Đó là vào những tháng đầu năm 1959.
Làng xóm càng tiêu điều hoang vắng hơn. Cuộc sống con người càng bị đe dọa bởi sự xuất hiện của chiếc máy chém đen han gỉ, lọc cọc lăn hết nơi này đến nơi khác. Thời kỳ ấy, chiếc máy chém có bánh xe lăn này tồn tại như một hung thần khạc ra máu. Cứ nhìn thấy cái bóng dáng xù xì của nó là người khỏe thần kinh nhất cũng phải sởn gai ốc. Không biết bao nhiêu những cái đầu đã bị rụng trước lưỡi thép sáng loáng của nó.
Dạo này anh hay vắng nhà luôn. Có đêm anh đi đến sáng mới về. Anh trở nên ít nói và hay ngồi đốt thuốc, nghĩ ngợi một mình. Tôi hỏi, anh không nói, chỉ cầm tay tôi vuốt ve, cái vuốt ve cũng lành lạnh, không giống ngày trước. Một đêm nằm cạnh anh, tôi dấm dứt khóc:
- Vợ chồng đầu gối tay ấp mà như người dưng nước lã thế này, khổ lắm… Thà cứ để tôi trở về với em tôi…
Anh ôm siết tôi vào lòng, hơi thở nóng hổi phả vào tai tôi:
- Hiểu cho anh, hãy hiểu cho anh… Em không biết được đâu, không thể biết được đâu! Anh vẫn thương em, thương em hơn cả ngày trước nữa.
Lúc đó tôi mới đặt tay anh lên bụng tôi, im lặng.
Anh ngơ ngác không hiểu.
- Anh... Anh không thấy nó đạp sao?
- Ai đạp?
- Con... em sắp có con.
Anh lặng đi một chút, nghe rõ hơi thở dồn dập của anh. Lát sau anh mới cúi xuống, nâng mặt tôi lên, hôn khô đôi mắt ướt nước của tôi, không nói gì. Dưới ánh đèn dầu nhỏ ngọn, cặp mắt anh nhìn tôi ấm áp lạ thường, nhưng không cháy sáng như dấu hiệu tôi mong ước. Tôi hơi bị hẫng! Thế là thế nào? Đáng ra anh ấy phải mừng cuống lên, phải rối rít ôm tôi vào lòng, phải đặt tay lên bụng tôi đoán xem đứa bé là trai hay gái, rồi hai đứa sẽ thức sáng đem tìm tên đặt cho con, đoán xem con sẽ giống ai, sẽ...
- Anh không vui sao?
- Không! Anh vui... Vui lắm. Cám ơn em!
- Thế sao anh có vẻ bần thần?
Anh quay mặt tránh đi câu hỏi và cái nhìn của tôi. Khoanh tay trước ngực, anh ngước mắt lên đình màn, nằm im. Giây lâu anh lần tìm bàn tay tôi, nắm chặt. Tôi cảm giác được tất cả sự giằng xé nóng bỏng, tâm trạng của anh ở cái nắm tay đó. Tôi chợt ớn lạnh, cảm thấy niềm vui ấp ủ bao lâu nay giờ đây đổ vỡ hết. Bằng sự thất vọng ban đầu và bằng cảm nhận trực giác nóng vội, tôi hiểu anh ấy không muốn có con, sợ có con; tức là anh ấy lạnh nhạt với tôi, không còn yêu tôi. Anh ấy... Hèn chi từ ngày cưới nhau đến giờ, có mấy khi anh ấy ngủ trọn đêm ở nhà. Hèn chi người ta bảo anh ấy đào hoa, ở đâu cũng có kẻ thương người nhớ, ở đâu cũng được đàn bà con gái săn sóc, chiều chuộng. Thực ra, tôi biết được điều này từ trước khi lấy anh. Lúc đó tôi chỉ thấy hay hay. Con người như vậy mà lại thuộc hẳn về minh, hoàn toàn mình có quyền sở hữu, chế ngự mới thích chứ. Nhưng sự hiếu thắng đó bỗng trở nên rất khổ sở, nhọc nhằn một khi đã là vợ là chồng. Tôi cảm giác anh xa lạ với tôi hơn ngày xưa, tôi không là gì với anh cả, tôi là người vợ bất hạnh, không đủ sức giữ được chồng ở bên mình. Tôi rụt tay lại và nằm xích ra. Trước mắt tôi, một khoảng xám buồn bã úp chụp xuống. Tôi quyết định làm mặt lạnh
*
* *
Hôm sau anh ở nhà quẩn quanh bên tôi cả ngày. Hôm sau nữa, anh vẫn ở nhà, anh hỏi tôi cần gì, ăn gì, muốn gì để anh đi kiếm. Tôi đã mừng thầm. Phải chăng con người ấy đã nghĩ lại? Hay chính tôi đã hiểu sai về anh? Tôi quyết định vui vẻ trở lại với anh, dịu dàng, âu yếm với anh hơn. Nhưng tôi đã mừng hụt. Ngày thứ ba, thứ tư... và những ngày sau đó anh lại thường xuyên vắng nhà. Mỗi lần về, anh nhìn tôi với đôi mắt của người biết lỗi nhưng vẫ không nói gì để rồi sáng hôm sau anh lại trở dậy lầm lũi đi từ sớm.
Đây là những ngày tôi gặp nhiều buồn phiền. Không phải chỉ với anh mà còn buồn phiền cả với gia đình anh. Ngay từ ngày đầu bước chân về đây, ông chú anh đã tỏ ra không có thiện cảm với tôi. Ông nhìn tôi từ đầu đến chân bằng con mắt một mí rồi bỏ vào nhà trong. Những ngày sau đó ông rất ít nói chuyện với tôi, nếu có nói thì chỉ là những câu sai bảo hoặc nhắc nhở công ăn việc làm một cách nghiêm khắc. Ông mất vợ tứ sớm, lại không có con nên có lẽ ông đâm khó tính? Tính ông không bình thường. Vui thì cười nói vang nhà, cáu giận lên lại đập phá, chửi bới lung tung. Có khi ông đóng cửa ngồi lì trong phòng cả ngày, ai gõ cũng không mở. Anh nói vì việc làm ăn lúc được lúc không, thường xuyên phải cạnh tranh với kẻ mạnh đã làm nảy sinh ở ông cái tính khí ấy. Tôi nghe và phần nào thông cảm cho ông. Tôi gắng sức làm thật tốt mọi việc để ông không phải than phiền. Một lần, tôi nghe ông nói với cô em gái anh: “Con không cha cột nhà nó xáng. Cái ngữ ấy rồi sau trước cũng không ra cái gì”. Tôi tái mặt đi vì tủi giận “Con không cha...” Phải, từ nhỏ tôi đã không có cha, nhưng tôi đâu có phải đứa bỏ đi. Phận dâu con tôi phải về đây chứ lòng tôi đâu có muốn. Hay là họ sợ tôi tranh giành mất của cải, sợ tôi bám vào cái cơ ngơi khang trang này để ăn uống béo tốt, hoặc nữa họ thương hại tôi may mắn vớ được người chồng vốn con cháu nhà khá giả? Tôi chán quá! Vình tình yêu đối với anh mà tôi chịu cái cảnh ghét bỏ, khinh rẻ này, chứ nếu không, một giờ tôi cũng chẳng ở lại. Nỗi buồn này tưởng có thể tâm sự được với cô em chồng cho khuây, nhưng cô em này cũng hùa theo chú ngấm nguýt tôi. Về đây, mặc nhiên tôi trở thành người nấu nướng, dọn dẹp trong nhà. Công việc bù đầu từ sớm đến tối, còn hơn hồi bán bánh vừa trông nom má ở nhà nhiều. Cô em chồng từ ngày có tôi về làm dâu hầu như không động chân, động tay vào việc gì. Không những thế còn hay buông lời chê bai. Canh nấu ít nước thì kêu là: “Trời có hạn đâu mà ruộng khô”. Canh nấu nhiều nước, lại trống lỏng: “Trời có mưa đâu mà ruộng ướt”, v.v... Lắm lúc tôi giận lắm nhưng lại lập tức tự tiện hộ: chắc cô ta làm ăn vất vả, lại chưa chồng nên trái tính trái nết, chấp nê làm gì. Nghĩ được như vậy, tôi thấy lòng mình thanh thảnh hơn. Cái mặc cảm cho rằng mình chả khác gì cái kiếp con ở đã đè nặng trong đầu tôi. Tuy vậy, hàng ngày tôi cũng chú ý tìm hiểu khẩu vị của từng người trong gia đình và ráng chiều ý họ. Công việc trong nhà ngoài vườn, tôi tranh thủ làm thật gọn, thật sạch để buổi chiều họ có về cũng thấy mát mẻ, phong quang. Tôi nhẫn nhục như vậy là vì anh. Tôi chịu làm thân con ở cũng là vì anh. Con ở cho ai chứ làm con ở cho những người ruột thịt cùng dòng máu với anh, tôi không thấy nhục bao nhiêu, ngược lại còn cảm nhận được cái mùi vị ngọt ngào của sự hy sinh thấm vào giấc ngủ sau một ngaỳ quần quật. Vậy mà cái để tôi phải hy sinh lại đang bập bềnh trôi dần ra khỏi tôi, đang có dấu hiệu phản lại tôi. Tôi lại khắc khoải nghĩ đến má. Má tôi ở dưới kia, đâu biết con gái của má đang chịu cảnh bẽ bàng dường này. Nếu biết vậy, con đã ở lại với thằng Riềng, hai chị em rau cháo nuôi nhau còn hơn. Thằng Riềng... chợt nghĩ đến nó lòng tôi lại nhói đau. Lâu lắm rồi tôi không gặp nó. Tính về thăm nhưng lại bận rộn không đi được. Nhắn người nhủ nó lên thăm, nhưng người ta bảo nó ít khi ở nhà, một tháng đảo qua đôi lần để quét tước dọn dẹp thế thôi. Riềng ơi... Tôi bỗng thấy có lỗi, thấy vô tình với má với em.
Ngày tháng trôi qua...
Anh vẫn thường xuyên vắng nhà. Mỗi ngày trông anh một rộc rạc đi, thậm chí râu tóc lâu ngày không cắt sửa làm khuôn mặt anh quắt lại. Trong giấc ngủ anh hay nói mơ những câu xa lạ. Sáng ngủ dậy, con mắt anh bơ phờ như người ốm. Biết rằng nếu có hỏi, anh cũng chỉ cười trừ, nên tôi đành nín lặng nhưng xét nét từng khía cạnh nhỏ nhất trong nét mặt, cử chỉ, lời nói của anh. Tôi thực lòng không tin anh đã sa vào con đường trác trụy. Cũng rất ít tin vào lời đồn là anh hiện đang có cô vợ nhỏ rất giầu ở Bến Cát. Không! Dù ăn ở với nhau chưa lâu, tôi biết anh hoàn toàn không phải con người như thế. Đôi mắt và cái cười của anh không nói nên điều đó. Nếu vậy, mỗi lần về, anh đâu dám nhìn thẳng vào mắt tôi như anh vẫn thường nhìn tôi rất kỹ, rất nhiều yêu thương. Vậy thì ngoài công việc dạy học ra, anh còn đi đâu? Bạn bè của anh nhiều nhưng bạ bè để đến nỗi quên cả vợ con thì có lẽ anh không phải loại người như thế. Hay là... Tôi thoáng rùng mình, không dám nghĩ tiếp nữa. Tôi chợt nhớ đến những buổi chuyện trò của anh với những người thợ ăn hàng tôi, chợt nhớ đến con mắt tối sầm của anh khi nhìn theo người bị bắt đi qua với thân thể đầy máu. Không! Tôi không tin. Anh hiền lành, anh yếu đuối, anh không thể dính dáng được vào những chuyện ấy. Vẫn có điều làm tôi thấy ấm lòng: thân hình anh càng hốc hác thì cái nhìn của anh phủ lên tôi càng dịu dàng, dịu dàng đến xao xuyến cả người, giống như lần đầu anh xiết tôi vào lòng bên bờ suối... Nhưng tại sao anh không nói với tôi một câu. Chỉ một câu thôi là tôi sẽ hiểu anh, sẽ tha thứ cho anh mọi chuyện. Vậy mà, tôi đã hy vọng anh sẽ trở thành người bạn tâm tình, sẽ giải đáp, sẽ gỡ rối cho biết bao điều nghi hoặc của tôi. Vậy mà... Hy vọng nhiều, thất vọng càng sâu!
Cái thai trong bụng đã sang tháng thứ sáu. Tôi đi lại bắt đầu nặng nề, thỉnh thoảng ngồi thở dốc mà nhìn chân tay mình đang gầy đi. Nhưng tôi không lơ là việc nhà, ngược lại còn thu xếp mọi việc chu đáo hơn. Điều này làm cho ông cậu và cô em gái anh dần dần nghĩ khác về tôi. Đôi lần tôi thấy ông nhìn tôi có vẻ áy náy. Trong cái nhìn áy náy đó, tôi đọc được cả sự cảm thông chân thật. Cô em đi làm về, không uể oải rơi người vào salông ngồi đọc sách như mọi khi, thay xống áo xong là cô xắn tay lao ngay xuống bếp phụ giúp tôi những công việc nặng nhọc. Xong công việc, cô thường ngồi trò chuyện với tôi, mỗi bận một lâu hơn. Có đêm cô còn ngủ lại luôn với tôi. Vào một ngày chủ nhật, Nghĩa, tên cô em chồng, dẫn tôi ra phố dạo chơi, khi trở về cô đã cởi mở nói: “Chị Hai… sống lâu em mới hiểu chị. Lúc đầu em coi thường chị, coi thường quá khứ của chị, bây giờ em yêu chị, kính trọng chị, tự hào vì cái vẻ đoan trang và sắc đẹp của chị. Chị biết tại sao hôn?”. Tôi mỉm cười lắc đầu. “Tại vì chị tốt quá. Chị cao thượng quá! Em biết chị nghe được tất cả những câu nói không phải của chú em, của em, nhưng chị bỏ qua, chị cũng không một lời nói lại với anh Hai. Em tìm được trong chị nhiều cái mà em không có. Có lần em phải tự nhủ: chà, anh Hai em tinh đời thật! Trong hàng đống đàn bà con gái đổ xô vào ảnh, ảnh lại biết tìm ra chị. Chị biết không? Ông chú em bắt đầu quý trọng chị rồi đó. Hôm đó chú còn mắng em: “Tao ước bay chỉ cần được bằng một phần mười nó...”. Cô em gái còn nói nhiều nhưng tôi không nghe thấy gì nữa. Tình cảm mới mẻ của những người thân trong gia đình anh đã làm nước mắt tôi trào ra.
Chỉ còn hơn một tháng nữa là đến ngày sanh. Dào này anh có mặt ở nhà nhiều hơn. Ngoài giờ làm việc anh thường giúp tôi những công việc vặt trong nhà, việc nào nặng, anh tranh lấy làm hết. Buổi tối, nếu không bận đi đâu, anh hay đọc sách cho tôi nghe. Giọng anh đọc cũng hay như cách anh nói chuyện. Nhìn khuôn mặt tuy hốc hác nhưng vẫn đẹp của anh nghiêng xuống ánh đèn, tôi chợt nhớ đến câu nói nửa đùa nửa thật của cô Nghĩa hồi sớm: “Chị ráng giữ lấy ảnh chị Hai. Chị mà hiền quá là mất chồng đó! Đàn bà con gái thời nay táo tợn lắm!”. Tôi hiểu con người ngồi kia có thể lúc thế này lúc thế khác, nhưng tôi tin rồi dù thế nào, con người ấy cũng trở về với vợ con. Đôi mắt ấy, giọng nói ấy và cái cười ấy không phải là của hạng người táng tận lương tâm. Nhưng tôi vẫn lo lo! Vẫn cảm thấy anh ở ngoài tầm tay của mình. Tôi chưa chế ngự được anh. Lúc này biết tôi sắp sanh, anh ngồi đó như hoàn tất một trách nhiệm, một đạo lý. Mai mốt sanh nở xong rồi, biết đâu anh lại là của người đời như trước? Tôi nhìn anh mà anh không biết, cứ đọc rì rầm, vẻ gắng gượng hiện rõ trên vầng trán lo âu. Tôi đặt tay lên trang sách?
- Thôi! Đừng đọc nữa, anh.
- Em chán rồi sao?
- Không... em thấy anh đọc cực quá! Thực lòng anh không thấy hứng thú, chỉ chiều em phải không?
- Bậy nào! Hứng thú chớ! Nè, sắp tới đoạn mùi mẫn rồi nè...
- Xạo! Anh đừng dối em. Nhìn con mắt mỏi mệt, ngơ ngơ của anh, em biết.
Anh thở dài và cười, gấp sách lại:
- Ừ, thôi vậy! Dạo này thần kinh anh thế nào ấy. Có lẽ sắp bệnh đây.
- Anh có điều chi giấu em?
- Trời đất! Em sao mà hay hỏi nhưng câu nghe muốn bể đầu vậy?
- Đúng! Anh đang có điều chi không vui, có điều chi đang hành hạ anh, làm anh hốt hoảng?
- Không có điều gì hết trơn. Chỉ có điều con sắp ra đời nên mừng quá, anh đâm lớ ngớ. Thôi, ngủ đi! Sắp làm mẹ rồi mà hay thắc mắc như vậy là không tốt đâu.
Tôi biết anh đánh trống lảng nhưng cũng hỏi gì thêm
*
* *
Nhưng rồi khoảng mười ngày sau, vào một đêm u ám, tôi để đèn đến sáng, nhưng không thấy anh về. Chắc lại cái tật cũ, tôi nghĩ vậy và bồn chồn hết ngày hôm sau nữa. Cũng không thấy anh về. Tôi bắt đầu lo. Trăm thứ giả định xoay vần trong óc. Bị cướp ư? Anh có gì mà cướp. Bị xe cán ư? Không! Xưa nay anh vốn đi đứng cẩn trọng. Hay vướng phải đánh nhau nào? Cũng có thể lắm! Bởi vì anh vốn trọng danh dự, ai động đến là không kìm được, mà thời buổi này thiếu gì kẻ nhăm nhăm kiếm cách làm nhục người khác. Nhưng anh điềm tĩnh và mềm mỏng lắm mà. Chả lẽ anh lại gặp nạn vì một cuộc sát phạt với kẻ tình địch?... Tôi đi ra đi vào, chân tay như thừa hẳn ra. Ông chú và cô em gái cũng bắt đầu lo lắng và khuyên tôi nán chờ một đêm nữa. Đêm ấy anh cũng không về. Linh tính báo cho tôi biết một điều gì đó rất gở đã xảy ra với anh. Mặc kệ cái bụng chửa vượt mặt, tôi vội vàng xách nón đi ra phố. Vừa ra đến đầu ngõ, tôi vấp ngày thằng Riềng: nét mặt nó có cái gì căng thẳng lắm. Nó giữ tôi lại và nói nhỏ:
- Chị bình tĩnh nghe! Anh Hai bị bắt rồi! Bị bắt đêm hôm kia.
- Anh bắt? – Tôi hỏi lạc giọng.
- Còn ai nữa, cảnh sát bắt.
- Làm sao mà đến nỗi cảnh sát người ta bắt?
- Chuyện dài lắm! Chị cứ về đi, lúc khác em sẽ nói kỹ chị nghe. Em cũng phải đi đây.
Nói rồi, nó ngó trước nhó sau, rảo chân đi luôn để mặc tôi đứng chơ vơ không còn hiểu ra làm sao cả.
Đến trưa. Ông chú tôi ở Ty công an vê, quăng cái nón vào ghế rồi ngồi im, thở hồng hộc. Tôi và cô Nghĩa đứng nép ở góc tường, sợ hãi không dám hỏi.
Hồi lâu, ông phun nước miếng phì phì:
- Thật là nuôi ong tay áo… Mẹ nó! Nó hại ông thế này thì có chết ông không cơ chứ.
Tin rằng mình được cưng, cô Nghĩa mon men lại gần, đưa ông ly nước sinh tố:
- Anh Hai làm sao chú?
- Hai, ba con mẹ gì. Nó bị gông cổ như chó dại rồi. Nó hoạt động chống đối tổng thống, chống đối quốc gia. Nó là thằng giặc! Thằng phiến loạn!
Tôi lạnh toát sống lưng, chân run bắn, đứng không vững nữa, phải vịn vào tay Nghĩa. Biết ông đang nóng, Nghĩa không hỏi gì thêm, nhẹ nhàng dìu tôi về phòng. Khi cánh cửa gỗ được ập lại, tôi mới nắm chặt lấy tay cô em gái, nói hụt cả hơi:
- Bây giờ phải làm sao em? Chị chết mất
- Em cũng không biết phải làm sao. Nhưng chị đừng hoảng hốt quá, ảnh hưởng tới cái thai.
- Liệu anh Nhân có phải lên máy chém không. Hồi này họ chém nhiều lắm!
- Bình tĩnh chị. Đừng vội nghĩ đến điều đó. Nếu anh hoạt động chống đối thật chăng nữa thì cũng còn chú. Chính quyền ở đây nể chú lắm! Chắc họ không làm ẩu đâu.
- Nhưng liệu chú có chịu không?
- Để em nói với chú. Có thể...
- Nghĩa ơi! – Tôi gục đầu vào vai cô - Thế mà chị đã nghi oan cho anh, chị tưởng anh ham vui bạn vui bè mà quên má con chị! Những ngày vừa rồi, một mình anh phải chịu đựng tất cả, chị không gánh đỡ được chút gì, lại còn làm khổ anh. Chị tồi quá! Chị không xứng đáng để anh tin, anh ấy tâm sự. Chị đứng ngoài cuộc đời của anh. Bây giờ anh rơi vào vòng tù tội không biết sống chết lúc nào...
Chiều hôm đó, tôi đi tìm thằng Riềng. Hình như giữa nó với chồng tôi có liên quan gì với nhau? Tại sao nó biết anh bị bắt? Tại sao nó lại vội đi như thế? Tôi nhớ ngày trước nó với anh ít khi chuyện trò nhưng có vẻ hạp ý nhau. Mỗi lần anh đến chơi, thế nào nó cũng ra suối kiếm một mớ cá về nướng trui đãi anh. Còn anh, đến mà thấy vắng nó là hỏi liền. Gặp nó rồi, đôi mắt anh vui hẳn lên và nó cũng hay cười hơn. Dứt khoát nó sẽ hiểu rõ mọi chuyện.
Nhưng đến nơi, tôi chỉ thấy ngôi nhà lặng tờ với cái khóa to tướng ở cửa. Hỏi hàng xóm, họ nói nó đi đâu cả tuần nay không thấy về nhà. Mệt quá, tôi ngồi bệt xuống gốc ổi. Nắng chiều trải một màu vàng úa héo trên mái nhà. Cỏ ngoài vườn đã mọc cao quá mắt cá chân. Cây ổi cọc còi không còn một trái nhỏ. Có con chim màu xám nhảy nhót một mình trên đó... Tất cả gợi lên cái mùi vị cũ kỹ ẩm mốc của một ngôi nhà không có người ở... Má ơi! Tôi thốt kêu lên, cổ nghẹn đắng. Bao nhiêu kỷ niệm về má, về tuổi thơ, về những ngày ngọt ngào cay đắng có má, có con dồn dập ùa về lèn chăt vào đầu óc tôi. Má không còn, em bỏ đi mất, chồng bị bắt, tôi biết sống làm sao bây giờ? Nắng vẫn chiếu vàng vọt trên mái nhà... Tôi không còn hơi sức đâu đứng dậy nữa.
Chợt có một tiếng nói rất nhỏ đằng sau tôi:
- Cô Hai... Cô về hồi nào vậy?
Tôi vội lau nước mắt, nhìn lên. Đứng trước mặt tôi là một cô gái còn trẻ, khoảng độ tuổi hăm ba, hăm bốn gì đó, khỏe mạnh, hồng hào và cái nhìn bạo dạn, trên gò má cô có lấm chấm mấy nét rỗ hoa.
Cô gái ngồi xuống bên tôi, dịu dàng:
- Chắc chị không biết tôi nhưng tôi biết chị và rất rõ gia đình nhà ta. Nhà tôi ở cuối xóm, tên là Thu. Từ bé tôi theo ông bà già đi làm ăn ở Dầu Tiếng rồi lấy chồng ở đó. Năm ngoái chồng tôi chết, ông bà già tôi cũng bị ba cái mủ cao su làm yếu sức nên cả nhà lại dọn về đây. Nhà cũ bán rồi, gia đình tôi dựng tạm căn chòi kia ở đỡ.
Tôi đưa mắt theo ngón tay chỉ của Thu. Đó đúng là một căn chòi, mái lợp lá, tường cũng ken bằng lá, nằm chênh vênh trên đỉnh dốc, ngay phía sau nhà tôi.
- Thế ra chị là hàng xóm?
Tôi gượng nói cho qua chuyện và định đứng dậy ra về. Cô gái nắm lấy tay tôi:
- Chị vô tạm nhà tôi nghỉ một chút đã. Chắc chị về đây tìm cậu Riềng?
- Dạ! Không biết nó đi đâu?
- Ôi da! Cậu ấy có mà trời tìm. Thỉnh thoảng đáo về nhà, ra vườn cuốc xới hùng hùng một hồi, lăn ra ngủ một giác, dậy thắp nén nhang lên bàn thờ rồi lại đi, lắm bữa cơm chẳng kịp ăn. Tội nghiệp!
Tôi đưa mắt tò mò nhìn cô. Rõ ràng trong cách nói của cô về thằng Riềng có cái gì đó bao dung và thân thuộc lắm. Nhưng tôi không thể tò mò lâu hơn, lúc này ruột gan tôi đang chộn rộn quá sức:
- Thôi, tôi về nghe chị. Nếu nó về, chị nói nó đến nhà cho tôi gặp một chút.
- Dạ! Không biết cậu ấy đi đâu?
Tôi nghe được trong câu nói ấy có cái gì băn khoăn giống tôi. Một tiếng vọng đồng cảm thoảng gieo vào lòng, một chút nữa tôi đã kể hết mọi chuyện cho cô ấy biết.
Cả đêm hôm đó tôi không chợp mắt. Đứa con trong bụng hình như cảm thông với nỗi lo của mẹ nên cũng ít đạp hơn. Bóng tối chập chờn đưa tôi vào những mường tượng kinh khủng. Lúc thì nhìn thấy anh ấy máu me đầy mình đang bị treo ngược lên xà nhà, lúc thì lại thấy anh ấy nằm sấp mặt xuống nước thân thể trần truồng đang bị hàng đàn cá đen rỉa thịt; có lúc tôi thấy rõ anh ngồi ủ rũ trong xó tối om, chuột to chuột nhỏ bò lên người, ai oán gọi tên tôi. Người tôi đẫm mồ hôi, trán nóng bừng bừng, không dám nằm nữa, tôi ngồi dậy đốt đèn chờ qua đêm.
Sáng hôm sau, tôi quyết định đi tìm chồng. Vợ chồng cần có nhau lúc này. Khổ cùng khổ, chết cùng chết, lẻ loi thế này chịu không nổi. Tôi sẽ tìm bằng được anh ấy, dù một ngày, hai ngày… cả tháng, cả năm cũng tìm. Sẽ làm mọi cách để cứu anh ấy, để anh ấy được nhẹ tội phần nào. Chỉ sau một đêm, tôi đã trở thành khác hẳn. Tôi không sợ gì hết, cũng chẳng lo gì cho bản thân, cho đứa bé sắp ra đời. Tôi chỉ có một suy nghĩ: phải gặp được chồng.
Tôi nói điều này với Nghĩa. Cô gật đầu ngay. Tôi không nói với ông chú. Từ bữa đó, ông chú càng sinh ra bẳn gắt, hay chửi đổng, hay đập phá. Đi thì thôi, về nhà là đóng xầm cửa lại, cấm cảu một mình. Nếu chẳng may đụng tôi, con mắt một mí của ông trừng lên phát sợ. Ông làm như tôi là nguyên nhân gây ra mọi rối rắm trong gia đình.
Sáng hôm đó tôi thấy trong người khó chịu lắm, chốc chốc bụng lại đau thắt từng cơn làm tôi xa xẩm mặt mày. Tôi chỉ còn biết lầm rầm: “Ráng nằm im con… Lúc này đừng làm tội má. Má phải đi tìm ba con. Thương ba, thương má nằm im nghe con…”. Nhưng lần này, đứa con nhỏ không hiểu lời tôi, nó càng giẫy mạnh. Tôi ứa nước mắt, cắp nón đi đến đồn cảnh sát nằm ở gần chợ. Đây là đồn cảnh sát trung tâm của thị xã. Nó nằm giữa khu rào gai kiên cố và có lính gác vòng trong vòng ngoài. Từ mặt đường nhìn vào, khu đồn với những bức tường xám nằm im lìm như là nhà lao. Từ lâu, dân ở đây không dám đi qua khu nhà này. Họ sợ bóng dáng ghê rợn của nó, sợ con mắt nhìn đỏ quạch của tốp lính gác, sợ luôn cả những tiếng gào rú đau đớn của một ai đó đang chịu khảo tra vọng ra. Từ ngoài nhìn vào, người yếu bóng vía cứ có cảm giác đây là hang ổ của một bầy quỷ cởi trần, toàn thân lông lá, đang nhe nanh cầm kìm, cầm búa nung đỏ đốt thịt trên những thân thể trần truồng, vấy máu.
Một thân một mình tôi đang tiến đến nơi địa ngục ấy. Cổng đồn sáng nay vắng tanh. Tôi đi thẳng đến một người mang lon cao nhất:
- Thưa cậu! Cậu làm ơn cho hỏi.
- Hỏi gì? – Chưa nghe hết câu, hắn đã quát luôn.
Tôi không hề thấy run chút nào, quắc mắt lại:
- Thì cậu phải cho tôi nói hết đã chứ. Tôi có đến đòi nợ cậu đâu mà chưa gì cậu đã trấn áp tôi ghê vậy.
Hắn há mồm ra, mắt tròn xoe lên. Giây lâu miệng hắn mềm xuống, biến thành cái cười:
- Chà! Bà này dữ hè! Nhưng mà nè, bà đừng tưởng tôi ngán cái kiểu nói năng cà trớn và đôi mắt bặm trợn của bà đâu nghe! Nào, hỏi gì, nói đi! Người trông dễ thương thế kia chắc là tới bắt thường thằng cha nào về cái bầu hả?
Vọng gác bên kia vọng sang mấy câu cợt nhả:
- Cha! Con nhỏ trẻ vậy đã mang bầu!
- Mẹ! Mang bầu mà dòm còn ngon lành dữ, ngữ này không có bầu chắc ối thằng chết!
Tôi sầm mặt xuống, bất giác hạ nón che kín bụng:
- Cho tôi hỏi ông chỉ huy.
A! – Gã mang lon cao nhất kêu lên - Hỏi ông chỉ huy? Nhà chị có việc gì mà phải đụng tới ông? Hay ông chính là…
Hắn xói mắt vào bụng tôi. Tôi bỗng đỏ mặt, cắt lời:
- Tôi đến hỏi tin chồng tôi bị bắt.
- À ra thế - Hắn gật gù, mặt lạnh hẳn đi - Bị bắt bao giờ? Tên gì?
- Bắt đêm hôm kia. Tên là Nhân.
- Giáo Nhân! Trần Hoàng Nhân phải không?
- Dạ, đúng! – Tôi mừng quá, nói líu cả giọng.
- Gay đấy! - Hắn khụng khiệng.
- Sao ạ?
- Không biết! Chỉ biết là gay thôi. Chuyện động trời, tôi đâu có biết nhiều mà nói. Tốt nhất là chị cứ về nghĩ cho khỏe sanh con xong, đặt tên đàng hoàng rồi... lo đi lấy chồng khác là vừa.
Tôi tái mặt:
- Cậu... Cậu bảo sao? Nhà tôi... chết rồi sao?
- Chưa! Nhưng sau trước gì rồi cũng tới nước đó. Lâu la tắc ké còn rụng đầu, huống chi là cỡ bự.
- Nếu thế - Tôi xôm lên, máu trong người chạy rần rật - Cậu cứ làm ơn cho tôi gặp ông đồn trưởng.
- Chị về đi! Ông không tiếp đâu.
- Tôi không về! Không gặp được chồng tôi, tôi liều bỏ xác ở đây.
Tiếng còi xe rít lên cắt ngang câu nói của tôi. Tên lính giật thót ngưòi, dập gót giầy đến cốp một cái. Từ mặt đường một chiếc zeep dã chiến, sơn loang lổ màu da báo lăn rạo rạo vào cổng. Một khuôn mặt xạm đen, nhễ nhại mồ hôi, nón chụp chếch mặt, đeo kiếng mát gọng to hơi ló ra nhìn tôi. Tôi cũng nhìn lại và bỗng thấy ngờ ngợ... Nhưng chiếc xe đã rú máy vọt qua cổng vào sân, biến mất.
Người hạ sĩ đóng xong cánh cổng, quay lại tôi:
- Đó! Ông trung úy đồn trưởng đó, sao cô không hỏi đi?
Tôi nhăn mặt:
- Thì cậu phải nói chớ! Tôi có gặp ổng hồi nào mà biết.
- May cho cô đó, đã gặp ổng rồi thì làm gì có lần thứ hai mà gặp nữa.
- Cậu… ông về rồi, cậu làm ơn…
- Bậy nào! Cô không nhìn thấy mặt mày ông sát khí đằng đằng đó à? Bây giờ chỉ có gặp tử thần.
Tôi nản quá! Làm sao bây giờ. Cứ xông vào? Không được! Hay là cứ ngồi ở đây chờ hắn ra?
Đang còn loay hoay chưa biết tính đường nào thì một viên thiếu úy mảnh khảnh đeo kính trắng từ trong đi ra, hỏi trống lỏn:
- Chị tên Thanh?
- Dạ, phải... Tôi ngơ ngác trả lời.
Gã thiếu úy hất ngón tay cái qua vai:
- Ông đồn trưởng cho mời chị vào!
Tôi không tin ở tai mình nữa. Sao ông ta lại biết tên tôi? Khuôn mặt ấy... Hay ông ta nhầm với một Thanh nào?
Kệ! Quen càng tốt mà nhầm càng hay, miễn là hỏi được tin chồng, miễn là gặp được chồng. Đến khi gã trung sĩ với vẻ nể nang nhắc lại tên tôi và khẽ mở cánh cửa ngách thì tôi không hỏi gì thêm, rảo chân đi vô luôn.
Viên thiếu úy với vẻ mặt lì lì dẫn tôi vòng vo một lúc rồi chỉ vào một cánh cửa gỗ đen nặng nề đóng im ỉm.
- Ông đang chờ chị.
Hơi rụt rè, tôi đưa tay gõ khẽ vào cánh cửa. Từ trong phòng vang ra một tiếng nói mệt mỏi:
- Mời vô!
Tôi đẩy cửa bước vào. Ngồi trước mặt, sau một cái bàn cùng màu gỗ và cũng nặng nề không kém cánh cửa là con người lúc nẫy tôi thoáng nhìn thấy ở trong xe. Hắn vẫn để nguyên cái nón chụp chếch nửa mặt và cái kiếng mát gọng to bí ẩn như lúc đầu. Tôi khẽ chào:
- Ông cho gọi tôi?
Im lặng... Con người bí ẩn đứng dậy, dáng cao lớn như một nhà thể thao, đi đến trước mặt tôi:
- Cô Thanh... Cô không nhận ra tôi sao?
Tôi lắc đầu. Hắn ta khẽ nhún vai và cũng buồn bã lắc đầu theo:
- Chưa đầy ba năm mà cả cô và tôi đều thay đổi đi nhiều quá! Tức là, tôi không còn để lại một ấn tượng dù nhỏ nhất nào trong cô hết, kể cả ấn tượng xấu. Tôi là kẻ vô duyên đến thế hay sao?
Nhìn cái miệng của hắn chuyển động dưới hàng ria mép tỉa gọn, tôi đã bắt đầu nhận ra.. và đến khi hăn lột cái nón, lột kính quẳng lên bàn, tôi buột miệng kinh ngạc kêu lên:
- Cậu... Cậu Quang!
- Vâng! Tôi đây. Mời cô ngồi.
Chao! Hắn đấy ư? Ba năm nay hắn vắng mặt để rồi lại trở về như thế này đây. Trung úy đồn trưởng! Viên đồn trưởng ác ôn khét tiếng! Viên trung úy cảnh sát xảo quyệt đến tàn bạo. Nỗi kinh hoàng của tất cả bà con vùng này!... Thực ra hắn vẫn thế, vẫn khuôn mặt ấy, cái nhìn ấy và kiểu cười ấy chứ có khác gì lắm đâu. Nếu vì cái gì đó mà tôi không nhận ngay ra thì chính là vẻ đạo tặc của hắn. Phải chăng luôn luôn dúng tay vào máu mà mặt hắn u ám đi? Tôi bỗng thấy nôn nao...
- Mời cô dùng nước.. Tại sao cô nhìn tôi dữ vậy?
- Cậu thay đổi đi nhiều quá!
- Cám ơn! Cậu... Đã lâu tôi mới lại được một người gọi tôi bằng cái tên thân mật đó.
- Tôi nghe nói cậu đi Mỹ? – Tôi hỏi lung tung để lấp khoảng trống. Vả lại, bằng những câu hỏi đó, tôi hy vọng sẽ làm cho hắn cởi mở, mềm lòng hơn để lát nữa, nếu có đụng đến chuyện chính, biết đâu hắn chả có một chút thể tất kiểu người nhà.
- Vâng! Tôi đã đi Mỹ thụ huấn một khóa học an ninh. Tôi đi ngay sau lần gặp cô ở bờ suối. Buồn quá! Giận quá mà đi chứ tôi đâu có mê cái thứ binh nghiệp này.
- Cậu cứ nói thế. Chuyện cũ, cậu để bụng làm chi.
- Sao lại có thể quên chuyện đó được. Sau lần ấy, tôi thấy cuộc đời chán quá. Tôi định trốn vào sự tinh khiết của cô để sống đàng hoàng đứng đắn; định dựa vào linh hồn trong trắng của cô để thử gột rửa linh hồn đã uế tạp của tôi nhưng cô đã khước từ. Mà khước từ là phải. Lúc ấy, làm sao cô có thể chấp nhận được tôi, một kẻ mà trước con mắt cô, toàn bộc lộ những điều ghê tởm. Thế là vì thất vọng, tôi lao đầu vào binh nghiệp. Ở đây, tôi sống trở lại đúng tôi, muốn làm gì thì làm, muốn nghĩ gì thì nghĩ, miễn là trước kẻ thù không biết run tay. Nói cách khác, xin lỗi, về một mặt nào đó, chính cô đã đẩy tôi vào con đường chém giết này. Bắt đầu chỉ để quên đi. Miết rồi thành quen, thành ý thức, thành hận thù chính trị lúc nào không biết. Đến khi nhận ra thì không rút tay lại được nữa.
- Cậu căm thù tôi – Tôi hỏi gượng gạo, thực chất chỉ mong hắn thôi đừng nói nữa. Không ngờ câu hỏi ấy lại khơi sâu thêm nguồn tâm sự của hắn.
- Hận thì đúng hơn - Giọng nói hắn trở lại vẻ xa xăm - Đời là một chuỗi dài những trả giá. Toi vốn coi thường đàn bà con gái, không bao giờ đánh giá họ hơn một đồng kẽm. Đến khi gặp được cô, tôi bắt đầu có ý định nhìn nhận lại thì trước mắt cô tôi đã không đáng giá bằng một đồng kẽm nữa rồi.
- Tôi đâu có dám nghĩ về cậu như thế - Tôi bắt đầu sốt ruột.
- Cái ngày cô đi lấy chồng - Hắn vẫn nói, không thèm đếm xỉa gì đến thái độ của tôi – cũng là dịp tôi được về nước tập dượt công vụ. Cô có biết không? Tôi đã đến dự đám cưới của cô. Vâng! Chính tôi. Nhưng dự một cách âm thầm. Đến âm thầm. Về âm thầm. Lúc đó, cô có để ý đến một gã đàn ông ngồi chụp mặt trong bóng tối ở góc nhà không?
Tôi sửng sốt và lần đầu tiên chăm chú nhìn vào khuôn mặt hắn. Khuôn mặt ấy đang bộc lạô những cảm xúc chân thật, không có đièu gì giả dối cả. Thì ra là hắn! Tôi khẽ gật đầu chứng thực cho sự có mặt của hắn ngày đó.
- Cám ơn! Cô nhận ra tôi nhưng còn có một điều cô không bao giờ có thể nhận ra là lúc ấy, nếu không vì nét mặt đau khổ của cô, vì đôi mắt buồn đến tan nát của cô thì chắc chắn tôi đã đập bể cái đám cưới ây, tôi sẽ giết chết cô hoặc sẽ cướp cô đi. Tôi đã chuẩn bị tất cả, đã thu xếp xong tất cả, nhưng cuối cùng tôi đã ngồi im. Tôi không nỡ, tôi không đủ sức làm cho đôi mắt cô tan nát một lần nữa. Tất cả những điều đó cô có biết tại sao không? - Miệng hắn nhệch ra thành một đường hằn dữ tợn và cay đắng – vì tôi yêu, tôi yêu cô. Yêu đến tân bây giờ. Khốn nạn! Chính tôi cũng không rõ vì sao tôi lại đâm đổ đốn như thế? Cô là ai? Cô là cái quái gì mà ám ảnh tôi hoài, càng xua đi, càng ám ảnh. Mà tôi đã là cái gì với cô kia chứ, ngoài một vết tích gần như cưỡng dâm! Phải chăng cái mà mình không đạt tới thì cái đó bỗng trở thành thần thánh? Hoặc đằng sau cái vẻ ngoài mộc mạc của cô lại đang ẩn giấu một ma lực quyến rũ của con quỷ? Tôi hoàn toàn không hiểu.
Tôi nhìn lảng đi nơi khác, trong lòng không khỏi gợn lên những suy nghĩ trái ngược nhau. Đành rằng, hắn là một kẻ tôi căm ghét còn hơn cả căm ghét nữa, nhưng… những lời bộc bạch thống thiết có phần điên loạn của hắn, dù sao cũng làm cho tôi, một người đàn bà phải chạnh lòng.
Có vẻ đọc được dấu hiệu ấy trên cái chau mày của tôi, hắn cười nhạt, tiếng nói thoắt tỉnh khô:
- Tôi biết lúc này cô không thích nghe những điều này và chắc chẳng bao giờ cô thích nghe cả, nhưng tôi vẫn phải nói vì không biết bao giờ tôi mới có dịp được nói với cô nữa. Thôi, ta vào việc. Lúc nãy tôi đã thấy cô đứng ở cổng, chắc cô muốn gặp tôi? Tôi cũng rất muốn gặp cô. Nếu bữa nay cô không lên đây thì tôi cũng sẽ cho gọi cô tới. Thế là trùng hợp. Cô nói đi!
Tôi chỉ chờ có thế, vội nói luôn:
- Tôi muốn hỏi tin tức chồng tôi. Nghe nói cách đây hai bữa, cảnh sát đã bắt anh ấy?
Hắn gật đầu:
- Đúng thế. Chính tôi đã cho bắt.
- Hiện nay anh ấy ở đâu?
- Ở ngay đây. Ngay trong khu vực này.
- Các ông có thể cho tôi gặp chồng tôi?
- Chưa được - Hắn lắc đầu buồn bã – Tôi biết mà, một khi đã dính tớii chuyện này là cũng dễ cạn tàu ráo máng với nhau lắm. Cũng được! Từ bây giờ cô có thể kêu tôi bằng ông thay cho tiếng cậu ngày trước là vừa. Xin hỏi: cô có biết chồng cô phạm tội gì không?
Tôi lắc đầu và đột nhiên thấy tim mình đập mạnh.
- Một cái tội đang rất thịnh hành, giống như một cái mốt, tội hoạt động chống đối quốc gia.
- Tôi không tin? – Tôi nói để mà nói.
- Tôi nhắc lại: chồng cô là cộng sản mà là thứ cộng sản nòi, cộng sản đầu sỏ.
- Tôi không tin – Tôi hạ giọng gần như thì thầm.
- Cô tập tin đi là vừa. Và tập tin cả điều này nữa, với tội đó, chồng cô sẽ bị lên máy chém!
- Không!... Tôi thét lạc giọng – Không được giết anh ấy. Anh ấy là người tốt. Anh ấy không có tội.
Đầu óc tôi bàng hoàng, tôi nói mà không biết mình nói gì, bụng bỗng nhiên thấy quặn đau dữ dội. Tôi muốn lả người xuống sàn.
- Cô Thanh! - Giọng hắn mềm trở lại – Tôi đã thấy được hết nỗi kinh hoàng trong mắt cô khi tôi nói điều đó. Cô yêu nó lắm!... Thằng cộng sản này tốt phước thiệt, mà cũng quá ngu si thiệt! Có một người vợ như thế này mà còn đi làm giặc.
Mồ hôi trên trán tôi vã ra. Tôi không còn nghe thấy hắn nói gì nữa. Cái thai trong bụng tôi đang đạp mạnh. Đừng! Đừng con! Tôi rên lên. Lúc này con hãy để cho má yên. Má đang cần được yên. Con…
- Cô Thanh - Hắn nhăn mặt lại – Cô đang đau… lúc này tôi không thể nói chuyện gì được. Cô về nghỉ đi! Tôi sẽ tiếp cô dịp khác.
Trong mắt hắn toát ra vẻ ái ngại thực sự. Tôi níu lấy sự mềm lòng chớp nhoáng ấy, có gồng mình lên:
- Không! Tôi không về đâu cả. Tôi muốn gặp chồng tôi. Tôi muốn được chết với anh ấy.
- Hắn giang rộng tay ra trong một cái nhún vai vừa lạ lùng vừa hàm ý chế nhạo:
- Thế đấy! Tôi đang ở đâu thế này? Chứng kiến một chuyện tình bang Tếchzát chăng? - Rồi hắn quay đi, nói rít qua kẽ răng không phải để cho ai nghe- Một lúc ba mạng người… cũng hay! Thằng cộng sản cha… thằng cộng sản con… kể luôn con đàn bà, cũng nhiễm máu cộng sản. Gọn thiệt! Gọn luôn cả nỗi nuối tiếc bầm máu của ta…
Hắn còn lầm rầm nói thêm cái gì một lúc nữa, con mắt sâu của hắn chợt sáng, chợt tối như có hòn than cháy tắt trong đó… Lát sau hắn đột ngột quay lại, đưa cho tôi chiếc mùi xoa:
- Cô lau mồ hôi đi! - Thấy tôi không cầm, hắn thả luôn xuống đất – Cô vẫn cố chấp. Cố chấp trong mọi chuyện. Giả thử tôi cũng là kẻ cố chấp thì… Thôi được, cô nghe đây. Mấy năm nay, cuộc sống sát phạt đã luyện cho tôi một thói quen là hành động tuyệt đối theo lý trí và theo quân lệnh. Trái tim tôi đã chai sạn trước mọi lời kêu rên, mọi giọt nước mắt rồi. Tôi không cho phép mình được run rẩy, được châm chước cái gì hết. Nhưng hôm nay, ngồi trước cô, ngồi trước tình yêu quỷ quái của cô, tôi sẽ ráng làm một hành vi cao thượng. Cũng là nhân danh tình yêu, thứ tình yêu khốn nạn không được đền đáp lại, tôi sẽ hoãn đưa cái sọ của chồng cô lên máy chém. Khoan! Không phải tôi làm thế để mua chuộc cô đâu. Ngược lại, thâm tâm tôi muốn phứt cái đầu của chồng cô đi cho rảnh, rảnh cả việc công lẫn việc tư, nhưng trong vụ này, làm thế thì hèn. Tôi lại không muốn hèn trước mặt cô, tôi không muốn trả thù tẹp nhẹp. Tóm lại, thay vì cái chết, chồng cô sẽ được vào nhà tù. Mà… vất mẹ nó cả chồng cô, lẫn cái nhà tù của chồng cô đi! Chúng nó chỉ là cái cớ để cho tôi gặp cô hôm nay, để cho tôi có thể làm được một việc gì đó giúp ích cho cô, qua đó phần nào chuộc lại cái lỗi côn đồ ngày trước của tôi bên bờ suối.
Tôi ngồi chết lặng, không biết nói năng ra sao. Hắn thật lòng hay dã tâm? Hắn cố tỏ ra cao thượng hay làm tình làm tội tôi thêm? Hắn như thực, như giả. Lúc rất độc địa, khi lại tỏ ra biết điều… Dù vậy, điều hắn vừa nói cũng khiến tôi thoát khỏi cơn mê hoảng. Chồng tôi bị tù? Tức chồng tôi chưa chết… tức là anh ấy vẫn có thể gặp được vợ con? Toàn thân rã rời và biết rằng ngồi thêm cũng chẳng ích gì, tôi mệt mỏi đứng dậy:
- Dù sao tôi cũng xin cám ơn.. cậu (Tôi chuyển cách xưng hô mà không tự biết, có lẽ giây phút ấy, tôi cũng có những xúc động nhất định). Tôi về. Xin cậu nể tình cũ nghĩa xưa mà…
Hắn bật cười khô khốc:
- Tình cũ nghĩa xưa… Thật là mỉa mai! Thôi, cô đừng nói nữa. Cô nói cái giọng đó, tôi muốn thay đổi quyết định quá! Thấy nó… không đúng! Xin cô đừng vuốt ve tôi, như thế tôi quý trọng cô hơn. Bất cứ con đàn bà tầm thường nào cũng biết vuốt ve trong những tình huống như thế này hết. Tôi muốn cô khác họ.
Tôi bỗng rân rân người vì ngượng. Câu nói của hắn như đã lột trần được tôi ra. Không chào nữa, tôi cầm nón lẳng lặng đi ra cửa.
- Khoan! Còn một điều nữa: tôi tạm tha chết cho chồng cô lần này. Nhưng hãy nhớ lấy: lần thứ hai nếu còn lọt vào tay tôi thì có nghĩa là hết. Điều này áp dụng cho cả cô nữa. Tôi nói thế không thừa vì bằng kinh nghiệm, tôi đoán chắc rồi đây, nếu chồng cô được ra tù thì cô sẽ là đồng chí của nó. Cô sẽ đi cùng đường với nó. Cô yêu nó và khi yêu thì người ta có thể làm được đủ trò. Cô nghe kịp không? Bởi vì dù cô có muốn yên thân làm ăn thì một người kiểu như nó không dễ cho cô lung lạc đâu, ngược lại chính cô sẽ bị nó đưa vào guồng. Tạm biệt! Chúc cô may mắn!
“Tới đây, nếu chồng cô được thả ra thì cô sẽ là đồng chí của nó…”. Trên đường về, cùng với cơn đau mỗi lúc một thắt quặn hơn, câu nói đó cứ quay đảo trong đầu tôi. “Nếu chồng cô được thả ra…!”. Đúng! Chỉ cần anh ấy được thả ra thì cái gì đến với tôi cũng được. Tôi lung lạc anh ư? Cũng được! Tôi là đồng chí của anh ư? Cũng chả sao! Tôi cũng có thể lên máy chém như anh? Chấp nhận hết. Miễn là sau tất cả những chuyện này, tôi còn có dịp được nhìn thấy anh. Trước mắt tôi, anh bỗng lớn lao hẳn lên. Anh ấy vượt ra khỏi tầm tay tôi, tỏa sáng. Tôi vừa hoảng sợ vừa tự hào được là vợ anh, vợ mọt người cầm đầu những hoạt động chống đối cái quốc gia thối nát đang hiện hành. Tôi cũng buồn tủi khi không được anh tin cậy, dửng dưng đứng ngoài anh trong thời gian vừa qua. Nếu anh hiểu tôi, tin tôi, cho tôi hay mọi chuyện, chắc rằng mọi gian nan, có vợ có chồng cũng đỡ hơn.”… Cô sẽ đi cùng đường… sẽ là đồng chí của nó…”. Vâng! Tôi sẽ là tất cả, nếu tới đây anh được trở về. Cái suy nghĩ mới mẻ ấy hừng hực cháy trong đầu tôi, mạnh mẽ đến nỗi tôi quên cả cơn đau trở dạ của mình.
*
* *
Nửa đêm hôm đó, tôi sanh cháu. Cháu trai! Cháu ra đời sớm mất một tháng nhưng cũng cứng cáp.
Đến ngày thứ bảy tôi trở dậy đi lại được. Dường như chỉ chờ đến thời khắc ấy, ông chú cho gọi tôi vào gặp ông. Tôi mừng thầm! Có thể ông nắm được tin tức gì mới mẻ về anh? Có thể ông đã được gặp anh hoặc mẹ con tôi có lời nhắn, có thư của anh? Suốt một tuần qua, tôi đã gặng hỏi hoài, nhưng cô Nghĩa vẫn không trả lời cho tôi một điều gì khả dĩ có thể có hy vọng. Nghĩa cũng hoàn toàn không biết tin gì về anh. Vì thế, được ông chú gọi lên, trong bụng tôi hồi hộp lắm.
Ông đón tôi với một nụ cười và nét mặt mềm mỏng khác thường. Cặp mắt, đã bạc đi vì uống quá nhiều rượu, đang dọi vào tôi những tia sáng trìu mến đến rợn người. Từ ngày anh bị bắt đến giờ, đúng hơn là từ ngày tôi bước chân về làm dâu nhà này, đây là lần đầu tôi mới thấy ở ông có cái vẻ hồn hậu xởi lởi như thế. Chính vì vậy mà tôi đâm ra bối rối, không biết đứng, biết ngồi vào đâu.
- Con chào chú – Tôi nói rụt rè,
- Ừa! Con ngồi xuống đó đi! Sao! Thằng “chó” con có mạnh không.
- Dạ mạnh! Cháu bú chán rồi lăn ra ngủ cả ngày.
- Ừa! Nuôi con vậy là mát tay. Tội nghiệp! Cha nó chắc chưa hay nó đã ra đời. Vậy là con sanh non một tháng đó hè?
- Dạ! Gần một tháng ạ!
- Tội nghiệp! Sanh con vào lúc này cực lắm! Con ráng ăn uống cho lại người. Muốn gì cứ kêu con Nghĩa, con nhỏ có vẻ cưng cháu, quý chị lắm.
- Dạ! Cô ấy lúc nào cũng ở bên con.
- Vậy hả? Thế con có được tin gì của chồng con không? - Giọng ông ngọt sắc.
- Dạ... không ạ! Con muốn hỏi chú...
- Ừa! Chú gọi con lên cũng là vì chuyện đó. Chú vừa được tin nó chiều hôm qua.
- Ảnh hiện giờ ở đâu ạ?
- Nhà lao Phú Lợi. Phòng giam chính trị phạm nguy hiểm.
- Ảnh có được mạnh không ạ? – Tôi bỗng cuống quít mà không để ý đến ánh mắt và nét mặt của ông bỗng lạnh đi.
- Mạnh! Bao giờ nó chả mạnh. Mà chú đã được nhìn thấy mặt nó đâu.
- Trời! Thế là ảnh vẫn chưa biết mình đã có con...
- Thanh!
- Dạ!
- Chú hỏi, con hãy trả lời thiệt. Con có thương chú không?
- Dạ thương... Tôi trả lời mà không hiểu ý ông muốn hỏi điều gì.
- Con có thương em Nghĩa con không?
- Dạ, thương!
- Con có thương đứa nhỏ con con không?
- Dạ thương – Tôi vẫn đáp lại như cái máy.
- Con có thương em trai con không?
- Dạ...
- Ừa, vậy là con thương hết! Con giầu lòng nhân ái. Nhưng hiện giờ có đứa táng tận lương tâm, nó không thương một ai cả, nó đang tính hại ráo trọi những người thân trong cái nhà này.
- Ai ạ? – Tôi ngơ ngác hỏi.
- Nó đang tính giết hai má con con, nó đang tính giết hại cả tao – Đôi mắt một mí của ông quắc lên, quai hàm ông bạnh ra trông rất nanh nọc – Nó muốn đánh sập cái nhà này, muốn làm cho tao phải khánh kiệt, muốn tao phải trắng tay đi ăn mày. Ôi! Cơ ngơi của tao, tài sản bao nhiêu năm mồ hôi nước mắt của tao, những thằng bạn và những kẻ thù của tao. Tất cả lũ chúng nó đang chờ dịp này để nhảy bổ vào xé thịt tao nhậu chơi.
- Nhưng kẻ đó là ai ạ? – Tôi bực mình ngắt ngang những tiếng rên rỉ chói lói của ông.
Ông vẫn không chịu trả lời ngay.
- Đối với cái kẻ ấy, con định đối xử ra sao? Con có nhắm mắt làm ngơ để đẩy tất cả xuống bùn nhơ không? Có hay không? Trả lời nghe coi?
Trước sức ép nặng nề của câu hỏi đó, tôi bắt buộc phải nói:
- Nếu có kẻ đó, con sẽ làm hết sức để bảo vệ gia định, bảo vệ hạnh phúc của mình.
- Tốt! Chú biết xưa nay con là đứa hiếu thảo, đặt chữ nghĩa lên đầu. Vì nghĩa, con có thể bỏ qua được tình. Được không?
- Nhưng... chú có thể cho con biết kẻ ấy là ai? Một sự sợ hãi vô hình bắt đầu len vào câu hỏi của tôi.
- Nó là thằng Nhân. Thằng chồng phản loạn của con.
- Thế là thế nào ạ? – Tôi tròn mắt kinh ngạc.
- Còn thế nào nữa – Ông chú đập tay cái chát xuống bàn, miệng nói sùi cả bọt mép – Nó là thằng cộng sản, thằng giặc, thằng phiến loạn. Nó bôi tro trát trấu vào cái nhà này, nó không muốn để cho ai được sống yên ổn vì nó nữa. Thằng bất hiếu, đứa bất nhân, nó không đáng được sống trên đời này. Nó không phải là cháu tao, nó không đáng cái mặt là chồng mày.
Tôi cúi gằm mặt xuống. Tất cả những câu mắng chửi thậm tệ ấy như đều giáng xuống người tôi. Chân tay tôi bì ra, nặng chịch, người tôi ngứa ngáy nổi rôm. Một sự phản ứng đang hình thành trong tôi, chầm chậm lan từ chân lên đến đầu. Tôi không thể làm thinh để cho người ta xúc phạm chồng tôi đến nước này được, dù người ấy đang trong trạng thái tâm thần bấn loạn thế nào, dù người đó có là ai đi nữa. Tôi có nhiệm vụ phải biện minh cho anh, phải bảo vệ anh ngay trên những lời nói của người đời.
Hiểu lầm cái im lặng nhẫn nhục của tôi, ông chú xáp đến gần hơn, chuyển giọng vỗ về như dỗ kẹo con nít:
- Con phải hiểu chú! Cha nào không thương con, chú nào không thương cháu. Cha mất, chú phải thay quyền định đoạt. Hiếu thảo thì hưởng lộc, tội lỗi phải trừng phạt, vậy mới giữ được luật lệ của dòng họ của gia đình. Trong gia đình nếu có một cái ung nhọt hôi thối, dù đau cũng phải cắn ruột mà dứt ra. Hả?
Tôi ngẩng lên, hỏi lạnh:
- Chú định trừng phạt anh ấy ra sao?
- Cái đó là việc của con. Con là dâu hiền, con hãy thay mặt gia đình mà gỡ cho mọi người con yêu thương khỏi cái nhục này.
- Con?
- Phải chính con! Chỉ có thể là con.
- Thưa chú, con phải làm gì để vừa lòng chú? – Tôi tự thấy tiếng nói mình rung lên vì kìm chế quá sức.
- Dễ thôi - Người chú lại dọi vào mặt tôi một tia nhìn lạnh lẽo, ngê rợn – con chỉ cần làm một việc hết sức đơn giản, chỉ cần làm một lần thôi là mọi việc xong hết. Con sẽ là ân nhân của gia đình, con sẽ là ân nhân của chú. Đời con còn dài, rồi chú sẽ kiếm cho con một tấm chồng khác, thiệt danh giá…
- Chú nói rõ hơn đi… Tôi lùi lại và cũng nhìn thẳng vào ánh mắt bàng bạc ấy.
- Rõ gì nữa – Cơ mặt ông dúm lại như sắp lên cơn phong giật - Từ bỏ nó đi! Không có vợ chồng, chú cháu gì nữa. Bảo với nó đi đâu thì đi, chết đâu thì chết, đập đầu vào tường mà chết quách đi cho khuất mắt tao. Tao không nhìn nhận nó nữa, kể từ hôm nay. Nói thẳng vào mặt nó như thế - ông rơi người xuống ghế, giọng oải ra, ngán ngẩm – Kìa! Con đừng nhìn ta như thế. Con thương nó sao? Khốn nạn! Nó có yêu gì con đâu. Nó giở trò cưu mang, hào hiệp, đến lúc chán con, nó đi đâu cũng bồ bịch, mèo chuột tùm lum. Nay nó lại mắc vào vòng tù tội, con đành lòng nào để thằng nhỏ vừa sanh ra đã mang án là con đẻ của giặc cộng. Rồi má con con sẽ khổ nhục suốt đời. Chú nói đây cũng là vì cuộc sống của con, của thằng nhỏ. Và của cả vong linh mẹ con…
- Thôi! – Không kìm được nữa, tôi hét lên – Ông đừng giả nhân giả nghĩa nữa! Ông có muốn hại ai thì đi mà hại, tôi không bao giờ làm cái điều thất đức ấy. Bôi nhọ gì, nhục nhã cái gì? Hay ông sợ liên lụy, sợ mang tiếng có người thân là cộng sản, sẽ chặt cụt con đường công danh phú quý của ông? Trời ơi. Mới có thế mà chú đã rắp tâm giết cháu, ông độc ác quá!
- Câm! Câm ngay! – Ông già cũng quát lên, xỉa tay ra cửa- À, thì ra chúng nó cùng một giuộc cả. Cút! Cút ngay ra khỏi nhà tao. Cái nhà này không thừa cơm nuôi cái đồ ăn cháo đái bát, cái đồ phản phúc ấy.
Tôi giận sôi lên, tính bốp chát cho con người độc địa này một cơn ra trò rồi muốn ra sao thì ra, nhưng vừa lúc ấy, tiếng khóc của đứa con ở dưới vọng lên, tôi cắn chặt môi để giữ cho mình khỏi nấc lên vì tủi hận:
- Sau chuyện này ông không phải đuổi tôi cũng đi. Nhưng ông nhớ rằng, nếu ông cứ nhân danh cha chú mà tìm cách làm hại đến chồng tôi, tôi sẽ nói cho tất cả mọi người đều biết.
Tôi đi luôn, để mặc người chú mồm há hốc, đứng như trời trồng ở giữa phòng. Xuống tới chân cầu thang, tôi nghe tiếng ông chú khóc rống lên một tiếng như bị động kinh rồi tắt luôn.
*
* *
Nghĩa đứng đón tôi ở đầu ngõ với vẻ mặt hết sức khổ sở. Vừa nhìn thấy tôi tay bồng con, tay xách túi, cô bật khóc dấm dứt, dụi mặt vào vai tôi:
- Chị Hai… đêm tối thế này chị định đi đâu?
- Chị cũng chưa biết, nhưng cứ phải đi đã. Chị không thể ở đây được phút nào nữa.
- Chị… có thể chể chú em nóng quá nên mất khôn, chị đừng chấp. Dạo này ông làm ăn thua thiệt nhiều, đằng thì bị người cạnh tranh phá, đằng bị quốc gia làm rầy. Ông đang quẫn. Ngày mai có khi ông lại nghĩ lại. Chị ráng chịu đến mai được hôn?
- Không em ạ! Dù biết ông đang quẫn trí, ông mê sảng, ông nói mà chưa chắc đã hiểu mình nói gì, nhưng chuyện đã như thế, chị ở lại khó lắm!
- Tính chú em thế. Ngày xưa lúc ba em còn, hai người cũng va đụng luôn, đến nỗi không nhìn mặt nhau. Nhưng khi ba em chết, chính chú em lại là người tỏ ra ân hận nhất.
- Ân hận. Ân hận gì mà tới nước đó… Thôi, để chị đi, Nghĩa ở lại ráng mần ăn cho tốt, thỉnh thoảng rảnh nhớ tới thăm cháu.
- Chị Hai… Chị đi thiệt sao? – Nghĩa mếu máo – Anh Hai bị bắt, chị lại bỏ đi, em ở lại với ai đây?... Nhưng mà giờ này chị còn đi đâu? Đến nhà chú Riềng sao?
- Không! Cậu ấy vẫn chưa về. Mà chị lại không thể một mình về đó. Đồng không mông quạnh, một mẹ một con biết trông cậy vào đâu. Chị có bà thím họ xa ở cuối thị xã, bả không có con, nhà lại chỉ có hai vợ chồng, chị tính tới đó, em khỏi lo cho chị. Ở lại mạnh giỏi, chị đi nghen.
- Thôi thì tùy chị… Chị Hai! – Nghĩa lúng túng lôi trong túi ra một cái gói nhỏ - Em còn mấy ngàn để giành được, không tiêu gì tới, chị cầm tạm lấy mà nuôi cháu!
- Đừng! Chị cũng còn chút ít, rồi tới đây cũng phải kiếm việc làm. Em giữ lại mà xài. Chị hiểu tấm lòng em thế là đủ rồi.
- Không! Nếu chị từ chối, tức là chị coi thường em.
Tôi bỗng ứa nước mắt, không còn cách nào đành phải nhận mấy ngàn đồng của cô em chồng.
Đúng như tôi dự đoán, bà thím tôi nhìn thấy cháu mừng như bắt được vàng. Khi biết được hoàn cảnh của tôi, bà rân rấn nước mắt rồi không chờ tôi nói thêm điều gì, bà vội vàng hối thúc chồng dọn dẹp đồ đạc để kê cho mẹ con tôi một cái giường con ở gian phụ. Người chồng mà tôi gọi bằng chú thực ra vẫn còn trẻ, có lẽ chưa tới bốn mươi tuổi. Ông lụi hụi làm cái này, cái khác tỏ ra nể bà vợ to béo, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn tôi nửa thăm dò, nửa xa lạ. Nhưng bước đầu của cuộc hành trình đi tìm chồng như vậy cũng tạm gọi là ổn. Dù sao, trong hoàn cảnh của tôi lúc ấy, gặp được những con người như thế cũng thấy đỡ cô quạnh đi nhiều, thấy vững tin ở cuộc đời, mà biết chắc rằng sẽ có rất nhiều sóng gió hơn.
Sáng hôm sau, tôi quyết định bế con đi thăm anh, nhưng thằng bé lại lên cơn sốt. Chưa có kinh nghiệm nuôi con nên tôi cứ cuống cả lên, ôm chặt con vào lòng, nhìn đôi mắt, cái miệng nhỏ xíu của con há ra để bật khỏi cổ một tiếng ho yếu ớt, tôi lại thầm cầu cứu đến anh.
Những lúc như thế nếu không có bà thím chạy đi, chạy lại kiếm thuốc, kiếm lá về cho cháu uống thì có lẽ tôi đã hóa rồ mất.
Trong sự chăm sóc thật mát tay của bà, dần dần cháu dứt khỏi cơn, lại toét miệng ra cười với mẹ.
Mấy hôm sau, cháu khỏi hẳn, tôi lại quyết định bồng con đi thăm chồng. Biết tính anh, trước khi đi, tôi kho một xoong cá lóc xả nhiều tiêu và ớt. Thứ cá kho này, hồi còn ở với nhau, anh có thể ăn được quanh năm suốt tháng mà không chán. Xoong cá hơn một ký, anh ăn dè cũng được một tuần. Tuần sau tôi lại kho mang vào tiếp. Tôi chuẩn bị thêm cho anh mấy táp thuốc rê Gò Vấp hảo hạng, hai ký đường hoa mơ, ít viên thuốc sốt, thuốc đi ngoài và chục ổ bánh mỳ cùng một bịch trái cây.
Mới có nửa tháng thiếu vắng anh mà sao tôi thấy dài kinh khủng. Tôi mường tượng ra anh lúc này chắc còm nhom, râu ria dữ dằn nhưng miệng cười vẫn tươi, cặp mắt sâu vẫn tỏa ánh ấm áp quen thuộc. Nhìn thấy tôi và con, chắc anh sẽ phải xúc động đến run người, anh sẽ bế lấy con một cách lóng ngóng thiệt tức cười, sẽ áp khuôn mặt râu ria vào bụng nó, khiến nó sợ khóc thét lên, sẽ hỏi tên con là gì, đã đặt tên cho nó chưa? Khi đó tôi sẽ chỉ đứng nhìn anh, nước mắt lưng tròng và nói rằng tên của con đang chờ cha nó đặt đó. Tôi cũng sẽ nói với anh bao điều khác, sẽ trách anh tại sao chẳng tin tôi, chẳng cho tôi được san sẻ nỗi cực nhọc của anh. Nếu anh hỏi hoàn cảnh hiện nay của tôi ra sao, tôi sẽ kể hết, kể cả lần đi tìm anh, vô tình gặp lại gã con trai của ông chủ tiệm, kể về việc tôi lo cho anh như thế nào, nhưng… riêng chuyện ông chú anh, tôi sẽ không nói, tôi không muốn cho anh phải nghĩ ngợi gì thêm, cứ thế này anh đã đủ cực quá rồi.
Với những ý định cháy bỏng như thế, tôi bồng con đi bộ một mạch đến cửa nhà lao. Sáng nay gió mát, nắng cũng nhạt, cây cối hai bên đường lao xao như chia xẻ niềm vui sắp gặp chồng của tôi. Chân tôi còn yếu, mỗi bước đi là cảm giách đầu gối muốn rời ra. Thằng bé ngủ ngon trên tay kéo sệ vai tôi xuống.
Nhà tù Phú Lợi kia rồi! Một khu đất rộng có nhiều dãy nhà lợp tôn san sát. Dưới nắng, những lá tôn sáng lóa lên, rung rinh… như đang bị đốt cháy… Tôi bước chậm lại. Một cảm giác rờn rợn len vào. Chính tại chỗ này cách đây không lâu đã xảy ra một vụ thảm sát khốc liệt. Tôi không được nhìn tận mắt nhưng nghe bà con nói lại là có hàng trăm tù nhân bị đánh thuốc độc cho đến chết. Chết đau đớn, chết quằn quại, chết giữa lúc miếng cơm còn đang nhai trong mồm… Lúc đó tôi còn đang bán bánh ở chợ. Trước sự hãi hùng, hớt hải, và những tiếng thì thào bàn tán, tôi cũng thấy rùng mình, cũng thấy trào lên một nỗi phẫn uất, nhưng rồi nó không đọng lại lâu. Gánh nặng gia đình lúc ấy không cho phép tôi được đi sâu, chan hòa vào tình cảm của mọi người. Giờ đây, thật không ngờ hoàn cảnh lại run rủi buộc tôi phải đi thăm chồng là tù nhân của chính cái địa ngục ấy. Nắng dọi vào mái tôn làm tôi hoa mắt. Trước cổng có khá nhiều người đứng, ngồi láo nháo. Chắc họ cũng đang chờ đến lần mình vào thăm thân nhân. Khuôn mặt người nào cũng mệt mỏi, nhễ nhại mồ hôi và rất giống nhau ở cái vẻ cam chịu. Tôi đi thẳng vào.
- Đi đâu? - Một người lính đội nón sắt từ chòi gác hỏi vọng ra bằng cái giọng khê khàn chắc vì đã quát hỏi nhiều quá!
- Tôi đi thăm chồng tôi.
- Chưa đến giờ, ra ngoài kia ngồi chờ!
- Nhưng tôi muốn hỏi anh ấy có ở đây không ạ?
- Gian nào? Chính trị phạm hay thường phạm?
- Tôi… tôi không rõ.
- Vớ vẩn! Đi thăm chồng mà không biết bị giam ở gian nào, phòng mấy, làm chính trị hay trộm cướp giết người?
- Không! – Tôi bị chạm tự ái - Chồng tôi không phải là kẻ trộm cắp.
- Thế thì là chính trị phạm rồi. Tên gì?
- Dạ! Tên Nhân! Trần Hoàng Nhân.
Thấy tôi có vẻ thật thà, cung cách thiểu não lại tay bồng con nhỏ, người lính phần nào tỏ ra thông cảm, hất tay về phía sau:
- Chị ra chỗ kia ngồi chờ. Để tôi hỏi coi. Đưa giấy tờ đây.
Tôi đưa căn cước và giấy phép cho anh ta rồi lui sang bên đường tìm một chỗ mát ngồi nghỉ. Trong khi anh ta lụi hụi quay điện thoại, hỏi gì vào phía trong thì tôi tranh thủ sửa lại tóc tai, quần áo. Tôi không muốn anh nhìn thấy tôi trong bộ dạng thế này. Cúi xuống đứa bé vẫn còn đang ngủ, hai má đỏ hồng lên, tôi thì thầm:
- Dậy… dậy con! Con sắp gặp ba rồi mà còn ngủ hoài sao! Gặp ba không được khóc nghe, khóc làm ba buồn đó. Gặp ba, ba sẽ đặt tên cho con. Tên là thằng Hùng nè! Thằng Hoàng nè! Thằng Thắng, thằng Toàn nè! Hay là thằng Nam, thằng Quyết? Con ưng tên nào?... Dậy! Dậy sửa soạn con, người ta sắp cho vào rồi kìa. Đó! Cái ông chụp nón sắt kia kìa, đang mở cổng đó…
- Chị kia!
Tôi ngẩng phắt lên khi người lính hồi nãy gọi to, rồi xăng xái đứng dậy tiến đến, chút nữa bỏ quên cả túi đồ ăn nếu một bà má mặc áo trắng không kêu giật tôi lại.
- Ở đây không có ai tên là Nhân cả.
Tôi chưng hửng như rơi từ ngọn cây xuống:
- Có… có mà. Trần Hoàng Nhân… Người ta bảo tôi có mà.
- Cách đây một tuần thì có nhưng bây giờ chuyển đi rồi.
- Chuyển đi đâu ạ?
- Chí Hòa!
Hai tiếng Chí Hòa giáng mạnh vào đầu tôi. Trời ơi! Anh đến nông nỗi nào mà phải bị giam vào Chí Hòa, cái nhà tù chỉ chứa những người mang án nặng, không bị tử hình thì cũng tù chung thân? Tôi hỏi vớt lại một câu:
- Thiệt vây sao… Thiệt là Trần Hoàng Nhân hả cậu?
- Không thiệt thì tôi giỡn với chị chắc! Thôi dẹp ra, tôi còn bận việc khác!
Tôi cúi đầu lùi lại và cứ đứng ngẩn ngơ ở giữa đường không biết đi hay ở nữa. Bà má mặc áo trắng hồi nãy đến bên tôi:
- Thôi, bồng thằng nhỏ về đi con! Về rồi bữa khác lại đi tiếp. Má xem chừng thằng nhỏ đói rồi đây nè! Đừng để nó giang nắng thêm, bệnh đó.
Như vớ được chỗ bám víu, tôi níu tay bà má hỏi:
- Nhưng có thiệt chồng con chuyển nhà lao hay là họ giết mất ảnh rồi?
- Chắc không đâu – Bà má vỗ về tôi - Từ ngày xảy ra cái vụ đầu độc, bị thiên hạ la lối nhiều, họ ít dám làm càn hơn. Họ sợ công luận. Ngày mai con cứ xin đủ giấy tờ đi Sài Gòn coi. Cái gì cũng phải đến tận nơi, nhìn tận mắt, thời buổi này ngồi một chỗ mà lo nghĩ chỉ rối thêm. Về đi con! Tội nghiệp thằng nhỏ, nắng dọi vô trán nó rồi nè!
- Dạ!
Tôi đành làm theo lời bà má, người đàn bà cho tôi những lời khuyên chắc phải trả bằng hàm trăm, hàng ngàn chuyến đi tìm, đi thăm người thân bị tù tội của mình
*
* *
Tạm dừng lại ba ngày để chuẩn bị thêm giấy tờ và nắm thêm tin tức cho thật chắc chắn, ngày thứ tư tôi lại khăn gói, bồng con đi thăm chồng. Tôi tin lần này nhất định sẽ gặp được anh. Và nếu như vì lý do nào đó chưa gặp hay không gặp được tôi sẽ ở lại luôn cái thành phố xa lạ cho đến khi nào gặp được mới thôi.
Sáng hôm sau, tôi dậy từ 4 giờ sáng để ra bến xe mua vé đi Sài Gòn. Lần đầu tiên đặt chân đến Sài Gòn nhưng trong lòng tôi tuyệt nhiên không thấy một chút xao động nào, tuy rằng từ bé tôi đã được nghe nói bao nhiêu điều hấp dẫn, mới lạ về thành phố lộng lẫy này. Vả lại trên xe đông nghẹt người, toàn thấy lưng, thấy vai của nhau, còn kẽ hở nào để nhìn ngó xung quanh nữa. Cho đến lúc bác tài ngoái đầu lại nói đã đến Hòa Hưng tôi mới chợt nhớ ra địa chỉ ông chú dặn và hốt hoảng xin xuống.
Vừa bước chân xuống mặt đường Lê Văn Duyệt, lập tức một cảm giác bị đè bẹp, bị nuốt chửng bởi phố xá quá náo nhiệt, bởi nhà cửa quá đồ sộ, và bở màu sắc quá chói chang của các loại quần áo, các loại xe cộ và biển quảng cáo, úp chụp xuống đầu tôi. Tay bồng con, tay khệ nệ mang vác, quần áo nhăn nhúm, đẫm mồ hôi mồ kê, tôi tự biết mình lạc lõng, mình chẳng giống ai cả. Bỗng dưng tôi tháy mình bơ vơ quá. Gặp một bác xích lô vận mỗi chiếc quần cụt rách te tua đạp xe qua, tôi dè dặt hỏi đường đến khám Chí Hòa. Bắc nhìn tôi giây lâu ra chiều ái ngại rồi kêu lên xe chở giúp đến tận nơi. Thấy tôi lừng chừng, bác nói chỉ chở giúp thôi, không tiền nong gì đâu. Nghe vậy tôi mới yên tâm bước lên xe.
Xe chạy được mấy phút, đến đoạn đường vắng, nhìn sang trái thấy một khu nhà cao tầng cổng kín có chằng dây kẽm gai, thoạt trông hoang vu như nhà tu kín, bác xích lô bảo tôi xuống rồi không đợi tôi cám ơn, bác quay càng xe, gò lưng đạp đi luôn. Trưa nắng rát mặt. Trút một hơi thở dài đè nén sự hồi hộp, tôi cố bình thản bước đến cổng khám. Khi đã đối diện với người lính đứng im trong trạm gác, bỗng nhiên tôi lại muốn quay ra, không hỏi nữa. Tôi muốn trì hoãn để kéo dài thêm những khoảnh khắc được phập phồng hy vọng. Hỏi rồi bỡ ra bác ta lại thông báo rằng chồng tôi không có ở đây, đã chuyển đi xa rồi thì… Tôi sợ lắm! Mới có hai lần mà hình dáng chiếc cổng gác, câu trả lời của người lính gác đã thành ám ảnh, thành nỗi đe dọa trong tôi. Nghĩ như vậy, nhưng chân tôi vẫn bước gấp, miệng vẫn mở ra như cái máy:
- Thưa cậu!... Đây có phải khám Chí Hòa không ạ?
- Cô không biết đọc à? - Người lính hất mặt lên dòng chữ to treo trên nóc cổng với thái độ khinh khỉnh. Hình như tất cả những người lính, dù đứng gác trước bất cứ công sở nào đều giống nhau kỳ cục về giọng nói, về nét mặt như thế này. Tôi nhũn nhặn:
- Dạ! Tôi xin lỗi cậu! Bữa nay sao vắng quá? Có phải là ngày vào thăm tù không ạ?
- Chiều.
- Dạ… Nhưng tôi muốn hỏi cậu trước là…
- Không hỏi gì cả. Đây là vọng gác, chị lui ra, chiều tối, muốn hỏi gì thì hỏi.
- Dạ…
Tôi kín đáo lấy trong túi áo ra gói Rubi mua từ chiều hôm qua theo lời dặn của ông chú để dùng trong những trường hợp đại loại như thế này đặt vào tay anh ta.
- Mời cậu hút thuốc.
Người lính thờ ơ nhưng không rụt tay lại, miệng càu nhàu:
- Đang gác, thuốc gì mà thuốc… Chị hỏi gì?
- Tôi muốn hỏi chồng tôi là Trần Hoàng Nhân, tù nhân mới từ Phú Lợi chuyển về, có còn đây không ạ?
- Hàng ngàn người, ai biết được. Nhân nào! Để hỏi coi! Chị đứng xa ra ngoài kia, lẹ đi!
Tôi ngoan ngoãn nghe lời và đứng sang bên kia đường, trong lòng thấp thỏm vô cùng. Trong trạm gác, người lính rỉ tai một người lính khác, trẻ hơn, đứng kế đó. Người này xây lưng đi vào trong. Lát sau, người này đi ra gật đầu. Tôi nhìn dán vào cái gật đầu đó, khấp khởi xiết chặt con vào ngực. Không chờ gọi, tôi rảo bước sang, ngước mắt hỏi:
- Có phải không cậu?
- Nhân ở Phú Lợi, ba mươi tuổi, quê tại thị xã Bình Dương? Họ Trần?
- Dạ! – Tôi mừng cuống, vội gật đầu.
- Tù chính trị chống đối quốc gia?
- Dạ! – Tôi cũng gật luôn.
- Chà! - Người lính cười khẩy – Bà “dạ” ngon lành quá! Rồi bà sẽ được mặc sức mà “dạ”. Có tù cộng sản Trần Hoàng Nhân ở đây. Mười bốn giờ, khám sẽ mở cửa cho người nhà vào thăm.
Thế là ổn rồi. Bây giờ chắc mới khoảng 10 giờ, còn bốn tiếng nữa sẽ được gặp anh. Bốn tiếng lâu quá nhưng không lo nữa. Biết chắc anh ở đó rồi, bốn tiếng chứ bốn mươi tiếng, hay bốn trăm tiếng tôi cũng cho là không nhằm nhè gì. Tôi cảm ơn người lính rồi bế con tìm một gốc cây có bóng mát ngồi đợi. Đứa bé đã tỉnh dậy, chóp chép miệng đòi ăn. Sữa tôi đã pha sẵn vào bình từ nhà, lúc này chỉ việc nhét núm nhựa và miệng nó, hơi nguội một chút nhưng còn hơn ngậm vào bầu vú không chảy một giọt sữa nào của mẹ. Tôi nựng con rán chịu cực, gặp ba xong, chiều về nhà sẽ cho ăn bù. Đứa con ngước đôi mắt lay láy lên cười với tôi như tỏ ý đồng tình, như hiểu thấu hoàn cảnh của mẹ nó lúc này. Đôi mắt ấy giống mắt anh quá, giống đến kỳ lạ, giống đến nỗi thỉnh thoảng nhìn vào mắt con tôi lại nhợt cả nhạt cả người.
Mải cho con uống sữa, tôi vô tình không để ý đến ở gốc cây bên cạnh cũng có hai mẹ con nhà nào đang ngồi tránh nắng. Người mẹ còn trẻ, chắc nhỉnh hơn tôi chút ít, ăn vận lối người ở quê ra, khuôn mặt vàng võ, mệt mỏi. Bên cạnh là đứa bé chừng một hay hai tuổi gì đó, mặt mày nhem nhốc nhưng vẫn không che được vẻ kháu khỉnh ẩn bên trong. Khi tôi bắt đầu để ý đến họ thì người mẹ đã có vẻ mệt lắm, chân duỗi dài, lưng dựa vào gốc cây, cổ hơi nghẹo sang bên và cặp mắt nhắm thiêm thiếp. Khuôn mặt chị đỏ bừng, lấm tấm mồ hôi, cái miệng hơi hé ra trong tiếng thở nặng nhọc. Cánh tay gầy ngẳng, cháy nắng của chị dần dần rời ra khỏi lưng đứa bé để buông thõng xuống nền đất, trong khi tay kia bằng một ý thức không tự giác, vẫn khư khư giữ lấy chiếc làn mây đựng đủ thứ lỉnh kỉnh bên trong. Đứa bé được giải phóng khỏi tay mẹ, liền trườn xuống đất, lững chững đi được vài bước rồi ngồi phệt xuống, đôi mắt ngó nghiêng dòm thật tội. Đôi mắt ấy ngó sang tôi rồi dừng lại trên bình sữa đã gần cạn ở miệng con tôi. Mắt nó sáng lên vẻ thèm khát... Sao con mắt ấy giống mắt con tôi thế? Cũng đen lay láy, cũng to khác thường... Tôi nhắm mắt lại, lắc đầu tự xóa đi hình ảnh đầy sự liên tưởng ấy. Tuy vậy, từ lúc đó tôi không rời mắt khỏi nó nữa. Thấy bình sữa đã cạn, nó chóp chép môi có vẻ tiếc rẻ rồi quay đi. Nó ngồi im một chút rồi bắt đầu chuyển động theo cái kiểu nửa bò nửa lết ra phía đường. Tới mép vỉa hè nó dừng lại một chút rồi lại bò tiếp. Nó xoay người cho hai chân xuống lòng đường trước rồi hai tay chống theo. Tôi đã tưởng nó sẽ lết qua mặt đường sang bên kia nên định chạy tới giữ nó lại, nhưng không, nó chỉ bò đến đó rồi nằm im. Bây giờ tôi mới nhận thấy trước mặt nó là một đống rác cao quá đầu. Tôi chưa kịp hiểu gì cả, thì trong chớp mắt nó đã cầm được miếng vỏ thơm bị ruồi nhặng bu đen, đưa lên mồm nhai ngấu nghiến.
- Trời đất! Thằng bé đang bới rác ăn kìa!
Tôi kêu lên không giấu được vẻ bực tức. Người mẹ giật mình mở choàng mắt, hai tay vội quờ quạng tìm con, nhưng không thấy bèn hốt hoảng đứng dậy. Khi phát hiện ra con đang ngồi cạnh đống rác, chị thốt lên một tiếng nghe thật não ruột rồi xiêu vẹo chạy tới, vừa thở hổn hển vừa mếu máo bế thốc lấy con trở lại. Đứa bé đột nhiên bị mất miếng ăn, oằn người khóc ré lên, hai bàn tay nhem nhuốc vẫn cuống cuồng nhoài về phía đống rác. Thường trong những trường hợp như thế, người mẹ bao giờ cũng cáu bẳn, quát tháo hoặc đét vào đít con mấy cái ra trò, nhưng chị ta chỉ ngồi im, lặng lẽ xiết chặt tấm thân lấm đất cát của con vào lòng và những giọt nước mắt chị từ từ chảy ra, lăn theo một đường ngoằn nghèo qua gò má xanh xao xuống miệng. Tôi bỗng nhận ra người mẹ này còn ẩn giấu một vài nét đẹp đằng sau cái vẻ tiều tụy ốm đâu kia. Mũi thẳng, đường môi khá thanh, hơi uốn lên thành một nét trẻ thơ nũng nịu, đôi mắt buồn man mác như mắt một con chim non xa đàn gợi lên sự khao khát yêu thương, khao khát đoàn tụ đến khổ sở. Bỗng dưng trong tôi nảy nở sự đồng cảm rất thuần phác với chị. Chắc đây cũng là một người vợ đi thăm chồng tù tội và hiện nay cả hai mẹ con đều đang ốm đau và đói khát. Tôi bế con đi tới gần chị và ngồi xuống, lấy ra một ổ bánh mỳ có nhân thịt heo quay:
- Nè chị! Cháu có vẻ đang đói, chị cho cháu ăn đỡ.
Chị ta nhìn lên, bối rối, mắt chứa đầy vẻ cảm ơn nhưng tay vẫn để nguyên.
- Chị đừng ngại, em cũng là người đi thăm tù như chị, bọn mình cùng cảnh ngộ.
Tôi lấy thêm một ổ bánh nữa rồi dúi cả hai ổ vào tay chị. Chị nhìn tôi một lần nữa và đến khi biết chắc rằng tất cả những điều tôi nói là thành thật, chị mới đưa tay cầm lấy:
- Cám ơn cô!... Cô tốt quá!
Bằng một cử chỉ hơi lóng ngóng, chị bẻ một nửa ổ bánh đưa cho con. Thằng bé, chưa chờ mẹ đưa đã cầm như giật lấy rồi đưa lên miệng ăn ngay. Cái miệng nhỏ xíu của nó chèng bèng ra vì miếng bánh to quá. Người mẹ quay đi, có vẻ ngượng nghịu:
- Khổ! Cháu chưa có gì vào bụng từ chiều qua tới giờ… Có mấy trăm bạc mang đi, hồi đêm ngủ vạ vật ở đây bị móc túi sạch trơn, chẳng còn gì để mua một miếng bánh cho nó nữa.
- Kìa, chị cũng ăn đi cho lại sức. Em dòm chị có vẻ bệnh?
- Tôi bệnh từ ở nhà, nhưng cái việc đi không hoãn được. Ai dè mẹ con lếch thếch lôi nhau được tưói đây lại không trúng ngày. Suốt đêm qua nằm giữa trời, mắc mưa nên người mới nhược thế này.
Chị bẻ cho đứa con một miếng bánh nữa và chính chị cũng cắn một miếng nhỏ. Dòm chị ăn thấy tội quá! Bánh còn mới, thơm lựng mà chị nhai trệu trạo như nhai gỗ.
- Để em đi mua cho chị tô hủ tiếu. Đang đau, ăn thế này không được đâu.
- Thôi, cảm ơn cô, tôi không muốn ăn gì cả. Chỉ nóng ruột nóng gan mong gặp được anh ấy.
- Chị đi thăm chồng à?
Một thoáng lúng túng hiện lên trên mặt chị.
- Chồng... nhưng cũng không thật là chồng. Về danh nghĩa, tôi và anh ấy chưa là gì với nhau.
- Anh ấy ở đây đã lâu chưa chị? – Tôi hỏi đẻ khỏa lấp cái ý tò mò muốn biết sâu về gia cảnh của chị.
- Nghe nói cũng mới thôi.
- Anh ấy là chính trị phạm hay thường phạm? – Tôi hỏi thuận mồm mà không hay rằng mình đã nhiễm lối hỏi của các cổng gác.
- Tôi cũng không rõ nhưng... anh ấy là người tốt, chắc không phải tù tội vì giết người hay lưu manh, lừa đảo gì đâu.
Trong câu trả lời, tôi đọc thấy cả sự kín đáo lẫn ý thức bảo vệ danh dự của chị. Điều đó làm tôi nể và không muốn hỏi sâu thêm nữa. Tôi cầm tay cháu bé:
- Đay chắc là con anh ấy? Cháu mấy tuổi rồi?
- Vâng – nét mặt chị rạng lên một chút. – Cháu được hơn một tuổi rồi.
Sự cởi mở đến giản dị của chị đã xích chị lại gần tôi hơn. Chúng tôi tâm sự về gia cảnh, về mọi chuyện với nhau. Tôi hỏi mạnh bạo hơn:
- Sao chị không làm lễ cưới để cháu nó có họ của cha?
- Cũng rắc rối lắm! Anh ấy không yêu tôi. Không muốn sống suốt đời với tôi.
- Thế sao lại có con với chị? – Tôi hỏi gay gắt.
- Tại tôi!
- Tại chị?
- Không, đúng đó. Tôi muốn có con với ảnh, tôi nài ảnh làm việc đó. Ảnh chỉ chiều tôi.
- Em không hiểu?
- Chuyện dài lắm. Kể ra, cô nghe thêm mệt.
Tôi im lặng vè suy nghĩ vẩn vơ. Mặt đường lúc này đã vắng người, xe qua lại. Cái nắng chói chang cộng với cái oi nồng của bầu trời sắp mưa khiến mọi người chui cả vào trong nhà hay ngòi kín trong những tiệm giải khát. Chốc chốc lại có một chiếc xe hòm bít bùng bấm còi lăn vào cổng khám hoặc một chiếc xe khác hối hả lăn từ trong khám đi ra. Tốp lính gác làm nhiệm vụ đóng mở cổng mãi cũng chán, lúc này người tì cằm vào súng đứng ngáp, người thì uể oải gõ giày đi lại cồm cộp cho đỡ chồn chân. Mỗi lần có một chiếc xe đến hay đi như thế là tôi và chị, chẳng ai bảo ai là dán mắt nhìn theo. Hai người đàn bà, hai người vợ dường như đều cùng một nỗi thấp thỏm tìm bóng dáng người chồng trên những chiếc xe tang tóc ấy. Hai đứa bé con chị và con tôi sau khi đã ăn no, lăn ra ngủ trong tay mẹ. Có lẽ không chịu nổi sự im lặng hòi hộp khắc khoải này và có lẽ cũng do không biết làm gì để cho hết khoảng thời gian dằng dặc từ đây cho đến hai giờ chiều, chị vuốt lại tóc, khẽ khàng kể cho tôi nghe chuyện chị, kể với cái giọng buốn buồn, đứt quãng của người nhiều âu lo, ốm yếu và gặp nhiều ngang trái, bất hạnh trong cuộc đời. Chị quê ở Bến Cát, xã Thanh Tuyên. Nhà chỉ có hai má con, ba chị đã đi tập kết đến nay vẫn vắng tin. Một lần có một người con trai ghé chơi nhà chị. Anh ấy rất vui, gọi má chị là thím, gọi chị là em. Sau này má nói lại chị mới biết, ba anh và ba chị ngày trước cùng hoạt động với nhau. Rồi tiếp đó, thỉnh thoảng anh lại đến, lúc ban ngày, lúc chiều tối, làm căn nhà của chị ấm cúng hẳn lên. Dần dà chị đem lòng thương anh nhưng không dám nói và anh cũng không tỏ ý gì. Một đêm nọ, trời nổi dông, anh xộc vào nhà chị, người ướt lướt thướt, bên ngoài ồn lên những tiếng chó sủa, tiếng chân chạy, có cả tiếng súng. Má đem giấu anh xuống căn hầm của ba chị ngày trước… Sáng hôm sau má đi ra bưng, dặn chị dòm chừng và tiếp cơm nước cho anh. Chính buổi trưa ngột ngạt mang đồ ăn xuống cho anh đó; yêu quá, thương quá, chị đã không giữ gìn gì nữa mặc dù anh cố chống đỡ, không muốn điều đó xảy ra. Và chị có thai… Nhưng chị chờ hoài không thấy anh trở lại.
- Thời gian sau đó, khi sinh thằng nhỏ rồi, - chị nói – tôi cố quên anh. Tôi tự an ủi rằng, không có anh nhưng có hình bóng của anh, giọt máu của anh để lại, thế cũng đủ. Khi đã thương yêu hết lòng, tôi sẵn sàng trả giá cho sự hết lòng đó, sẵn sàng tha thứ tất cả.
- Vậy là anh ấy chưa biết mặt con?
- Biết. Mấy tháng sau anh đột ngột xuất hiện. Lúc ấy tôi đang cho con bú. Nhác thấy bóng anh ở ngưỡng của, tôi rụng rời chân tay, chút nữa đánh rớt thằng bé. Anh nhìn tôi một hồi lâu rồi hỏi, giọng không ra buồn, không ra vui: “Út lấy chồng rồi sao em?”. Tôi lắc đầu, cố kìm nước mắt. “Thế con ai đây?” Anh hỏi. Tôi lấy hết sức để nói được một câu: “Anh thử nhìn coi!”. Anh đến gần đứa bé chăm chú nhìn, nhìn thật kỹ nhưng không có chút xao động nào hiện ra trên mặt. Tôi rời rã cả người, cúi gục đầu xuống để khỏi nấc lên… Có lẽ tác động ấy cộng với khuôn mặt nhợt nhạt của tôi đã thức tỉnh anh. Anh ngồi thụp xuống bế lấy đứa bé, ánh mắt chìm đắm trong sự bàng hoàng và xót xa. Khi đó, không cần giấu giếm gì nữa, tôi để mặc cho nước mắt chảy ra… Tôi khóc lâu lắm, khóc như chưa bao giờ được khóc như thế. Khóc đã rồi, tôi nhìn lên và thấy tròng mắt anh cũng đỏ hoe. Khoảnh khắc ấy tôi lại thấy yêu thương anh vô cùng. Người đàn ông đẹp đẽ và dũng cảm kia là chồng tôi, là cha của bé này. Tôi đỡ lấy con trong tay anh rồi ngồi dựa vào vai anh, im lặng. Đó là giờ khắc im lặng ngọt ngào trong cảm giác kỳ lạ của người đang bơi trong hạnh phúc thật sự. Tôi tưởng anh sẽ ôm xiết lấy tôi như lần ấy, sẽ cuống quít hôn lên khắp mặt tôi, nói những lời yêu thương, những lời ân hận… nhưng không, anh vẫn ngồi im như hóa đá. Mãi sau anh mới đỡ tôi đứng dậy, mặt mũi thất thần như vừa vớt ở dưới nước lên. Anh đi lại, vật đầu vật trán, vai so lên, lưng còng xuống trong cái dáng của người đang vật lộn với cái gì ghê gớm lắn. Anh nhìn đồng hồ rồi nhìn ra ngoài nắng với vẻ mặt hết sức bồn chồn. Tôi thu nhận được đầy đủ cái tâm trạng phức tạp đó, cố lấy giọng điềm tĩnh nói:
- Anh đang có việc phải không? Bận, anh cứ đi đi! Lúc khác rảnh, anh về với má con em…
Không ngờ câu nói đó làm anh sụp hẳn xuống, anh gục đầu vào lòng tôi, nói rất khó nhọc:
- Út ơi… Tha thứ cho anh. Nếu anh biết trước được điều này…
- … Em tha thứ cho anh rồi, tha thứ từ lâu.
- Không! - Tiếng anh tắc nghẽn – không phải vậy. Biết nói với em thế nào bây gờ?... Út ơi! Nghe anh nói đây, dù sau đó em có thể căm ghét anh, nguyền rủa anh nhưng anh không thể hèn hạ, không thể dối trá trước má và em- Anh nhìn vào mắt tôi, mặt rung lên dường như thu hết can đảm vào đó – Anh có vợ rồi. Không! Không phải có trước lần gặp em đâu. Mới đây thôi. Anh… Anh không biết…
Chắc cô nghĩ rằng nghe xong tin đó tôi sẽ ngất đi? Đâu có! Ngược lại mới lạ chớ! Tôi bỗng thấy bình tĩnh lạ lùng. Dường như đã chuẩn bị đón trước mọi sự cố có thể xảy ra nên khi nó xảy ra, tôi chỉ nhói đau một cái rồi trở lại bình thường. Hơn nữa, tất cả sự chân thực đến khốn khổ cảu anh đã làm cho tôi có chút hài lòng. Nếu anh tàn nhẫn một chút, trí trá một chút thôi là tôi sẽ cảm thấy anh hoàn toàn không xứng đáng với tình yêu của tôi, với nỗi khổ của tôi, như vậy tôi sẽ phải ân hận suốt đời. Lúc đó tôi chỉ thấy thương anh mà không hề có oán trách gì. Tôi đưa tay vuốt ve tóc anh, khuôn mặt thân thương của anh mà ngầm gửi vào đó sự vĩnh biệt đau đớn. Trước cử chỉ ấy, không hiểu sao anh lại bất thần môm xiết lấy tôi, hôn như mưa vào mặt, vào cổ tôi, điều mà tôi tưởng không bao giừo có được nữa. Anh dụi đầu vào mặt con rất lâu, mặt đứa bé nhòe đi vì nước mắt anh.
- Anh đi đây…. Anh phải đi đây. Út tha thứ cho anh… con tha lỗi cho ba, ba không xứng đáng… Út ơi, anh sẽ gặp má, sẽ quỳ xuống để má trừng phạt anh… anh không xứng đáng...
Anh đi như chạy ra cửa. Nhìn theo bóng anh, tự nhiên lòng dạ tôi dàn trải ra, vơi nhẹ đi nhiều. Thế là vào phút chót, anh ấy đã thương tôi, anh ấy thực sự thương tôi. Thế là đủ, dù cho anh ở đâu, thuộc về người nào. Và rồi đây có còn gặp anh nữa hay thôi. Cô xem, lòng dạ đàn bà chúng mình kỳ cục thế đó. Chỉ cần một phút như vậy là đủ sống cả đời.
- Thế rồi sau đó anh ấy có trở lại không? – Tôi hỏi, thực sự lo lắng cho số phận của chị.
- Không. Anh đi miết cho tới ngày gần đây, một người bạn của anh ấy cho hay anh ấy bị bắt.
Tôi ngồi im, lắng chìm đi trong những điều chị vừa kể. Chỉ cần một câu chuyện ấy thôi, tôi bỗng thấy chị đáng yêu, đáng phục và gần gũi, dễ hiểu với mình biết bao. Còn người đàn ông đẹp đẽ, như lời chị nói ấy chắc phải tốt lắm, trung thực lắm mới đủ sức khiến người đàn bà ngồi cạnh tôi thương yêu đến mức hy sinh nhiều như thế. Tôi chạnh nghĩ đến chống mình. Hình như những người làm cách mạng, những người bị chính quyền săn đuổi, bắt tù, bắt chết đều là những con người đáng yêu, ưu tú như vậy cả. Nghe chuyện chị, tôi cành thấy yêu anh ấy hơn. Giống như chị, tôi sẵn sàng hy sinh tất cả cho anh ấy. Trời ơi! Ít phút nữa là tôi sẽ được nhìn thấy anh, nghe anh nói. Tôi sẽ kể lại câu đe dọa của viên đồn trưởng: “Nếu chồng cô được ra tù, cô sẽ là đồng chí của nó”. Đúng! Nếu anh được ra, nhất định tôi sẽ không để anh lặn lội một mình nữa. Gian nan có nhau, sống chết có vợ có chồng. Tôi thích như thế và tôi tự biết mình dư sức làm được như thế. Tôi sẽ đi cùng đường với anh. Con đường ấy đối với tôi còn rất xa lạ, rất mờ mịt nhưng ba tôi, ba anh ấy, người thương của chị kia và biết bao người khác nữa đang đi, tôi tin con đường ấy đúng, tin con đường ấy phù hợp với tôi. Trước hết, tôi luôn luôn được ở kề bên anh.
Mải nghĩ ngợi lan man, cánh cổng sắt của khám ken két mở ra lúc nào không biết. Cả tôi, cả chị đều hối hả đứng lên, bồng con, dắt díu nhau qua đường. Tốp gác lúc nãy đã đổi, bây giờ thay vào đó là tốp lính khác cau có, lì lợm hơn. Người đi thăm tù ở đâu ùn ùn đến đứng chật cả hè đường, mặt mũi ai cũng bồn chồn, ngơ ngơ ngác ngác rướn cổ chờ gọi đến tên mình. Tôi đứng đằng sau chị, dán mắt vào miệng viên cảnh sát đeo kính trắng tay cầm một tập giấy to, nhỏ khác nhau thứ tự xướng tên những người được vào thăm tù với cái giọng và nét mặt uể oải, khinh bạc. Theo tiếng đọc của hắn, đám đông trước cửa khám vơi đi nhanh chóng, ai cũng muốn nhanh chân để gặp người thân lâu hơn phút nào hay phút ấy. Thoáng chốc chỉ còn lại tôi với chị cùng vài người nữa. Mặc dù đã được trả lời chắc chắn là có anh ở trong đó nhưng bụng tôi vẫn không yên. Tập giấy trên tay người gọi tên còn mỏng quẹt! Ngộ nhỡ… Vừa lúc đó vang lên tiếng gọi:
- Nguyễn Thị Sang! - Dạ… tôi đây ạ!
Chị cuống quýt trả lời, tay chị vơ vội lấy cái làn xách. Mừng cho chị, tôi khẽ đẩy vào vai chị như sợ rằng chậm một chút là cánh cổng sắt kia xập lại mất.
- Chị đi thăm chồng? - Hắn đưa mắt dò xét trên khuôn mặt chị.
- Dạ… không! Người thân thôi - Chị ấp úng trả lời.
- Tên là Trần Hoàng Nhân?
- Dạ…
Cái gì? Tôi choáng váng cả người, không còn tin vào tai mình nữa. Có đúng người ta kêu tên anh ấy không? Trần Hoàng Nhân! Nhưng sao lại là Nguyễn Thị Sang? Phải là Phạm Thị Thanh chớ… Nhưng kìa, người ta đang nhắc lại:
- Chị Nguyễn Thị Sang được phép vào thăm người thân là Trần Hoàng Nhân, nhà giam số 4, xà lim số 2! Lẹ lên.
Đất dưới chân tôi hẫng hụt, phải cố gắng lắm để khỏi ngã ngồi xuống. Mắt tôi hoa lên, bập bềnh khuôn mặt chị: “Tôi vào nghe, cô đi sau!”. Tôi gật đầu theo quán tính và cảm thấy rất rõ ràng trái tim mình đang rã ra từng mảnh… Người ta xướng tên vài người nữa rồi cuối cùng cũng đến tên tôi. Lạ kỳ chưa! Bao lâu nay vất vả long đong để được cái gọi tên này nhưng khi nó đến, tôi lại hết sức dửng dưng. Phạm Thị Thanh!... Tên tôi đó mà nghe xa lạ như tên người khác.
- Chị Phạm Thị Thanh có đây không?
Tai tôi ù đi. Không! Không thể có được. Lúc này không thể có một Phạm Thị Thanh nào hết. Có một Nguyễn Thị Sang đã tới trước với anh ấy rồi. Có là lòng lang dạ sói mới gặp anh lúc này. Mình không phải là phường tranh cướp mặc dù mình có đầy đủ ưu thế để giành giật. Trời! Sao cuộc đời lại trớ trêu dường này!
- Phạm Thị Thanh đâu?
Tôi ghìm mình lại, bằng cách ôm chặt con để không bật lên tiếng trả lời. Như một kẻ ăn trộm, tôi lủi ra khỏi đám người còn lại đi sang đường như chạy trốn tiếng gọi đầy ma lực quyến rũ ấy. Bước chân tôi líu ríu vừa muốn đi tới vừa muốn lùi lại. Đầu óc tôi để hẳn ở phí sau, nơi cái cổng sắt đang còn bỏ ngỏ… Lúc này chắc chị ấy đã gặp anh? Họ nhìn nhau… Họ nói với nhau… và đứa bé có đôi mắt giống anh đang đưa tay về phía trước… Bỗng chốc, ruột gan tôi sôi lên. Tại sao tôi lại không vào nhỉ? Tôi phải vào, phải mắng cho con người bội bạc ấy mấy câu, phải nói thẳng cho người đàn bà bất hạnh kia hay rằng anh ta chẳng bao giờ xứng đáng với những hy sinh mà chị phải chịu cả. Thực ra, đằng sau cái vẻ ngoài hào nhoáng và quyến rũ đó, anh ta chỉ là một con người buông tuồng, giăng hoa, chỉ là một con số không. Trước đây tôi đã từng nghe về anh như thế… Những câu nói xa xôi bóng gió của Nghĩa chợt vẳng bên tai tôi. Biết ngay mà! Thì ra bao lâu nay người ta ngọt nhạt, người ta lừa dối mình tồi tệ như thế đấy! Trời ơi… Trong cái nắng buổi chiều gay gắt báo hiệu cơn dông đang sắp kéo tới, tôi cứ vừa đi vừa khóc. Cát bụi bay mù trời, đường phố tối sầm lại, người xe ngược xuôi hối hả trên đường. Cái tã quấn quanh người con tôi bay phần phật. Sắp mưa to rồi con ơi! Tội nghiệp con, mưa gió thế này mà má lại tha con đi, làm tình làm tội con. Bé bỏng của mẹ ơi! Từ nay con không còn cha nữa... Mưa bất thần ập xuống, ngay từ loạt đầu đã rất nặng hạt. Những hạt mưa to tướng gõ chan chát xuống vỉa hè, reo xoang xoảng trên mái tôn, làm bốc lên những ngọn khói trắng nhạt, bay lơ lửng rồi lại mưa nhận chìm xuống đất. Tôi lạnh run người, vội ôm con chạy tạt vào một mái che gần đó. Thoáng chốc đường phố vắng tanh, chỉ có gió và mưa tung hoành trên mặt đường nhựa. Mưa bay những hạt xiên xiên vào người tôi. Tôi xoay người che gió cho con và cùng với những hạt mưa đang nhẹ dần, đầu óc tôi trở nên quang quẻ và dần dần tỉnh táo lại...
Khi tôi trở về đến nhà ông chú thì trời đã tối mịt. Không ngờ thằng Riềng đã ngồi chờ tôi ở đó khá lâu. Cùng đi với nó còn có một người đàn ông trạc tuổi chồng tôi nhưng to cao, rắn rỏi hơn nhiều, người này có hàm râu quai nón đầy vẻ phong trần và đôi mắt quá sáng, nhìn ai như muốn xuyên thấu tim gan người ấy, riêng cái miệng cười lại hiền khô, phúc hậu, đầy tự tin.
Trời! Gặp nó tôi mừng hết biết, cứ đứng chết trân nhìn em không chớp mắt. Chao! Mới có chưa đầy một năm mà dòm nó đã lớn phổng, già dặn lên nhiều quá! Nó đen hơn, gầy hơn, mắt nhìn điềm tĩnh hơn, có dáng dấp của một người đàn ông vạm vỡ. Nó đứng cao hơn tôi dễ đến một đầu, ôm nó trong tay, tôi có cảm tưởng đang ôm một đứa em nào khác. Tôi lắp bắp:
- Lâu nay em đi dâu, ở đâu? Tội nghiệp! Từ khi má mất, chị không đỡ đần gì được cho em, phó mặc em với đời… Đừng giận chị, tha thứ cho chị nghe Riềng. Nếu em biết rằng chị…
- Chị!... Đừng khóc nữa! Em hiểu cả rồi. Em về với chị đây. Độ này chị ốm quá! Chị vất vả lắm phải không? Vậy mà em cứ đi miết. Chết! Cháu đâu? Cho em xem mặt nó một chút.
Nó chạy ào đến nhấc bổng thằng bé lên, tung tung, hứng hứng khiến con tôi cười toét.
- Vừa chứ em, kẻo cháu lồng ruột.
- Trời ạ! Nó giống anh Hai quá xá! Giống nhất đôi mắt. Cái miệng, cái mũi lại giống chị. Sau này thằng nhỏ bô trai ác đây.
Tôi ngẩn ngơ nhìn hai cậu cháu đùa với nhau. Giá như còn má, còn anh thì... cảnh này vui biết mấy. Thằng em tôi khác xưa nhiều thật, khác cả tính tình. Ngày trước nó lì xì, im như thóc chứ đâu có xởi lởi, biểu hiện tình cảm ồn ào như thế này... Dáng hình nó nhòa dần... nhòa dần đi. Thay vào đó là cái dáng mảnh khảnh của chồng tôi. Anh ấy đang đùa với con... Đang dụi đầu, dụi mặt vào bụng nó! Hai ba con, hai khuôn mặt, hai con mắt giống hệt nhau. Tội nghiệp! Biết đến bao giờ anh mới được chơi với con như thế này. Tôi chớp mắt. Hình ảnh anh biến mất, chỉ còn lại thằng Riềng cao lớn với bộ ngực vồng nở đến muốn bứt cả nút áo.
- Chút nữa quên. Giới thiệu với chị đây là anh Tám, cùng mần việc ở chỗ em, bạn ruột của anh Hai đó - Thằng Riềng quay lại nói với tôi.
Tôi nhìn người đàn ông, gật đầy chào.
- Nghe ông bà đây nói cô xuống Sài Gòn? Có gặp được chú ấy không?
Tôi ngúc ngoắc đầu, nửa ra gật, nửa ra không.
- Chú ấy có được khỏe?
- Dạ... khỏe, anh – Tôi trả lời lấp đi, đánh lảng – Chú thím đi đâu cả rồi, Riềng?
- Chờ chị hoài không được, hai người đi đưa đám tang rồi.
- Tang nhà ai?
- Nhà bà gì ở cuối ấp ấy. Con trai bả bị giết đêm hồi hôm.
- Ai giết?
- Chính quyền. Nghe nói họ kêu con bà là Việt cộng.
Ngực tôi bị bóp mạnh. Mấy năm nay, cứ mỗi lần nghe người bị bắt, bị giết, ngực tôi lại đau dội lên như vậy.
Người đàn ông kín đáo nhìn ra cửa rồi ra hiệu mắt cho Riềng. Nó gật đầu vác ghế ra hiên ngồi hóng gió, cái lưng chầm bầm, che gần khít khung cửa. Người khách ngồi xuống trước mặt tôi, nói chậm rãi, tôi bị thu hút ngay bởi cái giọng rất sâu, được phát ra từ lồng ngực của anh:
- Sắp tới giờ giới nghiêm, chúng tôi không nán lại được lâu. Tôi là bạn của chồng chị, một người bạn hoàn toàn có thể tin cậy được. Chú Hai chẳng may bị bắt, chắc cô nuôi con một mình hết sức vất vả. Vậy tôi đại diện cho những người bạn của chú ấy mang tới đây chút tiền để cô xoay xỏa trong những ngày trước mắt. Vừa nói anh Tám vừa lôi ở trong ngực áo một gói nhỏ bọc giấy nhật trình đưa cho tôi.
- Anh Tám... – Tôi lắc đầu - Mẹ con tôi tuy thế còn xoay xỏa được, lấy của các anh làm gì.
- Đây là quyết nghị của đoàn thể - Anh nghiêm sắc mặt – Xin lỗi. Rồi tới đây cô sẽ hiểu đoàn thể là cái gì, nhưng trước hết cô phải nhận đã. Nuôi con lúc này cũng là trách nhiệm, là nhiệm vụ của cô đối với chồng, đối với bạn bè đồng chí của chú ấy.
Tôi ngồi lặng. Anh Tám đang nói với tôi một điều vừa hệ trọng vừa lạ lẫm: “Trách nhiệm với bạn bè, đồng chí...”. Thế có nghĩa tôi sẽ là đồng chí của anh ư? Đơngiản vậy thôi sao? “Đồng chí”! Hai tiếng đó vang lên nghiêm trang quá, khiến tôi không dám từ chối món tiền ấy nữa.
- Em... Em xin. Cám ơn các anh. Các anh đối xử chu đáo quá.
- Lần tới vào thăm chú ấy, cô nhớ nói chúng tôi có lời hỏi thăm. Mọi việc ở ngoài chú ấy cứ yên tâm, bạn bè sẽ lo liệu xong hết.
- Nhưng...
Nhìn điệu bộ anh Tám điềm đạm và nhân từ quá, một chút nữa tôi đã nói với anh tất cả sự thật rắc rồi về chồng tôi, để xin anh chỉ bảo, song có một cái gì đó kìm giữ tôi lại. Dù sao đó cũng là chuyện riêng giữa hai vợ chồng, chẳng nên nói lại với các bạn của anh ấy làm gì, có khi anh lại bị hiểu sai. Tôi cũng sẽ không nói với ai hết, cả chú thím tôi, cả thằng Riềng. Chợt nghĩ tới Riềng, tôi tò mò hỏi:
- Anh Tám! Thằng Riềng...
- Riềng sao?
- Có phải nó cũng là bạn bè, là đồng chí của anh ấy?
- Tất nhiên. Chuyện dài dòng, chị em sẽ có dịp trò chuyện với nhau sau. Tới đây có gì, tôi sẽ liên lạc với cô qua cậu ấy.
- Liên lạc... Liên lạc gì kia ạ?
- Nếu cô tin chồng cô và tin cậu Riềng như thế nào thì cũng có thể tin tôi như thế. Chúng tôi đang... đi cùng đường với ba cô và không thể để cô đứng ngoài con đường của ông.
- Anh biết ba em?
- Không, nhưng trong chúng tôi có người biết, có người cùng hoạt động với ông già thời chín năm. Chắc cô ngạc nhiên hỏi tại sao tôi có thể cởi mở với cô những điều có thể mất đầu như chơi ấy?
- Em... em...
- Chính vì cô là vợ của Hai Nhân, là con của một chiến sĩ kiên cường và là chị của một cậu em trung thực, dũng cảm. Giấu giếm cô chính là xúc phạm cô, xúc phạm gia đình cô. Thôi cô và cháu ráng giữ gìn sức khỏe. Thời kỳ đen tối không thể kéo dài mãi được đâu.
Anh chụp cái nón vải màu đen lên đầu, trông hệt một chú khách mãi võ Sơn Đông thường qua lại vùng này. Anh thơm thằng bé một cái rồi ra hiệu cho Riềng. Riềng chạy đến bên tôi, gấp gáp:
- Em đi nghe! Ngày mai chị tới em, em có nhiều chuyện cần nói. Tiện thể giỗ đầu má luôn.
- Đã tới ngày đâu?
- Mình cứ làm trước, đúng ngày.. sợ mắc công chuyện.
Nó chạy lại dụi đầu vào bụng đứa bé một lần nữa rồi lao ra cửa, chìm trong bóng tối.
Có cái gì mới mẻ lắm đang tràn vào lòng, hết sức mới mẻ, đến nỗi tôi gần như lãng quên đi câu chuyện hồi sáng với chị Sang. Nhưng có điều tôi rất nhớ: ngay ngày mai phải tìm cách gửi được món tiền này cho chị. Mẹ con chị ấy cần món tiền này hơn tôi. Địa chỉ tôi nhà chị tôi vẫn chưa quên.
Đón tôi ngay ở ngưỡng cửa không phải thằng Riềng mà là cô gái mặt lấm chấm mấy nét rỗ hoa tên là Thu.
- Chị… Chị Hai! Em biết sáng nay thể nào chị cũng tới. Cháu đâu chị?
- Tôi... Tôi gửi thím.
Tôi trả lời mà không giấu được mụt chút lúng túng trước cách xưng hô mới mẻ của Thu.
- Thằng nhỏ em tôi có nhà không?
- Anh xuống suối bắt ít cá. Ảnh nói hồi ở nhà, chị Hai ưng cá lóc nướng trui lắm!
“Ảnh...”. Tôi bắt đầu ngờ ngợ, và chú tâm nhìn Thu. Bữa nay trông Thu khác lắm! Tóc cô chái một lần dầu dừa lật về phía sau khiến cho khuôn mặt trẻ hẳn ra với hàm răng cười trắng bóc, đều xin xít. Một cái áo bà ba trắng cắt khéo, ôm lấy bộ ngực nở nang và đôi vai tròn lẳn. Nhìn tấm thân óng ả, tràn trề sức sống ấy tôi chạnh ước: giá mình cũng được cái sức vóc kia để nuôi con?
- Chị Hai vào nhà đi! – Thu mau mắn cầm tay dẫn tôi qua bậc cửa - Chị Hai ngồi chơi, chút xíu là ảnh về liền à. Em xin phép chạy qua bên nhà một chút.
Thu ngoắt người đi ngay, làm như thể phận sự đón tôi đến đó coi như xong. Còn lại một mình trong căn nhà trống vắng, đồ đạc được dọn đi đâu hết, tôi ngồi im lặng để mặc cho cảm xúc bồi hồi quen thuộc mỗi khi trở lại đây từng đợt dâng lên. Chao ôi! Mới hơn một năm trời chứ có nhiều nhặn gì mà sáng nay ngồi giữa nhà của má, tôi tưởng như cuộc đời mình đã trôi qua biết bao tháng năm dằng dặc. Thấy bát hương trên bàn thờ còn phơ phất khói, tôi đứng dậy đốt mấy nén nhang cắm thêm vào đó, rồi lôi trong làn ra nải chuối, trái bưởi đặt sang bên cạnh. Mùi nhang thơm thoảng lan ra trong ngôi nhà u tịch, đánh thức dậy trong tôi bao nhiêu kỷ niệm xa xưa. Tôi thầm thì: “Má ơi! Bữa nay chị em con trở lại với má đây. Chưa đúng ngày, đúng giờ, nhưng xin má đừng trách. Má có biết không? Từ ngày má đi đến này, hai chị em sống chật vật lắm. Con đã sanh cháu, chồng con đang bị tù, hai mẹ con con những ngày trước mắt chưa biết sống ra sao! Thằng Riềng đã thành người lớn rồi, con cũng đang lo cho nó nhiều lắm! Người ta bảo rằng nó đang đi con đường của ba, người ta cũng nói không thể để con đứng tách ra ngoài con đường ấy. Con phải làm sao đay, má? Con phải quyết định thế nào đây, má? Đã từ lâu con không muốn sống mãi cái cảnh này, không muốn nhìn mãi những thói đời đen bạc ngày ngày diễn ra trước mắt nhưng con sợ, con không biét nghe ai, theo ai? Giờ đây, con đã gặp những người bạn của anh ấy, con có thể quay mặt làm ngơ được không má? Má ơi… chồng con đã có con với người khác! Chuyện này con chỉ nói được với má thôi. Con không trách anh ấy, không trách người đàn bà kia. Tất cả vì hoàn cảnh thôi… Má ơi! Má sống khôn, chết thiêng, má phù hộ cho chị em con tìm được đường ngay lối thẳng mà đi. Bữa này cháu không có đây, con xin thay cháu lạy ngoại ba lạy…”.
- Chị Hai.
Tôi quay lại. Thằng Riềng đã đứng ở phía sau từ lúc nào, đang còn ở trần, nước nhỏ ròng ròng trên bộ ngực vồng nở như đô vật của nó. Thấy mắt tôi ướt, mặt nó cũng rầu rầu.
- Chị Hai! Em thương chị quá!
Có lẽ đây là lần đầu tiên nó nói với tôi một câu ngọt ngào như thế! Tôi kéo nó ngồi xuống, lấy tay vuốt vuốt mớ tóc rẽ tre sũng nước của nó. Nó ngoan ngoãn ngồi im, miệng mỉm cười. Lúc này đây, thằng em trai khỏe mạnh cường tráng này đối với tôi vẫn là thằng Riềng bé bỏng, bì xì như ngày xưa.
- Sau lần ấy em đi đâu?
- Em chạy tuốt luốt tới Sài Gòn. Vào nhà ông già anh Tám, trèo lên gác xép nằm mọp cả chục ngày liền. Sau thấy im mới trở về.
- Làm sao em chạy?
- Em bị chúng nó rượt cùng với anh Hai.
- Anh Hai...
- Dạ... chị hỏi, em nói thiệt luôn. Chính anh Hai đưa em vào tổ chức đó. Thoạt đầu anh hỏi: “Riềng có ưng cuộc sống này không?”. Em trả lời: “Chán thấy bà”. “Riềng có nhớ ba không?” “Đã dòm thấy mặt lần nào mà nhớ” “Nhưng Riềng có thích ba, có tự hào vì ba không?” “Thích chớ, tự hào chớ! Có ông già ruột oánh Tây khét tiếng, ai không thích” “Vậy Riềng có muốn làm như ba không?” “Làm như ba là làm sao?” “Oánh bọn ác chạy có cờ” “Làm liền” “Nhưng cực lắm, nguy hiểm nữa, phải rất chịu chơi” “Vậy thì ngon rồi! Anh Hai trao việc tới đi”. Thế là em thành “Việt Cộng”.
- Tệ lắm! Sao em không nói với chị một câu? Không tin chị à?
- Đây có! Anh Hai dặn đó. Anh nói, chị còn đang yếu, lại quá vất vả, đừng cho chị hay vội, sợ chị lo nghĩ mang bệnh. Anh Hai thương chị lắm, lúc nào cũng nhắc hoài tới chị.
- Thương ư?... Ngực tôi lại khẽ nhói lên. Thương… Thương đến nỗi có con với cả người khác! Một chút nữa tôi để bật ra cái giọng chua chát ấy. - Thế làm sao mà hai anh em để đến nỗi bị săn rượt? – Tôi hỏi át đi cái tiếng nói bên trong của mình.
- Rủi quá! Bữa ấy lại đụng chính thằng Quang.
- Quang đồn trưởng?
- Hình như nó biết anh Hai thường có mặt ở sở Cao Su Dầu Tiếng nên cho người theo dõi gắt lắm. Em với anh Hai vừa xuống xe, chưa kịp gặp mấy người cơ sở thì tụi nó ập tới liền. Em lẹ chân phóng qua sông chạy thoát, tưởng anh Hai chạy theo nhưng lúc quay lại đã mất hút bóng anh ấy rồi. Sau hỏi ra thì đáng lẽ anh ấy cũng chẳng làm sao, trong người không có tại liệu, vũ khí, nhưng thằng Quang cứ cho bắt. Nó buộc tội anh là thường xuyên lén lút liên hệ với nhóm phiến loạn ở Dầu Tiếng, đã có người chỉ điểm đàng hoàng. Nhưng có người lại nói, nó kiên quyết bắt anh vì tư thù gì đó chưa ai rõ.
- Tư thù? – Tôi chợt giật mình, chợt nghĩ đến hôm gặp nó lần vừa rồi. Chả lẽ chỉ vì mình mà nó lại có thể làm tàng đến thế.
- Nhưng không có chứng cớ cụ thể nên nó không chém đầu anh ngay được, đành phải lập hồ sơ giả dẫn đi hết nhà lao này sang nhà lao khác.
- Anh Hai đang ở khám Chí Hòa, em biết chưa?
- Biết! Cơ sở bên trong cho hay anh Hai chịu đòn giỏi lắm, đánh thế nào cũng không nói một lời. Chính vì thế mà anh Tám cho em được trở lại đây.
- Anh Tám là thế nào với anh Hai?
- Thượng cấp đó. Anh Tám giỏi lắm chị ơi! Lúc đóng vai người này, lúc đóng vai người khác, biến hóa thần thông, võ nghệ siêu quần, tiếng Anh, tiếng Pháp biết hết. Chúng nó treo giải anh một trăm ngàn đồng mà chịu đó.
Tôi suýt phì cười vì cái cách ca ngợi anh Tám của nó. Rút cục, thằng Riềng em tôi vẫn chỉ là một chú bé to xác. Có lẽ do từ thần phục anh Tám mà nó đi theo cách mạng.
- Suối bữa nay không có cá à?
- Có chớ! Nhiều nữa là khác.
- Đâu? Chị thấy em về tay không.
- Mang cho Thu làm rồi. Hôm nay cô ấy giúp em làm mâm cơm giỗ má.
Vậy là tôi đoán trúng. Dứt khoát giữa hai người đã có gì với nhau.
- Thương rồi phải không? – Tôi hỏi.
- Thương ai… Ai thương? – Nó làm ra bộ ngớ ra.
- Chỉ còn hai chị em mà cũng giấu.
- Giấu gì đâu – Nó thoắt sượng sùng. Dòm cái mặt đen cháy của nó ngượng, tức cười lắm - Bữa nay mời chị đến đây, vừa để giỗ má vừa để vợ chồng em ra mắt chị.
- Hả, cái gì? Vợ chồng? – Tôi sửng sốt đứng dậy.
- Dạ! Bọn em đã về ở với nhau được mười ngày nay rồi.
- Trời đất! Cứ về ở đại như vậy, không cưới xin, không ăn hỏi gì cả?
- Cuộc đời nay sống mai chết, rùm beng làm gì chị. Cốt là thương nhau thật lòng, còn mọi chuyện khác, vặt vãnh hết. Không gặp được chị, chúng em chỉ soạn mâm cơm, cùng nhau quỳ xuống xin phép má, thế là xong.
Nghe em nói trơn chạy, tôi thoáng tủi. Má mất, chị thay má, vậy mà em lấy vợ, chị cũng không hay biết.
- Nhưng người ta lớn tuổi hơn em, lại có một đời chồng rồi.
- Chẳng hề gì. Hai đời chồng mà thương thì vẫn xong.
Thấy tôi im, Riềng xà xuống ngồi cạnh tôi, giọng nhõng nhẽo:
- Tha lỗi cho em, chị Hai! Chị vừa sanh xong, anh Hai lại đang ở tù, em biết chị mệt lắm nên việc gì có thể tự làm được thì em làm, không muốn chị phải bận bịu thêm.
- Hai người biết nhau hồi nào mà thương lẹ vậy? Tôi nói dỗi.
- Lâu rồi! Từ hồi em theo anh Hai lên Dầu Tiếng lận. Ba của Thu là cơ sở của anh Hai mà.
- Thế đó! Hai anh em nhà cậu rủ nhau đi hoạt động giấu tôi, bây giờ cũng dựng vợ gả chồng cho nhau qua mặt tôi luôn nữa.
- Để em kể tiếp, chị Hai! – Nó say sưa nói lướt đi không thèm để ý đến vẻ mặt hờn trách của tôi – Thu tốt lắm. Thương em lắm! Thỉnh thoảng gặp nhau, thoạt đầu em đâu có để ý. Miết rồi, em thấy đôi mắt cô ấy nhìn em lạ quá! Cứ hoăm hoẳm thế nào ấy. Vừa giống mắt má, vừa giống mắt chị, lại vừa chẳng giống ai hết. Kỳ không? Rồi có dịp là Thu không bỏ lỡ việc chăm sóc em, lo cho em từng bữa cơm, giặt cho em từng bộ quần áo. Nghe em kể chuyện má, chuyện chị. Thu thở dài, có lần Thu còn khóc nữa. Thu bảo đời Thu cũng khổ hơn đời em, rồi Thu khen em thật thà, sống có khí phách, đi ra đường có lắm cô để ý nhưng không bẻm mép như những kẻ khác. (Cái này thì nói quá, làm gì có cô nào để ý tới em). Trước tất cả những cái đó, em vẫn vô tâm, cho rằng cũng cảnh nghèo thương nhau là điều thường. Vả lại, chị ạ, từ ngày theo anh Tám, đời em chắc sẽ toàn gian truân, nguy hiểm, sống chết xảy ra trong một ngày, vướng bận trai gái làm gì cho yếu người đi. Nhưng tối hôm em chạy dạt xuống Sài Gòn, mãi sau này Thu nói lại em mới biết, đêm nào Thu cũng chong đến chờ em đến sáng. (Thu có kể dịp ấy chị có đến đây Thu muốn ôm lấy chị mà không dám). Thu bảo chờ thêm ít ngày nữa, nếu không thấy em về, Thu sẽ khăn gói đi tìm em. Nếu em chẳng may bị tù tội, Thu sẽ bỏ tất cả, bán tất cả để ngày ngày đi thăm nuôi em. Và nếu trường hợp xấu nữa là em chết, Thu sẽ thắp nhang khấn vái cúng em như nghĩa vợ chồng. Vậy mà em không bị bắt, cũng chẳng chết, em lại lù lù hiện về. Lúc đó đã quá nửa đêm rồi. Đang nẫu ruột vì lại phải bước vào gian nhà trống trải đầy hơi hướng của má thì Thu như đã chờ sẵn từ đầu đêm, đột ngột bước vào. Chị biết cô ấy nói cái gì không? Cô ấy mắng em là độc ác, là ích kỷ, là chỉ biết có độc một mình trên đời, là đủ thứ... Em ngớ ra, tưởng mình có lỗi gì hay mang vạ lụy gì cho nhà cô ấy. Đang chưa biết nói năng sao thì Thu chạy về nhà lấy cục xà bông thơm cùng bộ quần áo còn y lần hồ bắt em ra suối tắm. Tắm rửa sạch sẽ về, đã thấy một tô cơm nếp đầy tú ụ, trên đắp mấy miếng thịt heo nhẫy mỡ. Em hỏi: “Hôm nay nhà có giỗ à?” “Giỗ gì mà giỗ. Mười đêm nay, đêm nào cũng nấu sẵn đó” “Thế à?” Em nói và bê ngay lấy tô cơm ăn một lèo hết sạch, bụng vẫn còn thòm thèm. “Còn đói không?” “No rồi”. Em nói dối. “Thế thì đi ngủ đi”. “Chẵn mười đêm”... “Tôi cũng vậy” “Đau bệnh à?” “Ừa, đau đó. Đau đến tận bây giờ đó”. Nói được vậy, tiếng Thu chợt méo đi, bẳn gắt: “Và sẽ đau bệnh đến chết nếu Riềng không về. Được chưa?”. Nói xong, Thu bỏ mặc em đứng đó chạy ù về nhà... Đêm ấy tưởng nằm xuống là ngủ như chết, ngủ bù ba ngày ba đêm liền cho đã nhưng hai mắt em cứ mở thao láo. Em nghĩ đến Thu và dần dần hiểu cả. Sáng sau, mắt còn cay xè, em chạy đến nhà Thu hỏi như cháy nhà: “Ông bà già có nhà không?” “Không! Sao vậy?” Thu nhướng cao lông mày, ngơ ngác nhìn em với hai hốc mắt thâm quầng chắc vì đêm qua cũng không ngủ. “Để tôi xin ba má Thu” “Xin gì?” “Xin cho Thu về làm vợ tôi”. Thu tái mặt đi. “Nè! Tôi không có giỡn đâu nghe!” “Thằng Riềng này mà lại thèm đi giỡn với đàn bà con gái à!”. Thu bậm môi lắc lắc đầu vẻ không tin. Cáu quá, không biết nói sao, em lừ lừ đi tới bế bổng Thu lên tay... Thế là buổi sáng đó chúng em thàh vợ thành chồng. Chị bảo vậy có ngon không?
Tôi im lặng. Còn biết trả lời với nó thế nào. Tôi hiểu tính em tôi. Một khi nó đã quyết làm việc gì, thấy việc gì đúng là chết nó cũng lăn vào. Tính nó cực đoan. Đã ghét ai thì ghét suốt đời, đã yêu ai thì dập vùi thế nào nó vẫn yêu. Vậy là thời gian tôi đi lấy chồng nó đã yêu một người và phục một người. Yêu người này để cuộc sống tình cảm của nó chuyển qua một bước ngoặt mới; Phục người kia để chính nó đã trở thành một chiến sĩ cách mạng. Tôi hiểu đời nó sẽ có biết bao sóng gió đang chờ phía trước nhưng chuyện riêng tư thế cũng ổn. Tôi đâu đã biết gì nhiều về Thu nhưng chỉ nội chuyện nó kể bỗ bã và bằng cảm nhận của giới đàn bà với nhau, tôi hiểu nó đã chọn đúng, cô gái mà thân phận có nhiều ngang trái đó sẽ là người vợ yêu chông yêu con đến hết lòng. Là người chị, sau khi cha mẹ không còn, khônggiúp gì được cho em, tôi còn biết làm gì hơn nữa là thầm chấp nhận, thầm thán phục cái tính cách tự lập của nó.
Tôi hỏi:
- Bọn em tính ở luôn đây?
- Thu muốn vậy lắm vì đây là nhà của má, chúng em sẽ có điều kiện để nhang khói cho má được đều đặn hơn, nhưng em quyết định chuyển ra sát mé sông, dựng chòi ở tạm. Chị đừng hỏi em tại sao? Ý của các anh ấy đó, nhà nằm bên sông sẽ thuận lợi cho công việc tụi em hơn. Chị đừng cản nghe!
Thằng Riềng nói năng với chị nó như nói năng với một người cùng hội cùng thuyền. Có lẽ bằng dòng máu ruột thịt, mặc nhiên nó đã coi tôi như một đồng chí của nó. Quả thật, điều này đã làm cho tôi ấm lòng hơn. Còn gì cô quạnh bằng những ngày này, tôi lại đứng ngoài tất cả, đứng ngoài cuộc sống của chồng, của em tôi. Tôi sẽ là cái gì, sẽ vất vưởng ra sao nếu chỉ tối ngày loay hoay với những bận rộn, với những ẩn ức riêng tư. Thằng Riềng và những đồng chí của nó đã ở ngay cạnh tôi, chỉ cách nhau một dòng suối. Họ đã bắc cho tôi một cây cầu, liệu tôi có dám bước qua không?
Hai chị em ngồi với nhau cho đến khi nắng tràn vào giữa nhà thì Thu xuất hiện với một mâm cơm có chụp lồng bàn trên tay. Tôi nhìn Thu cười. Em dâu tôi cũng cười lại với một chút rụt rè, dò xét. Đã lâu lắm rồi tôi mới lại thấy mình cười được như thế.
*
* *
Chồng tôi đang đứng trước mặt tôi, sau hàng song sắt sơn đen bóng nhẫy những vết tay cầm. Đó là một buổi sáng vẫn u ám, sau một tuần tôi trở về làm giỗ má.
Chúng tôi im lặng nhìn nhau rất lâu. Thầm nói với nhau rất lâu. Nếu bây giờ một trong hai người cất lên một tiếng thì tiếng nói ấy sẽ vô cụng nhợt nhạt, lạc lõng rơi tõm đi đâu. Anh không đến nỗi ốm lắm và cũng không đến nỗi mặt mày thâm tím, áo quần bết máu như tôi tưởng. Chỉ phải nước da anh mét quá, tròng mắt trũng sâu quá! Trong cái hốc mắt sâu tối đó, có hai đốm lửa đang dọi chiếu vào tôi, tỏa sáng. Tôi bị ngợp trong cái nhìn đau đáu yêu thương ấy. Chao ơi! Giá giờ đây tôi được ôm xiết khuôn mặt hốc hác kia vào ngực, được hôn lên hai đốm sáng quen thuộc đó! Tôi sẽ thì thầm nói hết với anh mọi điều sâu kín nhất, cả trách móc, cả giận hờn và cả tha thứ nữa... Nhưng khuôn mặt kia vẫ cách tôi một hàng song sắt lạnh tanh. Cuối cùng rồi hai đốm sáng trong mắt anh cũng nguội đi, cặp môi khô nẻ của mấp máy:
- Con có khỏe không em?
Tôi gật đầu.
- Sao em không mang con đến đây?
Tôi im lặng.
- Em đủ sữa cho con bú không?
Tôi bặm môi lắc lắc đầu. Chả lẽ cách đây ít ngày anh cũng thờ thẫn thế kia, cũng hỏi bằng cái giọng khàn khàn ấy đối với Sang? “Anh có con rồi còn mong con gì nữa?” Tôi chỉ lắc đầu vì tôi sợ bật ra câu nói độc địa ấy. Từ trong mớ hỗn độn của yêu thương xót xa, của ghen tuông giận dữ, của những tình cảm đan chéo nhau, trào lên vô cớ, tôi thực lòng không muốn làm khổ anh thêm, mặc dù qua song sắt nhà lao, với tất cả nỗi lòng của người vợ trẻ, tôi muốn giáng cho anh những đòn phũ phàng về sự thật để trong phút giây ngắn ngủi tôi có thể thỏa mãn được cái tức tối ngấm ngầm không làm sao dập tắt nổi hoàn toàn. Nhưng không! Tôi vẫn bậm môi im lặng. Con người đang đứng trước mặt tôi kia chắc chỉ cần một lời như thế là đủ để gục ngã, không bao giờ gượng dậy được nữa.
- Em ốm đi nhiều. Chắc mẹ con em sống vất vả lắm phải không?
- Em không còn ở với chú nữa – Tôi buộc phải nói sự thật này và cũng để có chuyện mà nói.
- Anh biết! Nghĩa đã nói với anh rồi... Thương em, thương con không đêm nào anh ngủ được! Anh đi tù không đúng lúc chút nào, không đỡ đần gì được cho em, lại còn bắt em đi thăm cực nhọc. Thanh ơi! Em đi lần này thôi, lần sau đừng đi nữa, có gì anh sẽ nhắn về. Không có tang chứng gì, chắc người ta không thể giam giữ anh lâu nữa đâu.
Anh ấy thật lòng thương vợ con hay không muốn mình đến đây nữa vì sợ đụng người ta? Hay giành cho con người bất hạnh kia được độc quyền thăm hỏi? Tôi sầm mặt xuống thấy lòng dạ lạnh lùng, trống rỗng hẳn đi. Tiếng giày người cai ngục gõ đều đều như tiếng động bồn chồn của kim đồng hồ? Tiếng chuyện trò, khóc lóc ồn ã của những gia đình đi thăm tù ở xung quanh chẳng còn làm tôi nao lòng sốt ruột nữa. Thế thôi, còn gì để nói với anh nữa. Trước khi đến đây tôi đã cố nâng mình lên để cao thượng, để vị tha, để chỉ có yêu thương, nhưng cái ý thức kia cứ từng lúc lại kéo chìm tôi xuống, dính nhằng đến tê dại, nó gàn dở nằm ngoài ý muốn của tôi.
- Thanh... sao em không nhìn anh? - Giọng chồng tôi khổ não - Cực thế nào anh chịu được, chết anh cũng coi thường, nhưng phải nhìn thấy nét mặt của em như thế này, anh đau lắm! Anh có tội gì với em? Anh để ý từ lúc đầu đến giờ em có gì không vui? Em tránh nhìn vào mắt anh?
Tôi nhìn thẳng vào mắt anh. Đôi mắt ấy chân thực quá! Không nỡ... Tôi lắc đầu nói lảng đi:
- Anh Tám và cậu Riềng hỏi thăm anh. Cả hai vẫn mạnh giỏi.
- Em gặp anh Tám? – Khuôn mặt anh sáng lên.
- Anh ấy... – Tôi nhỏ giọng – nói anh cứ giữ vững tinh thần. Anh em ở ngoài rất phục anh. Anh Tám có đưa cho má con em một ít tiền nói là của bạn bè anh gửi giúp.
- Trời! Anh ấy bao giờ cũng chu đáo như vậy! Em về nói dùm với anh Tám là trước sau anh thế nào vẫn như thế. Thà chết chứ không bán đứng anh em bè bạn đâu.
Anh đột ngột im lặng. Viên cai ngục lặng lẽ đi qua. Đến giữa phòng, hắn che một cái ngáp, thông báo:
- Hết giờ! Sắp hết giờ!
Tôi bỗng nhiên bối rối hẳn lên. Đến lúc này mới thấy tiếc đã bỏ uổng mấy phút ngắn ngủi ở bên anh. Tôi nói vội:
- Anh Nhân... Đừng nghĩ gì cả. Em vẫn là vợ anh, em yêu anh. Dù thế nào em cũng chờ anh... Em sẽ mang con đến thăm anh?
Anh nhìn tôi, mắt nhòa đi... Không ngờ ở thời khắc cuối cùng ấy, tôi đã được nghe chính anh nói cái sự thật ấy.
- Cám ơn em... chỉ cần một câu của em như vậy, anh đủ sức để chịu đựng, để vượt lên hết thảy. Anh muốn nói một điều mà không bao giờ anh định nói, nhưng trước em, trước tình yêu tận tụy của em, anh không muốn che giấu điều gì cả, dù là nhỏ nhất. Nói xong, em có thể khinh ghét anh, có thể ruồng bỏ anh, tùy em nhưng anh phải nó. Thanh... trước ngày cưới em, anh... anh đã có con với người khác.
Nói xong câu đó, người anh oải ra, như vừa bơi qua một khúc sông rộng đầy sóng gió, mắt thấp thỏm đợi chờ như mắt con nít vừa làm nên tội. Bỗng dưng tôi thương anh kỳ lạ, lúc này đây sao anh mềm yếu đến thế. Người tôi nhẹ bỗng. Câu thú nhận từ nơi anh đã cất đi khỏi đầu tôi tất cả những tấm tức nặng nề. Thế là anh đã thực lòng với tôi, miễn là anh thực lòng còn mọi cái khác là vô nghĩa hết. Ở đời tôi sợ nhất là sự giả dối, cao ngạo. Và anh, bằng bản chất của mình đã tránh được điều đó. Tôi muốn nói với anh tất cả những nghĩ ngợi ấy, nhưng rút cục tôi chỉ bật lên hai tiếng:
- Em biết!...
- Ê! Hết giờ! Hết giờ!
Vừa lúc viên cai ngục rung chuông om xòm, quát đuổi người nhà tù nhân ra cửa. Anh níu lấy song sắt, giọnglạc đi:
- Em tha thứ cho anh không?
- Em đến với anh như vậy chưa đủ sao?
Tôi chỉ kịp nói vớt lại một câu như thế nhưng cũng đủ thời gian để thấy vầng trán anh dãn ra, thanh thản.
Song, điều tôi cần nói nhất với anh hôm nay mà chưa nói được. Tôi đã quyết định đi theo con đường của anh! Anh có thể vui lên hoặc có thể phản đối nhưng với tôi, cái đó không quan trọng.
Bây giờ thỉnh thoảng có dịp ngồi ngẫm lại, tôi lại chợt vỡ ra một điều: nhiều khi con người ta quyết định xoay chuyển hướng đời của mình chưa hẳn đã do sự tác động của một nguyên cớ cao siêu, một nhận thức đầy đủ và chín muồi, có khi nó chỉ xuất hiện trên một cảm nhận rất nhỏ, rất vụn vặt, thuần túy mang ý nghĩa cảm tính mà thôi. Tôi quyết định dấn thân bởi lẽ tôi muốn có đôi với anh trên mọi nẻo đường, muốn vượt lên mình để duổi kịp anh, để gữ được anh; để một ngày nắng đẹp nào đó, có tôi, có anh, có cả thằng bé được ngồi chung đón gió giữa dòng sông Sài Gòn. Bởi lẽ tôi yêu anh, yêu thằng Riềng, yêu những người bạn chí tình chí nghĩa của anh. Và vừa mới rồi đây, bằng sự thành thực đến khổ sở của anh, anh đã giúp tôi nâng mình lên khỏi bản năng làm vợ, làm mẹ để đứng vào cuộc. Thử hỏi nếu lúc ấy anh không đúng là anh, anh mập mờ trí trá, biết đâu cuộc đời tôi sẽ vì thế mà xoay sang ngả khác, tôi không còn là tôi như bây giờ. Biết đâu... Đó là vẫn vào những ngày cực kỳ đen tối cuối năm 1959 ở vùng quê ảm đạm và kinh hoàng của tôi.
*
* *
Tôi trở về nhà người thím trong tâm trạng khá thanh thản. Con tôi đang được thím cho bú sữa trong bình. Nó chóp chép cái miệng nhỏ xíu vào núm nhựa một cách ngon lành. Quả thật, những ngày gần đây, đi đâu, làm gì, đầu óc dù bận rộn u uất đến mấy, nhưng khi trở về nhìn thấy con là mọi thứ tiêu tan hết, lòng dạ lại mát rượi. Tôi quyết định đặt tên con là Đức. Ba tên Nhân, con tên Đức là hạp rồi. Nhân - Đức. Sớm nay bụng dạ ngổn ngang quá, không kịp hỏi anh về tên con, cứ đặt tên thế này chắc anh không phản đối. Trần Văn Đức hay Trần Hoàng Đức gì đó đều được, miễn là có cái họ của cha để làm khai sanh cho cháu. Lần đầu tiên cầm tờ giấy khai sanh của con, lần đầu tiên cất tiếng gọi: “Đức ơi! Ngủ ngoan đi con!” Đặt tên con xong, nửa đêm tôi ra sân thắp nhang cầu nguyện cho nó mạnh giỏi, chóng lớn, đừng bệnh tật gì mà sau này gặp được nhiều điều may mắn hơn cuộc đời ba má nó. Bầu trời đêm ấy vần vũ, tối đen như mực, tôi thoáng lo cho lời cầu nguyện của mình không lên được tới cao xanh. Tôi trở vào giường ôm con nằm thức luôn đến sáng.
Tôi vẫn không có sữa mặc dù bà thím đã tự tay đi chợ mua chân giò, hạt sen về ninh dừ bắt ăn. Nhà thím nghèo, hai vợ chồng không con nhưng đều đi làm thuê làm mướn nên bữa ăn cũng thanh đạm lắm. Hầu như chỉ có mấy trái dưa leo thái mỏng chấm với mắm nêm hay mắm cà mặn chát. Có tôi, bữa nào thím cũng phải mua thêm chút thịt, chút trứng bày ra một cái đĩa riêng. Thường như thế, tôi đắng miệng không nuốt được, cuối cùng đĩa đồ ăn đó vẫn còn nguyên. Mỗi lần như vậy, thím lại mắng: “Gái đẻ, phải mà ăn đi chớ, làm biếng vậy lăn ra ốm, ai nuôi con cho”. Nghe thím, tôi ráng gắp vài đũa nhưng rồi vẫn không nuốt nổi, miếng ăn cứ nghẹn tắc trong cổ. Tôi khó nuốt không phải vì không thèm. Thèm lắm chứ! Thèm đủ thứ. Đêm nằm nhét bầu vú tong teo vào miệng con, tôi nghĩ đến một tô hủ tiếu có đập trứng húp vào nóng ran đầu lưỡi, nghĩ đến một lát chả lụa cặp bánh mì vàng ươm hay đắp lên một chén xôi dẻo quánh, nghĩ đến cả đĩa bánh sôi nước với những viên bột trắng mọng, mới cắn nhẹ, chất ngọt đã tứa ra tan biến trong miệng... Nhưng tôi không thể quấy rầy chú thím mãi. Đã có lần tôi vô tình nghe được hai người thầm thì bàn bạc về tiêu pha dè xẻn thế nào chứ khéo không cuối tháng đến gạo cũng chẳng có tiền mà đong. Tiền! Tôi se ruột lại! Mấy ngàn bạc cô Nghĩa dúi cho, vài bận đi thăm anh đã hết. Sợi dây chuyền má tôi cho ngày trước, mang đi cầm cũng chỉ đủ mua được chục hộp sữa, ít vải thô khâu tã lót cho cháu. Được cái ông chồng thím tôi rất quý cháu, đi đâu về là xộc vào buồng bế cháu lên tay, nựng chạy khắp xóm. Biết hoàn cảnh tôi, thỉnh thoảng làm được cái gì kiếm ra tiền, ông lại giấu vợ đưa cho tôi. Tôi không nhận, ông lén để dưới chiếu. Phát hiện thấy, tôi trả lại, ông có vẻ buồn. Thằng Riềng bận dựng chòi nên không qua lại được, chỉ có Thu đôi khi tạt vào mang cho tôi lúc thì chục trứng, lúc cặp bánh giò. Nghĩa lâu lắm không thấy lại. Nghe đâu ông chú gửi cô đi Biên Hòa học thêm nghề và đang vướng vào vòng yêu đương mê mệt một anh chàng nhạc sĩ thời danh nào đó. Như vậy tôi chỉ có thể trông vào mình tôi. Lắm lúc túng quá, nói thật, tôi đã có chút hối tiếc khi gửi hết số tiền của anh Tám cho mẹ con Sang mà không giữ lại phần nào cho mình. Nhưng điều đó đọng lại ở tôi không lâu. Tôi tin tôi có thể xoay xỏa được và không rõ tại sao cũng cùng cảnh một mẹ một con cả, nhưng tôi nghĩ rằng mình sẽ can đảm hơn, giàu nghị lực hơn cô gái yếu đuối kia.
Những ngày đi chợ thay má dạo nào đã giúp tôi tìm ra cách kiếm sống. Tất nhiên với hoàn cảnh tôi lúc này, tôi không thể bỏ con, gửi con cho ai để đi chợ ngồi bán bánh trôi nước suốt ngày được. Tôi chỉ có thể nhận bao cám vá víu cho lành lặn tươm tất, nhà chủ trả cho được 10 đồng. Một ngày vá cật lực cũng được 10 cái. Như vậy có 100 đồng trong tay, đủ mua nửa hộp sữa cho con và lít gạo lức cho mẹ. Nhưng rồi cái thứ bao cám đó cũng cạn dần, tôi phải đi khắp làng trên xóm dưới lùng mua những bao cám cũ người ta không dùng đến nữa, mang về tu sửa, đắp cái nọ vào cái kia rồi đem xuống chợ bán đắt lên một chút. Làm như vậy miết thấy chẳng ăn thua tôi bỏ khâu bao, đi tìm mua luôn cám gánh xuống chợ tiêu thụ cho những chủ lò heo. Công việc nặng nhọc nhưng xem ra có vẻ khấm khá hơn, mỗi ngày được một trăm, hai trăm đồng. Một tháng đã có thể để dành ra được chút ít làm vốn. Đến tháng thứ hai, thấy vốn đã tạm đủ, tôi trích ra một ngàn rưởi gửi cho má con Sang. Hai hôm sau, chị bạn mà tôi nhờ gửi mang tiền trả lại, kèm theo một bức thư chữ viết ngoằn ngoèo, hầu hết câu nào cũng sai chính tả:
“Chị ơi!
Chị đừng gửi tiền cho em nữa! Trồng ít luống rau ở trươc cửa, nuôi thêm vài con heo, má con em cũng đủ tiền rau cháo nuôi nhau rồi. Gói tiền lần trước chị gởi đã giúp mẹ con em được rất nhiều. Lần ấy em không biết tiền của ai gửi cả nên để trogn tủ cả tháng không dám tiêu. Hỏi dò mãi mới biết là tiền của chị, em cứ ôm con khóc mãi. Sao ở đời có người lại tốt với em đến thế? Chị ơi!
Em biết chị là ai rồi! Nếu không có người mang tiền của chị đến cho em hôm qua và nếu em không nằng nặc đòi người đó phải nói đôi lời về chị thì biết khinào em mới hiểu chị là ai! Trời ơi! Đáng lẽ chị phải mắng chửi, phải nguyền rủa em thì chị lại cho tiền. Buổi chiều hôm thăm tù ấy, nhìn quanh quất mãi không thấy chị, em đã ngờ ngợ, nhưng bụng không dám tin. Nếu đúng vậy thì sợ quá! Em đã dại dột kể hết mọi chuyện cho chị nghe. Khi biết em với anh ấy là thế nào, chị đã bỏ về phải không? Lần sau đến thăm, chị cũng không hỏi anh ấy lấy một lời về em phải không? Chị tốt với em, chị cao thượng quá! Em chả đáng để chị phải quan tâm đâu. Em mắc cỡ lắm! Mới đây em hay tin chị đang sống rất chật vật, phải đi vá từng cái bao cám để nuôi con, khổ quá! Đáng lý ra em là người phải giúp chị mà chị lại... Em thương chị lắm!
Má em đau mấy tháng nay nên em không thể rời ra một ngày để đi thăm chị. Nhưng nhất định em sẽ đến. Em muốn gặp chị. Gặp để em được quỳ xuống lạy chị, cảm ơn chị và nói với chị một câu thôi. Em sẽ nói là: anh Nhân có phúc lắm mới lấy được người như chị. Chị hoàn toàn xứng đáng với anh ấy. Anh Nhân là của chị, chỉ của một mình chị thôi. Anh ấy yêu chị lắm! Còn em... Em sẽ cố quên, và sau trước gì rồi cũng quên được. Em nói điều này chị có tin hay không thì tùy; em sẽ không bao giờ tìm gặp anh ấy nữa. Chị nói giùm em với anh như vậy. Còn con em... Chị ơi! Em sẽ nuôi dạy nó sau này được như người sanh ra nó, em sẽ nói ông già nó là ai. Và em mong chị cũng coi nó như con. Tội nghiệp nó!
Đầu mùa mưa, nếu má em khỏi, em sẽ mang cháu xuống miệt Năm Căn. Em có người bà con ở đó. Có thể xa xôi, như vậy, em sẽ quên được anh ấy, sẽ khỏi phụ tấm lòng bao dung trời bể của chị...”.
Thư còn viết nhiều nữa, toàn những lời chân thật, đọc buồn đến phát khóc lên, nhưng tôi lại không khóc nổi. Cũng không biết nói lại, biết an ủi người đàn bà không gặp may ấy thế nào. Nước đời khó quá! Ý định lên Bến Cát thăm Sang không thực hiện được, thằng Đức lên cơn sốt phát ban.
Suốt nửa tháng chạy chữa thuốc thang cho con, tôi đã tiêu đến đồng tiền cuối cùng. Khi con khỏi, mẹ lại lăn ra ốm. Mười lăm đêm thức trắng đã hút kiệt sức lực của tôi. Lại mất thêm mười ngày nữa tôi mới gượng dậy được. Suốt mười ngày ấy, thím tôi và bà con lối xóm đã thay nhau bế ẵm, nuôi nấng con tôi. Khi tôi đã có thể bồng con đi lại được từ trong nhà ra ngoài sân, cảm thấy nó nặng hơn, đỏ đắn hơn, tôi chỉ còn biết ứa nước mắt biết ơn cái tình nghĩa làng xóm giành cho tôi. Có lẽ sự cảm nhận sâu xa đó đã giúp tôi sau này vượt lên được mọi hoàn cảnh tưởng như không vượt được giữa trọn lòng thủy chung với cách mạng, với xóm ấp thân yêu.
Khoảng thời gian này cám cũng không còn nữa mà mua. Bao thì bói không ra một cái. Các chủ lò heo đã tung người về sâu từng nhà vơ vét hết. Thế là tôi mất nguồn sinh sống. Theo giới thiệu của ông chú, tôi chỉ còn cách xoay ra làm thiê cho một chủ trại nuôi heo. Thoạt đầu cũng tưởng dễ ăn. Công việc nặng nhọc thật nhưng một ngày cũng kiếm được hơn mười đồng. Ngoài tiền gửi cháu ra, mẹ con ăn tiêu dè xẻn có thể mỗi mỗi tháng bớt ra được chừng 400 đồng để mua đồ đi thăm nuôi chồng. Không có mấy trăm đồng ấy, cả tháng chồng tôi sẽ chỉ có gạo mục với cá thối nhét bụng, tội lắm! Nhưng làm được đúng hai ngày thì tôi bỏ luôn. Người chú hỏi: “Công việc nặng nhọc quá sức phải không”. Tôi đành phải trả lời thật: “Ông chủ trại bắt cháu phải nghỉ đêm ở đó”. Mấy bữa sau, người chú đem ở đâu về được chục ngàn đưa kín cho tôi. “Nghe nói cô định làm bánh ú mang ra chợ bán nhưng không có vốn? Vốn đây! Sau này làm ăn có lãi thì trả, không thì thôi”. Tôi hỏi tiền này chú kiếm đâu ra? Người chú chỉ cười không nói. Tôi đoán tối qua ổng vừa được bạc. Tối nào ông cũng lén vợ đi đánh bạc, tiền được thì ít, tiền thua thì nhiều. Được cái thím tôi chỉ khuyên nhủ nhẹ nhàng, không đập nồi, quăng rế như những bà vợ khác. Cung cách đối xử đó đôi lúc làm chú tôi tỉnh ngộ, nằm lì ngáp vặt ở nhà được vài tối để rồi sau đó lại chứng nào tật ấy. Tôi đem chuyện đó nó với thím. Thím ngớ ra một chút rồi làm bộ chợt nhớ: “Tiền công của ông ấy mấy tháng nay nhà chủ còn mắc nợ, nay trả góp đó mà. Cháu cứ dùng làm vốn mà buôn bán”. Tôi biết ngay là thím nói khác đi để bảo vệ chồng chứ trong thím chắc đã điên lắm! Nhưng tôi không có cớ nào để trả lại món tiền ấy nữa, dù mình là phận con cháu.
Có chục ngàn trong tay, tôi lao luôn xuống chợ mua bột, đường, chén bát, thìa dĩa và, một đôi quang gánh thật dẻo. Nghề làm bánh ú cũng do má tôi truyền cho, phần nào có dễ hơn làm bánh sôi nước nên chỉ nội trong hai ngày, tôi đã có gánh bánh ú chừng vài trăm chiếc thong dong quảy xuống chợ.
Tôi không cần phải có lãi to, thâm tâm tôi chỉ mong mẹ con kiếm đủ tiền sinh sống và một tháng hai bận mua đồ ăn đi thăm chồng. Tạm thời ổn định miếng ăn, tôi sẽ móc ráp với thằng Riềng hoặc tìm gặp các anh để xem tình hình thế nào. Ngày ngày ngồi giữa chợ đông người, vô tình tôi được nghe bao nhiêu chuyện về thời cuộc. Nào là ông Thi đảo chính ông Diệm nhưng không thành, nào là chính quyền ngày càng thẳng tay bắt bớ, chém giết, dòng sông Sài Gòn không ngày nào không có xác người bị chặt đầu, nào là ở vài nơi trong tỉnh đã rục rịch dồn dân vào ấp chiến lược hay những khu trù mật thí điểm có hàng rào gai và trạm gác giáp vòng nay mai sẽ đến vùng này: nào là quốc gia đang tiến hành một chiến dịch quy mô càn rừng, đốt rừng nhằm triệt tận gốc nơi trú ngụ của những người phía bên kia; rồi thiên hạ còn rỉ tai nhau: lòng người hờn uất lắm rồi, sẽ đến lúc không chịu nổi nữa phải tức nước vỡ bờ thôi, ở mấy nơi trên Bến Cát, nửa đêm du kích mò về giết chết những tên ác ôn có nợ máu, v.v... Tôi được nghe nhiều lắm. Xung quanh tôi như có một cái chảo dầu khổng lồ đang sôi sùng sục, nhìn trong mắt người nào cũng thấy những hòn than đang ngún khói trong đó. Tôi sốt ruột quá, muốn bỏ việc vài ngày đến chỗ thằng Riềng hỏi han xem sao, nhưng hiềm một nỗi là không bỏ con mà đi được. Hơn nữa, là vợ Việt cộng nên quanh tôi lúc nào cũng có những con mắt dò la, theo dõi, đi một bước là có người bám theo. Vào thăm chồng, tôi lựa lúc thuận tiện nói ý này với anh, anh cũng chỉ lắc đầu không biết gì hơn. Anh dặn tôi nếu có làm gì phải hết sức thận trọng, phải cân nhắc mọi chuyện thật kỹ càng kẻo chồng bị tù, vợ lại sa bẫy, con để đó không ai nuôi. Tôi biết anh thương con lắm. Hiếm có người cha nào thương con như anh. Chỉ cần tôi nói con vừa đi tướt, vừa ốm dậy, con biếng ăn là mặt anh đã nhăn quắt lại rồi. Có lần thằng bé chấp chới thò tay qua song sắt bập bẹ gọi pa... pa, anh vội chộp lấy bàn tay nhỏ xíu ấy, toàn thân run lên. Thằng bé rụt tay lại, anh như người rơi xuống hố, nước mắt lặng lẽ lăn dài trên gò má. Hình anh ấy xoáy buốt vào đầu tôi mọi lúc mọi nơi, tới nỗi ngồi bán hàng ở giữa chợ mà tôi cứ thấy anh chập chờn hiện ra trước mặt, những giọt nước mắt lăn dài... Giây phút ấy, tôi ao ước vô cùng lại một lần được thấy anh tươi tắn, trẻ trung, ngồi ở hàng tôi, ngồi giữa mọi người chuyện trò sôi nổi như ngày chưa quen nhau. Làm cách nào để sống lại những ngày ấy? Làm cách nào... câu hỏi này càng hối thúc tôi mau mau tìm gặp em tôi, tìm gặp anh Tám.
Ý định này chưa đâu vào đâu thì tôi lại đụng phải những chuyên bực mình. Đến ăn hàng tôi không phải không có những gã đàn ông cà trớn. Số này sáng nào cũng có mặt, ăn thì ít, tào lao tán láo thì nhiều. Họ nhấm nháy nhìn tôi rồi quay ra cười phá lên với nhau. Tôi biết họ đang nói những câu chẳng hay ho gì nên chỉ khép đùi ngồi kín đáo hơn, chẳng buồn để ý. Đại loại là những câu: “Gái một con thuốc ngon nửa điếu... Con nhỏ dòm mái tóc ngon lành quá... Con nhỏ càng nhìn càng đẹp mới thấy mẹ chớ... Như khúc giò vậy mà để ngồi dang nắng, uổng quá! Phải tay tao, tao cho ăn diện, rồi dẫn lên Đà Lạt hả? Tóc buông cho dài ra. Thiếu gì cha tự tử vì em...” Phải lúc khác tôi đã tỏ ra khó chịu hay đỏ mặt, nhưng lúc này, nghe vậy tôi cứ tỉnh khô. Tôi có nhiều việc đau đầu khác phải nghĩ đến. Nhưng trong số đó có một tay khá bặm trợ, dáng người có vẻ dân ăn trắng mặc trơn khiến tôi hơi ngài ngại. Ba buổi sáng liền, hắn gọi liền cả chục cái bánh, chỉ bóc ra để đó không ăn. Xót ruột, tôi hỏi:
- Vậy là làm sao chú Hai?
- Có sao đâu. Bóc chơi cho đã.
- Lần sau tôi không bán cho chú nữa.
- Ủa! Mua bán trả tiền đàng hoàng, tôi bóc bánh chớ có bóc yếm đâu mà cô cự?
Tôi làm thinh, không thèm trả lời. Đêm ấy về tôi mượn bà thím cái kéo tự tay cắt trụi tóc như con trai. Bà thìm vào nhìn thấy mớ tóc của tôi nằm dài dưới đất, giãy lên đành đạch:
- Trời đất quỷ thần ơi! Bộ mày điên rồi sao chớ! Mái tóc đang dài, đang đẹp thế này mà nỡ cắt đi! Thử hỏi cả cái thị xã, cả cái quận Châu Thành này đã có ai có được mớ tóc đẹp như thế chưa?
- Cắt đi cho nó mát, thím! – Tôi nói vui, để mặc người thím cứ đứng đó xuýt xoa, chép miệng hoài.
Nói thì nói vậy nhưng sáng ra, soi mặt xuống giếng, thấy đầu tóc trống lổng, tôi tiếc ngẩn cả người. Tôi chạnh nghĩ đến anh. Lần thăm tới, không thấy mái tóc mà anh hằng nâng niu, chắc anh rầu lắm! Biết sao được. Nếu anh hiểu vì anh, vì con, mà tôi phải hy sinh sắc đẹp, chắc anh cũng không nỡ trách. Sau này, nếu vợ chồng được đoàn tụ, tôi sẽ để cho anh một mái tóc thật dài, thật óng, đẹp hơn cả bây giờ. Còn lúc này... Bên thành giếng, tôi thầm nói với anh như thế. Đã xấu cho xấu luôn! Tôi lục hòm lấy bộ quần áo cũ kỹ nhất, vận vào người. Tôi cũng bỏ luôn đôi dép mềm vào gậm giường, đây xuống chợ bốn, năm cây số, đi đất càng mát chân. Tiện tay, tôi để lại chiếc nón lá lên nóc tủ. Thời buổi này, giữ gìn nước ga trắng chỉ chuốc phiền, cứ đen nhẻm đi lại hay. Sáng hôm sau, với hình dạng tự đổi khác đi như thế, tôi xuống chợ với một vẻ đầy tự tin. Nhưng tôi đã lầm. Thoạt đầu, mấy người đàn ông loại cà trớn sững ra đôi chút, sau đó họ lại tiếp tục tán láo, thậm chí còn tệ hại hơn. Trước những cái hìn chòng chọc của họ, tôi bỗng thấy người cứng ra, không dám cử động nữa. Gần trưa thì cái tay có dáng trơn truội ấy đến. Hắn vẫn thản nhiên gọi cả đĩa bánh, bóc tung ra để đấy không ăn. Rồi hắn cười, bên khóe miệng hở ra một chiếc răng bịt bạc lóa trắng.
- Cô Ba mặc thế này càng đẹp, càng hấp dẫn. Tối nay nếu rảnh cho tôi gặp một chút nghen cô Ba!
Tôi xuống giọng nằn nì, cốt để được yên thân.
- Chú Hai nói gì tội nghiệp tôi chú Hai? Chồng tôi đi tù, mình tôi ở nhà lam lũ nuôi con, chú Hai không thương tình lại còn chọc tôi hoài.
Hắn cười nữa, càng nham nhở hơn:
- Ôi cha! Xấu mặt thì lâu, xấu đầu mấy lát.
Tôi không nhẫn nhục thêm được nữa:
- Thôi, đủ rồi đó! Đã nói vậy mà vẫn không nghe ra. Chú đi đi để tôi còn mần ăn. Tiền bánh của chú từ trước đến nay tôi trả lại hết trọi đây nè.
Tôi xỉa trên đĩa bánh của hắn một nắm tiền àm không cần biết là bao nhiêu nữa. Thằng cha bị bất ngờ kêu á một tiếng rồi có vẻ ngượng với người xung quanh hắn xấn lại trước mặt tôi, mùi nước hoa hay xà bông thơm gì đó phả vào mũi tôi hắc xì. Hắn cười nhạt:
- Cô Ba chơi ngon heng! Được rồi, có giỏi thì đưa hết tiền đây. Đ. mẹ! Vợ một thằng Việt cộng đang tù mọt gông mà còn làm phách! Ông cho cứ là chết già, cũng chẳng thằng nào xớ rớ tới.
Toi hơi chưng hửng vì kiểu phản ứng thô bỉ của gã đàn ông trông có vẻ chữ nghĩa này. Thực ra tôi đã xúc phạm gì hắn lắm đâu. Tôi chỉ... vậy mà hắn rủa tôi, rủa cả chồng tôi. Sự bực dọc từ hồi hôm khi phải cắn răng cắt đi mái tóc, cộng với bao nỗi nhọc nhằn tôi phải gánh chịu bấy lâu nay, lại thêm cái nóng hầm hập phả vào sau gáy, vừa nghe tới chữ “Việt cộng tù mọt gông” là tôi phừng máu, vớ ngay lấy cây đòn gánh nâng ngang người, hét lên:
- Thằng khốn nạn! Có cút xéo đi không!
Chắc bộ dạng tôi lúc ấy dòm dữ dội lắm nên hắn hơi lùi lại, chân vấp phải người bên cạnh chút xíu nữa bổ nhào. Hắn gượng được, chỉ mặt tôi, rít giọng:
- Con **! Rồi mày sẽ có dịp được cầm đòn gánh kiểu ấy nữa. Đ. mẹ!
“Bốp”. Tôi chưa kịp phang cây đòn vào giữa bộ ngực núng nính của hắn thì đột nhiên hắn hộc lên một tiếng, ôm mặt ngã vật ra. Người vừa giáng cho hắn cái tát cực mạnh ấy chưa buông tha, một tay anh ta cầm ngực áo hắn nhấc lên, tay kia giáng tiếp, một cú tát trái nữa làm hắn văng đi vài thước rồi nằm im bất động. Tôi nhận ra đó là thằng Riềng. Nó quay lại, nhìn khắp lượt, mặt lạnh tanh:
- Nào! Còn thằng chó nào dám hỗn hào nữa thì nhào vô! Tao cho nằm húp cát luôn.
Xung quanh im phăng phắc. Đây đó có tiếng xì xào:
- Phải vậy mới được! Ỷ thế quen ông này ông nọ làm tàng.
- Phen này thằng Ba tiệm vàng phải cạch đến già.
- Vàng bạc gì nó. Lấy nê buôn bán để dò la hại người thôi. Phải đánh cho nó bật cái máu chó săn ấy ra.
- Cha! Dòm thằng chả té mới đã chớ. Phim chưởng cũng chỉ đến thế là cùng. Tay nào kia mà mạnh quá ta. Chắc một cao thủ quyền cước đi lang thang?
Gã đàn ông vẫn nằm mọp, chắc vì ngón đòn thì ít mà những lời của thiên hạ đổ lên đầu thì nhiều. Thằng Riềng đến cạnh tôi:
- Về đi chị! Không thèm làm cái nghề bán bánh này nữa. Đưa em gánh cho!
Tôi ngoan ngoãn nghe nó, quẩy gánh bánh lên vai. Đám đông dãn ra nhường lối cho chị em tôi, nhiều cặp mắt thán phục cứ dán dính vào thằng Riềng. Hai chị em đi được một đoạn rồi mà vẫn có tiếng trầm trồ khen ngợi đuổi đằng sau. Tâm trạng tôi vui buồn lẫn lộn. Tôi vừa tự hào có thằng em sức vóc hơn người nhưng lại vừa lo lo. Nếu đúng gã trai lơ kia ăn lương của cảnh sát thì tới đây liệu nó có để cho chị em tôi đượcyên không? Còn thằng Riềng nữa, nó là người của phía bên kia, vì thương chị, nó lộ mặt thế này thật không tiện chút nào. Tôi đã ra một lẽ, tôi hoàn toàn có quyền chống trả tự vệ mà không sợ nghi ngờ, thù oán gì. Một lần nữa, tôi lại thấy cuộc sống này ngột ngạt không thể chịu nổi. Phải làm một cái gì đó, phải đổi thay một cái gì đó may ra mới hòng yên tâm làm lụng nuôi con. Một cái tát, một chiếc đòn gánh văng ra chỉ bõ tức chứ biết rằng chẳng làm nên trò trống gì. Mà tôi cũng thấy lạ cho sự đáo để của mình hồi nãy. Nếu không có thằng Riềng, tôi dám cho thằng cha kia bể ngực lắm. Sau này nhắc lại chuyện đó, có người cho tôi là: “Ngay từ hồi đó, chị đã biểu lộ một bản năng quân sự quyết đoán thật rõ ràng”. Tôi không nghĩ vậy. Hoàn cảnh ấy, bất cứ ai có tự trọng đều sẽ hành động như tôi.
Đến chỗ khuất, tôi đi chậm lại, hỏi:
- Em đi đâu qua đó vậy?
- Em đi tìm chị.
- Có việc gì không? Chị cũng đang mong em.
- Anh Tám muốn gặp chị.
- Anh Tám… ! Anh Tám ở đâu?
- Đang ở chỗ em.
- Gặp có việc gì vậy? – Tôi hồi hộp hỏi nhỏ.
- Không rõ, nhưng chắc có việc cần.
- Gặp ở đâu?
- Bắt đầu tính gặp ở chỗ em, kín đáo lắm, nhưng sau anh Tám thấy chị con mọn đi không được nên anh dặn: chiều mai khi ở chợ về, anh sẽ giả bộ người bắt cá chờ chị ở suối. Chị sẽ dừng lại, rửa chén đĩa, nói chuyện luôn.
Tôi gật đầu, thầm cảm ơn sự chu đáo tinh tế của anh Tám về địa điểm gặp. Riềng chia tay tôi ở cổng ngõ rẽ vào nhà chú thím.
*
* *
Nửa đêm hôm đó, tôi lại nhận thêm một chuyện bực mình nữa vào người.
Buổi chiều, thím tôi ăn mặc khá chỉnh tề nói sẽ đi ăn giỗ một người bà con xã bên, nếu xong sớm thì về, đụng giờ giới nghiêm sẽ ở lại qua đêm. Thím bảo tôi, đưa thằng Đức thím bế đi cho vui nhưng tôi giữ lại với lý do mấy bữa nay cháu thường húng hắng ho. Chờ mãi không thấy chồng về để cùng đi, thím dặn lại: “Tao đi trước đây. Nếu ổng về, mày nói sang ngay! Ngày việc của người ta đâu chỉ có mang mồm đến ăn không làm được. Tao rầu cái ông chú của mày lắm!”.
Nhưng tối hôm ấy, chồng thím không về. Chắc ông lại sa vào đám cờ bạc nào rồi? Nghĩ tội nghiệp cho thím! Nhà đã nghèo, ông chồng lại máu mê đỏ đen, làm lụng đến bao giờ mới mở mày, mở mặt ra được. Có lần vui chuyện, thím thủ thỉ, vẫn là cái giọng bênh che cho chồng: “Ông ấy thực ra cũng đâu có đến nỗi. Tính tình hiền lành, làm ăn chăm chỉ, cả đời không nói nặng với vợ, với bà con lối xóm một câu, ai cũng mến, cũng thương, nhưng chỉ phải cái tật trời gầm ấy. Ông ấy đam mê thứ này cũng là vì tao. Tao không sanh nổi cho ông một đứa con nên ông buồn, lao vào vận rủi may cho khuây. Ông ấy yêu con nít lắm. Nhiều khi nhìn ông lang thang đi bế con hàng xóm, tao buồn nẫu ruột. Đó! Từ ngày có má con mày về đây, thằng nhỏ đã níu giữ chân ông lại khá nhiều…”.
Chờ ông chú đến khuya không thấy, tôi khép hờ cánh cửa ôm con vào mùng. Trằn trọc vì buổi gặp chiều mai với anh Tám, mãi tôi không ngủ được. Đến khi chợp mắt thì ngoài xóm gà đã gáy canh hai. Đêm đó sáng trăng. Trăng lùa qua cửa sổ vào tận giường. Trời lại bức bối. Đi nằm, tôi phải tháo bớt khuy áo cho thoáng mát. Đang thiếp đi, tôi mơ màng cảm thấy có cái gì bò nhột nhạt trên người. Sự nhột nhạt đó tăng lên thành một sức đè nặng. Thường mọi đêm do tâm trí bất thường nên tôi hay bị bóng đè, ú ớ mọt lúc rồi cũng thoát ra được. Lần này cũng vậy, tôi cố đạp chân đạp tay đẩy mình ra khỏi giấc ngủ. Nhưng quái lạ, rõ ràng tôi tỉnh dậy rồi mà cái sức đè kia vẫn ấn xuống. Tôi mở choàng mắt, cố sức bật dậy và kinh ngạc nhận ra cái bóng ấy là ông chú, vừa bị tôi đạp xuống chân giường. Thấy ngực bụng mình lõa lồ dưới trăng, tôi giận sôi người lên, không nói được một câu chỉ trừng trừng nhìn ông chú. Trước cái nhìn đó, ông lồm cồm bò dậy rồi đi giật lùi, miệng lắp bắp: “Tha… tha lỗi cho chú! Chú tỉnh lại rồi… Quả thực chú không định nhưng trăng… Trăng sáng quá… Da thịt trắng quá, chú bị mê đi… cửa lại không đóng… Bỏ qua cho chú…”
Ông chú thui thủi bỏ ra sân ngồi, đầu cúi gục xuống bất động. Tôi trở dậy gài chắc then cửa rồi vật mình nằm xuống, thức luôn đến sáng.
Trời! Cảnh một mẹ một con đi ăn nhờ ở đậu nó khổ thế đó. Đi đâu, làm gì cũng bị khinh rẻ, cũng bị sàm sỡ. Người dưng khả dĩ còn cắn răng mà chịu được, đằng này lại là chỗ ruột thịt thân quen, nhục lắm!
Trời vừa bàng bạc trắng, tôi trở dậy vét hết cả vốn lẫn lãi được gần năm ngàn mang ra sân đưa cho ông:
- Tiền chú cho mượn, tôi xin trả đủ. Tôi cám ơn chú nhưng cũng đừng vì mấy ngàn bạc này mà chú coi thường tôi. Thà bồng côn đi ăn mày còn hơn lụy ơn người khác theo kiểu như vậy.
Người chú nhìn tôi ngơ ngác, cặp mắt đỏ ké chứng tỏ cả đêm qua ông vẫn ngồi nguyên đây và không ngủ. Ông nhăn mặt lại với tất cả vẻ thiểu não mà một người đàn ông có thể có được. Đôi mắt đùng đục ấy nhìn tránh đi:
- Thôi thì cái thằng chú nó khốn nạn thế, cô muốn nói gì thì nói, muốn chửi, muốn xé tan tôi ra từng mảnh cũng được, nhưng cô đừng làm thế, tội lắm.
- Tôi không thể ở đây một giờ nữa, chờ thím về tôi sẽ bồng con đi.
- Đừng… đừng - Mặt ông xa xầm - Đừng bế thằng bé đi. Dù thế nào cũng để nó lại đây. Hai vợ chồng già chán ngắt, không có nó buồn lắm… Thực ra hồi đêm về, tôi cũng tính ghé vào nhìn mặt nó một cái rồi… ai dè! Bà cháu nó đã quen hơi nhau, đừng để bà ấy bơ vơ.
Tôi dịu lại. Những lời chân thật, khổ sở ấy đã khía trúng vào trái tim người mẹ, thuyết phục được tôi. Tôi bế con trở vào phòng, chưa biết tính chuyện đi hay ở ra sao. Vả lại, chiều nay tôi còn cuộc gặp gỡ với anh Tám, chưa thể đi đâu được cả. Tôi kìm mình xuống với ý nghĩ, mọi chuyện dẹp đi đã, mai rồi tính. Nhưng tôi không phải đợi đến sáng mai. Ngay chiều hôm đó đi chợ về, tôi đã được bà thím thông báo: “Chú mày chuyến này đi làm ăn xa rồi. Tận Đất Đỏ lận. Ở đó đất tốt, ruộng nhiều, có thể mần ăn được vài tháng mới hết việc. Ông gửi lời chào má con mày. Thôi, thế cũng xong một việc. Dù sao con người này cũng còn giữ được liêm sỉ. Ông bỏ đi xa để tránh mặt tôi, để tôi ở lại. Tự dưng tôi thấy tội nghiệp ông, thấy mình đối xử với ông có cái gì hơi quá. Cái chuyện dớ dẩn này tôi không bao giờ nói lại với bà thím.