Vừa tỉnh giấc, đã nghe thấy tiếng ủng cao su của ông Chánh ở ngoài hành lang, Trọng vội thu xếp chăn màn, sách vở tài liệu, rồi kéo hai cái bàn trở về vị trí cũ của nó. Tối qua, Trọng vào bệnh viện thăm Nam về muộn, lại tiếp tục đọc, ghi chép và viết đơn xin vào Đảng theo hướng dẫn của ông Chánh, nên tỉnh dậy đã hơn bẩy giờ.
Tay lóc xóc chùm chìa khoá, ông Chánh bước vào cửa, vừa thấy Trọng đã cất tiếng reo:
- A! Trọng! Đêm qua ngủ mát quá nhỉ! Cậu thế mà sướng nhất đấy! Nhà tớ, tiếng là lắp ghép nhưng xa quá, đạp xe rã cả chân. Mà nước nôi đến khổ, gánh suốt.
Sướng nhất! Sướng cái gì khi phải ngủ trên những cái bàn làm việc ghép lại, khi không có một góc riêng tư. Giá như nhà ba gần thì Trọng đã về ở với ba, dẫu rằng như thế thì khổ cả hai cha con vì chật chội quá. Còn ông Chánh, nhất là Hưng, độc thân mà riêng một buồng rộng hăm bẩy mét vuông. Thành phố đang khó khăn về nhà cửa. Ước ao có được một căn buồng như thế như ước ao có được một toà lâu đài. Hưng làm thế nào kiếm được một căn buồng như thế? Chính Hưng tuyên bố: phải biết theo thời thế. Hưng biết mọi cái xấu xa tồi tệ và Hưng chịu uốn mình chấp nhận.
- Nhưng mà bác Chánh ạ, tôi ở ngoài đê là chính, mấy khi ở cơ quan mà cần nhà với cửa.
Trọng đáp vừa thật thà vừa có ý châm biếm.
Ông Chánh quay lại, chỉ nhận ra phần chân thật của anh kỹ sư, tặc lưỡi:
- Cậu nghĩ thế cũng phải. Với lại, Trọng à, cậu nên nghĩ là cậu đang ở thời kỳ phấn đấu...
- Thế sau thời kỳ phấn đấu, được vào Đảng rồi, thì sao?
- Hà hà... cậu chúa là hay lý sự rắc rối... Nhưng cậu nên nhớ là, chính cậu Hưng đã phấn đấu theo cách tôi chỉ bảo nên đã đạt kết quả.
Ông Chánh cười, lờ đi câu trả lời. Phần vì bí, phần vì ông đang bận. Ông còn đang bận kiểm tra dấu ở mấy cái tủ. Con người tay hòm chìa khoá của cơ quan này tính vốn cẩn thận. Tủ nào cũng có khoá, tất nhiên, và khoá nào khi ra về ông cũng lấy giấy bao lại kín mít. Ông bảo: để cho kẻ gian nó có ngó cửa sổ vào nó cũng không biết khoá kiểu gì để chế tạo chìa khoá giả. Tủ khoá chắc chắn rồi ông còn để dấu. Dấu là một mảnh thuỷ tinh, cái kim băng gài rất khéo léo và kín đáo, ở một kẽ hở nào đó; nếu có ai mở tủ thì lệch dấu ngay. Cách này là để đối phó với nội bộ(!).
Cái cử chỉ soát lại dấu yểm ở mấy cái tủ của ông Chánh làm Trọng phật ý, mặc dầu anh đã cố gạt đi. Cũng may, không có sự lệch dấu nào. Và ông Chánh đã bước tới ghé sát Trọng, đột ngột:
- Này cậu Trọng, tôi nói là nói thật mà, các cậu cứ đem ra đàm tiếu là không nên.
- Bác bảo sao?
- Tôi vào thăm ông Nam, ông ấy nói hết với tôi rồi. Ông ấy bảo phải lo nơi ở cho cậu, đừng có giải thích thô sơ như tôi vẫn hay nói, cánh trí thức trẻ nó cười cho. Ông ấy còn góp cho tôi nhiều ý kiến nữa. Nhưng tình thực là thế. Là cái hồi mới tiếp quản thành phố này, hai vợ chồng tôi ở đúng chỉ có sáu mét ca-rê. - Là cái chuồng béc-giê của một thằng quan Tây!
- Đúng thế! Cậu được cơ quan cho ở như thế này là còn sướng chán. à, mà bao giờ cậu định cưới vợ đấy? Tôi biết mặt cô ấy rồi. Tên là Loan nhỉ?
Tôi đến thăm ông cụ cậu, thoáng cái biết ngay là cô ta. Trường túc bất chi lao. Khớ đấy, bốn điểm cộng. Hà hà...
“ Lại một điệp khúc nữa!” Trọng nghĩ vui vui và có ý coi thường ông. Nhưng Trọng đã lầm.
- Này, cậu Trọng - Ông Chánh đã đổi giọng ghé sát hơn mặt Trọng – Mình muốn tâm sự với cậu một tí. Vừa rồi mình đến kiểm tra khúc đê Nhị Lang. Chẳng hiểu thế nào mà các cụ ở cơ sở cứ nhầm mình là ông trưởng ban, còn ông trưởng ban họ lại cứ tưởng là anh văn phòng. Thế có chết cười không chứ!
- Chắc là tại cái cặp da Hưng cho bác mượn.
- Đâu có cặp da. Mà cái chính là tư thế, tác phong. Cậu có thấy không, đi cơ sở, ăn thua trước hết là cái tướng mạo, sau nữa là điệu bộ, cách nói năng. Không nói thì thôi, chứ đã nói là phải dứt khoát, phải làm cho cấp dưới ngớ ra, phải “ chịu thầy” mới được. Thế mới có uy tín mà làm việc, cậu ạ.
- Uy tín là do năng lực, phẩm chất chứ đâu có phải tự tạo ra như cách ấy được.
- Thì đã đành. Nhưng, thủ thuật cũng quan trọng chứ! Mình chỉ tiếc - Ông Chánh gãi gáy – Năng lực mình có hạn. Chứ nếu mình được cái tài như ông Nam thì... á, cậu vào thăm ông Nam rồi chứ. Mình vào chiều qua. Gớm bạn bè ông ấy lắm quá. Chỉ không thấy con gái. Ông này kỵ phụ nữ hay sao! Lạ thật! Ông Nam nghiệp bá đấy, mà sao lận đận đủ mọi bề? Mình như ông ấy mình chẳng chịu ngồi ở chức trưởng phòng đâu. à, mình phải đi tìm mấy tờ báo để gửi vào cho ông ấy đây.
- Bác định vào thăm anh Nam bây giờ à?
- Không! Chốc nữa, có một cậu đeo kính trắng, bạn ông ấy, rẽ vào đây, lấy đem đi. Tay này nghe đâu là bạn học, lại mới đi Nga làm cái phó tiến sĩ về.
Vừa lúc ấy các cô ở tổ đánh máy đã lẹp kẹp guốc dép bước vào phòng. Và Hưng, ôm cái cặp da hấp tấp gần như chạy vào khuôn cửa vừa mở ở đầu phòng đằng kia.
- Chết cha thật! Anh Chánh ơi, anh đang làm gì thế?
- Chào thủ trưởng Hưng - Đang lúi húi ở bàn báo nghe tiếng gọi hớt hải của Hưng, ông Chánh bật ngay dậy rất bất ngờ và sau đó hạ giọng rất khiêm nhường – Tôi đang soạn mấy tờ báo để gửi cho anh Nam mà anh.
- Ông trưởng ban đang giục toáy lên kia kìa. Báo cáo sơ kết, báo cáo khoa học của phòng đâu? Tôi tìm mãi vẫn chưa thấy, không hiểu bố Nam để đâu! Anh giúp tôi một tí. Sao, lại phải gửi báo hàng ngày vào cho ông Nam nữa cơ à!
Hưng đi thẳng đến cái bàn của Nam, loại bàn trưởng phòng, chân có gắn tủ. Ông Chánh vội mở cái tủ đựng tài liệu ở góc phòng. Chưa bao giờ Hưng lại tỏ ra sốt sắng đến như thế: Hay là Hưng được giao trách nhiệm thay thế Nam và giữa Hưng và ông Chánh đã hình thành một mối quan hệ mới mẻ? Ông Chánh chả vừa tâng Hưng lên vị trí thủ trưởng đó thôi!
- Anh Chánh đã thấy chưa? Bố Nam này luộm thuộm thiếu khoa học và hồ đồ không chịu được – Hưng lục ngăn kéo, mở tủ, lôi ra các cặp giấy, bới lộn – Quái lạ, chẳng thấy đâu là thế nào! Hừ, bản thảo Lịch sử đê điều. Tổng kết về các hiện tượng nứt đê. Cách sử lý kè sụt... Vớ vẩn!
Trọng đưa mắt nhìn Hưng, chợt rực lên một ý nghĩ, lại cố dìm đi. Chẳng lẽ người ta lại có thể trở nên đê tiện một cách nhanh chóng đến như thế. Vả lại, vụ vỡ cống Lợi Toàn thì đã rõ ràng như ban ngày rồi, làm sao lấp liếm được!
Ông Tiếu đã tới, đang bô bô bên tổ máy chữ. Lại chuyện con mèo tam thể bị mất, nồi áp suất dầy năm ly và lương chuyên viên hai. Trọng xếp tài liệu, sách vở, cái áo mưa vào túi bạt. Ông Chánh vừa sang, kéo ghế, ngồi xuống, vừa lục đống tài liệu của Nam vừa thì thào cái gì đó với Hưng. Trọng thần mặt nghĩ mung lung. Còn mấy việc phải làm xong để mai đi cơ sở. Tìm thêm một số tài liệu cho anh Nam. Gặp Loan, nói vài lời. Đến thư viện. Đưa đơn cho ông Chánh, phó bí thư.
Ông Chánh vừa đứng dậy, Trọng liền bước tới, chìa cái phong bì, mặt đỏ rân rân, lí nhí.
- Bao giờ cậu lên đường - Ông Chánh nhận cái phong bì đựng lá đơn của Trọng, hất hàm hỏi.
- Sớm mai, tôi đã mua được vé ô tô rồi.
Ông Chánh nhăn mặt, vẻ khó chịu, chắc là vì cách nói thiếu thưa gửi của anh kỹ sư.
Trọng quay về bàn mình. Nhưng, Hưng đã nhổm lên, bất ngờ:
- Này, cậu Trọng. Hoãn lại chuyến đi ít ngày đã.
- Sao thế?
- Tôi phải nắm lại kế hoạch công tác của cậu.
Hưng nói, lạnh lùng. Trọng quay lại, ngây ngây mặt. Sao lại có thể nhanh như thế! Hôm qua Hưng còn là một gã trai hay bông phèng, ăn nói văng mạng và cá mè một lứa với Trọng. Không để ý đến thái độ của Trọng, Hưng điềm nhiên tiếp:
- Chúng ta phải chấn chỉnh lại cách làm việc, không thể để luộm thuộm thế này được!
“ Chắc là Hưng mới được đề bạt.” Trọng nghĩ, cắn môi, nhún nhường:
- Đề tài “ Tìm và diệt tổ mối trong thân đê” anh Nam giao, vả lại tôi đã báo cáo tiến trình công việc với phòng nhiều lần rồi.
- Nhưng mà bây giờ tôi phải nắm lại.
- Thì anh cứ việc tìm hiểu.
- Cậu không thể nói như thế được!
- Anh cũng không nên xúc phạm tới anh Nam.
Hưng nghển cổ, hơi bị bất ngờ:
- A! Xúc phạm! Thế nào là xúc phạm? Mà cậu đã hiểu biết ông Nam đến đâu nào?
- Anh ấy là cấp trên của tôi.
- Đừng nên để tình cảm cá nhân chi phối.
- Tôi duy lý!
- Thế thì cậu nên tìm hiểu cho kỹ ông Nam nhé. Đừng quá hàm hồ. Chúng ta là những người làm công tác khoa học. Tiêu chuẩn cao nhất là sự thật, là chân lý.
- Tôi chỉ sợ anh không chịu được sự thật – Trọng đứng dậy, không vừa, - Và tôi đề nghị không nói sau lưng bạn.
- Tôi nói công khai.
Gay go rồi. Cuộc đấu khẩu có thể trở nên gay gắt. Các cô đánh máy ngừng việc, quay lại, nghe ngóng. Ông Tiễu vừa nhảo đi đâu. Ông Chánh vội chen vào giữa hai cái bàn. Tay ông gõ mạnh cái phong bì có lá đơn của Trọng vào rìa bàn, như đánh nhịp:
- Cậu Trọng! Đừng nóng. Anh Hưng nói thế là có ý đúng đấy. Cậu phải tỉnh táo mới được!
- Tôi tỉnh táo chứ.
- Thế cậu có công nhận là chúng ta phải đưa toàn bộ công việc vào nề nếp không? Anh Nam ốm, ta càng không nên vì thế mà lỏng lẻo ý thức.
- Sao bác lại có thể nói như thế nhỉ? - Trọng gắt – Tôi có công việc của tôi. Đề tài này tôi đang làm. Mà gấp lắm rồi. Mùa lũ đã bắt đầu. Công việc cần mà lại bị cản trở là thế nào.
Ông Chánh ngả người, dang hai tay, cười hề hề:
- Đấy, cậu lại nổi nóng rồi. Ai cản trở cậu? – Rồi hạ giọng xuống một cung bậc, ông tiếp:
- Này, Trọng ơi, nhớ là đang ở thời kỳ phấn đấu nhé. Mà đây lại là nghị quyết liên tịch của phòng và tổ đảng cơ mà!
Trọng ngồi rũ xuống bàn ngay sau câu nói của ông Chánh. Đắc thắng, ông Chánh quay sang phía tổ máy chữ, vang vang:
- Ồ kìa, các cô, dàn nhạc chơi đều đi chứ!
Ba cái máy chữ đổ như mưa rào. Ngoài trời, mưa lắc rắc. Ông Chánh cúi xuống tiếp tục lục đống giấy tờ ở các ngăn tủ của Nam. Hưng lại lôi một ô ngăn kéo, rút ra một chồng tài liệu, cúi xuống ngó nghé, rồi rút tụt cái ngăn kéo không ra, dỗ dỗ xuống sàn gác. Hưng sẽ ngồi ở cái bàn này. Mặt Hưng vẫn cau cau, bực dọc:
- Hừ, cứ đạo đức giả mãi, làm như mình trong sáng, lý tưởng lắm. Thời buổi này làm gì có những chuyện đó!
Chừng như nghe không rõ, ông Chánh ngẩng lên, hai mắt nở to, đón ý:
- Anh bảo gì cơ, anh Hưng?
Hưng hơi nghiến răng:
- Tôi bảo rằng... con người ta, anh quái nào chẳng vụ lợi, không ít thì nhiều. Và nói chung, ai cũng vì mình cả thôi!
- Tôi không hiểu...
- Đấy, ông cứ thử nghĩ về mình xem. Có phải bao giờ ông làm một việc gì, trước hết, ông cũng nghĩ rằng ông được một cái gì nhờ việc đó không?
- Anh nói thế cũng hơi quá. Nhiều khi chỉ là vì tình người, tình đồng chí.
- Thôi cụ ơi, cụ đừng màu mè nữa – Hưng cười nhạt, mỉa mai – Nói thẳng tưng ra là, ví dụ cụ quan tâm săn sóc người nào, trong thâm tâm, thậm chí trong vô thức, cụ cũng mong sẽ được người đó ban lại một cái gì đó, dù cái đó có khi chỉ là chút ít tình cảm tinh thần thôi. Chỗ này phải hết sức duy lý. Chẳng hạn, bố tận tình săn sóc con, chẳng qua cũng là vì sợ nó ốm lâu ốm nặng thì mình sẽ rất khốn nạn. Tình yêu, xét đến nguyên uỷ sâu sa cũng là vậy. Chàng chiếm hữu được nàng. Nàng kiếm được cái gì đó, khoái lạc chẳng hạn, ở chàng. Nghĩa là cũng vụ lợi cả thôi.
Đang giở tài liệu, nghe thấy ý tưởng ấy của Hưng, Trọng gai cả người. Như biểu lộ phản kháng, Trọng cúi mặt xuống bàn. Và ngay lúc ấy đập vào mặt anh là một dòng chữ in đen nhánh trên trang giấy trắng tinh: “ Sông Hồng mùa lũ bốn mươi tám tỉ mét khối nước.”
Cửa buồng bật mở. Ông Tiễu bước vào, mặt mũi phởn phơ, tay giơ cao cái bật lửa mạ kền:
- Ồ, Trọng! Hôm qua ba mày đến chơi nhà tao, cầm lẫn cái bật lửa của tao. Đây, bật lửa của ba mày đây. Há há... phải đánh dấu cái bật lửa của mình lại mới được. Này, các cậu, có biết chuyện gì xẩy ra ngày hôm qua không?
- Cụ ơi, cụ khe khẽ cho một tí, đang giờ làm việc - Ông Chánh nhăn nhó, khổ sở.
Ông Tiễu kéo ghế, trợn mắt, vẫn lớn giọng:
- Chúng mày không biết gì à? Các phòng ban ầm cả lên. Cả cụ trưởng ban cũng biết. Tao vừa ngồi với cụ xong. Không biết gì thật à? Hôm qua, có mấy thằng nhẩy vào sứ quán In-đô-nê-xia để xin di tản.
- Kệ bố chúng nó, cụ ạ - Ông Chánh quàu quặu.
Ông Tiếu nhấc cái điếu, đặt lên bàn, ghé miệng rít thử:
- Mẹc! Đồ ngu! Cơm không ăn lại ăn ***! Bọn này phải chuyên chính! Ruýt ruýt... – à này, me xừ Nam có thể là u lành nhé.- Ruýt ruýt...
Hưng đang xếp dọn giấy tờ, ngẩng lên, Trọng thấy oi ngột quá. Ông Tiếu nói có thể Nam chỉ bị u lành là có ý gì mà ông nháy nháy mắt với Trọng?
*
Mưa gõ đều đều trên mui xe. Chiếc Hải âu ba mươi tư ghế ngồi chật ních. Bao nhiêu người đã được ních vào lòng xe? Năm chục hay bẩy chục? Chả biết, Nhưng cửa sổ nào cũng hai ba người chen chúc chân đặt trong, nửa người thò ra ngoài thành xe, ướt dầm dề. Mưa tức nước oà xuống rồi đột ngột tắt nghỉm, lát sau lại đổ rào rào, như đùa nghịch.
- Mở cửa xe ra không chết ngạt, các ông các bà ơi!
- Sao mà đứng lại lâu thế này, ông tài ơi!
- Bắt buôn lậu! Hôm qua bắt được bốn thằng buôn lậu cũng trên cái xe này. Bốn thằng bốn cái ba lô căng phồng toàn tiền cụ mượt.
Trọng bị ép ở góc trái đuôi xe. May, ở đó còn nhận được hơi gió lọt qua cửa thông gió trên mui xuống. Người kể chuyện bắt buôn lậu đang hào hứng kể lại câu chuyện. Hình như chính anh có tham gia. Kể tỉ mỉ, có cả văn tường thuật lẫn miêu tả. Cái xe ồn ào.
- Khéo nhà xe thông đồng với bọn này, các ông ạ.
- Biết đâu được.
- Hừ, lậu thuế, hàng lậu, tư tưởng lậu...
- Chúng nó kết thành băng, các đồng chí ạ. Bốn thằng này có cả giấy công lệnh, giấy giới thiệu công tác...
Xe đã nổ máy, tiếp tục lăn bánh.
Trong xe hầm hập nóng, lại xóc, Trọng phải áp tay vào thành xe để giữ thăng bằng. Nhưng người cứ rung lắc liên tục. Và óc lộn xộn bao ý nghĩ, rờn rợn, như đang ở cái thời tiết giao điểm của nóng lạnh. Giao thời, thời điểm hỗn độn, khó phân định. Một cuộc sống chen kẽ của bao nhiêu mặt đối lập, gây nên những bứt rứt không nguôi!
Chuyến đi của Trọng chậm lại ba ngày. Ba ngày ấy, Trọng lầm lì không nói một câu, trừ lúc phải báo cáo trước Hưng và ông Chánh kế hoạch đề tài của mình. Hưng đã được đề bạt làm phó phòng. Sự việc xẩy ra dường như nằm trong dự đoán của mọi người. Không ai ngạc nhiên. Hưng là đảng viên; sau Nam, Hưng là ký sư lâu năm nhất ở trong phòng. Hưng vẫn được cấp trên tín nhiệm. Nhưng tiếp nhận chức vụ đó, Hưng lạnh nhạt hẳn với Trọng. Thái độ đó không phải là do yêu cầu của chức vị mới, nó ẩn giấu một cái gì đó rất khó nói. Buồn xiết bao, những ngày đã qua. Căn bệnh ác nghiệt của Nam. Không khí làm việc trong phòng. Cái ngõ 401 với sự uể oải của ba. Ông thợ vẽ quái quỷ. Và Loan, chưa gặp lại được. Loan bấp bênh bên một cái hố sâu thảm hoạ.
Chiếc xe rì rì nặng nhọc bò lên dốc.
Bánh xe gập ghềnh. Mưa rơi thập thõm. Nghe thấy tiếng nước sông cuộn oằng oẵng. Người trong xe nghé ra, kêu nước sông to quá. Ai đó nói về đợt sóng thần vừa xẩy ra ở Thanh Hoá, sóng cao hăm lăm mét, phá vỡ đê, hất cả sà lan hai trăm tấn lên lưng trời. Có tiếng máy bay trực thăng nổ pạch pạch đều đều. Có lẽ là máy bay đi kiểm tra đê. Nghe xa thăm thẳm bập bùng tiếng trống hộ đê.
Vượt qua một đoạn đường nhựa, chiếc xe rẽ vào một con đường đất, ven bờ sông Hồng. Sông Hồng đang đổ nước về. Trọng len ra cửa sổ, ngoái cổ nhìn ra. Ngang trời mênh mông một vùng đỏ rực. Mặt trời sau màn mây đục, loé chói. Tiếng trống thúc hộ đê thùng thình to dần. Lác đác đã thấy cảnh chạy lụt. Ven đê, lụp xụp mấy túp lều lợp lá mía, khói bốc mù mù. Mấy con lợn gầy buộc ở chân cọc lều ngẩng lên, rít đòi ăn. Phía xa, một đám người túm tụm. Cái điếm canh đê làng Nguyên Lộc vàng khè trong nắng. Giữa dòng chảy chìm nổi bập bềnh một dẻo đất xanh om cây lá hình con thoi dài thượt.
Chiếc xe bỗng phanh đánh két trước một cái barie. Trọng cố lách ra cửa xe. Tiện quá, đây là khúc đê anh cần đến. Ô tô đỗ bất thường, phải xuống ngay, không lên bến lại phải đi ngược lại hai cây số. Trong xe người đang lục đục chen ra.
Một người đàn ông đứng ở cạnh cái barie, giơ lá cờ đỏ nhỏ, hét:
- Ai cho ô tô đi đường này? Rẽ lối kia. Lui đi. Người ta đang chết dở, sống dở đây. Yêu cầu lùi xe!
Trọng nhẩy xuống đất cùng với mấy người nữa. Khúc đê cong như một cái vai cầy đang ùn ùn người.
- Chuyện gì đấy, bác ơi?
- Vỡ cống, nước ngập gần một nghìn mẫu lúa!
Trọng chạy lên, chen vào đám đông. Đám đông đang đứng vây quanh một cái cống vỡ nắp, xuyên qua thân đê. ồn ào cãi cọ. Thì ra đêm qua, thủ cống ngại mưa không đi kiểm tra, nằm nhà ngủ khoèo, sáng nay dậy thì ôi thôi, cửa cống không đóng, cả mảng đất trên cống đã bị nước phá toang. Giờ, nước chảy phăm phăm như ngựa lồng. “ Chết thôi, đúng vào ngày mình bị Hưng giữ lại cơ quan”. Trọng nghĩ, rực lên một cơn đau uất.
Một người đàn ông to ngang, da ngăm đen, đội mũ lưỡi trai vừa lội xuống nước ướt rượt, quay lên khoát tay:
- Tội ai, kiểm điểm sau. Bây giờ phải đóng kè trước cửa cống để ngăn nước. Đội xung kích đâu. Chuyển gỗ, tre, đá, đất đến đi. Cần mười người nhẩy xuống chặn dòng nước. Cô Thuận lo hộ tôi. Các đồng chí ở bãi Soi đâu?
Đám đông người toả ra, chộn rộn.
Trọng chạy theo một dòng người đi vác tre. Vác được một bó cọc đến, anh đã thấy gần chục người ngâm mình dưới nước, sát vào nhau thành một hình vòng cung trước cửa cống. Đứng ở gần bờ là một cô gái mặt tròn, tóc vấn trần ướt đẫm. Trọng nhận ra cô và những người xung quanh.
“ Nhanh tay lên!” Trọng tự giục mình, chạy trở lại cái điếm vác tiếp bó cọc tre. Chiếc ô tô khách bắt đầu nổ máy giật lui. Bỗng phía mái đê trong đồng có tiếng nhiều người la:
- Ối giời ơi, có mấy vòi nước phun, các ông ơi!
- Có phải nước rịn không? Cụ Ruân đâu nhỉ?
- Chỗ này Mỹ nó thả bom phá, bom bi đấy
- Chết thôi, vòi phun bằng bắp tay rồi, các anh ơi!
Trọng chạy lại chỗ có tiếng la. Tất cả những day dứt, bực bội khổ đau của mấy ngày qua đều tan biến. Vô nghĩa lý quá, vớ vẩn quá, tất cả những chuyện tủn mủn, nhố nhăng trong cuộc đời. Ba cái vòi nước từ thân đê đang phun kia cũng đủ cuốn phăng đi tất cả. Cái cống vỡ. Nước đã tới lưng đê. Trời vàng vàng. Gió ạt mạnh. Búi tre ở chân đê ngoi ngóp trong sóng nước. Hơi nước bay mù mịt. Mới đầu tháng sáu mà nước đã to thế này thì gay quá!
- Cô Thuận ơi, có anh nhà báo muốn gặp cô.
- Báo cáo anh Ngoạn, không còn một tý đá sỏi nào.
- Sao?
- Không biết ai đã lấy trộm hết.
- Khốn nạn thế cơ à!
Xung quanh Trọng, ồn ào, lộn xộn tiếng người la thét, cáu gắt, chửi mắng.
Chiếc ô tô khách đã giật lui. Bánh nó quay rẹp rẹp, thận trọng. Trọng cúi xuống một cái vòi nước. Nước thốc ra có lẫn những mảnh đất màu nâu trắng. Có tổ mối rồi. Trọng lạnh buốt sống lưng. Vừa lúc chiếc ô tô rú một tiếng to rồi nghe thấy ầm một cái như đất sụt.
- Ô tô đổ, các đồng chí ơi!
- Ô tô sụt bánh! Ô tô tụt hố, bà con ơi!
Tiếng người kêu thét inh ỏi. Trọng chạy lên. Chiếc ô tô vừa sụt đít xuống một cái hố lớn, mũi nó ngóc trên mặt đất, hai bánh trước hếch cao, còn đang quay quay. Hành khách hốt hoảng, đang chen nhau ra ở hai bên cánh cửa. Trời! Một cái tổ mối khổng lồ dưới mặt đê! Kinh khủng quá!
Người đàn ông đội mũ lưỡi trai chạy lại. Trọng đã nhận ra ông. Ông là đội trưởng đội bảo vệ đê, trực thuộc cơ quan chống bão lụt tỉnh.
- Bình tĩnh! Đội trưởng hét - Đất đá dự trữ đâu? Vét, chuyển về đây. Đồng chí Trọng đấy, hả? Xử lý ngay mấy cái vòi phun. Trên kia cứ lo việc đóng kè đi. Các đồng chí xung kích đâu! Khốn nạn đến thế là cùng! Đá mất! Tre chắn cống bị chặt. Tao phải đem xử bắn hết lũ chúng mày.
Trọng cởi phăng áo ngoài và chiếc quần dài. Dặn hai anh con trai làm giếng gạn đất ba cái vòi phun ở mái đê trong đồng xong, anh chạy xuống mái đê phía bờ sông. Phải lặn xuống tìm đường nước chảy vào tổ mối. Anh nín hơi, ngụp xuống, mặt nước lạnh buốt. Lát sau, anh ngoi lên, hổn hển:
- To bằng cái nón rồi! Lấy cho tôi ít rơm rạ. Nhanh lên, vỡ tổ mối thì nguy!
Trên khúc đê hiểm yếu, một công trường đã hình thành cấp tốc. Ông đội trưởng chạy ra chỗ Trọng vừa ngoi lên. Trọng cắp một nắm rơm lớn ngụp xuống: Anh có cảm giác đang đi vào một thế giới khác, những ngày vừa qua như đã mất tăm bóng hình.
Cho thêm rơm rạ xuống trít lỗ. Trôi hết rồi! Trọng vừa gào, ra lệnh cho chính mình, vừa thở dốc, ngực rát bỏng. Anh lại ôm một búi rơm lớn nữa, nhao xuống nước, không nghe thấy tiếng ông đội trưởng hét ở phía sau: “Trọng không được lặn nữa”. Hai lần như thế. Anh như một kẻ cuồng tín, tử vì đạo. Mọi giác quan đều bị ức chế. Chỉ còn nhớ mỗi một điều: Bằng bất cứ giá nào cũng không được để vỡ đê!
Lặn xuống lần thứ ba, Trọng thấy rất rõ là anh đã đuối sức. Chân tay anh như long ra và người anh sắp tan ra vì sức ép của nước. “ Bốn mươi tám tỉ mét khối nước...”, anh nhớ mang máng, thấy mình chập chờn ở biên giới của hôn mê. Cuối cùng, một sức đẩy từ dưới dội anh lên, óc anh cay nhức. Anh nổi bềnh lên, rồi thoáng cái, thấy mình nổi chìm lơ lửng.
- Trọng! vào bờ!
Loáng thoáng tiếng người đội trưởng. Trọng cố nhoai tay. Không được. Mệt quá, những hạt nước toé lên sắc cầu vồng. Và bờ đê như lùi xa tít. Phản hồi của một đợt sóng ập vào lưng đê hất anh ra xa bờ. Anh nhoai cánh tay. Sao tay anh cứng đờ thế? Anh như một khúc gỗ đang chìm, đang chìm. “ Con người ta anh quái nào mà chẳng vụ lợi...” Anh chợt nhớ đến lời Hưng, thấy cay đắng quá. Và sau đó anh mất hết tri giác.
*
Mở mắt, Trọng nhận biết được nơi anh đang nằm là cái điếm canh trên đê Nguyên Lộc. Ông đội trưởng đã cứu anh, ông ấy là thợ lặn chính tông. Anh biết anh đang sống. Nhưng anh lại chìm vào những đợt sóng mê man mất một lúc lâu nữa và mãi mới quẫy ra khỏi làn bụi nước xanh xám như chiêm bao bọc quanh mình.
- Anh ấy tinh tỉnh rồi, cụ ạ - Anh nghe thấy giọng một người con gái trong và ấm. Rồi giọng một ông cụ khàn rè. Ông cụ nói cái gì đó về ông đội trưởng, về người thủ cống và cái ô tô bị sụt, về cái thời Lý, thời Trần, thời Nguyễn nào đó, luật giữ đê rất nghiêm ngặt, rồi lát sau oang oang kể cho ai đó nghe về lịch sử xóm bãi Soi ngoài kia.
- Chào cụ ạ, chào đồng chí nữ chủ tịch.
- Chào anh nhà báo.
- Cụ còn nhớ cháu không?
- Vụ lũ nào cũng thấy anh, sao mà quên được!
- Cụ ạ, Nguyên Lộc vừa thắng một trận to!
- Thắng gì! Bắn súng không nên phải đền đạn thì có!
- Ta gạt cái bọn sâu mọt đi. Người anh hùng mới là người ta cần nói tới, cụ ạ.
- Ờ, anh nói phải đấy. Dưng mà, cũng phải nêu tên cái đứa hư hỏng ra, anh ạ. Không nghiêm, cái sảy nảy cái ung đấy. Kìa kìa cái tổ mối to tướng. Không tại nó thì sao cái ô tô lại bị sụt? Còn người đáng nêu công tích phải là cái anh này.
- Anh ấy đang mệt, đồng chí nhà báo ạ - Giọng người con gái trĩu xuống, nho nhỏ, rồi đột ngột cao lên - Ô tô ai đến kia nhỉ? Hình như ô tô của ông chủ tịch huyện, cụ Ruân?
Trọng cựa quậy. Tiếng nói của ba người nọ lọt qua một tấm màn đen, đến với anh, nhẹ bẫng. Anh hiểu loáng thoáng. Và anh cố sức vùng dậy. Nhưng anh càng cố vùng dậy thì lại càng bị đè rập xuống; cuối cùng anh không hiểu vì sao những tiếng nói bỗng nhiên tắt lịm cả và xung quanh anh đen ngòm như đêm tối.
Trọng tỉnh dậy lần sau chậm chạp hơn. Anh mở mắt, nhận thức dần dần xung quanh, cố duỗi chân tay, đổi thế nằm và thấy khoan khoái như vừa qua một giấc ngủ ngon. Thể lực của anh đã hồi phục, chỉ còn lại chút dư chấn của cơn mệt mỏi, một chút tê tê, moi mỏi thú vị ở khớp đầu gối, khớp vai.
Nắng sáng choang ngoài đê. Xung quanh vắng vẻ quá. Không một tiếng người. Nước sông đã rút và hình như trận chiến đấu chống bọn thuỷ quái đã xong một chương. Trời trong sáng yên bình, nắng rải từng làn mỏng manh lấp lánh, càng xa càng ao ảo. Nằm nghiêng, mắt Trọng vuốt dài theo con đê. Con đê xanh rờn hai bờ xoải mãi ra, kéo căng cái nhìn của anh. Phía trong đồng, những làng xóm xanh om từng khối. Những thôn xóm có tre xanh bao bọc, lô xô hàng cau giống nhau cách lạ. Ôi! Những làng quê Việt Nam lâu bền như những hằng số lịch sử, trong nắng sáng, êm ả, yên lành chiều nay đang hướng về con đê, người bạn, người lính canh tận tuỵ của mình, với tấm lòng trân trọng và biết ơn. Những làng quê Việt Nam ấy, dẫu không sinh ra ở đó mà sao Trọng vẫn rung động khi nhìn thấy nó; giữa anh và nó cùng dòng sông kia, dường như đã có sự cộng cảm từ rất lâu rồi.
Nước đã rút. Con sông Hồng lấp lánh. Nó đã chảy như thế hàng chục vạn năm, đó là dòng thuỷ lộ cường tráng chảy xuyên qua nền văn minh của người Việt, tổ tiên anh. Anh đang ở đúng cái nôi của một nền văn hoá lớn. Và từ lâu rồi, anh đã hiểu, tổ tiên anh đã định cư rất sớm ở nơi đây, họ đã kế tiếp nhau sáng tạo nên một nền văn minh lớn, sánh ngang với bất cứ nền văn minh lớn nào thế giới.
Đất nước, ngay từ những ngày có tên gọi Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Việt tưởng là còn sơ khai, non yểu mà thực sự đã hùng cường và văn vẻ. Giặc phương Bắc và thuỷ quái, hai kẻ thù đã đe doạ người Việt ngay khi dân tộc này mới trụ lại ở nơi đây và trong những ngày làm việc ở tuyến đê này, đích thân đổ mồ hôi, công sức cho cuộc bảo vệ đê, anh mới hiểu điều ai đó đã nói một cách thật hình tượng: Phủ đổng Thiên Vương và truyện Sơn Tinh – Thuỷ Tinh là đôi câu đối đẹp nhất của ngôi đền lịch sử dân tộc mình.
*
- Chào anh Trọng. Anh đã tỉnh rồi ạ.
Trọng quay lại. Anh phóng viên còn trẻ, đẹp trai, miệng rộng, cười rất tươi, cổ lủng lẳng cái máy ảnh, đã đứng ở trước mặt anh.
- Tôi là phóng viên của báo tỉnh đảng bộ. Tôi muốn viết về anh.
- Tôi... thì có gì đáng viết.
- Theo chỗ tôi hiểu, chúng ta đã viết nhiều về cuộc chiến đấu đánh giặc phong kiến phương Bắc. Anh có thấy thành phố dạo này nở rộ những “Dương Vân Nga”, “Hai Bà Trưng”, “ Trần Quốc Toản ra quân”, “Áo hồng
ra trận”, “ Bạch Đằng giang nổi sóng” không? Nhưng thật là thiếu sót nếu quên việc đánh giặc thuỷ tai. Giữ nước và xây dựng nước là hai việc song song, là nét đỏ thắm xuyên suốt qua cuộc đời bao thế hệ người Việt chúng ta, anh Trọng à!
“ A, anh ta hiểu biết và ăn nói xứng danh là một anh nhà báo”. Trọng thấy có thiện cảm với người nọ. Nhận ngay ra mình đã chiếm cảm tình của đối tượng, một đối tượng hóc búa, những anh chàng tri thức trẻ rất ít khi chịu nói về mình, nếu như anh không gây được lòng tin với anh ta, anh phóng viên ngồi xuống cạnh Trọng, tiếp luôn một tràng:
- Theo chỗ hiểu biết của tôi, dân tộc ta đứng vững, tồn tại, phát triển được là nhờ vào con đê. Đất nước màu mỡ, phì nhiêu, nhưng lại gần rốn bão. Anh nghĩ xem, lũ lụt, gió bão có thể quét sạch dân tộc ta ra khỏi dải đất này quá đi chứ. Vì vậy tôi nghĩ rằng những con đê Việt Nam, ấy là nỏ thần Kim Quy đánh giặc thuỷ quái. Con đê Việt Nam là sức mạnh hợp quần của cộng đồng dân tộc, là tư duy lớn của người Việt ta thời mới dựng nước.
Trọng cười:
- Anh hiểu biết hơn bọn cán bộ chuyên môn chúng tôi rồi đấy. Hôm nọ có một ông trí thức nửa mùa bảo tôi rằng, dân tộc ta là một dân tộc ba lăng nhăng, chẳng có một công trình gì gọi là đáng kể.
Anh nhà báo ngả người trên thảm cỏ, cười khục khục trong cổ họng:
- Tôi làm báo, gặp loại người vong bản ấy vô thiên lủng. Đối với cái lão anh vừa nói ấy mà, cần nói với lão ta thế này. Người Hà Lan thường nói: Chúa trời tạo ra tất cả, trừ đất nước Hà Lan. Người Hà Lan đã đắp ba nghìn cây số đê bao quanh vùng biển, giành từ tay biển một triệu bảy mươi vạn héc- ta. Còn người Việt ta có tới bốn nghìn tám trăm chín mươi hai ki-lô mét đê, tức là gấp 1,6 lần đê Hà Lan, mà là đắp trong điều kiện thủ công, thô sơ và một tay còn phải cầm giáo mác chống thằng giặc bành trướng ở phương Bắc.
- Anh quả là một con người đọc nhiều và có trí nhớ tốt.
- Bắt tay ông!
Anh nhà báo cười, chành môi, phô hàm răng trắng sáng. Cái hàng rào thủ tục đã vượt qua, họ đã trở thành một đôi bạn.
- Ông không hút thuốc à?
- Thỉnh thoảng.
- Thế ông đích thị là dân thành phố?
- Đẻ ở đấy, gia đình mấy đời đều ở đấy.
- A, mát quá nhỉ. Ta ra đê đi, ngồi trong này làm đếch gì cho nó phí mồ hôi. Này, mình vừa nói chuyện với ông Ngoạn đội trưởng. Ông này mình quen từ hồi ông ấy là thợ lặn, hồi ấy về lặn định cứu cống Lợi Toàn. Tay này rất hay đấy.
- Tôi cũng nghĩ như thế!
Hai người ra bờ đê, tìm một vuông cỏ mọc dày ngồi. Trời đã ngả chiều. Tiếng gà gáy âm ô trên cái bãi soi nổi ở giữa dòng. Chỗ ô tô tụt hố mối đã lấp đầy. Kè phía ngoài cống đã đắp xong. Chiều bằng lặng, khói thuốc lá bung lên, đứng vẩn vơ rất lâu mới tan.
Chợt thấy một bóng người đi vào điếm canh rồi lại quay ra, anh nhà báo hích vào sườn Trọng:
- Ông biết ai không?
- Cô Thuận.
- Khá đấy chứ?
- Anh có viết thì viết về cô ta.
Anh nhà báo vứt mẩu thuốc lá, nghển lên, lắc đầu:
- Chưa đủ! Chưa đủ!
- Sao?
- Cái này ông có ở trong nghề của chúng tôi ông mới hiểu nổi, ông Trọng ạ - Anh nhà báo cười thành thực – Hành động, nhưng còn phải có tư tưởng, tâm hồn. Cái đó tôi chưa tìm được. Trời, một cuộc sống không có tâm hồn, ông có sợ không? Tôi chán nhất là sự trống rỗng, vô vị...
Trọng ngả người trên thảm cỏ. Bứt một ngọn cỏ, anh đưa lên miệng. Cỏ có mùi chua chua ngòn ngọt. Cỏ có mùi vị và lợp hai bên sườn đê, cỏ như một tấm lòng từ thiện, dịu dàng.
- Anh có sợ tính vụ lợi không? - Đột ngột Trọng ngẩng lên, hỏi.
Người phóng viên quay lại:
- Sao tự dưng ông lại hỏi vậy?
- Không xa đề tài anh muốn tôi nói đâu. Một chỗ đê đắp cao lên, chỗ ấy an toàn. Nhưng sẽ dâng nước chỗ khác. Kia kìa, giống như cái bãi Soi, nó cản dòng nước.
- Hay! Một lý tưởng lý thú. Ông nói tiếp đi!
- Nếu anh đã đọc lịch sử đê điều thì anh có thể tìm được một dẫn chứng tuyệt hay về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
- A! Mình nhớ... một nhà sử học nước ta có nói thế này: Chống giặc không thể chỉ bằng luỹ tre bao bọc làng xã. Mà quan trọng hơn là tạo được một thế trận điệp trùng. Từ nhu cầu cuộc sống mà dân tộc ta nẩy sinh ý thức, tình cảm về cái chung rộng lớn. Cái chung trở thành một giá trị chiến lược của văn hoá Việt Nam. Không thể sống trái với giá trị ấy!
- Sự phát triển của con đê Việt Nam cũng là thế, anh ạ - Trọng nói, tiếp nối cảm hứng khi mới tỉnh dậy – Anh biết rồi đấy, nhưng tôi cũng cứ xin nhắc lại, cho câu chuyện có đầu có cuối. Thoạt kỳ thuỷ, có thể nêu giả thuyết thế này. Từ thời lập quốc cho đến thời Hai Bà Trưng, việc chống lũ trị thuỷ chưa hẳn đã trở thành một yêu cầu gắt gao lấm của đời sống dân ta. Dân số nước ta lúc đó chỉ ngót nghét triệu người mà làm chủ cả vùng đồng bằng, miền Trung du, rộng một triệu héc-ta, thêm vài chục vạn héc-ta nữa của miền Trung, tới tận đèo Ngang, thì chỉ cần chọn những nơi đất cao và cấy trồng một vụ lúa chiêm cũng đủ sống dư dật rồi. Tất nhiên vấn đề là ở cây lúa nước. Chỗ thấp mới có nước. Xuống thấp canh tác thì gặp lão Thuỷ Tinh hung tợn cứ đến vụ mùa là mò vào. Nhưng tình hình trở nên gay gắt hơn khi đất nước đã phát triển. Thời Lý, dân số vọt lên tám triệu và thời Trần không thể ít hơn mười hai triệu. ấy thế. Con người không bao giờ thoả mãn với cái tự nhiên cung cấp cho họ, dành cho họ ở dạng sẵn có. Con người tạo nên những cái không có trong tự nhiên. Vậy là do nhu cầu mà con người phải tìm những vùng đất mới ở dưới thấp và vấn đề là phải giữ được nước, ngăn được nước thì mới có thể trồng lúa được. Thế là có bờ. Từ cái bờ nhỏ bé tiến lên những con bờ vùng rộng hơn, rồi tiến lên những con đê vùng. Đê vùng! Như con đê trên sông Như Nguyệt, con đê Cơ Xá đắp thời Lý, từ Chèm về tới Yên Duyên, bảo vệ kinh đô Thăng Long; chính đó là những con đê vùng đấy anh ạ.
- Hay lắm! Tôi đã bắt đầu hiểu cái tư tưởng anh định trình bày rồi đấy.
Anh nhà báo xuýt xoa. Trọng gật đầu, tiếp:
- Đê vùng giữ nước an toàn một vùng rộng, nhưng nó lại là một mối hiểm nguy cho một vùng đất khác. Đơn giản thôi, đê vùng càng cao, tốc độ thoát nước càng chậm. Thực tế ấy làm cho người Việt ta nhận ra một điều: cũng như đánh giặc, việc chống lụt không phải là việc riêng rẽ của từng xã, từng huyện được. Muốn đánh thắng Thuỷ Tinh, đê phải đắp từ đầu nguồn ra biển. Và thế là một quan niệm cao cả đã xuất hiện. Anh thông cảm với tôi chưa? Tư tưởng về một chỉnh thể thống nhất trong đấu tranh, bảo vệ và dựng xây Tổ quốc là kết quả của thực tiễn, là tình cảm đùm bọc giống nòi có tính truyền thống, là bước trưởng thành của tư duy khoa học Việt Nam vốn gắn bó sâu sắc với cuộc đời.
- Một tư tưởng rất tuyệt!
- Đúng như thế.
- Vậy là phải làm lại từ đâu?
- Không! Một con đê chung, đê của cả quốc gia đã ra đời, nó dựa vào các đê vùng, nó nối các đê vùng lại thành một mạch liền, gia cố thêm, cao thêm, vì đê vùng xưa chỉ cần cao hơn mặt ruộng một, hai mét là đủ, còn con đê mới này phải chống với cả dòng sông lớn. Chống với cả dòng sông lớn! Anh cứ ngắm khúc đê chạy qua Nguyên Lộc đây làm ví dụ. Là đê vùng đấy mà không phải chỉ là đê vùng. Nó vừa là nó, vừa không phải là nó.
- Vấn đề lý thú đấy!
- Nó đã biến đổi cả về lượng và về chất. Nó có trách nhiệm lớn hơn, một trách nhiệm chung. Như khúc đê này, nó phải chống với cả một khối nước khổng lồ, bốn mươi tám tỉ mét khối nước, khi mùa lũ về.
Trọng bứt một ngọn cỏ, đứng dậy. Anh đã diễn đạt được cái ý tưởng cần phải diễn đạt chưa? Tựu trung, anh là nhà khoa học tự nhiên nhưng bao giờ cũng muốn vượt ra khỏi bộ môn, đi tới cái điểm chót tận cùng những tư tưởng triết học của nó.
Người phóng viên bị Trọng hấp dẫn, đứng lên theo Trọng. Trời xâm xẩm tối. Phía biển, nằng nặng mây đen.
- Cám ơn đồng chí Trọng nhé!
Người phóng viên nói. Trọng nhìn gương mặt hân hoan phản ánh một nội tâm vừa loé sáng niềm yêu thích của anh.
- Tôi cứ nghĩ: Cuộc đấu tranh trên những con đê có cái gì đó gần gũi lắm với đời sống hiện nay.
- Tôi hiểu ý ông. Ông muốn nói đến những cái mà ta gọi gộp lại là tiêu cực hiện nay?
- Cũng không hẳn!
- Những cái ngăn trở cuộc sống chân chính, cản bước đi lên của chúng ta.
- Có lẽ khái niệm như vậy hợp hơn. Tất cả chúng đều là bất hợp pháp, bất hợp lý và không hợp tình. Nhưng chúng nhỏ nhoi, yếu hèn thôi, ông ạ.
- Nghe ông nói, tôi thấy ông có vẻ như là... đứng ở ngoài cuộc.
- Đâu có... Trọng lắc đầu, ngượng nghịu.
Người phóng viên sôi nổi:
- Vậy chống nó bằng cách nào?
- Đó không phải đề tài tôi để tâm nghiên cứu – Trọng gãi gáy. Tôi mới chỉ có vài ý niệm sơ sài. Tôi nghĩ, trước hết là sự trong sáng, tự giác của những con người ý thức được vai trò chủ thể của mình.
- Rất tán thành ý kiến ông! Xin giới thiệu với ông, tôi tốt nghiệp Tổng hợp Văn, sau đó năm năm lặn lội Trường Sơn. Chúng ta có thể tự hào rằng, chúng ta là con đẻ chính tông của thời kỳ lớn lao này được chứ?
Hai người thốt im lặng. Trong đồng cảm, những ý nghĩ thật hào hùng, tráng lệ sôi thầm trong họ và cả hai đều muốn giữ chúng để chúng toả sáng ở trong mình.
Phía điếm canh lại thấp thoáng bóng người. Rồi từ phía đó có tiếng gọi Trọng. Gió đã nổi, tiếng gọi bị tạt đi xuống mặt sông.
Người phóng viên nắm tay Trọng.
- Anh đi ngay à?- Trọng hỏi.
Hai người nắm tay nhau. Anh phóng viên xiết chặt tay Trọng. Anh đã nắm được cái cốt lõi tâm hồn ở nhân vật này.
- Khoảng nửa tháng nữa tôi sẽ quay về đây.
- Lúc nào anh về thành phố, tôi nhờ anh gửi lá thư.
*
Nguyên Lộc, ngày... tháng... Loan thân mến!
Thư này anh viết cho Loan tại một điếm canh đê. Và mưa đang rơi, nước sông lại bắt đầu lên, ở trạm thuỷ văn đo được lưu lượng dòng chảy là 27.000 mét khối một giây.
Ở trên đê lúc này mới thấy hết tính chất gay go, quyết liệt của công cuộc chiến đấu chống lũ lụt. Thương con đê xiết bao! Loan cứ thử hình dung xem: nó chỉ là đất; đất, thứ vật liệu rất bình thường, thậm chí tầm thường đâu đâu cũng có được đầm nén lại mà thôi. Vậy mà nó phải chống chọi với sức công phá của một dòng nước đổ mạnh như thác, tích tụ được toàn bộ lượng mưa rơi trên mặt diện tích lớn gấp mười lần lưu vực của dòng sông.
Cuộc chiến đấu dường như là không cân sức. Một đằng là những dải đất thô sơ, mỏng manh, một bên là một lực lượng tàn phá vốn đã vô cùng to lớn lại có thể tăng lên bất ngờ. Lúc này đây, ngày cũng như đêm, con đê phải chịu đựng một áp suất lớn thường xuyên, nó kiên gan, và hiểu rằng, sau một mùa khô nghỉ ngơi, bây giờ nó đã bắt đầu phải làm việc. Loan ơi! Nó làm việc một cách âm thầm, nó dùng tất cả gân cốt và nêu cao đức xả thân để hoàn thành trách nhiệm. Thật thế đấy, Loan à. Khó có một mặt trận nào có chiến tuyến nào có độ dài hàng nghìn ki-lô- mét như ở đây và cũng hiếm thấy chiến dịch nào dài hàng bốn năm tháng như vậy. Dòng dã mấy tháng liền, con đê vào cuộc chiến đấu, một cuộc chiến đấu đầy bất công vì nó chỉ quyền được tự vệ, còn kẻ thù thì gần như giành được ưu quyền tuyệt đối là thoả sức tấn công. Con đê chỉ được giữ vai trò ngăn chặn, vả chăng nó cũng như một lực lượng giữ gìn an ninh, ra đời vì trên thế gian này còn có những kẻ đầy dã tâm, độc địa! Anh ví thế, Loan có rõ ý anh không?
Vậy là đê đã nhẫn nại, bền bỉ chống lại kẻ thù. Nó giới hạn sự điên khùng của kẻ thù. Nó buộc kẻ thù phải nản chí. Nó dùng cả tấm thân mình để đẩy lui kẻ thù. Nó biết rằng, nó mà lui thì chính bản thân nó cũng bị tiêu diệt: chẳng những thế mà tất cả những gì nó bảo vệ cũng sẽ bị tiêu tan. Loan hiểu không, cả những cong trình mà chúng ta muôn ngàn lần yêu quý đã và đang được dựng xây cũng nằm trong vòng tay bảo vệ của con đê đó, em à. Đê hiểu xứ mạng thiêng liêng của mình. Và chúng ta muôn ngàn lần anh và em, đúng là phải cúi đầu cảm ơn con đê giản dị, quen thân một nét xanh mờ, mềm mại, mà kiên cường, khí phách, hiên ngang!
Tuy nhiên, đê không cô độc trong cuộc chiến đấu này. Đê là của người, người lo cho đê, kể từ lúc đê vào thời ngơi nghỉ. Trong những giờ phút gian nguy, khốn khó, người hợp thành một đạo quân đông đảo, giăng trận tuyến chiều dài với đủ các binh chủng: trinh sát, cảnh giới, tham mưu, xung kích, hậu cần, kỹ thuật, với đủ các phương án tác chiến của tiền tuyến, của hậu phương, với đủ các lực lượng: trung ương, tại chỗ, thủ công, cơ giới, có mặt trận chính, mặt trận phụ, điểm xung yếu, hệt như trong chiến trận với kẻ thù dân tộc ở cuộc kháng chiến vừa qua, em à.
Thật là một cuộc hợp đồng chiến đấu tuyệt đẹp. Từ con người là chủ thể lịch sử, tới cỏ cây, tre nứa, sắt thép, máy móc vô tri, Loan à. Cả dân tộc và sản vật của đất nước được huy động vào trận. Và anh nghĩ, cuộc chiến đấu hào hùng này đích thực là cuộc đấu tranh của văn minh, văn hoá chống lại bạo tàn, ngu muội, từ trong cảm hứng sâu xa đến ý nghĩa thực tiễn của nó, Loan ơi.
Loan thương nhớ.
Xét cả trong trường kỳ lịch sử và toàn cục, trong cuộc chiến đấu, đê không bao giờ thua cuộc. Chiến thắng, đó là giai điệu của thiên anh hùng ca này. Đó cũng chính là âm hưởng mạnh mẽ của huyền thoại Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, một huyền thoại có máu thịt, tâm hồn mỗi người Việt chúng ta. Bao giờ, vào mùa này, ở trên mặt đê, anh cũng cảm thấy mình, đắm chìm trong cái không khí hết sức lãng mạn, hào hùng, có lẽ chính là vì vậy, Loan ạ.
Tuy nhiên, em hiểu đấy, làm sao có thể có được một chiến thắng dễ dàng. Hệt như những cuộc đọ sức giữa người và người, trận đánh lũ thuỷ quái không phải bao giờ cũng là thắng lợi tuyệt đối. Sự nghiệp đã nhiều phen đắm chìm. Trên hàng nghìn cây số chiều dài, đã có những khúc đê tử thương. Và bên tai chúng ta còn văng vẳng nỗi kinh hoàng về cơn hồng thuỷ quái ác từ các thế hệ trước truyền lại.
Quai mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi. Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi. Gạo dăm ba bát cơ còn kém. Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi. (*) Tý trước tý này chục lẻ ba. Thuận dòng nước cũ lại bao la. Bóng thuyền thấp thoáng giờn trên vách. Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.(1) Bèo nổi lênh đênh đầu nội sạch. Lúa chìm thăm thẳm cánh đồng không. (2)
Phải đứng trên đê vào mùa này và mắt đã nhìn thấy cảnh ngập lụt vùng đồng chiêm một chiều nào đó, đưa tầm mắt ra xa bao la thấy những mái nhà úp sụp nhấp nhô trong sóng nước, hàng chuối đổ trôi dật dờ, mới đo lường hết nỗi ai oán trong những câu thơ buồn tủi ấy của Tam Nguyên Yên Đổ. Anh đã khóc khi đọc những câu thơ ấy, như em đã khóc thương cô bé Cô-dét và nàng Giên E-rơ.
Vỡ đê! Niềm kinh dị lưu truyền, ám ảnh trong tâm hồn dân tộc, đến nỗi có những lúc con người như bị đẩy vào cơn dao động, cõi mông lung, cảm thấy hoang mang bất lực như đứng trước định mệnh. Đến nỗi, nhà Nguyễn đã có lúc phải đưa ra trưng cầu ý dân: nên bỏ đê sông Hồng hay là cứ đắp? Đến nỗi, vua Tự Đức đã có lúc ngửa mặt lên trời mà than: Hồng Thuỷ là tai nạn trời làm, sức người yếu đuối sao mà ngăn nổi! Cả đến Nóc-măng-đanh, giám đốc Sở trị thuỷ Bắc Kỳ hồi trước – một tay công trình sư có hạng – cũng phải thốt lên thật bế tắc: “ Đắp đê thì không vững. Phá đê thì mất mùa. Trồng rừng thì không có tiềm lực. Đào sông mới thì đắt quá. Sức người không chống lại được!”
Đê đã vỡ liên tục ở nhiều đoạn xung yếu. Thời Pháp thuộc bình quân cứ hai năm là một lần đê vỡ. Biên niên sử của nghề bọn anh còn ghi lại được những chương thê thảm, những trận thuỷ tai gây tàn phá kinh hoàng có thể sánh được với những cơn hồng thuỷ thời cổ đại.
Năm 1915, có lẽ vẫn còn trong ký ức nhiều bậc cha mẹ chúng ta. Mùa lũ ấy, bốn quãng đê vỡ. Nước sông đổ vào Nam Định, Hà Nam, Phủ Lý, Ninh Bình, ngâm bốn tỉnh trong bốn tháng, suốt từ tháng bảy cho đến hết tháng mười. Hơn bốn mươi tỷ khối nước vào đồng. Không còn sự sống. Không còn một công trình của con người. Bốn tháng trời, ngập trong nước, tan biến hết cả quá khứ và hiện tại.
Lũ 1926. Vỡ đê Lâm Du, năm 1937 ngập bốn nhăm vạn héc-ta đồng ruộng. Năm 1945, vỡ đê sông Hồng khi nước ở mức 11m30, ba mươi sáu vạn héc-ta đồng bằng Bắc Bộ chìm trong nước...
Thật là kinh khủng!
Loan thương yêu, có thể là anh quá xúc động, nhưng thực chất của sự kiện với toàn bộ thảm hoạ sâu xa của nó là thế, không thể hiểu khác đi được.
Lúc này, ngày và đêm anh cùng nhiều người đang có mặt trên khúc đê này. Lòng anh chẳng khi nào ngớt lo âu. Anh chỉ phụ trách phần kỹ thuật ở một khúc đê hai cây số – hai cây số trong một nghìn bảy trăm cây số đê đại hà. Nhưng nó lại là một trong những đoạn đê hiểm yếu nhất. Rồi ra có lẽ phải đắp lại. Còn bây giờ, quái ác quá, dòng chảy từ bao năm nay cứ đâm thẳng vào thân đê. Giặc Mỹ đã ném bom phá, bom bi ở khúc đê này. Nó đã vỡ hai lần. Vừa rồi lại suýt vỡ vì một cái cống quên đóng cửa và mấy cái tổ mối.
Đây chính là một trong bốn quãng đê vỡ năm 1915 anh đã nói ở trên. Trận vỡ đê ấy, nghe cụ Ruân trưởng điếm canh đê ở đây kể lại, mà cũng đã thấy ghê cả người. Hôm đó nhân dân đang áp trúc mái ngoài bằng đất sét và đắp con chạch ngang đường vào làng thì thấy mái trong có vòi nước phun rồi thình lình nổ ục một cái. Chỉ vài phút, chỗ vỡ phá rộng ra hàng trăm mét. Một khối nước khổng lồ có chiều cao sáu mét đổ thốc vào đồng. Dân chúng kinh hoảng bỏ chạy tán loạn. Nước đuổi theo. Hoạ vô đơn chí. Mấy phút sau, một khúc khác, cách chỗ vỡ bốn mươi mét, sập như một bức tường đổ. Nước thốc tháo đổ qua hai chỗ vỡ. Trên đoạn đê còn lại giữa hai chỗ vỡ còn đứng mười lăm người đang kêu trời. Khiếp quá! ( May, đoạn ấy có khối đá mỏ hàn nên tuần sau những người này được cứu sống, số người ấy nay chỉ còn cụ Ruân). Thê thảm quá! Cho đến lúc hàn khẩu được, nước đã vào đồng hơn sáu triệu mét khối. Mất sạch. Dân sống trên mặt đê bốn tháng ròng. Và thành phố của chúng ta, lần vỡ đê ấy, các đường phố ngập ngụa bốn tháng liền.
Thành phố của chúng ta! Đêm đêm anh vẫn nhìn về thành phố, anh vẫn thấy cái vầng sáng hồng hào, khoẻ mạnh của nó, và anh nghĩ: anh đang có mặt ở nơi đây cũng chính là bảo vệ nó. Thiêng liêng lắm chứ, Loan nhỉ! Và cũng đẹp đẽ, cao thượng lắm chứ, có phải không, em? Anh cảm thấy gắn bó với công việc vất vả, lầm lội này một phần cũng vì vậy đó, Loan ơi. Anh thích vẻ đẹp hùng tráng, lớn lao. Anh không ưa sự tầm thường, cạn hẹp. ở đây, trong công việc, và có lẽ ở đâu có cuộc sống, ở trong mỗi người, đều như vậy, chúng ta đều phải đối mặt với cái xấu trong mỗi cử chỉ, hành vi, ngôn ngữ, trong thái độ, trách nhiệm với cuộc sống, trong quan niệm về cuộc đời. Chung quy lại, phần chia ra cao thượng và thấp kém là phụ thuộc vào câu trả lời: Sống vì cái gì? Sống như thế nào? Câu hỏi đã đặt ra và câu trả lời ai cũng phải có! Dẫu muốn hay không, dẫu nói hay im lặng, thì ai cũng phải trả lời. Nhất là trong những ngày khó khăn này; đôi lúc anh có cảm giác ở thành phố người ta trả lời câu hỏi đó không dứt khoát và thoả đáng như ở nông thôn.
Ba anh là một ví dụ. Ông cụ đang bối rối. ở cơ quan anh, cũng rất đáng phàn nàn. Tuy vậy, anh vẫn tin là con người cao quý vẫn còn nhiều. Anh Nam trưởng phòng của anh là một khuôn mẫu mà anh thích. Còn ở đây, nơi anh đang công tác có những con người rất đáng mến. Ông đội trưởng vừa cứu anh khỏi cái chết. Cụ Ruân điếm trưởng. Cô Thuận chủ tịch xã Nguyên Lộc. Anh sẽ kể em nghe về cô này trong lá thư sau. Hai mươi ba tuổi. Vợ liệt sĩ. Đứng đầu một xã đang có nhiều khó khăn. Nói riêng trên mặt trận chống lụt, xã này đang mở một cuộc vận động quyết liệt di chuyển một xóm ở ngoài bãi Soi vào trong đê để giải phóng lòng sông. Cô ấy đương đầu với một loạt lề thói thủ cựu, ích kỷ tồi tệ.
Loan ơi, ngày và đêm ở cuộc sống nơi đây, anh dào dạt ước muốn hướng về cái đẹp, sự trong sáng. Anh ước ao, em đã xinh đẹp về nhan sắc, càng đẹp hơn trong tâm hồn, lý tưởng.
Thân yêu
Trọng
Nguyên Lộc ngày... tháng... Ba kính yêu
Hơn một tháng rồi, con vắng thư cho ba. Anh nhà báo đến công tác ở đây đi lên tuyến đê trên hẹn trở về và sẽ đem hộ con lá thư cho ba, nhưng mãi chẳng thấy. Chắc anh ấy lại say người, say cảnh ở một nơi nào đó rồi. Con người này có hiểu biết, mê những tư tưởng đẹp, tâm hồn đẹp lắm, ba ạ. Con nghĩ, rồi chúng con sẽ kết thân với nhau.
Con rất bận, ba ạ. Vì mùa mưa lũ là mùa làm ăn của bọn con. Riêng con, con đang loay hoay với cái công trình dang dở của con. Công việc không cho phép con ngưng nghỉ, vì ngay từ hôm trở về khúc đê này, con đã gặp kẻ thù của con, thật thế ba ạ.
Con đê giữ vai trò quan trọng như thế nào, hiển nhiên là ba biết quá đi rồi, nhưng đời nó đâu có yên lành. ( Chà, nó cũng như con người ấy, ba nhỉ!) Nó có bao kẻ thù – không kể thói cẩu thả, vô trách nhiệm của con người.
Ba biết rồi đấy, thân đê là nơi ẩn nấp của bọn chuột, cầy, cáo; bọn này phá đê với một tốc độ ghê gớm. Nhưng còn một kẻ thù khác, đồng loã, tự nhiên, ghê gớm hơn nhiều. ấy là những con mối. Vào mùa sấm chớp mưa rào, chúng vũ hoá, kết đôi rồi chui vào làm tổ trong thân đê. Chúng phá từ nội tâm đê phá ra. Chúng đục những khoang rỗng thật lớn – có thể làm cho một cái xe buýt to kềnh tụt xuống đáy hố như hôm vừa rồi. Chúng đào cả một hệ thống đường hầm dọc ngang, thậm chí cả đường lấy nước từ sông vào tổ. Chính chúng là kẻ gây ra rò rỉ, thẩm lậu, vòi phun ở mái đê phía trong. Nước sông luồn vào tổ chúng, phá vỡ từng mảng trong thân đê, gây lún sụt, thậm chí, nước vào nhiều, gây áp suất lớn, có thể làm nổ vỡ cả một khúc đê dài.
Ẩn hoạ nằm ngay trong lòng đê. Nó nằm rất kín đáo, thầm lặng, ba à. Những con mối nhỏ bé, trông có vẻ hiền lành, yếu ớt thế mà thật ra lại là loài vi trùng quái ác gây ra căn bệnh ung thư - con muốn nói cái cảm giác ghê rợn thôi, chứ ví thế không hoàn toàn đúng – cho cơ thể con đê. Nói cách khác, tổ mối, chính là một quả bom nổ chậm nằm trong lòng con đê, ba ạ.
Con nhận nghiên cứu đề tài chống mối và thực hiện nó ở ngay khúc đê Nguyên Lộc này, từ khi con chuyển công tác về tỉnh nhà. Công việc thật lý thú, có ý nghĩa nhưng cũng thật gian khổ.
Trước hết, phải làm thế nào để tìm được tung tích chúng? Khó lắm, ba à. Vì trên tuyến đê dài dặc hàng trăm, hàng ngàn cây số làm sao mà có thể xác định được tất cả hang ổ của chúng? Chẳng lẽ đào bới! Đào bới thì hỏng hết đê, mà công sức đâu? Tất nhiên, cùng làm việc này ngoài bọn con ở đây ra, còn có các bộ phận khác. Như là ở Viện kỹ thuật Bộ Thuỷ Lợi, Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật tỉnh... Các anh ấy đã dùng điện một chiều để phát hiện chúng. Dòng điện vào thân đê, khi gặp vật dị thường như cái tổ mối, sẽ tăng điện trở lên. Như vậy có cơ sở để tìm thấy chúng. Nhưng phương pháp này có trở ngại: không phân biệt nổi tổ mối với một khối đá, chẳng hạn. Gần đây, con nhận được thư của anh Nam, anh Nam cho biết: các anh ở Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật tỉnh đang thử nghiệm dùng phương pháp hấp thụ tia ga-ma. Nhưng thôi, đó là việc của các anh ấy. Còn con, con mầy mò đủ kiểu. Con đi tìm chúng ở các gốc cây, bụi cỏ. Ông cụ Ruân và con dùng thuốn sắt đi thuốn những chỗ nghi ngờ. Con đào hố nhử mồi có tẩm thuốc 666, dụ nó ra ăn, rồi theo dõi đường nó về tổ. Con nuôi thử mối để tìm sinh thái của nó. Vừa rồi, con đã theo dõi chúng nó bay giao hoan trước cơn mưa. Con đã tìm thấy những tháp bay chúng xây để sửa soạn vũ hoá. Trong nghề nghiệp, chúng con gọi đó là cách phát hiện bằng những dấu hiệu sinh vật. Bằng mắt thường ai cũng có thể phát hiện được những tháp bay đó và do vậy việc xác định nơi có tổ mối thế là bước đầu đã được giải quyết, tuy còn phải tiếp tục hoàn chỉnh bằng các phương pháp khoa học khác nữa.
Bây giờ, con sang một giai đoạn mới: nghiên cứu loài kẻ thù bé nhỏ, khôn ngoan này, ở ngay sào huyệt của chúng! Ba mừng cho con đi! Con đã tìm thấy tên thủ phạm giấu mặt, cả đời chui rúc, trốn tránh sự phát giác của con người rồi đây!
Bọn này quả là một loại côn trùng không thể coi thường, ba ạ. Có bằng chứng rõ ràng là lịch sử giống nòi của bọn chúng có sớm hơn lịch sử con người ít nhất là ba trăm lần. Hai nhà khoa học Hoàng Đức Nhuận và Nguyễn Đình Khản, trong tài liệu con vừa đọc (*) , đã nói một cách hình ảnh thế này: khi con người tiền cổ còn sống trong trạng thái hoang sơ, man rợ thì loài mối đã “ tổ chức” thành một “ xã hội” quy củ, nghĩa là có phân công hợp lý để đạt năng suất lao động cao và chống chọi có hiệu quả với mọi kẻ thù.
Về mối quan hệ giữa con người và loại côn trùng này, các tác giả đó diễn đạt như sau: càng văn minh con người càng cần diện tích đất đai cho sinh hoạt, canh tác, xây dựng nhà cửa, công xưởng, đê điều, đồng ruộng. Nhưng khác hẳn với các loài thú: con người tới đâu, thú ở đó bỏ chạy, mối không cao chạy xa bay; trái lại, chúng luôn ở bên cạnh con người, chúng chui rúc dưới các tầng đất, đặc biệt chúng vô cùng ưa thích những tầng đất canh tác nhiều mùn ẩm và những công trình con ngươì mới xây dựng. Quái quỷ! Vậy là cuộc đấu tranh giữa con người và loài mối đã diễn ra không ngừng và hết sức đa dạng. Mối bị nguyền rủa, bị căm ghét. Lẽ tất nhiên, có sinh vật nào sống chỉ thuần một mục đích vì lợi ích của con người? Tất nhiên, mối có làm được một số việc có ích, chúng phân huỷ gỗ thành chất hữu cơ, chúng dọn vệ sinh rừng..., nhưng cái hại mà chúng đem lại cho con người thì thật khổng lồ và khôn lường!
Bây giờ, ở ngay khúc đê con đang làm việc đây, ít nhất, con và mọi người, nhờ các dấu hiệu sinh vật, cũng đã phát hiện được tới ba, bốn chục cái tổ mối! Thật là kinh khủng! Ba cứ thử hình dung xem: ba, bốn chục ổ vi trùng ngày đêm đào khoét một cơ thể vốn đã bấy bớt ốm o. Nghĩa là, từ khi cặp trai gái mối hợp duyên, lên ngôi vua chúa là lập tức chúng bắt đầu sinh con đẻ cái và làm việc hăng say cho sự phát triển của giống nòi. Ngày, đêm chúng không hề tính đến chuyện ngủ nghê, ngơi nghỉ. Con đã quan sát đám mối thợ. Thảng hoặc có lúc nào mệt quá thì chúng dừng lại ít phút để nghỉ ngay tại chỗ, nghĩa là cục đất xây tổ vẫn ngàm trong miệng. Chúng luôn phải lo cho sự sinh tồn của giống loài. Mỗi tổ mối mỗi ngày ngót một vạn con mối non ra đời. Thức ăn đâu? Chỗ ở đâu? Bọn chúng phải lo liệu, gồng mìmh vất vả trong một công cuộc lao động khổ sai và tự nguyện.
Hàng tỉ con mối ngày đêm đang khoét ruỗng thân đê. Chúng ăn rơm rạ, bã mía, chất hữu cơ còn sót lại trong thân đê. Chúng đào đất, mỗi con chỉ một viên nhỏ thôi, nhưng hãy tưởng tượng là hàng tỉ cá thể làm việc ấy không ngưng nghỉ, thì con đê bị đục khoét đau đớn biết nhường nào, tai hại biết nhường nào!
Thật là những ổ ung thư trong thân đê! Sao con bị ám ảnh ghê quá về căn bệnh này thế, ba! Có lẽ bắt đầu từ việc anh Nam yêu kính của con mắc bệnh đột ngột và hoàn cảnh chúng ta đang sống. Con luôn nghĩ, cái chết chẳng ở xa ta đâu. Vậy, phải làm việc gấp lên! ý nghĩ ấy càng thôi thúc con khi con nghĩ: có lẽ ở đâu cũng có cái dạng của căn bệnh ghê gớm này, ở đâu cũng có siêu vi trùng dạng này, hàng ngày chúng tàn hại, huỷ diệt sự sống chân chính – những thói tệ xấu xa vẫn hằng bám riết con người ta, ngăn trở con người trở nên một con người thật sự. Con là một đứa trẻ lãng mạn, thưa ba, nhưng con đã lần lần xa cách dần đứa bé hay lý tưởng hoá, thi vị hoá vì những va chạm và đã nhận chân được cuộc sống. Cuộc sống còn đầy dãy điều đáng phàn nàn, nhưng không vì thế mà không đẹp; trái lại, cái đẹp trong sự đối chiếu và đối lập, càng tráng lệ và thật sự hơn. Công việc tìm diệt tổ mối đáng căm hờn này, công việc bảo vệ đê, chống loài thuỷ tặc yêu quái này cung cấp cho con những dữ kiện để con xây dựng lô-gíc tư tưởng, lô-gic sống cho con: với cái xấu xa, đê hèn, cái cao cả phải biết mở đường, vượt qua, không có lý gì mà lại trở thành kẻ hèn hạ, trái lại phải hiên ngang, hiên ngang như những con đê. Con yêu dân tộc đất nước. Con yêu
ba mẹ, ông bà, tổ tiên. Con là đứa con của hai tình yêu hoà quyện đó. Con tự hào nói như vậy.
Con sống vất vả hơn ở thành phố! Ăn uống thất thường! Công việc bận rộn! Nhưng, con thấy thanh thoả - mặc dầu ở cơ quan, con vẫn luôn luôn là kẻ kiêu ngạo ngầm: ta thanh cao hơn những kẻ đê tiện – một tính xấu của con. Dù trong hoàn cảnh nào con vẫn là một gã trai có lý tưởng, nhưng có đôi cánh lãng mạn, cho dù có đôi chút đơn giản, hay tuyệt đối hoá.
Công việc có ý nghĩa là cuộc sống của con. Con chủ quan nhận thấy như thế. Vì lẽ đó, con tha thiết mong ba hãy kiếm một công việc. Sức ba còn, tài năng ba đang độ, lòng ba trong sáng. Nhưng ba còn thưa thanh thoát. Xa rời bộ máy sinh động là cuộc sống, ở đó có đủ sự phức tạp, nhưng khuynh hướng thẳng tiến vẫn là mãnh liệt, là chủ đạo, cần khẳng định như thế, thì dễ lầm lẫn lắm. Nhất là con sợ cái ngõ nhà ta. Cảnh thằng Lùng bị mắng chửi. Tiếng mõ, tiếng chuông cúng bái nghê nga ở nhà bà Năm sắt. Ông thợ vẽ – hoạ sĩ gì ông ấy, ba – và những ý tưởng u ám không hợp đạo lý của ông ta... Tất cả toát lên cái chất thị dân cũ kỹ thật đáng kinh sợ!
Con nhờ ba hai việc. Ba cố thu xếp thì giờ vào thăm anh Nam đều đều hộ con. Anh ấy vẫn đang cố gắng hoàn thành một số công trình nghiên cứu; việc gấp, anh ấy muốn nhờ ba dịch hộ một số tư liệu của Pháp thời trước, văn hành chính ngày xưa anh ấy đọc chưa thạo. Một việc nữa con muốn nhờ ba, hơi khó đấy, nhưng tuỳ ba. Ba biết quan hệ của con với Loan rồi. Kỷ niệm của chúng con thiết tha quá, nhất là với con. Nhưng Loan đang ở một bước phát triển rất đáng ngại. Trong cái gia đình lộn xộn ấy, bị các khuynh hướng xấu lôi kéo, con sợ Loan không vững vàng, điều đó nếu xẩy ra thì thật tiếc và đau đớn cho con. Thư con viết cho ba thế nào, con cũng viết tương tự như thế cho Loan. Con muốn Loan như cô bé ngày xưa, được ảnh hưởng tốt của con.
Con đã viết quá dài rồi. Sao dạo này con bỗng trở nên đa ngôn như thế nhỉ? Hình như đời sống bây giờ bắt người ta phải tư duy nhiều hơn, kỹ hơn và phải bày tỏ mình rõ ràng hơn, ba à.
Từ đây, con vẫn hướng về thành phố! Và con chúc ba mạnh khoẻ, vui vẻ, từ trong tâm hồn.
Ôi chào, lại chuyện đê với điều, bão với lụt, mối với kiến! Nhận được lá thư nữa của Trọng, Loan chỉ đưa mắt nhìn cái phong bì rồi bĩu môi, thả luôn vào cái túi xách tay. Chẳng cần đọc, Loan cũng thừa biết anh chàng viết cái gì rồi. Một hai lá đầu cô còn mở ra, đưa mắt lướt qua vài dòng. Nhưng, cô thất vọng luôn. Cô chán phè và buồn cười, càng ngày càng thấy anh chàng lẩm cẩm.
- Có đứa nào mua vé xem kịch Nguyễn Trãi không? – Hết ca bán hàng chiều, Loan vào văn phòng, bà cửa hàng trưởng hỏi. Cô lắc đầu. Bà già nguýt qua làn kính:
- Vé phân phối, giá chỉ bằng mớ rau thôi mà tiếc à?
- Có cải lương thì cháu xin hai vé ngay. Mấy lị cháu bận.
- Lại hẹn với anh rồi chứ gì!
- Đâu nào!
- Đừng có giấu bà già nhé – Bà cửa hàng trưởng nháy mắt và nhăn nhăn cái mũi tẹt – Có phải cái chú đi chiếc xe Honda đỏ không? Kỹ sư hả? Gớm, ở tít tịt Nguyên Lộc mà tối nào cũng chịu khó mò về thế! Say rồi đấy, em ạ.
Bà già lẫn lộn, râu ông nọ cắm cằm bà kia. Loan chẳng cải chính, chỉ cười và lắc lắc mái tóc mới tỉa ngắn, kiểu tóc mới biến con gái thành con trai và nhí nhảnh.
Chào bà cửa hàng trưởng, Loan xách cái túi ra cửa, xuống vỉa hè. Thành phố trẻ lại sau cơn mưa mát mẻ lúc hai giờ chiều. Cũng là lúc tan tầm. Vỉa hè rồng rắn những dòng người xếp hàng mua thực phẩm. Trên đường miệt mài chảy hai dòng xe đạp xuôi ngược. Thỉnh thoảng, một chiếc xe máy vụt qua khoe khoang tốc độ, kéo một hơi thẳng vút giữa lòng đường, nghe kiêu căng lạ. Những lúc như thế cô con gái ông xích lô lại thấp phấp phỏng. ít lâu nay, cô hay chờ đợi tiếng xe máy và nhớ lại, đã có một thời, cô ao ước và ghen thầm với những cô gái ngồi ở đằng sau chiếc xe máy, ngả người, vòng hai tay ôm eo ếch chằng trai cầm tay lái. Giá mà cô được như thế! Rồi cô buồn. Ông Nhuần, bố cô chỉ là dân đạp xích lô. Cô lại ở trong cái ngõ nhỏ xoàng xĩnh, bao giờ mới có được một chiếc xe máy lọt vào, bấm còi pe pe gọi cô? Đã từng có lúc thành phố biến tất cả thành vô danh, kích thích tầng lớp thị dân, những con người trung bình, nỗi thèm muốn một mức sống nổi trội hơn người, hối thúc họ lao vào thoả mãn các tham vọng vật chất một cách thật mãnh liệt. Sự lạ mắt, trội bật về hình thức, từ một kiểu áo, kiểu guốc, kiểu đầu, không chỉ là biểu hiện của thói lập dị, sự hợm hĩnh, mà còn là một lối khẳng định mình một cách cao ngạo. Chưa bao giờ những chi tiết của văn hoá lại biến thành nơi phô diễn những cái thiếu văn hoá dữ dội đến như vậy và nhờ ăn nên làm ra bằng đủ mánh khoé, nhiều người trong tầng lớp thương nhân có cái ảo giác là chỉ những kẻ thắng lợi trong lĩnh vực thu nhập của cải thì mới tồn tại và được phép kiêu hãnh vậy.
Loan đã quên lãng những kỷ niệm thiêng liêng của mối tình đầu với Trọng. Bầu không khí gia đình và môi trường xã hội cô tiếp xúc nuôi dưỡng cô, lôi cuốn cô vào những ham mê khác; đôi lúc nhớ lại những phút giây xao xuyến thơ trẻ chân thành ngày trước, cô thấy hơi nao nao, nhưng chỉ mấy giây sau đã tặc lưỡi: tại anh ta thôi! Và quên phứt ngay!
Đi theo hè phố, Loan thật sự hài lòng về sự nổi bật của mình. Hình như có rất nhiều cặp mắt nhìn theo cô trầm trồ từ chất vải áo, màu sắc bông hoa in ở ngực áo, và những đường nét uốn lượn ở eo hông cô. Cô muốn nán lại lâu hơn ở trên mặt phố. Nên thấy một đám người tụ tập xem mấy tờ áp phích có ảnh in dán ở bảng thông tin khu phố bên bờ hè cô liền dừng lại, len vào. Ba tờ áp phích cùng một loại. Đó là lệnh truy nã một tên cướp xổng tù. Góc trái phía trên áp phích là ảnh tên cướp nọ. Cái ảnh ấy làm cô giật thót mình. Nhưng cô vội thỉ thui ngay ý nghĩ vừa xuất hiện và tọt ngay ra khỏi đám đông. Không, chỉ nhang nhác thôi, chứ không phải anh ấy. Anh ấy đẹp trai kia. Và đâu có phải tên anh ấy. Cô bỏ đi. Sắp rẽ vào ngõ 401, cô đưa mắt sang trái, nguýt một cái thật dài và bén ngọt. Một lũ con trai mới lớn đã bắt đầu để tóc lợp gáy, mặc may ô in hình, nhìn cô đầy vẻ giễu cợt. Hay chúng khinh cô là con gái ông xích lô? Thì hãy cứ bằng con nhà xích lô đi, oe con ạ!
*
Xích lô thì có gì là xấu! Hãy thử xem cuộc sống của gia đình ông xích lô trong ngõ này.
Ông Nhuần hành nghề xích lô từ ngày hoà bình lập lại. Quê ông ở Phủ Lý. Kháng chiến chống Pháp, ông có tham gia du kích xã. Năm 1950 bị giặc bắt, bị chúng đánh đập khảo tra; vừa được giặc thả, hãi quá, ông dông ngay vào thành phố. Thành phố, nơi con người dễ giấu tung tích mình. Lên đây, ông gặp bà Lụa buôn chuyến vừa bị mất sạch vốn liếng vì người tình làm phản. Hai người gần gũi nhau về tâm sự và cuộc sống thành thị chẳng mấy chốc lại gây phấn chấn cho họ, giúp họ qua được cơn buồn nản. Sau hoà bình, đã có lần cái gia đình ấy xung phong đi xây dựng kinh tế ở Tây Bắc. Nhưng đi được một năm thì cả bầu đoàn thê tử lại kéo về. Không có hộ khẩu cũng cứ về. Về và bà vợ bắt đầu rêu rao, rằng mình bị lừa, rằng chẳng có nơi nào bằng thành phố này, và bây giờ dẫu có cho máy đến xúc, họ cũng quyết không đi đâu nữa. Cuộc mưu sinh lại bắt đầu với một ý thức làm giầu rõ ràng hơn. Hai người đẻ một loạt con và bắt đầu sắm sanh đồ đạc, xây dựng nhà cửa. Giờ thì căn nhà họ ở là căn nhà hai tầng, cao sang nhất ngõ, nền lát đá hoa, trong nhà có sập gụ, tủ chè, tủ lệch, quạt Nhật, giường mô-đéc và dàn A-kai gần chục nghìn đồng, hay làm khổ láng giềng bằng mấy băng nhạc vở cải lương “Lan và Điệp” có cả tiếng chó sủa gâu gâu.
Tất cả của cải, và đời sống dư dả có nhiều hướng ngoi lên là kết quả của lao động, của mồ hôi nước mắt họ. Thật chứ! Có điều là lao động của đôi tay đôi chân ông xích lô một ngày xoàng ra cũng gấp bảy, tám lần lương công nhật một anh thợ tiện bậc bẩy trên bẩy. Tuy nhiên, nguồn thu của ngân sách gia đình chủ yếu vẫn là bà Nhuần. “ Ông kiếm nhiều thì mồm ông ăn nhiều, miệng ông uống nhiều, chứ mẹ con tôi nhờ vả được gì nào!” Những lúc vui vẻ, bà hay dài giọng trách yêu chồng như vậy. Mà quả là như vậy thật. Ông cọc cạch cái xích lô so với anh thợ tiện, kiếm được hơn hẳn, nhưng đối với bà, nghề của ông chỉ đem lại cái tiếng thơm cho gia đình thôi. Gia đình lao động, dân nghèo thành phố! Thời nay, quý là ở cái thành phần đó mà.
Bà Nhuần thật là con buôn kỳ tài. Mùa nào thức nấy. Khi cần, đi hàng tuần lên miền ngược. Lúc hàng họ chất chồng đống lớn, đống nhỏ. Lại có khi chỉ tềnh tang cái tay nải. Cũng có hồi tay năm tay mười. Lũ con, tám đứa, đều là màng lưới thông tin, vét hàng và chuyển hàng cho mẹ. Chúng đứng la cà ở các cửa hàng mậu dịch, thấy có hàng gì hời là xô vào mua – từ gói kim, cuộn chỉ tới cái đồng hồ – mua về bán lại cho mẹ, lờ lãi rất sòng phẳng; sau đó bà có nhiệm vụ đưa những hàng hoá đó đến tận tay người đang cần tiêu dùng với giá cả do bà đặt. ấy thế! Tuy nhiên, kiểu buôn bán ấy giờ cũng đã hoá ra lạc hậu. Thằng Lùng là đứa phản đối đầu tiên. Loan đã đi làm. Những đứa khác đều đã đi học. Bà cũng chẳng còn trẻ gái như xưa. Thành ra bây giờ, bà chỉ nhẹ nhàng cái tay nải, cái làn mây, lại có khi cái cặp da! Vậy mà cả nhà vẫn sởn sơ. Trừ ông Nhuần vẫn dáng cũ kỹ, lam lũ và thằng Lùng đầu bò đen trũi, còn từ bà trở xuống, tất cả đều trắng trẻo, hồng hào, con giai con gái đều có dấn vốn riêng, có đồng hồ hoặc dây chuyền vàng, nhẫn vàng.
Gia đình ông Nhuần đông con. Tám đứa, Loan, gái cả, năm nay hai tư, kế đến hai gái. Thằng Lùng thứ tư. Bốn đứa trai tiếp sau nhỉnh hơn nhau chút ít, như cái bậc thang thấp dần. Nhưng, cái gia đình đông đúc ấy ban ngày tan biến đi đâu hết cả. Cửa đóng im ỉm, trong nhà còn mỗi bà cụ mẹ ông Nhuần chín mươi tuổi, âm thầm như cái bóng.
Bây giờ cả cái ngõ cũng vắng. Nhà bún ốc đã hạ phên liếp. Nhà Năm Sắt mới xây xong cái nhà thờ họ mái bằng, quét vôi vàng, trán cửa đắp rồng phượng xanh lè, cũng không nổi giai điệu, tiết tấu cúng tế cốc cốc, chôông chôông như thường ngày. Trên sân, bầy ngan ngỗng lấm lem dụi đầu vào cánh ngủ. Giữa sân đã có bóng mát. Ông Nhuần mặt đỏ gay bia rượu đang ngửa cổ, ngáy trên cái xích lô đạt ở trong bóng mát. Lệ là thế! Tinh mơ đánh xe đi. Mười một giờ đứng nắng, về. Sau bữa cơm rượu, đánh chửi lũ con một chập inh ỏi cả ngõ rồi vật mình ngủ say trên cái công cụ kiếm ăn của mình. Đánh chửi con là một cái tật, một thói quen của ông. Lớn như thằng Lùng ông cũng nện. Không thế, ông không chịu được, không ngủ được hay sao ấy. Ông ngủ một mạch đến quãng sáu bảy giờ tối, bà vợ về làm cơm xong, mới dậy. Cơm rượu xong, no nê rồi thì chơi ván cờ hoặc trà lá một lúc với ông Hảo, sau đó mới đủng đỉnh đưa cái xe ra ngõ, đi làm “ ca đêm”. “ Ca đêm” đón dân buôn ở các chuyến tàu Bắc Nam xuôi ngược xuống, kiếm mới ác!
Đang ngủ, chợt nhổm dậy vì tiếng ngan, ngỗng quang quác và tiếng guốc chói tai của cô con gái, mắt ông Nhuần đỏ ké. Chưa đẫy giấc, ông lại gục xuống tay xe, miệng ú ớ:
- Ơ ơ... mẹ mày...ớ ớ... con Loan... đồ **!
Loan lườm bố một cái, đi qua phía sau ông. Sắp đẩy cửa gọi bà, cô bỗng dừng lại. Nách nhà xây, cạnh cái bếp có chiếc xích lô hỏng, thằng Lùng ngồi ti tỉ khóc ở đó. Thấy Loan, nó ngẩng lên, lẩu bẩu:
- Chị Loan! Chị phải thanh minh cho tôi.
- Hừ! Nói dễ nghe nhỉ.
- Chị nhẫn tâm thế à! Chị vu tôi để bố đánh tôi.
- Không đánh để mày đi ăn cướp hả? A, mày lục tủ của tao, hả? Giấy tờ gì đây? Đồ khốn nạn!
- Tôi không lục. Cái Lý nó đưa tôi xem.
Cô con cả cúi xuống, mặt hầm hầm. Cạnh thằng Lùng có một xập giấy tờ. Cô nhặt lên. Hoá ra toàn là những lá thư của Trọng. Cả bài thơ của anh ta. Vứt tạch xếp giấy xuống đất, cô rít:
- Muốn sống muốn tốt thì bỏ cái ví ra.
- Tôi không lấy của chị.
- Không mày thì đứa nào ở cái nhà này!
- Tôi biết đâu với chị đấy. Chị đi chơi, chị để quên ở đâu.
- Tao lại vả cho gẫy răng bây giờ.
Thình! Ông Nhuần đánh rơi cái chân xuống sàn xích lô, bật dậy:
- Tiên sư cả lò chúng bay, có im đi cho ông ngủ không, ông quật chết cha chúng bay bây giờ!
May, không có đứa nào bị ông quật chết. Vì cái ngủ lại kéo đầu ông Nhuần ật ngửa ra sau. Và bây giờ, ngõ đã râm mát, bà Nhuần đang về. Hôm nay, bà Nhuần nghỉ chợ. Bà rủ bà Năm Sắt đi lễ đền. Bà vẫn khăn nhung, đuôi gà vắt trên mái tóc. áo tứ thân buông hai vạt, hở cái yếm hoa hiên. Thêm cái quần lĩnh tía với cái thắt lưng hồng đào, trông bà như thiếu phụ thành phố những ngày xa xưa. óng ả duyên dáng, tay bà ve vẩy, dẻo kẹo. Gò má bà cao, đỏ rạn men trầu thuốc. Cái cổ cao ba ngấn đỏ rừ và hai mắt bà lung linh như có ánh sáng của thánh thần nhập vào.
Bà đặt cái thúng sơn đỏ xuống thềm nhà, mở vỉ buồm, vuốt hai mép trầu, giọng khe khé, tươi hơn hớn:
- Lân, Lý, Liên, Lạc, Lợi, Lộc... chúng bay đâu cả rồi – Bà xướng một dẫy tên con, toàn những âm tiết cấu tạo bằng phụ âm l theo kiểu tên Lụa của bà - Đâu cả rồi! Lại đây mẹ cho lộc thánh. Tệ quá cái quân nhà này! Chưa đến bữa là cấm thấy mặt đứa nào ở nhà. Đến thành đầu trộm đuôi cướp hết cả thôi! Loan ơi, ở bảng tin khu phố họ đang truy lã cái gì thế, hả con?
Lại bị đánh thức bất thần, ông Nhuần nghoẹo đầu, lừ mắt:
- Làm cái gì mà quang quác cái mồm thế hả! Điếc cả đít!
- Cái nhà ông này ăn nói hay nhỉ?
- Thôi, mẹ!
Loan từ trong nhà lịch kịch đôi guốc cao gót chạy ra đón cái thúng sơn, can mẹ. Cái ngủ lại thắng ông Nhuần một keo nữa. Nỗi vui đèn nhang nơi đền miếu còn sôi nổi, bà Nhuần quên phắt cái bực với ông chồng ngái ngủ thô lỗ. Bà cúi xuống, ghé tai cô con gái cả:
- Loan à, con đem những thứ này biếu các bác trong ngõ nhé – Bà nâng những phẩm khảo bọc giấy bóng xanh đỏ bé tí tẹo trên tay như nâng những đồ trân bảo – Còn chỗ oản xôi thì để cho các em. Gớm, hội hè năm nay đông quá. Mà vui quá kia! Gặp hết các bà bạn ngày xưa. Thôi, ù lên. A, hôm nay cô có đi làm ba-tê không? Tao bảo mụ Xíu nó để lại cho cái chân giò rồi đấy. Chơi bời in ít đi, con ạ. Lúc này là lúc đang dễ kiếm.
- Mẹ chỉ được cái thế!
- Thì thôi, mặc cô - Bà Nhuần quay nhìn cái xích lô - Còn ông này nữa, định ngủ tới đêm à? Dậy! Dậy mà nói chuyện với thằng Lùng đi. Ê chệ mặt tao với bè bạn lắm đấy, Lùng ơi.
Câu cuối cùng bà hướng về đứa con trai thứ tư. Hai tay ôm vòng ống chân, nó đang gục mặt trên gối. Hình như nó khóc.
*
- Chà, lộc thánh quý hoá quá! Cám ơn cô Loan nhé! Tôi cũng đang chờ ông giáo Cần, không hiểu ông ấy đi đâu từ trưa chưa về. Cô ngồi đây uống nước đã. Bà vừa đi lễ về à? Chà, trông bà phây phây, khéo cuối năm cô Loan lại có em bế.
- Bác Hảo cứ hay nói đùa.
- Tôi nói thật cả mười phần ấy chứ.
Ông Hảo bỏ cái chàng xuống cạnh chiếc guốc đang đẽo dở, đứng dậy, cười tươi tỉnh. Cây thánh giá trước ngực bung bênh rồi dán vào cái áo may ô xanh đẫm mồ hôi của ông. Mặt ông đỏ lâm râm. Ông kéo ghế, mời cô gái. Ông rót nước pha chè, điệu bộ luýnh quýnh như cảm động và khi cô Loan đón chén nước, ông bỗng đờ ra như bị thôi miên. Cô con gái ông xích lô lớn bồng dậy, với một sắc đẹp rừng rực hơi lửa nồng từ lúc nào thế nhỉ?
- Bác đẽo guốc kiểuxuồng à? – Ngường ngượng vì cái nhìn vương nhiều nhục cảm của ông Hảo, cô gái hơi cúi xuống.
- Kiểu xuồng! ờ, các cô thay đổi kiểu cứ xoành xoạch - Ông thợ guốc trở lại trạng thái thường khi – cánh tôi chạy theo phục vụ cứ là toát mồ hôi.
- Bác cứ hay tỉ chúng cháu.
- Thật đấy! Loại bẩy phân, loạn sa pô, giờ đâm ra ế!
Loan ngẩng lên, đưa mắt lướt nhanh quanh căn buồng ông hoạ sĩ. Buồng hẹp. Trừ bộ bàn ghế uống nước, còn chẳng có gì đáng giá. Góc trái buồng là giá vẽ. Góc phải chất một đống gỗ bồ đề cắt khúc hình từng viên gạch một.
- Chúng cháu giờ ưa kiểu năm phân, có quai xỏ qua lỗ kia.
- Tôi biết! Tôi biết!
Ông Hảo cười, đầu gật gật.
Ông Hảo là người lắm tài vặt, ứng phó giỏi trong công cuộc mưu sinh. Ngoài nghề hoạ học hành có bài bản, ông còn biết nhiều nghề khác. Điều lý thú là những nghề khác, nhờ có chút kiến thức và tài năng hội hoạ thâm nhập vào, nên có lúc đạt đến trình độ nghệ thuật, trong khi nghệ thuật hội hoạ lại bị ông bỏ rơi hoặc biến thành một việc đơn giản của anh thợ vẽ. Cả đời ông chỉ vẽ có mỗi một bức tranh gọi là nghệ thuật. ấy là tác phẩm tốt nghiệp. Thành phố có phong trào đi guốc đế cao, ông thợ vẽ thích ứng ngay. Gỗ bồ đề ông mua của cánh sơn tràng khai thác trộm trong các khu rừng Nhà nước trồng. Cái rìu bốn chục. Cái chàng thẳng tám đồng. Cái chàng cong mười đồng. Cái bào hai chục nữa là đủ đồ nghề cho ông trổ tài: Gỗ bồ đề mềm, thớ mịn, đường bào đi ngọt xớt. Khúc gỗ qua đẽo vát bằng rìu, rồi đẽo nghiêng, đẽo nách, phát quanh, cuối cùng cắt gót, bào gọt nữa là thành chiếc guốc kiểu mới, dáng lạ mắt, đẹp tự nhiên. Guốc ông Hảo xuất hiện trên thị trường nổi tiếng ngay vì có dấu ấn tài hoa của ông.
Nhặt cái chàng, tựa như vô tình, ông thợ guốc nhìn thấy hai bàn chân Loan. Những ngón chân con gái trắng hồng, chúm chím trong làn quai nhựa đan chéo, đỏ hồng. “ Chà, vợ chồng xích lô cóc cáy mà đẻ ra nàng tiên nõn nường quá!” Ông thợ guốc vừa nghĩ vừa đưa cái nhìn mơn trớn từ chân cô gái ngược lên.
- Thế đôi guốc này cô mua ở đâu?
- Anh Thưởng anh ấy mua tận Sài Gòn đấy, chứ bác.
- À à... - Ông thợ vẽ gật gật đầu – Thế thì tôi đến bỏ nghề thôi. Hừ, không khéo tôi quay lại nghề vẽ của tôi mất. A, cô Loan này, hôm nào rỗi, cô ngồi làm mô đen, làm mẫu, cho tôi vẽ nhé. Tôi đang vẽ tranh thánh thuê cho nhà thờ mà.
“ Ờ, con bé có gương mặt Đức mẹ hết xẩy!” Ông Hảo ngừng lời, im lặng, nghĩ. Loan nghẹo đầu cười.
- Úi, cháu mà làm mẫu được!
“ Hễ ai ngó đàn bà mà động lòng tà dâm là phạm điều luật cấm!”. Ông Hảo nghĩ tới câu kinh Thánh, mắt vẫn không rời gương mặt đang sung sướng của cô gái.
- Bác đi đạo đấy à, bác Hảo?
- À... ngày xưa... nhà tôi là dân đạo gốc. Tôi có đi, xong lại bỏ. Thế là nhà tôi... cô ấy chán tôi. Giờ, tôi lại đi, cho vui.
- Bác gái giờ ở bên Pa-ri ạ?
- Ờ ờ...
- Thế bác ấy có biết bác hiện đang ở đây không?
- Ở cái ngõ 401 này ấy à? - Ông Hảo ỡm ờ – Biết thế nào được. Mà biết để làm gì nhỉ?
- Biết có nhiều cái lợi chứ! – Cô gái hạ giọng – Bác Hảo này, anh Thưởng anh ấy quen nhiều người nước ngoài lắm đấy. Anh ấy còn biết cả cái ông ở cửa hàng cháu chạy sang Pa-ri mà cháu đã kể chuyện cho bác nghe rồi ấy.
“ Cô bé tập tễnh vào cuộc rồi đây...” Ông thợ vẽ nghĩ, quay lại phía sau, nhấc một cái cặp bìa.
- Tôi cho cô Loan xem tranh tôi vẽ nhé.
Ông thợ vẽ mở cái cặp bìa. Loan dịch ghế lại, gạt hai lượm tóc, kéo căng vạt áo, rồi cúi xuống. Quay lại, hít nhẹ một hơi, ông Hảo áp nhẹ vai vào lưng cô gái:
- Đây là cảnh Chúa chịu xức dầu tại Bê-tha-ni. Cảnh này là bữa tiệc Thánh. Còn đây là cảnh Giu-đa đến bắt Chúa Giê-su, toán cầm gươm cầm gậy này là do thầy cả và trưởng lão phái đến. Bức này vẽ cảnh Đức Chúa trước mặt Phi-lát, tổng đốc xứ Giu-đê. Bức này Chúa mặc áo điều lồng lộng, đội mũ gai, vác thập tự, trên đường đi đến đồi Gô-gô-tha.
- Đẹp quá! Hôm nào bác vẽ cho cháu một bức nhé.
Chạm tay vào ông Hảo, Loan đứng dậy. Ông thợ vẽ nuốt nước bọt, ngẩng lên:
- Ờ ờ... cô mà ngồi làm mô-đen, tôi vẽ thì tuyệt.
- Thật chứ bác.
- Sao lại chả thật, chà!
- Giờ cháu phải đi làm đây, bác ạ.
Mắt sục sạo sau làn áo ngực nở xổng xểnh của cô gái, ông thợ vẽ nhột nhạt.
- Thế Loan đi đâu bây giờ?
- Cháu đi làm ba-tê với một chị bán bánh mì. Không làm thêm, lấy gì mà tiêu.
- A, pa-tê! Nhưng pa-tê thịt gì đấy? Có thịt mèo không, cô Loan?
Nói câu cuối cùng, ông thợ vẽ trở lại với con người hay sàm sỡ của mình. Loan, bước ra cửa, quay lại, mắt cười nghiêng nghiêng:
- Thiên hạ họ làm thịt mèo thì cháu cũng làm thịt mèo. Họ làm thịt chuột thì cháu cũng làm thịt chuột. Sợ gì!
Ông thợ vẽ theo cô gái ra sân. Ông Cần đã về, tay cắp một chồng sách báo, đang lập cập mở khoá cửa.
- Anh Cần, có người đến tìm anh đấy - Ông Hảo bước tới cạnh ông giáo, hơi thở còn nóng rực – Hay lắm, anh ạ. Đúng là có quý nhân phụ trợ anh rồi!
*
Vào tới nhà, ông giáo Cần vẫn còn run. Mở cái quạt, đang vã mồ hôi bỗng thấy lạnh ớn, ông vội ngắt dòng điện. Ông đặt chồng sách báo lên giường, quay lại mời ông bạn hàng xóm ngồi và vội vã pha chè. Cánh chè tơi tả rơi cả ra khay. Ông thợ vẽ đem đến cho ông những tin tức gì đây? Sao ông có linh cảm sợ hãi thế nhỉ?
Hay là ông đem cái ấn tượng kinh sợ từ bệnh viện về. Ông vừa vào bệnh viện thăm Nam. Phần vì ông biết và yêu mến con người này, phần nữa thư nào Trọng viết về cũng nhờ ông việc ấy. Ông coi đây là nghĩa vụ của mình.
Ông đã gặp Nam, gặp mặt với một cái chết đang đến. Trời! Nam vàng bủng. U độc là dứt khoát rồi. Căn bệnh quái ác đang cướp dần sinh lực Nam. Nhưng, một nụ cười yêu đời vẫn nhệch như mếu trên gương mặt khô héo của Nam. “ Tuần sau, một bác sĩ giỏi sẽ mổ, sẽ thử nghiệm một phương pháp mới: cắt tất cả các động mạch nối với khối u. Có hy vọng, bác ạ”. Chao ôi! Con người, dẫu thế nào vẫn hy vọng. Và, còn hơn thế nữa. Con người, dẫu thế nào, vẫn làm việc trong kỳ vọng, với sức sống dẫu còn thoi thóp. Nam vẫn làm việc, vẫn có một cái đích để đi tới. Mặc cái chết đã nhìn thấy, Nam vẫn làm việc, vẫn say mê với các công trình của mình. “ Cháu phải lừa các cô hộ lý. Cháu buông màn, giả vờ ngủ, tài liệu cháu giấu dưới đệm”. Theo giọng nói, một nụ cười sung sướng và đớn đau lại toả trên gương mặt vàng võ của Nam.
Ông Cần run run hết cả tay chân. Con người, thế mới thật là con người! Chống trả với cái chết bằng niềm say sưa làm việc ở ngay ngưỡng cửa của cái chết, chao ôi!
Xúc động chưa nguôi tan, ông Cần ngồi lặng trên cái ghế đối diện với ông hàng xóm mặt đang hân hoan một nỗi vui kín đáo:
- Lộc thánh của anh đây, anh Cần.
Miệng cười mủm mỉm, ông thợ vẽ đặt lên bàn nước mấy phẩm bánh khảo xanh đỏ, nghiêng mặt nhìn ông Cần.
- Lộc thánh nào thế?
- Bà Nhuần bà ấy đi lễ đền về.
- À - Ông giáo thở một hơi dài – Thánh! Thánh! Thánh thần có cứu được con người không, anh Hảo! Tôi vừa vào bệnh viện thăm một anh bạn của cháu Trọng bị... ung thư.
Nhấc chén nước, ông thợ vẽ cười nhẹ tênh:
- Anh Cần ạ, Đức Chúa Giê-su bị đóng đanh câu rút cạnh hai tên cướp. Hai tên này cười Chúa: “Hắn có cứu được chính hắn đâu”. Còn Đức Chúa thì quằn quại. “ Hỡi thượng đế! Hỡi thượng đế! Người bỏ con!”
Hai cánh tay rơn rởn sởn gai gà, ông Cần khe khẽ run rẩy như đang trong cơn mê:
- Căn bệnh ung thư... kinh quá! Nó làm con người ta chết dần chết mòn. Nghĩ mà kinh thật! Vì đang tự dưng, bỗng nổi lên một cục u.
Bất giác, vừa nói ông Cần vừa đưa tay sờ vào bụng mình. Cái cử chỉ phản ánh nỗi hoang mang ấy của ông thể không lọt vào cặp mắt tinh quái của ông thợ vẽ. Ông thợ vẽ bật cười:
- Sống chết là do Chúa, là có số cả, anh Cần ơi. Mà số anh thì như tôi đã nói đúng là còn rất vượng. Hề hề.
Nhếch mép, thoát ra một tiếng cười cụt lủn, ông thợ vẽ tiếp:
- Anh Cần à... có một chuyện rất hay - Thận trọng rút từ trong túi quần ra một cái phong bì nước ngoài không dán tem, giọng ông thợ vẽ thấp hẳn xuống – Tôi mới nhận được thư của nhà tôi. Nhà tôi, anh Cần ạ. Hai mươi mấy năm trời rồi, tôi...tôi... cô ấy vẫn còn nhớ tôi. Còn nhớ tôi. Còn thương tôi. Hiện giờ cô ấy buôn đồ gốm ở Pa-ri. Thư này do một người nước ngoài đến làm việc ở thành phố ta đưa đến.
Nói hết câu cuối cùng, giọng ông thợ vẽ bỗng nhâng cao lên, cay nhức như mếu máo:
- Anh Cần ơi! Anh có tin ở số mệnh không? Đấy, chính là ông thầy tử vi của tôi đã tiên đoán. Tôi cũng đã linh cảm. Thậm chí, tôi nằm mộng, tôi chiêm bao. Trời, hai mươi mấy năm trời! Tôi cứ tưởng, đời thế là xuống tới đáy rồi. Tôi cứ tưởng là mình đã ngồi phệt xuống đất. Thật không ngờ!
Chưa bao giờ ông thợ vẽ lại trào dâng xúc động đến mức nức nở như thế. Nhưng, lạ sao, chính lúc ông ta rơi vào trạng thái như là bản năng, vô thức ấy, thì ông giáo Cần lại trở lại tỉnh táo. “ Khổ! Ông ta đang sung sướng! Thì ra, ông ta hay hỏi mình về Pa-ri!”. Ông giáo Cần nghĩ, rất rành mạch.
Nhưng, cơn xúc cảm đột ngột đến thì cũng đột ngột tan, rất nhanh thôi, ông thợ vẽ đã trở lại ngay trạng thái tinh thần dửng dưng và bất cần thường khi, trân trân nhìn ông giáo, cái nhìn như dò xét, và ông giáo Cần lần này hoàn toàn bị bất ngờ:
- Anh Cần à. Người đưa hộ thư cho tôi có gặp tôi, trò chuyện. Ông ta ở trong một groupe (*) chuyên gia Bắc Âu. Ông ta muốn ngỏ ý bổ túc tiếng Pháp để tiện việc giao thiệp với người nước mình. Họ nghĩ nước mình thuộc hệ Pháp ngữ. Biết danh tiếng bác, ông ta nhờ tôi nói hộ. Một giờ... mười đô la. Mười đô la một giờ! Chà! Bác cũng có quý nhân phù trợ rồi! Tôi nói có sai đâu!
*
Vậy là có số mệnh?
Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Sự tăm tối gắn liền với niềm tin và định mệnh. Mê tín là bi kịch của con người trước siêu nhiên chưa được nhận thức. Ngẫu nhiên là bộ phận của cái tất nhiên. Vân vân... Ông giáo Cần hiểu tất cả những điều đó.
Nhưng vào những ngày này, ông bị quáng. Quá đa cảm, uỷ mị, dễ bị lung lạc, ông bối rối đâm vào các nẻo đường tối tăm. Trọng và những lá thư dài đầy tâm huyết, như những lời kêu gọi, cũng chỉ giúp ông phần nào khỏi quá sa đà. Cái ngõ và cuộc sống của nó làm ông ghê tởm, và kéo ông xuống thấp. Tự ông không giải thoát được mình. Sau cái hôm đến nhà người xem tử vi ở ngõ mười sáu, phố Nguyễn Thái Học, ông bắt đầu tìm đường trong các ngõ ngách bí hiểm của các thuật bói toán mà xưa kia ông cho là trò nhảm nhí, lừa bịp và ngu muội. Cái lối lý giải vận mệnh con người trong một lá số, một trang giấy mà tổng kết cả đời người: nghĩa là cả hệ thống, cả cá tính, bước đường đi của con người vô cùng phức tạp lại được quyết định bằng các vì sao xếp vào mười hai cung, thật cực kỳ vô lý và nực cười; nay ông lại thấy không nên phản bác. Ông còn đi xem bói tay, xem tướng mạo, bói bài tây. Kinh hoàng quá! Tâm trí cố khăng khăng: đừng tin, vậy mà không được. Gã thầy bói hiện đại đeo cà vạt, mắc kính gọng vàng, hỏi tuổi ông, trang bài đúng năm mươi tám lần theo tuổi ông, rồi xếp bài: ba lần xếp, cả ba lần con sì đều là con bài đầu!
Ông trượt vào vòng u tối của các lý thuyết duy tâm, lộn xộn trong óc những quan niệm về vũ trụ duy khí, về tiên thiên bát quái.
Ngồi lặng đi một lát, tay ông giáo Cần lát sau rờ rờ thành ghế. Ông muốn đứng dậy. Nhưng không được. Những cảm giác bi tráng sau cuộc thăm Nam ở bệnh viện cũng đã tan loãng. Nghe ông Hảo nhắc lại những điều đã nói một lần nữa, ông ngẩng lên, ngơ ngác:
- Thế là thế nào nhỉ?
Câu hỏi ấy ông hỏi vào vũ trụ lúc này dường như là quá huyền bí với ông. Còn ông thợ vẽ thì bật cười ha ha vì thấy ông có vẻ ngộ nghĩnh thế nào, rồi rất ngạo nghễ, ông ta móc túi, xoè cho ông xem tờ giấy bưu điện mời ông đi lĩnh chuyến bưu kiện đầu tiên bà vợ ông ở Pa-ri mới gửi về.
Đúng là có một người nước ngoài muốn học thêm tiếng Pháp. Người này mới biết võ vẽ, cần được bổ túc bằng hội thoại và được nghe giảng cặn kẽ để nắm cho được một cách chính xác thứ ngôn ngữ trong sáng và vô cùng tinh tế này của nhân loại.
Đó là một người đàn ông rất khó đoán tuổi và đoán quốc tịch. Tóc đen, xoăn như người châu Phi, da trắng mắt xanh, kiều người Bắc Âu và cái đầu tròn của người Xla-vơ. Khuôn mặt thì trẻ, nhưng giọng nói và điệu bộ, cử chỉ lại già dặn, từng trải. Ông ta gợi hình ảnh một sự lại căng, lắp ghép. Cả tính tình cũng vậy: hay nói nhưng không phải loại ba hoa: tò mò như con trẻ, nhưng tinh ý khôn ngoan, vẻ vô tư lự giấu giếm sự khôn khéo, biết kiềm chế và tự chủ. Ông ta là chuyên gia, làm hợp đồng cho một công ty nước ngoài đa quốc gia hiện đang xây cất một công trình lớn ở thành phố này.
Dừng chiếc xe máy thấp lùn, bánh nhỏ, kiểu lạ mắt ở ngõ 401, khoá lại, người nọ bước vào cái sân nhỏ khi nắng vừa hé và nhuộm ửng mái ngói căn nhà gác hai tầng của gia đình ông Nhuần. Đã quen lối, đáng lẽ phải bước thẳng tới nhà ông giáo Cần thì người nọ dừng lại. Lúc ấy, ông Nhuần đang kênh cao một bên chiếc xích lô già nua cũ kỹ để tra dầu mỡ vào trục xe, và bà mẹ đẻ ra ông Nhuần, chín mươi tuổi, lưng còng gập như cái dấu â, đang lẫm chẫm đang bê một nồi nước từ giếng về bếp; bà lão vẫn ham việc.
Người nước ngoài cười, đầu gật gật, giơ bàn tay lên như chào ông Nhuần khi ông này quay lại. Rồi ông ta chậm rãi đi đến căn buồng ông giáo Cần.
*
Lúc ấy, ông giáo Cần đã dậy từ lâu, chỉnh tề trong bộ com lê xám nhạt đang ngồi chờ người học trò nước ngoài. Hoa, cây cảnh đã tưới tắm. Hương nến đã thắp trên bàn thờ. Và cà phê do người nước ngoài gửi từ lần học trước đang lặng lẽ buông rơi từng giọt đen đặc, khẽ âm vang trong cái cốc pha lê dày đặt trên bàn trà.
Ông giáo Cần nhận dạy tiếng Pháp cho người ngoại quốc nọ, sau khi đã xin ý kiến chính quyền thành phố. Ông muốn làm việc. Cái thiên hướng muốn hoạt động là của bất cứ ai, huống hồ ông không phải là kẻ ưa dưỡng nhàn, huống hồ ông là con người có tri thức, loại người ngoài hoạt động bình thường như mọi người, còn có một đời sống bên trong luôn luôn muốn được tỏ bày – tỏ bày bằng công việc. Tựu trung, ông vẫn là con người sẵn có lòng hăng hái nhập cuộc, nhưng do uỷ mị và ít từng trải nên dao động hoang mang mỗi khi gặp điều bất như ý. Và những ngày đang sống đây trên thực tế chỉ là cuộc giằng co giữa hai con người trong ông, để sử dụng cho được cái vốn tri thức, cái chất xám là vốn tự có ở trong ông. Cuộc giằng co chưa ngã ngũ.
Một buổi sáng trở dậy, ông giáo Cần không còn được, dù là ít phút, những cảm giác sáng tươi về chùm hoa phượng và thơ Rông-sa nữa. Ông đang ở giữa các đối cực. ở giữa nỗi buồn về thân phận, niềm nhớ tiếc, hoài niệm, điều buồn phiền về số mệnh và lòng mong muốn được dâng hiến, những ý tưởng đẹp nhen nhóm từ Nam, từ những lá thư của Trọng gửi về.
Tệ nhất là trạng thái dang dở trong tinh thần. Ngồi chờ người nước ngoài đến học, khứu giác man mác mùi cà phê thơm sực toả khắp gian buồng, ngước nhìn ảnh người vợ thân yêu, ông Cần thấy lòng dạ nao nao, rất khó chịu.
“ Ta nhận việc này, đúng hay sai? Trời, mình chẳng hiểu mình nữa. Khó quá! Sống thế nào lúc này, vào tuổi này?”
Ông nghĩ, buồn lửng lơ và bàn tay phải, theo thói quen lại sờ sờ vào bụng, phía trên lá gan, và tự hỏi: liệu mình có bị u độc không?
*
- Chào giáo sư! Giáo sư tha lỗi cho tôi, tôi đã đến chậm.
Người đàn ông nước ngoài khom lưng như chui qua cái cửa, bước vào, mặt đỏ gay gắt vì oi nực.
- Tôi đến chậm. Hà hà...
Người đàn ông nhắc lại, thở phà phà, rũ rũ cái cổ áo, rồi theo lời mời của ông giáo, gật đầu cảm ơn rất lịch sự và tự nhiên, ngồi xuống cái ghế đối diện với ông giáo. Bây giờ mấy đứa con nhà ông Nhuần đã kéo đến, che kín cả khuôn cửa ra vào. Lần trước, chúng cũng kéo đến, cười đùa ầm ĩ, ông Nhuần quát: “ Hư quá bọn này! Có để ông ấy làm việc với bác Cần không!” Thành ra hôm nay chúng chỉ đứng im và ngắm người nọ, hiếu kỳ và trân trọng như ngắm một đồ vật lạ.
- Tôi đã chờ ông ba mươi phút - Ông giáo ngước mắt kính sáng vằng vặc, nhưng nhã nhặn, vui vẻ – Có một lần, Đôt-tôi-ép-xki đến một cuộc họp chậm. Người ta hỏi, văn hào đáp: có những lúc người ta phải sống cho ra sống và điều đó quan trọng hơn việc đến chậm.
Người nước ngoài bừng nở một nụ cười thích thú và chưa kịp ngạc nhiên, ông giáo đã tiếp:
- Nhưng nhà tư bản Cơ-rúp lại nói: Bí quyết của kinh doanh là biết sử dụng chính xác, có lợi từng giây một trong một phút.
- Ha ha...
Lần cười này, người đàn ông nọ không giấu nổi vẻ kinh ngạc. Ông giáo vừa hóm hỉnh thanh minh hộ, vừa trách cứ nhẹ nhàng việc sai giờ của ông ta. Câu chuyện mở đầu thật tự nhiên. Giai điệu của bản nhạc đã có. Ông học trò bắt đầu vào cuộc hội thoại, và lạ thay, có lẽ là do âm hưởng của khúc mở đầu mà ông bỗng trở nên linh hoạt, cũng lây nhiễm ngay cái lối nói văn hoa, hàm chứa triết lý của ông thầy.
- Thưa giáo sư! Tôi đến chậm! Nhưng vào đến cái sân nhỏ ở ngõ này lại dừng lại ít phút để ngắm bà lão còng tội nghiệp bê nồi nước. Và tự hỏi: Con cháu bà cụ đâu?
- Ông hãy hỏi chính ông câu hỏi ấy, giả dụ có một người nhìn thấy mẹ ông đang làm việc nội trợ?
- Chúng tôi, con cái của bà mẹ đều đi làm xa. Nhưng bà mẹ tôi sống rất dư thừa, sung sướng với tiện nghi vô cùng đầy đủ.
- Ông có chắc mẹ ông không làm việc gì không?
Ông giáo ngừng một lát. Đã động đến tâm sự của chính ông. Và thấy như mình đang được dịp tự bộc lộ, giọng ông hơi cao lên:
- Ông chưa hiểu con người, ông học trò thân mến ạ. Na-pô-lê-ông đã chết ở hòn đảo Xanh Ê-len. Đó là một hòn đảo khí hậu tuyệt vời nhất ở Địa Trung Hải. Bị đầy ra đó, nhưng ông ta vẫn đủ bộ sậu tuỳ tùng với đủ các thú vui tiêu khiển. Ông ta chỉ có việc chơi bời, giải trí, đi săn. Nhưng sự rỗi rãi, vô tích sự trước ý chí là đồng hành của cái chết.
- Nhưng, tôi đến chậm còn là vì sự ách tắc giao thông của thành phố, thưa giáo sư.
- Đổ lỗi cho khách quan, đó là điều dễ dàng - Ông Cần mỉm cười – Nhưng, đó là một thực tế, tôi công nhận.
- Một thực tế tiêu biểu cho đất nước của giáo sư.
- Ông diễn đạt lại cho rõ ràng hơn đi, ông học trò.
- Thưa giáo sư - Người đàn ông cụ cựa, ngập ngừng - Đất nước giáo sư trộn lẫn nhiều yếu tố quá. Cùng một lúc, trên cùng một mặt đường vận hành cả chiếc xe Von-ga hiện đại lẫn chiếc xích lô cổ lỗ và cái xe bò nhà quê. Chính là cái nọ đã cản trở cái kia.
- Rất dễ hiểu thôi. Chúng tôi cũng không muốn như thế. Nhưng tất cả đều phải có thời gian, ông học trò ạ.
- Bên cạnh cái tuyệt đẹp lại là cái cực xấu.
- Tất nhiên!
- Bên cạnh người anh hùng, thưa giáo sư - Người nước ngoài gân cổ, mắt ánh lên nỗi căm phẫn rất đột ngột – Cho phép tôi nói thẳng, là thằng ăn cắp.
- Điều đó không phải là phát hiện mới mẻ - Ông Cần ngả người, nhìn những giọt cà phê bụ dần dưới đáy phin. Ông hiểu ông học trò của ông muốn nói gì rồi. Thanh thản và điềm đạm, ông tiếp – Có lẽ ông muốn nói về một thói xấu đang hoành hành.
- Vâng! Ăn cắp! Đó là một thói tệ không thể tồn tại được trong một xã hội văn minh. Giáo sư thử tưởng tượng xem, từ những linh kiện điện tử quý giá nhất tới chiếc búa sắt thô sơ - Ông học trò nhún vai, xoè hai tay làm một cử chỉ bay bốc lên trời, trong khi khuôn mặt rung lên một cơn co giật.
Cử chỉ và thái độ tức giận của ông học trò làm ông Cần bật cười. Chính ông cũng lạ về tiếng cười của ông. Thì ra những gì thuộc về ông thì không bao giờ mất đi được. Ông vẫn là ông giáo sáng trí, thông minh và làm chủ được hiểu biết, ý thức được mình như ngày nào đã xa.
Xẻ cà phê vào hai tách, ông giáo Cần đẩy một tách đến trước mặt người nước ngoài.
- Đó là một bi kịch - Ông giáo nói, khoan thai – Vở bi kịch của lao động dưới thời tư bản còn tiếp tục để lại dư vang tới tận hôm nay. Lao động bị tha hoá, tạo lên một tâm lý trốn tránh lao động và hưởng thụ lao động của kẻ khác.
Câu giải thích không thoả mãn người nước ngoài. Tì hai tay trên bàn, nửa người ông ta như xô về phía ông Cần, và giọng chợt bừng bừng như có hơi lửa:
- Tôi không thể đồng ý với giáo sư được. Nước chúng tôi là nước tư bản, giáo sư chưa được tới thật đáng tiếc, nhưng ở đó...
- Tôi đã từng học ở Pa-ri.
- Tôi biết – Người đàn ông nheo nheo mắt, láu lỉnh và dạn dĩ – ở nước chúng tôi, ôtô không phải khoá. Xe đạp để ngay bên vỉa hè. ở nước chúng tôi...
Cúi xuống xúc đường từ cái thấu thuỷ tinh thả vào tách của mình, khuấy nhè nhẹ, ông Cần không ngẩng lên, nhưng như chẹn ngang câu nói nọ:
- Không có ăn cắp vặt?
- Đúng như thế!
Ngẩng đầu lên, một ánh cười giễu cợt thoáng hiện qua bên mép ông giáo. Người nước ngoài nhận ngay ra vẻ lịch lãm đó, mặt ông ta bỗng bì bì như hoá chai.
- Chúng tôi không có ăn cắp - Ông học trò cả quyết.
- Không có ăn cắp vặt thôi - Ông giáo nói như cải chính – Cứ cho là như thế. Nhưng, ông có tin rằng những điền chủ, tỉ phú, triệu phú sống và giầu có bằng chính sức lao động của họ không?
Lần này người học trò lớn tuổi ngả người ra sau ghế. Người đối thoại, người thày dạy ông ta đã giữ vị trí ông thày từ phút đầu tiên, không hề tỏ ra nao núng khi bị trò dồn đẩy, hơn nữa lại còn đối đáp với trò bằng một thứ ngôn ngữ giao tiếp hết sức chính xác, bóng bẩy, một lối phô diễn uyển chuyển, đầy những phép ẩn dụ và kiểu nói tu từ.
- Khà khà... – Người đàn ông cười gượng gạo.- Thôi, xin giáo sư cho phép buổi học không đi sang các địa hạt chính trị, chính trị ta dành cho các nhà lãnh đạo. Chúng ta nói những chuyện bình dị hơn – Người nước ngoài nhấc tách cà phê, nhấp một hụm to – Thưa giáo sư, giáo sư có cảm tưởng gì về loại cà phê Mu-tu này?
Hà một hơi thú vị, ông giáo nhấc tách cà phê, tâm trí thư giãn, như vừa hoàn thành một công việc đạt kết quả mỹ mãn.
Khuôn trong lòng tách sứ trắng bong một làn nước nâu đen, sánh lạnh. Toả vào khứu giác ông giáo một làn hương thơm bùi, thanh khiết. Thứ cà phê thượng hảo hạng, gói trong giấy bạc, trên có khoảng chân không để giữ hương vị lâu, nhấp vào còn dư vị hậu, lưu luyến mãi ở cổ họng. Cùng với khói thuốc lá gu Pháp, lúc này, căn buồng hẹp dậy lên mùi thơm nhè nhẹ dịu hiền.
Chà! Lâu lắm rồi ông Cần mới được thưởng thức thứ cà phê ngon như thế, hút điếu thuốc lá thơm thú vị như thế! Tuy là trí thức Tây học, và có trong mình cái hào hoa, coi nhẹ chuyện cơm áo của kẻ sĩ, nhưng phút này, ông vẫn thấy đê mê như lạc vào một thế giới xa lạ. Nhất là khi người đàn ông kia sử dụng tiếng Pháp khó nhọc nhưng đã cố gắng chuyển câu chuyện sang đề tài khác, ông ta bỗng trở lên dào dạt, sôi nổi khác thường. Ông ta kể về đất nước thanh bình và cái gia đình nhỏ có một bà mẹ và bốn anh em của mình. Bà mẹ ông sống một mình trong một ngôi biệt thự xinh đẹp ở ngoại ô thủ đô, chỉ liên lạc với các con bằng thư từ, điện tín, trong khi bốn anh em ông, bốn kỹ sư đi khắp thế giới, làm việc cho các công ty quốc tế. Riêng ông ta, không vợ con, đã hưởng thụ hầu như tất cả của ngon vật lạ trên thế gian. Mùa hè năm ngoái, nghỉ ở In-đô-nê-xi-a. Năm kia, du lịch ở Thái Lan và sắp tới sẽ đi chơi mười ngày ở Hồng Kông. Đó thật là một cuộc sống thần tiên, đầy ánh sáng văn hoá và niềm vui. Ôi, những câu chuyện đời sống, chuyện chơi vui, ăn uống, may mặc, du lịch, yêu đương, cà phê, thuốc lá, bia rượu. Chuyện đời đó thôi, hào hứng thú vị xiết bao!
Người nước ngoài đặt tách cà phê xuống, khoan khoái liếm mép:
- Ồ! Cà phê ngon tuyệt! Ai cũng phải thấy ngon chứ, thưa giáo sư. Ai cũng là con người trước khi là một thành viên dân tộc, giai cấp, xã hội.
- Ông nhầm! Gạt tàn thuốc, ông Cần múm mím môi nhìn ông học trò – ở cái câu sau cùng ấy. Còn cà phê, ngon lắm. Tuy vậy, đã là con người thì phải hiểu: không thể đòi hỏi cái gì mà xã hội không thể kiếm đâu ra được. Sống, vui chơi, ăn uống, may mặc, du lịch, yêu đương... chuyện đời, ông nói đúng, nhưng ông lại chưa hiểu; nó rất đời, vì nó hoàn toàn phụ thuộc vào đời, ông học trò ạ.
Câu nói sau cùng của ông hình như không ăn nhập vào câu chuyện. Chính ông cũng cảm thấy có phần như thế. Thoáng trong mắt một giây ngơ ngác, nhưng, ông liền sập mi mắt, lắc nhè nhẹ mái đầu đã bạc mảng tóc ở gáy và hai thái dương. Ông nhận ra mình rồi. Ông đã nhìn thấy chân dung mình qua cuộc đối thoại thầy trò với người đàn ông kia. à, ra ông là vậy. Có lầm lạc. Có bối rối. Nhưng chưa suy đồi thảm hại. Và nhất là còn cái cốt lõi rắn chắc. Giấy rách còn lề; còn cái lề giữ được. Sau bao ngày chìm trong buồn nản, tưởng ông đã mòn mỏi, rã rời và cằn cỗi đi. Vậy mà không, trong ông vẫn là một cốt cách, một bản ngã, có lúc nó lặng chìm đi, nhưng khi đối mặt với cái gì đối lập, định phủ định nó, thì nó bật lên, tự bật lên một sức mạnh đề kháng, cứng cáp hiên ngang. Hiên ngang như những con đê chống lại bốn mươi tám tỉ khối nước, ông chợt nhớ tới một câu trong thư của con trai và ông bỗng thấy gần gũi với Trọng xiết bao!
Ông hơi nhổm dậy, phấn chấn hẳn lên. Lòng tự trọng, niềm kiêu hãnh của ông sẽ biến thành lòng tự ái ngay lập tức, nếu như gã học trò kia lại tiếp tục khoe khoang đời sống vật chất xa hoa của ông ta và một bộ phận trí thức bên các nước ông ta để lung lạc ông, để dè bỉu miệt thị đất nước ông, dân tộc ông.
May thay, người nước ngoài đã biết kiềm chế. Ông ta liếc ra cửa và hình như thoáng thấy bóng Loan ở ngoài sân.
- Thưa giáo sư, tôi có một nhược điểm - Ông học trò cười láu lỉnh – yêu đàn bà đẹp.
Ông Cần cười theo:
- Điểm này thì có thể... ai cũng vậy!
- Vậy ta hãy nói chuyện về đàn bà.
- Với tư cách họ là nửa phần nhân loại?
- Ô, không – Người nước ngoài nhìn lên tấm ảnh bà vợ ông giáo, nhăn nhăn trán – Với tư cách họ là phái đẹp. ờ, người đàn bà đẹp. Thế nào là người đàn bà đẹp? Ai là người đàn bà đẹp nhất thế giới?
- Ý ông?
- Thật khó xác định! Jắc-Ky, vợ goá của tổng thống Ken-nơ-đi? Ồ, không toàn mỹ! Các ngôi sao màn bạc Châu Âu? Các tài tử Đài Loan? Những mỹ nhân thời xưa? Tây Thái Hậu, Đắc Kỷ, người đàn bà cuối cùng của nhà Thương? Ý giáo sư? La Meileure femme du monde? (*)
- Cái đẹp không thể là cái xa lạ!
- Ồ. Một ý nghĩ mới mẻ. Xin giáo sư nói rõ trường hợp giáo sư. Ai là người đàn bà đẹp nhất?
Nghiêng vai, hai mắt kính ngước lên tấm ảnh bà vợ già của mình, ông giáo Cần khẽ khàng và rưng rưng:
- Đó! Đó là người phụ nữ đẹp nhất, đối với tôi, của tôi!
Vừa nói ông vừa như bị hút vào tấm ảnh, buổi sáng nay vẫn như bao thuở, bà vẫn hiển hiện một gương mặt, một tâm tình tươi vui, hồn hậu và âu yếm nhìn ông. Phải đến một phút sau, ông giáo mới quay lại và nhận ra người học trò nước người của mình đang há hốc miệng vừa kinh ngạc, vừa khó chịu.
- Tôi không muốn nói người đàn bà đáng quý! – Người nước ngoài làu bàu vì cảm thấy mình bị lỡm cợt trong một trò chơi chữ nghĩa oái oăm.
Ông Cần ngả người ra thành ghế, châm thuốc, và trong làn khói thuốc toả lờ mờ những vòng lượn chông chênh, giọng ông đằm lại, mỗi âm tiết như một nốt nhạc được tuyển lựa kỹ càng và âm vang:
- Ông không hiểu ư, ông học trò thân mến của tôi? Với tôi, không có ai đẹp bằng bà vợ già của tôi cả. Không có mái tóc nào đẹp bằng mái tóc bạc của bà vợ tôi. Ông khó hiểu ư? Vâng, mái tóc bạc ấy, làn da nhăn nheo ấy, đối với tôi, giờ đây vẫn còn gây bao xúc động! Năm tháng chỉ làm đằm thắm thêm tình cảm của tôi với người vợ của tôi thôi. Ông không tin ư? ồ, lúc nãy ông nói về con người và ông đã nhầm. Tôi là con người nói chung, đồng thời là tôi, ông giáo Cần, thuộc về dân tộc tôi, đất nước tôi, không tách rời được. Chúng tôi, lúc trẻ có tình vợ chồng, lúc già lại thêm nghĩa phu thê. Nghĩa, trong tiếng Pháp không có từ này. Chúng tôi có tình bạn, tình cha con, tình mẫu tử, tình hàng xóm... Chúng tôi còn có nghĩa bạn bè,nghĩa phụ tử, nghĩa lân bang; xưa kia còn có nghĩa vua tôi. Vì nghĩa, người ta có thể xả thân. Nghĩa là kết tinh năm tháng của tình; về mặt nào đó, còn sâu sắc hơn tình.
Đôi mắt kính lại một lần nữa ngước lên ban thờ người vợ thân yêu, giọng ông không cao hơn, nhưng càng như tha thiết hơn:
- Có lẽ ông lấy làm lạ về cái bàn thờ của tôi, của dân tộc tôi, ông học trò à! Tôi không chê lối sống của các ông. Mỗi dân tộc đều đáng quý và có quyền sống theo cách sống của mình. Chúng tôi cũng vậy. Nhìn cái bàn thờ kia ông đừng nghĩ đó là mê tín. Có những giá trị thiêng liêng đáng tôn thờ lắm chứ. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, các anh hùng liệt sĩ, các ông tổ nghề. Đó không phải là tôn giáo, cũng không phải là học thuyết. Đó là ân nghĩa, là lòng sùng kính. Cái đó mạnh lắm, bền vững lắm. Bền vững như Đế thiên, Đế thích, như Kim tự tháp, ông ạ.
Cảm thấy vẫn có thể nói tiếp, nhưng như vậy là bất nhã và làm mất đi tính chất của buổi học, ông giáo Cần dừng lời.
Người nước ngoài gật đầu miễn cưỡng:
- Tôi hiểu, thưa giáo sư kính mến. Đất nước giáo sư có một nền văn hoá đẹp, một quá khứ huy hoàng.
- Ông có đọc lịch sử nước tôi?
- Dạ, thưa có.
- Vậy còn hiện tại ở đất nước chúng tôi?
- Thật là đầy khó khăn!
Ông Cần cười, cái cười điềm tĩnh, tự chủ.
- Thật là đầy khó khăn! - Ông nhắc lại lời người học trò, hơi cúi xuống – Nhưng cũng như luận đề chúng ta vừa trao đổi. Cái đẹp mà xa lạ thì vô nghĩa, với tôi, đất nước còn đang nghèo nàn này, có thể lúc này là nghèo nàn nhất thế giới đấy nếu tính theo thu nhập đầu người, nhưng tôi nhắc lại, với tôi, đất nước này không gì sánh được. Tôi không đổi nó lấy bất cứ một cái gì. Bởi vì đất nước này là nhân nghĩa, là ân tình của tôi. Ông có biết câu ca dao này không: “ Con không chê cha mẹ khó. Chó không chê chủ nhà nghèo...”
Ông Cần ngừng lại. Mắt kính ông bỗng dưng như có hơi nước ám và ông thấy cánh mũi bỗng cay cay. Ông khóc vì xúc động. Tràn vào ông tất cả những tình yêu, nỗi nhớ, và cả nỗi đắng cay, chua xót của những ngày qua.
Chính lúc ấy, mái ngói nhà ông bỗng lộp độp tiếng mưa rơi. Ngẩng lên, nhìn ra cửa, ông giáo nhận ra hạt mưa đã đan dầy cả khoảng sân.
- Mưa to đấy, ông ạ - Giọng ông nghèn nghẹn – Mưa to, rồi úng, rồi ngập lụt. Khó khăn! Khó khăn lắm! Nhưng đó chỉ là một khía cạnh giản đơn, ai cũng thấy được. Còn khía khác khó thấy hơn, vì nó kỳ diệu. Tôi muốn kể ông nghe khía cạnh ấy bằng câu chuyện huyền thoại Sơn Tinh-Thuỷ Tinh của dân tộc chúng tôi. Ông có nghe và hiểu hết lời tôi nói không?
Mưa đổ rào rào như ném đá sỏi một đợt nữa trên mái ngói.
Giọng ông giáo Cần trầm xuống thăm thẳm. Mưa xối xả mỗi lúc một to. Ngoài ngõ có tiếng chân người chạy thình thịch. Bụi nước bay mờ mịt ngoài sân, căn buồng nhỏ bỗng tối mờ. Rồi tiếng sét nổ vỡ thình lình từng dây dài, kéo ngang qua thành phố và bầu trời đen sầm nhoang nhoáng những tia chớp sáng loé.
Trong tiếng mưa đổ như thác và tiếng sấm sét ầm ào, lát sau bỗng vang lên tiếng gào của ông Nhuần tổ trưởng dân phố:
- Bớ bà con! Ai có sức thì ra tập hợp, lên ô tô đi hộ đê nhé! Nước sông lên to lắm rồi!
Tiếng ông Nhuần bị vuốt dài, nhoè mờ trong tiếng mưa, nghe rờn rợn. Người nước ngoài rùng mình.
Ông giáo Cần yêu cầu dừng buổi học ở đây. Ông tìm cái áo mưa, khoác vào, và đi ra ngoài! Ông nghĩ là ông sẽ đến với Trọng, ông như tìm được thế quân bình của mình.
Chủ tịch huyện sung sức tuổi bốn lăm, mũ cối, mặt vuông vức, râu quai nón mờ mờ, vẫn nguyên trang phục bộ đội, đứng trước cái bàn mộc, giọng sang sảng:
- Số một phải là tình báo. Mùa lũ vừa qua, tình báo làm ăn khá, đánh giá chính xác từng đoạn đê xung yếu. Số hai là tuần tra, túc trực cũng khá. Cụ Ruân trưởng điếm Nguyên Lộc có đây không ạ? A, chào cụ. Thay mặt ban chỉ huy chống bão lụt huyện, xin có lời tuyên dương cụ. Xin biểu dương cả lực lượng thanh niên xung kích. Nữ đồng chí Thuận, Nguyên Lộc có ở đây không đấy?
- Có tôi đây ạ! – Một giọng nữ trẻ khe khẽ đáp.
- Báo cáo đồng chí chủ tịch huyện, cô ấy giờ là chủ tịch xã ạ.
Chủ tịch huyện quay lại phía có tiếng nói:
- Tôi biết rồi. Đây là tuyên dương về phương diện tuổi trẻ. Được chưa nào. Giờ, tôi xin phát biểu tiếp nhân cuộc họp cụm tổng kết công tác đê điều mùa lũ vừa qua và xin có ý kiến riêng về xã Nguyên Lộc. Phải nói là ưu điểm thì nhiều, nhưng còn nhiều thiếu sót. Lúc này xin cho nhấn mạnh đến thiếu sót, khen nhau dài đuôi để lúc khác. Trước hết, phải kể xử lý giờ đầu rất kém. Thuỷ phá thổ nhanh lắm thế mà cứ ú ớ Việt gian...
Ồ lên một hồi cười vì cái nhóm từ ngữ ngồ ngộ của chủ tịch huyện. Ai cũng biết tác giả của nhóm từ ngữ ấy là một anh chàng thủ kho tính khí hơi bất thường nói năng hay dẫn chuyện kinh sách, anh này mới được bổ sung về đội bảo vệ của ông Ngoạn cuối mùa mưa vừa rồi. Chính chủ tịch huyện cũng bật cười, nhưng giọng ông lại vang lên mạnh mẽ, dứt khoát ngay sau khi ngắt đoạn. Rõ ràng ông là người của một thế hệ cán bộ huyện mới mẻ, trẻ trung, xông xáo, miệng nói tay làm, có văn hoá, hiểu biết kỹ thuật, táo bạo. Vừa rồi, chính ông chủ trì cuộc đấu tranh chống tiêu cực ở huyện. Cách chức một loạt chủ tịch xã, bí thư, chủ nhiệm ở các hợp tác xã có dính tay đồng tiền bát gạo của dân. Kỷ luật hạ tầng công tác một lúc bẩy trưởng phó phòng vì tội tham ô, vô trách nhiệm. Và vụ lũ vừa rồi, sùng sục đích thân đốc chiến ở các quãng đê hiểm yếu, đặc biệt là ở khúc đê Nguyên Lộc này.
Giờ thì chủ tịch đang phê phán những thiếu sót của Nguyên Lộc. Ý kiến của con người sâu sát công việc này quả là chính xác. Đến nỗi ngồi ở rìa cái dù xanh căng tròn như chiếc nấm trên đê, ông cụ Ruân râu cằm lơ thơ, cứ sau mỗi lời của vị quan chức đầu huyện này, lại gật đầu tán thưởng một câu: “ Chí phải!”.
Nguyên Lộc có khá hơn vụ trước thật, nhưng đúng là còn nhiều khuyết điểm. Ông cụ Ruân chỉ cần lướt mắt một cái quanh đây là có thể vanh vách kể ra được, chứ chưa cần nói đến vị trí của người trong cuộc. Kìa, hàng tre chắn sóng sao xác xơ vậy ? Hai cây số, mấy trăm bụi, bụi nào măng cũng bị đào, tre cũng bị chặt. Cái điếm canh có từ thời Gia Long – Tự Đức bé không bằng cái bếp, bọn trộm cắp cũng chẳng tha. Xểnh mắt một cái, nửa mái ngói đã bay biến. Lại còn hơn trăm khối sỏi, cát chôn ở chân đê phòng khi lâm sự thì hậu cần tại chỗ cũng bị bí mật khai quật, vét sạch. Tre, ngói, sỏi, cát chạy đi đâu? Chúng biến hoá và hiện hình ở cái móng, mảng tường, cây đòn tay, khúc xà gồ nhà ông nọ, ông kia thôi. Ai còn lạ! Rồi lại cái vụ vỡ cống, nước tuôn đầy đồng, phải xì xòm tát nước gần tháng trời cứu lúa. Tội tầy đình, rành rành đấy thôi. Không nói ra lúc này còn để lúc nào?
- Này, cô Thuận – Gãi gãi cằm, ông cụ Ruân quay sang cô gái trẻ ngồi cạnh – Tôi nghễnh ngãng nghe không rõ, ông chủ tịch huyện nói về cái vụ vỡ cống chưa nhỉ?
- Chưa cụ ạ.
Cô gái đáp, lại ngẩng lên. Cái cằm xinh nhìn nghiêng hênh hếch một nét gẫy mềm, ở đó có một chấm nốt ruồi khiến cho gương mặt thêm duyên dáng, thanh cao.
- Này, thế chi uỷ các vị kiểm điểm ông Long chưa?
- Gửi cả biên bản kỷ luật lên huyện rồi, cụ ạ.
Khuôn cằm vẫn hếch cao, hình như cô gái đang nhấp nghển đợi chờ. Quả nhiên, nửa tiếng sau, tràng vỗ tay hoan hô bài phát biểu của ông chủ tịch huyện vừa dứt, cô chủ tịch xã xinh gái đã đứng phắt dậy ngay:
- Báo cáo với huyện là công việc di chuyển dân ở bãi Soi giữa sông vào trong đê vụ lũ vừa qua Nguyeen Lộc chưa làm được. Là bởi vì còn mắc míu về tư tưởng. Còn rất nhiều khó khăn.
- Khó khăn gì nào?
Chủ tịch huyện gõ ngón tay xuống bàn, nghiêng nghiêng mái đầu. Không giấu được cảm tình với khuôn mặt xinh xinh và giọng nói quyết đoán của cô gái, ông cứ gật đầu liên tiếp và chốc chốc lại cúi xuống ghi một hàng chữ vào cuốn sổ tay bìa cong vênh vì dính nước.
- Tôi có ý kiến này.
- Ơ kìa, cụ Ruân. Cô Thuận còn đang nói.
- Tôi có ý kiến - Ông cụ Ruân đứng dậy, cao gầy như con hạc, mặc cho mọi người la, gọi - Ông chủ tịch khen tôi, tôi xin tặng lời khen cho chính ông.
- Hà hà...- Chủ tịch huyện cười.
- Tôi nói thật. Việc hộ đê là một việc của toàn dân. Ngày xưa, kể từ vương hầu quý tộc, con em Quốc Tử Giám cũng tham gia. Chính vua Trần Minh Tông cũng có lần đi hộ đê. Thấy vậy, quan Ngự sử đài liền tâu: “Việc hộ đê là việc của nông phu. Xin bệ hạ ngồi yên để sửa sang đức chính”. Nhưng quan Hành khiển Trần Khắc Trung nghe vậy, nói ngay: “ Sửa sang đức chính không gì to hơn việc ấy”. Vua khen chí phải. Ông là người đứng đầu huyện, vừa rồi ông cũng lặn lội với bà con...
- Thôi cụ ơi...
- Gớm, cứ vòng vo Tam quốc mãi, bố ơi...
Đám thanh niên ồn ào. Hội nghị hình như đã quá dài. Nắng chưa tròn xoe bóng cái dù. Và trong bếp đã bay ra mùi các món ăn sào nấu. Hôm nay Nguyên Lộc tặng hội nghị cụm con lợn ngót một tạ kia mà.
- Thôi nhé, chúng ta tạm dừng ở đây – Chủ tịch huyện dường như ngượng vì lời khen của cụ Ruân đứng dậy, đeo xà-cốt – Chiều chúng ta làm tiếp, sẽ góp ý kiến với các xã.
- Tôi chưa nói hết... Chưa xong! Chưa xong được đâu!
- Thôi thôi, cụ ơi.
- Bố Ruân ơi, dĩ thực vi tiên cái đã!
Nhốn nháo, hơn phần nửa số người trong cái dù đã đứng dậy vươn vai, cười nói. Ông cụ Ruân giằng ra khỏi tay một người, leo lên cái ghế đẩu.
- Ô hay, tôi còn đang nói kia mà. Về Nguyên Lộc chưa xong đâu. Một giấc ngủ trị giá nghìn mẫu ruộng. Chuyện tày trời ấy sao không phanh phui ra cho rõ trắng đen. Ô kìa! Lạ nhỉ!
Hình như chỉ có chủ tịch huyện và Thuận là nghe rõ lời ông cụ. Còn thì tất cả đã tuôn ra khỏi lòng chiếc dù.
Đặt chân xuống đất, ông cụ Ruân hầm hầm bước ra ngoài trời.
- Cụ Ruân, để chiều cháu nói việc ấy. Cụ ở lại liên hoan đã.
- Không!
Ông cụ vằng ra khỏi tay cô chủ tịch, phăm phăm đi.
*
Nắng long lanh, mỏng mảnh. Mùa thu như một lời xin lỗi của đất trời về cái nắng lửa mưa dầu của mùa hạ. Lúc này, nhìn con đê như một sinh thể nằm ruỗi dài thư thái, thiu thiu ngủ trong yên lành. Nào ai có thể ngờ chính ở nơi đây, những ngày chưa xa đã xẩy ra những cuộc chiến trận hào hùng và quyết liệt. Những ngày ấy rầm rập tiếng chân người, ầm ã tiếng trống thúc, tiếng thét la. Những ngày ấy, con người phải nghiến răng, căng hết gân sức, phải vận dụng đến những năng lượng dự trữ cuối cùng, phải gồng lên và muôn người phải cùng chung đúc một ý chí quyết thắng; vì sự sống của vùng đất, của con người mà phải quyết thắng.
Giờ thì nước đã rút. Kẻ thù đã trở về biên giới của nó. Con sông hung dữ đã biến hình và trở nên một dòng chảy hiền lành giữa đôi bờ đất định hình thành hai vệt cỏ cây xanh đằm. Mỗi một ngày qua, con sông lại một hẹp lại. Tới tháng này, nước nó trong ngần và ở chỗ dòng sông chẽ đôi ôm bọc bãi Soi, nước chảy le the, nông tới mức có thể lội qua được. Xóm bãi Soi nổi phềnh, dài hơn cây số, rậm rì bóng cây, như con tầu lớn buông neo, ngơi nghỉ sau một chặng đường dài.
Nước rút, con đê như giật lùi ra xa, bỗng như trở nên một vật thể thừa thãi, không công năng. Láu cá thế! Con sông định đánh lừa người; nó làm cho con người mê mị, rồi bất thần đánh úp họ. Nhưng sông ơi, mi đã lầm. Con người đã khôn từ thời vua Hùng có nàng Mị Nương kết nghĩa với Sơn thần núi Tản rồi. Huống hồ bây giờ chiến tranh đã qua, họ đã bước vào thời kỳ xây dựng và đất nước đã có nhiều của cải cần được bảo vệ!
Vượt qua một quãng đê vòng cung như cái vai bừa, ông cụ Ruân nhận ra ngay cái khôn của con người. Chớm vào mùa khô, một công trường gia cố đê đã thiết lập ở ngay khúc đê trước làng Nguyên Lộc.
Bộ đội cử hẳn một trung đoàn đến tham gia đắp đê. Năm nhà máy của tỉnh, năm trăm tay thợ, con đẻ của công cuộc công nghiệp hoá cũng đã đến. Dòng gánh đất, dòng vác đá, dòng xe đẩy đang tuồn đất, đá từ chân đê lên mặt đê. Cờ đỏ loáng thoáng chỗ này chỗ nọ, phấp phới bay. Loa trên nóc điếm hát vang vang. Dưới hủm sâu, một tốp thợ đấu chuyên nghiệp đang hì hụi dùng kéo cắt từng thoi đất lớn. Đê cũ đạt cao trình mười một mét. Trận lũ tháng bẩy vừa qua mới thấy lũ thuỷ quái hung tợn, chiến luỹ như thế chưa đủ vững. Vậy phải củng cố đê và đắp thêm con trạch.
Nghe thấy tiếng máy cồn cào, ông cụ nhìn lên và nhận ra ở chỗ cống vỡ, một cái máy xúc loại nhỏ đang quay cánh tay gầu. Ba chiếc IFA mũi tẹt chở đất chạy vào chạy ra. Mấy anh thợ đang vần từ xa đến một khúc cống xi măng to bằng cái vại. Thấy máy móc, ông cụ vui. Nhưng thấy cái cống, ông cụ lại bực. Đó là lúc ông cụ đang đi đến cái điếm canh. Đứng lại trong bóng râm của nó, phẩy cái quạt mo, ông cụ như muốn xua bớt cái bực bõ trong người đi. Thì thình lình cái loa đang hát bỗng dừng phắt và lập tức rồi phát ra một tiếng đàn ông gắt gỏng:
- Alô! Alô! Nhà máy Mồng một tháng Năm đâu? Yêu cầu nhà máy Mồng một tháng Năm cử người lên gặp Ban chỉ huy Công trường để nhận người của mình vừa đánh nhau bị bắt! Yêu cầu lên ngay! Nhà máy Mồng một tháng Năm đâu!
Quái! Lại còn gây gổ với nhau lúc này. Ông cụ Ruân ngừng tay quạt, ngó vào trong điếm, nhận ra người vừa nói trên loa là ông đội trưởng Ngoạn quen thuộc.
Quen thuộc lắm, nhưng hình như ông này cứ sau mỗi vụ lũ lại cao lớn thêm, đen cháy thêm thì phải. Ông đứng khuỳnh tay giữa hai gã đàn ông trẻ. Một cởi trần, tóc xoã như người thượng cổ, một đầu trọc lốc, nình nịch như xúc gỗ lim. Cả hai đều đang có cái hăng của anh gà chọi.
- Này, hai cậu, điên hả! - Ông đội trưởng quát - Đang lúc mọi người cặm cụi làm việc lại muốn thử sức nhau, hả? Đánh nhau mà giải quyết được vấn đề thì đánh nhau đi xem nào.
Nói câu cuối cùng, đội trưởng lánh sang một bên. Gã đầu trọc quay đi, vùng vằng:
- Nhưng mà tôi không ăn cắp. Tôi đại diện cho xí nghiệp đến để đổi cuốc xẻng bị hỏng. Bảo nó, nó cứ đi đi lại lại lải nhải: “ Hết này dài lại đến đêm thâu. Chúng ta đi trên đất Phi Châu”. Tôi mới sục vào kho để tìm xe cải tiến, thế là nó túm lấy tôi, vu vạ.
- Này, ú ớ Việt gian vừa vừa chứ. Già đòn non nhẽ rồi lại còn định chối hả?
- Mày bảo ai Việt gian?
- Hỏng thì chữa lấy chứ. Tôi vặn người rơm ra mà chữa, hả? Chơi nhau thì chơi. Ba năm võ Tầu không bằng một chầu củ đậu đâu, anh giai ạ.
Bật cười, đội trưởng đẩy gã tóc xoã ra một bên, và quát vào mặt gã đầu trọc: “ Về làm đi! Còn vớ vẩn nữa, tôi phạt”. Rồi bước ra cửa vì thấy ngấp nghé gương mặt ông cụ Ruân.
- Chào cụ.
- Thủ trưởng! – Gã tóc xoã đuổi theo, níu tay đội trưởng – Sao thủ trưởng lại thả nó? Thượng bất chính hạ tắc loạn!
- Thôi đi, ông - Đội trưởng quay lại, giật tay - Để sức mà làm việc, ông ạ.
- Tôi kể thủ trưởng nghe một chuyện đã ghi trong sử sách. Thủ trưởng phải biết rằng ngay từ thời xưa, luật đê điều đã rất là nghiêm. Ai cứ bẻ một ngọn măng, chặt một cây tre bảo vệ đê là xử trảm liền. Còn liên đới trách nhiệm làm vỡ đê thì từ quan đầu tỉnh tới chức hà đê ở xã dứt khoát là phải phạt, hạ chức và đi lao động suốt lượt.
Ông cụ Ruân đứng ngây người. Đội trưởng gãi gãi gáy:
- Chuyện sử sách ngày xưa...
- Chuyện có thật rành rành hẳn hoi đây. – Gã xoã tóc được đà, dấn – Cụ và thủ trưởng có biết không? Một năm nọ vỡ đê Văn Giang, lý trưởng thì bị nọc ra đánh trăm trượng. Còn từ tổng đốc tới tri phủ, tri huyện vùng Văn Giang tuốt luốt đều bị giáng chức, đầy đi lao động khổ sai ở công trường hiệu lực, thủ trưởng và cụ ạ. Hạn là ba năm. Sau thời hạn đó cho về, phục chức. Riêng một viên tri phủ nọ không được phục chức vì y mới đi công trường hai năm sáu tháng. Viên tổng đốc thấy vậy lấy làm ái ngại, bèn làm tấu từ tâu lên vua, xin thể tất nhân tình phục chức cho viên tri phủ nọ vì lý do: y đang lao động thì phải về chịu tang mẹ sáu tháng, hơn nữa y đã bẩy mươi mốt tuổi. Cụ và thủ trưởng nhớ cho là bẩy mươi mốt tuổi. Cụ và thủ trưởng có biết vua trả lời thế nào không? Trả lời thế này: “ Trẫm đây tiếc chi một chức quan nhỏ mọn như vầy. Nhưng, như vầy là làm thành một tiền lệ. Còn đâu pháp luật. Vậy, khanh cứ phủ dụ để y lên công trường hiệu lực tiếp tục làm đủ sáu tháng nữa!” Luật thế mới nghiêm ngặt chứ. Thời xưa đấy các vị nhé!
- Thôi thôi ông thủ kho ơi đừng lấy hiện tượng cá biệt để khen ngày xưa. Nhưng mà thôi, để lúc khác nhé, giờ tôi đang bận đây.
Đội trưởng nói đoạn, nhè nhẹ gạt tay rồi quay lại ông cụ Ruân, vừa kịp hỏi:
- Cụ vừa đi họp cụm về đấy à? Thì ông cụ dã bước tới trước gã xoã tóc thủ kho, hất hàm: Này anh! Anh phải kể câu chuyện vừa rồi cho ông chủ tịch huyện nghe.
- Cháu xin sẵn sàng.
- Này, ông thủ kho - Đội trưởng lại quay lại - Đến giờ nghỉ ông nhớ thu đủ dụng cụ và kiểm tra cẩn thận. Nhớ cho là xe cải tiến nào cũng là phải khoá. Nẩy nòi ở đâu ra lắm ăn cắp thế không biết!
- Mất hơn hai chục cái trục rồi, thủ trưởng ạ.
- Sao bảo tìm được thủ phạm rồi cơ mà.
Gã xoã tóc ghé bên cụ Ruân:
- Bố này, bố có biết lai lịch cái nhà tay Thưởng ở ngoài bãi Soi không? Cháu tìm được hai mươi cái trục xe cải tiến ở vườn nhà nó. Cái thằng ấy mặt ngang mũi dọc thế nào, cụ? Nhà nó bây giờ còn mỗi bà cụ già ú ớ Việt gian hết sức.
Thấy ông cụ bật cười, gã tóc xoã trợn mắt, giọng nghê nga:
- Cụ Ruân này, cháu sẽ gặp ông chủ tịch huyện ngay ngày hôm nay. Cháu đã làm xong một tờ khải, trong đó cháu đề ra 150 điều quy định hành chính của chính quyền. Luật ra luật. Tỉnh ra tỉnh. Huyện phải ra huyện nhé. Cháu vẽ cả mẫu công sở. Cả mẫu bàn ghế, quần áo cho công chức các cấp. Chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên, thường trực, toà án, kiểm soát đội mũ gì, đi giầy kiểu gì, mặc áo kiểu nào, màu sắc ra sao, cháu vẽ ra đủ hết. Rồi trách nhiệm của mỗi người đến đâu? Phạm lỗi phạt ra sao? Cháu đề nghị cả lương xướng cho từng loại cán bộ. Giả dụ như kỹ sư Trọng, ngày làm việc, ở nhà đã vậy, còn như đi điền dã bắt mối, đào mối ngoài nắng gió như mấy hôm nay phải có phụ cấp thêm. Cấp xã cũng vậy, cụ ạ. Tội ăn cắp trên công trường đê phạt thế nào, cháu có quy định cả. Xây dựng đất nước phải có luật cụ ạ. Tờ khải đây, cụ xem.
Gã xoã tóc móc túi quần lấy ra một tờ giấy khổ to nhàu nát. Cụ Ruân ngó vào. Chữ anh chàng li ti như con kiến, lại lằng nhằng đủ các hình vẽ vuông vuông tròn tròn.
- Cụ ạ, cái câu hát: “ Hết ngày dài lại đêm thâu. Chúng ta đi trên đất Phi châu” là trích dẫn ra vở kịch Hòn đảo Thần vệ nữ đấy mà. Nó có phải là vô nghĩa đâu. Nó vạch mặt bọn đế quốc Anh cáo già tham lam quỷ quyệt bá chiếm cả châu Phi rộng lớn. Chứ đâu có phải là làm nhàm lải nhải!
“ Hừ, đang chuyện nọ xọ chuyện kia. Thật không hiểu cái lão này điên hay tỉnh nữa”. Đội trưởng phẩy tay, tủm tỉm cười, bước ra ngoài điếm. Cái loa trên nóc điếm vừa phát bản tin: Quân Trung Quốc bắn hai nghìn quả đại bác sang địa phận huyện Mường Khương, tỉnh Hoàng Liên Sơn.
*
- Các cậu, đào ngay một đường rãnh bao vây tổ chính!
Trọng hét vui vẻ. Hai cậu con trai giúp việc cho anh kỹ sư vội lao thuổng theo một vòng tròn vây quanh cái khối đất xốp bạc trắng hình cầu, to bằng cái nơm.
Đội trưởng đội bảo vệ đê đã đến mà Trọng không biết. Ông ngồi chồm chỗm trên miệng hố, đầu đội cái nón lá già, ngó xuống. Hố to bằng cái giếng, sâu lút đầu. Dưới đó Trọng đang lúi húi chuyển quanh một cái tổ mối to lù lù. Tổ mối này là thủ phạm gây ra vụ ôtô khách sụt đít hôm rồi. Hôm đó, kéo mãi chiếc ôtô mới lên và lúc đó phải lấp, chèn chặt nhanh để củng cố đê, giờ mới có điều kiện khai quật. Công việc bắt đầu từ hai giờ sáng, làm liên tục cho tới bây giờ, mặt trời đã chếch về phía Tây. Dừng lại, bọn mối có thể thừa cơ khiêng mối chúa chạy trốn.
Nắng ngưng trong lòng hố chật hẹp, oi ngột lên. Hai cậu con trai, áo dính đẫm mồ hôi. Trọng giành cái thuổng từ tay một cậu, đâm phầm phập vào thành hố. Phải xẻ rộng để có thể quan sát kỹ cái tổ mối điển hình này. Kéo cái xảo, Trọng hót đất bê lên. Anh quên, không còn nhớ cả hai cậu phụ việc đều ở dưới lòng hố. Nhưng, xảo đất vừa vượt qua đầu anh thì bỗng bị nhấc bổng.
- Ối, anh Ngoạn, anh đến từ lúc nào thế?
Đội trưởng hất đất, không đáp, trả lại cái xảo, lại ngồi xuống. Cái bóng to đổ một vùng râm mát xuống lòng hố, che nắng cho anh kỹ sư.
Trọng ngồi xuống, nghiêng nghé, lại quên phắt ông đội trưởng. Cái khối đất luyện với nước rãi của mối kết tủa, chồng chất, là cả một toà kiến trúc tỉ mỉ, bí hiểm, giờ đã phơi ra giữa thanh thiên và thu hút toàn bộ tâm trí anh. Sau bước tìm được dấu vết sinh vật, xác định được nơi có tổ mối, đã sang bước tìm cách diệt mối có hiệu quả nhất. Và điều đó phụ thuộc vào sự hiểu biết của anh về kết cấu của tổ mối, các ngóc ngách của nó, nhất là biết được tổ chính của nó và cái gọi là hoàng cung-nơi mối chúa nằm, liên tục thực hiện chức năng sinh đẻ. Anh đã nắm được cái chìa khoá trong tay để mở cánh cửa bí mật vào lúc này? Chao ôi! Cái thời điểm vàng. Cái thời điểm kết thúc một chuỗi dài tiến trình, kết nối các khâu dây chuyền công việc, với bao công sức khó nhọc!
Giờ đây, anh đã vào tận hang ổ kẻ thù. Cái điều anh muốn nắm bắt đang thấp thoáng hiện ra, rồi lại tựa như một ảo ảnh, chập chờn, tan biến, dẫn anh vào cuộc đuổi bắt cực kỳ mê say. Cái nóng oi ngột, cơn mệt nhọc, những ưu tư buồn phiền, vô nghĩa cả. Anh mất hết cảm giác, hoà hợp với xung quanh như tự nhiên vốn có khuynh hướng hoà nhập với tự nhiên. Cái trạng thái vô cảm với cơn nóng, lạnh, cái trạng thái cân bằng giữa con người và ngoại cảnh ấy, đã có lần Trọng bắt gặp ở ba anh. ấy là một thời đẹp đẽ của ba. Trọng bước vào căn buồng chật chội, nóng bức của ba, muốn ngạt thở, kêu: “ Trời, thế này mà ba chịu được!”. Vậy mà ba vẫn ngồi với cuốn sách. Lạ thế, mồ hôi không chẩy, hoàn toàn thanh thoát thoải mái. “ Trọng, con nghe câu thơ này nhé: Comme on voit sur la branche au mois de Mai, la rose”. Lúc ấy, ông Hảo cũng có mặt, bật cười một cách rất vô duyên và phá vỡ trạng thái cân bằng của cha anh bằng một câu nói hết sức tầm thường: “Tôi trông bác như đi tu. Yo-ga cũng là vậy đấy, bác Cần ạ”.
- Tìm thấy rồi, các cậu ơi!
Trọng chợt nhổm lên, reo, kéo cả hai cậu con trai đang nghển cổ xin thuốc lá ông đội trưởng, vào nỗi nao nức của mình:
- Các cậu thấy chưa? Vấn đề là phải diệt được mối chúa và bít được các khoang rỗng. Nhìn xem, tổ chính nó nằm có sâu không? Chú ý này, càng gần tới tổ chính, số tổ phụ càng tăng, số mối phục vụ càng đông, càng mập. Con đường vào tổ chính đây. Có phải càng vào sâu, kích thước càng lớn không? Hình bán nguyệt, hình en-líp, rồi hình tròn. Điều này quan trọng hơn: Đường vào tổ chính đi dưới gầm các tổ phụ. Trời! Tuyệt quá! Từ nay, thấy tổ phụ, ta sẽ tìm ngay được tổ chính, sẽ diệt được ngay mối chúa. Hoan hô, hoan hô chúng mình!
Chuyển quanh cái tổ mối, Trọng hét toang toang. Trong lòng hố tựa như vừa xuất hiện một gã trai vui tính. Kìa gã ta còn huýt sáo.
Đội trưởng móc bao thuốc, châm ba điếu, đưa xuống hố và ngó xuống. “ À thằng này xưa rày có hút thuốc bao giờ! Há! Anh chàng ho. Kìa, hắn quẳng đi rồi. Hắn đang làm cái gì thế. à, đập cái hoàng cung. Chà, ả mối chúa bụng chửa ộ ệ bằng ngón tay trái, đầu chỉ bằng cái que diêm, trông mà phát tởm! Anh chàng đang phởn. Cái hôm đào hố nhử mối hắn bắt mình tìm bằng được một mảnh ván thôi rồi tẩm 666 để làm mồi, yêu cầu gì mà kỳ vậy, rồi bọn mối ra ăn, hắn cũng reo ầm ĩ: “ Ông có thấy không, mối thợ mập, mối lính đen là tổ nó ở gần. Mối thợ vằn đen, mối lính vàng nhạt là tổ nó ở xa”. “Hừ, bố ai hiểu được chuyện mối với kiến của hắn. Cả cái hôm giông gió hắn kéo mình đi xem mối bay giao hoan cũng vậy. Ra thằng cha làm khoa học nào cũng hay có những cơn điên dại đáng yêu như thế!”
Đội trưởng da đen sì, lòng trong sáng, dung dị. Hết lớp bẩy vào làm thợ cầu. Bị bom ép chuyển sang công tác bảo vệ đê, làm thợ lặn, rồi đi bộ đội, và lại trở về với con đê. Gốc con nhà thợ, sống thẳng thắn, trung thực, không ưa quắt quéo, thủ đoạn, nhưng đã va chạm nhiều, nên cũng chẳng khù khờ, ngờ nghệch.
- Anh Ngoạn ơi, anh xuống đây mà xem. Thắng lợi rồi! Thành công rồi!
Đội trưởng, theo tiếng gọi của anh kỹ sư, thò hai cái cẳng nghều ngào lông lá, xệt đít tụt xuống lòng hố. Hai cậu phụ việc tót lên miệng hố như trở về với đời, đuổi nhau, trêu chọc nhau về một cô bé mắt đen, tóc dài, ngực nở nào đó.
- Ờ ờ... Mừng cậu! Này hút thuốc đi, Trọng.
Đội trưởng chìa bao Tam Thanh. Anh kỹ sư rút một điếu, gài lên vành tai.
- Hì hì...
- Anh cười gì thế?
- Hút đi chứ - Đội trưởng xoè diêm – Sau đây là việc gì?
- Chỉ còn phụt vữa vào các hang hốc, đường trục, tổ chính, tổ phụ, diệt mối chúa là thanh toán triệt để toàn bộ. Anh có hiểu không? Xác định vị trí của nó, đào mấy đường đâm thẳng vào tổ chính, tổ phụ. Vữa phụt vào có pha hoá chất diệt mối và có tác dụng gắn trám luôn các khoang rỗng.
- Phụt vữa bằng gì?
- Máy!
“ Ờ, mặt hắn sao bỗng ngẩn ra, ngờ nghệch thế! Nhà kỹ thuật khéo lại quên cái gì”. Đội trưởng tủm tỉm cười.
- Anh cười cái gì thế?
- Trông cậu... buồn cười bỏ xừ đi.
- Lóng ngóng à?
- Không hẳn. Này, sao có lúc trông cậu âu sầu, ảo não như ông cụ thế? Tớ nói thật là tớ chúa ghét mấy cậu trí thức cứ hay kênh kênh cái mặt ra điều ta đây quan trọng!
- Khéo không lại Mao-ít.
- Tớ mà là Mao-ít!
- Mao Trạch Đông nói: Trí thức không đáng giá một cục *** chó khô.
Đội trưởng bật cười, liếm môi:
- Tớ chỉ không ưa loại ương ương dở dở thôi. Còn người có tài năng thật sự, họ không thế, họ tự nhiên như đời sống.
- Nhìn nội dung chứ đừng nhìn thái độ. Bọn họ cũng nhiều tâm sự lắm đấy.
- Ai chả biết. Nhưng các anh chúa là hay vẽ rắn thêm chân. Đời đơn giản thôi. Cứ chân lý mà theo, mà hành động.
- Nói như anh thật dễ quá!
- Chứ còn gì. Tớ đếch vụ lợi, tớ đếch sợ. Thế đấy. Nói ví dụ, cậu đã thành công một bước, nay cậu sang một bước mới, tớ thấy cậu làm vì lợi ích chung, tớ ủng hộ. Tớ có một thằng bạn rất giỏi về máy móc, kỹ sư cơ khí mà, nó sẽ giúp cậu chế tạo một cái máy phụt vữa. ấy thế, việc gì mà phải rắc rối. Đúng, ủng hộ. Sai, phê, đấu!
Hai con mắt bừng sáng, bất giác Trọng ngước nhìn lên cao.
- Hờ hờ... Mấy chú này giỏi! Giỏi!
Ông cụ Ruân đã tới, ngồi trên miệng hố, thả cái ấm sành xuống:
- Uống nước đi, hai chú. Chú Trọng đánh theo lối đặc công hả? Dà dà... Mẹ cha cái tổ mối, to thế kia cơ mà! Ơ này, ông chủ tịch huyện đang ở trong điếm canh đấy. Ông ấy định đi xem các chỗ lở, sụt, lún, nước sủi, nước tràn năm rồi.
- Để tôi lên tìm ông ấy.
Đội trưởng leo lên miệng hố, kéo luôn cả Trọng lên theo.
- Anh chàng thủ kho vớ được ông chủ tịch huyện như gái tơ vớ được nhân ngãi, đang trình tờ khải cho ông ta nghe - Ông cụ Ruân nói - Anh Ngoạn này, nói anh biết thôi nhé, anh ta như kẻ ngộ chữ ấy nhỉ. Nhưng mà đáo để, có ý tứ sâu xa cả đấy.
Đội trưởng chụp cái nón lên đầu. Ông cụ Ruân rót một bát nước đưa Trọng, nhìn xuống hố:
- Chú Trọng uống đi. Chặc chặc... Thế này thì có ngày tổ mối nhỏ sụt toang, đê vỡ. Có lẽ cái đận vỡ đê kinh hoàng năm 1915 ở xã tôi cũng là do cái tổ mối, chú Trọng ạ. Kinh thật! Nghĩ đến giờ vẫn còn sởn cả gai ốc. Đang tự dưng bỗng ùm một cái, nước bên sông quặt nghiêng đổ như thác, sôi sùng sục. Bây giờ, lắm đêm tôi đang ngủ lại giật mình tỉnh dậy, tưởng mình đang đứng giữa mỏm đất còn sót lại, ngửa mặt kêu trời. Hừ! Tổ kiến nhỏ sụt toang, đê vỡ! Sai một li đi một dặm như chơi. Thế mà cái vụ vỡ cống vừa rồi các ông ấy lại định ỉm đi, chú Trọng ạ!
*
Cơm tối xong, hai cậu phụ việc đi họp chi đoàn, Trọng xách cái đèn pin đi ra cái tổ mối đang đào dở. Anh vẫn đang háo hức muốn xác minh một lần nữa những kết luận khoa học của mình. Bao giờ anh cũng cảm thấy thời gian quá chật hẹp với mình. Lúc nào anh cũng thấy mình còn làm được quá ít việc. Và quái lạ, linh cảm về một điều gì bất hạnh đang lấp ló ở đâu đó sẽ đột ngột xuất hiện và bứt anh ra khỏi niềm say mê của anh, khiến anh lắm lúc bỗng giật thột mình.
Cái tổ mối mới đào lúc chiều nhỏ hơn và ở cách cái tổ mối anh đào lúc trưa có ông Ngoạn tới xem chừng hai chục bước chân. Khi anh đến cái tổ mối đó thì trăng vừa hé. Nhẩy xuống hố, thêm ánh sáng cây đèn pin, anh có thể nhìn thấy toàn bộ cơ cấu hoạt động của giống côn trùng này.
Lúc ấy trên quãng đê Trọng đang làm việc có hai người đang đi. Đêm trăng thanh vắng, tiếng người vang rất xa, giọng người đàn ông vang trầm, giọng người phụ nữ trẻ thanh trong, ấm áp. Và vừa bắt được tiếng nói của người phụ nữ nọ. Trọng bỗng đứng ngẩn. Anh thấy nhớ Loan, Loan ở cái thời đã rất xa rồi.
Lúc ấy, người phụ nữ trẻ đã đi tới cái hố mối lớn. Chị dừng lại, kêu sửng sốt.
- Anh Thắng! Anh trông cái tổ mối có kinh không? Nó làm tùng bê một cái ô tô khách đấy.
Người đàn ông ngồi xuống như lấy lệ, ngẩng lên, giọng bỗng trầm xuống.
- Cô Thuận, tôi hỏi thật, vậy cái cản trở chính trong việc chuyển dân ở bãi Soi là gì?
- Anh là chủ tịch huyện, anh phải biết chứ.
- Tôi đang hỏi cô. Chiều nay ông Long khẩn khoản mời tôi sang bãi, về nhà ông ấy ăn cơm. Ông ấy là chú họ xa của tôi. Ông ấy là thương binh chống Pháp. Tôi biết ông ấy đang có nhiều điều tiếng. Nhưng, chẳng lẽ lại khước từ. Cũng chiều nay, gặp cậu thủ kho, cậu ta nói cho tôi nghe đủ chuyện, tôi biết cậu ta móc máy tôi. Cả tờ khải của cậu ta cũng hàm ý đó. Còn ông cụ Ruân nữa, tôi biết ông cụ bực.
- Thế thì anh còn tỉnh đấy!
- Cô Thuận, sao cô nói thế?
- Ta lên xem chỗ cống vỡ đi.
- Tôi biết rồi cô Thuận. Một giấc ngủ trị giá một ngàn mẫu lúa. Ông Long còn chặt tre, lấy ngói, ăn cắp sỏi... tội tầy đình. Có phải thế không?
Người con gái im lặng và sự im lặng của người đàn ông còn nặng nề hơn. Họ đứng trên đê, mắt nhìn về bãi Soi.
Cuối cùng, người đàn ông cất lời:
- Cô Thuận ạ, cô còn trẻ. Cô chưa thấy hết sự phức tạp của cuộc đời.
- Anh nói thế em không thể đồng ý được.
- Tôi hiểu... nhưng cuộc sống rất không đơn giản. Vừa qua, cô biết đấy. Tôi thi hành kỷ luật một loạt cấp uỷ, cán bộ. Việc làm hoàn toàn vì lợi ích chung. Vậy mà đã lại có ý kiến: Khéo ông này quá tả, ông này đề cao cá nhân, xen tư thù vào việc công, ông này biết một mà không biết hai. Bao nhiêu là ý kiến, quan điểm, quan hệ, không dễ gì thống nhất với nhau được. Sống làm việc thế nào là đúng lúc này? Thời buổi như là dở trăng dở đèn này, có người bảo: Tốt nhất là nên một vừa hai phải thôi, cô ạ.
- Anh sợ mất chức chủ tịch à?
Người đàn ông kêu một tiếng khe khẽ. Người con gái nói vừa hết câu đã bước đi. Lát sau, Trọng nghe thấy tiếng chân hai người đi qua chỗ anh ngồi và giọng người con gái cộn trong hơi thở:
- Anh Thắng ạ. ở quãng đê này, cái Lý, cái Hoà bạn em đã chết. Hôm ấy nước to, máy bay Mỹ tới ném bom, bọn học sinh cấp ba chúng em đang đắp đê. Cả anh Nhân, nhà em sau này, cũng có mặt ở đây. Đời người ngắn ngủi quá. định làm một việc gì cho ra việc cũng khó đủ. Huống hồ lại không dám cả quyết mà không phải chỉ là thế. Lúc này cái gì cũng lùng nhùng, trì trệ, không ai dám làm việc gì cho đến nơi đến chốn cả ư?
Trọng leo lên mặt đê.
Vòm trời anh ánh xanh. Mặt sông lấp lánh ánh trăng non. Và những chấm sao như quay vòng trên đầu anh. Hai người nọ đã đi xa. Nhưng vẫn như còn đâu đây tiếng người con gái ấy. Một tiếng nói hậu tình và nồng nhiệt, âm vang những nghĩ suy trăn trở giữa cuộc sống đang còn khó khăn này. Anh nhận ra mình đã lầm khi cảm thấy giọng nói của chị giống giọng nói của Loan.
Anh đưa mắt nhìn về thành phố. ánh sáng điện từ thành phố phản quang lên vòm trời một vầng mây hồng dậng, hoà tan vào ánh trăng trong, tạo thành một khoảng trời nao nao niềm thương nhớ! Giờ là lúc thành phố tan buổi phim thứ hai. Trăng non gác trên mái gác cổ. Đường phố lung linh vệt lửa điện và tiếng người lao xao tan vào các ngõ hẻm của phố phường.
Trọng nhảy xuống hố mối. Phải săn tìm ngay con mối chúa. Mai viết tổng kết, liên hệ việc chế tạo máy làm vữa. Anh nghĩ, nhưng bỗng lại đứng ngẩn. Cồn cào trong anh lúc này là nỗi nhớ. Đã mấy tháng nay rồi anh xa thành phố.