(Minh là một thể thơ cổ, ghi chép điều tâm đắc hoặc cần ghi nhớ).
Thầy giáo phải đi họp nên tiết thứ tư đổi thành tiết tự học.
Dư Phát ngồi tại chỗ vừa hát ư ử trong họng, vừa đếm tiền. Bàn cậu ta ngồi không biết khóa học sinh nào đã khắc lên đó câu châm ngôn:
Học biển vô bờ, khổ ấy thuyền,
Sách non không lối, gắng là lên.
Dư Phát khắc thêm ở dưới hai câu nữa chẳng ra làm sao:
Biển buôn không bến, tiền: thuyền chở
Túi rỗng đời nay, người khó nên.
- “Không hiểu sao anh lại thích em… Em có biết anh chờ đợi em?” – Dư Phát vẫn đang hát ư ử.
Liễu Thanh đang đọc cuốn truyện Cho đã đời. Những năm 80, cơn sốt Quỳnh Dao, cơn sốt Sầm Khải Luân đã nguội dần trong đám học sinh trung học. Nghe nói có một cửa hàng sách bán hạ giá cả loạt truyện tình loại này nhưng học sinh trung học không thèm hỏi đến. Rốt cuộc thì không thể thích mãi những cô gái khóc than. Thư viện trường cũng có loại sách này. Một phụ huynh học sinh phát hiện trong số sách loại này mà con giá đang đọc có đóng cả dấu thư viện trường thì thắc mắc, chẳng hiểu ra sao. Thực ra, nếu học sinh mê đọc loại sách này thì không sao mượn được của thư viện mà đã phải mua. Đã mê thì không khống chế nổi. Vả chăng trên thực tế, loại sách ấy cũng chẳng làm sao, đọc nhiều rồi tự nhiên không muốn đọc nữa và càng hiểu rõ loại sách nào thì thích hợp cho mình. Liễu Thanh mải miết đọc, bỗng bật cười lên.
Lâm Hiểu Húc ngồi bàn trên đang ỉu xìu vì một đề bài làm khó, nghe tiếng cười liền quay người lại ngơ ngác nhìn Liễu Thanh:
- Cậu đang đọc sách sao lại cười được thành tiếng thế?
Trần Minh đang học tiếng Anh. Thật kỳ lạ, ồn như thế mà Trần Minh vẫn học được. Lưu Hạ thì xin chịu. Dư Phát mỗi lúc mỗi ư ử to hơn khiến Lưu hạ ngồi gần đó phải kêu lên:
- Xin nhờ! Hôm nay trời nóng, không cần đến cậu hạ nhiệt độ đâu.
Dư Phát càng hăng lên, cuối cùng cất tiếng hát.
- Hát dở ẹt! – Lưu Hạ bịt hai tai - Đồ rê mi mà lại đọc thành một, hai, ba (Nhạc số của Trung Quốc dùng số 1,2,3 thay cho đô rê mi) , thế mà còn đòi hát!
- Cậu hát đi, cậu còn chưa biết hát kia! – Dư Phát quay sang chọc tức, mắt chớp chớp theo nhịp hát.
- … “Anh có biết em chờ đợi anh?”… - Lưu Hạ cất tiếng hát thật.
- Thế à? Đợi ở đâu? – Dư Phát cố làm ra vẻ nghiêm trang hỏi lại.
Xung quanh cười ầm cả lên. Người nghe không rõ, hỏi: “Cười cái gì thế?”. Người nghe rõ kể lại, thế là một truyền hai, hai truyền bốn, cả lớp đều cười. Lưu Hạ cáu đến nghiến răng nghiến lợi. Vương Tiếu Thiên trợn mắt nhìn Dư Phát trừng trừng. Dư Phát kêu lên:
- Có người ghen kia kìa!
Tiếu Thiên đứng bật dậy, Dư Phát kêu toáng:
- Lưu Hạ ơi, Tiếu Thiên toan đánh mình này!
Mọi người cười ầm ĩ, trong lớp rối tung.
Lớp nào cũng có vài cậu tếu. Lớp 4 khối lớp Mười có Dư Phát đứng đầu. Nói như Tiếu Thiên thì Dư Phát là loại “có sức sống mạnh mẽ”. (Tạm dịch)
Trần Minh đưa mắt liếc Dư Phát. Bạn không thích loại người cười đùa ồn ào như Dư Phát, cảm thấy cậu ta như thằng hề. Trần Minh coi thường Dư Phát, đánh giá Dư Phát thuộc loại “túi đầy, óc rỗng”. Bạn không thích người khác nhắc chung cả hai vì nỗi bạn và Dư Phát là người cùng làng, lại là láng giềng gần gũi. Dư Phát cũng ngứa mắt với loại tự kiêu cô độc như Trần Minh.
Đợi mọi người cười xong, Dư Phát mới lôi ra một tờ giấy, cất cao giọng đọc Bài Minh lớp học:
Điểm không cần cao,
Trung bình là tốt.
Học không cần sâu,
Có phao ắt thoát.
Chỉ ta là nhàn,
Ngay nơi phòng học
Tiểu thuyết truyền cho nhanh,
Tạp chí chăm chú đọc.
Suy nghĩ lúc xem băng,
Tìm tòi khi thí tốt.
Có thể viết thư tình,
Ngủ gà gật.
Chẳng tiếng đọc sách inh tai,
Không cần ôn bài mệt nhọc.
Phòng du lạc đua tranh,
Vũ trường phân xấu tốt.
Lòng nhủ lòng:
“Văn bằng khỉ mốc”.
Bài này không biết cậu học sinh trung học nào phỏng theo Bài Minh ngôi nhà nhỏ của người xưa mà sáng tác ra, một tờ báo đăng lên làm “giáo án phản diện”. Dư Phát đọc được, mừng như bắt được vàng, lập tức đem phô tô. Lối “biên soạn” phỏng theo này hiện giờ rất phổ biến và thành hẳn thú chơi.
Nội dung “bài Minh” nói trúng tâm sự của Dư Phát cho nên cậu ta đọc rất truyền cảm. Có bạn nghe không rõ đòi xem bản phô tô. Dư Phát vội nói:
- Đừng có tranh nhau, chuyền từng người mà đọc.
Đúng lúc truyền tới Lưu Hạ thì có tiếng thì thầm:
- Ông “đồ cổ” đến đấy!
Phòng học lập tức im phắt, ai về chỗ nấy. “Uy quyền” của thầy Cổ là như vậy. Thầy trưởng phòng giáo vụ bước lên bục giảng.
- Đây là lớp học, không phải chợ!
Rồi một luồng áh mắt nghiêm nghị quét khắp lớp.
- Các em không thấy lớp số 3 bên cạnh tự học như thế nào à? Còn các em thì sao? Đều đã lớn mười bảy, mười tám tuổi rồi, có bảo các em, các em nhơn nhơn, ngược lại tôi thấy ngượng.
- Mười sáu thôi ạ! - Một tiếng nói rất khẽ cải chính điều sai lầm về tuổi, may mà thầy Cổ không nghe thấy.
Thầy Cổ bước đến bàn Lưu Hạ, cầm Bài Minh lớp học lên, hỏi:
- Em nào đầu tiên truyền bài này?
Không ai lên tiếng.
- Dư Phát! - Thầy Cổ gọi.
- Không phải em ạ! – Không khảo Dư Phát đã xưng.
Có tiếng cười khúc khích.
- Thầy có bảo là em đâu! Thầy hỏi em đang làm gì cơ mà?
- Đang đọc sách ạ - Dư Phát trả lời rất đàng hoàng.
Lúc này ánh mắt cả lớp đều tập trung vào Dư Phát. Bỗng nhiên, cả lớp cười ầm lên.
Thầy Cổ vẫn nghiêm nghị hỏi:
- Dư Phát, em có khả năng đặc biệt đấy à?
Dư Phát ngớ người ra rồi nhìn đến bìa sách. Thì ra cậu ta cầm ngược sách, cậu ta cũng không nhịn được cười. Thầy Cổ lột bìa có ghi Giảng văn ra, bên trong là tập tranh biếm họa Lão Tử (Nhà triết học cổ Trung Hoa) do Thái Chí Trung vẽ.
- Học vấn cao siêu thật! - Lời thầy Cổ có ý vị sâu xa. Thầy lại hỏi, giọng không cao không thấp – Bài “minh” lúc nãy do ai truyền vậy?
Cả lớp im lặng.
- Tôi hỏi lần nữa, ai truyền bài ấy? - Giọng vẫn không cao không thấp.
Dư Phát đứng lên.
Bạn biết, rốt cuộc bạn không thoát khỏi ánh mắt như tia X quang của thầy Cổ, hơn nữa còn rất sợ cách tính toán thời gian bất chấp lý lẽ của thầy: “Một mình em làm phí phạm năm phút, cả lớp bốn chục học sinh gộp lại là hai trăm phút. Hai trăm phút là năm tiết học, giảng đươc từ hai đến ba bài khóa. Như thế em là kẻ phạm tội!”. Thầy còn dẫn một câu danh ngôn: “Lãng phí thời gian của người khác là cướp của giết người!”. Lối dạy này của thầy có thể áp dụng đối với tiểu học, mà rõ ràng không phù hợp với cơ sở nữa song thầy Cổ vẫn bê nguyên xi.
Quả nhiên đúng như dự liệu, thầy Cổ lại giơ cổ tay lên xem đồng hồ:
- Xem đây, vì một mình em mất đứt bảy phút, cả lớp bốn chục học sinh, bốn bảy hai mươi tám, đúng 280 phút. Em theo tôi lên văn phòng!
Dư Phát theo thầy Cổ ra khỏi lớp, ưỡn ngực ngẩng cao đầu, dường như không phải bị gọi mà được mời tới văn phòng.
“Học vị” ở trường này của Dư Phát do mua mà có. Ông bô bạn có lắm tiền, mua một chỗ mấy ngàn bạc đối với ông bô mà nói, chỉ như nhổ một sợi lông bò.
- Dư Phát, em giải thích đi! Vì sao lúc nãy em gây mất trật tự?
- Dạ, không có ạ.
- Không ư? Chuyện như vậy thể nào mà em chẳng có phần? - Thầy Cổ không bằng lòng trừng mắt nhìn Dư Phát – Đây là trường trung học Số Chín, cha em mất bao công sức, đâu phải cho em vào trường này để mà chơi? Giúp thầy đi, có được không nào?
Thầy Cổ là người Thượng Hải. Thầy bực lên là tương tiếng Thượng Hải ra. Dư Phát không hiểu “giúp” nghĩa là gì, hỏi lại:
- Giúp thầy cái gì cơ ạ?
Thầy Cổ dở khóc dở cười:
- Giúp thầy cố mà học. Học quan trọng như thế nào, em chẳng hiểu chút gì sao?
Dư Phát không nhận thức được tầm quan trọng của việc học, còn tầm quan trọng của tiền thì bạn hiểu sát sạt lắm. Nếu không thế, sao bạn vào được trường trung học Số Chín? Dư Phát không e ngại gì, lắc đầu đáp:
- Thời đại bây giờ, đọc nhiều sách đến mấy cũng chẳng để làm gì.
Thầy Cổ nhíu mày:
- Em… sao em lại suy nghĩ thiển cận thế? Chỉ có tiền mà không có kiến thức…
Dư Phát cũng nhíu mày:
- Thầy ạ, em biết sau đây thầy lại nói “thì kỳ thực là một kẻ nghèo, giàu có mà nghèo”, với lại “sách đến lúc dùng còn tiếc ít”. Mấy câu này thầy nói đến lần thứ tư rồi.
- Không nên cho rằng đó là những câu cũ rích. Em có bao giờ nghĩ tới việc vì sao cha em mất nhiều công sức để đưa em vào trường này không? Em cũng phải nghĩ như cha em… - Thầy Cổ chỉ nhắc đến đây thôi, đoạn sau không nói nữa.
Dư Phát thấy bực mình. Đoạn sau của thầy lại chẳng đại loại là “nghèo đến mức chỉ còn mỗi tiền thôi” hay sao? Bạn cho rằng câu này thuần túy là của con cáo không ăn được nho nên mới chê nho xanh. Nghèo đến mức chỉ còn tiền cũng hơn nghèo đến mức nồi mâm trống trơn va loảng xoảng. Dư Phát lẩm bẩm: “Ông bô mình sao thế nhỉ? Bây giờ đi đâu người ta cũng nhắc!”.
- Dư Phát, em không nên quên em vào được trường trung học Số Chín như thế nào! - Thầy Cổ khi nào không biện bác nổi liền đưa con át chủ bài ra, chẳng khác nào Thác Tháp Lý Thiên Vương quăng cái tháp sắt ra vậy.
Thường ngày, Dư Phát chỉ im lặng như mắc nghẹn, song hôm nay bạn vươn cổ lên:
- Là do ông bô em bỏ tiền ra cho em vào chứ sao! Ông bô em hàng năm nộp cho trường bằng ấy tiền cơ mà! - Ý tứ trong câu này thật rõ ràng: Dư Phát vào được trường trung học Số Chín là lẽ đương nhiên.
Xem ra chiêu số của thầy Cổ hôm nay không còn hiệu nghiệm.
Thầy Cổ đuối lý phát uất lên. Đối với loại học trò này, thầy Cổ không phản cảm, ngược lại thỉnh thoảng thầy còn gọi tới chuyện trò, mong học trò tiếp thu được ít nhiều. Song bọn chúng chẳng những không nghe mà còn cãi lý.
Vừa lúc ấy chuông tan học reo lên. Khác với lệ thường, thầy Cổ không giữ học trò lại mà phảy tay bảo Dư Phát về.
TIỀN THẬT SỰ VẠN NĂNG SAO?
Nhà Dư Phát ở thôn Cổ Thúy, một phố cổ của Thâm Quyến. Xưa kia không biết vì dân địa phương phát âm không chuẩn tiếng phổ thông hay là có dụng ý khác nên đều gọi là thôn Khổ Thúy – thôn nước đắng. Bây giờ có lẽ trình độ giáo dục được nâng cao, tiếng phổ thông được phổ cập rộng rãi nên không còn ai gọi là thôn Khổ Thúy nữa.
Trước kia nơi đây rất nghèo, rất nhiều người vượt biên hoặc bằng cách nào đó tới Hồng Kông. Xưa có câu “Kẻ sĩ xa nhau ba ngày thì nên nhìn họ bằng con mắt mới”. Sau khi xây dựng thành đặc khu, nơi đây đổi mới từng ngày, đến nay “phát phì đến mức chảy mỡ”. Nơi đây có câu vè rằng:
Mười vạn đâu phải là giàu
Trăm vạn cũng chỉ bước đầu bậc trung.
Như thế đủ biết tiền gửi của một người dân ở đây phải tới hàng tỉ.
Nhà Dư Phát cũng không ngoại lệ, nhờ chính sách mà phất lên. Gia đình này là một trong số người phất lên đầu tiên, đúng như tên của Dư Phát: phát triển ngày một tăng, càng ngày càng phát.
Khi mới thành lập đặc khu, thôn bán một phần đất cho chính phủ, thế là mỗi nhà được chia đến mấy vạn. Lần đầu tiên dân làng được một khoản tiền lớn đến thế đều tiếc không dám tiêu. Cha Dư Phát thì khác, ông biết buôn bán kiếm được nhiều tiền liền mở một cửa hàng ăn vặt. Lúc đầu chỉ bán ít vằn thắn, cháo lòng, sau đổi thành cửa hiệu ăn. Lập tức “súng kíp đổi sang đại bác”, cửa hiệu mở rộng gấp mấy lần, buôn bán rất phát đạt. Ngẫm nghĩ thấy tên hiệu “Nhà hàng Đại Phát” tầm thường quá, cha Dư Phát đổi thành tên rất mốt là “Nhà hàng Lệ Na”, đồng thời nhà cũng xây tới năm tầng. Theo quy định, dân chỉ được xây cao ba tầng rưỡi, song dân làng hầu như đều xây vượt quy định. Đồ đạc cũ trong nhà thải hết, những đồ sang trọng như thảm, điều hòa… cũng đến nhà họ từ lâu.
Gia đình ba người ở nhà năm tầng, làm sao ở hết cho được? Thế là tầng ba, bốn, năm cho thuê, chỉ riêng tiền cho thuê nhà cũng đã tám chín ngàn một tháng, chẳng phải làm gì cũng đủ ăn đủ mặc.
Gia đình chỉ có một con là Dư Phát nên chịu chi lắm. Con muốn gì là được nấy. Túi quần của Dư Phát căng phồng theo mức căng phồng túi tiền của cha, hoàn toàn theo tỉ lệ thuận. Lúc đầu chỉ có một vài đồng, bây giờ thường xuyên là tờ lớn năm trăm đồng.
Dư Phát học kém khiến người cha buồn bực. Ông này rất mâu thuẫn về tư tưởng. Tuy ông cho rằng học chẳng để làm gì, bản thân ông chưa tốt nghiệp cấp Hai mà giấy bạc chẳng từng nắm từng nắm vơ về đấy thôi! Nhưng khi nghĩ như thế thật, ông lại cảm thấy hố, không vững tâm, huống hồ trong thôn lại có người tài như Trần Minh. Dư Phát hoàn toàn như là cái nền để làm nổi bật Trần Minh, thậm chí trước mặt cha Trần Minh, cha Dư Phát cũng thấy như thấp hẳn một cái đầu.
Dư Phát tính học hết cấp Hai thì thôi không học nữa. Cha bạn hét lên:
- Mày dám à? Người ta không lo nổi tiền học, tao trả giá cao cho mày học, mày dám không lo à?
Ông lập tức mời mấy thầy về nhà “mài gươm” chuẩn bị xung trận. Thầy Anh, thầy Đại, thầy Lý, thầy Hóa mời đủ, một giờ ba chục tệ. Bình thường kiểm tra nhanh, nếu được bảy điểm trở lên là chẳng những Dư Phát được thưởng mà thầy giáo cũng được thưởng. Mẹ Dư Phát thấy xót của thì ông chồng nói: “Đây là tiền đầu tư cho trí tuệ”. Rồi ông bảo Dư Phát:
- Cưng này, chịu khó học hai tháng thi đỗ lên trung học, xong rồi cha mua cho cái xe đua!
Người cha động viên con bằng cách ấy.
Dư Phát cũng thật sự yên tâm chăm chỉ học hai tháng, kết quả thi cũng không đến nỗi nào, vào một trường trung học bình thường chẳng có vấn đề gì. Nhưng trường trung học Số Chín ở gần nhà, lại nổi tiếng, thế là cha Dư Phát đến trường Số Chín động viên, xin đầu tư một công xưởng gì đó cho nhà trường, thế là Dư Phát được chiếu cố nhận vào trường Số Chín. Tuy nhiên, học sinh chiếu cố cũng có riêng quy định, đó là không được mắc lỗi, nếu phạm lỗi bị ghi sổ thì phải tự thôi học. Thôi thì mặc kệ quy định, cứ được vào học đã rồi hẵng hay. Cha Dư Phát nói là làm, thưởng luôn cho Dư Phát một xe đua nhập ngoại hơn một ngàn tệ, hơn nữa hễ gặp ai cũng nói: “Con tôi chẳng kém cạnh ai”. Gặp cha Trần Minh, ông cũng nói: “Lần này Dư Phát và Trần Minh cùng đỗ vào một trường trung học. Dư Phát tính nghịch ngợm, nhưng thông minh thì vẫn cứ thông minh đi. Học có hai tháng vào ngay được trường Số Chín…”. Nói như vậy nhiều lần, ông quên khuấy Dư Phát phải xin vào trường Số Chín như thế nào, mà dường như con ông tự thi đỗ vậy. May mà Dư Phát tự biết nhờ ông bô mua bằng tiền. Tuy Dư Phát chưa dám khẳng định “tiền thật sự là vạn năng” song bạn dám khẳng định “không có tiền thì vạn vạn bất năng”.
Lên được phổ thông trung học, ông bô thôi không quản chặt Dư Phát nữa, thế là Dư Phát được chăng hay chớ, ba năm tạm bợ kiếm tờ văn bằng!
Nhà Dư Phát thường có người quen đến đánh mạt chược. Trong làng, một số người có tiền cũng suốt ngày đánh mạt chược, kể cả cha Trần Minh. Lời dạy cổ xưa “mặt trời lên đi làm, mặt trời lặn về nghỉ” thì ở nơi đây biến thành “mặt trời lên mới đi nghỉ, mặt trời lặn đi làm”. Hễ ngồi vào bàn mạt chược là dường như họ không phân biệt già trẻ, lớn bé, hò hét không kiêng nể, cười đùa những chuyện “không hợp với trẻ con”. Kể cũng lạ, những điều giảng trên lớp khó khăn lắm mới nhồi nhét được vào óc, còn món mạt chược này không cần thầy dạy cũng tự thông thạo. Hồi học tiểu học, Dư Phát chỉ xem vài lần là hiểu rành rẽ. Thấy người ta đánh, trong lòng ngứa ngáy cũng muốn ngồi vào bàn chơi cho đã, nhưng ông bỏ không cho phép. Hễ thấy Dư Phát mon men đứng cạnh là ông quát:
- Không phải là món chơi của mày, đi học đi!
Cha càng răn dạy, càng cấm đoán, Dư Phát càng cảm thấy hứng thú. Nếu mạt chược không có sức hấp dẫn, sao có thể khiến người ta đánh suốt đêm đến sáng? Sao có thể khiến họ cười thoải mái đến vậy? Cho nên tuy người ngồi học trong phòng mà hồn thì bay tới bàn mạt chược để cùng tính toán nước chơi với họ.
Có một hôm, một bạn chơi mạt chược vắng mặt, bốn chân thiếu một, không làm sao chơi được.
- Lại đây Phát, còn thiếu một chân đây! – Cha Trần Minh gọi.
- Không ạ, cháu không biết chơi! – Dư Phát làm ra vẻ từ chối, song con mắt lại hướng về cha mình, mong có được tín hiệu đèn xanh ở ông.
Cha Dư Phát không nói một câu, cũng không nhìn bạn. Dư Phát bèn run rẩy ngồi vào bàn. Khi giơ tay ra lấy bài, Dư Phát hồi hộp lắm, song đến mấy lần lấy bài sau, chân tay đã tự nhiên hẳn.
Chiến đèn treo hạ xuống thật thấp, ánh đèn vàng vọt hắt lên những bộ mặt có nét đặc sắc riêng, đồng thời cũng hắt xuống mặt bàn có trải khăn bằng nhung đỏ. Cách bố trí cùng không khí đó dường như sắp xếp riêng cho việc đánh mạt chược. Tám bàn tay xoa bài lách cách dưới ánh đèn mờ mờ. Chiếc đồng hồ vàng và hai chiếc nhẫn kim cương cỡ bự đáng giá mấy vạn tệ lấp lánh trên tay cha Dư Phát, chẳng khác gì ánh đèn lóe sáng qua lại trong phòng nhảy disco. Quân bài bằng ngà đã ngả vàng, Dư Phát cảm thấy niềm đồng cảm, hưng phấn ít khi có.
- Chát! Thắng rồi! Ha ha ha… - Dư Phát phát hiện ra thiên tài trời cho về mặt này!
- Khá lắm Phát ạ, bài đánh lên tay như thế, sau này nhất định bản lĩnh hơn ông bô!
Cha Dư Phát vẫn không hé răng nhưng Dư Phát biết, hẳn ông cũng vui lòng hởi dạ.
- Chơi món này thú hơn học nhiều! – Dư Phát lên giọng phán đoán.
Có lần thứ nhất, ắt có lần thứ hai, thứ ba.
Dư Phát bắt ghiền mạt chược, chẳng còn tâm địa nào làm bài tập, thường xuyên mượn vở của bạn để chép.
Hôm nay Dư Phát bị thầy “Đồ Cổ” thộp cổ. Tuy lần này thầy “Đồ Cổ” chẳng làm gì cậu ta cả, song Dư Phát đoán “trò hay còn ở đoạn sau”.
Quả nhiên, vừa mới đánh được mấy vòng thì thầy Giang “ập” vào.
Những người có mặt đều thấy khó xử, các bạn bài tiu nghỉu cáo từ ra về, miệng lẩm bẩm:
- Lầm rồi, lầm rồi!
Mẹ Dư Phát vội vàng thu dọn “tàn cuộc”. Người khó xử nhất là cha Dư Phát:
- Thầy giáo…, chúng tôi… e hèm… chúng tôi….
- Dư Phát, em ra ngoài một lát, thầy muốn nói chuyện riêng với cha em! - Thầy Giang nhíu mày bảo Dư Phát.
Dư Phát bước ra khỏi phòng, từ cửa sổ nhìn vào trong. Cậu ta nhìn thấy song không nghe thấy gì hết. Ông thầy này rách việc quá, đến thăm gia đình học trò làm cái quái gì! Mà nào có phải tiểu học đâu, đã trung học rồi, lại còn đến thăm gia đình! Không biết thầy nói cái gì với ông bô nhỉ?
HỌC TRÒ NAM CHỞ CÔ GIÁO LÀ CHUYỆN OK
Cô Lan xách một làn thức ăn từ chợ ra, tay trái xách mỏi thì đổi sang tay phải, một lúc lại đổi ngược lại.
Sau khi tốt nghiệp lớp Mười hai, cô giáo Lan dạy phổ thông. Cô thiếu một tờ văn bằng, cảm thấy như mình thấp hơn người khác ở trong trường. Vì thế, cô chỉ có cách duy nhất là khổ công rèn luyện, dạy sao cho có được học sinh mũi nhọn, cho có được lớp gương mẫu để cô có thể có chỗ đứng trong con mắt đồng nghiệp. Trong cuộc đời dạy học hơn hai chục năm, cô quả đã bồi dưỡng được không ít học sinh ưu tú. Đắc ý nhất là khóa trước, tức khóa có lớp của Trần Minh. Lớp này không những tỉ lệ lên lớp cao mà còn không ít em vào được trường trung học Số Chín.
- Cô Lan ơi! – Cô Lan nghe tiếng gọi ngoảnh đầu lại.
Dư Phát đi chiếc xe hiệu Con Cừu Nhỏ, lên tiếng:
- Em chào cô ạ!
- Em đấy à? Dư Phát cao lớn rồi! Còn Trần Minh thế nào, tốt cả chứ!
- Trần Minh vẫn thế, vẫn đứng thứ nhất ạ.
Cô Lan vui vẻ cười:
- Phát này, em phải học tập Trần Minh, không nên ham chơi.
- Vâng ạ.
Cô Lan như sực nhớ ra chuyện gì đó quan trọng, lại hỏi:
- Trần Minh có còn không ăn sáng như trước kia không em?
- Dạ?
Không ngờ cô Lan lại hỏi về việc đó, Dư Phát không biết trả lời như thế nào.
Trần Minh là học trò cưng của cô Lan. Là thầy cô giáo, không ai không mong mỏi cho học trò mình thành đạt, cô Lan càng mong muốn như thế. Cô cho rằng bồi dưỡng một trăm học sinh giỏi không bằng bồi dưỡng một học sinh xuất chúng, như thế càng tỏ rõ giá trị của cô giáo hơn. Đó là lý luận giáo dục của cô, cho nên cô đặc biệt chú ý đến Trần Minh và cũng khó tránh khỏi thiên lệch. Cô quan tâm đến Trần Minh không chỉ về mặt học tập, mà về đời sống cô cũng hết sức chăm chút. Trần Minh có thói quen không ăn sáng, cô Lan ngày nào cũng kiểm tra, ngày nào cũng đốc thúc, cứ như là cha mẹ Trần Minh vậy. Song Trần Minh lại không hề cảm động, chẳng khác nào câu sau đây trong một bài hát rất phổ biến: “Tôi hết lòng hết sức vì em, sao em không hề cảm động…”
- Phát này, em về nhớ nhắc nhở Trần Minh, thế nào cũng phải ăn sáng đấy! Ăn sáng cũng tăng thêm chất bổ.
- Vâng ạ - Dư Phát gật đầu song trong lòng không vui. Khi gặp nhau, người ta thường hỏi chuyện của nhau, làm sao cô giáo cứ nhắc mãi Trần Minh?
Có điều, Dư Phát biết cô Lan là người rất tốt. Trước đây cô Lan hay mắng Dư Phát, bạn cũng thường cãi lại cô song cô vẫn mong mỏi bạn lên được phổ thông trung học như thường. Cô chỉ có hơi thiên lệch. Chẳng thế mà vừa gặp mặt, ai cũng chẳng hỏi thăm, chỉ hỏi thăm mỗi Trần Minh. Ôi, đều trôi qua cả rồi, song cô giáo Lan thật sự là người rất tốt.
Dư Phát chợt nhìn đến làn thức ăn của cô giáo, bèn đỡ lấy đặt ngay lên sau xe không đợi ý kiến cô:
- Thưa cô, em chở cô về nhé!
Cô giáo hơi khách khí:
- Không cần đâu, có mấy bước chân là về tới nhà thôi mà!
- Cô ơi, nếu cô và em đổi giới tính cho nhau, cô lưỡng lự còn có lý, chứ như bây giờ, cô lưỡng lự là không cần thiết.
- Sao?
- Nếu em là cô nữ sinh, cô là thầy giáo, em chở cô thì có điều còn khó nói, chứ học trò nam chở cô giáo là điều OK! Thôi cô lên xe đi!
Cô Lan không nhịn được cười khanh khách. Dư Phát thật lắm chuyện buồn cười. Cô ngồi lên xe, nhìn chăm chăm vào lưng Dư Phát, trong lòng bỗng nảy sinh cảm giác có lỗi. Thằng bé Dư Phát này tuy nghịch ngợm nhưng tâm địa rất tốt, thế mà mình đối với nó, dường như chỉ phê bình chứ không khen. Sau khi tốt nghiệp, lại chính thằng Dư Phát này mồm mép dẻo quẹo, cách quãng xa cũng chào hỏi cô, lại còn đến nhà thăm cô nữa. Còn Trần Minh thì mất mặt luôn…
- Mày về nhà làm gì – Ông bô quát.
Dư Phát nín thinh. Bạn biết sau mỗi lần thầy giáo đến thăm gia đình, ông bô đều quát tháo như có ai nợ tiền ông vậy. Lâu dân, Dư Phát cũng cho là chuyện bình thường và chuẩn bị thật đầy đủ về mặt tâm lý. Như lúc này đây, Dư Phát biết không thể cứng, cứng thì ông bô sẽ cho một bạt tai ngay; cũng không thể nhũn, không thể ấp a ấp úng, không thể để ông bô cảm thấy bạn “có tật giật mình”. Bạn phải làm ra vẻ “mất dạy” một chút:
- Về ngủ! – Dư Phát đáp.
- Ngủ cái đồ chó chết nhà mày! Mày cứ như thế, sau này xem mày xoay xở thế nào!
Dư Phát nín thinh.
- Chẳng nên cơm cháo gì! Đồ toi cơm! Mày nhìn thằng con chú Trần ấy, bản lĩnh giỏi giang thế chứ, mát mày mát mặt thế chứ! Còn mày? Sau này rồi cũng đến buôn bán như tao thôi!
- Buôn bán có gì là không tốt? – Dư Phát lẩm bẩm.
- Mày… - Ông bô không tìm được từ nào thích hợp liền hầm hầm – Mày… thôi đi mà ngủ cái đồ lợn chết toi nhà mày đi!
Dư Phát rụt đầu rụt cổ bước vào nhà.
NGƯỜI SÙNG BÁI LÔI CHẤN TỬ
Lúc này thầy Giang ngổn ngang ý nghĩ. Vấn đề giáo dục thiếu niên, nhất là con cái người địa phương, là một đề tài mới đặt ra.
Thầy Giang nhớ lại hồi còn ở Tây An, thầy từng đọc được một tin trên tờ Tin tham khảo: học sinh người địa phương ở Thâm Quyến có hiện tượng chán học. Bài báo phân tích mấy điểm, trong đó có một điểm là người địa phương sống quá giàu sang, trong khi đó thượng tầng kiến trúc chưa theo kịp; vật chất không đồng bộ với văn hóa khiến trẻ em ở đây bằng lòng với hiện trạng, lười nhác học tập. Ở Dư Phát, điểm này biểu hiện rất rõ, và không thể không có quan hệ ở mức độ rất lớn vớ hoàn cảnh của gia đình. Thầy Giang nhớ lại tình cảnh hồi thầy về nông thôn học tập năm xưa. Tuy đời sống vật chất cực kỳ nghèo khổ song con người kiên nhẫn tìm đến tri thức, hướng tới cuộc đời, theo đuổi lý tưởng. Hành vi cử chỉ của họ hồi ấy là điều mà một số thanh thiếu niên ngày nay chỉ biết yêu một mình mình, chỉ biết kêu gào “buồn khổ”, “thông cảm”, chỉ biết mê mải theo đuổi vật chất, không thể nào hiểu được. Trong con mắt của số thanh thiếu niên này, có lẽ họ cũng chỉ là những Đông Kihote. Nữ văn sĩ Tam Mao từng nói, hai ba chục năm sau, có thể Trung Quốc lại xảy ra sự kiện càng khó tưởng tượng hơn cả “đại cách mạng văn hóa”, đó là sự sa sút về tinh thần của cả một thế hệ.
Đấy là “bệnh thời đại” chăng? Căn bệnh yếu đuối và lười nhác của thời đại chăng? Thật là mối nguy cơ cho tuổi trẻ khiến nhiều người lo lắng.
Thầy giáo Giang cảm thấy có lẽ mình nghĩ hơi nặng nề, nghĩ hơi quá sâu. Có điều, thầy cũng cảm thấy may mà Dư Phát còn tốt bụng. Các cụ nói “con trẻ dạy dỗ được”, như thế là đủ. Bản thân thầy đã được điều tới Thâm Quyến, nơi mà nhiều người gọi là “sa mạc văn hóa” thì thầy cần đem hết sức nhỏ bé của mình để tăng thêm màu xanh cho nơi này. Các em có biết không? Người lớn nhiều khi rất muốn giúp đỡ các em đấy! Thầy Giang nghĩ như vậy.
Thế còn con em của bản địa, người cùng thôn với Dư Phát là Trần Minh? Trần Minh cũng là con người dân đất này, hoàn cảnh gia đình không khác mấy, tuổi như nhau, cùng vào học một trường, nhưng bất kể về phương diện nào, đều không tìm được điểm giống nhau giữa hai bạn đó. Vậy thì nhân tố nào đã gây nên như vậy? Đột nhiên thầy Giang rất muốn tìm hiểu và gần gũi cậu học trò tương đối đặc biệt này.
Thầy Giang đi theo hướng người dân trong thôn chỉ lối. Nhà Dư Phát cách nhà Trần Minh chừng trăm mét, chỉ lát sau là tới. Nghe người ta nói dân làng rất coi nhẹ giáo dục, không tôn trọng thầy giáo, nhưng khi thầy đến thăm gia đình Dư Phát thì tình hình không hẳn thế. Có lẽ do nể sợ, họ cung kính với thầy giáo lắm. Còn nhà Trần Minh?
Nhà Trần Minh xây tường vây quanh rất cao, trên đầu cổng có bốn chữ “ra vào bình an” rất bắt mắt. Trong sân nuôi hai con chó giống Đức, mấy chục ngàn tệ một con để ngừa trộm. Có lắm tiền thì cách thức phòng trộm cũng phát triển tương ứng. Chó nòi đúng là chó nòi, thấy người lạ là sủa liền. Một thiếu phụ chừng hai mươi tuổi bế đứa bé bước ra.
- Hỏi ai thế?
- Em Trần Minh có phải ở nhà này không à? Tôi là chủ nhiệm lớp em.
- À, ra là thầy giáo! - Thiếu phụ mở cổng sắt, đưa thầy Giang vào phòng khách – Cha ơi, thầy giáo của em Minh đến thăm.
Cha Trần Minh chuyển ánh mắt từ ti vi sang thầy giáo. Lập tức ông thấy ngượng bởi họ vừa gặp nhau xong, gặp bên bàn mạt chược nhà Dư Phát.
- Mời thầy giáo ngồi! – Ông này nói tiếng phổ thông cứng ngắc – Cháu Trần Minh có phạm lỗi gì ở trường sao?
- Không đâu ạ…
- Học sút kém gì chăng?
- Không phải…
- Thế thì thầy giáo đến nhà làm gì?
- Dạ tôi đến thăm, chủ yếu là muốn tìm hiểu…
Nghe nói vậy, cha Trần Minh tỏ vẻ nghi ngờ, ngắm nghía thầy giáo từ trên xuống dưới, từ trước ra sau. Thầy Giang thầm nghĩ: “Lẽ nào học sinh cứ phải phạm lỗi và học kém thì thầy giáo mới đến thăm nhà?”.
Người thiếu phụ mở cổng lúc nãy bưng ra một chén tra:
- Mời thầy giáo nhấp trà! - Người Quảng Đong gọi “uống” là “nhấp”, rồi cô này gọi với lên trên gác – Minh ơi, thầy chủ nhiệm tới này!
Cha Trần Minh như sực nhớ ra, nói:
- Có phải thầy lo Trần Minh cũng đánh mạt chược như Dư Phát phải không ạ? Không đâu, thầy yên tâm đi. Đến tivi cháu cũng không xem đâu…
- Chào thầy ạ! - Trần Minh lên tiếng chào.
Trần Minh đứng ở cửa cầu thang lầu hai, từ trên cao chào xuống, có phần lãnh đạm, rồi thong thả xuống gác.
- Thầy tìm em có việc gì ạ?
- Đến thăm em thôi! Thầy vừa từ nhà Dư Phát sang đây.
- Thầy đến may quá, em đang muốn hỏi thầy mấy câu ạ - Trần Minh cầm tách lên.
Cậu học trò này biết tận dụng thời gian gớm! Thầy giáo giải đáp xong, hỏi:
- Em hiểu rõ chưa?
Trần Minh gật đầu, cám ơn. Chỉ có trong học tập, Trần Minh mới tỏ ra không kiêu ngạo và ngoan ngoãn hẳn.
- Minh này, sau này em định thi vào trường đại học nào?
- Thanh Hoa ạ! - Tiếng đáp không to nhưng chắc nịch.
Thầy Giang gật đầu tỏ vẻ bằng lòng. Lúc này cha Trần Minh mới nói xen:
- Thanh Hoa ở đâu?
Trần Minh không đáp và cũng không tỏ vẻ muốn trả lời. Thầy Giang bèn nói:
- Ở Bắc Kinh ạ.
- Ở Bắc Kinh cơ à? - Người cha kinh ngạc - Bắc Kinh rét lắm, không nên, không nên! Cắt hộ khẩu đi không trở về được đâu… Đồ ngốc, thi vào đại học Thâm Quyến thôi!
Trần Minh vẫn nín thinh. Thầy Giang lại giải thích:
- Thanh Hoa là một trong những trường đại học nổi tiếng nhất trong cả nước đấy!
- Oa, oa…
Tiếng khóc trẻ con làm thầy Giang ngưng bặt; cha Trần Minh nhìn phim Hồng Kông trên tivi bỗng bật cười. Trần Minh bực bội nhìn thằng cháu, chị gái Trần Minh vội bịt miệng con:
- Ngoan nào, đừng khóc nữa, cậu sắp nổi cáu kia kìa!
Trần Minh lại liếc nhìn cha, ông này cũng tỏ vẻ biết lỗi, vặn nhỏ tivi xuống:
- Hai thầy trò nói chuyện đi!
- Thưa thầy, mời thầy lên phòng em nói chuyện!
- Thôi, để dịp khác thầy trò mình lại nói, thầy về đây! Hễ có việc gì, em có thể tìm thầy bất kỳ lúc nào cũng đươc.
Trước khi ra về, thầy Giang lại hỏi:
- Em còn câu gì muốn hỏi không?
Tiễn thầy Giang xong, Trần Minh hỏi cha:
- Cha này, con mong cha từ nay thôi không sang nhà Dư Phát đánh mạt chược nữa!
- Tao có phải ngày nào cũng chơi đâu! Thỉnh thoảng chẳng có việc gì mới chơi một ván thôi mà! Ai biết đâu thầy giáo mày rách việc đến thế, lại còn tìm đến nhà!
- Thật thế! – Cô chị gái bế đứa con gái cũng phụ họa – Cha chơi một vài ván có làm sao đâu?
- Còn chị nữa - Trần Minh quay sang bảo chị - Con bé nhà chị làm ồn lắm, chị biết không?
Rồi Trần Minh chạy thình thình lên gác. Người chị ấm ức nói:
- Cha, cha xem nó đấy! Trẻ nít làm sao không khóc không mếu được?
Người cha liền bảo:
- Con cũng chỉ được cái…! Ai bảo không có tài, đẻ con gái mà không đẻ được con trai! Có thế nhà chồng mới đuổi về chứ? Xem hai con chị của con đấy, chúng nó đều đẻ con trai cả…
Ở đây, đẻ con trai hay con gái là rất thành chuyện. Đẻ con trai thì khi con đủ mười tám tuổi, đứa con ấy được chia đất xây nhà. Thảo nào nhà chồng cô chị mới oán con dâu đến thế.
- Cha, sao cha lại có thể thiên vị đến thế? Cha nói vậy mà nghe được à?
Trần Minh về phòng mình. Đây là căn buồng rộng đến hơn hai chục mét vuông, song Trần Minh đâu chỉ có một buồng? Từ sau khi ba chị gái đi lấy chồng, tầng ba, tầng tư đều bỏ trống, bà mẹ bảo để dành cả cho Trần Minh lấy vợ. Trong tư duy của họ, đời người chẳng qua là kiếm tiền, lấy vợ, đẻ con, chỉ có mấy việc ấy mà thôi. Trần Minh không coi trọng mấy việc ấy. Bạn căn bản coi thường ông bô lưng giắt vạn quan tiền song không biết mô tê gì về Thanh Hoa, coi thường bà bô chỉ biết vâng vâng dạ dạ hầu hạ người chồng, coi thường cô chị gái suốt ngày mặt khó đăm đăm vì nỗi không đẻ được con trai. Chỉ có chú út, chú út ở huyện Anh Đức là còn có chút ít địa vị trong tâm tưởng của Trần Minh vì trong nhà chỉ có chú út là có văn hóa, nói chuyện cũng còn có chút trình độ.
Trần Minh khóa trái cửa lại, đóng cửa chớp bằng hợp kim, kéo màn nhung che kín cửa sổ. Bạn thường tự tạo ra không khí học tập bằng cách ngăn mình với thế giới bên ngoài như vậy. Lưng cánh cửa dán tranh vẽ Lôi Chấn Tử. Nhà có rất nhiều tranh Tết, nào tranh thần canh cửa, thần cho tài lộc, thần cho tuổi thọ, cả một lô. Một lần mẹ Trần Minh tự ý đem mấy tờ tranh vào dán trong phòng Trần Minh, nói là để cầu may mắn. Trần Minh không nói một câu, giơ tay lột xuống xé đi. Nhưng khi thấy bức tranh vẽ một người mọc hai cái cánh, bạn dừng tay lại. Bạn biết đây là hình con trai Tây Bá hầu Cơ Xương trong truyện Phong thần diễn nghĩa, được ông nhận nuôi trên núi Yên Sơn, tên gọi Lôi Chấn Tử. Hồi Lôi Chấn Tử học đạo trên núi Chung Nam, có ăn hai quả hạnh tiên, từ đó hai bên ngực mọc ra đôi cánh. Được sư phụ Vân Trung Tử điểm hóa, hai cánh này biến thành hai cánh phong lôi (sấm gió), từ đó bản lĩnh càng cao cường. Lúc này trên ti vi đang chiếu Phong thần diễn nghĩa, Trần Minh liếc xem ít phút, cảm thấy Lôi Chân Tử trong phim không đúng. Kể cả điện ảnh Bảng phong thần và phim truyền hình Bảng phong thần, vai Lôi Chấn Tử đều không như hình tượng vị thần theo cách cảm nhận của Trần Minh. Ngược lại, bức tranh này gần với hình ảnh bạn tưởng tượng, bởi vậy bất giác Trần Minh thích bức tranh này. Bạn dán bức tranh vào sau cửa, là nơi khi ra vào phòng đều trông thấy được. Khi rất nhiều học sinh trung học sùng bái điên cuồng, mê mẩn với các ngôi sao ca nhạc và điện ảnh Hồng Kông, Đài Loan thì cậu thiếu niên Thâm Quyến cách Hồng Kông, Đài Loan rất gần này lại tôn thờ nhân vật thần thoại mấy ngàn năm trước. Điều này phải chăng có gì đó khó hiểu?
Nhìn ngắm bức tranh này, Trần Minh có cảm giác như mình cũng vượt ra ngoài thế giới. Bạn ý thức được rằng mình cũng sẽ không giống mọi người, sẽ phi thường!
Dưới nhà vang lên tiếng tivi, tiếng cười lớn của cha, tiếng đứa bé kêu gào và tiếng người chị đang khóc. Trần Minh biết chỉ cần bạn xuống dưới nhà một lát thôi là người cha sẽ tắt tivi, người chị sẽ bồng con đi ngủ. Lúc này Trần Minh không muốn làm thế. Bạn có chút thương hại cha và chị, cuộc sống của họ dường như chẳng có ý nghĩa gì. Thế thì lắm tiền để làm gì? Vô tích sự, chán chết! Thế còn mình?
Trần Minh buông ngửa người trên tấm đệm Nhã Lan, tấm đệm nảy bật lên. Hai tay bạn ôm lấy đầu, trong óc lại hiện lên quang cảnh bạn có một mình trong khu rừng rậm âm u. Bạn không biết đi đâu mà dường như chỗ nào cũng không có đường. Bạn loanh quanh một hồi, lá trên cây rào rào trút xuống, cỏ dại vươn về phía bạn, bao vây lấy bạn. Đột nhiên bạn nhìn thấy trước mặt le lói sáng. Bạn ra sức chạy về phía trước, chạy mãi, chạy lâu lắm, nhưng khi ngửng đầu lên, tia sáng kia vẫn còn đang ở đàng trước, gần trong gang tấc thôi song rốt cuộc không thể với tới.
Trần Minh cứ nghĩ ngợi lung tung như thế thì trong óc bạn lại không ngừng có tia sáng xuất hiện, còn bạn thì gắng sức chạy.
Chỉ có những lúc như thế, Trần Minh mới cảm thấy cái tôi, song bạn không cách gì hoàn toàn khẳng định được đó phải chăng thực sự là cái tự ngã. Bạn ngẩng đầu và nhìn thấy nhân vật phi phàm Lôi Chấn Tử đang mỉm cười.
Trần Minh ngồi dậy, ngồi vào bàn học. Ngày mai thi ngữ văn.
Ngày 9 tháng Chín âm lịch là tết Trùng dương, người miền Nam rất coi trọng ngày tết này, rất coi trọng phong tục lên núi trong ngày này, cho rằng lên được đỉnh cao nhất của núi thì sẽ được may mắn cả năm.
Nhà trường rất sáng suốt, tổ chức cuộc đi chơi mùa thu vào Tết này, như thế không ảnh hưởng đến kế hoạch giảng dạy bởi ngày này đúng vào ngày chủ nhật. Có thể nói nhà trường tính toán đâu ra đấy.
Khi thầy Giang báo cho cả lớp biết tết Trùng dương sẽ lên núi Ngô Đồng, thầy tưởng sẽ được cả lớp hoan hô ầm ĩ, nào ngờ lại có nhiều học sinh lên tiếng:
- Thầy ạ, chúng em không muốn đi chơi đâu!
- Đúng thế đấy, thứ hai còn phải thi môn Hóa.
- Còn phải học, thì giờ đâu mà chơi!
Thầy Giang hơi giật mình. Học sinh lớp này quả là khó “đối phó” quá. Ngày thường kêu bài vở nhiều, chẳng có thì giờ chơi, có bạn còn viết thư cho một tờ báo nào đó, kêu “Em muốn nghỉ ngơi”… Bây giờ tổ chức cho đi chơi, lại kêu là không thích, muốn học. Đứng trên bục giảng, thầy Giang bối rối nhìn đám học trò rào rào bàn luận. Thầy đã bốn lần kêu “Yên lặng nào!” song một người địch sao nổi số đông! Tiếng thầy chìm nghỉm trong tiếng ồn ào của cả lớp. Thầy cầm cái chải xóa bảng đập mạnh lên bàn, tiếng ồn ào mới lắng xuống:
- Sao các em không thích đi chơi?
- Chán lắm thầy ạ. Trường trung học Số Chín chuyên đi chơi vào ngày chủ nhật mà ngày chủ nhật vốn đã là ngày nghỉ rồi. Vả lại năm nào cuộc đi chơi mùa thu cũng na ná như nhau, chẳng có gì mới, chẳng có ý nghĩa gì! – Nói xong, Vương Tiếu Thiên vứt sách đánh “tạch” xuống bàn.
- Nhưng đây là hoạt động tập thể, nhà trường qui định mọi học sinh đều tham gia, lớp ta không thể vin ngoại lệ mà không đi được! - Thầy giáo chơi bài ngửa.
Lần này đến lượt cả lớp giật mình. Trường mình làm sao thế nhỉ? Thường ngày luôn nói nhiệm vụ học tập rất nặng, không nên lãng phí thời gian, thời gian là phân số. Vậy mà bây giờ không muốn đi lại không cho!
- Thưa thầy em ốm không đi được ạ! - Một bạn vẫn chưa chịu thôi.
- Được, em xin y tế cho giấy nghỉ! - Thầy giáo đã hơi bực - Hoạt động tập thể thì nhất luật đều tham gia, nếu không, ghi bỏ học!
Bạn kia cụt hứng thở dài, ca cẩm cùng số bạn bằng lòng đi chơi: núi Ngô Đồng khó trèo ra sao, phong cảnh đơn điệu thế nào, có người hồi trước gặp phải chuyện không hay như thế như thế. Lập tức một số bạn khác nói hùa theo.
Thấy tình hình dở khóc dở cười đó, thầy Giang nói:
- Ai cũng bảo tuổi 16 là tuổi hoa vào mùa, tuổi 17 là tuổi mưa vào mùa, đều là tuổi đẹp nhất, hoạt bát nhất, xán lạn nhất, thế mà thầy thấy lớp mình như tuổi lá rụng, chẳng khác gì ông già bà lão! Hăng hái lên một chút nào!
Nghe thầy nói, cả lớp đều cười:
- Thưa thầy, xán không nổi lạn ạ, thứ hai thi Hóa rồi!
- Gạt chuyện thi sang một bên đi, lên núi thuận lợi cả năm, lần thi nào rồi cũng tốt!
- Gạt chuyện thi sang một bên ạ? Chính thầy nói đấy nhé! Nếu làm bài thi không tốt, thầy chớ có trách chúng em! – Đám học sinh không còn nể sợ gì nữa.
Mặc dù trong lớp vẫn xôn xao bàn tán nhưng không khí đã dịu xuống, nói qua nói lại rồi cả bọn cũng đồng ý đi.
Cuối cùng, thầy Giang bảo:
- Ngày tết Trùng dương cả lớp mình đều lên núi để được may mắn, chơi thoái mái một ngày. Một danh nhân có nói học ra học, chơi ra chơi. Chúng ta cũng phải như vậy. Đừng có lúc học thì nghĩ đến chơi, lúc chơi lại nghĩ đến học. Nghe rõ chưa nào! Sáng chủ nhật bảy giờ đúng đến trường tập hợp!
- Thưa thầy, sáu giờ em đến có được không ạ? – Dư Phát nói đùa.
- Được, mười hai giờ đêm em đến thầy cũng không có ý kiến gì đâu!
Cả lớp lại được mẻ cười.
Lâm Hiểu Húc nghĩ: thầy Giang đúng là không giống những thầy khác.
Sau đó, thầy Giang gặp cán bộ lớp bàn kế hoạch hoạt động. Các bạn muốn tự chia thành nhóm hôm đi chơi. Tình hình đó khiến Liễu Thanh rất buồn, bạn lại ỉu xìu chờ thầy “maketing” mình như một món hàng vào nhóm nào ít người. Song lần này thật bất ngờ, Hân Nhiên gọi:
- Liễu Thanh, mấy đứa chúng mình thành một nhóm nhé!
Liễu Thanh ngớ người, gật đầu lia lịa như gà mổ thóc.
Ngày tết Trùng dương, trời tạnh ráo quang đãng.
Theo kế hoạch định trước, cả lớp tập hợp trước cổng trường. Các bạn gái hôm nay ăn mặc thật đẹp vì đi chơi núi, nhà trường cho được phép không phải mặc đồng phục của trường. Các bạn gái biết quí trọng dịp này, đều diện bộ quần áo nào mà mình ưng ý nhất. Lưu Hạ mặc chiếc áo phông rất bình thường, quần jean, đi đôi Bossini, vừa phóng khoáng lại vừa sáng sủa. Tuổi trẻ mà, mặc gì trông cũng đẹp.
Cả lớp chia làm đôi, lên hai xe. Lâm Hiểu Húc thấy thầy Giang đã lên xe mà mình sắp lên thì mừng lắm, kéo Hân Nhiên cùng ngồi cạnh thầy. Ủy viên văn nghệ Lưu Hạ cầm tờ danh sách, điểm danh ba lần vẫn không nắm được người đã đến đủ chưa, đến nỗi lầm lẫn buồn cười là đề nghị “ai chưa đến thì giơ tay!”. Cuối cùng vẫn lớp trưởng Tiêu Dao “ra trận” thì mới điểm xong tên. Hóa ra thiếu Liễu Thanh! Bạn này có chuyện gì vậy?
Xe bắt đầu chuyển bánh. Được thoát khỏi đống bài học bộn bề, ai nấy đều muốn trổ tài vui đùa. Bạn thì đeo Walkman để nghe âm nhạc, bạn thì vừa ăn quà vừa tán dóc. Có người thầm thì, có người dùng dây tơ kết thành kiểu hoa văn mà mình thích - mốt mới được các bạn nữ ưa chuộng; có người chẳng nói câu nào, chỉ ngắm cảnh ngoài cửa xe. Cả xe ồn ào chen chúc nhau, lớn tiếng nói, lớn tiếng cười, lớn tiếng hát, ngáp thật to, cười thật giòn, kêu oai oái.
Không biết từ lúc nào, Dư Phát trở thành thầy tướng số đang xem vân tay cho các bạn.
- Hạ này, đường tình duyên của bạn… chà chà… tự nhìn lấy đi… rối tung rối mù…
- Sao, sao? – Lưu Hạ cuống lên.
Lưu Hạ càng cuống, Dư Phát càng lên nước:
- Thôi thôi, không nói nữa, nói thì bạn thêm đau khổ!
- Cứ nói, nói đi nào!
- Được, để mình nói. Hôn nhân của bạn rất quanh co, lúc đứng tuổi thì xảy chuyện, có kẻ thứ ba chen vào bởi tình cảm của bạn không chuyên dành cho một người, tính đào hoa, có mới nới cũ… Đáng thương cho cậu Vương Tiếu Thiên quá…
Lưu Hạ rụt tay lại mắng:
- Đồ điên! Chuyện ấy hẳn là số của cậu chứ gì? Thế mà đem gán cho người ta!
Máy ghi âm vang lên câu hát: “Em có biết anh đang chờ em?”. Cả bọn không hẹn mà cùng nhớ tới chuyện Dư Phát trêu chọc Lưu Hạ mấy ngày hôm trước. Bọn bạn nam cũng hướng cả về Lưu Hạ mà nhại theo tiếng hát trong máy ghi âm: “Em có biết anh đang chờ em?” khiến Lưu Hạ bực mình giẫm chân. Vương Tiếu Thiên bấy giờ mới ra mặt:
- Bắt nạt bà xã nhà này không sao, lại dám bắt nạt cả ủy viên văn nghệ của lớp à?
Cả xe cười ầm ĩ, Lưu Hạ cũng cười, song không hiểu sao mặt bạn thấy nóng bừng, tim cũng đập rộn ràng.
“… Yêu em, yêu em, yêu mãi mãi…”. Cả lớp bắt đầu hát bài tủ của ca sĩ Quách Phú Thành.
“Cảm tạ anh đã yêu em…”. Đấy là bài trong phim Tiểu Phương. Họ hát những bài hát này chẳng khác gì cha mẹ họ hát bài hát cách mạng, hễ mở miệng là chỉ hát có vậy. Thầy Giang lên tiếng:
- Các em bây giờ mới là học sinh trung học mà sao suốt ngày cứ luôn miệng yêu đương, yêu không biết chán thế?
Cả xe lại cười rộ. Có tiếng phân bua:
- Làm gì có bài hát dành cho chúng em ạ?
Học sinh trung học ở Thâm Quyến sùng bái ca sĩ nổi tiếng là hiện tượng rất phổ biến. Có lẽ vì nơi đây cách Hồng Kông, Đài Loan không xa mấy tí nên tin tức về mặt này rất nhạy bén. Hồng An Cách, Lưu Đức Hoa được hâm mộ xong thì tới Lê Minh. Khi Quách Phú Thành được hâm mộ thì ai nấy sưu tầm ảnh của Quách Phú Thành, tới khi người được hâm mộ là Lâm Chí Dĩnh – ca sĩ của tuổi trẻ thì rất nhiều nữ sinh lập tức “có mới nới cũ”, chuyển tình cảm sang cho anh ta.
Lưu Hạ, Liễu Thanh sưu tầm rất nhiều ảnh, bưu ảnh và băng ghi hình, đĩa CD của các ca sĩ. Một lần Lưu Hạ nghe tin Lê Minh đến Thâm Quyến biểu diễn, bạn mừng vô kể song tiếc là không có vé. Sau đó lại nghe tin Lê Minh tới Bắc Kinh biểu diễn vào mùa đông, rất nhiều nữ sinh trung học ở Bắc Kinh bất chấp mưa tuyết, tới sân bay chờ đón ca sĩ ấy đến mấy giờ đồng hồ. Lưu Hạ bèn nói với Tiêu Dao là người từ Bắc Kinh đến:
- Nữ sinh Bắc Kinh nhà cậu làm gì mà bốc đồng thế? Chẳng gì cũng là thủ đô, nông nổi quá!
Tiêu Dao bị nghe chẳng hiểu đầu đuôi ra sao. Tiêu Dao biết nếu không cãi nổi được với Lưu Hạ thì động chạm đến người bạn ấy sùng bái cũng đủ làm cho bõ tức.
Một lần Lưu Hạ và Hiểu Húc chỉ vì chuyện bé bằng cái móng tay ấy cũng cãi nhau. Hiểu Húc tức quá nói:
- Lưu Đức Hoa thì ghê gớm cái nỗi gì, vừa già vừa xấu!
Nói xong thấy Lưu Hạ thở hổn hển vằn mắt lên, chọc thế cho bõ tức!
Trên xe, bạn hát Tiếng sóng như xưa xong thì tôi hát Giọt nước quên tình, bạn kia hát Kỳ thực em chẳng hiểu lòng anh, thật là một cuộc đại hợp xướng ca khúc tình yêu.
Hân Nhiên giúi Hiểu Húc một cái, nói:
- Có thấy gì không? Bây giờ lời ca chia làm ba loại rồi đấy! Loại thứ nhất anh yêu em nhưng em không yêu anh như bài hát có câu “Biết bao công sức vì em, sao em cảm động chẳng thèm!”; loại thứ hai, em yêu anh, anh lại chẳng yêu em như câu: “trong trái tim anh có hình bóng ấy, hình bóng ấy tới trước em”; loại thứ ba tổng hợp cả hai loại trên, yêu một người không thể yêu mình song lại được người mình không yêu theo đuổi, như câu “Trót yêu một người không về nhà!”. Thấy chưa?
Hiểu Húc nghe thấy cười khanh khách mãi không thôi.
Bài hát trữ tình đang được hát say sưa thì Dư Phát bỗng đâm choạc vào một câu:
- “Trời khu giải phóng là trời quang đãng…”
Dư Phát hát xong, Lưu Hạ lập tức hát tiếp bài Tổ quốc tôi trong phim Thượng Cam Lĩnh. Bạn vừa xướng câu đầu, các bạn khác không hẹn mà cùng cất tiếng hát. Sang tới lời thứ hai thì Lưu Hạ lĩnh xướng, mọi người hợp xướng. Thầy Giang cũng hòa giọng theo. Hát xong, thầy Giang nói:
- Các em cũng hát được cả bài hát xưa à? Thầy mà hát lại mấy bài này là lại nhớ hồi thầy còn trẻ. Những bài ấy mới hay chứ!
Bỗng xe phanh đột ngột. Số bạn có chỗ không ngồi lại thích đứng xô về phía trước rồi ngã ngửa về phía sau, giúi giụi vào nhau, tiếng cười, tiếng mắng mỏ ầm ĩ.
Thầy Giang lúc nào cũng tươi cười:
- Các em đều thích đùa vui cả đấy thôi! Thầy lại tưởng các em thật sự không thích chơi đùa cơ đấy!
- Không thích chơi là giả dối, không dám chơi là thật đấy ạ! – Hân Nhiên đáp.
- Không dám chơi ư? - Thầy giáo hỏi lại.
- Đúng thế ạ. Chơi thì lòng dạ phấp phỏng như làm chuyện gì lỗi lầm ấy ạ.
- Khi nào thi hết phổ thông, việc làm đầu tiên là tớ đốt hết sách đi cho hả.
- Chúng em bị nhét đầy một bụng sách giáo khoa như nhồi vịt. Nói thực là có rất nhiều điều về văn bản không tiêu hóa được, hoàn toàn buộc phải nhồi nhét cho thuộc mà đối phó với kì thi. Bài tập được điểm mười hai tuần trước, nếu hôm nay thầy lại ra cho em làm, dứt khoác không đạt được điểm đó nữa vì em chưa chuẩn bị lại, những gì học thuộc trước đây bay sang tận Giava rồi. Học như thế thì học làm gì? - Tiếu Thiên nói.
- Cậu dám không học không? – Dư Phát nói khích.
- Không dám. Chẳng những không dám không học mà còn học thuộc làu nữa ấy chứ! Ông già nhà mình đang đợi giấy gọi tớ vào đại học kia!
Thầy Giang cũng cảm thấy chế độ giáo dục, phương pháp giảng dạy hiện hành chưa được hoàn thiện, thầy muốn biết thêm ý kiến của học sinh:
- Các em có ý kiến đối với sách giáo khoa à?
- Không phải thế đâu ạ - Tiêu Dao đáp - Thực ra những điều sách giáo khoa truyền thụ đều là kiến thức, những kiến thức cơ bản của học vấn đều có ở cả đấy. Song bây giờ chúng em học tập không phải để bồi bổ kiến thức, nâng cao học vấn mà hoàn toàn để thi đỗ, thi đỗ hết cấp, như thế là làm mất đi ý nghĩa ban đầu của việc học tập. Như thế thì dù chúng em có học đến mấy đi nữa, trình độ cũng không hơn được thầy, kiến thức không vượt qua được sách giáo khoa.
- Không thi thì làm sao chọn được nhân tài? - Trần Minh định giải thích – Hồi “đại cách mạng văn hóa”, chỉ vì phải đối mọi người bình đẳng trước phân số mà bỏ thi hết phổ thông đấy là gì? Học sinh vào đại học do cơ sở tiến cử lên. Kết quả thì sao nào? Sinh ra tác phong chạy cửa sau. Hễ có việc gì có hiện tượng chạy cửa sau thì tuyệt đối không bảo đảm được chất lượng. Nếu bây giờ đại học chiêu sinh mà còn nhờ tiến cử thì hiện tượng hối lộ nhất định chỉ có nhiều hơn năm xưa chứ không chịu kém. Em cảm thấy thực hiện thi tốt nghiệp phổ thông là điều hợp lý, bởi bất kể thế nào thi được vào đại học, chồi được mầm lên phải là học sinh ưu tú. Em coi thường những ai vì một vài vấn đề nào đó mà ra sức đả kích chế độ thi cử ở cấp cao đẳng. Đấy không phải là thái độ nên có của học sinh.
Nói xong, Trần Minh thấy thầy giáo gật đầu với mình.
- Ca cẩm và oán trách chỉ là để vơi nỗi bực dọc, còn bảo đả kích thì hơi quá. Còn thái độ thì học sinh nên có thái độ như thế nào? – Câu hỏi của Tạ Hân Nhiên khiến mọi người suy nghĩ - Phục tùng ư? Phản kháng ư? Dường như chỉ có hai cách cực đoan đó thôi mà không có con đường trung gian nào khác sao?
Lúc này Trần Minh mới nhận thấy thầy giáo không chỉ gật đầu với mình mà hầu như thầy gật đầu mỉm cười với tất cả.
Ở trên xe, Hiểu Húc không nói với thầy giáo một câu nào. Đã mấy lần bạn muốn lên tiếng đề cập đến chủ đề có độ sâu, có giá trị để thầy chú ý đến bạn song lại ngại chủ đề đó không thỏa đáng. Dù sao Hiểu Húc cũng thỏa mãn rồi. Bạn ngồi ngay bên cạnh thầy. Lần đầu tiên bạn ngồi gần thầy đến như vậy. Đôi vai rộng, ngực chắc nịch, khuôn mặt tươi cười của thầy…, tất cả đều khiến lòng bạn xao động và vui sướng.
CẢM GIÁC MỚI TUYỆT ĐỐI
Ngô Đồng là tên một quả núi vô cùng xinh đẹp. Ở lâu trong thành phố phồn hoa, ai cũng có nguyện vọng là được trở về với thiên nhiên để được gần mặt trời hồng và mặt đất vàng nâu, cây xanh ngắt và hoa muôn sắc. Đám học sinh bị nhốt trong trường, chỉ có các cuộc đi chơi mùa thu mới được dịp hưởng thụ thú vị như vậy.
Sau một giấc ngủ say, núi Ngô Đồng đón tiếp người đến chơi với tinh thần tràn trề tươi trẻ.
Đối với những người sống ở đô thị náo nhiệt, ai cũng cảm thấy ý nghĩa mới mẻ khi được thiên nhiên ôm trong vòng tay thân thiết. Không khí trong lành biết mấy, đến nỗi không nỡ hít thở. Có bài báo giới thiệu núi Ngô Đồng “có mối chân tình khó tìm thấy trong đô thị lớn”, xem ra đúng là như vậy.
Cả lớp chia thành nhóm leo lên. Thầy giáo dặn tới đỉnh núi thì tập hợp.
Số đông học sinh cùng thầy men theo đường núi quanh co lên núi. Hân Nhiên phát hiện một con đường nhỏ hẹp gập ghềnh lấp sau đám bụi cây rậm rạp. Nhìn qua ngọn cây, con đường này ngày càng hẹp, càng quanh co. Trước mặt sẽ là gì? Tận cùng con đường ấy phải chăng cũng có cõi đào nguyên ngoài trần thế không muốn lộ mình trong bụi trần như nhà thơ Đào Uyên Minh từng viết? Đối với sự việc thần bí, lớp trẻ bao giờ cũng có lòng hiếu kỳ và óc khám phá.
Hân Nhiên rất muốn đi đến tận cùng xem sao. Vừa hay Tiêu Dao cũng nói:
- Các bạn đoán xem tít tận cùng rừng cây kia sẽ là gì nào?
Xem ra không ít bạn cũng chú ý đến con đường này.
- Có thể là một nguồn hoa đào? - Lưu Hạ nói.
- Mình đoán có đến tám phần là mồ mả, không chừng còn gặp ma quỉ - Dư Phát nói ra vẻ huyền bí.
- Cút cậu đi!... - Thấy Dư Phát biến đào hoa nguyên của mình thành mồ mả, Lưu Hạ rất bực mình.
- Các cậu chẳng hiểu gì cả. Nơi đây trước kia rất hoang vu, người chết đều đem lên đây chôn – Dư Phát nói quả cũng đúng. Đầu những năm 80 khi mở mang nơi này, đào được rất nhiều xương cốt.
- Thế nào? Có dám đi thám hiểm không? – Vương Tiếu Thiên hỏi.
- Đồng ý! – Hân Nhiên tán thành đầu tiên.
Sau đó Lưu Hạ, Tiếu Thiên cũng biểu quyết. Tiêu Dao bèn nói:
- Thế thì tốt, chúng ta theo con đường này.
Hân Nhiên mừng quýnh, bởi vì Tiêu Dao từ hôm đi thi kiến thức thất bại về chỉ im lặng, hôm nay mới vui vẻ lên. Chỉ có Dư Phát bảo ở đấy co ma quỉ, không đi. Hân Nhiên lại động viên Hiểu Húc. Bạn này vốn cũng muốn thám hiểm song hôm nay muốn đi cùng thầy giáo hơn nên không đi, chỉ dặn:
- Các cậu phải cẩn thận đấy!
Thế là mấy bạn chỉnh lý lại đồ mang theo, đi sâu vào rừng cây. Không biết từ lúc nào, Dư Phát cũng đi theo. Vương Tiếu Thiên bảo:
- Cậu họ “Chây” mới phải. Một mực không đi, sao còn theo bọn tớ.
- Về nguyên tắc tớ không muốn đi theo đường này nhưng sợ các cậu xảy ra chuyện nên đi theo để bảo vệ các cậu thôi! – Dư Phát làm ra vẻ nghiêm chỉnh.
- Chỉ được cái bẻm mép! – Lưu Hạ mắng.
Ngay từ lúc bắt đầu leo, đường đi đã rất gian nan hiểm trở. Nếu không vì tò mò mãnh liệt muốn biết đích tới ở tít trên kia, có lẽ chẳng ai có lòng nhẫn nại đến thế. Xem ra sự lãng mạn và ý thơ trong các cuộc lặn lội vào nơi hoang vu chỉ là sự bịa đặt của văn sĩ. Lúc này cả bọn đang vất vả cẩn thận gạt từng cành gai sang một bên để có thể chui đầu lách qua,hoặc phải dùng chân đè một lùm cỏ ở bên đường xuống để chân kia bước vượt lên trên. Mỗi bước chân đều phải cẩn thận để ý, chỉ cần sơ sểnh một chút là chân tay sẽ bị gai cào rách.
- Mệt muốn chết! – Lưu Hạ kêu lên.
Hân Nhiên bíu lấy cành cây, thở hổn hển.
- Trời ơi, nguy to rồi! – Dư Phát kêu ầm lên – Lưng áo Hạ có con sâu róm to lắm, dài bằng này này, nửa đen nửa vàng, lông mọc chơm chởm!
- Thật ư? Cậu đừng đùa! - Thấy Dư Phát giơ tay miêu tả hình dạng con sâu róm, Lưu Hạ run cả giọng.
- Lại chẳng phải đây là gì? Loại sâu to như thế này hiếm thấy lắm! Ai nói dối cậu!
- Để mình xem nào! - Hân Nhiên quay lại thấy Dư Phát nháy mắt với mình liền hiểu ngay – Đúng đấy, mình còn tưởng họ trêu cậu. Quả thật… chà chà, sợ chết đi được!
Lưu Hạ càng ngọ nguậy dữ:
- Mau lên, mau gẩy nó đi hộ mình!
- Cậu đừng cuống lên, con sâu róm nó đang bò, tí nữa là bò lên đến cổ…
- Trời ơi! Mẹ ơi… - Lưu Hạ sợ quá không dám động đậy nữa, mặt đỏ bừng - Tiếu Thiên, Tiêu Dao, cứu mình với!
- Đợi một lát, mình bẻ cành cây gẩy nó đi cho cậu.
- Tiếu Thiên, cậu… - Lưu Hạ mếu máo.
- Mình cũng sợ lắm! - Tiếu Thiên nhảy lên nhảy xuống, ra bộ toan bắt nhưng lại không dám bắt con sâu.
- Ghê thật, to tổ bố, trông phát khiếp. Trông kìa, nó bò lên cổ rồi đấy! Chết thôi, bị sâu róm bò qua thì ngày mai nổi mẩn ngứa lên ngay.
Hân Nhiên không nhịn được nữa, cười phá lên:
- Chúng mình dọa Lưu Hạ mới tội chưa kìa! Thôi đừng đùa nữa!
Câu này vừa nói ra, tất cả đều cười ngả nghiêng. Dư Phát cười đến nỗi không nói được câu nào. Lưu Hạ lập tức hiểu ra, vừa xấu hổ, vừa tức:
- Các cậu thông đồng nhau dối trá, chết không yên đâu!
Trận cười này làm tiêu tan bao nỗi mệt nhọc vì phải leo núi, ai nấy tiếp tục leo lên.
…
(165-168)
- Trân châu bất chợt còn có giả nữa là! – Ông thầy đáp.
Ông này xem ra thật thà nhưng mình vẫn không dám xem. Thầy nói tốt tất nhiên vui rồi, không tốt thì lại chẳng lo lắng cả ngày? Vả lại số mệnh đều đoán cả ra được thế thì sống có vui thú gì?
Mình lẳng lặng xòe bàn tay phải ra. Mấy đường chỉ tay chi chít quanh thành hình chữ “xuyên” trải ngang bàn tay mình. Chỉ tay của mình rất nhỏ, nghe nói đó là do hay nghĩ quá mà nên. Điều này có phần đúng bởi mình rất hay nghĩ ngợi. Lẽ nào cuộc đời mình bị những đường chỉ tay dài nhỏ này trói buộc chặt?
Điều đáng tiếc nhất ngày hôm nay là lúc chụp ảnh lần cuối cùng. Mình định chụp cùng thầy giáo một kiểu, điều này mình đã tính kỹ cho nên mình chuẩn bị trước cả máy ảnh. Mẹ chỉ cho mình chơi loại máy ảnh ống kính 30D. Để tấm ảnh ấy chụp được đẹp hơn, tối qua mình phải van nài mẹ mãi, mẹ mới đồng ý cho mình mang loại xịn, ống kính có thể kéo dài thu ngắn. Vừa lên đến núi, mình đã tìm cơ hội song chẳng biết mở miệng như thế nào. Nếu chẳng phải chờ đợi mãi để có dịp chụp một mình với thầy Giang thì mình đã cùng bọn Hân Nhiên đi “thám hiểm” rồi. Sắp xuống núi rồi mà mình vẫn chưa kiếm được dịp nào. Mình ngượng ngùng không dám nói ra. Sau cùng mình nói: “Các bạn chụp kiểu ảnh kỷ niệm nhé!”. “Hay lắm!”, nhiều bạn vừa cười vừa nói vừa chạy tới. Dư Phát nhăn mặt làm trò, Lưu Hạ một tay ôm eo mình, một tay gác lên vai thầy Giang.
Mình không thích tư thế này của nó chút nào. Tùy tiện quá! Ngay lập tức mình cảm thấy con bé này thật đáng ghét song không biết nói nó như thế nào. Chẳng hạn nó thân với Vương Tiếu Thiên song nó cũng đùa bỡn cùng Dư Phát. Mình cảm thấy nó thiếu đức tính kín đáo e lệ của con gái. Nó thân mật với hết thảy các bạn nam trong lớp. Rất nhiều bạn nam cũng thích nó, chẳng phải vì nó xinh đẹp hay sao? Ngay ở trên lớp, thầy giáo cũng liếc nhìn nó nhiều hơn!
Mình giảu môi, nhăn mày, không được vui lắm. Sau đó đến lúc chụp ảnh, vẻ mặt mình vẫn không chuyển biến được mấy. Chẳng hiểu ảnh sau khi rửa sẽ ra thế nào. Mình nghĩ có lẽ mình khó coi lắm. Mẹ từng bảo mình không được giảu môi vì như thế sẽ khó coi lắm. Tất cả đều tại con bé Lưu Hạ cả.
Khi về nhà, mình nhìn thấy ba Lưu Hạ đi cùng một người đàn bà, mình đã gặp ba nó ở trường rồi, ông ấy là người của ngành nhạc, còn người đàn bà kia là ai? Người nào làm nghệ thuật đều thế cả, có diễn viên nào lại chẳng bỏ rồi lấy, lấy rồi bỏ chưa? Nếu muốn biết tình hình hôn nhân của số đàn ông này thì không nên hỏi “đã kết hôn chưa?” mà nên hỏi “đã ly hôn chưa?” hoặc “đã ly hôn lần nữa chưa?”. Bất chợt mình lại cảm thấy Lưu Hạ đáng thương quá.
Nhà bên cạnh lại vang lên tiếng cò cưa, khổ hết chỗ nói. Bé Bối Bối học đàn mà khổ sở quá khiến bên nhà mình cũng khổ lây.
“CÔNG TY LIÊN DOANH” ĐÒI GIẢI THỂ
- Đủ rồi, đủ rồi! Sống như thế này quá bằng tù tội! Tôi chịu đựng đủ lắm rồi!
- Anh chịu đủ thì tôi chịu đủ còn hơn anh! Đừng ai đánh giá người khác là đồ ngốc nhé. Dễ anh cho rằng tôi không hay biết gì chuyện của anh, những chuyện xấu xa không dám để người khác thấy của anh! Tôi đã nắm được vô số chứng cớ phạm tội của các người, hôm nào thích tôi sẽ đem tới đoàn kịch của các người, công bố cho mọi người biết…
- Đến hôm nay mà cô còn cho rằng tôi để ý ba cái chuyện vặt ấy à? Sở dĩ tôi chưa ly hôn không phải vì sự thủ đoạn đó của cô mà hoàn toàn vì nghĩ tới Lưu Hạ!
- Thôi đừng giở cái trò ấy ra trước mặt tôi nữa! Bụng dạ anh thế nào, người khác không biết chứ tôi cũng không biết hay sao? Thư tình ba cấp của cái gọi là “Giấc mộng tình yêu” của anh ấy, hôm nào cho con gái nó đọc để nó hiểu cha nó là cái hạng người nào!
- Cô càng ngày càng đanh đá quá quắt!
- Đanh đá? Được lắm, tôi đanh đá quá quắt cho anh coi! - Tiếp theo đó là tiếng ném đồ.
- Đủ rồi, đủ rồi!
Ngay sau đó là tiếng thủy tinh vỡ loảng xoảng. Hiển nhiên là ba cũng quăng quật một thứ gì đó.
- Thế này mà cũng gọi là nhà à? Thật đúng là địa ngục. Nếu không vì Lưu Hạ thì tôi và cô từ lâu đã…
Ba xách túi lên mở cửa toan bỏ đi, không ngờ con gái đang đứng ngoài cửa. Cả ba và mẹ đều hốt hoảng. Ba vội nói:
- Lớp con hôm nay chẳng lên núi Ngô Đồng chơi là gì? Sao về sớm thế?
Lưu Hạ không đáp. Người cha thăm dò với giọng khẳng định:
- Vừa về đấy à?
- Không! - Đứng ngoài cửa, Lưu Hạ quét ánh mắt nhìn khắp nhà và cha mẹ, lạnh lùng đáp - Về lâu rồi!
- Thế sao con không vào nhà?
- Con còn xem biểu diễn! - Ngừng một lát, Lưu Hạ nói thêm - Diễn hay lắm!
Ba buông mình ngồi thụp xuống xô pha như sợi dây đàn lên căng quá đứt đánh phựt.
Mẹ thì khóc ầm lên, tiếng khóc thê thảm, không chừng ngất đi vì khóc.
Lưu Hạ lấy trong túi xách ra mấy quả lê:
- Ba mẹ ăn lê không? Các bạn cho đấy! Ăn một quả đi, ngọt lắm, ăn rồi sẽ thấy người khác hẳn. (Lê đọc nguyên âm giống như ly, ẩn nghĩa ly hôn)
Ba không dám tin vào tai mình, vội vàng dùng ánh mắt để chứng thực. Ông rụt rè nhìn Lưu Hạ, tỏ vẻ hoài nghi.
Bà mẹ cũng như không nhận ra con gái, nhìn đăm đăm Lưu Hạ đến quên cả khóc song vai vẫn run rẩy.
Lưu Hạ bước tới bên mẹ, đặt hai tay lên đôi vai run rẩy của mẹ:
- Mẹ ạ, ly hôn đi! Sống mãi như thế này chẳng bằng ly hôn còn hơn. Ly hôn tốt cho cả nhà!
Lưu Hạ lát sau lại nói:
- Ly hôn cho rồi!
Bạn bất chợt cảm thấy mình đã bị Vương Tiếu Thiên đồng hóa.
Nhân lúc mẹ đang bận làm cơm tối, ba tới phòng Lưu Hạ. Bạn đang đứng trước giá sách đọc sách. Thấy ba vào, Lưu Hạ vội để sách trở lại giá. Ba đã kịp trong thấy bìa cuốn sách: Luật hôn nhân của người Trung Quốc. Người cha nhìn con gái rồi nhìn dẫy sách xếp ngay ngắn trên giá: Nhược điểm của nhân tính, Một nửa đàn ông là đàn bà, Rạn nứt lớn giữa âm dương… Người cha hơi giật mình, đọc có hiểu được không? Ông lại chuyển ánh mắt từ giá sách sang con gái. Vẫn đôi mắt long lanh như nước, đầy vẻ ấu trĩ. Người cha nhìn mãi cũng không sao liên hệ được giữa cô gái nhỏ với sách trên giá sách. Không biết vì mình quan tâm tìm hiểu con gái mình quá ít hay là thế hệ này trưởng thành quá sớm?
- Hạ này, có một số sách chưa thích hợp với con, ít nhất thì cũng chưa thích hợp cho con đọc lúc này. Các con nên đọc những sách nào phù hợp với lứa tuổi của con thì vẫn hơn!
Thấy vẻ căng thẳng của cha, Lưu Hạ không nhịn được cười, song bạn chỉ mím môi cười, không dám cười buông thả, nghĩ bụng nếu mình kể những điều hiểu biết được cho cha mẹ nghe, hẳn ông bà sẽ kinh hãi thất sắc:
- Không hiểu Lưu Hạ nhà mình sao lại biến đổi đến thế?
- Ối chao ba ơi là ba! Ba đừng có lo! Những sách đó có sao đâu? Phải có tinh thần “lấy từ bên ngoài” vào chứ! Phải nhìn nhận sự vật theo duy vật biện chứng chứ! Lấy tinh hoa, bỏ cặn bã mà ba! – Lưu Hạ lại an ủi cha mình, giọng nói không còn vẻ là của con gái nói với cha nữa.
Người cha nhìn vào đôi mắt trong sáng long lanh, song đôi mắt ấy không còn dễ dàng hiểu được nữa. Ông chuyển sang suy nghĩ: “Gia đình chẳng khác nào một đơn vị liên doanh, không hợp tác được với nhau chỉ có cách là chia tay. Còn con cái lại là vốn quan trọng nhất của đơn vị liên doanh ấy…” Ông bảo Lưu Hạ là ông sẽ cho bạn một gia đình êm ấm mà theo cách ông nói, là một công ty liên doanh tốt nhất để bù đắp lại thiếu sót đối với con mấy năm qua. Ông sẽ mời một thầy giáo giỏi nhất để đào tạo con trở thành nhân vật kiệt xuất…
Lưu Hạ cười, cười chua xót.
Thừa lúc ba đang xem mục tin tức, mẹ bước vào phòng Lưu Hạ. Lưu Hạ đang viết thư. Mẹ lập tức cuống cuồng lên. Đừng có như mấy năm trước cha mẹ định ly hôn, Lưu Hạ viết thư cho cô ruột: “Nếu cha mẹ cháu ly hôn thật thì cháu sẽ nhảy từ tầng bảy xuống”. Cô lập tức gửi lá thư ấy theo đường thư nhanh cho bố mẹ, có thế mới dẹp được ý định ly hôn của hai người.
Bây giờ Lưu Hạ lại viết thư, viết mới chăm chú làm sao! Mẹ muốn xem nhưng không dám, chỉ cẩn thận nói:
- Lưu Hạ, con đừng làm chuyện gì ngốc nghếch đấy nhé!
Lưu Hạ gập thư lại, đè hộp bút chì lên:
- Mẹ bảo gì cơ ạ?
- Lưu Hạ, nếu con không muốn sống thì mẹ cũng không muốn sống đâu!
- Mẹ, mẹ… làm gì có chuyện đó? – Lưu Hạ ngơ ngác – Đang yên lành, nói đến sống chết làm gì?
- Hạ à, con không viết thư cho cô con đấy chứ?
Lưu Hạ hiểu ra nỗi lo lắng của mẹ. Bạn cười dở mếu dở lấy thư ra:
- Con viết thư cho một bạn trong nội địa, Lý Anh, mẹ có biết đấy!
Bấy giờ mẹ mới thở hắt ra:
- Tốt, thế thì tốt. Vừa nãy con làm mẹ sợ hết cả hồn! – Bà lập tức nói vào chủ đề chính - Mẹ vốn không định ly hôn với cha con. Không phải mẹ còn hy vọng gì ở ông ấy mà là vì hận ông ấy, kéo dài ra tám năm, mười năm, cho đến già mới thôi. Bây giờ nghĩ lại mẹ thấy chẳng cần phải làm thế, như con nói đấy, ly hôn tốt cho tất cả mọi người.
Tiếp đó bà kể cho Lưu Hạ nghe bao nhiêu là chuyện để chứng tỏ người mẹ kế thường tàn nhẫn ra sao. Chuyện xưa nay, chuyện trong nước ngoài nước, từ chuyện Lọ Lem trong cổ tích đến chuyện người thực việc thực trong hiện thực ngày nay, nhắc Lưu Hạ thà “theo mẹ đi ăn mày chứ không theo bố đang làm quan”, dặn bạn chớ có chịu để cho mẹ kế mắng mỏ.
- Đàn ông ấy à, mẹ hiểu rõ lắm! - Mẹ sụt sịt chùi nước mắt – Đàn ông không nên có lắm tiền, hễ có tiền là hư đốn. Nếu bây giờ gia đình mình còn ở nội địa, một tháng chỉ có trăm đồng bạc thì cha con đã chẳng đến nỗi trụy lạc đến mức đó. Chính vì kiếm được nhiều tiền… Như thế gọi là mất gốc con ạ!
- Nam sợ chọn nhầm nghề, nữ sợ chọn nhầm chồng! Mẹ đời này mù mắt mới lấy phải đồ chẳng bằng loài súc sinh. Mẹ mong con sắp tới hãy mở to mắt ra, có thế mới mong có chỗ về yên ấm.
Lưu Hạ cười, cười cay đắng!
HÌNH NHƯ CHỊ ẤY KHÔNG PHẢI NGƯỜI TRUNG QUỐC
Cuộc đi chơi lần này Liễu Thanh không tham gia. Chị hai Liễu Mi ở Úc về. Mẹ đi cả đêm tới ký túc xá để báo cho bạn. Ngày hôm sau, cả lớp đi lên núi, Liễu Thanh cùng cha mẹ ra sân bay đón Liễu Mi.
Chị hai lấy chồng xong lại xinh ra, đẹp ra. Chị vừa ra khỏi máy bay, cha mẹ lập tức chạy đến đón, người bên phải, người bên trái như nâng đỡ vương phi vậy. Liễu Thanh lập tức nghĩ ngay đến vở Giả Nguyên Xuân về thăm nhà trong Hồng lâu mộng, còn mình thì giống cô cả ngốc, thảo nào người ta bảo họ không giống do cùng mẹ sinh ra.
- Đến Nam Hải tửu gia! - Liễu Mi bảo tài xế taxi.
- Ở nhà cơm nước chuẩn bị sẵn rồi mà! - Mẹ bảo Liễu Mi.
Nhưng Liễu Mi cứ bảo đưa đến Nam Hải tửu gia để ăn cơm.
Nam Hải tửu gia là hiệu ăn cao cấp nhất ở Thâm Quyến, cấp năm sao. Đồ đạc trong nhà đều là loại đắt tiền, người bình thường không dám hỏi đến. Liễu Thanh đi sau chị, bước lên bậc thềm bằng đá hoa cương đã đánh nến, mắt không dám nhìn thẳng những người canh cửa đứng hai bên như vệ sĩ hoàng gia, lòng hơi hoảng. Trước đây chị hai có nói, chị nhất định sẽ đường hoàng chính đính bước vào đây, bây giờ chị hai quả nhiên đã được như nguyện, bây giờ chị là người Trung Quốc mang hộ chiếu Úc.
Cảnh tượng hào hoa ở đây khiến cha và mẹ cảm thấy ngượng ngùng, thậm chí không biết để tay ra sao, ăn như thế nào.
- Cha này, mẹ này, cầm như con thế này này.
Liễu Mi dạy cha mẹ cách dùng thìa, nĩa, còn chị thao tác rất thành thạo, cầm cốc lên uống bằng ngón cái và ngón giữa rất nhã nhặn, thỉnh thoảng lại đưa khăn ăn lên lau mép, cử chỉ rất điệu. Liễu Thanh đã đọc sách viết về mặt này, ở trong trường cũng được dạy, bây giờ chỉ còn “tiến thành thực tiễn” theo chị.
- Cha mẹ dùng Mao Đài hay Mactini?
- Thôi, thôi, uống rượu làm gì!
- Uống chút chứ, coi như đón tiếp con trở về! - Liễu Mi cười, bật ngón tay đánh tách – Waiter (bồi bàn), cho chai Mao Đài.
Người phục vụ lập tức đưa Mao Đài đến, song chị hai vừa nhấp một hớp đã nói:
- Rượu Mao Đài này con uống không quen nữa rồi!
Chị gọi thêm chai Mactini.
- Thái độ phục vụ cùng tố chất của dân chúng Trung Quốc có vấn đề. Cứ nói ngay việc trên sân bay vừa nãy ấy. Cánh cửa lò xo, người trước đi qua nhưng chẳng cần biết đằng sau có người hay không đã buông tay đánh “phịch”, vừa hay đập trúng vào người đi đằng sau. Càng không phải nói Lady first (phụ nữ đi trước) nữa. Ở nước ngoài tuyệt đối không có hiện tượng này. Con đã đi đến mấy nước…
Cha mẹ cứ há hốc mồm ra mà nghe như nghe “thiên thư”. Liễu Thanh hơi ngượng. Chị hai hễ mở mồm là Well! (quái lạ), thỉnh thoảng lại chen vài tiếng nước ngoài, hơi một tí là “Trung Quốc thế này thế nọ”, dường như chị không phải là người Trung Quốc.
- Liễu Thanh! Sao cứ nhìn chị thế? Chị đem về làm quà cho em mấy thứ, không mê hồn thì chớ kể.
Nghe nói có quà, Liễu Thanh có cảm tình với chị hơn.
- Chị này, chị còn nhớ anh Cường không? - Liễu Thanh hỏi.
Cường là bạn trai của chị trước khi quen Râu Quai Nón. Sau khi quen Râu Quai Nón, chị liền bỏ rơi anh Cường. Cường giận lắm. Bọn bạn thân của Cường thấy Liễu Thanh thì đe:
- Học cho tốt vào, đừng có học thói con chị đấy!
Liễu Thanh không thích người ta nói chị mình, nhưng đối với chị, bạn cũng cảm thấy khó hiểu.
Liễu Mi không đáp, chỉ cầm chiếc thìa nhỏ lơ đãng khuấy tách cà phê.
Cha và mẹ cảm thấy câu hỏi của Liễu Thanh không đúng chỗ như thế liền nháy mắt ra hiệu, song Liễu Thanh cứ tỉnh bơ, hỏi tiếp:
- Anh Cường có cô bạn gái khác rồi!
Liễu Mi vẫn không nói gì chỉ “Ừ” nhẹ.
Lúc đầu cha mẹ cũng không thích anh Cường chỉ vì điều cốt yếu nhất là anh không có tiền, chỉ là người làm thuê, cả hộ khẩu ở Thâm Quyến cũng chưa có. Sau đó Liễu Mi quen Râu Quai Nón, thế là cô không chút do dự “bai” luôn anh Cường.
- Bữa cơm này hết bao nhiêu?
- Ba ngàn hai! - Liễu Mi thản nhiên đáp.
- Ba ngàn hai? - Người mẹ thốt lên, lè lưỡi - Thế có chết không, đắt ơi là đắt!
Ăn cơm xong, cả nhà lại tớ siêu thị. Hàng ở đây phần lớn là hàng nước ngoài, hoặc hàng cao cấp mà cửa hàng bình thường ít thấy bán. Chị hai mua mấy thứ đồ lót để thay đổi và nói:
- Người nước ngoài đi du lịch không bao giờ mang túi to túi nhỏ như người Trung Quốc, chỉ cần mang theo mấy cái thẻ Mastercard, Visacard là xong.
Chị quay sang hỏi Liễu Thanh:
- Em muốn mua gì?
Liễu Thanh nghĩ một lát, cảm thấy đồ lót mặc bên trong chẳng cần quá đẹp làm gì, bèn chọn một cái bút.
- Ôi trời ơi chết thôi! Còn nhỏ dùng bút tốt đến thế làm gì? Xem chữ con viết có như giun bò không? Ba trăm chứ có phải ba đồng đâu! - Mẹ trừng mắt nhìn Liễu Thanh.
Liễu Mi vừa trả tiền vừa nói:
- Em nó thích thì mua, việc gì mẹ phải mắng nó!
Có Liễu Mi về nước, cả nhà Liễu Thanh như ăn tết, vui mừng hỉ hả. Cha mẹ mặt lúc nào cũng tươi cười ít có, Liễu Thanh cũng đắc ý ra mặt.
Bạn bè tới thăm, tiếp đãi đã xong, nhà mới yên tĩnh trở lại. Mẹ thu dọn giấy gói bánh kẹo, vỏ hoa quả trên nền nhà, cha ngồi trên xôpha hỏi:
- Mi này, con sống có hạnh phúc không?
- Tốt lắm ạ, mức sống bên ấy cao lắm. Ba ơi, để sau này con đón ba mẹ sang bên đó chơi.
Cha vui lắm:
- Cha với mẹ mày e không có phúc phận đó, con đón em nó sang đi!
- Vâng ạ.
- Bố mẹ chồng đối xử với con thế nào?
- Con đã chẳng viết cả trong thư rồi sao? Ở nước ngoài, sau khi cưới người ta không ở chung cùng bố mẹ đâu. Chúng con ở riêng, chẳng mấy khi gặp bố mẹ anh ấy.
- Thế Râu Quai Nón đối với con thế nào? – Cha vẫn không yên tâm. Râu Quai Nón là tên gọi người rể thứ hai của gia đình Liễu Thanh.
- Tốt lắm ạ - Liễu Mi cười, cười rất hạnh phúc.
- Mi này, con vừa ý về mọi mặt chứ? - Mẹ dừng tay quét nhà hỏi.
- Vâng, cứ coi là như thế. Có điều, có lúc cũng buồn chán lắm!
- Đúng vậy mà. Con kiếm một việc gì đó mà làm. Suốt ngày ở nhà buồn chán là phải.
- Anh ấy không đồng ý ạ. Anh ấy bảo ở Trung Quốc kiếm việc dễ, kiếm tiền khó, còn ở bên ấy kiếm việc khó, kiếm tiền dễ ạ.
- Nếu vậy khoản nào tiết kiệm được thì nên tiết kiệm. Sống nhờ vào chồng mà vung tiền như thế, sao được? – Cha nói.
- Mi này, con lấy chồng cũng lâu rồi, đã có gì chưa? - Mẹ hỏi.
- Có gì cơ ạ?
- BB (bé bé) ấy mà, có BB thì lo gì buồn chán! Chỉ sợ lúc ấy muốn nhàn nhã cũng chẳng được.
Liễu Mi cười, cúi mặt xuống:
- Ba tháng rồi ạ.
Nói xong chị lấy ra một hộp nhân sâm:
- Cha, đây là sâm Cao Ly chính hiệu, cha uống cho bổ.
Cha cầm lấy hộp sâm, nheo mắt lại nhìn. Tuy miệng nói: “Hẳn là đắt lắm đây, cha còn khỏe, chẳng ốm đau, bổ làm gì!”, song trong lòng ông sung sướng lắm.
Thế rồi trong con mắt cha mẹ chỉ còn có Liễu Mi, cha mẹ chỉ quí chị ấy mà không thích Liễu Thanh, hay mắng mỏ, vì thế Liễu Thanh thích ở nội trú, khỏi phải làm phiền cha mẹ.
Liễu Thanh được chị cho một dây chuyền vàng, mừng rơn. Chị bây giờ hào phóng lắm; hồi chưa ra nước ngoài, chị hay tranh giành với cô em. Chỉ vì một chiếc áo mới, hai chị em cũng chẳng ai chịu nhường ai. Lúc này Liễu Mi và cha mẹ đi thăm họ hàng, Liễu Thanh ở nhà một mình, cảm thấy rất sung sướng.
Cha mẹ Liễu Thanh là nông dân “rửa chân lên bờ”, ông bà mở một hàng tạp hóa, tuy thu nhập không cao song cách sống rất hiện đại. Nhà của chính mình, ti vi 29 inch, tủ lạnh ba buồng, máy giặt hoàn toàn tự động. Tất cả đều do công sức của các chị. Gia đình họ từ huyện Mai tỉnh Quảng Đông ra đây. Chị cả Liễu Diệp lấy người Hồng Kông. Năm 1983, chị bỏ ra mười tám vạn đôla Hồng Kông để mua căn nhà ba phòng ở, một phòng khách. Lúc ấy 100 đôla Hồng Kông mới bằng hơn 30 nhân dân tệ, cả cái nhà thực ra chỉ có hơn sáu vạn nhân dân tệ. Để khuyến khích kiều bào mua nhà, chính quyền còn cho phép họ chuyển hộ khẩu họ hàng từ nội địa đến. Thế là chị cả bèn đưa cả nhà gồm bốn người chuyển tới Thâm Quyến. Sau đó giá nhà ở Thâm Quyến tăng vọt, nhà họ ở có thể bán tới hơn trăm vạn đôla Hồng Kông, hộ khẩu Thâm Quyến lại rất quý. Cả nhà cám ơn chị cả vô hạn, mẹ còn coi chị như đệ nhất đẳng công thần. Trước khi chị hai ra ngoại quốc, chị đứng tên mẹ mua năm ngàn đồng cổ phiếu phát triển, sau đó cổ phiếu quả nhiên phát triển thật, mỗi tờ tăng gấp bốn mươi lần, tổng cộng thành hơn hai trăm ngàn. Mẹ mừng khôn xiết, lập tức phong chị hai là đệ nhị đẳng công thần. Bây giờ chỉ còn chừa lại “đồ ăn hại” là Liễu Thanh, cha mẹ suốt ngày nhắc nhở phải học giỏi tiếng Anh để ra nước ngoài. Liễu Thanh nghe mãi đến nhức tai sắp đóng kén!
Bây giờ cha mẹ đều đi vắng, Liễu Thanh không phải nhức tai vì những lời mắng mỏ nữa. Bạn muốn làm gì thì làm, có thể tha hồ uống côca, có thể nằm ngả trên xôpha chơi máy trò chơi…
Liễu Thanh ngây người soi gương, càng ngày bạn càng thích soi gương. Bạn cũng biết mình không thể mặc quần áo đúng số đo tiêu chuẩn, biết mặc màu sẫm sẽ có vẻ thon thả hơn. Bạn càng ngày càng chú ý đến dung nhan hình dáng hơn.
Liễu Thanh rất khổ sở vì mình không ưa nhìn. Nếu được như hai chị thì tốt biết mấy! Thâm Quyến là xã hội trọng cái đẹp. Chị hai chỉ mới tốt nghiệp phổ thông trung học, chẳng có tiền mới cứng và sở trường gì nhưng tìm việc dễ hơn rất nhiều cô sinh viên tốt nghiệp chuyên khoa, nói theo lời của chị là: “Hễ chị có mặt ở văn phòng là khách hàng có ấn tượng tốt về công ty của chị ngay”. Liễu Thanh thầm trách cha mẹ: “Ông bà sinh đến đứa cuối cùng vì bất đắc dĩ hay làm sao mà tùy tiện vo một cục rồi nặn ra mình thế?”
Ngẩn ngơ một hồi rồi Liễu Thanh quyết định thay đổi “hình dạng”. Bạn gỡ hai “cái chổi” ra, dùng keo định hình làm tóc lượn sóng và làm rèm tóc trước trán bồng cao lên. Bạn mở hộp trang điểm của chị, bóp ít kem xoa mặt bôi lên mặt, còn thừa thì xoa lên tay, hai lòng bàn tay xoa vào nhau rồi bắt đầu trang điểm mặt. Sau đó thoa phấn, tô mắt. Mắt chị hai tô rất đẹp, Liễu Thanh cũng học theo chị, chọn hai màu xanh và tím, rồi vẽ lông mày. Liễu Thanh vẽ lông mày vốn ngắn và thưa của mình thành đậm và dài. Cuối cùng vẽ đường môi rồi tô son. Ngắm đi ngắm lại, Liễu Thanh thấy chỗ nào chưa vừa ý thì trang điểm lại. Chiếc dây chuyền vàng chị cho cũng được đeo lên cổ.
Thế là trong gương xuất hiện một khuôn mặt lạ hoắc, như đeo mặt nạ vậy.
Đúng lúc đó, cha mẹ về. Sau khi các chị đi lấy chồng, cha mẹ quản Liễu Thanh càng tập trung hơn. Dù Liễu Thanh một tuần mới về nhà một lần thì cha mẹ cũng chẳng ca cẩm ít đi. Nhất cử nhất động của Liễu Thanh đều bị các cụ khống chế chặt chẽ.
- Mày có biết mày trang điểm như thế lố lăng đến mức nào không? Mày tưởng mày là Liễu Mi à? - Vừa bước vào nhà mẹ đã nói - thật đúng là đít khỉ trong đoàn xiếc!
Mẹ thường đáo để chanh chua mỗi khi nói với Liễu Thanh, dường như Liễu Thanh là cái bung xung cho bà trút giận. Các chị ở tít tận chân trời, chỉ mình Liễu Thanh ở nhà. Hễ nghĩ đến Liễu Diệp, Liễu Mi, mẹ thấy họ toàn là ưu điểm còn Liễu Thanh lại toàn là khuyết điểm. Mỗi khi đem so ưu điểm của các cô chị với khuyết điểm của cô em, mẹ thường nói:
- Sao mày lại không được như Liễu Diệp, Liễu Mi thế? Nếu mày chỉ bằng nửa các chị thôi, có phải hay hơn không?
- Ôi chao! - Mẹ thở dài ngồi xuống xôpha – Thay đổi rồi, mới hơn một năm mà thay đổi hết rồi.
- Con gái làm nên được đến thế cũng không dễ đâu! Bà tưởng nó cũng như tôi với bà chịu bó gối ngồi đầu bờ hả? Ra nước ngoài, lấy được chồng giàu có, thế cũng kể là hơn người rồi! – Cha nói.
Bây giờ hơn người cũng có tiêu chuẩn là đi nước ngoài và “mạ vàng”.
- Nhà rõ ràng có cơm canh thức ăn hẳn hoi lại chẳng ăn, đi Nam Hải tửu gia kia! Ở đấy có gì ngon lành nào? Nhà có giường đệm cũng không ngủ. Chị mày có biết đâu vì đón chị mày mẹ phải sắm mới tuốt tuột chăn đệm cùng khăn trải giường. Chị mày thế đấy, về ở Nam Hải tửu gia cơ! Nó ngủ một đêm đủ cho cả nhà mình ăn một tháng… - Mẹ lại ca cẩm.
Liễu Mi về ở Nam Hải tửu gia, Liễu Thanh ở lại nhà không về trường. Bạn nghĩ: “Không biết rút cục chị hai sống có ý nghĩa gì không nhỉ?”
Một đám nữ sinh đang chơi bóng rổ, bóng đến đâu là các bạn xô đến đấy và kêu ré lên. Một đám bạn trai đang đá bóng, bên trái bên phải dắt bóng, bấm bóng, móc ngược bóng… Kỳ lạ thật, không hiểu sao bóng đá có sức hấp dẫn đến thế đối với họ. Đối với bạn trai, thi đấu bóng là một cuộc đua tài, còn đối với nữ sinh, nhiều bạn cho đó là cuộc chơi.
Sau tiết thứ hai hàng tuần, trường trung học Số Chín đều có thi đấu bóng đủ loại. Chiều hôm ấy đến lượt khối lớp Mười. Bạn nào không tham gia thi đấu đều ngồi trên khán đài.
Trái bóng rổ của các bạn gái từ sân bóng lăn sang sân bóng đá, Lưu Hạ chạy sang kêu:
- Này các bạn ơi, nhặt giúp hộ bóng với!
Vương Tiếu Thiên vội đá quả bóng tới chân vào cầu môn, rồi nhặt trái bóng rổ đưa sang sân bên ấy:
- Hạ ơi, bóng của cậu đây!
Khi trở lại sân bóng đá, đồng đội dồn cho cậu một trận:
- Cậu giỏi lắm, giỏi thật!
- Tớ, tớ nhặt giúp họ bóng, trước khi chạy sang bên ấy, tớ chẳng sút một quả là gì?
- Phải, cậu sút, sút rất chuẩn, nhưng là sút vào lưới đội nhà!
- Trời! Thật thế sao?
- Chẳng sao, mới là trăng thôi!
Tiêu Dao cười:
- Vì Lưu Hạ mà bay cả hồn vía. Nếu là hồi chiến tranh chống Nhật, không chừng cậu trở thành kẻ bán nước từ khuya rồi cũng nên.
Dư Phát bồi thêm:
- Lập trường chẳng vững vàng tẹo nào! Chỉ vì một cô tiểu thư mà bỏ mặc không thèm đếm xỉa đến anh em!
- Thì tình ái trên hết mà! - Một bạn khác đế.
- Không phải, gọi là trọng sắc khinh bạn mới đúng! – Dư Phát bẻ lại.
- Các cậu đừng có vội lên mặt, nếu các cậu thấy bạn gái như tớ, các cậu lại chẳng chạy nhanh hơn ấy chứ! - Tiếu Thiên vừa cười vừa nói, song lòng tự hỏi lòng con trai làm sao lại để cho lady khống chế?
Đột nhiên, Tiếu Thiên hỏi:
- Các cậu thử nói xem, nếu bọn mình chơi bóng rổ với đội nữ, ai sẽ thắng nhỉ?
- Còn phải hỏi, đương nhiên bọn này thắng rồi!
- Lầm, lầm to! Cậu dám tranh bóng với các nàng à? Chắc chả dám, mà đã không dám thì phải thua thôi!
- Đấy chỉ là luận điểm sai lầm của cậu!
- Đấy đâu phải luận điểm sai lầm? Có căn cứ khoa học hẳn hoi. Khác giới thì hút nhau mà! Nước Mỹ đã lợi dụng tâm lý này, công việc nào cũng có nam có nữ, dùng cách ấy để nâng cao hiệu suất.
- Được, thế thì đá!
- Cậu không tin, lát nữa đá với bọn lớp 3, gọi bọn con gái lớp mình làm cổ động viên, tớ đảm bảo bọn mình thắng.
Trên ghế khán đài chỉ có Lâm Hiểu Húc và Liễu Thanh của lớp 4. Lâm Hiểu Húc mặt mũi ỉu xìu vì bài kiểm tra Hóa hôm nay làm không tốt, còn Liễu Thanh thì luôn mồm nhai kẹo thơm. Lát sau, bọn Hân Nhiên, Lưu Hạ cũng trở lại khán đài. Hân Nhiên hỏi Lâm Hiểu Húc tại sao mà ỉu xìu, Lưu Hạ liền nói:
- Hẳn là ngọc thể bất an. Lúc chụp ảnh trên núi Ngô Đồng hôm ấy, cậu ta đã ươn mình rồi mà!
Lâm Hiểu Húc không nói gì, thầm nói:
- Lưu Hạ, cậu chẳng hiểu cái khỉ khô gì vì sao hôm ấy mình không vui.
- Mình viết một chữ cho cậu đoán nhé! – Lưu Hạ vừa nói vừa dùng ngón tay viết chữ trên lưng Hiểu Húc.
Rồi quay sang túm Lưu Hạ. Lưu Hạ vừa bỏ chạy vừa cười khanh khách. Chợt Hiểu Húc nghĩ ra điều gì đó, không đuổi theo nữa, chỉ cười nhạt:
- Ừ, đằng ấy là mẹ thì cha tớ đâu?
Câu này khiến Lưu Hạ đỏ mặt, kêu ré lên:
- Đồ mất dạy!
Liễu Thanh đeo dây chuyền vàng mà chưa ai phát hiện ra. Bạn bèn cố ý lật ra ngoài áo, tính nhẩm xem nên khoe khoang bữa cơm và chiếc bút vàng như thế nào? Lưu Hạ nhìn thấy cười khinh thường, cố ý trêu:
- Liễu Thanh, dây chuyền của bạn đẹp lắm, vớ được ở mẹt hàng nào đấy!
- Cút cậu đi, vàng mười của người ta, 24K đấy. Chị hai mình từ nước ngoài về cho đấy - Liễu Thanh chỉ muốn ngay lập tức xổ chuyện của mình ra.
Hân Nhiên mỉm cười:
- Xã hội chủ nghĩa vừa lơi tay, chủ nghĩa tư bản tấn công ngay. Bài học lịch sử đấy!
Lúc này Vương Tiếu Thiên chạy đến:
- Hân Nhiên, Hiểu Húc này, lát nữa bọn mình đấu với bọn lớp 3, các bạn làm cổ động viên cho đội nhà nhé!
- Nói với bọn mình làm gì, bảo Lưu Hạ thôi có phải đủ rồi không! - Lần này Hiểu Húc chộp được cơ hội báo thù Lưu Hạ.
- Hiểu Húc, cậu chỉ được cái… - Lưu Hạ đỏ mặt, Vương Tiếu Thiên cũng ngượng nghịu chạy đi.
Có các bạn nữ làm cổ động viên đúng là có khác, Tiếu Thiên nói quả không sai. Các bạn nam đá rất hăng, mồ hôi ướt đầm. Được “yểu điệu thục nữ” trợ oai, cảm giác mới tuyệt đối. Đối với tuổi thiếu niên mà nói, vung vãi sức sống cũng là một cách hưởng thụ.
Hân Nhiên không một phút rời mắt khỏi Tiêu Dao, chẳng khác gì ánh đèn chiếu đuổi theo trên sàn diễn. Từ khi thất bại trong cuộc thi kiến thức, Tiêu Dao ít nói hẳn. Bạn không vui, Hân Nhiên cũng không vui.
- Các cậu nói thử coi, bạn nam nào trong lớp ta xuất sắc nhất? Theo các cậu thì bạn nam như thế nào là xuất sắc nhất? – Lưu Hạ đột nhiên nêu câu hỏi.
- Mình chẳng biết bạn nam nào giỏi nhất, nhưng mình biết Lưu Hạ cho Tiếu Thiên là cừ nhất! - Hiểu Húc không lúc nào quên báo thù.
- Hiểu Húc, mình đùa cậu có một lần, cậu chọc mình đến hai lần rồi. Thôi xí xóa, từ giờ cậu còn xỏ xiên mình thì mình không khách sáo với cậu nữa đâu! – Nói dứt câu, Lưu Hạ liền cù Lâm Hiểu Húc. Bạn này sợ nhất cù nhột, vội vàng van xin:
- Thôi, mình xin chừa rồi!
Lưu Hạ buông tay, hỏi Hân Nhiên:
- Cậu cảm thấy thế nào?
Hân Nhiên toan nói rồi lại không dám nói, nói ra sợ các bạn đoán được nên lời vừa ra tới miệng đã vội nuốt xuống ngay. Bạn chỉ cười:
- Câu hỏi của cậu sao mà giống lời thì thầm trong nhật ký các thiếu nữ thế nhỉ?
Lưu Hạ lại gọi:
- Liễu Thanh, cậu thấy thế nào?
Liễu Thanh thấy Hân Nhiên, Hiểu Húc đều không nói thì cũng không tiện nói, chỉ lắc đầu.
- Dối trá, toàn lũ dối trá! – Lưu Hạ kêu lên – Nói ra thì làm sao? Có phải thay mặt cho ai đâu! Như tớ nói Lôi Phong thật cừ thì làm sao nào? Chẳng phải là tôn kính anh ấy sao? Nhìn các cậu kìa, đứa nào đứa nấy cũng căng thẳng, đúng là các cậu có - tật - giật - mình!
- Cậu không có tật thì nói ra xem nào!
- Thì nói! Tớ thấy Vương Tiếu Thiên, Tiêu Dao đều rất cừ. Bây giờ đến lượt các cậu!
Đúng như Lưu Hạ nói mình “có tật giật mình” sao? Hân Nhiên tự hỏi thầm. Nghĩ một lát, bạn nói:
- Tiêu Dao rất cừ. Ở bạn ấy có nhiều điểm mà bạn nam khác không có được. Mình không nói rành ra được là do đâu, song có lẽ do tố chất, tố chất đó khiến bạn ấy thành công.
- Tâng bốc quá đấy! - Liễu Thanh không nhai kẹo gum thơm miệng nữa, giảu môi nói – Các cậu nhìn coi, sau cuộc thi kiến thức, Tiêu Dao lại chẳng như con nhặng cụt đầu? Bạn ấy không chịu nổi thất bại.
Hân Nhiên nghe nói, cảm thấy cũng đúng, thầm nghĩ: “Tiêu Dao ơi, không thể chỉ vì một thất bại nhỏ mà bạn đã ngã gục chứ?”
Lưu Hạ lại nói:
- Mình lại cảm thấy Tiêu Dao không chịu nổi thất bại là chuyện rất bình thường. Vốn dĩ bạn ấy thuận lợi đủ mọi điều nên một lần thất bại đã choáng váng ngay. Nếu lúc này bạn ấy cười ha ha thì mình mới cho là bất bình thường.
Hân Nhiên nghe thấy thế, cũng cảm thấy đúng là như thế. Hiểu Húc nói:
- Mình cảm thấy Trần Minh đang có ngầm một sức bột phát rất lớn.
- Trần Minh ấy à? – Lưu Hạ trợn mắt – Cậu cho là bạn ấy tốt?
- Mình không nói bạn ấy tốt, chẳng qua cảm thấy bạn ấy có sức xông tới, một sức bột phát…
- Ừ, Trần Minh lợi hại lắm!
- Bây giờ mà bạn ấy đã rất lợi hại rồi!
- Cú bóng tốt quá, hay tuyệt. Vương Tiếu Thiên! – Lưu Hạ chợt hô lên, sau đó mới nói – Hình như Trần Minh chưa bao giờ tham gia những hoạt động như thế này.
Hân Nhiên nghĩ sang một việc khác:
- Nếu buổi trưa một ngày nào đó, mấy đứa mình ngồi trong lớp, có cả Tiêu Dao, Trần Minh, Dư Phát, Vương Tiếu Thiên, bỗng có mấy đứa xấu xông vào đòi tiền thế thì bạn nam nào sẽ đứng ra trước tiên?
- Hân Nhiên, đừng có nghĩ viển vông như vậy!
- Có khả năng ấy chứ? Hôm qua ở Bạn Khê Tửu Gia có kẻ cướp ví tiền. Nghe nói ở Trung Ba Thượng cũng thường xảy ra chuyện như thế. Đấy chủ yếu là bọn lưu manh ở nội địa tới. Ba mình không bao giờ cho mình ra khỏi nhà một mình – Lưu Hạ nói.
Hiện giờ Thâm Quyến luôn đổ lỗi gây rối trị an cho người nội địa. Kiểu nói “một đòn đánh chết tươi” này khiến Hân Nhiên phản cảm, và càng phản cảm hơn nữa với vẻ khinh miệt của người Thâm Quyến khi nhắc đến người nội địa.
- Các cậu bảo bạn nam nào sẽ đứng ra bênh vực lẽ phải nào?
- Tiêu Dao, bạn ấy là lớp trưởng, ngày thường hình như cũng trượng nghĩa lắm đấy. Song cũng khó nói đấy, thường ngày những ai ưu tú nhất thì đến lúc nguy nan sẽ có thể là kẻ nhát gan. Như vậy gọi là “nhìn người không thể chỉ bắt hình dong” mà!
- Thế còn Vương Tiếu Thiên? Ngày thường chỉ thích vui đùa như bạn ấy, lúc đó sẽ đứng ra ư? Không có thể! Song cũng chưa biết chừng!
- Trần Minh thì sao? Bạn này rất “siêu thoát”, chẳng để ý đến việc đời, lúc ấy sẽ đứng ra ư? Mà cũng có thể lắm chứ?
- Hay Dư Phát? Đừng chỉ thấy bạn ấy thường ngày thích gây rối gây cười, song chưa hẳn đã vô dụng trong lúc nguy cấp. Thường một số người bị coi thường là vô tích sự thì ngược lại lúc nguy nan lại là người chính trực nhất! Tuy nhiên, cũng khó nói!
- Phải đấy, khó nói thật.
- Song không thể chẳng một ai đứng ra chứ?
- Tốt nhất là mọi người cùng đứng ra. Mao Chủ tịch nói thế nào nhỉ? “Người đông sức mạnh” !
Cả bọn cười ầm lên. Đối với họ, con trai là một câu đố!
- Thắng rồi! Đội nhà thắng rồi! – Lưu Hạ là người đầu tiên phát hiện, lập tức chạy ra sân, đưa khăn lau mặt cho Vương Tiếu Thiên. Tiếu Thiên không hề giữ ý, trên chiếc khăn lau mặt bằng giấy lập tức in mấy hình nhân trung (Nhân trung: chỗ môi giao tiếp giáp với mũi) vừa đen sì vừa ướt sũng.
Hân Nhiên cũng rất muốn chúc mừng hoặc nói gì đó với Tiêu Dao, hoặc đưa mấy chiếc khăn bằng giấy để Tiêu Dao lau mồ hôi như Lưu Hạ. Tuy nghĩ như vậy song Hân Nhiên không dám hành động. Hân Nhiên không dám công khai, không dám mạnh bạo như Lưu Hạ.
NÊN MỪNG VÌ THẤT BẠI
Đám cầu thủ nam hoan hô vì thắng trận không thể ngờ rằng đám bạn gái làm cổ động viên cho họ vừa nãy không xem bóng mà “xem người”.
Tiêu Dao đá đến vã mồ hôi đầm đìa. Chẳng để ý đến phong độ lịch sự, Tiêu Dao dùng vạt áo phông lau mặt. Chiếc áo phông màu đỏ sậm ướt sũng một mảng lớn ở sau lưng và cả ở phía ngực.
- Tiêu Dao, cậu có thư này! - Một bạn cầm thư đưa cho Tiêu Dao.
Vương Tiếu Thiên hỏi:
- Thư ở đâu gửi đến đấy?
- Ở Anh, của cha mẹ mình.
- Lại gửi tiền cho cậu chứ gì! Phải khao đấy.
Tiêu Dao cười, xé phong bì lấy thư ra đọc:
“Bà nội viết thư sang kể sau khi thất bại trong cuộc thi kiến thức, con tỏ ra không vui, khiến bà lo cho con. Còn ba và mẹ tuy không biết tỉ mỉ chuyện đó xảy ra thế nào, nhưng lại cho rằng con nên mừng thì hơn.
Ở bên Anh, cha mẹ từng biết một chuyện như sau: Có thanh niên nọ làm việc rất xuất sắc ở một công ty. Anh đã vẽ sẵn cho mình một bức tranh vô cùng rạng rỡ và đầy lòng tự tin vào tiền đồ đó. Đột nhiên công ty này bị đóng cửa, anh thanh niên cho rằng mình là người bất hạnh, đen đủi nhất trong đời nên nản lòng thoái chí. Nhưng ông giám đốc của anh ta - Một người trung niên, đã vỗ vai anh ta và bảo: “Anh thật may mắn đấy!”. “May mắn ư?” - Người trẻ tuổi kêu lên. “Đúng, rất may mắn!”. Giám đốc nhắc lại lần nữa và giải thích: Những người nào hồi trẻ mà bị thất bại đều rất may mắn, bởi vì họ có thể học được cách bắt đầu lại với dũng khí như thế nào và học được kinh nghiệm không đau buồn, không sợ hãi. Nếu ai chỉ một mực thuận lợi, đến chừng bốn năm chục tuổi mới bỗng nhiên thất bại thì mới thật đáng thương. Vào tuổi trung niên hay đã chớm già mới lại học cách đối phó với cảnh khốn đốn như thế nào thì thật quá muộn.
Tiêu Dao, con nên hiểu hàm nghĩa trong câu chuyện đó. Mẹ và ba con sở dĩ đến tuổi trung niên mà vẫn không ngừng phấn đấu cho sự nghiệp là vì mẹ và ba đã trải qua rất nhiều trắc trở, gập ghềnh. Còn thế hệ trẻ các con từ đau khổ đến “cái tôi” mù quáng chỉ đủ chứng minh một nhược điểm đơn giản hóa cuộc đời. Các con được sống trong thời đại đầy đủ, giàu có và thanh bình nên nhận thức ngây thơ rằng tất cả mọi thứ đều chuyên dành cho các con mà có. Chưa từng nếm mùi cay đắng thì cũng khó nói được thế nào là ngọt ngào. Hơi trái ý một tí là đã kêu ầm lên: “Tôi là người khổ nhất trong thiên hạ, xã hội đối xử với tôi thật bất công!”. Các con đâu có biết đó là điều may, hay là điều không may cho các con?
Nên biết rằng “bất kể quãng giữa cuộc đời tráng lệ, huy hoàng như thế nào, nếu đến cuối đời mới bất hạnh thất bại thì con người ấy không gì bi thảm cho bằng”.
Người ta thường nói, ai ngã nhào xuống đất thì phải tự bò dậy từ chỗ ngã”. Người ta còn nói: “Lúa có bị hòn đá lăn cho rụng thóc ra thì thóc ấy mới mọc nên mạ tốt”. Tiêu Dao, con cần có nghị lực chịu đựng sự thất bại, đồng thời càng nên có khả năng chiến thắng thất bại. Sợ thất bại thì chẳng làm nên việc gì. Thất bại thật sự của thế hệ thanh niên là tránh né cuộc đấu tranh gian khổ đó, sống không mục đích, được đâu âu đấy!
Mới thất bại và đánh mất lòng tự tin trong một chốc lát, mà nếu tiếp theo sau lấy lại được lòng tự tin thì lòng tự tin ấy mới thật sự đáng giá.
Thời kỳ học trung học có thể gọi là thời kỳ quan trọng nhất của một đời người. Học để trở nên tốt rất dễ mà trở nên xấu cũng rất dễ. Tất cả đều phải dựa vào sự nỗ lực và tự giác của mình. Ba mẹ không ở bên con thì con lại càng phải có tính tự giác và tinh thần phấn đấu. “Ngoài bản thân ra, không có ai lại rủ rê nổi bạn chia tay với thành công cuối cùng!”.
Tiêu Dao, ông nội có bệnh thấp và viêm khớp. Ba mẹ có mua ít thuốc, tờ ghi cách dùng viết bằng tiếng Anh, con thử dịch xem sao. Nếu thực sự không dịch nổi thì nhờ chú Lưu giúp đỡ. Con nhớ nhé, nhắc ông nội uống thuốc đúng giờ. Ông bà già rồi, con phải học cách săn sóc ông bà mới được.
Còn việc ra nước ngoài học tập của con, ba mẹ đang làm thủ tục. Nếu không có gì trục trặc thì tháng Bảy sang năm sẽ được phê chuẩn. Có thay đổi và tiến triển gì, ba mẹ sẽ viết thư cho con sau.”
….
Tiêu Dao cầm lá thư thấy mình thật may mắn có được ông bố bà mẹ như vậy. Từ khi có nhóm từ “cách biệt giữa hai thế hệ”, nhiều người hễ thấy giữa hai thế hệ hơi có ý kiến khác nhau là qui tội cho chúng. Tiêu Dao chưa bao giờ lạm dụng nhóm từ này.
Lúc này, Tiêu Dao kê thất bại trong cuộc thi vừa qua vào quá trình từng trải của mình. Ba mẹ dạy bảo khiến bạn nhận thức được “nên nhìn nhận những gì đáng gọi là thất bại trong cuộc sống thành sự từng trải, thành sự trải qua có khả năng làm phong phú và kéo dài đời người ở mức độ rất lớn”.
KHÚC CUỒNG TƯỞNG LÀM LÃNH TỤ CỦA TÔI
- Vương Tiếu Thiên, ba cậu đến kìa! – Có người gọi.
Trong giờ nghỉ giữa hai tiết học, trong lớp khá mất trật tự. Vương Tiếu Thiên theo tiếng gọi ngó ra ngoài hành lang, quả nhiên nhìn thấy ba, một tay xách túi, một tay cầm ô.
- Thiên Thiên, ba mang bánh bao đến cho con, sắp nguội cả rồi này!
- Ba…
- Ba đến sớm quá, phải đợi ở ngoài kia mất một tiết nên nguội cả.
- Sắp mưa đến nơi rồi, ba còn đến làm gì?
- Tiện đường, tiện đường mà!
- Lại còn mang ô nữa! Đài báo hôm nay có mưa to sấm chớp, ba cầm cái ô này về.
Người cha treo ô đâu vào đấy cho Tiếu Thiên, cười khà khà.
- Ba…
- Chiều về nhà sớm sớm nhé. Sắp vào học rồi, ba về đây!
Hân Nhiên đang viết trên bảng. Biết cha Tiếu Thiên đến bạn giả vờ không trông thấy, nhưng cha Tiếu Thiên lại đến gần xem bảng. Hân Nhiên giật nảy mình, sau đó gắng hết sức để giọng nói của mình trở nên bình tĩnh:
- Cháu chào bác!
Cha Tiếu Thiên lúc này cũng nhận ra Hân Nhiên nên lại cười khà khà:
- Chào cháu! Chữ cháu đẹp lắm, rất đẹp, không như chữ Thiên Thiên nhà bác. Chữ Thiên Thiên như gà bới, khà khà!
Hình như ông đã quên màn kịch hôm Hân Nhiên tới nhà ông khiến Hân Nhiên cảm thấy lạ. Bạn thầm khen thái độ mình vừa nãy, tuy chưa thật tự nhiên ung dung song ít nhất cũng không chỉ trích được điểm nào. Nếu mình cũng đỏ mặt hoặc ngượng nghịu thì bây giờ bạn ắt sẽ tự trách mình. “May mà biểu hiện của mình không đến nỗi tồi. Mình hoàn toàn có thể như thế vì mình chưa hề làm chuyện gì đáng xấu hổ”. Hân Nhiên nghĩ. Đúng rồi, Hân Nhiên chưa từng vì chuyện đó mà gây nên điều bất tiện nào đó cho việc xin vào Đoàn của Tiếu Thiên, mặc dù bạn đã từng có ý nghĩ như vậy.
Cuối cùng lại là Tiêu Dao tiễn cha Tiếu Thiên xuống gác.
Tức thì cả lớp vây quanh Tiếu Thiên mà đùa:
- Thiên Thiên, mau ăn bánh bao đi kẻo nguội!
Chỉ tại ba tại sao trước mặt bao nhiêu bạn học mà ba lại gọi tên hồi nhỏ của Tiếu Thiên ra?
- Ba của cậu tốt thật! Chỉ vì ba cái bánh bao mà đợi suốt cả một tiết!
- Ba cậu béo ghê, chẳng giống gì với cậu cả!
Tấm lòng người cha thật tỉ mỉ, suy nghĩ thật chu đáo. Chỉ vì chuyện không vui tối qua mà ông đã đích thân đem ô đến trường cho con, song làm như thế có thực sự gạt bỏ được bóng đen trong tâm linh của con không?
Tối hôm qua, cả nhà Tiếu Thiên vừa ăn cơm vừa xem bản tin của đài truyền hình Châu Á. Ngoài bản tin ra, ba rất ít khi xem phim Hồng Kông bởi ông cảm thấy nội dung tầm thường, đánh đấm ồn ào, không có độ sâu. Vả chẳng tiếng Quảng Đông của ba cũng chỉ đủ để nghe bản tin. Vương Tiếu Thiên cũng thích xem bản tin, có thể xem bản tin của đài Châu Á lúc sáu giờ cho đến tận tám giờ là kết thúc bản tin của đài truyền hình Thâm Quyến, nếu ba không can thiệp, Tiếu Thiên còn thích vừa xem vừa bình luận này nọ. Mỗi lần như thế, ba thường nói:
- Chuyện đó liên quan gì đến con?
- Nhận thức của con buồn cười lắm.
Vương Tiếu Thiên không để ý đến lời ba, vẫn thích thú bình luận. Chợt ba Tiếu Thiên hỏi:
- Thiên Thiên, báo hôm nay đâu?
- Ở trên bàn con ấy!
Tiếu Thiên vẫn ngồi xem ti vi. Đột nhiên bạn nghe tiếng ba quát:
- Vương Tiếu Thiên, vào đây ba bảo!
Khi nào ba nổi cáu đều gọi đủ cả họ tên của bạn ra như vậy.
- Con muốn làm chính khách đấy à? – Ba chỉ vào bài Khúc cuồng tưởng làm lãnh tụ của tôi để trên bàn học của Tiếu Thiên. Đấy là bài phát biểu của bạn chuẩn bị cho buổi họp lớp ngày thứ tư.
- Ba xem bài của con đấy à? Sao ba xem bừa bài của con thế?
- Kiểm tra một chút thôi! - Người cha thuận miệng nói – Con xem đi, xem mình đã viết tầm bậy tầm bạ những gì. Hãy để cha mẹ nghe xem vị lãnh tụ tương lại của nhà này cuồng tưởng thế nào!
Rồi người cha đọc với ngữ âm ngữ điệu chưa từng có ở ông:
- “Ông Bá Dương nói: một người Trung Quốc là một con rồng, ba người Trung Quốc là một con trùng, hai người Nhật Bản là một con trùng, ba người Nhật Bản là một con rồng. Người Trung Quốc thiếu là thiếu tinh thần dân tộc. Nếu có thể, chúng ta nên học tập Hitle, học cách ông phát triển một đảng phái chỉ có bảy người thành một chính đảng hơn nửa thế giới không có địch thủ, lấy đó mà động viên tinh thần dân tộc của người Trung Quốc…”
- Con viết gì à? Phản động rồi chăng? Tiếu Thiên bướng bỉnh cãi.
- Con có tài đến thế, sao không làm Thủ tướng quốc gia đi? - Người cha vung vẩy bài viết cầm trong tay rồi vứt đánh toạt xuống bàn – Ba không cho phép con đọc bài này trong cuộc họp lớp, đã nghe rõ chưa? Bây giờ không ít thanh thiếu niên có cái mốt là dốc bầu bất mãn ra, tự cho là tư tưởng sắc bén. Học thì không chịu học cho tốt, suốt ngày chỉ lo làm cái chuyện ba lăng nhăng!
- Thế nào là ba lăng nhăng? Ba không cho đọc, con cứ đọc đấy!
- Được, tao cho mày đọc, cho mày đọc này! - Người cha vốn là quân nhân, tác phong nói một là một, ông giận dữ xé nát bài phát biểu của con, vụn giấy rơi khắp sàn.
Ánh mắt người cha thật phức tạp: Vừa lo lắng khuyên can, lại vừa bối rối, bất lực.
Ông nhìn thằng con mười sáu tuổi của mình mà thở dài. Nó còn trẻ quá, đúng là nghé vô sừng sẹo không sợ hổ!
Ông không nói gì nữa. Tiếng thở dài vừa nãy là một cách làm dịu quan hệ của người bề trên. Ông lẳng lặng ra khỏi phòng.
Tiếu Thiên ở lại trong phòng một mình nhìn vụn giấy rơi khắp sàn, cảm thấy tình cảm của mình bị chà đạp.
Tiếu Thiên đọc rất nhiều sách. Trên giá sách cao cao của cha, bạn không đọc Mười vạn điều tại sao nữa mà đọc Binh pháp Tôn Tử, ưa cuốn Dọc ngang lịch sử thế giới… mặc dù đọc không hiểu mấy song những cuốn sách như vậy mở hết tầm mắt mới này đến tầm mắt mới khác cho bạn. Tiếu Thiên bắt đầu hiểu ngoài cuộc sống lứa tuổi mình ra, còn có một khoảng trời rộng, sâu và xa hơn đang đợi mình; ngoài cuộc sống “qua hai điểm vẽ một đường thẳng” còn có rất nhiều sự việc phức tạp và mới lạ mà mình chưa từng thấy, chưa nghe bao giờ. Tiếu Thiên bắt đầu thích hiểu biết, và điều thú vị nhất đối với bạn là cùng trao đổi với cha những luận điểm về “sáng tạo cơ đồ” và “giữ gìn sản nghiệp”. “Chuyện chẳng hợp nhau, nửa câu cũng nhiều”, quan điểm của hai cha con khác nhau, không cách gì đi đến thống nhất. Mỗi lần như thế ba đều cười hì hì để kết thúc. Cái cười đó tuy chế giễu ít nhiều song cũng có cả sự thông cảm khoan dung đối với những ý kiến tự cho là đúng của con.
Ba bảo học sinh trung học ngày nay rất không biết lượng sức mình, coi tất cả như không có, mà Tiếu Thiên là một điển hình về mặt đó. Song vì bọn chúng còn ít tuổi, người lớn phần nhiều thường đối xử, tìm hiểu chúng với thái độ khoan dung, hy vọng chúng không nên ngông cuồng tự cao tự đại. Tiếu Thiên thì cho rằng “ngông cuồng” và “tự cao” có lúc cũng chẳng phải là xấu. Lớp thiếu niên thường có tâm lý không thỏa mãn mãnh liệt, không chịu ở yên trong hiện trạng. Họ khao khát vượt lên, khao khát phát triển, như thế thì có gì là không đúng?
Tối hôm ấy, hai cha con chẳng ai thèm ngó đến ai. Sáng sớm hôm sau, Vương Tiếu Thiên cũng không ăn sáng. Bà mẹ hỏi tại sao, bạn đáp hôm nay kiểm tra sức khỏe, phải lấy máu kiểm tra gan nên không được ăn. Lúc này ba nhìn theo dính bạn, cho là bạn giận dỗi, cố tình không chịu ăn sáng. Thực ra Tiếu Thiên nói thật, sáng sớm hôm nay phải thử máu, vì thế ba phải mua bánh bao và đích thân đem tới để làm dịu bớt quan hệ giữa hai cha con.
- Này Tiếu Thiên, đóng cửa sổ vào, mưa rồi! – Có tiếng người nhắc.
Tiếu Thiên bấy giờ mới như sực tỉnh mộng, đứng dậy đóng cửa sổ chỗ ngồi trong lớp. Bên ngoài mưa rào rào rất to, ba lúc này đang đi trong mưa, có cái ô thì ba lại để lại cho Tiếu Thiên.
Bạn cảm thấy trên má ươn ướt, mưa hắt cả vào người, vào mặt chăng? Bạn lè lưỡi ra nếm thấy mằn mặn, lại hơi chan chán.
Tình yêu có thể kéo tình cảm lại gần nhau song khó mà kéo nổi hai tư tưởng khác nhau lại gần.
- Ba! - Tiếu Thiên thở dài.
Giờ nghỉ giữa giờ hầu như tất cả các bạn nữ đều bình luận về cuộc thi người đẹp Hồng Kông lần này. Lưu Hạ quay người lại hỏi mà chưa kịp nhìn:
- Dư Phát, cô gái Hồng Kông nào đẹp nhất đấy?
Vừa hỏi xong, Lưu Hạ thấy các bạn chung quanh đều cười. Bạn vội nhìn lại thì chỗ Dư Phát ngồi trống không, lúc này mới nhớ ra hai hôm nay Dư Phát không đến lớp.
Lúc ấy Tiêu Dao cũng hỏi:
- Hôm nay Dư Phát cũng không đến à?
- Thế đấy, hai hôm vắng mặt rồi.
Tiêu Dao ghi một dấu thập chéo ở cột có tên Dư Phát trong bảng điểm danh, đấy là dấu bỏ học không lý do.
- Trần Minh, cậu biết tại sao Dư Phát không đến lớp không?
Trần Minh đang làm bài, có thể không nghe thấy. Tiêu Dao lại hỏi.
Ảnh chụp hôm đi chơi trên núi Ngô Đồng đã rửa xong. Trông mình ngớ ngẩn chưa! Lẽ ra mình cười thì hơn. Mẹ bảo mình cười xinh hơn không cười. Mình trong ảnh khó coi hơn nhiều mình ở ngoài.
Mình thường không chịu nổi những bức ảnh chụp mình xấu hơn ở ngoài nên đã xé bỏ rất nhiều tấm ảnh chụp xấu. Nhưng tấm ảnh này lại có thầy Giang, thầy chụp rất ăn ảnh, chỉ có điều tóc thầy làm sao lại nhô hẳn lên một đám, trông thật buồn cười. Tất nhiên mình không khi nào xé tấm ảnh này. Mình đứng bên thầy, mình bèn cắt riêng hình hai người là thầy và mình ra. Đây chẳng phải tấm ảnh chụp hai người là gì? Đương nhiên khi chụp mình đã có “âm mưu” ấy rồi, chỉ tức là trên vai mình và thầy Giang mỗi vai có một bàn tay, đấy là “móng vuốt” của Lưu Hạ, làm xấu hẳn đi. Có điều thế là mình cũng có một tấm ảnh chụp riêng với thầy Giang, nguyện vọng cũng gọi là thực hiện được. Mình kẹp ảnh vào giữa cuốn nhật ký cùng với chiếc lá ngô đồng hai hôm đi chơi núi, như thế là có ý nghĩa nào đó.
Hôm nay Bối Bối bên hàng xóm đã kéo hẳn một bản nhạc, mặc dù còn rất khó nghe, song không hoàn toàn là tiếng kéo cưa i ỉ nữa. Con bé đã biết “kéo cưa” bằng một cách khác.
Ngày… tháng…
Hôm nay mình mượn quyển Ngoài song. Cô giáo trong thư viện nhìn mình qua cặp kính gác trên sống mũi, ngắm nghía mình rất dữ. Mình ghét ánh mắt xoi mói của cô.
Ngoài song là một tác phẩm nổi tiếng của Quỳnh Dao. Mình đã xem mấy cuốn truyện của Quỳnh Dao, cảm thấy rất thường. Song Ngoài song thì không thường tí nào. Mình đọc, đọc mãi, thấy toàn bộ tình cảm của mình hòa tan vào tới truyện. Mình hoàn toàn hiểu được thứ tình yêu chỉ có thể chôn chặt trong lòng cùng nỗi buồn khóc không tan, không nói ra được cùng ai.
Đọc xong truyện, ngẩng đầu lên nhìn ra ngoài cửa sổ, nỗi lòng đã không còn có thể hình dung được bằng những từ “thương cảm” và “buồn rầu” nữa rồi.
Mưa tạt vào cửa sổ, bầu trời trước mắt trắng mênh mang một màu. Không biết nước mưa làm nhòa tầm mắt hay là mưa đã che mờ cả thế giới…
Cảm giác này chỉ có khi đọc “Hồng lâu mộng”.
Bảo Ngọc mất tích, một lần Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc cùng một vị sư, một đạo sĩ, cất cao tiếng hát, đạp tuyết mà đi.
Lúc ấy, khi mình đọc hết đoạn này, mình cũng có cảm giác “mây sầu không biết đâu”.
Hôm nay lại để rơi biết bao là nước mắt, nước mắt rơi xuống sổ nhật ký lấm tấm ố hoen. Nam nhi có nước mắt chẳng để để rơi, còn mình là con gái, con gái đa cảm, hơn một tí là thương tâm nhỏ lệ, hẳn cũng là điều bình thường. Có điều xưa nay mình chẳng biết mình khóc vì cái gì, khóc cho ai. Sách có viết: “Biết vì sao rơi nước mắt thì dù có khóc nhiều đi nữa cũng chỉ có hạn; không biết vì sao lại khóc thì dù chỉ một giọt nước mắt cũng mang hàm nghĩa vô cùng”.
Hàm nghĩa của mình ở chỗ nào?
Si mê một mình với “chữ viết” ướt nhòa trên kính cửa sổ, trên đó có viết một điều bí mật mà không ai hiểu nổi.
Ngày… tháng…
Kể với Hân Nhiên về truyện “Ngoài song”, Hân Nhiên nói: “Cậu thấy hay lắm à?”. Cái giọng nói ấy khiến mình rất ngỡ ngàng. Hân Nhiên bảo không thích loại sách ấy, nào là tình yêu thầy trò, chẳng trong sáng tí nào. Nhật Bản thật lắm truyện về tình yêu thầy trò nên Hân Nhiên rất phản cảm với những truyện ấy. Hoàn toàn là thứ tâm lý khác thường.
Trời ơi, đêm hôm qua biết bao nhiêu nước mắt của mình, biết bao nhiêu tình cảm nồng đậm của mình đều trả giá cho “tình yêu không trong sáng” và “tâm lý bất bình thường” hay sao? Sao Hân Nhiên lại có thể dùng những chữ như thế để hình dung về nó? Nghe bạn nói thế, mình buồn xỉu đi. Người khác nói không kể làm gì, đây lại chính Hân Nhiên nói mà Hân Nhiên lại là bạn thân nhất của mình.
Còn mình, mình cảm thấy tình cảm của mình rất tốt đẹp, rất thuần khiết, hoàn toàn không phải như lời Hân Nhiên nói.
Một lúc lâu mình chẳng nói câu gì, lẳng lặng đi bên trái Hân Nhiên. Kể cũng lạ, hễ mình đi cùng Hân Nhiên là bao giờ mình cũng đi bên trái bạn ấy là tại sao? Mình bèn hỏi khéo:
- Hân Nhiên này, theo bạn thì người bạn trai thế nào là tốt?
- Mình thích bạn trai nào tốt về năng lực và tính cách – Hân Nhiên không nghĩ ngợi nói luôn. Ngay sau đó, bạn đỏ mặt rồi lè lưỡi, nhìn mình cười…
Mình không ngờ bạn thoải mái và thẳng thắn đến thế.
- Còn cậu?
- Mình… mình không biết – Mình nói – Nhưng mình thích người chín chắn hơn. Nhưng thầy Giang ấy là rất hay.
Lời vừa ra khỏi miệng mình đã hối, vội vàng nói chữa:
- Ý mình định nói là…
Song không kịp nữa rồi, Hân Nhiên vớ ngay lấy:
- Chín chắn hay là chín nục?
- Chín nục!... – Mình lặp lại.
Về nhà, mình cầm cuốn “Ngoài song” lên, lòng thấy nao nao không hiểu vì lẽ gì.
Mẹ cũng hỏi mình, phải chăng có chỗ nào trong người khó chịu mà suốt ngày hoảng hốt không yên?
Ngày… tháng…
Khi đến thư viện trả sách, cô trông thư viện lại ngắm nghía mình từ trên xuống dưới một lượt qua cặp kính dầy như trôn chai rượu của cô. Chắc là để nhớ kỹ mình. Trong con mắt cô, nhất định mình là đứa con gái hư hỏng chỉ mê truyện tình. Đáng giận thật! Mình bèn cố ý nói to:
- Em muốn mượn cuốn bài giải những đề khó về vậy lý!
Quả nhiên cô ta gật gù vừa lòng.
Mẹ hôm nay lại bảo mình hồi mình còn nhỏ, hễ có việc gì dù chỉ nhỏ bằng móng tay cũng kể cho mẹ nghe, bây giờ thì…
Tự mình cũng cảm thấy lạ. Bây giờ không hiểu tại sao hễ trong lòng có nỗi buồn, niềm vui nào cũng không muốn kể cho mẹ nghe nữa, chẳng những thế còn muốn né tránh mẹ, dường như mẹ không còn an ủi được mình nữa.
Mình chợt nhớ ra một việc. Lúc ấy nhà mình ở Hàng Châu, một hôm đến nhà bạn chơi thấy cây xương rồng trông rất ngộ. Kết quả là gai li ti đâm đầy tay, mình khóc chạy về nhà. Mẹ lấy nhíp nhổ từng cái gai một, lúc ấy mẹ là cây cao bóng cả của mình, là bến bờ của mình.
Tối về nhà, mình nhắc lại câu chuyện hồi nhỏ đó cho mẹ nghe. Mẹ vừa sắp thức ăn vào bát cho mình, vừa hỏi:
- Chuyện hồi nào thế nhỉ?
Mẹ đã quên hết rồi. Người mẹ là như thế, yêu con bằng tình yêu vô tư mà không cần đền đáp. Nhưng con cái lẽ nào lại có thể không đền đáp?
Con bé Bối Bối khổ thật. Từ hôm nó sang nhà mình chơi bị mẹ nó thấy, nó càng bị quản chặt. “Mày còn đi lung tung, coi chừng tao đánh gãy chân!”. Mình nhìn thấy Bối Bối đang nhoài người trên thành ban công bèn gọi: “Bối Bối ơi, lại bị mẹ đánh đấy à?” nó đỏ mặt lên, gật đầu. “Sang bên này chơi với chị đi!”. Mình đưa tay vẫy nó, nó liền đáp: “Không được đâu! Mẹ em đánh đấy!”. Những bà mẹ bây giờ sao mà quá quắt, lúc nào cũng dạy ngay từ nhỏ, chỉ muốn dạy nên được thần đồng!
Ngày… tháng…
Hân Nhiên gọi điện đến báo tuần sau cả lớp đến đảo Cô Đơn tập quân sự. Mình nửa tin nửa ngờ. Nghe các bạn mấy khóa trước kể tập quân sự rất vui. Mình ngưỡng mộ đã lâu, một tuần liền không phải sờ đến đám sách vở phiền lòng, thật sung sướng biết mấy, để chứng tỏ độ tin cậy của tin đó, mình cố ý nói:
- Tuần sau phải kiểm tra lý toán cơ mà!
- Bây giờ mọi việc đều phải nhường cho tập quân sự.
Chắc dạ rồi, mình lại hỏi:
- Thầy Giang có đi không?
- Tất nhiên. Thầy chủ nhiệm của lớp đương nhiên phải đến thăm đám lính tò te của ông chứ!
Lòng mình mừng khấp khởi.
Ngày… tháng…
Đã thông tư, thông tri về việc tập quân sự, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến các thứ ăn vặt, quà bánh.
Hôm nay phát quân phục, mũ đội. Về đến nhà, mình chỉ muốn mặc thử ngay. Mình phát hiện ra cô nàng Lâm Hiểu Húc mặc quân phục trông rất oai. Mình đã nhìn vào trong gương để chào cô nàng đến mấy lần.
Mẹ bảo: “Học sinh trung học các con bây giờ nên tham gia tập quân sự. Cũng không chỉ tập quân sự mà bây giờ nếu còn phải lên núi, về nông thôn thì mẹ sẽ là người đầu tiên ghi tên cho con đi. Các con rất cần phải rèn luyện”.
TẬP QUÂN SỰ TRÊN ĐẢO CÔ ĐƠN
Đối với lứa thiếu niên, tập quân sự là một hoạt động cực kỳ có ý nghĩa sâu xa.
Địa điểm tập quân sự trên đảo Cô Đơn, chính là đảo Linh Đinh mà xưa kia Văn Thiên Tường, nhà yêu nước đời Tống viết hai câu thơ bất tử: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. Có điều lúc bấy giờ Văn Thiên Tường không gọi đảo mà gọi là biển Linh Đinh (Cô Đơn).
Từ khu thành phố Thâm Quyến đến đảo Cô Đơn phải trải qua con đường dài và vượt qua mặt biển rộng.
Khi các học sinh xuống thuyền để lên đảo, người sĩ quan quân đội ra đón họ nhìn quét một lượt với ánh mắt nghiêm nghị rồi lạnh nhạt nói:
- Các cô cậu lên đây thăm phong cảnh và du lịch phải không?
Bất giác các bạn nhìn nhau: tuy đều mặc quân phục song người thì đội mũ lệch, người còn đeo kính râm, lưng còn giắt theo Walkman, cổ đeo máy ảnh, túi hành lý nào cũng căng phồng ngả nghiêng khoác trên vai…
Ai nấy đều ngượng ngùng, cúi đầu nín thinh.
- Thứ hỏi có ra dáng quân nhân không? – Viên sĩ quan đi đi lại lại – có mang theo đồ ăn vặt không đấy?
Tất cả im lặng.
- Bỏ ra đây! Bỏ hết ra đây!
Dưới ánh mắt nghiêm nghị của giáo viên quân đội, các bạn đứng thành hàng lần lượt bỏ đồ ăn, thuốc lá và bài tú lơ khơ ra.
- Hừ! – Giáo viên lại cười nhạt - Chạy quanh thao trường mười vòng!
- Trời ơi! - Tiếng ca thán nổi lên.
- Ai kêu ca nữa, chạy hai mươi vòng! – Giáo viên quét ánh mắt khắp lượt chạy!
Chạy hết mười vòng, không còn ai muốn cựa quậy, kháo chuyện nữa; ai nấy chửi thầm thái độ “tráo trở” của viên sĩ quan, phải chăng ông ta cố tình ngược đãi. Tới giờ ăn cơm, giáo viên vẫn chưa buông tha, vẫn nghiêm túc giảng giải:
- Các em không nên cho tôi là sai, cho rằng chỉ là chuyện vặt, tập quân sự chẳng qua chỉ có một tuần, đến nếm mùi quân đội cho biết. Hôm nay các em đã mặc quân phục thì cũng phải cho ra dáng quân nhân. Mục đích tập quân sự không phải chỉ nhằm học tập kiến thức quân sự, nắm vững yếu lĩnh quân sự, mà quan trọng hơn là nhằm bồi dưỡng cho các em ý thức kỷ luật chặt chẽ và tác phong tư tưởng mạnh mẽ. Tất cả những điều đó sẽ có ích cho các em suốt đời và cũng là điều bảo đảm căn bản cho đợt tập quân sự này thành công. Nào chúng ta hãy tập hô…
- Một, hai, ba, bốn!
- Không được, tập lại!
- Một, hai, ba, bốn!
- Không được, hô lại!
- Một hai ba bốn!
- Hô không đúng không được ăn cơm!
- Một! Hai! Ba! Bốn!
- Tốt, như thế mới mạnh mẽ.
Nhưng khi vào đến phòng ăn, không ai còn sức ăn cơm nữa.
- Chẳng thích thú tẹo nào!
- Cứ như ngồi tù!
Mấy nữ sinh đều tiếc rẻ những món quà vặt mang theo phải nộp, chỉ riêng Liễu Thanh nghĩ vui:
- Thì cứ tạm cho là có dịp giảm béo đi!
Vương Tiếu Thiên cũng nghĩ thoáng:
- Mình cũng chẳng sao, chẳng qua mấy thứ trong nhà mình đều do người ta biếu cả.
Câu nói này của Tiểu Thiên khiến Hân Nhiên đang ăn cơm phải giật mình, đánh rơi cả đũa xuống bàn. Trong lúc hoảng hốt, Hân Nhiên nhìn Tiếu Thiên, thấy Tiếu Thiên cũng đang nhìn mình. Sau lúc bốn mắt chạm nhau, Hân Nhiên càng thêm lo lắng trong lòng.
- Không được nói chuyện! – Không biết từ lúc nào, thầy giáo sĩ quan đã đứng ngay sau lưng họ.
- Hân Nhiên này, lần này lớp mình có mấy người được xét duyệt đoàn viên?
- Có đến mấy bạn ấy.
- Có mình không?
- Có.
- Cám ơn bạn.
Hân Nhiên thấy lòng xốn xang, nghĩ tới bạn bè Tiếu Thiên từng bênh vực mình, từng giơ bàn tay bè bạn giúp mình khi leo núi, Hân Nhiên thấy rất cảm kích bèn nói:
- Thực ra, thực ra mình cũng nên cảm ơn bạn.
- Cảm ơn mình? Cảm ơn về cái gì?
Hân Nhiên cười, từng có lúc bạn đã rất muốn làm rõ xem Tiếu Thiên nhìn nhận mình như thế nào, nghĩ về mình như thế nào. Tại sao trong giờ tự học, Tiếu Thiên lại tranh luận với bạn bè về vấn đề chỉnh đốn tác phong? Tại sao Tiếu Thiên lại nói Hân Nhiên đem bài tập đến cho mình trong lúc bạn đến để biếu đồ? Tại sao Tiếu thiên lại… Bây giờ Hân Nhiên cảm thấy thanh thản và thông thoáng hơn nhiều. Chỉ cần tự hỏi lòng mình không có gì đáng xấu hổ, thì hà tất phải để ý đến thái độ của người khác?
Rửa bát xong, Hân Nhiên đi trước. Nhìn theo bím tóc đuôi ngựa vắt vẻo của Hân Nhiên, nhìn theo bóng dáng xa dần của Hân Nhiên, Tiếu Thiên thầm nghĩ đáy là một cô gái cực kỳ hiếu thắng, tự tôn. Người như thế làm sao mang quà đến biếu xén được? Không biết cha bạn ấy có nỗi khổ gì?
Nhà Vương Tiếu Thiên vẫn luôn có “nguồn quà biếu” của khách khứa. Bất kỳ họ biếu vì lý do gì, Tiếu Thiên đều xem thường. Nhìn bộ dạng thiểu não và cung kính mang dáng đồ lễ mà cuối cùng không đạt được mục đích, Tiếu Thiên còn thích chí “trước tai nạn” của người khác.
Hôm ấy bạn thấy bạn mình cùng người cha có dáng trí thức trăm phần trăm đến nhà đưa lễ, xin xỏ, Tiếu Thiên đã động lòng cảm khái. Sau nghe Lưu Hạ nói Hân Nhiên không có hộ khẩu ở Thâm Quyến. Hồi tốt nghiệp cấp hai, Hân Nhiên vốn được vào thẳng trường trung học Số Chín. Chỉ vì không có hộ khẩu nên nhà trường do dự. Thấy nhà trường còn có điều suy nghĩ, Hân Nhiên chủ động xin từ bỏ, bởi không muốn mình bị nhìn với ánh mắt khác lạ. Trong mục nguyện vọng xin thi chuyển cấp, Hân Nhiên chỉ ghi tên mỗi một trường: trung học Số Chín. Nguyện vọng thứ nhất: Số Chín, nguyện vọng thứ hai: Số Chín, nguyện vọng thứ ba cũng vẫn Số Chín. Dù học giỏi như Trần Minh cũng chẳng dám bạo phổi như thế nữa là! Cô giáo Lan nhìn nguyện vọng ghi trong đơn, lại nhìn vẻ mặt rắn đanh của Hân Nhiên thì biết là bạn đã quyết tử chiến phen này, cô không nỡ nói thêm gì nữa. Còn Hân Nhiên cũng biết nếu lần này thi trượt không vào được trường Số Chín thì hoặc phải nghỉ học, hoặc phải đóng góp cho nhà trường một khoản tiền lớn, hoặc phải trở về nội địa. Hân Nhiên đánh cuộc bằng cả tiền đồ của mình. Tính cách tự tôn, hiếu thắng mách bảo bạn, bạn không có cách lựa chọn nào khác. Trong tình hình chỉ có một lối thoát, tinh thần liều chết phấn đấu của người ấy tất nhiên phải khác người thường. Hân Nhiên cũng không ngoại lệ. Mặc dù học rất giỏi song Hân Nhiên vẫn phấn đấu theo kiểu “treo tóc lên xà, sẵn dùi đâm vế”. Mẹ Hân Nhiên xót xa quá bảo bạn nghỉ giây lát. Hân Nhiên không ngửng đầu lên, chỉ thuận miệng đáp:
- Con học thế này cũng vì muốn đỡ cho gia đình một khoản tiền!
Người mẹ ngớ ra rồi tiếp đó thở dài thườn thượt. Thì ra tránh để khỏi phải làm “học sinh cao giá”, Hân Nhiên là cô gái không có khái niệm về tiền, xưa nay không nhiệt tình tham gia tán gẫu với bạn bè về những đồ dùng danh tiếng hoặc cách tiêu xài. Một đứa trẻ như thế mà nay biết lo lắng về học phí thì quả là Hân Nhiên đã trưởng thành rồi. Kiểu trưởng thành đó nên mừng hay nên lo là điều cha mẹ thường không kịp nghĩ tới, song bà mẹ Hân Nhiên cảm thấy mình có lỗi trước tiên.
Cuối cùng ba ngày “u ám” cũng qua đi. Rất nhiều người lo lắng hỏi Hân Nhiên:
- Thi thế nào? Có chắc đỗ không?
Hân Nhiên vẫn không tỏ vẻ gì. Ai nấy tưởng bạn trượt, song sự thật hoàn toàn trái lại. Hân Nhiên làm rất tốt, hơn cả mức bình thường. Có điều bạn rất mệt, chẳng hứng thú đâu ứng đáp những câu hỏi thăm hoặc chân thành hoặc giả ý. Cuối cùng, tờ thông tri nhận vào học cũng gửi đến. Hân Nhiên đến trường được chúc mừng hết nhẽ. Cô Lan cầm tay Hân Nhiên chỉ chực khóc.
Hân Nhiên vẫn không nói gì. Trong tiếng cười nói của mọi người, bạn không sao rặn nổi một nụ cười. Bạn quá mệt. Bạn khóc đến mấy lần song không bao giờ cho ai được thấy.
Một cô gái quật cường đến thế, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, làm sao lại chịu đưa lễ đi biếu xén? Một nơi xưa nay tự hào về văn minh, khai thác, sáng tạo cái mới như Thâm Quyến làm sao có thể nhẫn tâm để cho một nữ sinh trung học phải vạn bất đắc dĩ đến thế?
Vương Tiếu Thiên bất bình thay cho Hân Nhiên.
KHÔNG THẸN LÀ NGƯỜI ĐÁNG YÊU NHẤT
Vừa đặt mình là ngủ như chết! Qua được một ngày thật mệt hết sức. Cứ nằm ngay trên ván cứng cũng ngủ ngon được như thường . Đột nhiên, một tràng còi xé tai làm mọi người choàng tỉnh. Lật mình trở dậy mới thấy đôi chân cứng đơ. Hôm qua chạy mười vòng quanh thao trường tuy vất vả nhưng chưa thấy đau buốt. Hôm nay trở dậy phải nâng một chân đặt xuống trước rồi lai nâng chân kia đặt xuống sau.
Ngay sau đó là cảnh hoảng loạn nhốn nháo. Các bạn vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn, dơ tay giụi đôi mắt ngái ngủ, tóc để rối bù đi rửa mặt. Từ tiếng còi báo thức cho đến lúc ra đi thao trường chỉ có năm phút. Người nào chậm chạp thì khi tới thao trường giầy chưa kịp buộc dây, mũ còn cầm trên tay, chẳng còn kịp rửa mặt đánh răng nữa.
Quân Nhân rất coi trọng tốc độ. Sau lúc nhốn nháo là yên tĩnh trở lại. Mấy trăm người trên thao trường mà đến im hơi lặng tiếng.
Lúc này mới khoảng năm rưỡi sáng, trời mới tờ mờ sáng. Trước hết là biến đổi hàng ngũ, tiếp theo sau là chạy bộ, thoạt đầu, ai nấy đều rất vui: Một biển màu xanh lá cây nhô lên hạ xuống theo hiệu lệnh oai nghiêm. Nghe bước chân của mình hòa vào bước chân của mấy trăm người khác, trong lòng ai nấy bất giác trào lên cảm xúc tự hào.
Nhưng sau mấy vòng là bắt đầu loạc choạc. Nhìn thao trường to rộng mà thấy mênh mông như cánh đồng, bước chân càng ngày càng chậm, miệng há càng ngày càng to. Nhìn mấy sĩ quan thầy giáo chạy dẫn đầu, chẳng thấy họ có ý dừng lại. Mọi người đều tự nhủ thầm: “Vòng này là vòng cuối cùng, vòng này là vòng cuối cùng!” Nhưng họ vẫn chạy hoài, chạy mãi.
Cuối cùng thì cũng dừng lại. Hai chân lúc này đã hầu như không phải là chân mình nữa rồi. Chỉ muốn nằm xoài ra hoặc ngồi xuống cũng được song mọi người vẫn phải đứng nghe giáo viên nói về nội dung huấn luyện hôm nay…
Nghỉ tập là ăn cơm sáng. Trước khi ăn cơm còn phải hát. Bụng sôi ùng ục là để đệm cho tiếng quân ca! Hôm này tì vị mọi người tốt phải biết. Để tranh thủ thời gian các bạn gái hãy vứt bỏ hết vẻ duyên dáng, nhỏ nhẻ. “Không được ghé tai trò chuyện, không được bỏ thừa cơm canh, không được gù lưng ăn cơm”. Các bạn học sinh ra sức ăn, các sĩ quan thầy giáo ra sức nhắc nhở, thế là ai nấy phải ưỡn thẳng lưng lên, cầm lấy bát, xúc đầy miệng mà nhai nuốt cho đến lúc vét trơ đáy bát. Ai nấy đều thầm kêu: “Làm lính mất hết tự do, đến ăn cơm cũng không được tùy ý”. Nhưng quân nhân là quân nhân, tác phong tốt đẹp của họ là do luyện tập với yêu cầu nghiêm khắc như thế mà có.
Ngày đầu tiên học cách ăn cơm, cách gấp chăn, cách sắp xếp phòng ở. Những việc ai ai đều biết ấy, đến đây phải học lại từ đầu. Nhìn các giáo viên xếp vuông vắn tấm chăn cuộn trên giường. Dư Phát buột mồm nói:
- Xếp cẩn thận như thế để làm gì? Tối lại chả phải tung ra đắp hay sao?
- Thế cậu ăn cơm làm sao lại phải rửa bát sạch sẽ? Bữa sau chả phải lại dùng ăn cơm hay sao?
Ai nấy đều cười.
Chăn gấp thế nào, gối để ra sao, khăn mặt treo làm sao, rồi cốc đánh răng đặt ở đâu, bàn chảy đánh răng hướng phía nào v.v… đều có quy định rõ ràng. Sắp xếp lại theo yêu cầu là lập tức đổi thay liền, bộ mặt doanh trại đổi mới hẳn.
Khó chịu đựng nhất là hai ngày đầu, xương cốt như rã rời cả ra. Một số bạn còn mắc chứng “mẫn cảm với tiếng còi” bởi vì hễ còi vang lên là phải tuyệt đối phục tùng. Mọi người mất quyền chi phối thời gian của mình. Ngắm nghía kỹ càng trong gương bộ mặt rám đỏ vì cháy nắng hay tắm cho thỏa thuê đã là những ý tưởng vượt ngoài thân phận. Còi vừa thổi lên là phải bỏ hết mọi việc trong tay, hướng về phía tiếng còi ấy mà chạy.
Mao Chủ tịch có câu thơ khen nữ dân quân:
Súng dài năm thước hiên ngang,
Đẹp thay nắng rọi thao trường hôm mai.
Chị em Trung Quốc mới tài,
Hồng trang chẳng thích thích hoài vũ trang.
Các nữ dân quân sao mà đẹp và hào hùng đến thế! Ai nấy cũng muốn thử một chuyến xem sao. Qua thực tiễn mới biết cây súng năm thước ta trong huấn luyện đâu có nhẹ nhàng thoải mái như trong điệu múa? Một cây súng nặng 3,85 kg, muốn cầm chắc đã khó khăn, nếu muốn thao tác thành thạo trong tay thì không kể những nữ sinh yếu đuối như bọn Hiểu Húc, mà ngay “cánh đàn ông” như Vương Tiếu Thiên cũng chẳng dễ gì, không nghiến răng thì giơ sao nổi! Khó hơn nữa phải kể bước thẳng chân và đứng nghiêm. Bước thẳng chân phải chia từng động tác ra mà tập, hơn nữa mỗi động tác phải giữ được trong thời gian dài. Trước hết chân giơ thẳng ra phía trước, thành một góc khoảng 45 độ với thân người, sau đó cứ giơ mãi như thế, không đổi khẩu lệnh thì quyết không được đổi tư thế. Giơ lâu chân run lên, vừa luyện đứng một chân được ít phút thì bước tiếp theo càng khó hơn, có khi phải buộc cả gạch vào chân để tiếp tục tập, còn động tác đứng nghiêm là tư thế đứng thẳng trong thời gian lâu trong hàng quân. Đó là một mục huấn luyện xem ra không khó nhưng tập lại khó muốn chết. Trong hai mươi phút, bạn phải đứng ngay như bức tượng, không được động đậy. Ruồi muỗi cắn không được đập, da đầu ngứa không được gãi, mồ hôi chảy không được lau, thậm chí mắt cũng không được chớp loạn lên, phải học cách mười lăm phút trở lên mới được chớp một lần. Tập xong chân đau lưng ê ẩm, cơm cũng chẳng buồn ăn. Song các bạn không còn ca thán rầm trời như hai ngày đầu nữa, mọi người đều đã hiểu: tiểu đội trưởng Quân giải phóng dạy được cho các bạn một động tác thì cả làm mẫu và tập theo, anh ấy còn mệt còn vất vả gấp mấy lần các bạn.
Khi mọi người đã thích nghi thì một tuần huấn luyện cũng kết thúc.
Cảm xúc về tuần này thật khó nói ra cho hết.
Từ “quân nhân” bao giờ cũng khiến người ta liên tưởng rất nhiều đến sự tôn nghiêm, sự sống chết, tổ quốc… là những từ bi tráng, tốt đẹp và chứa chan tình cảm. Nhưng là một quân nhân thường chỉ có nghĩa là dâng hiến và luyện rèn. Họ không thẹn là những người đáng yêu nhất!
Ngày cuối cùng đợt huấn luyện, thầy chủ nhiệm tới đảo Cô Đơn.
- Em đã biết gấp chăn thành góc rồi!
- Em đã biết đi trong hàng thế nào!
- Em đã biết…
Đương nhiên những câu “đã biết” này còn phải thêm ở đằng sau một bổ ngữ cực kỳ quan trọng, đó là “như bộ đội”.
Thầy Giang cười ha hả, hài hước bảo:
- Thầy vui mừng lắm, thế gọi là “vật này có vật khác trị”. Thầy không quản được các em nên các em mới phải bị đưa tới cho bộ đội giáo dục chứ!
CÁC ANH BỘ ĐỘI GIỎI MỌI MẶT
Nhật ký của Hiểu Húc
Ngày… tháng…
Tập quân sự xong về nhà, câu đầu tiên mẹ nói là: “Hiểu Húc, ba lô của con ngay ngắn lắm, xem ra tập quân sự có ích đấy chứ!”
Tối hôm sắp sửa ra về, bọn mình cùng sĩ quan và binh lính đóng ở đảo tổ chức buổi liên hoan và xem phim, phim cũ Đội du kích đường sắt. Nghe lời hát lúc bấy giờ, âm điệu thật mạnh mẽ nhưng mình vẫn thích nghe bài hát thịnh hành bây giờ. Điều đó chứng tỏ mình thiếu kiên cường, chỉ thích tình cảm quyến luyến.
Xem phim xong, chúng tôi cất cao tiếng hát bài quân ca. Thoạt đầu Lưu Hạ lĩnh xướng: “tôi là một người lính”. Lưu Hạ bắt đầu bằng nốt cao quá lại kéo dài giọng ra, không còn chút khí phách nào.
Đại đội trưởng nói:
- Cô này hát theo cách hát tình ca phải không?
Ai nấy đều cười. Bọn mình lần đầu tiên mới nghe đại đội trưởng nói đùa, thường ngày ông thầy này hung dữ lắm. Sau đó đại đội trưởng lĩnh xướng: “tôi là một người lính”. Quả nhiên hiệu quả khác hẳn.
Tối hôm ấy mọi người vui như điên, các anh bộ đội còn phấn khởi hơn cả bọn mình, nào disco, nào chacha, mặt nào cũng giỏi. Xem ra bọn này có phần đề cao các anh ấy quá. Ánh đèn nêong chiếu trên những khuôn mặt trẻ trung vui tươi, hăng say, tràn trề sức xuân.
Cuối cuộc vui, đại đội trưởng xách ra một túi xách thật to. Lúc đầu bọn này cứ tưởng sẽ phân phát vật kỷ niệm nào đó. Đợi đến khi mở túi ra, tất cả mới ngớ ra: Trong túi là đủ thứ đồ ăn vặt mà bọn này bị tịch thu hôm trước. Bọn này từng đoán số đồ này có lẽ đã bị các lính xơi hộ mất rồi. Ý nghĩ của bọn này thật ti tiện, thuần túy là lòng dạ của kẻ tiểu nhân. Đại đội trưởng cười bảo:
- Vật về chủ cũ đây nhé!
Sáng tinh mơ ngày hôm sau, đúng năm giờ rưỡi, còi lại vang lên. Mấy trăm người cùng khối lớp mười lại ra thao trường. Trên thao trường mấy chục thầy giáo sĩ quan đã đứng sẵn, họ nghiêm chỉnh kính chào bọn này, bọn này cũng đứng nghiêm trả lễ.
- Phục vụ nhân dân! Bọn này dị khẩu đồng thanh hô.
Câu này không bao giờ lỗi thời.
Bọn mình lên tàu thủy nhưng không vào khoang mà đứng trên mui, lòng quyến luyến không muốn rời. Các thầy cô giáo sĩ quan ra sức vẫy tay, chúng tôi cũng ra sức vẫy lại.
Tạm biệt đảo Cô Đơn!
Tạm biệt đợt tập huấn quân sự!
Dạy học là một nghệ thuật, ai không biết biểu diễn sẽ là thầy giáo trung học tồi.
Thầy giáo Giang mặc một bộ âu phục mới mua tâm tư khoan khoái, tinh thần phấn chấn như thường ngày hy vọng sẽ dạy tốt buổi học này, thầy sẽ không phải trông thấy một khuôn mặt nào thờ ơ, một đôi mắt lộ vẻ sốt ruột nào. Thầy hy vọng sau tiết học, học sinh sẽ tiếp thu được một điều gì đó.
Thầy Giang vừa vào lớp, bỗng cả lớp “a” lên một tiếng rồi tiếp theo là một tràng vỗ tay:
- Thưa thầy, thầy mặc bộ quần áo mới này tôn người lên đấy ạ!
- Thưa thầy bộ này vừa vặn người thầy quá!
Thầy Giang cười, cái bọn học sinh này thế đấy!
Tiết học hôm nay thầy giảng một đoạn trong phần kiến thức đơn nguyên và huấn luyện để chữa một bài làm văn. Giờ học bắt đầu được một lúc thì Vương Tiếu Thiên giơ tay xin phát biểu.
- Thưa thầy, em thấy bài văn này sửa không được hay. Nhất là đoạn kết đem lời nói mộc mạc của người thợ khâu giầy “các em dành tiền mua mấy quyển bài tập, đấy cũng coi là tâm nguyện của tôi” cố sửa thành “Các em để dành số tiền này mua mấy quyển bài tập, học thêm chút kiến thức, mai này làm tốt việc xây dựng bốn hiện đại hóa, đó cũng là tâm nguyện của chúng tôi!” sẽ làm cho người ta cảm thấy lời nói không thực.
Thầy Giang ngẩn ra, học sinh ngồi bàn dưới cũng xôn xao bàn luận.
- Người thợ giày biết nói như thế sao?
- Đúng là ngôn ngữ của người thợ giày cần phải mộc mạc.
- Bài giảng đã chọn vào sách giáo khoa, theo tớ là không thể sai được.
- Sách giáo khoa cũ quá rồi, mấy chục năm chẳng thay đổi gì cả, vẫn nội dung ấy.
- Viết như thế là hay lắm rồi, phải viết tính ưu việt không có gì so sánh nổi của chủ nghĩa xã hội, chứ cả đất nước là một màu rực đỏ một giọng nói đáng ghét cất lên.
Theo kế hoạch, tiết học này phải giảng xong bài nhưng xem ra không thể xong được rồi. Thầy Giang ngẫm nghĩ rồi gấp sách lại:
- Thế này nhé, giờ học này các em tự do phát biểu, chúng ta bàn về cách nhìn nhận tác phẩm văn học.
Nghe thầy giáo nói thế, tiếng ồn ào trong học sinh lặng hẳn, không một ai nói gì nữa.
0 Chẳng phải các em vừa bàn bạc rất sôi nổi đó sao? Nào chúng ta khiêng bàn xếp thành vòng tròn, như thế không khí thảo luận sẽ hay hơn.
Sau khi đã tay năm tay mười kê bàn thành vòng tròn, đám học sinh ngồi đối diện nhau, ai nấy đều cười. Lâm Hiểu Húc đại diện cho khoa văn nói trước tiên:
- Tôi bắt đầu nhé! Tôi cảm thấy bây giờ các đầu đề làm văn đều giống nhau cả, chẳng hạn như “người không thể quên” “một việc nhỏ có ý nghĩa lớn” “lần thứ nhất…” từ khi bắt đầu học tiểu học đến giờ cũng chỉ mấy đề mục ấy, đổi qua đổi lại… Thầy giáo còn nói “mấy bài ấy làm rồi, bây giờ làm lại để xem xem trình độ của mọi người có nâng cao được chút nào hay không?” Nhưng một đề bài đã làm qua một lần lại làm lần thứ hai, thứ ba ai còn hứng thú làm nữa, thế thì nâng cao sao được?
Lâm Hiểu Húc vừa nói xong, Tạ Hân Nhiên liền nói:
- Chúng ta làm những bài văn ấy đều theo một hình mẫu đã định sẵn. Viết về một người bạn tốt thì nhất định phải là đoạn đầu bạn tốt như thế nào; đoạn giữa thế nào cũng phải nảy sinh mâu thuẫn như làm hỏng một vật gì mà bạn yêu thích, bạn bắt ta đền làm ta hiểu lầm lòng tốt của bạn, đoạn kết luận bạn sắp chuyển đi nơi khác, trước khi đi đem tặng ta một vật lưu niệm thế rồi ta hối hận sâu sắc và luôn luôn nhớ đến bạn. Viết về một sự việc chẳng hạn, làm một việc tốt thì nhất định ta ban đầu không muốn làm việc đó như thế nào nhưng lúc ấy khăn quàng đỏ trên ngực đón gió bay phơi phới khiến ta nghĩ mình đã là một đội viên thiếu niên…, sau đó “ta” làm việc tốt và thấy lòng thư thái hẳn, như thế nếu như hôm đó ta không quàng khăn đỏ thì lẽ nào ta lại không làm việc tốt đó sao! Chúng ta từ nhỏ đã viết như thế, nhất là khi học tiểu học đúng là nghìn bài như một. Học sinh nước ngoài làm văn không có trình độ cao, ý nghĩa cũng không nhất định phải sâu sắc nhưng văn chương họ viết ra đều rất chân thực, đều có cái riêng của mình.
- Chúng ta rất thích viết được chút gì đó của chính mình. Hồi học phổ thông cơ sở có một lần, thầy giáo cho làm một bài văn đề tài tự do, kết quả lần ấy chất lượng cao hơn hẳn mọi lần khác – Lâm Hiểu Húc lại nói tiếp - nếu muôn nâng cao trình độ làm văn thì không thể hoàn toàn dựa theo bài học ở nhà trường.
- Các bạn còn nhớ bài Chiếc áo quý giá mà chúng mình đã học không? Tôi có cảm giác là người ta đã viết rất to tát về một vấn đề rất nhỏ. Thủ tướng làm rách của người ta một chiếc áo nên đền chiếc khác, đó là việc rất bình thường và nên làm có gì mà phải làm ầm ĩ lên!
Nói thật nhé, tôi cảm thấy giáo trình của chúng ta rất “tả”. Tuy nhiên đã sửa rất nhiều lần nhưng chỉ là thay thang chứ không thay thuốc. Bây giờ tất cả đều là kinh tế thị trường, thế mà sách giáo khoa chính trị vẫn viết là kế hoạch kinh tế có như thế cũng là không theo kịp thời đại, huống nữa sách còn bình luận về chủ nghĩa tư bản quá phiến diện.
Dần dần đầu đề phát biểu nhảy ra khỏi sách giáo khoa học sinh lại bàn đến những tác giả, tác phẩm mà mình ưa thích.
- Tôi không thích thơ mông lung (Một thể thơ hiện đại, chữ trong bài dễ hiểu nhưng ý trong bài không phải ai cũng hiểu được), tôi nhớ có một nhà thơ từng đăng một bài nhan đề là Lưới. Suốt cả bài thơ dày đặc chỉ một chữ lưới, như thế mà gọi là thơ? Chẳng hóa ra cũng rất mông lung đó sao? Tiêu Dao nói.
Tiêu Dao từ nhỏ đọc qua không ít thơ cổ, bạn sùng bái Lý Bạch, và cũng thích Đỗ Phủ, nhưng thích nhất là Lý Hạ “có tài như quỷ”. Bạn nói tiếp:
- Tôi cho rằng thơ dài và từ (Thể thơ chữ dài ngắn không đều, vốn là lời những khúc hát) Tống rất hay, như là câu: “Bãi lớn khói vươn thẳng, sông dài mặt trời tròn”.
Lại còn câu “Lưu lạc thành bùn, nghiền thành bụi, chỉ hương thơm như cũ” đều là những câu thơ tuyệt vời, thơ hiện đại xuất hiện rất nhiều ngày nay không thể nào so sánh được. Thơ hiện đại có những bài không đọc đủ ba lần thì không hiểu tác giả nói gì nhưng đọc đủ ba lần rồi mới hiểu tác giả chẳng nói gì cả!
- Thơ cổ cũng như thơ hiện đại mỗi thứ đều có giá trị trường tồn cả đọc không hiểu mới thú vị chứ!
- Thơ mông lung cũng không đến nỗi tối ý lắm đâu.
- Lỗ Tấn đã từng nói: nếu như anh không có tài hoa phi phàm thì tốt nhất đừng làm thơ. Thơ hay người đời Đường đã làm hết sạch rồi.
- Tác phẩm của La Lan rất hay, viết nhàn nhạt thôi nhưng ý tứ thì đậm đặc!
- Sách viết cho học sinh trung học ngày nay rất dở. Nguyên do là trước kia không có người viết, còn bây giờ thì ùa nhau viết, không yêu sớm thì mâu thuẫn thế hệ, làm như học sinh trung học ngoài chuyện yêu sớm, hoặc cãi lại thầy giáo và bố mẹ ra chẳng còn biết đến điều gì khác nữa. Kỳ thực học sinh trung học bây giờ khát vọng rất cao.
- Trái lại tôi cho rằng học sinh trung học bây giờ chẳng có điều gì đáng viết cả, bằng phẳng nhạt nhẽo, chỉ có học và học tập nhà văn cũng chẳng lấy tài liệu đâu mà viết.
- Nói tóm lại: sinh viên đại học là con cưng của trời, học sinh tiểu học của tổ quốc. Còn học sinh trung học ư? Còn có mỗi một chuyện yêu đương sớm đem ra mà nói thôi. Đây không phải là ý kiến của tôi đâu, mà là những điều báo chí viết cả đấy. Có điều chuyện yêu đương của học sinh trung học cũng nghiêm trọng thật đấy. Dư Phát vừa nói vừa liếc nhìn Vương Tiếu Thiên và Lưu Hạ.
- Nhưng đấy không phải là vấn đề chủ đạo của đời sống học sinh trung học – Hân Nhiên nói.
- Người không yêu đương sớm vẫn nhiều hơn chứ!
Liễu Thanh nói:
- So sánh ra thì nữ sinh trung học còn may mắn hơn. Nào là Tuổi xuân muôn năm, Đậu khấu tuổi hoa, Thiếu nữ áo hồng, Nữ sinh trung học mất tích, tất cả đều viết về con gái. Còn con trai ư?
- Có một bộ Tội phạm thiếu niên đấy, - có tiếng cắt ngang nói. Tất cả cười ầm lên.
- Điều đó nói lên cái gì? Vương Tiếu Thiên lại nói - Điều đó nói lên rằng cuộc sống của nam học sinh trung học không phải nhờ viết mà phải dựa vào hiểu biết.
Nam học sinh vỗ tay đôm đốp hưởng ứng lời Vương Tiếu Thiên.
Lập tức có một nữ sinh nói:
- Đúng là chưa một lần được uống rượu bồ đào thì nói rượu bồ đào chua.
- Nói đến các nhà văn nữ như Quỳnh Dao, Nghiêm Tấm ư? Họ từ lâu đã không được ưa thích nữa rồi, toàn là chuyện giai nhân tài tử, nội dung cũng đại đồng tiểu dị mà thôi. Truyện của Sầm Khải Luân lại càng là như thế; nhân vật nam thì chủ yếu là con em các nhà giàu, trai thì tuấn tú phóng khoáng, nữ thì tiểu thư ngàn vàng, xinh đẹp siêu phàm. Trên đời này làm gì có nhiều chuyện tốt đẹp như thế!
- Trái lại tác phẩm của Tam Mao (Nữ văn sĩ nổi tiếng Đài Loan) lại hay. Ở đâu có cuộc sống mưa thuận gió hòa, có những cuộc đời “lên voi xuống chó” có nhận thức cảm tính về cuộc sống và cũng có những khám phá lý tính về cuộc đời. Ngoài ra Tam Mao có một câu mà tôi rất tin phục, đó là “giả sử không thành công thì cũng không đến nỗi mất trắng”. – Lâm Hiểu Húc vốn là một người sùng bái Tam Mao.
- Tôi thường xuyên nghe nói về Tam Mao và tác phẩm của cô nhưng tôi chưa đọc. Sau khi cô tự sát, tôi mới đọc tác phẩm thì thấy rằng cô ấy rất nhiệt tình với cuộc sống, có thể tả cuộc sống đơn điệu vô vị, gian khổ ở sa mạc thành cuộc sống đầy sinh khí. Thế nhưng vì sao cô ấy suy sụp đến tự sát nhỉ, Lưu Hạ hỏi.
- Cũng có thể khi đạt được tới mức độ tư tưởng như cô ấy thì sống chết đã chẳng còn giới hạn nữa, sinh chính là tử, tử chính là sinh.
- Nói như thế chẳng có ý nghĩa gì và cũng là vô trách nhiệm.
Đám nữ sinh bàn về các nhà văn nữ Tam Mao, La Lan, Tịch Mộ Dung, Quỳnh Dao, chỉ cá biệt mới nhắc đến nhà văn đại lục. Các nam sinh thì bàn về Dương Sóc và “Văn học vô lại” (Tên gọi bắt nguồn từ nhân vật được cho là vô lại trong truyện). Bàn về Nietzsche (F. Wilhelm Nietzsche, nhà triết học Đức thế kỷ XIX) và tác phẩm siêu nhân, bàn đến Kim Dung, Lương Vũ Sinh và tiểu thuyết võ hiệp.
Mỗi học sinh phát biểu, đều bộc lộ rõ nhận thức của mình đối với vấn đề. Mười sáu tuổi là lứa tuổi đáng được coi trọng, bất kể rằng thể xác và tinh thần của họ đều chưa định hình.
“Khuynh hướng đọc sách của một người là biểu hiện bên ngoài của hoạt động tâm lý” thầy Giang nhìn đám học trò sôi nổi đầy khí thế mà như lần đầu tiên mới quen biết họ.
“Cơn sốt Kim Dung”, “Cơn sốt Uông Quốc Chân” là xâm nhập vào nhà trường; tên văn của Lương Thực Thu và Lâm Ngữ Đường luôn ở trên tay, Giên Ero và Hồng Lâu Mộng được trao đổi nhau đọc, các tập tranh châm biếm của Thái Chí Trung cũng được yêu thích. Người thời đại trước không thể hiểu thấu đáo những suy nghĩ trong lòng người thời nay nhưng học sinh trung học không nghĩ thế. Các em tự tìm niềm vui, các em làm theo ý mình, tiếng đọc sách vẫn vang vang và vẫn sôi nổi nhiệt tình.
Lúc ấy đã quá giờ tan học, hứng thú của mọi người chưa giảm, vẫn bàn luận say sưa, từ thơ ca đến tiểu thuyết, từ văn học Trung Quốc đến tác phẩm nước ngoài, từ văn học cổ điển đến “dòng ý thức” (Một trào lưu sáng tác thuộc trường phái hiện đại). Đề tài không ngừng thay đổi, sinh động.
…
Thế đấy, một bài học không chỉ cần cung cấp cho học sinh tri thức mà còn cần phải trang bị cho họ phương pháp đọc sách nữa. Nếu bản thân thầy giáo là người tình cảm nhạy bén biết gợi mở thì có thể đạt được kết quả đó. Do vậy, thầy Giang trong lòng vui vẻ tự tin đợi buổi dạy ngày mai.
KHÔNG PHẢI BỘ ÓC NGƯỜI MÀ LÀ BỘ ÓC ĐIỆN TỬ
Giờ toán, cô giáo Tôn đã chú ý đến Lưu Hạ. Cha mẹ Lưu Hạ liền mấy hôm nay đưa nhau ra tòa, vì thế trong đầu bạn lúc nào cũng đầy ắp chuyện buồn ấy. Bấy giờ Tạ Hân Nhiên ngồi bên cạnh lén đưa cho mảnh giấy.
- Cẩn thận! Cô giáo đã chú ý đến cậu từ lâu lắm rồi đấy! Cô đang giảng đến trang 102: đường huyền bằng cân hai của tổng bình phương hai cạnh.
Lưu Hạ giật mình, vội vàng sửa áo ngồi ngay ngắn lại rồi lập tức lật sang trang đó; vừa mới tìm được công thức, cô giáo đã gọi.
Lưu Hạ đứng dậy, cô giáo quả nhiên hỏi ngay vấn đề vừa mới giảng.
Nguy hiểm thật. May mà Lưu Hạ đã liếc qua nên trả lời được liền một mạch. Cô giáo gật đầu, bạn ngồi xuống ngầm đưa mắt cho Hân Nhiên, ánh mắt thần bí và hiểu lòng nhau.
Cô giáo mang một cặp kính to màu sẫm. Học sinh thường cả quyết với nhau rằng cô thiếu mất giây thần kinh cười, nét mặt lúc nào cũng lạnh lùng, nghiêm túc và thản nhiên. Không ai đoán được tuổi tác của cô, dường như cô không có tuổi trẻ, và cũng vĩnh viễn không già.
Cô giáo Tôn thấy vẻ lo lắng của cả lớp liền viết lên bảng đen một đề toán:
- Đây là một đề phụ, hơi khó, tôi gọi các em lên bảng giải.
Cô giáo Tôn chỉ nhìn vào Trần Minh. Từ trước đến nay cô vẫn rất tin tưởng Trần Minh, vừa sắp đặt bút chấm tên Trần Minh thì bỗng nhiên Tạ Hân Nhiên giơ tay.
Cô giáo Tôn nhìn em gật đầu.
Hân Nhiên lên bảng viết lia lịa dày đặc gần kín cả mặt bảng. Cô giáo khe khẽ gật đầu.
Dư Phát ngồi dưới trông thấy cô giáo gật đầu, vội vàng phụ họa theo:
- Tạ Hân Nhiên tinh mắt thật! Cậu làm giống y như tớ!
- Đúng, đúng, làm đúng rồi!
Cô giáo Tôn gật đầu liền liền và cô hơi mỉm cười. Cô vừa kiểm tra lại vừa nói:
- Kiến thức cơ bản rất vững, chứng tỏ em nắm rất chắc những kiến thức đã học; tư duy rất chặt chẽ, lý giải rất rành mạch. Cô cho rằng không ít em giải theo cách này.
Cô giáo nhìn cả lớp một lượt, phát hiện ra Trần Minh ngồi tựa lưng vào ghế, mắt vừa nhìn bài toán bạn giải trên bảng đen nhưng chốc chốc lại nhìn cô giáo, ánh mắt tỏ ra rất tự tin, lại như có vẻ khiêu khích. Cô giáo hỏi:
- Trần Minh em có giải như thế không?
- Không ạ!
- Không à? – Cô giáo ngạc nhiên nhìn Trần Minh, các bạn cũng nhìn Trần Minh.
- Em lên bảng làm theo cách của mình! – cô giáo nói, đồng thời cầm viên phấn đưa cho Trần Minh.
Trần Minh đi lên bảng, cầm viên phấn từ tay cô giáo và không một chút do dự viết “lách cách lách cách” trình bày bài giải, chỉ hơn mười hàng là xong. Không đợi các bạn hiểu hết em đã xuống bục. Cô giáo gọi lại bảo:
- Đây không phải là trình độ của học sinh lớp Mười mà em đã sử dụng tri thức của lớp Mười hai. Em học qua rồi sao?
Khóe môi Trần Minh khẽ nhếch lên:
- Lúc em rỗi em tiện tay giở sách giáo khoa của lớp Mười hai thôi ạ. Cô giáo Tôn biết rằng Trần Minh tuyệt đối không phải tiện tay giở sách lớp trên đơn giản như thế. Bạn khiến cô rất vui mừng.
- Giỏi, giỏi! Rất giỏi! Cách giải này đơn giản mà rất rõ ràng.
Các bạn trong lớp đều tấm tắc khen, Dư Phát giơ cả ngón tay cái, nói rất dõng dạc:
- Bộ óc điện tử! Không phải bộ óc người mà là bộ óc điện tử!
Các bạn đều cười. Vương Tiếu Thiên nói kháy:
- Dư Phát, lần này người ta không làm giống cậu nữa à?
- Khác một chút, khác một chút, Dư Phát không hề đỏ mặt.
Trần Minh ngoài vẻ không thèm để ý đến sự thán phục của Dư Phát, trên nét mặt bạn rất khó tìm thấy một biểu hiện nào của nội tâm; vẻ mặt bạn vẫn bình thản như cũ, đúng là một tài năng luôn luôn ưu tú thì mới có được thái độ đó.
Cô giáo Tôn nhìn Dư Phát rồi lại nhìn Trần Minh cô nói:
- Em chỉ cần có được một nửa của Trần Minh là cô sẽ thắp hương rập đầu vái em rồi.
Dư Phát gãi gãi sau gáy:
- Thế thì em ngượng lắm, em không dám. Để cô vái thì em chịu sao nổi, xin cô miễn cho ạ!
- Các em cần phải học tập Trần Minh nhiều. Không dễ đâu! Quả thật không dễ đâu! – Cô giáo vừa nói vừa gật gật đầu.
Trần Minh là một học sinh giỏi toán nhất lớp, luôn luôn được cô giáo Tôn khen là một học sinh anh tài, thế mà đến giờ chính trị thì lại bị phê bình.
LẠC ĐÀ GIỮA BẦY DÊ
Trần Minh từ trước vẫn không học cẩn thận môn chính trị, bạn coi thường nhất là bài học môn này. Người ta nói “yêu nhà thì yêu cả con quạ đậu trên mái”, vậy nếu ghét ngôi nhà thì cũng ghét lây cả con quạ, Trần Minh cũng thế, bạn không thích luôn cả cô giáo môn này mà bạn gọi là “bà già Mác Lê”.
Thực ra “bà già Mác” dạy chính trị có thể nói là chẳng có điều gì đáng phải xấu hổ. Cách ăn mặc của “bà” đúng tiêu chuẩn của một giáo viên dạy chính trị. Mái tóc rẽ ngôi theo tỉ lệ 3/7, phần lớn hơn được gom lại phía sau tai bằng một chiếc cặp tóc to đúng hệt kiểu tóc của cán bộ hội liên hiệp phụ nữ những năm 70, váy thì chưa bao giờ mặc, dù trời nắng nóng đến mấy vẫn mặc chiếc quần tây ống đứng đến nỗi khiến người ta ngờ rằng lông chân “bà” quá dài hay có sẹo gì đó. Lối ăn mặc thì ở Thâm Quyến này ngoài một vài trường hợp có thể gặp bất chợt trong nhà trường, trên phố chẳng mấy khi trông thấy.
Mọi người đều coi trọng giờ giảng của “bà già Mác” nhưng số người trong lớp chú ý nghe giảng lại không nhiều. Thành tích điểm học chính trị cao phần lớn đều nhờ vào việc trước giờ kiểm tra vội vàng học ứng phó mà có.
- Hôm nay chúng ta học đến bài thứ chín, cô giáo viết to đề bài lên bảng đen, sau đó giở đến trang 78 rồi bắt đầu lý luận đi lý luận lại.
Trần Minh thản nhiên mở sách tham khảo đại số không biết có được từ đâu bắt đầu giở bài tập.
Dư Phát chỉnh lý ngay tình hình cổ phiếu nghe trên máy BP vào một quyển vở Dư Phát so sánh, tính toán chuẩn bị sau khi tan học đi mua cổ phiếu. Bây giờ không giống như thời kỳ đầu, người ta hoàn toàn không cần đến sở giao dịch chứng khoán mà có thể tự ủy thác mua bán qua điện thoại, chỉ cần một cú điện thoại là xong, rất tiện lợi. Nhìn thoáng vẻ cậu ta chăm chú, tưởng đâu như đang ghi chép vậy.
Vì mong buôn bán cổ phiếu, lúc nào Dư Phát cũng mang theo máy điện thoại, đôi khi quên khóa, bất chợt giữa giờ học máy bỗng nhiên kêu vang, mọi người đều không bằng lòng. Lưu Hạ cười nói:
- Cậu tưởng đeo máy BP là oai à? Mọi người đều bảo có máy BP nếu không là lái xe thì cũng là gái gọi, cậu là thứ gì nào?
Dưới sổ ghi chép của Liễu Thanh lại có mấy tờ giấy viết thư, bạn cầm cây bút máy vàng Liễu My mua cho viết: “Chị hai thân yêu, chào chị!” một lúc sau lại đổi cây bút bi ghi một vài điều gì đó ở trên bảng đen. Mỗi lần viết vài dòng thư lại dịch vở lùi xuống che trang giấy viết thư đi che tai mắt mọi người, thỉnh thoảng lại ngước nhìn cô giáo để quyết định bước tiếp theo là viết thư hay ghi chép. Như vậy hết giờ học, vừa ghi chép đầy đủ bài vở vừa xong thư, có thể gửi đi được.
Cô giáo dạy chính trị cũng biết những tình hình bên dưới có chiều không ổn, cô nói:
- Đừng coi giờ chính trị là không cần thiết. Các em nghĩ xem học sinh nội địa học như thế nào? Trong các em có không ít người từ nội địa tới, chắc hẳn còn nhớ không khí học tập ở nội địa chứ? Các em ấy à, so với họ thì trình độ còn thua xa! Hơi một tí cô giáo chính trị lại nói như thế, lại kể chuyện học trò cô ở nội địa giỏi giang ra sao, đa số học sinh đều nghe lời cô và thu hoạch được rất nhiều. Nhưng Trần Minh phản cảm với điều đó. Bạn không chấp nhận được: Ở nội địa hay ho như thế sao cô không ở đấy mà lại chạy đến Thâm Quyến? Vì tiền, vì được đãi ngộ cao chăng? Toàn nói xạo! Lời lẽ của cô khiến cho người ta thấy rằng cô coi thường học sinh Thâm Quyến, nhất là học sinh người địa phương. Những điều đó càng khiến Trần Minh nảy sinh tình cảm đối lập với cô.
Lát sau cả lớp náo loạn lên. Cô giáo gọi:
- Dư Phát, em nói cho lớp nghe: tệ nạn thứ nhất trong bảy tệ nạn là gì?
Đây là một “tuyệt chiêu” của cô giáo và cũng là cú “sát thủ giản” (Giản: một loại roi có góc cạnh thời cổ) của nhiều thầy cô khác để đối phó với tình trạng mất trật tự của học sinh.
Đang lúc Dư Phát để hết tâm trí vào tình hình thị trường cổ phiếu thì nghe cô giáo gọi tên mình, cậu ta vội cất máy BP vào ngăn bào ra bộ điềm tĩnh đứng dậy, nhưng hai mắt không ngừng liếc phải ngó trái cầu cứu. Các bạn biết cô giáo đằng đằng sát khí nên không ai dám động tĩnh gì cả.
- Vấn đề này ở…
Dư Phát làm ra vẻ thông hiểu, cậu ta cố sức nhấn từng chữ, trong khi đó liên tiếp đá vào chân ghế của Tiêu Dao:
- Ở trong sách là… Dư Phát cố ý phá quấy khiến cả lớp cười ầm lên. Đúng lúc đó cứu tinh đã tìm ra lời đáp ở đoạn 3 trang 80. Dư Phát tìm được trang sách bạn chỉ, lập tức đọc dõng dạc:
- Mại dâm, chơi gái!
- Em ngồi xuống!
Cô giáo biết câu trả lời không phải chính Dư Phát nghĩ ra nhưng không bắt bẻ được điều gì nên chỉ trợn mắt nhìn cậu ta, ngụ ý bảo phải chú ý. Đối với Trần Minh, cô giáo biết rõ cậu ta đang làm gì, chỉ không muốn nói mà thôi. Loại học sinh này, đành chỉ nhắm một mắt, mở một mắt bởi dù thế nào Trần Minh cũng đổ đầu.
- Mại dâm, chơi gái là chỉ… - cô giáo đang định giải thích thì nghe có tiếng cười lớn, liền hỏi tránh đi:
- Các em hiểu cả chứ?
Thực ra đó là câu hỏi không cần trả lời, không ngờ có người lại lên tiếng rất rõ ràng:
- Hiểu ạ!
Người đó là Dư Phát, cậu ta vừa bị cô giáo hỏi, muốn tỏ ra là mình đang chăm chú nghe nên đáp rất to.
Cô giáo đi lại phía bạn nửa đùa nửa giễu:
- Ôi chà! Đến cô còn chưa hiểu, thế mà em đã hiểu à?
Bấy giờ cả lớp giống như cái chảo đang sôi được mở vung, những ai trước còn cười dè dặt thì lúc này tất cả cười phá lên, có học sinh thừa cơ gào lên, Dư Phát vốn chẳng biết đỏ mặt là gì cũng bị các bạn cười cho đỏ rừ cả mặt.
Giảng bài xong, cô giáo ra bài tập, bảo học sinh làm. Mọi người cất hết sách giấy viết thư, bắt đầu làm bài, riêng Trần Minh vẫn tiếp tục giảng đại số.
Cô giáo đến gần gõ gõ vào bàn nhắc nhở nhưng không nói gì, nói chung đối với loại học sinh giỏi thầy cô giáo thường nể mặt.
Trần Minh vẫn không nhúc nhích.
- Tại sao em không làm bài tập?
Bị cô giáo hỏi, đứt mạch suy nghĩ, Trần Minh bực mình đáp cộc lốc:
- Em không làm được.
Cô giáo ngạc nhiên, bình thường Trần Minh nói năng rất thận trọng, không hiểu sao hôm nay lại thế, cô ôn tồn hỏi:
- Vậy thì trên lớp em cần phải nghe giảng chăm chú.
- Em không hiểu.
Trước một học sinh vô lễ và ngạo mạn như thế, cô giáo rất tức giận, cô cười nhạt bảo:
- Em ngạo mạn quá đấy! Những học sinh như em tôi đã gặp không ít đâu, chẳng qua em chỉ là con lạc đà giữa đàn dê mà thôi, có gì ghê gớm đâu, so với học sinh nội địa em chỉ là con ếch ngồi đáy giếng, em có biết những học sinh giỏi ở Bắc Kinh nói về kỳ thi đại học năm nay thế nào không? “Đề thi dễ quá, thực là không có cơ hội cho chúng ta trổ tài”. Các em có ai dám nói như thế không? Ở nội địa, tôi đã dạy biết bao học sinh giỏi và tài ba hơn các em nhiều, nhưng không có ai ngông cuồng tệ hại đến như em…
MỘT THẾ HỆ LÀ MỘT TẦNG TRỜI
Trước hai lời nhận xét khác nhau về một em học sinh thầy Giang chẳng biết phải trả lời thế nào. Trước tiên cô dạy đại số hết lời khen ngợi Trần Minh: “Ngày nay một học trò thực sự ham học như thế hiếm lắm!” Sau đó cô giáo chính trị lại tức giận nói: “Thật là chẳng ra làm sao! Mới hơn người được một chút mà học cái thói xem người bằng nửa con mắt, như thế sau này ra đời sẽ ra sao”.
Thầy Giang quyết định phải tìm Trần Minh nói chuyện. Bây giờ tan học rồi, Trần Minh nhất định đang còn ở trong lớp. Thầy Giang đi đến cửa lớp học, quả nhiên thấy Trần Minh đang ở trong đó. Ông do dự một chút, quay đầu định bỏ đi.
- Thưa thầy Giang ạ! Trần Minh gọi thầy Giang ngoảnh đầu lại.
- À Trần Minh, em chưa về nhà ư?
- Thầy tìm em ạ?
Thầy Giang hơi lấy làm lạ, hỏi:
- Nói như vậy là em đang chờ tôi?
- Em đoán vậy. Cô giáo chính trị đến tìm thầy phải không ạ?
- Thế em cũng đoán cô giáo dạy chính trị có đến tìm tôi chứ?
Trần Minh ranh mãnh cười:
- Thế tại sao thầy lại bỏ đi ạ?
- Sợ nói chuyện cũng chẳng đi đến đâu - thầy Giang cố ý dùng mấy từ “nói cũng chẳng đi đến đâu” của tiếng Quảng Đông để biểu thị ý chuyện trò không kết quả gì.
- Thầy không hiểu em! - Trần Minh kết luận dứt khoát.
Thầy Giang cảm thấy chút ấm áp trong lòng, không ngờ mấy từ “không hiểu em” lại do Trần Minh nói ra. Thầy luôn cảm thấy ở học sinh “xuất chúng” này có một khiếm khuyết nào đó. Thầy thường nghe các thầy cô và học trò bàn tán Trần Minh là người quá chín chắn, nhưng thầy Giang cho rằng chính những điều đó lại chứng tỏ Trần Minh không chín chắn. Tuy nhiên thầy cũng thừa nhận rằng đó chỉ là cảm giác, thầy chưa hiểu được Trần Minh.
Có lẽ do cách ứng xử của em, nhưng em không giả dối, em không muốn lợi dụng ai nhưng cũng không muốn bị lợi dụng.
Trong con mắt của Trần Minh giữa người và người chỉ có một quan hệ lợi dụng và bị lợi dụng. Học trò lợi dụng thầy để học tri thức, thầy lợi dụng trò để được trả lương.
- Lẽ nào ngoài điều đó ra không còn tình cảm tốt đẹp nào nữa chăng? - thầy Giang hỏi.
- Cũng có thể có. Nhưng em chưa cảm thấy. Trần Minh lại nhớ tới những câu cô giáo chính trị thường hay nói trong lòng em dấy lên mối ác cảm. Mối ác cảm này được chất chứa trong người, ngày thường những lời ngợi khen của các thầy, kể cả của cô giáo dạy chính trị, và các bạn khiến nó nén xuống; một khi không được khen nữa, mối ác cảm chất chứa bấy lâu liền bùng ra. Bạn không thích thậm chí còn ghét cả những lời tán dương, khen ngợi quá với sự thực, nhưng bạn lại không cam lòng nhận lời chê trách của người khác. Trong tâm tư Trần Minh đầy những mâu thuẫn, điều đó dẫn đến thời điểm tỏ thái độ “bất phục tòng”. Nỗi bất mãn và phản kháng có nhu cầu phát lộ ra, dù chỉ là một khoảnh khắc rất ngắn, cũng giúp cho tâm lý bạn trở lại căng thẳng.
Hình như có ai đó đã từng nói: “Cái nhìn của người khác làm ta suy sụp. Bao nhiêu lý tưởng, tình cảm tốt đẹp bị cái nhìn của người khác giết chết, nhưng cũng biết bao hư vinh, bao cái tốt giả nhờ ánh mắt của người khác mà dần dần thăng hoa”. Nói như thế không phải là không có lý.
- Trần Minh, vì sao em nhìn nhận vấn đề thấu đáo đến thế? - thầy Giang cười nói.
- Tại vì con mắt em nó khác lạ! - Trần Minh ngạo mạn nói tiếp - Người ta nhìn thấy mặt trời màu hồng rực rỡ còn em thì thấy cái nhân đen trong mặt trời.
Trần Minh nhún vai thay cho ý câu chưa nói hết, thật có chút ý vị “mọi người đều say riêng mình ta tỉnh” sau đó cũng như mọi khi bạn ngẩng đầu ra về.
Từ nãy đến giờ thầy Giang rất lưu ý đến những điều vừa nghe. Thế giới nội tâm của học sinh thật phong phú và cũng phức tạp, muốn hiểu họ phải thâm nhập vào thế giới nội tâm của họ mới được.
Thầy Giang hy vọng Trần Minh còn nói nữa, còn cởi mở hơn, sẽ tự nói ra những điều mình buồn vui yêu ghét, nhưng không đợi thầy tiếp cận cậu học sinh “mũi nhọn” này đã đóng chặt cánh cửa tâm hồn vừa mới hé ra. Thế hệ học sinh thời đại này không giống với thế hệ các thầy trước. Thời đại mới đào tạo nên một học sinh mới cho thời đại mình. “Một thế hệ là một tầng trời”. Trong khoảnh khắc lúc này thầy Giang trong lòng ngổn ngang bao thứ không biết là mùi vị gì song thầy biết rõ rằng nếu hiểu hết học sinh thì đó là sai lầm lớn. Bởi vì học sinh trung học tính cách còn chưa hoàn toàn ổn định, có thể buổi sáng em nói là ban ngày nhưng đến buổi chiều em lại cố chấp nói là đêm đen!
“SỐNG LÀ THẾ NÀO?”
Từ trường trung học Số Chín đến thôn Cổ Thúy phải đi qua một chiếc cầu vượt và một cái chợ bán nông sản rất to.
Tháng mười hai ở Thâm Quyến rất ấm, ở Thâm Quyến không có mùa đông. Người Thâm Quyến gọi mùa đông là “mùa thu vàng”. Trần Minh mặc chiếc áo giắc két da. Chiếc áo này là của bà cô ở Hồng Kông gửi cho. Nhìn quần áo thì bạn có vẻ rất hợp trào lưu nhưng tư tưởng thì…
Hôm nay Trần Minh đối đầu với cô giáo chính trị không một chút khách khí, tất cả các bạn cùng học đều nói: Trần Minh thường khi thận trọng tinh tế “minh triết bản thân” (Sáng suốt giữ mình) sao bỗng nhiên hôm nay lại “nhọn hoắt” như thế? Giống như môn bóng đá của người Anh, khi đá cầu thủ rất dũng mãnh nhưng lúc thường thì rất lịch sự phong nhã, lễ độ, thực ra Trần Minh cũng tự hỏi trong giờ chính trị ấy có đúng là mình không?
Chiều muộn nhưng chợ rau quả vẫn đông nghịt người. Khoảng sau năm, sáu giờ chiều, thịt cá rau quả đều phải bán rất rẻ, dân bản địa vốn kén ăn không bao giờ thèm hỏi tới. Những người đi mua lúc này phần đông là dân mới “di cư”.
Trong chợ người chen vai thích cánh, Trần Minh đành xuống dắt xe đi bộ. Nhưng đi trong đám người náo nhiệt ấy chẳng dễ chút nào. Trần Minh không ngừng bấm chuông, tưởng như xông pha giữa đám đông để tìm ra “con đường sống”.
Đột nhiên tiếng chuông xe của Trần Minh lặng tắt, em vừa thoáng thấy cô giáo dạy chính trị ngồi xổm bên bà bán rau mặc cả:
- Rau tươi này hôm qua có một đồng hai, sao hôm nay lại hét tướng lên đến đồng sáu?
- Mỗi ngày một khác chứ, sáng nay còn hai đồng rưỡi kia!
- Đồng ba bán không?
- Không bán được, rẻ cũng phải đồng rưỡi.
Nói qua nói lại một hồi, người bán bằng lòng với giá một đồng tư.
- Rõ ràng là có hai cân hai sao nói hai cân rưỡi? – Cô giáo chính trị lấy chiếc cân treo trong giỏ cân lại, nói.
Cô giáo và người bán hàng cãi cọ, mấy người đang mua hàng bên cạnh mắng mấy người bán hàng cân thiếu:
- Cân nhà chị điêu toa ma mãnh, chúng tôi gọi nhân viên công thương đến bây giờ.
Người bán hàng biết mình đuối lý, “cuốn cờ dẹp trống” lặng lẽ bù hàng vào cho đủ.
Trong con mắt Trần Minh cô giáo chính trị nên là người không dính vào chuyện quá trần tục. Vì mấy đồng tiền bọ mà cãi cọ với người bán hàng đến đỏ mặt tía tai thì dù chỉ có những tiểu thị dân mới nhiệt tình đến thế. Vẻ trang nhã ôn hòa thường ngày của cô giáo trong lúc này chẳng còn mảy may.
Cô giáo cầm mớ rau đứng dậy, Trần Minh vội lách sang chỗ khác. Bạn sợ bắt gặp cô giáo lúc này thì khó xử cho cả hai bên.
Khi phát hiện ra khía cạnh thế tục trong tính cách của cô giáo dạy chính trị, Trần Minh tự nhiên lại thấy gần gũi cô hơn. Bạn thấy vui vui, thì ra vốn dĩ người với người là giống nhau cả. Thầy giáo không chỉ có đứng trên bục giáo huấn học sinh mà họ cũng còn phải sống, cũng phải bôn ba vì “muối dầu gạo củi”.
Nghĩ lại việc đối đầu với cô giáo trong giờ chính trị mà Trần Minh cảm thấy áy náy. Tình cảm ấy tuyệt đối không phải vì những bài thuyết giáo dài dòng của cô giáo chính trị hay các thầy khác làm nảy sinh ra được.
Cô giáo chính trị lại ngồi xổm trước bà bán hàng, chọn mua những cây rau cải xanh giá rẻ vì không còn tươi. Lúc này mối thông cảm trong lòng Trần Minh đã thay thế cho niềm oán hận trước kia.
Trần Minh bỗng nhiên cảm thấy mùa đông ở Thâm Quyến cũng rất lạnh, bất giác bạn dựng đứng cổ áo giắc két lên, dắt xe đi tránh sang lối khác.
Phía trước là một nơi trưng bày ảnh, người đứng vây quanh khá đông. Trần Minh đi qua thấy thế dừng lại. Có một tấm ảnh nghệ thuật hấp dẫn bạn: một bé trai mặc quần thủng đít đứng dưới bầu trời màu lam, một tay cầm cung, một tay ngậm trong mồm, đôi mắt to tròn khổ não nhìn mọi người. Dưới bức ảnh đề “Cuộc sống là gì?” Đúng vậy, cuộc sống rốt cuộc thế nào? - Trần Minh tự hỏi.
Hôm trước mừng thọ ba ngũ tuần, nhà mời rất nhiều người, đặt tiệc ở phòng lớn, lại nắm tay đánh đố và mời rượu rất náo nhiệt. Trần Minh một mình nằm dài trên giường, mắt nhắm, đầu óc rối bời.Người ta sống để làm gì nhỉ? Mục đích của đời người rốt cuộc là gì? Phút chót của cuộc đời là thế nào? Sống là thế nào? Trần Minh suy nghĩ mông lung về những câu hỏi đó, rất lâu, rất lâu mà cũng chẳng hiểu ra làm sao, chỉ thấy đầu óc trống rỗng. Thế giới của tuổi mười sáu là mùa xuân ấm áp hoa nở, chim hót hoa thơm, nhưng bạn thì không. Trần Minh không có bạn, không biết tự bạn xa lánh cả lớp hay cả lớp xa lánh bạn. Bạn học không thân với bạn, họ chỉ nói chuyện với bạn khi hỏi về bài vở. Bạn không đến nhà một bạn học nào, cũng không mời ai đến nhà mình chơi. Ngoài những hoạt động do lớp tổ chức, bạn chưa từng tham gia một hoạt động dân dã nào cùng bè bạn. Chị gái lấy làm lạ hỏi:
- Minh này, em không có bạn à? Khi chị còn đi học, chị có rất nhiều bạn chí cốt.
Chưa bao giờ ôm điện thoại nói chuyện lâu, các bạn gọi điện thoại thì 99% là hỏi bài vở. Hỏi xong, không phải bạn mà chính là đối phương chủ động “bai bai” rồi gác máy. Lâu dần, Trần Minh và các bạn chẳng biết nói chuyện gì khi ở bên nhau.
Trần Minh ngẫm nghĩ cảm thấy mình chẳng có ý chí tiến thủ gì cả, cứ chìm chìm như vậy. Bạn muốn làm nên sự nghiệp. Bạn muốn được như Lôi Chấn Tử “Một khắc mây bay và gió nổi, sấm vang chớp giật khắp hoàn cầu”. Bạn lại rất tự phụ lại cũng rất tự ti. Cũng có thể tự ti là chính. Alder (Viktor Adler, Nhà xã hội dân chủ nước Áo 1852- 1918) từng cho rằng cá tính con người hình thành đều có nguồn gốc từ sự tự ti. Trần Minh đồng ý, bạn cho rằng toàn bộ văn hóa nhân loại đều lấy mặc cảm tự ti làm cơ sở.
Trần Minh cứ đứng ngây ra, cũng rầu rĩ nhìn tấm ảnh em bé trai: “Cuộc sống là gì?” Lẽ nào như thế này là sống? Thầy Giang, cô giáo chính trị có cuộc sống ra sao? Các bạn có cuộc sống ra sao?