Sau cuộc đua tài ở Ashby, những nhân vật chính ở câu chuyện này mỗi người đi một ngả; chúng tôi thấy cần phải kể những gì xảy ra với mỗi người trong số họ trước khi lại thấy họ tụ tập ở dinh cơ Front-de-Boeuf.
De Bracy sửng sốt vì sắc đẹp của Rowena nên gợi ý với hoàng tử Jean về một cuộc hôn nhân với một công nương dòng dõi gần nhất với triều đại Saxons chắc chắn sẽ làm ông vừa ý và chỉ làm cho ngôi vua mà ông ao ước được củng cố thêm mà thôi. Jean, ruột gan rối bời vì những lo lắng chúng ta vừa biết, bằng lòng cho De Bracy thử đi lo công việc ấy với điều kiện sau ba ngày anh phải trở về. Thì giờ thế thì ít. Tuy nhiên anh có kế hoạch của mình; anh rời khỏi nhà cùng với Brian và Front-de-Boeuf.
Một vài công việc cần thiết phải chuẩn bị để thực hiện ý đồ cưới xin đó, anh muốn đem ra bàn cùng hai hiệp sĩ nọ.
Ba người và các tay chân phải mặc bộ đồ xanh giả và họ phải như chim cắt đâm bổ xuống mồi, nhảy xổ vào đám người Saxons đi xem trở về. Lúc đó De Bracy xuất hiện dưới dáng vẻ cận thần của hoàng tử Jean, giải phóng người đẹp không may rơi vào tay bọn cướp áo xanh và dẫn cô về lâu đài của Front-de-Boeuf.
Chúng ta hãy để ba người đấy cho họ bàn tỉ mỉ kế hoạch của họ và hãy quay về ngày thứ hai của hội đấu. Bạn đọc hẳn không thể quên thắng lợi được quyết định do tài năng của một hiệp sĩ lạ mặt mà khán giả mệnh danh là Noir-Fainéant vì anh đã tỏ ra thụ động và uể oải trong phần đầu trận đấu. Nhưng khi chiến thắng anh đã rời khỏi trường đấu và khi người ta đi tìm để trao phần thưởng thì không thể tìm thấy anh đâu. Trong khi các tuyên cáo viên gọi anh bằng miệng và bằng kèn đồng thì anh đã đi về phía bắc; anh tránh không đi những con đường nhiều người qua lại; anh đi con đường ngắn nhất xuyên qua rừng.
Khi sương đêm bắt đầu bao phủ các vùng xung quanh, anh gặp một quán trọ nhỏ trên.đường đi; anh qua đêm ở đó và sáng sớm hôm sau, anh tiếp tục lên đường.
Chàng kỵ sĩ hình như đang phải suy nghĩ lao lung; chỉ khi gặp đoạn đường khó đi anh mới sực tỉnh. Lúc đó, anh mới chú ý đến điều khiển ngựa, kích thích nó bằng lời nói hay chân thúc.
Khi trời tối, anh lọt vào giữa rừng sâu, tìm chẳng có một quán trọ để nghỉ chân, trong lúc anh và ngựa đều đói và mệt.
Trong đêm tối, Hiệp sĩ áo đen không thể biết mình đi có đúng đường không. Rừng rất rộng và rậm rạp! Khổ hơn nữa là hiệp sĩ đến một chỗ có nhiều chỗ rẽ.
Anh kêu lên:
- Thề trước thánh George, vua nước Anh!
Họa mình có là thầy bói hay phù thủy mới đi được đúng đường!
Nét mặt anh, mặc dầu có chút ít không vừa ý, vẫn giữ được cái vẻ vui tươi của con người biết chấp nhận như nhau những ngày lành hay ngày hạn.
Tuy nhiên, muốn tận dụng cơ hội gặp may, anh cố gắng phân biệt lối đi nào nhẵn nhụi nhất, vì anh nghĩ - cũng đúng thôi - đó là con đường sẽ dẫn đến một nơi có nhà ở một cách chắc chắn nhất.
Cái may không phụ anh. Sau một lúc đi, anh đã đến một chỗ rừng thưa, có một túp lều dựng bằng các cây gỗ đẽo gọt sơ sài. Chắc hẳn đó là nơi ở của một người ẩn dật.
Hiệp sĩ áo đen xuống ngựa. Phải gõ cửa đến hai lần mới có tiếng trả lời, mà giọng nói xem ra không êm ái lắm.
- Ai đấy, hãy đi đi, là ai cũng mặc kệ nhé.
- Một tiếng nói mạnh và gắt cất lên. - Đừng đến quấy nhiễu trong giờ cầu kinh đêm của ta nhé!
- Thưa cha kính mến, - chàng hiệp sĩ trả lời, - tôi là một kẻ lữ hành lạc rừng; giúp đỡ tôi qua cái đêm này là cha đã sinh phúc theo lời răn của Chúa.
- Thôi anh ơi, tôi không sinh phúc đâu; ngược lại thánh Nữ Đồng Trinh và thánh Dun-stan còn vui lòng để người khác sinh phúc cho ta nữa kia. ở đây đến thức ăn để chia sẻ cùng với chó ta cũng chẳng có. Chỗ ngủ của ta thì một con ngựa chỉ tinh tế một chút nó sẽ chẳng chấp nhận. Vậy anh hãy đi đi! Cầu trời giúp anh..- Nhưng làm sao tôi tìm được đường đi trong rừng giữa đêm tối thế này? Tôi xin cha kính mến, ít ra cha hãy ra mở cửa chỉ giúp đường tôi.
- Đường đi dễ thôi, - người ẩn sĩ trả lời. -Con đường nhỏ trước mặt sẽ dẫn đến một đám sình lầy có một con suối bao bọc xung quanh, gần đây ít mưa rào có thể lội qua được đấy.
Nhưng khi lội qua anh phải để ý đến bờ bên trái vì nó hơi dốc đấy và cái lối đi ở phía trên, tôi nghe nói (vì ít khi tôi bỏ lễ ra ngoài) gần đây bị vỡ mất mấy đoạn. Sau đó anh cứ theo đường thẳng trước mặt...
- Một bãi sình lầy, một con suối lội qua, những bờ dốc thẳng, một con đường sạt lở! -Chà ng hiệp sĩ kêu lên. - Ngài ẩn sĩ ơi, ngài không thuyết phục nổi tôi đi một con đường như vậy trong đêm tối đâu. Ngài phải mở cửa ngay tức khắc cho tôi, nếu không buộc tôi phải đạp đổ.
- Anh bạn lữ hành ơi! - Nhà ẩn sĩ trả lời. -Anh đừng buộc tôi phải dùng đến thứ trời cho tôi để tự bảo vệ mình là vũ khí: điều đó chẳng lợi lộc gì cho anh đâu.
Nghe thấy tiếng chó sủa chàng hiệp sĩ nghĩ có lẽ nhà ẩn sĩ đã huýt chó từ chái nhà sang.
Tức giận, anh lấy chân đạp mạnh vào cửa khiến cái cột nhà rung chuyển.
- Gượm đã nào, đừng nóng thế, anh bạn lữ hành ơi. - Nhà ẩn sĩ rõ ràng không muốn cánh cửa của mình bị đạp lần thứ hai liền nói. - Hãy để dành sức, tôi ra mở cửa đây mà.
Nói xong, cửa mở, nhà ẩn sĩ, một con người khỏe mạnh, mặc áo thầy tu và đội mũ trùm đầu hiện ra trước mặt chàng hiệp sĩ. Một tay ông cầm bó đuốc, một tay cầm chiếc gậy to bằng gỗ cây táo dại. Hai con chó, nửa vẻ chó săn thỏ, nửa vẻ chó ngao, đứng bên cạnh và hình như chỉ chờ lệnh của chủ là nhảy xổ vào cắn người khách lạ.
Nhưng nhờ vào bó đuốc, nhà ẩn sĩ thấy một hiệp sĩ gươm giáo đầy đủ, liền thay đổi ngay ý kiến; rồi đuổi chó đi, ông bỗng nhiên lễ phép mời hiệp sĩ vào nhà đồng thời tìm cách xin lỗi, nói rằng ông không bao giờ mở cửa cho ai vào lúc đêm tối như thế này sợ là kẻ trộm hoặc những tên outlaws đầy rẫy trong rừng.
Sau khi vào nhà và đảo mắt nhìn quanh, hiệp sĩ chỉ thấy một chiếc giường trải lá làm ổ, một cây thánh giá bằng gỗ sồi gọt đẽo sơ sài, một quyển sách kinh, một chiếc bàn làm bằng các tấm ván không bào, hai chiếc ghế đẩu ba chân và một vài dụng cụ nấu nướng; anh nói:
- Thưa cha, cha sống khổ sở thế này thì sợ gì kẻ cướp, chưa kể có hai con chó trung thành đủ sức vật nổi một con hươu, còn đối với người thì tôi tưởng ít có người chống cự nổi chúng.
Khi nhà ẩn sĩ đã mời hiệp sĩ vào nhà, ông cài cây đuốc lên một que sắt đóng sâu vào một trong những thân cây dùng làm tường nhà. Rồi bỏ thêm củi vào bếp cho bốc lửa, ông ngồi lên một chiếc ghế ba chân bên cạnh bàn và ra hiệu cho hiệp sĩ cùng ngồi.
Hai người ngồi xuống, người nọ nghiêm trang nhìn người kia một lúc lâu, mỗi người chắc hẳn đều nghĩ mình chưa bao giờ giáp mặt với một người trông khỏe hơn và quyết đoán hơn thế.
Sau cùng hiệp sĩ nói:
- Thưa ngài ẩn sĩ kính mến, nếu không phiền nhiễu ngài khi đang buổi cầu kinh thì tôi xin hỏi ngài ba điều: một là tôi phải dắt ngựa vào đâu, hai là ngài có cho tôi chút cơm cháo gì không, ba là đêm nay tôi ngủ ở chỗ nào.
ẩn sĩ trả lời:
- Tục lệ của tôi đã thành bổn phận: tôi chỉ trả lời khi thật cần thiết: bởi vậy tôi sẽ trả lời anh chừng mực nào có thể. - Nói xong ông lần lượt chỉ vào hai góc lều: - Đây là chuồng ngựa; kia là giường của anh. - Sau lấy trên tấm ván một cái đĩa đựng hai nắm hạt đậu khô rồi đặt trên bàn trước mặt khách: - Còn đây là thức ăn của anh.
Hiệp sĩ nhún vai, bước ra khỏi lều, dắt ngựa vào, buộc vào một thân cây. Anh tháo yên cương, cởi áo choàng của mình ra đắp lên lưng ngựa.
Có thể nhà ẩn sĩ nhìn thấy chàng hiệp sĩ săn sóc con ngựa của anh như vậy thì cảm động lắm.
Ông làm như chợt nhớ ra hôm nọ người gác rừng đến thăm còn để lại ít cỏ khô; ông đi ra phía cửa sau, đem vào một bó rơm thơm vàng và một đấu yến mạch cho ngựa. ông ra lần nữa, đem vào một tải lá cành khô đặt vào một xó rồi ra hiệu là chỗ ngủ của chàng hiệp sĩ. Hiệp sĩ cảm ơn ông đã có lòng giúp đỡ; sau đó hai người lại.ngồi vào chiếc ghế cạnh bàn, trên đó vẫn còn cái đĩa đựng hạt đậu khô. Nhà ẩn sĩ đọc kinh trước bữa ăn có lẽ trước kia bằng tiếng la-tinh nhưng bây giờ khó nhận ra đó là thứ tiếng ấy trừ có vài tiếng hay vài câu chỗ này chỗ nọ giọng đọc kéo dài ra. Nhà ẩn sĩ thấy cần ăn trước để ông khách ăn theo nên ông lấy ba hay bốn hạt đậu bỏ vào miệng để lộ ra hàm răng rất khỏe, vừa nhọn vừa trắng như răng con lợn lòi.
Chàng hiệp sĩ bắt chước ông, liền bỏ mũ, cởi áo giáp ngoài, tháo bỏ bớt phần lớn các cân đai khiến nhà ẩn sĩ thấy anh có bộ tóc màu nâu xoăn một cách tự nhiên, nét mặt đầy đặn, đôi mắt tinh nhanh, hàng ria mép sẫm hơn bộ tóc chứng tỏ anh là một người gan dạ, dám nghĩ dám làm, y như cái thân hình cao lớn của anh đã mách bảo.
Nhà ẩn sĩ như muốn đáp lại sự tin cậy của người khách liền hất cái mũ trùm đầu ra sau, để lộ một cái đầu tròn của người đang ở tuổi thanh xuân. Tóc ở đỉnh đầu khoanh gọt, chung quanh là một vòng tóc đen cứng và xoăn làm người ta liên tưởng đến một cái sân làng xung quanh có hàng rào chắn cao. Nét mặt ông không mang dấu vết gì gọi là khắc khổ của đời sống tu hành hay dấu vết của việc ăn đói nhịn khát nghiêm trọng. Khuôn mặt cộng thêm cái thân hình đẫy đà của người nhà thánh cho thấy khẩu phần của ông phải là những miếng thịt bò hay thịt lợn bổ béo chứ không phải là những hạt đậu khô hay lá rau lá cỏ này đâu. Chàng hiệp sĩ không phải không có sự nhận xét ấy. Cố nghiền vất vả được năm hay sáu hạt đậu, anh hỏi chủ nhân xem có nước cho anh xin một hụm để chiêu miếng ăn không.
Người ẩn sĩ đến đặt trước mặt người khách một hũ nước đầy trong và mát. Anh đưa lên miệng, uống một hụm.
- Thưa cha quý mến, - hiệp sĩ nói, - tôi thấy cha ăn rất ít thứ đậu khô này, cha cũng không uống nhiều lắm cái thứ nước trong sạch này, vậy mà chúng có một tác dụng diệu kỳ đối với sức khỏe của cha. Trông cha có thừa khả năng rượt đuổi đến cùng một con hươu hay vật ngã dễ dàng một địch thủ hơn là một nhà ẩn sĩ ở chỗ quạnh hiu này để hàng ngày cầu kinh hay hát những bài thánh ca.
Nhà ẩn sĩ đáp:.- Thưa hiệp sĩ, những ý nghĩ của ngài không nói theo phần hồn mà giống như của những người vô đạo. Tôi tự cho phép ăn những thức ăn trên là làm theo ý của thánh Nữ Đồng Trinh và thánh Dunstan, những thánh đã gia ân cho tôi. Nhưng, thưa hiệp sĩ, - ông nói tiếp, - tôi nhớ ra hình như lần trước ông gác rừng hảo tâm đến thăm tôi, ngoài bó rơm kia ông còn để lại một số thức ăn mà tôi không đụng đến do tinh thần tôn trọng kỷ luật của tôi thì phải; và tôi lúc nào cũng bận suy tư học đạo nên tôi quên khuấy mất, không lấy ra mời ông ăn.
- Tôi cam đoan là ông ấy có để lại mà! -Chà ng hiệp sĩ kêu lên. - Ngay lúc ông lật mũ ra trông đầu ông, tôi tin nhất định nơi ông ở phải có một thức ăn gì bổ béo hơn thứ đỗ này.
Nhà ẩn sĩ nhìn trừng trừng ông khách rồi đi về cuối lều, mở cánh tủ được che đậy khéo léo và kỹ càng, lấy ra một gói patê to tướng đặt lên bàn. Chàng hiệp sĩ rút con dao găm ở thắt lưng ra mở phăng gói patê và không để mất thì giờ lấy một miếng thật to nếm thử.
Nhà ẩn sĩ buồn rầu nhìn ông khách tấn công mạnh vào gói patê mà mình đành chịu không làm được như ông khách vì vừa rồi đã chót nói ra mình chẳng ăn gì chỉ có ăn chay. Chàng hiệp sĩ ngừng ăn nói:
- Về việc này, khi ở Palestine, tôi thấy dân họ có thói quen khi cho ai ăn uống, họ cũng ngồi ăn với khách để tỏ cho khách biết là thức ăn không có thuốc độc. Nói thế nhưng thề có Chúa, tôi không nghi ngờ ông có ý định xấu!
Tôi rất yên tâm, tuy nhiên tôi rất sung sướng thấy ông theo phong tục đó.
- ông thật chu đáo nên chiều theo ý ông tôi tạm lần này xếp việc ăn chay lại.
Thời kỳ đó chưa có dĩa nên nói xong ông thò ngay năm đầu ngón tay vào món patê véo một miếng.
Như vậy băng lạnh giữa chủ và khách vỡ tan, hai người cùng lao vào ăn uống thoải mái; nhưng ông khách mặc dầu đã nhịn đói nhiều hơn, vẫn chịu thua ông ẩn sĩ ăn khỏe hơn mình một mức xa.
- ông ẩn sĩ này, - chàng hiệp sĩ nói, - tôi xin đánh cuộc với ông con ngựa của tôi lấy một đồng tiền vàng ý, là ông gác rừng tốt bụng đã.cho chúng ta món patê tuyệt diệu này, chúng ta phải cám ơn nhưng ngoài ra ông ấy còn để lại cho chúng ta vài chai rượu ngon nữa kia đấy.
Ông ẩn sĩ đứng dậy, nửa mỉm cười vui thích, nửa nhăn nhó khó chịu; lần thứ hai ông đến cửa tủ lôi ra một cái bong bóng lớn đựng rượu có thể chứa tới tám chai rượu thường. ông đặt lên bàn cùng với hai cái chén bằng sừng miệng chén viền bạc; ông nghĩ đã góp rượu thêm vào bữa ăn như vậy là có thể bỏ hết những dè dặt đi rồi nên ông rót đầy hai chén, cầm lấy một chén nâng lên, nói bằng tiếng Saxon:
- Drinc hael! Chúc sức khỏe ẩn sĩ! - Hiệp sĩ bắt chước làm theo. - Nhưng tôi xin hỏi: Hình như trong tủ của ông có một cây đàn harpe, tôi xin chơi một bản nhạc có được không?
- Thưa hiệp sĩ, tôi hy vọng ông sẽ chơi một bản nhạc hay. ông sẽ luôn luôn là thượng khách của tôi ở Coopmanhurst chừng nào tôi trở về đấy thờ Chúa ở nhà thờ thánh Dunstan. Đó sẽ là thời điểm tôi đổi được đời sống ẩn dật này sang một đời sống khác, đàng hoàng hơn để phụng sự Chúa. Còn bây giờ chúng ta hãy cùng ngồi đây, cùng nhau uống chén rượu, cùng đàn hát vì còn phải một thời gian nữa mọi việc mới ổn thỏa được. Rượu ta uống đây làm cho giọng thanh hơn, tai tinh tường hơn: về phần tôi, phải chờ cho cái chất nho này nó ngấm ra mười đầu ngón tay mới mong gảy một vài tiếng hay ho được.
Họ cùng nhau uống, nói chuyện, cười, hát hai ba tiếng đồng hồ sau mới nghe thấy có tiếng gõ cửa dồn dập. Cái gì làm ngắt quãng họ vậy?
Chúng tôi chỉ có thể giải thích được bằng cách đi gặp một đám khác.
Khi Cedric de Saxon thấy con trai mình ngã ngựa trên trường đấu Ashby, phản xạ đầu tiên của ông là lệnh cho gia nhân chạy ra cấp cứu con; nhưng lệnh đó vội tắt trên môi ông.
Ông không thể thừa nhận công khai người con đã bị đuổi ra khỏi nhà. Tuy nhiên ông căn dặn Oswald phải để mắt tới Ivanhoé, phải chở anh đi ngay Ashby một khi đám đông đã giải tán.
Nhưng Oswald không thực hiện được lệnh của chủ. Một lúc sau, đám đông có giải tán đi thật; nhưng đã có những bàn tay khác khiêng chàng hiệp sĩ bị thương đi nơi khác: Oswald mất công tìm mãi Ivanhoé trong các lều nhưng chỉ thấy những vết máu, anh không thể biết giờ đây Ivan-hoé tình trạng ra sao: hình như có những nàng tiên đến bế anh đi.
Oswald dễ tin nhảm như những người Saxons khác có lẽ sẽ giải thích Ivanhoé biến đi bằng cách như vậy nếu anh không chợt nhìn thấy một người ăn mặc kiểu giám mã mà anh nhận ra là bạn anh, anh chăn lợn Gurth. Anh chàng này lo lắng cho số phận của thân chủ mình, tuyệt vọng vì bỗng nhiên chẳng thấy ông đâu, liền bổ đi tìm khắp nơi mà không hề lo lắng cho thân phận mình.
Oswald thấy bổn phận mình phải bắt Gurth là một nông nô bỏ trốn; Gurth ắt sẽ bị ông Cedric trị tội.
Tuy nhiên Oswald vẫn ra sức thăm dò tin tức về số phận của Ivanhoé, nhưng chỉ được mỗi một tin là chàng đã được các kẻ hầu ăn mặc tử tế khiêng lên chiếc kiệu của một bà đến xem rồi khiêng ra khỏi trường đấu. Nhưng họ đã đi theo lối nào thì không ai trả lời anh được. Vậy là anh về báo tin ấy cho chủ và làm cách cho Gurth đi theo, người anh coi như kẻ đào ngũ.
Cedric rất lo lắng về số phận của con trai cho đến khi Oswald trở về báo tin trên nhưng ông không biết là Isaac và cô con gái Rebecca là những người đã săn sóc, giúp đỡ con trai mình.
Cả hai đều đội ơn chàng hiệp sĩ đã giúp đỡ họ.
Với Isaac, chàng đã ngăn không cho Brian de Bois-Guilbert bắt giữ, với cô gái Rebecca, chàng đã giữ lại cho cô một người cha mà cô rất đỗi yêu thương. Còn rất nhiều năm sau nữa, Cedric.và Ivanhoé hai cha con không biết đã sống gần nhau.
Cedric, Athelstane và lady Rowena cùng với một số gia nhân lên đường trở về nhà. Trong khi nhà quý tộc Athelstane chỉ nhớ tới bữa ăn đầy những thức ăn ngon ở lâu đài Asyby thì Ce-dric de Saxon sảng khoái khi nghĩ đến trận đấu mà một người Saxon đánh bại hoàn toàn năm hiệp sĩ Normanrd. ôi! Đương nhiên ông càng cảm thấy tự hào khi người đó chính là con trai ông, tuy nhiên, ông vẫn chưa tha thứ cho con ông đã yêu Rowena cũng như chưa tha thứ cho anh đã theo chân một ông vua đi phiêu lưu trận mạc, một ông vua anh dũng kiên cường có lẽ, nhưng là một kẻ tiếm quyền. Còn lady Rowena, nàng tư lự. Nỗi vui mừng được gặp lại người yêu giờ không bằng sự lo lắng về vết thương trầm trọng của anh. Anh không vượt qua được mối hiểm nghèo đó thì sao? ông dòng templier hằn học không tìm cách trả thù hèn nhát trong lúc anh đang suy yếu vì vết thương sao?
Wamba và Gurth đi giữa đoàn tùy tùng.
Gurth tay bị trói nhưng không vì thế mà không cười đùa với anh bạn Wamba. Hai gã rất vui thích khi nghĩ cậu chủ đã được tuyên dương vô địch. Hình phạt Gurth phải chịu không làm anh lo lắng lắm. Wamba còn nhiều lần rút con dao găm rất sắc ra khỏi thắt lưng. Anh đưa mắt trông chừng những gia nhân cùng đi và ra hiệu cho Gurth biết anh đang chờ thời cơ cắt dây trói cho anh.
Các lữ khách của chúng ta vừa đi qua một cánh đồng lớn và họ sắp đi vào những cánh rừng có tiếng là nguy hiểm vì có nhiều tên outlaws mà họ sẽ là mục tiêu để chúng tấn công. Cedric và Athelstane không chút sợ hãi những tên ăn cắp vườn này dù họ phải đi một phần đêm trong rừng; số đông trong bọn họ là nông dân và là những yeoman gốc Saxon: thường người ta tin rằng chúng không cướp của và giết hại đồng bào chúng.
Bỗng nhiên các lữ khách nghe thấy những tiếng kêu rên rỉ không cách xa họ mấy làm họ chú ý. Họ đến nơi có tiếng kêu thì thấy một cái kiệu che kín, người ta mới tháo ngựa và dắt đi; một cô gái ăn mặc sang trọng kiểu áo Do Thái ngồi khóc bên cạnh kiệu và một ông già đội cái mũ không vành màu vàng hẳn cũng là một ông.già Do Thái. ông đi đi lại lại vẻ tuyệt vọng, tay xoắn lại như đang chịu những nỗi đau khổ dằn vặt to lớn nhất.
Athelstane và Cedric hỏi làm sao ông lại ở nơi này với cô con gái mà không có ngựa và gia nhân đi cùng; Isaac d’York - vì chính là ông ta - nói cho hai ông Saxons biết là ông có thuê ở Ashby sáu người vũ trang đi theo; họ sẽ đưa ông đến tận Doncaster, kiếm ngựa cho ông và cô con gái, mua la để thồ cái kiệu trong có người bị thương nhưng sáu tên khốn nạn đã bỏ rơi ông và cô con gái ở chỗ này. Chúng tháo ngựa đi vì sợ những tên outlaws mà một người đốn gỗ trước đó cho ông biết đã gặp một toán đông cách đây không xa.
Ông già Do Thái nói, vẻ khúm núm sợ sệt:
- Nếu các quan cho phép chúng tôi được núp dưới bóng các quan, đi cùng đường thì ơn ấy chúng tôi không bao giờ quên.
- Tên Do Thái chó má kia! - Athelstane nói.
- Nếu những tên outlaws chỉ ăn cướp của các người như nhà ngươi thôi thì ta cho họ là những người rất tử tế đấy vì ngươi còn ăn cướp của tất cả mọi người kia mà.
Câu mắng trên của Athelstane không làm vừa ý ông Cedric. ông nói:
- Tốt nhất là cho họ vài con ngựa để họ có thể tiếp tục lên đường và cử hai người đi với họ đến làng nào gặp đầu tiên thì thôi. Điều ấy làm lực lượng của ta bị giảm đi một chút; nhưng không sao, gặp trường hợp chúng ta bị tấn công, lưỡi kiếm của anh, của tôi, của tám người còn lại của chúng ta sẽ đủ đẩy lùi hai chục tên ăn cướp.
Lady Rowena nghe nói có một toán cướp outlaws đã thấy sợ nên tán thành mạnh mẽ ý kiến của cha đỡ đầu. Rebecca bỗng nhiên đứng dậy, chạy đến lady Rowena, quỳ một chân xuống đất, nâng vạt áo nàng lên hôn một cách kính cẩn.
Vẻ quý phái và trang nhã của cô gái Do Thái làm cô gái Saxons đẹp đẽ cảm động. Cô nói với cha đỡ đầu:
- ông già này tứ cố vô thân, lại thêm một người đau ốm trong kiệu nữa; mặc dầu họ là người Do Thái nhưng nếu chúng ta bỏ mặc họ trong cơn hoạn nạn này thì chúng ta không phải là những con chiên ngoan đạo. Tại sao chúng ta không cho phép họ cùng đi với chúng ta được?.Cedric tán thành ý kiến đó ngay; Athelstane chỉ nêu thêm một điều kiện là người Do Thái phải đi sau đám gia nhân.
Lady Rowena mời Rebecca lên cùng đi với mình.
- Việc đó không được. - Rebecca hạ mình trả lời, không phải không pha chút kiêu hãnh. -Là m như vậy cô nương làm ơn hóa ra bị mang tiếng đấy.
Trong khi họ nói chuyện, Gurth kêu cổ tay bị trói chặt quá nên rất đau. Wamba ra nới lỏng cho; nhưng không biết vô tình hay hữu ý anh buộc lại hết sức sơ sài khíên chẳng mấy chốc Gurth đã tìm cách cởi được trói. Trước khi mọi người tiếp tục đi, anh đã lẩn sâu vào trong rừng.
Con ngựa của Gurth vẫn cưỡi được trao cho ông già Do Thái; nếu đi tiếp, anh sẽ ngồi đằng sau một gia nhân nên ai cũng tưởng anh bị che lấp nên không để ý khi anh vắng mặt. Một việc khác làm mọi người bận tâm hơn là không biết lúc nào những tên ăn cướp xuất hiện.
Lối đi rất hẹp nên hai người không thể đi song song. Mặt đất dốc thoải. Đó là một khoảng bùn lầy có một con suối chảy qua; những cây liễu già mọc hai bên bờ suối. Cedric và Athelstane đi đầu đoàn nhận thấy rằng nơi này rất thuận lợi cho bọn cướp tấn công. Lội qua dòng suối nhỏ, họ mới đến bờ bên kia đã thấy chỗ nào cũng có người cầm vũ khí bao vây khiến họ khó lòng chống đỡ. Bọn cướp hô to: "Rồng bạch!
Thánh George và nước Anh đây!" để tỏ rõ chúng là những dân outlaws Saxons chính cống. Những tên khác chạy đến đông thêm như để tăng cường lực lượng.
Hai người đi đầu đoàn lữ khách bị bắt ngay nhưng mỗi người bị bắt trong những tình huống khác nhau phù hợp với tính cách của từng người.
Cedric phóng một cây lao vào tên cướp xuất hiện trước tiên, trúng đích một cách tuyệt vời. Vì tên cướp đứng trước một cây sồi, cây lao xuyên thủng qua người cắm phập y vào đó. ông cầm kiếm xông vào tên thứ hai, chém một nhát thật mạnh khiến lưỡi kiếm, gặp một cành cây lớn, gãy đôi.
Hai, ba tên khác lao ngay tới, xô ông ngã ngựa và trói nghiến. Về phần Athelstane thì khác.
Trong khi anh đang suy nghĩ không biết nên đánh địch trước mặt hay ở hai bên sườn thì đã bị tóm dây cương, thế là anh đành chia sẻ số.phận tù binh với ông Cedric vì không đủ thì giờ đứng ra nghênh chiến dù chỉ một phút tẻo teo chăng nữa.
Những gia nhân của hai ông vừa lúng túng giữa đám lừa và ngựa lủng củng các đồ, hàng trên lưng vừa ngạc nhiên và lo lắng cho số phận của hai thân chủ mình đã bị tước vũ khí một cách dễ dàng. Quân cướp bắt cả lady Rowena đứng giữa đám người và ngựa lộn xộn, bắt cả Isaac và cô con gái đi đằng sau.
Không người nào thoát khỏi tay bọn cướp, trừ mỗi anh rồ Wamba trong tình huống này lại tỏ ra can đảm hơn những người tự coi mình có đầu óc hoàn toàn bình thường hay minh mẫn.
Anh giật lấy thanh kiếm của một gia nhân, anh này hình như không còn nghĩ đến cách sử dụng nó nữa; Wamba đi những đường kiếm rất kín, rất hiểm khiến quân địch trông thấy phải nể; song nhận thấy quân cướp quá mạnh, quá đông và người nhà mình đều bị trói lại cả rồi, nên anh từ từ tụt xuống ngựa, lợi dụng đêm tối và người đang nhốn nháo, lẩn vào rừng mà không ai biết.
Tuy nhiên, anh rồ dũng cảm đi thoát bọn cướp không được mấy chốc đã tự hỏi không biết có nên quay về chia sẻ số phận với ông chủ xưa nay anh vẫn thật gắn bó hay không.
- Wamba! - Có tiếng gọi khe khẽ, thận trọng của người nào cách xa anh vài bước.
- Gurth, - Wamba hỏi bằng một giọng cũng rất khẽ, - có phải cậu đấy không?
- Đúng rồi, - Gurth tiến lại gần, trả lời, -nhưng có chuyện gì xảy ra thế? Có tiếng gươm, đao va chạm là thế nào?
- Một chuyện phiêu lưu như hàng ngày vẫn xảy ra ấy mà: cả nhà bị bắt rồi!
- Bị bắt? Những ai bị bắt?
- ông chủ này, lady Rowena này, Athelstane, Hundibert, Oswald và tất cả những người khác.
- Trời ơi! Ai bắt giam họ? Chuyện xảy ra làm sao?
- ông chủ chúng ta vội vàng chiến đấu quá, còn Athelstane không đánh mấy tí, những người khác chẳng đánh chút nào. Những kẻ bắt họ đều đội mũ màu xanh, đeo mặt nạ. Tất cả cánh nhà ta bị trói gô trên cỏ như những quả táo đằng ấy ném cho lợn của đằng ấy ăn đấy mà. Ta không biết ta nên cười hay nên khóc. - Nói rồi, Wamba khóc thành thật..Khuôn mặt của Gurth bốc lửa:
- Wamba! - Anh kêu lên. - Cậu có vũ khí và lúc này cậu phải có tấm lòng hơn lý trí chứ!
Chúng ta chỉ có hai đứa nhưng một cuộc tấn công bất thần có thể thành công. Cậu hãy theo tớ, chúng ta phải cứu ông Cedric.
- Nhưng Gurth ơi! Cậu đã quên cách đây một tiếng, cậu thề không bao giờ cậu tha thứ cho ông ấy đó sao?
- Đấy là lúc ông ấy không cần tớ cứu giúp.
Đi thôi, theo tớ.
Hai anh bạn sắp sửa chạy đi bỗng nhiên có một người xuất hiện và bảo đứng lại. Cứ theo cách ăn mặc và đeo vũ khí thì Wamba cho người ấy là một trong những người outlaws vừa bắt thân chủ của anh, vì họ chỉ khác người này ở chỗ họ đeo mặt nạ; nhưng nhìn cái dây đeo gươm sang trọng và chiếc tù-và cài ở đấy, nghe giọng nói bình tĩnh và oai nghiêm của người ấy thì Wamba trong đêm tối cũng nhận ra đó là Lock-sley, một yeoman đã thắng vẻ vang trong cuộc thi bắn cung.
- Thế nghĩa là thế nào? - Người lạ hỏi hai anh. - Ai ngang nhiên đi bắt người giam trong rừng này?
- ông cứ nhìn mũ họ đội thì biết, xem có phải đó là các con cháu của ông hay không. -Wamba trả lời. - Vì một hạt đậu xanh vẫn là một hạt đậu xanh, không thể lẫn lộn.
- Một lát nữa, ta sẽ biết ngay, - Locksley nói, - nhưng các anh cứ chờ ta ở đây; ta cấm các anh không được động đậy trước khi ta trở lại, nếu không ta lấy đầu các ngươi. Hãy nghe theo ta, hai anh và chủ của các anh sẽ có lợi. Tuy nhiên ta cũng phải đề phòng.
Người đó cởi cái dây đeo gươm ra, rút cái lông chim trên mũ rồi trao cho Wamba nhờ anh giữ hộ: Lấy trong túi cái mặt nạ đeo lên mặt, người ấy từ biệt Gurth và anh hề để đi thám thính, sau khi không quên dặn lại lần nữa là hai anh phải đợi.
- Này Gurth, - Wamba nói, - có phải đợi không hay chúng ta cần tỏ ra chúng ta có hai cẳng để chuồn? Nếu tôi thiển nghĩ mà đúng thì cái ông này vớ ở đâu cái áo của thằng ăn trộm mặc vội vào nên trông ông ta không là một con người tử tế.
- Nếu là quỷ sứ, - Gurth trả lời, - thì ta đứng đợi hỏi có sợ gì? Nhưng nếu là người trong nhóm cướp thì ông ta đã báo cho đồng bọn rồi, chúng ta sẽ không thể nào thoát thân nổi.
Một vài phút sau Locksley trở lại.
- Hai anh bạn, - ông nói, - tôi đã thấy họ, tôi đã nói chuyện với họ. Tôi biết họ là ai và họ đi đâu. Nhưng chúng đông người quá, mà chúng ta chỉ có ba, đánh họ thì thật điên rồ; chúng còn đặt người gác khắp nơi, ai đến gần ắt có báo động. Vậy phải có một lực lượng lớn hơn, tôi biết chỗ tìm ra lực lượng ấy. Hình như hai anh là đày tớ trung thành của ông Cedric de Saxon; vậy hai anh hãy theo tôi: không thể nói người bạn của nước Anh và của những người dân Anh lại không kiếm đâu ra những người giúp đỡ ông Cedric trong cơn hoạn nạn được. Nhưng chúng ta phải nhanh lên vì bọn chúng sắp lên đường rồi.
Nói xong, ông vẫy tay ra hiệu, ba người đi sâu vào rừng.
Wamba không thích thú đi lâu mà không trò chuyện gì. Anh nhìn cái dây đeo kiếm và cái tù-và anh còn giữ hộ và nói nhỏ với Gurth:
- Anh Gurth này, tôi thấy cái giải này hình như có người chiếm được cách đây không lâu lắm đâu.
- Còn tớ, - Gurth nói giọng còn nhỏ hơn, - tớ lấy cả đàn lợn của ông chủ tớ đánh cược là tớ đã nghe được giọng nói của người chiếm giải ấy.
Mặc dầu hai anh bạn cẩn thận nói rất khẽ, Locksley vẫn nghe thấy, ông nói:
- Này hai anh bạn, lúc này không phải lúc cần biết tôi là ai, tôi như thế nào, điều đó không quan trọng. Nếu tôi giải thoát được chủ các anh, các anh sẽ có dịp coi tôi như người bạn thân thiện nhất của các anh. Tôi có mang họ này hay họ kia, tôi có bắn cung giỏi hay bắn cung kém thì đó là những việc không liên quan đến các anh, tôi yêu cầu các anh không phải bận tâm về những chuyện đó nữa.
- Chúng ta đã cưỡi lên lưng hổ rồi, - Wamba thì thầm vào tai Gurth, - không biết trời có cho chúng ta xuống được không.
- Câm đi, - Gurth nói, - đừng làm cho ông ta bực mình vì điều gì điên rồ của cậu nhé; về phần tớ, tớ có nhiều lý do để hy vọng mọi việc sẽ kết thúc tốt đẹp..
Sau ba tiếng đi gấp trong rừng, Wamba, Gurth và người dẫn đường bí hiểm tới một cánh rừng thưa, ở giữa có cây sồi to cao, cành lá um tùm xòe ra bốn phía. Năm hay sáu yeomen ngủ dưới bóng cây còn một người canh gác đi đi lại lại dưới ánh trăng.
Nghe tiếng bước chân, người gác báo động.
Mấy người kia chồm ngay dậy, vớ vội lấy cung và sẵn sàng bật lẫy. Thủ lĩnh của họ đánh tiếng, họ tỏ ngay vẻ kính trọng và phục tùng thay vì thái độ cảnh giác đáng sợ vừa rồi. Cái lo lắng gặp nhau có va chạm biến mất.
Nhiều người được tỏa đi báo động cho những người ngoài vòng pháp luật biết. Họ phải tập họp nhau ở gần lâu đài Front-de-Boeuf. Thủ lĩnh băng nhóm mũ xanh quyết định mang quân đến hỏi tội tên hiệp sĩ phản nghịch và giải thoát cho những người mới bị bắt.
- Còn nhà ẩn sĩ trước ở nhà thờ thánh Dus-tan đâu? - ông hỏi.
- ở trong lều của ông ấy. - Một người trả lời.
- Ta trực tiếp đến tìm ông, nói hãy tạm ngừng cầu kinh. Còn hai anh, - ông quay sang hỏi Wamba và Gurth, - hai anh sẽ đi theo tôi chứ?
Wamba và Gurth ngạc nhiên hơn là thấy Lock-sley quyết định đi đánh lâu đài kiên cố Front-de-Boeuf với một vẻ cương quyết lớn đến thế.
Anh rồ rất muốn nói thêm nhưng vừa sợ vừa kính trọng, anh không dám hỏi người kia, người bắn cung giỏi nhất nước Anh, người mà tất cả dân outlaws đều răm rắp nghe theo lệnh. Wamba nghĩ khôn ngoan nhất là đừng làm phật ý một người rất oai phong mạnh mẽ và không muốn để cho ai vô kỷ luật.
Ba người đi về phía nhà thờ Coopmanhurst.
Lát sau họ tới một cánh rừng thưa ở đó túp lều của ông ẩn sĩ hiện ra như một chấm đen dưới ánh trăng.
Gurth và Wamba dừng chân một lúc sững sờ nhìn nhau. Đó có phải là vì cái buồn toát ra.từ phong cảnh trong đêm ấy hay họ sợ hãi vì phải đứng trơ vơ trong khi những cánh rừng xung quanh có thể che giấu một cạm bẫy gì đấy?
Không đâu!
Họ nghe thấy một giai điệu Saxon nhưng câu hát không giống chút nào với những bài thánh ca thường thấy các nhà ẩn sĩ hay hát.
- Đó là một cách để tĩnh tâm và suy tưởng độc đáo. - Wamba không thể không nhận xét như vậy.
- Nhưng không phải là một giọng đơn ca. -Đ ến lượt mình Gurth nhận xét.
- Điều ngược lại mới làm tớ ngạc nhiên. -Anh hề nói tiếp. - Cứ cái kiểu ca tụng thánh Dustan như thế này thì cái ông ẩn sĩ nhà ta không ở một mình là phải thôi.
- Thôi đi, hai anh bạn, - Locksley ngắt lời, - tiến lên nào! Wamba, cậu có vẻ ngạc nhiên khi nghe thấy một bài hát ca tụng ma men chứ không phải bài thánh ca buổi sáng ở cửa miệng một ông ẩn sĩ đấy nhỉ?
- Có lẽ là hai ông ẩn sĩ. - Wamba chỉnh lại.
- Thế ông không nghe thấy cái giọng song ca có khả năng đánh thức thánh Dustan đi ra khỏi nấm mồ sao?
- Frère của chúng ta là một người vui tính kiêm bắn trộm giỏi. Những anh gác rừng nhà vua biết ít nhiều chuyện ấy rồi đấy! Nếu nhà vua bây giờ ở đây, Người sẽ phiền lòng khi biết chuyện trong rừng của mình lại có một anh chàng chuyên nghiện thịt hươu tạm trú.
Vừa nói, Locksley vừa đập gấp cửa nhà ẩn sĩ, phá đám hai gã đang chén tạc chén thù, hẳn các bạn còn nhớ.
- Thề có thánh Dustan! - Nhà ẩn sĩ kêu lên.
- Có lẽ có thêm những lữ khách lạc đường. Họ nghĩ gì về những bài thánh ca chúng ta vừa hát nhỉ? Những kẻ hay nói xấu có thể sẽ nhắc đi nhắc lại chỉ nghe thấy ta ca ngợi rượu và thịt hươu. Thế thì thanh danh ta bị tổn thương rồi!
- Chính lời lẽ của anh phản ánh sự khôn ngoan đấy, nhà ẩn sĩ ạ. - Hiệp sĩ áo-đen Lười-biếng ngồi cạnh nói. - Bởi vậy, hãy giấu cốc chén đi và đậy ngay chỗ patê này lại nếu anh muốn các vị khách kia tin lời anh.
Nhà ẩn sĩ phá lên cười và vội vàng cất giấu rượu và đồ nhắm. Hiệp sĩ áo đen cố tạo một sắc mặt nghiêm chỉnh nhưng cố gắng lắm anh cũng không nhịn được cười; tiếng cười của anh được tiếng cười của ông bạn ẩn sĩ kỳ dị hòa theo.
Những tiếng chó sủa xen vào những tiếng ồn ào ấy. Một lữ khách nào giả thử lạc vào nơi đây sẽ tưởng mình nghe thấy những tiếng reo hò của một sápba kỳ dị mà quỷ sứ nắm tay các phù thủy nam, phù thủy nữ nhảy điệu vòng tròn dưới ánh trăng.
- Này, ẩn sĩ, có mở cửa ra không? - Locksley sốt ruột kêu lên. - Hay để đây phải đạp cửa đấy?
- Anh hãy đi đường anh, đừng quấy ta khi đang cầu nguyện. - Nhà ẩn sĩ đáp.
- Này, mở ra, Locksley đây nhé!
Cửa vội mở. Locksley bước vào có hai bạn đường cùng theo là Gurth và Wamba.
- Anh ẩn sĩ, - Locksley nói khi trông thấy chàng hiệp sĩ, - anh kiếm đâu ra ông bạn mới đấy?
- à, đấy là một frère thuộc dòng tôi. Chúng tôi đang đọc kinh cầu nguyện. - Nhà ẩn sĩ mỉm cười giải thích.
- Người dòng nhà anh mặc áo giáp từ khi nào đấy?
- áo giáp ấy ư?
- Thôi đi, anh uống quá say rồi đấy. Hiệp sĩ này là người thế nào?
- Tôi...
- Chính anh cũng không biết tên! Thật là mất cảnh giác; sự an toàn của chúng ta bị đe dọa khi anh bạ ai cũng...
Hiệp sĩ kia cắt ngang lời:
- Hãy thôi, anh bạn bắn cung tài hoa ạ. Một ngày kia anh sẽ biết tôi là người như thế nào.
Nhưng, bây giờ chưa phải lúc. Còn với nhà ẩn sĩ này, anh ta chẳng sai sót gì; anh không dám chối từ cho tôi trú chân vì tôi tự ý xông vào.
- Tự ý à! Hãy đợi ta cởi áo thầy tu này ra, để xem... - Nhà ẩn sĩ nói.
Wamba nghĩ:
- Có lẽ đây là lúc nhà ẩn sĩ thánh thiện của ta hiện nguyên hình là một anh săn bắn trộm chính cống.
Trong khi nghe nhà ẩn sĩ nói, Locksley nhận rõ mặt Hiệp sĩ áo đen Lười, liền tiến lại gần nói:
- Lấy danh dự là một người Anh, tôi xin cám ơn anh đã giúp đỡ có hiệu quả hiệp sĩ Déshérité của chúng tôi. ôi! Xin anh đừng chối, chính anh, tôi nhận ra rồi, chính anh là người quyết định thắng lợi ngày thứ hai thi đấu ở Ashby.
- Tôi xin cám ơn thay cho chủ tôi. - Gurth tỏ lòng biết ơn nói thêm.
Thủ lĩnh của những kẻ ngoài vòng pháp luật nói tiếp:
- Cứ xem cách anh xen vào giữa trận đấu thì tôi biết tôi đã gặp một hiệp sĩ chân chính đây.
Xin hỏi anh, anh có sẵn sàng đi cứu giúp kẻ yếu không, sẵn sàng đi giải phóng những lữ khách khốn khổ bị một tên hiệp sĩ phản nghịch và kẻ cướp bắt đi không.
- Bổn phận của tôi là vậy. - Hiệp sĩ Noir-Fainéant nói.
- Thế thì hãy đi với chúng tôi đến nhà Front-de- Boeuf đầu bò đòi hắn và các bạn hắn là Brian de Bois-Guilbert và De Bracy trả lại tự do cho ngài Cedric de Saxon và Athelstane, người bạn của ngài. Lady Rowena cũng là nạn nhân của những tên ngoại bang đáng nguyền rủa ấy...
- Tôi sẽ đi theo anh, anh là một người Anh chân chính nhưng anh chưa cho tôi biết quý danh là gì. - Hiệp sĩ áo đen cười nói.
- Tôi không có họ, có tên... có chăng chỉ là người bạn của những người nghèo và của tự do.
- Locksley thành thật nói.
Nhà ẩn sĩ quẳng chiếc áo thầy tu vào một xó rồi chụp vào đầu cái mũ xanh. Người ta không thể phân biệt ông với những người khác trong băng nhóm Locksley. Khi ra khỏi lều, ông ngụp đầu vào một chậu nước để phả hơi rượu.
- Thề có thánh Georges, những thằng kẻ cướp đó ở đâu, đến đây ta xẻ chúng mày ra thành muôn mảnh. - Nhà ẩn sĩ nói, giọng rít lên hợp với lời lẽ đó hơn là với lời trong những bài thánh ca.
- Thôi hãy im đi, hãy rảo bước lên, đã đến giờ ở điểm hẹn! Đến lâu đài của Front-de-Boeuf nào. - Hiệp sĩ Noir-Fainéant nói.
- Tiến lên hỡi anh em, tiến đến lâu đài Front-de- Boeuf! - ông frère, con người không sửa chữa được hô to.
Năm người bạn biến trong rừng tối.
Rừng thưa trở lại im ắng... Không người nào có thể nói được, trước đây ít lâu, đã có những.người đến đây phá rối cái yên tĩnh này bằng những lời ca tụng rượu và thịt dâng lên... thánh Dustan!
Trong khi họ huy động mọi lực lượng để giải thoát cho Cedric và các bạn đồng hành thì những người này đã bị bọn cướp dẫn về nơi an toàn để giam giữ. Nhưng vì đêm tối, những tên đi ăn đêm này chỉ biết rất lơ mơ đường đi lối lại trong rừng, buộc chúng phải nghỉ làm nhiều chặng.
Do đó hai tên cầm đầu bọn giả hiệu làm những tên ăn cướp trao đổi với nhau:
- De Bracy này, - thầy dòng templier nói, -đã đến lúc anh phải chia tay chúng tôi để diễn hồi hai tấn kịch chúng ta dựng, anh phải chuẩn bị để sắm vai người hiệp sĩ giải phóng.
- Tôi đã nghĩ lại rồi, - De Bracy nói, - tôi chỉ tạm biệt người tôi cướp được sau khi đã đặt anh ta vào nơi an toàn trong lâu đài của Front-de- Boeuf. Lúc đó tôi sẽ ra trình diện với lady Rowena trong bộ áo hàng ngày, và tôi hy vọng nàng sẽ cho hành động bạo lực mà tôi nhận phần trách nhiệm là do cái bồng bột của một tình yêu say đắm mà thôi.
- Lý do gì làm anh thay đổi ý kiến?
- Cái đó chỉ mình tôi biết, tôi cho là thế. -Brian de Bois-Guilbert hết nhìn lady Rowena lại nhìn Rebecca, điều đó làm De Bracy thay đổi ý kiến. Anh đã biết tiếng những thầy dòng templier, anh sợ rằng anh gặp ở Brian không còn là một người đồng minh nữa mà là một địch thủ không dễ nhường bước như đã thỏa thuận. Đến lâu đài Front-de-Boeuf, De Bracy nhận thấy ông templier thèm muốn Rebecca có sắc đẹp thật kỳ diệu, chứ không phải lady Rowena như có lúc anh đã sợ là thế.
Cedric và Athelstane bị nhốt cùng với nhau; người ta dọn cho hai người một bữa ăn thịnh soạn; điều đó cho thấy Front-de-Boeuf muốn đòi tiền chuộc hậu hĩ mới thả tự do cho bọn họ.
Hai người chưa kịp ăn sáng đã bị quấy rầy trong cái công việc thực thi rất quan trọng đó, ít nhất là với Athelstane, bởi một tiếng tù-và rúc ở ngoài cổng, rúc đi rúc lại ba lần khiến người ta nghĩ người thổi phải là một hiệp sĩ giang hồ mà khi người đó sờ vào tường thành, nhà cửa, tháp canh của một tay phù thủy nào đó thì chúng cũng phải tan như sương sớm mai. Hai ông người.Saxons đứng dậy, rời khỏi bàn ăn và chạy ra cửa sổ; nhưng họ không thể thỏa mãn được sự tò mò vì tất cả cửa sổ đều nhìn xuống sân. Tiếng tù-và đó hẳn báo động một sự kiện quan trọng sắp xảy ra vì một lúc sau, trong lâu đài sự náo động rộ hẳn lên.
Khi hai ông Saxons thấy họ không thỏa mãn được trí tò mò liền quay về bàn ăn để ít nhất cố gắng thỏa mãn được cơn đói. Chúng ta hãy để họ làm cái công việc ấy để đi thăm Isaac d’York đang bị giam giữ một cách khắc nghiệt hơn.
Ông già Do Thái bị vứt xuống một cái hầm dưới đất ẩm thấp và hôi hám, sâu hơn cái hào bao quanh lâu đài. ánh sáng chỉ lọt qua một chiếc cửa sổ tầng hầm trổ trên cao cho kẻ bị giam không đu tay lên được.
Front-de-Boeuf to lớn như lực sĩ, khỏe như vâm, cả đời đã đi qua trận mạc hay đi đánh nhà ông hàng xóm này hay nhà hàng xóm nọ. ông ta không bao giờ lưỡng lự về những phương tiện phải dùng để vơ thêm của cải và tăng cường thế lực. Với tư tưởng như vậy, ông bước xuống hầm giam, theo sau là hai tên nô lệ da đen. ông đi vào, cài cửa lại cẩn thận.
Sau khi đề phòng cẩn thận như vậy, ông tiến lại phía ông già Do Thái, nhìn bằng con mắt hằn học, dữ tợn. ông phá tan sự yên lặng bằng một câu mắng nhiếc:
- Thằng chó kia, - hắn nói to mà tiếng vang trên trần nghe còn khủng khiếp hơn nữa, - mày có trông thấy cái cân kia không? Mày phải nặng đến nghìn livrơ bạc trắng tiền chuộc đấy.
- ôi, lạy thánh Abraham! - Isaac kêu lên.
- Có ai nghĩ yêu cầu một món tiền lớn đến như vậy? Xin hiệp sĩ cao cả hãy thương kẻ già này, vừa yếu đuối, vừa nghèo túng.
- Hãy nghĩ trước tiên đến số phận dành cho mày đã. Cái hầm này không phải chỗ để nói đùa.
Những tên tù khác cao sang hơn mày đã chết trong bốn bức tường này. Nhưng số phận của chúng chỉ là một thú vui nhỏ so với những gì đang chờ đợi nhà ngươi...
Hắn ra hiệu cho hai tên nô lệ lại gần và nói bằng tiếng mẹ đẻ của chúng, thứ tiếng học được ở Palestin cũng là nơi có lẽ hắn tiếp thu được những bài học tàn ác.
- Isaac, - Front-de-Boeuf nói, - ngươi có trông thấy những thanh sắt nung trên đống lửa rực đỏ kia không? Ta sẽ đặt ngươi lột hết quần áo lên trên cái giường êm ấm ấy...
Chính lúc đó người ta nghe thấy tiếng tù và thổi ba lần. Tên nam tước dã man không muốn bị bắt gặp khi đang làm trò tra tấn khủng khiếp đó vội chạy lên lầu, hai tên nô lệ chạy theo, bỏ mặc ông già Do Thái ở lại, ông vội cảm ơn Thượng đế đã cho mình một phút được ngơi.
Lady Rowena bị tách ra khỏi đoàn và bị dẫn đến giam ở một chái riêng lẻ của lâu đài. Rebecca cũng bị lâm vào cảnh giam giữ riêng rẽ đáng ngờ đó. Người bị thương nằm trong kiệu cũng bị khiêng đi, có hai tên tay chân của De Bracy đi theo giám sát chặt chẽ. ở đây cần phải nói rõ thêm là trong lúc chặn đánh trong rừng, bọn cướp lúc đầu không để ý lắm đến chiếc kiệu; có lẽ chúng cũng chẳng nghĩ đến chuyện khiêng đi theo nếu De Bracy không nghĩ lady Rowena có thể ngồi trong đó. Nàng trùm một tấm khăn voan nên De Bracy khó tìm ra. Vì vậy khi hắn mở cánh rèm hắn rất ngạc nhiên thấy trong đó có một hiệp sĩ bị thương; người này tưởng mình bị những tên outlaws người Saxons bắt và nghĩ rằng nói thật tên mình ra sẽ được chúng che chở liền nói mình là Ivanhoé.
Mặc dầu có tính nhẹ dạ và đã sống một cuộc đời buông thả, nhưng De Bracy vẫn luôn giữ một vài nguyên tắc. Anh đã không đối xử thô bạo với người anh ngờ là đối thủ của mình, anh còn giữ kín chuyện không nói cho Front-de-Boeuf hay. Thế lại là may vì tên này đã được hoàng tử Jean cắt đất của Ivanhoé ban cho, như vậy Front-de- Boeuf tham lam và tàn ác không ngại ngùng gì mà không khử ngay Ivanhoé, người chủ có quyền sở hữu hợp pháp ấy.
Thế là các tên giám mã của De Bracy khiêng Ivanhoé đặt riêng vào một buồng, coi anh như một người của bọn chúng bị thương.
Lady Rowena bị De Bracy quấy rầy ướm hỏi còn Rebecca cũng bị ông dòng templier tấn công tình ái như thế. Hai nàng sắp hết sức cự tuyệt thì cũng là lúc nghe thấy tiếng tù-và rúc ba hồi..
- Tôi cho rằng tiếng tù-và đã làm gián đoạn câu tình tự của anh và của tôi. Nhưng xem ra anh tiếc rẻ vì anh đến muộn hơn, điều đó chứng tỏ cuộc hội ngộ của anh được tiến hành suôn sẻ hơn của tôi.
- Vậy ra anh không được cô gái hoàng tộc saxon tiếp đón may mắn lắm sao?
- Người đẹp saxon như bị quỷ dữ ám!
- Còn người đẹp Do Thái, cô này bị cả bày ám kia!
Câu chuyện của họ vừa bị Front-de-Boeuf chạy tới cắt ngang.
- Không biết cớ gì có tiếng tù-và đáng ghét ấy, - hắn bực tức nói. - Đây là bức thư một tên đưa thư vừa cầm đến đây xong, nếu tôi không nhầm, nó được viết bằng tiếng saxon đấy.
Hắn ngắm nghía bức thư, xoay đi tứ phía như mong làm thế thì hiểu được con chữ, sau hắn đưa cho De Bracy.
- Thư này đối với tôi cũng bí hiểm như thế, - De Bracy nói, - hắn đã nhận được đầy đủ cái phần ngu si gần như phổ cập ở các nhà quý phái trong thế kỷ. Vị linh mục riêng của gia đình tôi, - hắn nói tiếp, - đã muốn dạy tôi học viết; nhưng nhận thấy tôi chỉ vẽ đao và kiếm thay vì tập viết nên vị linh mục thôi không dạy tôi nữa.
- Đưa đây cho tôi, - Bois-Guilbert nói, -chúng tôi là tu sĩ, biết ít nhiều chữ nghĩa, luận ra may cũng hiểu chăng.
- Vậy xin ngài cứ đọc, - De Bracy nói. - Thế nào, thư nó viết gì thế?...
Bois-Guilbert đọc như sau:
- Tôi là Wamba, hề của nhà quý tộc Cedric de Saxon, và tôi là Gurth, chăn lợn của người, cùng với hiệp sĩ Noir-Fainéant, yeoman dũng cảm, Locksley và các chiến sĩ Mũ Xanh cảnh cáo ông Reginald Front-de-Boeuf và những người cùng cánh, khi nhận được thư này phải trao trả ngay những người bị các ông bắt giữ khi họ đi trên đường của đức vua, người mà.họ vẫn chung sống hòa bình. Nhược bằng không làm như vậy các ông sẽ bị coi như là phản bội và là quân ăn cướp; chúng tôi sẽ tìm mọi cách, kể cả dùng vũ lực, đánh hoặc bao vây, để cho sự công bằng được thực hiện.
Thư này được nhà ẩn sĩ ở Coopmanhurst phụng sự thánh Dustan viết và chúng tôi ký xác nhận.
ở dưới vẽ cái đầu gà kèm theo một điều ghi thay cho chữ ký của Wamba; Gurth ký bằng hình cây thánh giá chữ thập vì hai người chẳng biết làm gì hơn.
- Anh có điên không đấy? - Front-de-Boeuf kêu lên.
- Thề có thánh Luc chứng giám! Tôi đọc những điều ấy trong thư. - ông dòng templier trả lời.
Hai hiệp sĩ ngạc nhiên nhìn nhau, không hiểu nổi bức thư. De Bracy là người đầu tiên phá lên cười. ông thầy dòng bắt chước cười theo nhưng ý tứ hơn. Riêng Front-de-Boeuf giữ nét mặt nghiêm trang, hắn còn tỏ ra khó chịu khi hai ông bạn vui vẻ quá đáng, không đúng lúc.
- Tôi nói thật với hai anh, chúng ta phải nghĩ nên làm gì trong lúc này hơn là cười không phải chỗ.
- Ta tập họp gia nhân lại và xông ra. - ông templier đề nghị.
- Xông ra! Chúng ta mới có số người gọi là đủ để giữ lâu đài. Các tay súng cừ của tôi còn hầu bên hoàng tử Jean; đại đội của ông De Bracy cũng vậy. Chúng ta phải báo cho họ biết nhưng bằng cách nào? Cử người mang thư đi sẽ bị bắt ngay giữa đường.
- Viết thư trả lời cho bọn khố rách ấy, -Brian nói, - bảo chúng vì lòng thương của Chúa hãy cử đến chỗ chúng ta một vị linh mục để nhận lễ xưng tội của bọn bị bắt giữ và làm lễ phục đạo cho chúng được gần Chúa trước khi bước sang thế giới bên kia.
Khi thấy De Bracy và Front-de-Boeuf nhìn mình ngạc nhiên không hiểu, Brian nói tiếp để trả lời:
- Thượng đế không cấm chúng ta biếu vị linh mục ấy một túi to đựng vàng và hứa sẽ cho thêm bằng thế nếu chạy nhanh đi báo tin cho người bên ta đến cứu..Tiếng tù-và cất lên lần nữa; tiếng vọng vang lên từ tháp canh đến vọng lầu, từ tường thành này sang tường thành cạnh rồi tắt lịm trên những ngọn cây mọc quanh lâu đài. Tiếng tù-và thúc giục các hiệp sĩ đến chân tường lâu đài. Những người đội mũ xanh làm nốt công việc cuối cùng của cuộc bao vây thực sự. Những người ngoài vòng pháp luật làm theo sự chỉ huy của Hiệp sĩ áo đen là người hình như nắm vững được tất cả chiến thuật ứng dụng ngày đó. Những người bắn cung, những người đốn gỗ từ khắp nơi chạy đến, có cả các gia nhân của Cedric de Saxon và của Athelstane chạy đến cứu chủ.
- Cuộc chiến đấu sẽ gay go, - Front-de-Boeuf nói thầm, - nhưng đám quân vô lại kia làm gì nổi cái pháo đài vững chắc của ta?
Khi Hiệp sĩ áo đen nhận được thư trả lời của đối phương do người cầm thư của Wamba và Gurth mang về thì hiệp sĩ thông báo ngay cho Locksley, hai gã hề và chăn lợn và nhà ẩn sĩ biết nội dung. ông này đương nhiên được chỉ định làm nhiệm vụ đó nhưng ông từ chối lấy cớ là mình thích nghề cầm súng hơn là làm người đi xá tội.
Chính Wamba gợi ý xin đi; gã nói:
- Xin các bạn nhớ cho rằng trước kia tôi mặc áo dài đen chứ không đội mũ hề đính chuông nhạc và tôi đã trở thành tu sĩ rồi, vì quá thông minh tôi mới phải làm kẻ rồ như hiện nay.
Mặc chiếc áo đen và đội cái mũ của nhà ẩn sĩ, buộc sợi dây thừng thay chiếc dây lưng, Wamba đi đến trước cửa lâu đài của Front-de-Boeuf.
Gã được dẫn ngay vào phòng các hiệp sĩ trong lâu đài ngồi đợi.
Wamba gần như mất hết can đảm khi đứng trước một kẻ đáng gờm, đáng sợ như Reginald Front-de-Boeuf; anh đọc bài kinh pax vobiscum mà anh hy vọng vai trò tu sĩ của mình sẽ được diễn đạt trôi chảy nhưng lúc này giọng anh run run không được tự nhiên như trước. Front-de-Boeuf vẫn quen thói thấy mọi người sợ mình nên thấy Wamba lúng túng hắn không nghi ngờ gì.
Front-de-Boeuf cho người dẫn Wamba vào phòng của Cedric và Athelstane để làm cho anh không nghi ngờ, hắn nghĩ như vậy.
Trong phòng, Wamba nói mình là ai và nhấn mạnh, để buộc Cedric phải đóng thay vai mình.
Ông chủ liền mặc cải trang, tạm biệt hai người Athelstane và Wamba.
Trước khi tiếp tục chương này, chúng tôi thấy cần phải giới thiệu một nhân vật mới nữa; nhân vật này sẽ quyết định số phận và đời sống của những người sống trong lâu đài của Reginald Front-de-Boeuf. Muốn thế chúng ta phải trở lại nhiều năm về trước và nhớ rằng cái lâu đài nói ở đây trước kia là thuộc về Torquil Wolfganger, một nhà quý tộc Saxons cùng với hai con trai và một con gái tên là Ulrique sống ở đó. ông có một kẻ thù không đội trời chung, đó là sire De Front-de-Boeuf, cha của Reginald Front-de-Boeuf nói trong chuyện này.
Gia đình Front-de-Boeuf sống bằng bạo lực, cướp của, giết người. Một đêm nọ, nhà của Tor-quil Wolfganger bị đánh phá một cách bất ngờ.
Mặc dầu người trong lâu đài chống cự rất dũng cảm, nhưng vẫn bị thua; cả người cha và hai con trai đều bị giết trước con mắt hoảng sợ của Ulrique.
Cô con gái không bị chúng giết không phải vì thương mà vì chúng ác: cô sẽ làm nô tỳ cho Front-de-Boeuf cha. Bị đánh đập, bị bắt làm những công việc bẩn thỉu và mệt nhọc nhất, bị tên sát hại cả gia đình cô chửi mắng, cô thề sẽ trả thù. Cô hùn cậu con trai Front-de-Boeuf hất cẳng cha mà mãi hắn chẳng chịu chết cho... Một tối hai cha con uống rượu say, Reginald được Ulrique khuyến khích, giết cha mình... Những năm tháng qua đi. Ulrique bây giờ là một bà lão lưng còng vì làm lụng vất vả, gầy khô và bị ngược đãi, thiếu thốn.
Từ lâu, cô con gái của Torquil Wolfganger đã là một công cụ đích thực trong tay Chúa để trừng trị tội ác, rửa mọi oan trái, cô chỉ nghĩ mỗi việc làm sụp đổ đến tận gốc cái nền móng thế lực và giàu sang của gia đình Front-de-Boeuf.
Ulrique ngồi ở đầu giường bệnh Ivanhoé, cùng lúc ấy tiếng tù-và làm Reginald cùng các tay chân thân cận và Brian lẫn De Bracy giật mình, vang lên ở cổng lâu đài.
Bà già Ulrique giật mình, đứng bật dậy.
- Có phải đã đến lúc báo thù rồi chăng? -Bà già lẩm bẩm.
Một ánh sáng khủng khiếp lóe lên trong đôi mắt bà..Cedric cố gắng đi đến cửa đường ngầm. Các tay chân của Front-de-Boeuf đang bận làm các công việc bảo vệ lâu đài nên ông đi qua không ai thấy trừ Ulrique đang lảng vảng ở các cầu thang lâu đài. Bà nhận ra sự giả mạo, đến báo cho Cedric khi nào thấy lửa bốc cháy ở vọng lâu thì ra lệnh xung phong. Dặn xong ám hiệu đó, bà cầm tay Cedric dẫn ra khỏi lâu đài bằng một lối đi bí mật.
Nhưng Brian hỏi ông linh mục đâu, mọi người chạy đi tìm nhưng không thấy: quân cứu viện sẽ không có và như vậy những kẻ bị bao vây chỉ dựa vào sức mình là chính để bảo vệ lâu đài.
Cedric báo thông tin của Ulrique cho mọi người bên mình biết và giam gia cùng họ giải phóng con gái và ông bạn Athelstane.
Đợt đầu xung phong họ lọt qua được tường ngoài lâu đài. Nhiều lần quân mũ xanh bị đẩy lùi. Họ như bị lộ thiên mà chiến đấu, đánh một quân thù kém về quân số thật đấy nhưng được nấp đằng sau những bờ rào cao, những lỗ châu mai chắc chắn những bức tường dày cộp và có ba tay vô địch đốc chiến. Tuy nhiên ở chỗ nào dân outlaws lùi bước là ở đấy có Hiệp sĩ áo đen. Thật là kinh hoàng khi thấy người hiệp sĩ ấy, cao hơn các bạn chiến đấu hai cái đầu, đi đến đâu là phạt quang chỗ ấy. Địch thủ của anh đầu rụng như sung, thân ngã rụi như những bông lúa chín vào ngày gặt. Mỗi một mũi tên của Locksley là một quân thù bị hạ và lưỡi rìu của nhà ẩn sĩ thì bổ toác sọ quân thù.
Brian, Front-de-Boeuf và De Bracy không chịu lùi bước và những đợt đánh trả của họ cũng gây thiệt hại trong hàng ngũ những người tấn công. Cuộc chiến đấu còn đang bất phân thắng bại thì hiệp sĩ Noir-Fainéant đứng trước Front-de- Boeuf, mặt đối mặt. Họ quần nhau như hai mãnh hổ và quân lính hai bên hình như chờ đợi cuộc đấu tranh kết thúc. Gươm của Hiệp sĩ áo đen đâm vào áo giáp của địch thủ Front-de-Boeuf nhưng tên này vẫn đánh trả lại được từng miếng.
Kiếm của Noir-Fainéant bỗng bị gãy và anh trượt chân... Front-de-Boeuf giơ tay cao để bổ xuống nhưng nhanh như chớp, Hiệp sĩ áo đen Noir-Fainéant vớ ngay cái rìu của một yeoman bổ xuống một nhát rất mạnh vào đầu Reginald làm.hắn lảo đảo và ngã xuống. Tay templier chạy đến cứu và kéo được người bạn đồng minh ra... nhưng quân bị bao vây thấy chủ mình thua liền lùi bước và chạy trốn vào lâu đài. Chúng đứng dồn vào trong còn những kẻ thắng keo đầu thì củng cố chỗ mới chiếm được, chuẩn bị đợt xung phong thứ hai.
Những người trong lâu đài không chịu bó tay. ông dòng templier thôi thúc, khuyến khích họ, thổi vào trong lòng họ một sinh khí mới, một lòng quả cảm không hy vọng.
- Nào, các bạn bắn cung dũng cảm, hãy trả thù cho chủ soái! Thế nào! Các bạn sợ cái thằng cục cằn kia sao? Hãy tin lời ta. Thắng hay bại là ở chúng ta, do chúng ta. Quân địch chúng không buông tha chúng ta đâu, ta phải giết để không bị giết. Máu của Front-de-Boeuf đã đổ, chúng ta hãy trả thù.
- Tất cả hãy còn hy vọng, - De Bracy nói tiếp. - Lát nữa, hoàng tử Jean thấy chúng ta chưa về sẽ điều quân đến cứu. Chỉ cần giữ vững được một ngày, có lẽ hai ngày... Những tường thành kia không che chắn cho chúng ta được tốt lắm sao? Chúng ta không có lương thực dồi dào rồi sao? Hãy can đảm lên các bạn ơi! Hãy ra tường thành nghênh chiến, cho chúng nếm một đòn phải sợ không dám chạm đến lỗ chân lông chúng ta nữa.
Những lời hô hào đó làm nức lòng quân lính.
Tất cả hăng hái đem đến các lỗ châu mai, người thì những tảng đá nặng, người thì những thân gỗ lớn để ném xuống những người bao vây dám mò đến chân tường.
Ngay những kẻ bị thương cũng cố làm được việc gì đó có ích như theo dõi quân của Locksley chuyển động còn những người lành lặn thì làm những công việc nặng hơn.
Sau khi ông dòng templier ở phía nam và De Bracy phía bắc kiểm tra tỉ mỉ các công việc phòng thủ xong thì họ gặp nhau ở một phòng trong lâu đài.
Vẻ mặt họ suy tư. Sau đợt tấn công đầu tiên, họ nhận thấy kẻ địch sẽ dai dẳng, bền bỉ. Khi động viên quân lính, họ quên không nhắc đến hai tên tuổi Chevalier Noir và Locksley. Với những người chỉ huy như vậy thì những quân mũ xanh và người của Cedric và Athelstane không mấy khi chịu lùi bước sau lần đầu bị vấp váp..Cái hùng dũng của Hiệp sĩ áo đen, sự khéo léo của Locksley là những con bài chủ, là chất kích thích mạnh mẽ tinh thần của những kẻ bao vây.
- Anh Front-de-Boeuf đâu rồi? - De Bracy hỏi. - Có phải anh ta bị thương nặng như tôi được tin đó không?
- Nếu hắn chưa chết thì cũng chẳng còn bao lâu nữa hắn sẽ phải trao lại linh hồn cho quỷ. -ông dòng templier lạnh lùng nói.
- Anh ta bị thương chỗ nào?
- ở đầu, cái tên Đầu Bò của hắn cũng không che nổi sọ hắn bị nhát rìu của kẻ địch bổ xuống.
- Thật là một tổn thất lớn cho hoàng tử Jean và cánh của ông ta.
- Mặc kệ hoàng tử! Mong sao ông ấy bị trừng phạt vì kiêu ngạo và tham vọng. Đáng lẽ ông phải đến ứng cứu chúng ta mới phải, vì chúng ta xưa nay vẫn giúp đỡ ông ta biết bao nhiêu đấy thôi.
- ạ! ông templier... ông hãy còn biết quá ít về vị hoàng tử ích kỷ ấy. Nhưng thôi, nói những chuyện ấy làm gì... Tốt hơn hết chúng ta hãy tự lực cánh sinh cái đã.
- Đó cũng là ý kiến của tôi, chúng ta hãy chiến đấu đến cùng!
- Trước khi đến bước đường cùng ấy, chúng ta không thể thương lượng với Hiệp sĩ áo đen được sao? Chúng ta bắt một số con tin mà có thể đánh đổi lấy tự do cho chúng ta. Đó cũng là thực chất vấn đề họ yêu cầu trong thư, và...
- Anh nói sao! Anh nghĩ thế ư, anh De Bracy?
Làm theo những yêu cầu của những tên cục súc, những tên trộm cướp ấy không hợp với danh dự chúng ta. Thà chết còn hơn!
- Hãy nghĩ đến số phận của các tù nhân của chúng ta. Họ sẽ ra sao trong cuộc chém giết sắp tới này.
- Họ sẽ chết cùng chúng ta nếu hoàng tử Jean mất chúng ta thì hoàng tử đồng thời cũng thoát nạn tay Athelstane cùng với những ý định điên rồ của hắn được lên ngôi vua nước Anh!
- Chúng ta hãy lên vị trí chiến đấu của chúng ta đi và chúng ta sẽ là những người đứng đầu bảo vệ lâu đài.
- Chiến đấu! - ông dòng hô to.
Cả hai đều lên bờ thành và thi hành mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ lâu đài. De Bracy.phụ trách con đường ngầm còn ông dòng cầm đầu một toán hai chục người sẵn sàng chạy đến chỗ nào cần ứng cứu.
Front-de-Boeuf được khiêng đến gian phòng lớn của lâu đài, đặt lên giường. Hắn bị một vết thương chém vào sọ, đang hấp hối. Tất cả quân của hắn đều lên mặt thành. Đêm đã xuống phải canh gác cẩn thận đề phòng đối phương đánh úp. Quân của hắn đã bị hạ dần; kẻ nào mất đi thì không thay thế được còn bên đối thủ hàng ngũ mỗi lúc một đông nhờ quân outlaws và những nông dân sinh sống trên đất của Cedric và Athelstane chạy đến.
Front-de-Boeuf một mình trước cái chết!
Không, có... một cái bóng luồn tới bên hắn. Đó là Ulrique, nạn nhân của hắn, đến hỏi tội hắn và tội của cha ông hắn.
- Reginald, - Ulrique nói, - giờ tận số của ngươi đã điểm; trước khi lửa địa ngục liệm xác nhà ngươi, ta sẽ đốt cháy cái lâu đài này mà gia đình nhà ngươi đã cướp trắng của cha ta. Buồng để củi ở ngay dưới giường ngươi nằm, ta sẽ châm lửa ở đấy trước. Rồi linh hồn của ngươi sẽ đi sau, giữa đám lửa sẽ thiêu sống nhà ngươi.
Ulrique biến mất... Front-de-Boeuf không thể ngồi dậy được; hắn cảm thấy sắp chết đến nơi.
Bỗng một mùi hăng hắc chẹn lấy cổ họng hắn...
Liệu hắn có bị sặc khói như con cáo bị hun trong hang không.
- Cứu tôi với, Brian ơi! Cứu tôi với, De Bracy, cứu tôi với! Tôi chết mất... Cứu tôi với! Còn chúng bay nữa, những tên hầu khốn nạn, chúng bay để tao chết trong đống lửa sao? Hiệp sĩ tem-plier ơi... lửa... lửa... Cứu tôi với... Tôi bị lửa cháy rồi!
Front-de-Boeuf bỗng nhiên cười lên sằng sặc, âm vang dội khắp gian phòng... Lửa đã bén lên sàn.
Một tiếng cười khác cất lên rùng rợn bên cạnh Front-de-Boeuf hấp hối.
- Có phải mụ đấy không, hả Ulrique? Mụ là con quỷ lúc này còn dám cất lên tiếng cười... Mụ hay là quỷ dữ đấy... ôi! Tôi bị sặc... Brian... De Bracy... Cứu tôi với... Front-de-Boeuf ngạt thở; đôi mắt hoảng hốt của hắn nhìn thấy những bóng ma hiện lên, bóng ma những nạn nhân của hắn, bóng ma cha hắn...
Chúng ta hãy lùi về sau một lúc để nắm tình hình những người bao vây và bị bao vây thế nào.
Trong khi những người bị bao vây chuẩn bị đẩy lùi một đợt công kích mới không tránh được thì Athelstane và Wamba vui sướng vì những tiếng động giao tranh; rõ ràng là có người đến cứu họ và hai người hy vọng những người đến cứu sẽ thắng.
Trong buồng Rowena không nhìn thấy gì nhưng những tiếng reo hò chiến trận thì bay tới tai nàng; nàng quỳ xuống cầu xin Thượng Đế hãy thương lấy nàng và cứu giúp thân nhân của nàng; ý nghĩ của nàng còn đi xa, tới chàng Ivan-hoé mà nàng yêu mến. Chao ôi! Giá mà nàng biết được chàng đang cùng ở một mái nhà dây!
Ivanhoé được Rebecca giúp đỡ, đến gần cửa sổ phòng giam; qua cửa sổ, anh nhìn thấy tất cả công việc chuẩn bị cuộc tấn công. Lúc nào anh cũng muốn xô cửa phòng giam xông ra nhưng Rebecca đều ngăn lại. Anh vừa bị thương, vừa yếu thế này thì làm gì được!
Isaac ở chỗ giam của mình chẳng nhận ra điều gì; lão thương con gái đến phát khóc, gọi tên con gái Rebecca lẫn với những tiếng rên rỉ, than thở sợ mất hết gia tài.
Cuộc tấn công được tiến hành tiếp vào sáng sớm hôm sau; Locksley cùng với một số anh em hăng hái nhất đánh phía bắc; anh cố gắng thu hút số đông quân địch về phía đó; Cedric và anh em khác phụ trách cửa đường hầm phía nam.
Hiệp sĩ áo đen đi đầu, tay cầm rìu. Anh bổ những nhát mạnh mẽ vào cánh cửa gỗ nặng, tiếng rìu còn át cả các tiếng vũ khí. Không gì làm anh lùi bước, tuy nhiên quân địch lăn đá và thân gỗ nặng xuống rào rào như mưa.
Đứng ở cửa sổ nhìn xuống, Ivanhoé nhìn thấy thân hình cao lớn của hiệp sĩ áo đen liền thốt lên:
- Xin thề trước thánh chủ Wilfrid, ta chỉ biết mỗi một người ở nước Anh có khả năng múa rìu như vậy! Nhưng ông ta đang bị giam ở nước áo rồi kia mà...
Cửa đường hầm bắt đầu lung lay... một làn khói đặc tuôn ra từ vọng lầu; lâu đài bốc cháy..Đó là ám hiệu thỏa thuận giữa Ulrique và Cedric.
Locksley cùng người của mình bỏ trận địa phía bắc chạy về kết hợp với quân của Chevalier-Noir và của Cedric phía nam.
De Bracy biết là mình bị mắc mưu vội chạy đến ứng cứu ông dòng templier.
Người của lâu đài đã phá được chiếc cầu dẫn thẳng đến cánh cửa chính đường ngầm. Hào sâu ngập nước là một trở ngại lớn rất khó vượt qua vì kẻ địch đã chuẩn bị mọi thứ để từ trên cao ném xuống.
Hiệp sĩ áo đen lập tức cho làm một cái cầu vừa đủ cho hai người đi đầu vượt qua. Khi chiếc cầu tạm thời được làm xong thì hiệp sĩ Cheva-lier- Noir và Cedric băng qua, không khó khăn gì tới được bờ bên kia, ngay trước cánh cửa ngầm.
Búa rìu của họ một lần nữa bổ lên cánh cửa nặng. Công việc phá cửa không làm nhanh được nhưng trước sau gì cửa cũng bị bật thôi.
Người ở lâu đài không làm được gì với hai chiến sĩ kiên cường kia bởi vì không những họ núp được dưới chiếc cầu cũ gãy mà còn vì quân mũ xanh bắn tên sang như mưa khi thấy ai lấp ló ở lỗ châu mai.
Chính vào lúc đó De Bracy đến gặp Brian de Bois-Guilbert.
- De Bracy ơi, hỏng cả rồi, chúng ta chịu chết thôi! Lâu đài cháy cả rồi, phần lớn người của chúng ta bị tên quỷ Locksley bắn chết hay bắn bị thương cả rồi.
- Chúng ta phải mở một con đường máu; với lực lượng còn lại chúng ta cố chọc thủng hàng ngũ quân địch, tiến về Ashby.
Hai người tập họp quân lại và ra lệnh mở đường; họ không còn đủ thời gian nữa: cửa ngầm bị Chevalier-Noir và Cedric phá, bật tung; nghĩa quân tràn vào như nước. Mặc dầu De Bracy ra sức cản phá, quân của Front-de-Boeuf lùi bước trước Hiệp sĩ áo đen dũng mãnh; ông dòng tem-plier đã chạy biến; De Bracy rất can đảm; không lưỡng lự hắn tấn công chiến sĩ mặc áo giáp đen.
Lúc sau, kiếm của De Bracy bị gãy trước lưỡi rìu của hiệp sĩ áo đen.
- De Bracy, đầu hàng đi, - Hiệp sĩ áo đen vừa đưa mũi dao găm về chỗ rách của áo giáp De Bracy vừa nói, - đầu hàng đi không thì chết.
- Mi hãy nói mi là ai để ta xem mi có xứng đáng ta phải hàng không. - De Bracy nói..Hiệp sĩ áo đen nghiêng mình xuống, ghé sát tai kẻ bại trận nói nhỏ, De Bracy ngạc nhiên.
- Kẻ này xin đầu hàng hoàn toàn, - hắn kính cẩn trả lời, - xin ngài hãy chạy nhanh đi cứu Ivanhoé đi nếu không anh sẽ bị chết cháy. Xin ngài đi theo cầu thang này dẫn đến buồng anh ta ở.
Lời nói bị một tiếng ầm dữ dội át đi, đó là tháp ở vọng lâu sụp đổ; xác Front-de-Boeuf bị chôn vùi dưới đó. Các chiến sĩ dừng tay một lúc để nhìn một thân hình đầu tóc rũ rượi, tay bíu vào cửa sổ; tiếng hét dữ dội, tiếng cười điên dại nghe rõ hơn cả tiếng lửa lốp bốp, Ulrique buông tay rơi xuống đống than hồng.
Cuộc chiến đấu gần như kết thúc: quân mũ xanh chém giết không chút nhẹ tay và người của Front-de-Boeuf còn lại một dúm chống đỡ một cách tuyệt vọng. Chúng dựa vào chân cầu thang có thể gây thêm nhiều thương vong cho đối phương hơn nữa nếu không có Wamba và Athel-stane chặn đánh bên sườn bằng những chiếc ghế đẩu nặng chắc buộc chúng phải tháo chạy. Bây giờ chúng đang ở giữa sân. Đối với Athelstane, đánh chúng chỉ là một công việc chốc lát; anh muốn trả mối thù những ngày bị giam giữ lên đầu những tên sống sót. Đầu không mũ che, thân không áo giáp, anh tiến lên, đánh phải, gạt trái, mỗi lần cánh tay giơ lên là một tên địch gục xuống.
Bỗng nhiên người ta thấy một kỵ sĩ từ chuồng ngựa chạy ra, trên yên ngựa, đằng trước có một phụ nữ ngồi. Lợi dụng lúc không ai để ý, hắn phóng ngựa chạy đến cửa ngầm, giữa những người yeomen đang ngây người vì bất ngờ.
- Brian de Bois-Guilbert! - Athelstane ra chặn thầy dòng templier lại, kêu lên. - Này hiệp sĩ ăn cướp, muốn sống thả ngay lady Rowena ra, nếu không...
Anh không nói thêm được nữa, Brian phang anh một chùy mạnh. Chàng hiệp sĩ Saxon khốn khổ đầu trần, bị một đòn giáng xuống, chết ngay.
Những người chứng kiến chạy lại, Brian đã chui tọt vào vòm nhà dẫn đến cửa ngầm, thục ngã những ai định cản đường. Hắn đến được cánh rừng với người phụ nữ cướp được.
- Lady Rowena bị bắt cóc rồi! Lady Rowena bị bắt cóc rồi!.Đó là những tiếng hô hoán trong sân; nhưng không phải Rowena bị bắt cóc. Gurth đã nhận ra người phụ nữ; đó là người anh trả tiền mua áo giáp cho chủ.
- Đó là cô con gái ông Isaac. - Gurth kêu lên. - Lạy Chúa tôi, cậu chủ tôi phải ở đây rồi.
Thật vậy, Cedric cầm tay cô cháu gái Rowena kéo đi, còn hiệp sĩ áo đen ở cầu thang gác khác bước xuống, đỡ Ivanhoé. Chàng được trao cho những người yeomen.
- Các ngươi trông nom cẩn thận nhé, - Lock-sley nói, - có làm sao, ta lấy đầu các ngươi.
- Các anh hãy đi khỏi nơi đây nhanh lên, -hiệp sĩ Noir-Fainéant ra lệnh. - Chúng ta đã thắng lợi!
Locksley nói tiếp:
- Hỡi các tay cung giỏi giang, chúng ta hãy hô vang lên thắng lợi! Front-de-Boeuf đầu bò, kẻ tù của chúng ta, Front-de-Boeuf, tên hiệp sĩ ăn cướp và bội thề, lâu đài của nó đã bị thiêu hủy thành tro. Các bạn sẽ đến tập trung ở cây sồi già Hart-Hill-Wolk. Sáng sớm ngày mai, chúng ta sẽ phân loại xác các kẻ thù của chúng ta.
Những ai đã tham gia trận đánh trả ân báo oán này hãy nên có mặt: rồi sẽ có thưởng.
Đám quân còn chưa ra tới bìa rừng đã nghe thấy phần quan trọng nhất của lâu đài sụp đổ trong một tiếng ầm dữ dội. Tất cả mọi người quay đầu lại nhìn, họ nghĩ đến tên hiệp sĩ gian ác bị thiêu cháy trong ngọn lửa, ở ngay chính hang ổ của hắn, đè lên hắn. Mọi người đứng yên lặng một lúc lâu.
- Công bằng của Chúa!... - hiệp sĩ áo đen lẩm bẩm nói, trong khi những người chiến thắng làm dấu thánh....
Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm, các quân mũ xanh đã tề tựu đông đủ dưới gốc cây sồi, gốc cây trước đó Wamba và Gurth đã gặp Lock-sley.
Những outlaws ngoài vòng pháp luật đã qua đêm bằng cách người thì uống rượu, người thì nghỉ ngơi vì chiến đấu mệt mỏi. Bây giờ, trong khi chờ đợi chia chiến lợi phẩm, họ thảo luận những sự kiện trong những ngày qua và đánh giá phần mình sẽ được hưởng. Nhiều vật quý giá đã bị lửa thiêu trụi nhưng những kẻ chiến thắng, tuy nhiên vẫn vớt vát được vô số bát đĩa bằng vàng bằng bạc, những áo giáp, những đồ trang sức và những quần áo quý giá.
Theo luật lệ của họ, không ai có quyền tự chọn lấy bất cứ thứ gì làm của riêng cho mình:
mọi thứ phải được tập trung, người đứng đầu sẽ đứng ra chia phần một cách công bằng.
Một lúc sau, Locksley rời chỗ ngồi với Chevalier Noir và Cedric, ra ngồi trên chiếc ghế có tay ngai ở bãi cỏ. Quân lính của anh đứng vòng cung trước mặt. Anh nói với hai hiệp sĩ nọ:
- Thưa các ngài, mong các ngài thứ lỗi cho, tôi ra ngồi ở chỗ cao nhất này để các người out-laws của tôi sẽ nhìn bằng con mắt khác nếu người ra ngồi trên chiếc ghế ngai quê mùa này không phải là thủ lĩnh của họ.
Bằng một cái khoát tay, anh mời hai hiệp sĩ đến ngồi bên cạnh. Anh nói tiếp:
- Nhà ẩn sĩ, người được thánh Dustan che chở đâu rồi? Chúng ta sẽ bắt đầu ngày hôm nay bằng một buổi lễ cầu kinh trang trọng cho những người anh em ngã xuống vì nghĩa cả!
Nhưng từ khi lâu đài bốc cháy, không ai trông thấy nhà ẩn sĩ ở đâu. Riêng có một người tên là Maillard nói có nghe thấy hình như ông chửi đổng vào cái lúc Chevalier Noir và Cedric phá tung cánh cửa ngầm: "Lạy tất cả các thánh trên trời! Kẻ sĩ này còn muốn ném tất cả các thứ rượu ngon của tên tướng cướp Front-de-Boeuf cất giấu trong hầm!" - Hẳn ông ta ở lại uống rượu và bây giờ đang bị vùi dưới tro bụi. - Locksley nói. - Mail-lard, anh hãy lấy mười người đi cùng anh tìm.ông cố đạo ấy về cho ta. Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy chia phần. Ngài Cedric, xin ngài chọn trước.
Cedric de Saxon từ chối: ông ở lại chỉ cốt để cám ơn anh em mũ xanh và vị thủ lĩnh của họ đã có công giúp đỡ, giải thoát cho ông và lady Rowena. Sau ông xá tội cho Gurth và tuyên bố từ nay anh và Wamba được làm người tự do.
Ngoài ra, ông còn cho hai anh nhiều tiền bạc và mười acres đất.
Vừa lúc đó, lady Rowena xuất hiện, đẹp đẽ và đĩnh đạc như một bà hoàng. Nàng duyên dáng chào mọi người và nói vài lời vắn tắt cám ơn Locksley và những người khác đã cứu vớt nàng; sau nàng cùng Cedric và gia nhân đi về hướng lâu đài Rotherwood.
Trước khi đi, Cedric nhắc lại ông đội ơn muôn đời Chevalier Noir và ông mời hiệp sĩ đến Coningsburgh dự đám tang Athelstane, con cháu cuối cùng của dòng họ nhà vua Saxon. Đêm qua, các tu sĩ ở tu viện bên cạnh đã liệm di hài Athel- stane vào một quan tài gỗ quý và rước về lâu đài của chàng hiệp sĩ xấu số.
- Tôi sẽ có mặt ở đám tang, - hiệp sĩ áo đen trả lời, - rồi sau tôi sẽ xin ngài một đặc ân.
- Dù nó thế nào, tôi sẽ cố gắng chiều theo ý ngài.
Sau đến lượt Noir-Fainéant xin cáo lui. Lock-sley đề nghị chàng chọn lấy phần của mình. Noir-Fainéant nói:
- Tôi chỉ mong được một điều. Đó là để tôi xử trí với hiệp sĩ De Bracy...
- Thì hắn không phải là tù nhân của ngài rồi sao? Thôi, xin để toàn quyền cho ngài.
- Tôi xin một con ngựa cho hắn đi về thành phố gần đây. - Chàng hiệp sĩ chưa quen biết nói tiếp.
Đề nghị này tức khắc được chấp nhận.
- De Bracy, ta cho ngươi được tự do. Hãy đi đi và nhớ rằng ta không hiềm thù gì với nhà ngươi nữa đâu. Hãy quên quá khứ đi và hãy sống cho lương thiện.
Tên tù nhân lễ phép cúi đầu chào, nhảy lên ngựa người ta vừa dắt đến và quất roi chạy mau. Thủ lĩnh quân mũ xanh tháo chiếc tù-và đồng luôn cài ở dây lưng ra.
- Thưa hiệp sĩ, vì hiệp sĩ không chịu nhận phần mình nên tôi xin phép tặng ngài chiếc tù-và này. Xin ngài nhớ cho rằng khi gặp nạn, ngài chỉ cần thổi lên ba tiếng: wa-sa-ha! là có ngay người đến cứu ngài.
Nói xong, Locksley thổi ngay tù-và để cho hiệp sĩ ghi nhớ ba tiếng trên. Đến lượt mình, Chevalier-Noir thổi mạnh hơn Locksley nên âm vang trong rừng lâu mới tan.
- Thổi mạnh lắm, - thủ lĩnh những người outlaws nói. - Tôi cho rằng ngài đi săn cũng giỏi như ngài ra trận. Này chiến sĩ, các bạn đã nghe thấy tiếng tù-và này rồi nhé, các bạn hãy nhớ ba tiếng: wa-sa-ha! nhé! Đó là tiếng gọi của hiệp sĩ đứng đây, hễ ai nghe thấy tiếng tù-và thổi phải chạy ngay đến ứng cứu.
- Hiệp sĩ áo đen muôn năm! - Những người mũ xanh hô vang.
Sau đó, người ta tiến hành chia chiến lợi phẩm. Phần của Maillard và của những người cùng đi cất một chỗ. Mỗi người nhận được phần mình theo thứ hạng hay theo công trạng trong chiến đấu.
Chiến lợi phẩm chia xong không được mấy chốc thì ở chỗ rừng thưa thấy một toán người kỳ lạ xuất hiện: đó là Maillard và những người cùng đi vây quanh nhà ẩn sĩ. Nhà ẩn sĩ chân đi hơi tập tễnh một chút; một tay ông cầm thanh giáo, tay kia cầm một chiếc thừng quàng vào cổ lão già Do Thái Isaac.
- Hãy tránh ra các bạn, nhà ẩn sĩ của các bạn mang về cho các bạn một tù nhân đây! Và là tù nhân khiếp đấy! Một lão Do Thái tôi cứu khỏi nanh vuốt của quỷ Satăng.
- Cứu tôi với, - ông già van xin. - Chẳng ai thương lấy tôi và cứu tôi thoát khỏi tên điên...
ấy chết, xin lỗi, thoát khỏi con người thánh thiện này!
- Cái gì, quân khốn nạn! Thế mi đã quên kinh Credo và kinh Pater ta dạy ngươi đêm qua rồi ư? Và kinh Ave Maria nữa?
- Im nào. - Locksley nói. - Tốt hơn là hãy kể cho tôi nghe đã, anh mang ông già này về như thế nào..Nhà ẩn sĩ kể là khi đi tìm rượu ở tầng hầm nhà Front-de-Boeuf, ông mở được một cánh cửa khóa chặt. ông tưởng trong đó có nhiều rượu mùi và rượu vang. Than ôi! Lại chỉ thấy mỗi lão Do Thái khốn khổ này; ông định lôi lão ra ngoài thì bỗng nhiên lâu đài bị sụp, bịt mất cửa căn hầm.
- May thay, - nhà ẩn sĩ nói tiếp, - tôi tìm thấy một thùng rượu vang ngon Canaries và trong khi chờ người đến cứu, tôi quyết định kết hợp làm công việc kính Chúa với cái vui thưởng thức thứ rượu vang nức mùi thơm kia. Tôi truyền đạo cho Isaac và... thề có thánh Dustan chứng giám, tôi nhận được một người học trò thật dễ bảo và thật hào phóng. ông lão tự nguyện hiến hết của cải của lão cho dòng thánh của tôi.
- Xin thề trước tất cả các nhà tiên tri, - Isaac lo lắng kêu lên. - Xin các bậc lãnh chúa kính mến, tôi chẳng có của cải gì, tôi chẳng hứa hẹn gì...
- Này, quỷ tha ma bắt nhà mi đi, - nhà ẩn sĩ nâng ngọn mác lên, ngắt lời. - Nhà ngươi định chối đấy hả?
Ông vung tay lên định sửa tội ông già Do Thái thì Hiệp sĩ áo đen kịp giữ lại làm ông này quay sang tức giận nói với chàng hiệp sĩ:
- Này, đừng có xen vào chuyện của người khác, nếu không tôi sẽ cho biết tay, dù anh có ba đầu sáu tay cũng kệ.
- Được thôi, tôi chấp nhận đấu. - Hiệp sĩ áo đen mỉm cười nói. - Anh đánh trước đi, tôi đánh sau.
Nhà ẩn sĩ muốn tỏ sức mạnh của mình chẳng chờ phải mời đến lần thứ hai. Anh xắn tay áo đến tận khuỷu, nắm chặt quả đấm rồi giáng lên đầu kẻ đối thoại một quả rất mạnh có thể làm chết một con bò. Đối thủ vẫn đứng trơ như không, chẳng nhúc nhích chút nào.
- Giờ đến lượt tôi, ông ẩn sĩ đáng kính nhé.
ông hãy đứng cho vững.
Hiệp sĩ áo đen tháo nắm tay sắt ra, rồi chẳng phải lên gân lên cốt chút nào, giáng quả đấm rất mạnh lên đầu đối thủ làm anh chàng ngã quay lơ xuống đất, mọi người đứng xem hết sức kinh ngạc. Nhà ẩn sĩ lồm cồm đứng dậy, chìa tay cho chàng hiệp sĩ nói:.- Xin hòa giải với anh; giờ ta chỉ còn phải nghĩ xem tiền chuộc lão già này lấy như thế nào thôi.
Khi đã thỏa thuận xong với Isaac món tiền chuộc - Isaac không phải không rên la giá cao quá - Isaac yêu cầu được đưa con gái tới. Mặc dầu biết không mấy người coi trọng và thương cái giống nòi của Jacob ấy, Locksley nhớ việc Rebecca bị bắt mang đi cũng nhắc tin ấy cho người cha khốn khổ biết.
- ông sẽ tìm thấy con gái ông ở điện Tem-plestowe ấy, - anh nói tiếp. - Theo tin tôi nhận được, ông dòng templier mang cô ấy đến đấy.
Tôi tin ông sẽ gặp con và chuộc lại với cái giá phải kha khá.
- Khổ cái thân tôi! Lại chuộc, lại tiền chuộc.
Xin thề trước các đấng tiên tri, bây giờ tôi đã cạn hết tiền rồi; tôi lấy gì mà chuộc lại con tôi?
- Thôi hãy im đi, Isaac! Chúng ta đã nghe ông kêu quá nhiều rồi. ở đây ai cũng biết ông có nhiều tiền. ông hãy yên tâm, rồi thế nào ông cũng tìm ra tiền chuộc con gái ông thôi. - Hiệp sĩ áo đen nghiêm khắc nói. - Ai đã là chủ cho vay tiền của hoàng tử Jean thì người đó không phải là người ít tiền. Rồi ông sẽ bị oan gia đấy vì tội đã dám cho hoàng tử em vay tiền để truất ngôi anh là đức vua nước Anh, Richard Coeur de Lion.
Lão già Do Thái tái xanh mặt và hoảng hốt lẩn trốn.
- Đồ quỷ sứ! Tay hiệp sĩ này phải là con quỷ mới biết được điều bí mật ấy. - Lão vừa chạy thục mạng, vừa lẩm bẩm.
Chàng hiệp sĩ lạ mặt liền tiến lên và giơ tay ra hiệu muốn nói:
- Các bạn chiến đấu anh dũng, tôi xin cám ơn các bạn, cám ơn trước tiên thủ lĩnh của các bạn, người đã nghiêm khắc trị tội tên Front-de-Boeuf và bè lũ để lập lại công bằng. Bây giờ tôi xin phép tạm biệt các bạn. Các bạn hãy nhớ chắc chắn rằng tôi không bao giờ quên các bạn! Các bạn hãy luôn luôn là những đày tớ trung thành của đức vua Richard Coeur de Lion!
Các outlaws hoan hô nhiệt liệt và Hiệp sĩ áo đen nhận những tràng hoan hô của các con người đó, thực ra họ là lương thiện, nhưng vì quân Normanrd ăn cướp và bất công nên họ phải sống ngoài vòng pháp luật. Hiệp sĩ áo đen, xin nhắc lại, nhận những tiếng hoan hô và những biểu hiện kính trọng mà coi đó là những việc tất nhiên phải đến với chàng. Locksley suy nghĩ, nhìn chàng đi xa.
- Nếu đúng là người đó! - Anh lầm bầm nói, một ánh lửa lạ lùng lóe trong đôi mắt anh.
Bạn đọc có lẽ lo lắng cho số phận của Ivan-hoé, Gurth và Wamba, hai đày tớ can đảm và trung thành đã gửi "cậu chủ nhỏ" ở tu viện Saint-Botolph để anh nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng ở đó. Hai anh cũng báo cho các tu sĩ biết sự ra đi của nhà quý tộc Athelstane.
Tu viện Saint-Botolph cũng chính là nơi Hiệp sĩ áo đen đến. Hai người ngồi với nhau, nói chuyện rất lâu về một vấn đề quan trọng.
Về sau chúng ta sẽ biết là việc gì. Lúc này chúng ta chỉ cần biết là trong vài ngày tới, khi vết thương đã đỡ thì Ivanhoé phải trở về lâu đài Coningsburg cùng với Gurth. Còn ngày mai, Hiệp sĩ áo đen sẽ đi cùng với Wamba đến dự đám tang Athelstane.
Đến đây, chúng tôi cần mở một dấu ngoặc nhỏ: chúng ta hãy quay trở lại với hoàng tử Jean.
Vào chiều cái ngày lâu đài của Front-de-Boeuf bị thiêu hủy thì ở thành phố York nơi ở của hoàng tử Jean và những người cùng đi có một tin đồn: De Bois-Guilbert, Front-de-Boeuf, De Bracy đã bị giết và bị bắt làm tù binh, tin bất ngờ thật đấy nhưng có thể tin được vì các vị hiệp sĩ nọ đi ít người hộ tống.
Hoàng tử nhận được tin ấy rất tức giận và dọa sẽ treo cổ ngay những tên giết hại ba viên cột trụ triều đình. Sự kiện đó làm cản trở ông ta thi hành các mưu đồ. Thật vậy, ông làm gì được nếu không có hỗ trợ của Brian và những người dòng đạo của ông ta, của Front-de-Boeuf và những tay thiện xạ của ông ta, của De Bracy và những quân lính của ông ta?.- Những tên bất nghĩa! Những tên điên rồ! Những lúc gay go thế này chúng không có mặt. - ông vỗ tay lên trán tức giận nói với Fitzurse.
- Tôi đã lệnh cho chỉ huy phó của De Bracy báo động cho binh lính yên cương phải sẵn sàng, - Fitzurse trả lời, - và đích thân ông chỉ huy phó phải cầm quân cấp tốc đến ứng cứu Front-de-Boeuf.
- Một giọng nói quen thuộc cắt ngang, giọng nói của De Bracy.
- Trời ơi, De Bracy đấy ư! - Hoàng tử kêu lên. - Nhưng tình trạng thế nào thế này! Nói mau, nói mau lên, anh bạn. Dân Saxons nổi loạn à? Front-de-Boeuf và ông dòng templier thế nào?
- ông dòng templier đã bỏ trốn và Front-de- Boeuf đã bị chôn vùi dưới lâu đài cháy rụi của ông ta, - De Bracy trả lời. - Nhờ vào lòng cao thượng của kẻ thắng trận tha cho nên tôi mới chạy được về đây báo tin hoàng tử biết. Thế chưa phải đã hết, - ông hạ giọng nói tiếp, - ông anh hoàng tử, vua Richard, đã trở về nước Anh, tôi đã gặp ông, nói chuyện với ông và đã là tù binh của ông.
Ông hoàng tái mét mặt. ông phải dựa vào một chiếc ghế.
- Hoàng đế Richard! - Fitzurse kêu lên. -Ngà i có dẫn đầu một đoàn quân nào không?
- Không, ngài chỉ chiến đấu với một nhóm người outlaws; ngài cũng sắp từ biệt họ sau khi đánh chiếm được lâu đài Front-de-Boeuf.
- Nếu ông ấy một mình, tôi sẽ cùng những người của tôi đi gặp ngài. Thưa hoàng tử, ngài có lệnh gì cho tôi không? Tôi có phải...
- Không, không cần, - vị hoàng tử mắt nhìn đi đâu ngơ ngác trả lời. - Nhà tù là đủ. Trừ chúng ta ra không ai được biết chuyện ông ấy đã trở về. Dân chúng sẽ tưởng ông vẫn bị quận công nước áo giam giữ.
- Tôi thích ông ta ở dưới mồ hơn ở trong tù. - Waldemar nói tiếp. - ở dưới mồ thì không bao giờ vượt được. - Anh hãy thi hành lệnh của tôi, - hoàng tử trả lời, - hãy làm những điều anh thấy là cần thiết.
Waldemar hiểu chủ mình định nói gì liền chạy ngay đi tìm Richard Coeur de Lion, gọi khác là Hiệp sĩ áo đen hay còn có tên khác nữa là hiệp sĩ áo-đen Lười Vậy là Hiệp sĩ áo đen và anh dẫn đường đã cùng nhau đi trong rừng. Hiệp sĩ là con người vui tính còn Wamba thì không để mồm được yên: thế cho nên các chuyện vui chưa hết đã đến các câu đối đáp hóm hỉnh, giữa chừng lại rộ lên những chuỗi cười. Hiệp sĩ hát phần chính còn anh dẫn đường hát câu điệp khúc.
Lúc này, Wamba nói cho Hiệp sĩ áo đen biết những phong tục, tập quán, luật lệ của những quân mũ xanh và như vậy câu chuyện đương nhiên nói về Locksley và ông ẩn sĩ vui tính.
- Rất tiếc là họ không cùng đi với chúng ta.
- Hiệp sĩ áo đen nói. - Đó là những ông bạn đường vui tính cho chuyến đi của chúng ta được đến nơi đến chốn một cách vui vẻ.
- Giá mà nó được kết thúc vui vẻ như ông mong muốn, - Wamba nói lại. - Đường đi còn dài và không mấy yên ổn. Lẽ đương nhiên là ông có chiếc tù-và đeo bên hông giúp ông tránh những điều phiền toái.
- à, ừ, phải rồi, cái tù-và diệu kỳ đó, ta chỉ cần thổi lên ba tiếng là ta có ngay một toán tay cung cứng cáp.
Ngay lúc đó, Wamba hốt hoảng nhìn quanh.
Anh như một con chó săn thiện nghệ đánh mùi con mồi từ xa và linh tính báo cho anh biết một sự nguy hiểm - nguy hiểm gì? Anh không thể nói rõ được - đang đe dọa người bạn đường của anh. ông này không nghi ngờ chút nào về những lo lắng của anh hề điên rồ đó.
- Wamba này, cậu nói với tôi rất nhiều điều hay về Locksley và các bạn của ông ấy, - ông nói tiếp, - nhưng có thật cậu không tin rằng sau khi đốt phá trơ trụi lâu đài Front-de-Boeuf họ sẽ không cướp bóc thẳng tay người Saxon lương thiện không?
- Thưa ông, có thể như thế nhưng trong những khu rừng này có thể còn gặp những toán cướp nguy hiểm hơn..- Ai vậy? Như ta biết, chỉ có những chú gấu và chó sói mà thôi.
- Hê, hê! Những lính tráng của Malvoisin lại không dữ tợn hơn các con vật kia sao? Chúng không muốn sát hại chúng ta để trả thù cho bạn chúng là Front-de-Boeuf hay sao? Nhưng có lẽ chiếc tù-và của ông sẽ đến đúng lúc để...
- Cái gì! Phải gọi giúp đỡ để chống cái nhóm vô lại ấy ư? Mình ta cũng đủ xuyên người chúng xuống đất bằng cái lưỡi mác này.
Lời đáp đó không làm Wamba thỏa mãn chút nào, càng không làm cậu yên tâm hơn.
- Thưa ông, ông có thể cho phép tôi nhìn tận nơi cái tù-và của ông để xem nó thế nào mà gọi được các bạn bè từ những bụi cây, lùm cỏ chạy ra ứng cứu.
Ông hiệp sĩ chiều ý anh bạn đường; tức thì Wamba quàng cái dây buộc lên cổ rồi thổi:
- Wa-sa-ha! Thưa ông, ông thấy con cũng thổi được như ông đấy chứ!
- Này Wamba, hãy coi chừng. - ông hiệp sĩ nghiêm nghị nói. - Ta cấm anh thổi bậy đấy nhé.
ông Locksley sẽ nghĩ như thế nào về ta khi anh báo động vô ích các tay cung tay nỏ của ông ta.
- Kia kìa, ông hãy nhìn cái mũ óng ánh trong bụi cây kia. Người đội nó hẳn chẳng có ý nghĩ tốt nào, nếu không đã chẳng ẩn nấp như thế; sẽ đi đàng hoàng trên lối đi như ông con ta đây.
- Xin thề có thánh Georges nước Anh, anh nói đúng. - Người hiệp sĩ bẻ lưỡi chai mũ xuống nói.
Vừa kịp: sáu mũi tên từ bụi cây bắn ra; ba mũi trúng đích: một mũi trúng trán, sẽ xuyên thủng sọ nếu lưỡi chai mũ không kéo xuống, hai lưỡi khác vô tác dụng vì chạm phải áo giáp.
- Suỵt, Wamba, suỵt! - Hiệp sĩ áo đen vừa nói vừa đẩy con ngựa vào bụi cây, tay lăm lăm chiếc kiếm.
Bảy tên lính đối địch chờ sẵn, lưỡi mác ở thế sẵn sàng. Người hiệp sĩ không quan tâm. Mắt chàng nảy lửa.
- Các thầy, thế này là thế nào? - Chàng đàng hoàng hỏi.
- Là mi phải chết! - Bảy tên vừa hét vừa xông tới..Ba lưỡi mác đâm thẳng vào chàng nhưng nó như gặp phải đá, quằn lại.
- A! Quân khốn nạn! A! Đồ ăn cướp! - Hiệp sĩ thét lên, mỗi tiếng thét kèm theo một đường kiếm vung lên và một kẻ địch gục xuống.
Những tên khác tháo chạy ra khỏi tầm tay của tử thần dễ dàng ban cho cái chết: người bị tấn công giờ thành người tấn công. Chàng sắp sửa đuổi hết quân còn lại bỏ chạy thì một kỵ sĩ mặc áo giáp xanh từ nãy vẫn nấp ở một chỗ nay nhảy ra đánh lén. Ngọn mác của hắn đâm chết con ngựa của Hiệp sĩ áo đen. Hiệp sĩ ngã ngựa không còn cách nào khác phải dựa vào một thân cây để đối phó với những kẻ tiến lên tiếp tục trận đánh.
Tất cả sự việc trên xảy ra rất nhanh khiến Wamba đến tận lúc này vẫn còn ngây người đứng nhìn. Anh lấy lại can đảm và cầm lấy tù-và, thổi thật lâu, nhắc đi nhắc lại ba tiếng một: Wa-sa-ha!
Wa-sa-ha!... rồi chạy đến cứu người bạn đường.
Những kẻ tấn công lùi lại lần nữa, tưởng rằng có quân kéo đến.
- Mới nghe thấy tiếng tù-và đã bỏ chạy không thấy xấu hổ sao? - Chàng Hiệp sĩ áo xanh hét lên.
Lời lẽ trên kích thích bọn lâu la, chúng áp sát địch thủ của mình. Tên thủ lĩnh chuẩn bị lưỡi mác nhằm ngực Hiệp sĩ áo đen đâm thẳng, chẳng khác nào đóng đinh người anh vào thân cây.
Nhưng Wamba đoán được ý đồ của hắn; anh phi như bay đến gần hắn, nhanh nhẹn cắt được khoeo chân ngựa của hắn. Tình hình của Hiệp sĩ áo đen không vì thế đã đỡ nguy. Chàng phải chống đỡ vất vả với năm tên địch thủ rất hung hăng, sức khỏe của chàng đã thấy suy giảm; bỗng nhiên một nắm tên vun vút bay tới các địch thủ của anh. Cùng lúc ấy, Locksley xuất hiện với một toán tay cung, tay nỏ đi theo.
Một lần nữa, Locksley phải ngạc nhiên về cái vẻ đĩnh đạc của Hiệp sĩ áo đen khi đến cám ơn anh.
Wamba đang cởi dây buộc mũ của Hiệp sĩ áo xanh; anh này còn choáng váng vì cú ngã, chân tay còn lúng túng vướng dây cương nên.không thể thi thố một hành động chống đỡ nhỏ nào.
Hiệp sĩ áo đen cùng những ân nhân của mình lại gần; mũ được nhấc lên, lộ ra một bộ mặt: Hiệp sĩ áo đen ngạc nhiên kêu lên:
- Waldemar Fitzurse! Ta đã làm gì đến nỗi nhà ngươi phải đối xử với ta như vậy?
- Richard, hãy bảo bọn chúng lui ra, tôi sẽ nói...
- Các bạn, xin các bạn hãy lui ra một chút, -Richard yêu cầu, và cúi xuống Fitzurse, ông nói tiếp, - bây giờ còn có mình ta, ta nghe đây, nói đi.
- Em ông... - Fitzurse nói.
Mắt Richard quắc lên tức giận.
- Cái gì! Quân khốn nạn! Em ta, đến mức đốn mạt thế ư? Lại muốn giết hại ta!
- Phế vị ông anh, trị vì thay... Tôi biết thế đấy, còn bây giờ muốn làm gì tôi thì làm.
- Anh sẽ được bảo toàn tính mạng và được tự do. - Richard dõng dạc trả lời. - Ta không phải là đao phủ. Ta chỉ lệnh cho anh phải rời bỏ nước Anh này ra đi, hẹn trong ba ngày phải ra đi, và không bao giờ... không bao giờ, nghe rõ không, được lộ ra cho ai biết em trai ta định mưu sát ta, nghe rõ không?
Rồi quay ra phía Locksley:
- Mang một con ngựa ra đây cho ông hiệp sĩ, để ông đi.
- ý tôi là muốn bắn một mũi tên cho hắn chết, - thủ lĩnh những người bắn cung nói. - Tôi không biết cái gì đã giữ tay tôi lại. Tiếng nói của ông có một sức mạnh khiến tôi phải tuân theo, như theo lệnh chủ vậy.
- Tôi là chủ và tôi có quyền buộc anh phải tuân theo, anh Locksley ạ. Tôi là Richard Coeur de Lion, vua nước Anh.
Nghe vậy, cả bọn yeomen quỳ lạy nhà vua và thề trung thành.
Thủ lĩnh của họ nói:
- Đối với tôi, các anh đừng gọi là Locksley nữa. Tôi là Robin Hood ở khu rừng Sherwood.
Thưa đức vua, tên của thần, đức vua không lạ.
Xin đức vua tha cho tội chết vì những lỗi lầm thần mắc phải khi ngài đi vắng.
- A! A! - Nhà vua kêu lên. - Ra anh là Robin Hood đấy hả! Ta đã nghe thấy tên tuổi anh; anh không những là vua của dân outlaws, mà còn là.hoàng tử của những người hay đùa. Tiếng tăm của anh đồn đến tận Palestine. Thôi, Robin, hãy đứng dậy. Việc anh và các bạn anh giúp tôi trị tội bọn ăn cướp ở lâu đài Front-de-Boeuf đã đủ để anh được tha thứ rồi. Với lại, anh đã không từng nâng đỡ kẻ yếu và đánh phá tất cả bọn hiệp sĩ phản nghịch áp bức dân tộc Anh đó sao?
- Hoan hô! - Wamba kêu lên.
- à, Wamba, - Richard nói tiếp, - ta cám ơn ngươi về sự giúp đỡ quý báu của ngươi. Không có ngươi, ta đã bị Hiệp sĩ áo xanh đóng đinh bằng mũi giáo vào cái cây kia rồi. Ta khen ngươi nhanh nhẹn đúng như một anh rồ và... khen ngươi về sự sáng suốt và óc phán đoán chỉ riêng một nhà hiền triết mới có. Ngươi thổi tù-và rất tài và sau này ngươi sẽ vào đội quân đi săn của ta. Nhưng chớ có thổi Wa-sa-ha nữa nhé, nếu không tất cả bọn bắn cung sẽ bắn hết thú rừng, chim muông của ta, trước mặt ta mà chẳng nể nang gì đâu. Ta có một tay săn bắn trộm như cái ông ẩn sĩ đáng kính của nhà ngươi đã đủ lắm rồi! à mà ông ta đâu rồi nhỉ? ông ta không phải là frère Tuck nổi tiếng, tên tuổi đã bay sang tận đất Palestine cùng với tên tuổi của Robin đó sao?
- Confiteor! Confiteor! - Frère quỳ xuống lạy; ông cố nặn cho nét mặt mình có một vẻ hối cải sâu sắc. - Tôi đã được xức dầu của Đức Chúa mà lại làm ô danh Chúa. ôi, Richard, hãy đem chặt cái tay phản Chúa nghịch đạo của tôi đi.
Nghe nói thế, Richard quay sang nhìn nhà ẩn sĩ, ông này, một tay cầm chuỗi tràng hạt, một tay cầm cây gậy lớn - cây gậy đã múa may rất tích cực trong trận đánh - lo lắng nhìn Richard, không biết rồi mình sẽ bị phạt như thế nào.
- Mong Chúa thứ cho ta không phải làm cái việc đó! - Richard nói. - Thánh Dustan sẽ nói thế nào nếu ta đi chặt tay một giáo sĩ của thánh?
Chúng ta hòa, không nợ nần nhau gì nữa nhé!
Ta đã không trả đòn ngươi rồi sao, cả vốn lẫn lãi? Còn bây giờ nếu nhà ngươi cảm thấy còn chưa được trả đầy đủ thì cứ nói với ta một câu...
Thôi, hãy đứng dậy đi nào, ta rất muốn cử ngươi đứng đầu những người lính đi săn của ta. Ta vẫn nhớ cái món patê thịt hoẵng nào đấy, thịt hoẵng ngươi bắn trong rừng của ta ấy mà...
- Xin ngài tha tội cho... tôi muốn cứ ở vậy làm ẩn sĩ. Vẫn biết ngài sẽ là chủ nhân rất tốt với tôi, nhưng ngài vẫn không thể so sánh được với thánh Dustan rất kiên nhẫn. Thánh bao giờ cũng giữ yên lặng còn ngài thì sớm hay muộn cũng kiếm cớ vì một cái lỗi nhỏ nào đó tôi có thể mắc phải... như bắn lầm một con chim chẳng hạn... Thôi, thôi tôi xin cứ để cho tôi làm ẩn sĩ.
- Được... và để cho nhà ngươi yên tâm, hàng tháng ta cho phép ngươi được bắn ba con hoẵng.
Vào lúc đó, hai nhân vật mới xuất hiện, làm cắt ngang câu chuyện. Đó là Ivanhoé và Gurth.