người khác phải làm trước.
Bây giờ tôi muốn đưa hai tỷ dụ lịch sử tiêu biểu cho hai phương sách trở thành Chúa, hoặc do tài năng hoặc do của cải. Đó tức là trường hợp Francois Sforza và trường hợp César Borgia.
Sforza với tài năng siêu việt và những phương tiện thích ứng, xuất thân từ chức Quản quân thấp kém, đã trở nên Công tước cai trị Milan. Ông đã phải tự gầy dựng uy quyền bằng trăm ngàn công khó thì ông lại giữ vững địa vị một cách dễ dàng. Còn César Borgia, mà người ta thường gọi là Công tước Valentinois, đã chiếm giữ được nhiều lãnh thổ nhờ tài sản tiền bạc của đấng thân phụ ông. Cho nên sau thân phụ ông mất, các đất đai cũng mất theo luôn, dù ông đã làm đủ cách mà người đời có thể làm được. Ông mang hết tâm trí hoạt động như bất cứ người tài giỏi nào khác để mong cắm rễ sâu vào những lãnh thổ mà ông đã được thụ hưởng nhờ binh lực và tài sản, tiền bạc của người khác đem lại.
Như đã nói ở trên, vị Vương hầu nào khi lên ngôi chưa xây kịp một nền tảng cho uy quyền của mình, về sau làm cũng được, nhưng nền móng ấy sẽ nguy hiểm vô cùng và có thể làm cho cả tòa nhà suy sụp đổ.
Nếu xem kỹ tất cả sự nghiệp, công trình của Công tước, ta thấy rõ ông đã làm rất nhiều để xây đắp nền móng cho uy thế tương lai của ông. Khi trình bày dài dòng về vấn đề này, thiết nghĩ không phải tôi đã đi ra ngoài đề. Tôi xét không thể có phương châm nào hay hơn cho các tân Chúa, là noi gương những sự nghiệp của vị Công tước này. Và nếu về sau chính Công tước không được hưởng kết quả, công lao của mình, không phải do ông mà do một sự trớ trêu của số mệnh (Công tước đã chết yểu).
Giáo hoàng Alexandre VI (Cha đẻ của César Borgia) khi có ý muốn làm cho Công tước trở thành một vị Lãnh chúa uy liệt, Ngài đã gặp nhiều sự cản trở, ngay lúc ấy và cả sau này nữa. Một là Ngài không thể ban cho con một lãnh thổ nào không trực thuộc Giáo hội. Vả chăng Ngài cũng thừa biết trước dân tộc Vénitiens và Công tước xứ Milan không bao giờ ưng thuận để cho Ngài lấy đất của Tòa Thánh ban cho con mình. Thêm nữa, Faenza và Rimini từ xưa đến này vẫn được dân Vénitiens bảo trợ. Ngoài ra Ngài còn phải nhìn tới những lực lượng quân sự của Ý quốc. Tuy lúc nào Ngài cũng xử dụng được chúng, nhưng những quân lực này lại đặt dưới quyền chỉ huy của những nhân vật vốn sợ uy quyền Ngài lên cao quá. Những nhân vật này lại là người trong gia đình họ Orsini và Colonna cùng bè lũ thân tín nên Ngài không dám tin cẩn họ được. Bây giờ Ngài chỉ còn cách làm đảo lộn hệ thống đương thời, làm rối loạn trật tự trên tất cả các xứ của những người này, mới có lý do tách riêng một lãnh thổ cho con Ngài cai trị. Kế hoạch được Ngài thi hành thành công rất dễ dàng. Bởi cùng lúc đó dân Vénitiens, vì những lý do khác nữa, đang có ý định đưa người Pháp xâm nhập vào đất Ý. Không những không phản đối việc này, Ngài còn dang tay đón tiếp và ban ngay cho Vua Louis nước Pháp phép Thánh để ly dị cùng cựu Hoàng hậu. Vậy chính dân Vénitiens đã giúp và Giáo hoàng Alexandre ưng thuận để Vua Pháp du nhập vào đất Ý. Ngược lại, khi Giáo hoàng định thôn tính xứ Romagne, chính Vua Louis đã phải nhận mang nhân lực của mình giúp Ngài.
Công tước Borgia, con Ngài, lại mướn thêm cả quân sĩ của Orsini để đánh lại đoàn quân của Colonna đóng tại xứ này để chiếm cứ đất đai.
Sau đó, Công tước vừa lo giữ vững đất này, vừa có tham vọng bành trướng thế lực ra ngoài bờ cõi. Nhưng ông gặp ngay hai trở lực lớn: một là đoàn quân Orsini mà ông mướn thiếu hẳn lòng trung thành, hai là thâm ý của người Pháp. Nghĩa là Công tước rất sợ bọn quân đánh thuê của gia tộc Orsini manh tâm không những không giúp ông đi chiếm các xứ khác còn có thể trở mặt hất ông khỏi những đất đai đã chiếm. Ông còn sợ Pháp vương Louis cũng sẽ xử trí như vậy nữa. Đối với bọn quân Orsini, ông đã thấy một vài điểm báo hiệu lòng phản trắc của họ. Sau khi chiếm được xứ Faenza lúc tấn công xứ Bologne, ông thấy họ rất hờ hững ngoài chiến trận. Về phía Vua Louis, ông đã biết chắc thâm ý của nhà Vua. Sau khi đã chiếm xong đất Urbin, ông tấn công luôn sang đất Toscane, bị Vua cương quyết ngăn lại và bắt rút quân về.
Sau mấy biến cố này, ông đắn đo lợi hại, rồi quyết định từ nay không trông mong vào vận mệnh may rủi và cũng không nhờ cậy đến lực lượng của kẻ khác nữa. Theo phương châm, việc đầu tiên ông làm là hạ uy thế của Colonna và Orsini ngay tại thành phố La Mã (Rome). Ông đã lôi kéo tất cả bọn quần thần quý phái về phe ông. Ông ban cho họ quyền cao chức trọng lương to lộc lớn. Rồi tùy theo cấp bậc ông cho phép họ lập nên đội đoàn binh sĩ và gây cơ sở chính quyền địa phương đến nỗi chỉ trong mấy tháng, bọn quần thần quý tộc đều nhạt tình thân thiết với bè phái cũ đi theo về với ông. Sau đó, ông chỉ còn chờ dịp để diệt trừ bọn Orsini. Cơ hội đến đúng lúc, ông liền nắm lấy khai thác triệt để. Đó là lúc bọn Orsini tỉnh ngộ thấy rằng mình ở vào một tình trạng tối nguy, khi Công tước César Borgia cùng với Giáo hoàng trở nên mạnh. Họ đã ngấm ngầm hội họp ở tỉnh Magione, gần Pérouse, bàn định mưu kế gây loạn trong xứ Urbin và gây xáo trộn trật tự trong xứ Romagne cùng vô số sự rắc rối làm cho Công tước hoảng sợ. Nhưng ông đã lợi dụng ngay sự trợ lực của người Pháp để dẹp yên tất cả. Sau khi lấy lại được uy thế vững chắc, ông liền trở mặt không tin dùng người Pháp cùng với cả bọn ngoại nhân khác nữa. Thật là người tráo trở quay quắt. Ông làm mặt đạo đức, giả dối đến nỗi còn xin giảng hòa, xóa hết hận thù với bọn Orsini nhờ sự trung gian giàn xếp của Giám mục Paulo. Khi phải gây lòng tin để nhờ cậy, ông chiều nịnh Giám mục Paulo quá mức: dâng tặng luôn, nào lễ phục, nào tiền bạc, ngựa xe. Giám mục nể lời bèn ra công thuyết phục cho kỳ được bọn Orsini, tự kéo nhau tới tỉnh Sinigaglia, đặt mình dưới quyền ông. Bọn lãnh tụ chống đối đã bị tiêu diệt, dư đảng của chúng nay đã trở nên bạn của ông rồi. Ông đã xây dựng xong nền tảng cho uy thế. Ông nắm vững trong tay toàn cõi xứ Homagne và Vương quốc Urbin, toàn dân thần phục và tôn sùng ông, bởi vì họ đã bắt đầu thụ hưởng những ân huệ do ông ban bố.
Sau đây, tôi không muốn bỏ quên không kể một hành động rất nổi tiếng của vị Chúa công này mà kẻ khác cũng cần bắt chước. Sau khi chiếm cứ xong toàn cõi xứ Romagne, ông thấy xứ này bị chia xẻ bởi một lũ Tiểu chúa vô quyền. Họ chỉ chăm lo việc bóc lột nhân dân chứ không nghĩ tới việc cai trị khiến nhân dân càng ngày càng thêm chia rẽ, trong xứ đầy dẫy trộm, cướp, đâm chém lẫn nhau. Ông nghĩ ngay rằng cần phải dẹp yên bọn Tiểu lãnh chúa này, đưa họ vào một mối phục tùng Hoàng quyền, rồi lập lên trong xứ một cơ cấu chính quyền mạnh mẽ. Ông bèn giao phó trọng trách này cho một nhân vật hữu danh là Remy d’Orque, có tiếng là người tàn ác và lanh lẹ. Vị này được toàn quyền hành động. Trong một thời gian ngắn toàn xứ được thanh bình và thống nhất, thật là một đại danh dự cho ông. Nhưng sau đó ông thấy sự toàn quyền chém giết này không hợp thời nữa và có thể trở nên ghê tởm. Ông bèn thiết lập lên ở giữa tỉnh một tòa án nhân dân dưới quyền chủ tọa của một ông Chánh thẩm hiền đức và mỗi địa phương được cử một Trạng sư đại diện. Ông thừa biết trước là những biện pháp hà khắc vừa qua đã gây nhiều điều thất nhân tâm. Nay ông muốn tẩy xóa khỏi trí óc của nhân dân những hình ảnh đó để lấy lại tình thân hữu của họ. Ông muốn tỏ rõ cho tất cả biết là trước kia có những hành động tàn ác không phải do ông ra lệnh mà hoàn toàn do thiên tính xấu xa của kẻ thừa hành. Ông tìm ngay cơ hội. Một buổi sáng kia, giữa công trường tỉnh Césèna ông, ra lệnh mang Remy d’Orque chặt ra làm hai mảnh, phơi thây giữa trời, bên cạnh có một cái thớt và con dao đẫm máu. Cảnh tượng khủng khiếp này làm cho toàn dân ngẩn ngơ nhưng khoái trá.
Bây giờ ta trở lại khởi điểm của câu chuyện: Công tước César Borgia nay đã trở nên hùng cường, các mối nguy xa dần, bọn lân bang có thể hãm hại đều bị tiêu diệt cả rồi. Trên con đường bành trướng thế lực, ông chỉ còn e ngại người Pháp nữa thôi. Bởi vì ông biết rõ Pháp vương tuy đã nhận thức được sự nhầm lẫn của mình, nhưng không vì vậy mà cứ để cho sự nhầm lẫn kéo dài mãi.
Vì thế ông để tâm đi tìm kiếm thêm bạn đồng minh, đồng thời khởi sự châm chọc người Pháp, bắt đầu từ lúc họ kéo quân xuống xứ Naples tấn công quân Y Pha Nho đang vây hãm thành Gaète. Trong thâm tâm ông muốn kéo mọi người cùng mình chống lại người Pháp. Âm mưu này sắp thành tựu thì gặp ngay đức thân phụ của ông, Giáo hoàng Alexandre, băng hà.
Trên đây là những thủ đoạn của Công tước César Borgia đã thi hành trong giai đoạn lịch sử vừa qua. Một điều mà ông bắt đầu phải lo sợ từ khi Đức Giáo hoàng Alexandre qua đời: có thể vị nối ngôi sẽ không phải là một bạn che chở cho ông nữa. Người này sẽ cố tình hủy diệt những gì mà Đức Giáo hoàng Alexandre đã ban cho ông. Ông đã tiên liệu đề phòng bằng bốn cách sau đây:
Một là ông tru di hết gia tộc huyết thống của các Tiểu chúa mà ông đã bóc lột, tước đất của họ, để cho tân Giáo hoàng không còn có thể tái lập địa vị của họ được nữa. Hai là mua chuộc, thu phục về mình tất cả quần thần La Mã để họ bao vây kìm hãm Giáo hoàng. Ba là lôi kéo, áp bức, càng nhiều càng tốt, các vị Hồng Y giáo chủ về ông. Điểm thứ tư là ông tự gây cho mình uy thế hùng mạnh trước khi Đức Giáo hoàng qua đời để rồi độc lực ông có thể chống lại với bất cứ ai.
Trong bốn điểm, khi Đức Giáo hoàng Alexandre mất, ông mới hoàn tất được ba. Điểm thứ tư còn đang tiến hành dở dang. Thứ nhất, về những Tiểu chúa mà ông đã tước đoạt tài sản, bắt được ai là ông giết chết ngay, và chỉ có một số rất ít trốn thoát được. Về bọn quần thần quyền quý ở La Mã thì tất cả đã thần phục; các vị Hồng Y cũng vậy, đa số đã theo phe ông. Còn về những dự tính chinh phục tương lai, ông đã có mưu kế để trở nên chúa tể xứ Toscane, và đã thôn tính xong xuôi hai xứ Pérouse và Piombino, đặt nền bảo hộ trên xứ Pise. Đối với người Pháp, ông không còn đếm xỉa, nể nang gì nữa. Lý do là người Pháp đã bị người Y Pha Nho đuổi ra khỏi xứ Naples rồi. Thế nên bây giờ cả hai nước này đều phải vuốt ve, kết thân với ông, và ông đã ngang nhiên kéo quân sang xứ Pise. Sau đó, xứ Lucques và Sienne ngoan ngoãn xin liên kết ngay với ông và không kiêng nể gì người Florentins nữa, dù hai xứ ấy trước kia vẫn nể sợ xứ này. Đến như dân Florentins đồng minh là thế cũng còn xuýt bị ông chinh phục. Nếu ông chiến thắng nốt dân tộc này (giá ông khởi cuộc đúng vào năm Đức Giáo hoàng Alexandre từ trần, thì đã xong rồi), thì ông đã tụ tập dưới trướng được một quân lực hùng hậu và đã gây được uy danh tuyệt vời, đến mức có thể độc lực giữ vững ngôi bá chủ khỏi cần nhờ tới tài sản và sức mạnh của kẻ khác nữa.
Kể từ ngày ông bắt đầu mở cuộc chinh chiến, vừa đúng năm năm thì Đức Thánh Cha, Giáo hoàng Alexandre, băng hà, chỉ để lại cho ông được độc một xứ Romagne là yên ổn vững chắc. Ngoài ra, các xứ khác đều còn ở trong tình trạng bất ổn, lại còn bị kẹt vào giữa hai đạo quân thù nghịch rất mạnh. Và chính ông cũng ốm đau, bệnh tình luôn luôn trầm trọng. Nhưng may sao ông có một năng lực, một sức mạnh phi thường lại có biệt tài dụng nhân, biết trọng dụng người này, ruồng bỏ người khác. Hơn nữa những nền móng mà ông xây dựng trong thời gian ngắn đều đã kiên cố vô cùng. Nếu hai đạo quân thù nghịch chậm tấn công và nếu sức khỏe ông sớm vãn hồi, dù trăm nghìn sự khó khăn ông sẽ giải quyết được hết. Trên thực tế, ta thấy nền móng uy quyền quả thật vững chắc. Cho nên ông cố nán lại Romagne được hơn một tháng. Sau đó tại kinh thành La Mã, tuy đã lâm trọng bệnh, nửa sống nửa chết, bản thân ông vẫn được hoàn toàn an ninh. Bọn đối lập Baglioni, Vitteli và Orisni đều tập trung ở thành La Mã mà không kẻ nào đụng chạm tới ông.
Trong cuộc bầu người kế vị cho Đức Giáo hoàng Alexandre, tuy không làm cho ứng cử viên bù nhìn của ông được trúng cử, ông cũng đã cản không cho người ông ghét trúng cử được. Nếu ông không lâm bệnh khi Đức Giáo hoàng băng hà, thì mọi sự sẽ dễ dàng biết bao. Ngày Đức tân Giáo hoàng Jules II đắc cử, kế vị Giáo hoàng Alexandre vừa băng hà, chính ông đã nói với tôi rằng ông đã chuẩn bị sẵn sàng kế hoạch giải quyết tất cả vấn đề khó khăn có thể xảy ra sau ngày cha ông mất. Ông có ngờ đâu là ngày Đức Giáo hoàng tịch cũng chính là ngày bệnh tình của ông bắt đầu nặng thêm để sắp đưa ông đến cõi chết.
Mang tất cả những sự nghiệp của Công tước tập họp lại rồi cứu xét kỹ càng, tôi không thấy điểm nào để chê trách. Hơn nữa ta còn nên đem làm gương cho những kẻ đã bước tới địa vị lãnh đạo những đất đai lớn hoặc các Vương quốc nhờ tài sản hay binh lực của người khác. Công tước là người có chí lớn và tâm hồn cao cả. Trong các sự việc nêu trên, ông không thể làm thế nào khác hơn được. Sự nghiệp của ông sở dĩ bị bỏ dở dang, vì cái chết của Thánh Cha Alexandre và bệnh trạng của chính ông.
Tóm lại kẻ nào khi nắm được chính quyền trên một lãnh thổ mới, xét thấy cần phải hành động thì làm như sau :
- Nắm vững kẻ thù trong tay.
- Kết thêm thân hữu.
- Dùng mưu kế hay sức mạnh để thắng các trở ngại.
- Xử trí cho dân vừa yêu mến, vừa sợ uy quyền.
- Làm cho binh sĩ phải kính trọng và tuân lệnh mình.
- Canh cải các tục lệ cổ hủ.
- Hủy diệt những kẻ có thể và chắc sẽ làm hại mình.
- Vừa nghiêm khắc vừa đại lượng, vừa cao thượng vừa khoáng đãng.
- Giải tán đoàn dân vệ cũ tỏ vẻ bất trung, lập đoàn mới thay thế.
- Duy trì chặt chẽ tình thân thiện với các Đại vương, Tiểu chúa, làm sao cho họ luôn luôn phục vụ mình và không bao giờ dám nghĩ tới làm hại mình.
Kẻ đó không thể tìm đâu những gương mẫu tân kỳ hơn là những hoạt động của vị Công tước Valentinois này tức César Borgia vậy.
Người ta chỉ chê ông ở chỗ đã để cho Giáo hoàng Jules II trúng cử. Sự lựa chọn này thật là dở. Vì như tôi đã nói, nếu ông không thể làm cho một nhân vật bù nhìn của ông trúng cử thì ít ra ông cũng phải gạt ra ngoài những kẻ mà ông không muốn thấy ở ngôi Giáo hoàng, nhất là những vị Hồng Y mà ông đã dám nhục mạ, và những kẻ khi trúng cử lên ngôi sẽ có thể sợ uy quyền ông lên quá cao. Bởi vì theo tâm lý thông thường, con người ám hại lẫn nhau là do lòng oán hận hoặc sợ hãi. Trong số những người bị ông hạ nhục, có những vị như là Hồng Y Saint Pierre es Liens, Colonna, Saint Georges và Ascagne. Số những vị còn lại, nếu đắc cử chắc chắn sẽ đều sợ sự bành trướng uy quyền của ông, ngoại trừ Đức Hồng Y Amboise và các Hồng Y người Y Pha Nho. Đức Hồng Y Amboise không e sợ uy quyền của Công tước, vì sau lưng Ngài còn có thế lực của Đại vương Pháp quốc. Các Hồng Y Y Pha Nho cũng không tìm cách hạ ông vì họ là đồng minh của ông.
Giữa tình hình lúc này, lý ra nếu ông không bầu được một vị Hồng Y Y Pha Nho lên ngôi Giáo hoàng thì ông phải nài ép khéo léo cho Hồng Y Amboise trúng cử mới phải. Ông lại đi mặc cả quyền lợi để đưa Hồng Y Saint Pierre es Liens lên ngôi tức là Giáo hoàng Jules II. Kẻ nào tưởng nghĩ rằng trong mối liên quan giữa các đại nhân, những ân huệ mới thi ban có thể làm quên được cái nhục xưa kia, thì thật là quá nhầm.
Vậy ta thấy rõ Công tước đã phạm một lỗi lầm trong việc bầu cử Giáo hoàng này.
Và do đó chính tự ông đã gây nên sự sụp đổ tối hậu cho tất cả công nghiệp của ông vậy.
Những kẻ nhờ hành vi hèn ác làm được Chúa công
Ngoài ra người ta còn có hai cách để bước từ cấp hạ lưu lên địa vị Chúa công không cần nhờ tới tài năng và tiền của. Việc này ta không thể bỏ qua không bàn tới được. Một trong hai cách sẽ được bàn luận kỹ càng khi nói đến các chế độ Cộng hòa. Những cách ấy gồm: Một là người ta xử dụng những phương tiện hiểm ác và tội lỗi để chiếm ngôi chúa tể. Hai là kẻ thường dân trở thành Chúa tể, nhờ ở lòng ái mộ của các công dân khác. Để bắt đầu trình bày cách thứ nhất, chúng tôi xin đưa ra hai tỷ dụ: Một ở thời cổ và một ở thời đương kim, không cần đi sâu vào chân giá trị và quyền hạn của nhân vật trong chuyện, vì tôi xét nếu ai cần, thì chỉ việc theo gương trong câu chuyện là đủ.
Tiểu vương Agathocle tỉnh Sicile trở thành Quốc vương xứ Syracuse, trước kia không được hạng công dân bực trung mà chỉ là hạng thấp hèn nhất trong xã hội. Còn một anh thợ đồ gốm, từ bé đến lớn ông sống cuộc đời đầy tội lỗi của kẻ hèn ác. Nhưng sự hèn ác này lại đi đôi với một nghị lực và một sức mạnh kinh khủng cho nên trong quân đội, từng bậc một, ông đã thăng quan tiến chức một cách mau chóng. Chẳng bao lâu đã là Quản quân của thành Syracuse. Tới được địa vị này, trong trí óc ông đã nảy ra tham vọng làm Vua. Từ lúc đó, ông lập tâm nắm giữ lấy quyền lộc mà mọi người đã ban cho ông. Ông bèn bí mật liên kết với quân của tướng Amilcar xứ Carthage đang chiến đấu trên đất Sicile. Thế rồi, một buổi sáng kia, ông hội họp dân chúng đông đảo đồng thời chiêu tập đầy đủ Hội viên Thượng Hội Đồng, và các nhân sĩ giàu sang có thế lực trong thành, nói là để bàn luận việc nước. Khi mọi người có mặt đông đủ ông ra lệnh hạ sát hết sạch. Sau đó ông dùng sức mạnh để nghiễm nhiên nắm quyền thống trị toàn xứ không cần đến bầu cử, đề cử của nhân dân.
Ngoài chiến trường ông bị thua hai trận. Quân của dân Carthaginois bao vây thành trì của ông, nhưng ông vẫn đủ sức bảo vệ. Ông lập kế để lại bên trong một phần quân cầm cự, còn một phần ông kéo sang Phi Châu đánh vào đất đai sào huyệt của dân Carthaginois. Bọn này phải bỏ cuộc vây thành, rút quân về nước để rồi thỏa hiệp với ông chia đất đai. Dân Carthaginois chiếm giữ Phi Châu, còn ông thì toàn quyền cai trị đảo Sicile.
Ai xét kỹ công nghiệp của ông sẽ thấy ông tuyệt nhiên không nhờ chút nào, hoặc nhờ rất ít, vào sự may mắn. Ông lên tới địa vị Chúa công không phải nhờ ơn huệ của ai cả, mà chỉ nhờ bao nhiêu gian lao nguy hiểm phải trải qua, để dần dần thăng cấp bậc trong đạo quân dân vệ. Ông lại phải có bao nhiêu hành động nguy hiểm can trường để giữ vững ngôi Chúa.
Phần khác ta không thể bảo ở ông có “Ferocita” [1] được khi ông đang tay giết hại đồng bào, phản bội bè bạn, không có lòng thương xót ai, không tín ngưỡng đạo giáo nào. Với những phương tiện này người ta chỉ có thể chinh phục đất đai được thôi, chứ tiếng tăm danh dự không làm sao có được. Nếu xét tới lòng quả cảm của ông khi xuất nhập nơi nguy hiểm, sự can đảm phi thường trong giờ phút chống đỡ rồi thắng thế những đối phương thù nghịch, ta thấy là ông không nhường bước một vị danh tướng nào khác. Nhưng khốn nỗi những thú tính tàn ác, vô nhân đạo và tội lỗi đây dẫy của ông không cho ta xếp ông vào hạng vĩ nhân toàn hảo được. Vậy ta cũng không thể nói ông nổi danh là nhờ may mắn hay vì có ferocita được.
Bây giờ tôi đề cập tỷ dụ thứ hai ở thời đại đương kim. Trong thời gian Giáo hoàng Alexandre VI tại ngôi thì Oliverotto de Fermo là một đứa trẻ mồ côi được người chú tên là Jean Fogliani nuôi dậy. Còn rất ít tuổi, Oliverotto đã được giao cho ông Paolo Vitelli dạy binh nghiệp để đến khi thành tài sẽ bổ vào một cấp bậc khả quan trong đạo quân Quốc vệ. Sau khi Paolo từ trần Oliverotto được chuyển sang dưới quyền chỉ huy của người anh em của Paolo, tức là Vitellozzo. Cbẳng bao lâu hắn trở nên đệ nhất chiến hữu của vị chỉ huy, nhờ trí óc thông minh lanh lợi, tinh thần quả cảm, thân thể cường tráng. Nhưng lòng hắn lại ấm ức, coi địa vị của mình là ti tiện, khi còn phải lệ thuộc vào một người khác. Cho nên hắn dự tính làm chuyện lớn bằng kế lợi dụng tình trạng tinh thần suy nhược của dân xứ Fermo - họ ưa thích một nền thống trị hơn là tự do - với sự ủng hộ của chú soái Vitellozzo hắn tìm cách mang quân chiếm giữ toàn xứ Fermo. Thế rồi một ngày kia hắn viết thư cho chú là Fogliani tỏ ý muốn bái yết và nhân thể thăm tỉnh thành, vì đã đi chinh chiến vắng lâu, nay muốn nhìn lại quê hương. Lấy cớ là đã chịu khổ bao năm chỉ mong được danh giá như ngày nay, và muốn để cho đồng bào trong tỉnh biết là từ xưa tới nay hắn đã không lãng phí thời thiếu niên, nên hắn tỏ ý muốn trở về như một nhân vật quan trọng được dân chúng đón tiếp cực kỳ huy hoàng. Hắn sẽ vào thành với một đội kỵ mã cận vệ một trăm binh sĩ và một đoàn bạn hữu và nhân viên tháp tùng. Hắn lại khéo nói là như vậy danh dự không riêng gì cho hắn mà cho cả người chú đã nuôi dưỡng hắn lúc thiếu thời. Được thư, ông chú sướng qua, ra công tổ chức một cuộc nghênh tiếp cháu thật chu đáo huy hoàng. Sau khi đón tiếp long trọng, ông chú nuôi nhường luôn cho cháu ở ngay trong dinh. Sau mấy ngày toan tính thực hiện những hành vi tội lỗi dự trù, hắn tổ chức mọi yến tiệc vô cùng long trọng mời ông chú và các nhân vật quan trọng tới dự. Khi tiệc xong, các món du hí cũng chấm dứt, Oliverotto vờ vĩnh đưa ra bàn luận một vài vấn đề, quan hệ trong xứ, như khen ngợi uy danh và sự nghiệp của Đức Giáo hoàng Alxandre và Cesar, con Ngài. Ông chú cùng tham gia thảo luận. Hắn liền đứng phắt dậy tuyên bố “Ở đây ta bàn việc lớn, vậy yêu cấu tất cả quý vị cùng vào phòng kín để tiện bề trao đổi ý kiến”. Ông chú và các bạn hữu đều theo vào phòng. Ai nấy vừa an tọa thì lũ lính cận vệ từ nơi kín nhảy xổ ra thẳng tay chém giết cả ông chú lẫn đồng bọn không còn sót lấy một người. Sau cuộc tàn sát này Oliverotto nhảy lên yên ngựa chạy vòng khắp đô thành rồi hô lính đến vây chặt lấy dinh Giám Quốc Tối Cao. Toàn thể nhân dân kinh hãi tuân theo mệnh lệnh răm rắp. Hắn liền lập nên một chính phủ dưới quyền lãnh đạo của hắn. Và sau khi đã tiêu diệt hết những kẻ bất mãn về vụ này, xét ra có thể hại hắn, hắn củng cố địa vị bá chủ hết sức chú đáo do kế hoạch mới, soạn thảo lại và ban bố các luật lệ mới về phương diện quân chính cũng như dân chính. Cho nên chỉ trong khoảng một năm hắn ngồi vững trên ngôi Chúa công xứ Fermo. Các lân bang phải kiêng nể. Về sau này Cesar Borgia đã phải mất khá nhiều công lao và mưu lược mới diệt được Oliverotto. Vị Chúa công Fermo và vị sư phụ Vittellozzo đã truyền cho hắn “ferocita” và sự nham hiểm hèn ác. Hắn bị người của Cesar Borgia phục kích giết chết tại Sinjgaglia, nơi mà bọn Orini và Vitelli đã bị Cesar giết. Màn hài kịch này xảy ra, một năm sau ngày Oliveretto giết chú.
Đến nay chúng ta có thể đặt câu hỏi vì sao Agathocle cùng những tên tương tự, sau bao nhiêu hành vi phản bội và tàn bạo, vẫn sống yên được lâu năm trên đất nước nhiều khi lại còn đánh bại được cả kẻ thù ngoại bang mà không bị đồng bào của họ nổi dậy chống đối? Trong khi đó thì nhiều kẻ không giữ nổi địa vị ngay trong thời bình chứ chưa nói là thời loạn lạc rối ren. Tôi tưởng có thể là vì họ biết xử dụng những thủ đoạn tàn bạo đúng lúc, đúng cách.
Nếu bảo có cái dở và có cái hay, thì người ta có thể bảo một thủ đoạn tàn bạo là hay khi nào nó được xử dụng chỉ một lần thôi, vào đúng lúc tối cần cho sự an ninh của nhà cầm quyền. Nhưng nó cũng phải có phần lợi càng nhiều càng hay cho dân gian. Thủ đoạn tàn bạo là dở khi bắt đầu thi hành thì nhẹ tay quá rồi dần dần trở nên ác liệt. Theo đúng phương pháp thì lúc đầu phải ác liệt ngay rồi dần dần nhẹ bớt đi.
Kẻ nào dùng thủ đoạn hay, về sau có thể được cứu nguy do đức khoan hồng của Thượng đế và loài người, như trường hợp của Agathocle trên đây. Còn kẻ khác xử dụng thủ đoạn tàn bạo dở thì thật không sao cứu vãn được.
Do những điều kể trên, ta phải nhắc cho kẻ nào khi mới nắm quyền chính một xứ, nếu xét cần phải, dùng cả và dùng ngay một lượt để về sau ngày ngày khỏi phải nghĩ tới nữa. Có vậy thì mới trấn tĩnh được nhân tâm, thu phục được nhân dân về phía mình bằng công tác ân đức tốt lành do mình ban phát dần dần sau này.
Kẻ nào nắm chính quyền mà theo một đường lối khác do sự tính toán sai lạc, hoặc vì luôn luôn ưu tư sợ hãi thì bắt buộc phải thủ sẵn trong tay một con dao găm. Trong lòng chẳng dám tin ai, ngay cả bọn cận thần, thân tín, trái lại bọn này cũng hết tin tưởng vào Chúa vì luôn họ phải nhận chịu những lời trách mắng gây gắt.
Vậy ta phải: nếu cần làm điều ác, thì làm ngay cả một đợt, vì thời gian càng ngắn bao nhiêu thì nhân dân sẽ nếm mùi cay đắng ít đi bấy nhiêu. Nếu là những điều thiện thì ta cứ từ từ mà ban bố để cho nhân dân thưởng thức lai rai, thấm thía kỹ càng hơn.
Thêm nữa một Chúa công lúc nào cũng nên cùng với dân gian, cùng lo cùng tính tất cả các việc trong nước phòng khi nhỡ ra những biến cố dù hay, dù dở, họ sẽ không nghĩ tới việc cần thiết phải thay vị đổi ngôi đối với Chúa.
Bởi vì một khi thời thế biến đổi, gặp lúc không thể thi hành thủ đoạn khắc nghiệt được nữa thì dù có thi thố điều thiện cũng chẳng có lợi gì, dân gian đã biết rõ là Chúa đang lâm vào thế phải làm như vậy, nên họ cũng sẽ chẳng mang ơn chút nào.
Những Vương quốc dưới chế độ Dân chính
Bây giờ ta bước sang địa hạt khác: Khi một công dân thường, không do thủ đoạn hiểm ác hay bạo động ghê tởm mà tự nhiên lòng tin yêu của đồng bào đưa lên địa vị chúa tể trong nước, nắm giữ quyền cai trị. Chế độ đó người ta gọi là chế độ dân quyền. Lên được địa vị này không phải vì có ferocita hay vì gặp may mắn, mà chỉ là nhờ tài khôn khéo thi thố đúng thời. Tôi nói như trên rằng một người có thể bước lên ngôi Chúa như vậy hoặc là nhờ ở lòng tin yêu của lớp bình dân hoặc do lòng tin của giai cấp trưởng giả. Bởi vì xã hội nào cũng có hai giai cấp có những tâm trạng khác nhau. Từ đó phát sinh ra tình trạng là giới bình dân thì không chịu để cho bọn trưởng giả cầm đầu, hà hiếp mình, còn bọn trưởng giả thì luôn luôn thèm muốn lãnh đạo và đè nén toàn thể nhân dân. Từ hai tham vọng mâu thuẫn đó xuất phát ra một trong ba hậu quả sau đây, hoặc là chế độ Vương quốc hoặc chế độ Tự do, hoặc tình trạng hỗn độn.
Một Vương quốc có thể xây dựng nên tùy theo thời cơ hoặc do dân chúng hoặc do bọn trưởng giả. Bọn trưởng giả một khi tự biết sức lực mình không chống lại với sức mạnh của toàn khối nhân dân, họ lên địa vị chúa tể, để về sau nấp dưới bóng kẻ này mong thỏa mãn lòng tham. Về phía bình dân cũng vậy, một khi họ biết không có diệu kế nào hơn để đương đầu với bọn trưởng giả, tự tìm chọn và đề cao một nhân vật trong bọn họ rồi bầu lên ngôi chúa tể để bảo vệ che chở cho họ.
Kẻ nào được bọn trưởng giả đưa lên ngôi chúa tể sẽ gặp nhiều khó khăn để giữ vững địa vị hơn kẻ do khối bình dân bầu lên, bởi vì xung quanh mình, toàn là bạn cũ đồng liêu ngang hàng với mình nên chỉ huy không nổi và cũng không thể bắt họ vào khuôn phép được. Trái lại, kẻ nào được dân chúng bầu lên, độc tôn ngồi trên ngai trị vì, ở dưới mình toàn thể nhân dân ai ai cũng phải tuân theo mệnh lệnh răm rắp. Vả chăng, một vị Chúa không thể cứ lương thiện mà làm thỏa mãn lòng tham của bọn trưởng giả được. Và muốn làm vừa lòng họ, tất phải làm thiệt hại đến kẻ khác, kẻ ấy chắc chắn là thằng dân. Nguyện vọng của dân chúng bao giờ cũng lương thiện hợp lý hơn là của trưởng giả, nên bọn này luôn luôn tìm kế giày xéo hà hiếp bọn dân hèn. Nhưng dân hèn lại chẳng bao giờ chịu để người ta hà hiếp.
Thêm nữa, ở trong nước, Chúa chỉ có một, nhân dân thì đông. Nếu toàn thể nhân dân thù nghịch thì địa vị Chúa vững sao được? Đám người trưởng giả không đáng sợ vì chúng ít người còn có thể mua chuộc được. Nếu Chúa ở ngôi trị vì trên một khối nhân dân thù nghịch lúc nào Chúa cũng có thể chờ đón một hiểm họa tối nguy là toàn dân bỏ rơi Chúa. Nhưng đến khi bọn cận thần làm phản thì lại nguy hiểm cho Chúa hơn nhiều. Không những họ bỏ rơi Chúa, vì họ là bọn láu cá trông xa hơn dân đen, nên họ vội kiếm ngay nơi chắc chắn để ẩn mình và bợ đỡ nịnh hót ngay kẻ nào xem ra mạnh hơn, có thể thắng Chúa.
Một điều nữa là Chúa lúc nào cũng phải sống cùng với khối nhân dân bất di bất dịch. Còn đối với bọn quyền thần thuộc hạ, Chúa trong lúc trị vì dân cần phải giữ mãi một bọn. Hàng ngày Ngài có thể thay đổi họ, truất quyền kẻ này, ban quyền cho kẻ kia theo ý muốn.
Sau cùng, nếu ta muốn hiểu rõ điểm này, tôi xin nói rằng bọn triều thần thuộc hạ có thể xếp đại cương làm hai loại chính:
Một loại thì từ cách thi hành công vụ đến toàn thể các hành vi thường nhật họ tận tâm trung thành gắn mình liền với vận mệnh của Chúa, và phục vụ nghiêm chỉnh không tham nhũng bóc lột nhân dân.
Một loại thì chỉ biết phục vụ một cách thờ ơ, lững lờ.
Đối với loại trên Chúa phải ưu ái họ và ban cho họ nhiều danh, nhiều lợi. Còn đối với loại thứ hai Chúa phải suy xét kỹ rồi đối xử với họ theo cách sau đây:
- Hoặc họ là bọn bầy tôi không có tâm hồn, với bản tính ươn hèn thì Chúa vẫn có thể dùng họ được, nhất là kẻ nào có chút tài năng khả dụng. Bởi vì lúc thịnh họ cũng là đoàn người góp công xây dựng uy danh cho Chúa, nhỡ gặp lúc suy họ cũng là người vô hại.
- Hoặc họ là bọn có thái độ không quyết tâm liên kết do óc tính toán và lòng dục vọng, tức là bọn ích kỷ, nghĩ tới mình hơn là nghĩ tới Chúa. Đối với bọn này, Chúa phải phải đề phòng cẩn thận và nên e dè, coi chúng như là những kẻ thù đã ra mặt. Bởi vì lúc vận suy chính họ sẽ là những người hãm hại Chúa.
Thế cho nên kẻ nào nhờ nhân dân mà lên được địa vị Chúa, thì phải luôn luôn giữ tình ưu ái với dân. Việc đó thật dễ thi hành, bởi vì dân không đòi hỏi gì hơn là đừng có áp chế họ? Trái lại, kẻ nào dựa vào lực lượng của bọn quyền thần chống lại nhân dân để lên ngôi Chúa, thì sau này bắt buộc trong hành động nào cũng phải tranh thủ nhân tâm để dân về phía mình. Điều này cũng dễ thành công, chỉ cần lúc nào Chúa cũng có ý muốn bảo vệ, che chở cho nhân dân. Bản tính con người là khi thụ hưởng được ân huệ ban bố do những kẻ mình cứ yên trí chỉ sẵn sàng xử ác với mình, thì sự cảm kích và ghi ơn lại sâu xa hơn nhiều. Vị Chúa nào biết xử trí như vậy sẽ được nhân dân yêu quý thêm, nhất là nếu vị Chúa đó không phải do dân bầu lên. Chúa có thể tranh thủ lòng dân bằng nhiều cách, uyển chuyển tùy theo sự việc lần lượt xảy ra, nên ta không thể đặt trước được một quy luật nhất định. Vậy Chúa phải tùy cơ ứng biến. Tôi chỉ xin kết luận một câu là Chúa phải biết xử sự để lấy lòng ưu ái của dân, nếu không khi có sự bất trắc xảy ra vô phương cứu chữa. Một tỉ dụ lịch sử: Vua Nabis xứ Sparte phải chống cự cuộc tấn công của cả nước Hy Lạp và một đạo quân La Mã rất kiêu căng sau nhiều chiến thắng. Thế mà mình Ngài đủ sức bảo vệ được cả chính Quốc lẫn các thuộc Quốc. Để chống lại nguy cơ ấy Ngài chỉ cần nắm vững trong tay một số thần dân, binh sĩ ít ỏi. Với số này sẽ không sao đủ lực được, nếu bình nhật Ngài bị dân ghét. Muốn chỉ trích ý kiến này của tôi, xin đừng vội nhắc tới câu tục ngữ này: “Người đặt lòng tin nơi nhân dân cũng như người xây nhà lên đất bùn”. Bởi vì câu này có phần nào đúng với trường hợp một người thường dân đặt lòng tin lên nền tảng ấy để tưởng mong rằng nhân dân quanh mình sẽ cứu vớt mình khi bị kẻ thù hay giới công quyền ức hiếp. Tưởng như vậy thường sẽ bị thất vọng. Đó là trường hợp đã xảy ra cho gia đình Gracques ở La Mã và cho Messire Geoges Scali ở Florence. Nếu một Chúa công trị vì biết theo phương pháp dựa vào thế nhân dân, tức là một vị Chúa có tài chỉ huy, có tâm hồn cao cả, không run sợ trước những biến cố nguy nan bất trắc, biết lo xa, chuẩn bị, ban bố hiệu lệnh nghiêm khắc, tỏ trí quả cảm để làm gương cho kẻ quanh mình vững dạ can trường thì Chúa sẽ thấy toàn thể thần dân luôn sát cánh bên mình. Như thế nền tảng uy quyền của Chúa đã được xây đắp vững bền.
Những Quốc gia dân chính này sẽ bị xáo trộn ngay khi mà chính thể đương ở chế độ dân quyền chuyển sang một chế độ độc tài. Bởi vì Chúa hoặc trực tiếp trị dân hoặc tự tách cao lên để giao phó quyền hành cho bọn cận thần. Với chế độ thứ hai này, địa vị của Chúa sẽ yếu đi và bấp bênh, nguy hiểm, vì bắt đầu từ lúc đó Chúa phải hoàn toàn trông cậy vào ý chí của bọn cận thần đã được ngồi vào vị trí quyền uy vững vàng. Bọn này có thể hại Chúa dễ dàng nhất là khi họ bị thất vọng hay bất mãn điều gì, với kế hoạch là liên kết nhau để chống đối lại Chúa. Khi cơn nguy biến đã đến, không phải lúc để Chúa nghĩ tới việc lấy lại quyền hành được nữa. Bởi vì từ nhân dân cho đến kẻ thừa hành đã làm quen thói thần phục trực tiếp vào bọn quyền thần cao sang. Khi gặp khó khăn, họ không còn tâm trí nghĩ ngợi đến bổn phận tuân theo mệnh lệnh trực tiếp của Chúa nữa. Hơn nữa, khi gặp thời thế bấp bênh, Chúa sẽ không thấy quanh mình còn ai là người để tin cậy được nữa.
Như vậy là vì Chúa chỉ biết đặt lòng tin vào những kẻ hiện ra trước mắt trong thời thanh bình, giữa lúc mà thần dân ai cũng đều cần nương tựa vào uy quyền Quốc gia, cũng xum xoe chạy quanh gần Chúa khi họ thấy tử thần còn ở xa lắc xa lơ. Nhưng đến khi thời thế đổi thay, chính quyền nhà Chúa cần tới thần dân giúp đỡ thì than ôi, họ lẩn đâu mất cả. Sự việc kể trên quả là một kinh nghiệm vô cùng nguy hiểm, chỉ một lần xảy ra là tiêu ma sự nghiệp nhà Chúa.
Thế cho nên vị Chúa nào có đủ tài sức, lại phải thi hành phương sách nắm giữ thần dân luôn luôn ở mức họ phải cần tới Chúa và uy quyền của Ngài phải được duy trì trong lúc thịnh cũng như lúc suy. Được như thế, nhân dân mới mãi mãi bền bỉ trung thành với Chúa.