A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ TƯ: Tự ma lệ kiếm mang sơ hiển lộ
(Từ khi được mài dũa, ánh kiếm bắt đầu hiển lộ)
...:::...
Chương 101: Sát khí
Người nọ khẽ giật mình, A Mạch đã đưa tay ra trước mặt anh ta nói: “Lấy ra đây.”
Thường Ngọc Thanh yên lặng nhìn A Mạch rồi xoay người bước đi. Trong lòng A Mạch thấy lạ, liền bước nhanh hai bước chặn Thường Ngọc Thanh lại, nói: “Ta đã giữ lời thả ngươi rồi, ngươi phải đem chủy thủ trả lại cho ta.”
Thường Ngọc Thanh lạnh lùng nhìn A Mạch, chỉ thấy nàng một thân quân phục Nam Hạ cao gầy, mày cao mắt sáng, anh khí hiển hiện, hai má so với lần gặp trước đầy lên không ít, hiển nhiên hai tháng vừa rồi đã đầy đặn lên nhiều. Không biết vì sao trong lòng anh ta đột nhiên lại dâng lên một cảm giác buồn bã, nhưng trên mặt lại nở nụ cười, hỏi: “Chủy thủ nào? Ngươi giữ lời hứa gì với ta?”
Lời này vừa nói ra, A Mạch không khỏi giật mình, lập tức nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Ngươi có ý gì?”
Thường Ngọc Thanh thoải mái cười, hỏi lại: “Mạch tướng quân, ngươi cũng có ý gì?”
A Mạch chưa từng nghĩ rằng Thường Ngọc Thanh sẽ vô lại như thế, nhất thời cũng không biết phải phản ứng như thế nào, chỉ gay gắt nhìn Thường Ngọc Thanh chằm chằm, môi mím chặt, im lặng không nói.
Thường Ngọc Thanh cũng nhìn nàng một lúc lâu, khẽ mỉm cười rồi bước qua A Mạch. A Mạch đâu thể để anh ta cứ thế mà rời đi như vậy, song lại sợ giữa phố xá sầm uất, nếu để người khác nhận ra thân phận của hai người tất rước lấy phiền toái lớn, vì vậy khi thấy Thường Ngọc Thanh bỏ đi cũng không dám tiếp tục ngăn cản, chỉ len lén đi theo phía sau, đến khi Thường Ngọc Thanh đi vào một ngõ nhỏ vắng lặng, lúc này A Mạch mới dám lên tiếng gọi anh ta, nhưng cũng không dám kêu tên mà chỉ gọi: “Ngươi đứng lại!”
Thường Ngọc Thanh tất nhiên biết A Mạch luôn luôn đi theo sau mình, nghe nàng quát lớn như vậy cũng không chịu dừng lại, mà lại càng bước nhanh hơn. A Mạch thấy anh ta như thế, cũng chạy theo, vội vàng nắm lấy bả vai của Thường Ngọc Thanh.
Thường Ngọc Thanh dừng lại, nghiêng đầu liếc mắt nhìn bàn tay nàng đang đặt trên vai mình, nhếch miệng mỉm cười, quay đầu hỏi A Mạch: “Ngươi muốn động thủ với ta?”
Tất nhiên A Mạch biết nàng không phải là đối thủ của Thường Ngọc Thanh, nhưng giờ phút này lại không nghĩ nhiều như vậy, chỉ tức giận nói: “Đó là di vật của cha ta, ngươi phải trả lại cho ta!”
Thường Ngọc Thanh quay người lại, cười hỏi: “À, là vật mà ngươi từng sử dụng khi ở Thúy Sơn phải không?”
A Mạch không biết Thường Ngọc Thanh vì sao lại diễn trò như thế, liền buông tay ra, nhíu mày nhìn anh ta.
Thường Ngọc Thanh nheo mắt, cười nói với A Mạch: “Ta nhớ khi ấy ngươi từng nói rằng thanh chủy thủ đó đối với ngươi rất quan trọng, trừ phi ngươi chết đi thì mới để cho người khác lấy nó từ trên người của ngươi. Hiện tại ta thấy Mạch tướng quân đang rất khỏe mạnh, thanh chủy thủ kia sao lại để cho người khác cầm đi vậy? Không biết lời Mạch tướng quân nói câu nào mới là thật, câu nào là giả đây?”
Trong lòng A Mạch kỳ thật đã tức giận đến cực điểm, nhưng vẫn cố gắng kiềm chế lửa giận hỏi Thường Ngọc Thanh: “Ngươi rốt cuộc muốn thế nào?”
Thường Ngọc Thanh nhìn A Mạch, chỉ cười lắc lắc đầu, đáp: “Không muốn thế nào cả, chỉ muốn nói Mạch tướng quân tìm ta đòi chủy thủ chính là tìm sai người rồi, ta chẳng có chủy thủ hay di vật gì của lệnh tôn hết.”
Trong mắt A Mạch dường như đã có thể phun ra lửa, ngữ khí lại càng thêm lạnh lẽo, chỉ nói: “Ta không muốn nói những lời vô nghĩa với ngươi, ngươi trả chủy thủ cho ta, ta thả ngươi rời đi.”
Thường Ngọc Thanh cũng lạnh lùng cười nhạo một tiếng hỏi: “Mạch Tuệ, ngươi dựa vào cái gì mà nói như vậy? Ngươi cho là chỉ bằng bản lĩnh của ngươi, là có thể giữ được ta lại hay sao? Hay là…” Thường Ngọc Thanh ngừng lại, cố ý ái muội ghé sát vào tai A Mạch thấp giọng chế giễu: “Ngươi cho là chỉ cần ta nói có ý với ngươi, thì sẽ lao thẳng đến ôm ngươi vào lòng, không dám làm tổn thương ngươi?”
Lời còn chưa dứt, A Mạch đã nghiến răng rút đao chém Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh nghiêng người tránh khỏi, còn chưa kịp rút loan đao bên hông ra thì lưỡi đao của A Mạch đã lại lao tới, Thường Ngọc Thanh hừ lạnh một tiếng, không buồn rút đao, chỉ nghiêng phải nghiêng trái tránh né đao của A Mạch.
Bộ đao pháp này của A Mạch là do Trương Sinh truyền thụ, thân thể và đao hòa quyện làm một, đao chuyển động theo người, biến hóa đa dạng, chính là một bộ đao pháp tấn công liên hoàn. A Mạch lại luyện đến mức thành thục, thanh đao trong tay càng đánh càng nhanh hơn, chiêu trước chiêu sau đều nhằm vào những chỗ yếu hại trên người Thường Ngọc Thanh.
Thường Ngọc Thanh không ngờ đao pháp của A Mạch lại thuần thục đến thế, anh ta vốn đã mất tiên cơ, sau lại ỷ mạnh không chịu rút đao, chỉ lùi về phía sau tránh né nên không khỏi rơi vào tình thế thập phần nguy hiểm. Lúc này anh ta không thể không rút loan đao ra, nhưng A Mạch đâu để cho anh ta có cơ hội, một đao đã bức anh ta đến sát tường, ngay sau đó đã kề đao sát vào cổ anh ta.
A Mạch lạnh giọng quát: “Đưa chủy thủ cho ta!”
Thường Ngọc Thanh cúi đầu yên lặng nhìn thanh trường đao một lúc lâu, chợt nở nụ cười, ngẩng đầu nói với A Mạch: “Chủy thủ không ở trên người ta.”
A Mạch ép hỏi: “Ở đâu?”
Thường Ngọc Thanh cười nói: “Hình dáng thanh chủy thủ kia của ngươi rất khác lạ, Thôi Diễn thấy thích, nói là muốn đem đi phỏng chế một chiếc khác, ta liền cho hắn ta mượn rồi.”
A Mạch ngẩn ra, lại hỏi: “Thôi Diễn hiện giờ ở đâu?”
Thường Ngọc Thanh sảng khoái đáp: “Vẫn đang ở chỗ thợ rèn, anh ta hẹn ta đến đó lấy chủy thủ, chưa thấy ta đến chắc chắn sẽ chưa rời đi.”
A Mạch nhìn Thường Ngọc Thanh chằm chằm, trầm mặc không nói, trong lòng thầm nghĩ không biết lời anh ta nói là thật hay giả.
Thường Ngọc Thanh nhìn vào mắt A Mạch, thấy ánh mắt nàng hắc bạch phân minh, thuần khiết linh động, trong lòng đột nhiên mềm nhũn, nhịn không được nói: “Ngươi có tin ta không? Nếu như ngươi tin ta, ngươi liền về trước đi, ta sẽ cho người đem chủy thủ đến trả cho ngươi.”
A Mạch cười lạnh một tiếng, nói vặn lại: “Không ngờ những lời lừa gạt trẻ con như thế mà Thường tướng quân cũng nói ra được.”
Thường Ngọc Thanh khẽ cười, nhắm mắt dựa vào bức tường sau lưng, thản nhiên nói: “Ngươi đã không chịu tin, vậy thì ngươi nói phải làm sao bây giờ.”
Trong lòng A Mạch nhất thời cũng thấy khó xử, nếu đợi Thường Ngọc Thanh tự mình đem chủy thủ đến trả thì nàng tất nhiên không thể yên tâm, mà nếu cứ như vậy đi theo Thường Ngọc Thanh tìm Thôi Diễn, để người khác nhìn thấy lại gây nên chuyện đa đoan. A Mạch trầm ngâm một lát, nói: “Giờ ngươi kêu Thôi Diễn đem chủy thủ đến đây trả cho ta.”
Thường Ngọc Thanh mở mắt ra, sảng khoái đáp: “Được!”
A Mạch nghe anh ta trả lời sảng khoái như thế, trong lòng ngược lại có chút sinh nghi, ngưng thần nhìn Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh thận trọng đưa mắt liếc nhìn thanh đao vẫn đặt trên cổ mình, lại giương mắt nhìn A Mạch, nói: “Ngươi thu đao lại thì ta mới thuận tiện đi đến đó được.”
A Mạch không nói, ngược lại, bàn tay lại nắm càng chặt đao hơn.
Thường Ngọc Thanh cười nhạo nói: “Mạch Tuệ, nếu ta muốn đi, ngươi chỉ trông vào một thanh đao sẽ không ngăn được ta đâu.”
A Mạch biết anh ta nói thật, anh ta thành danh đã lâu, chút công phu ấy của nàng trong mắt anh ta chẳng qua cũng chỉ nhìn cho đẹp mắt, vừa rồi nếu không phải anh ta sơ ý, có lẽ cũng không khống chế được anh ta. Nghĩ vậy, A Mạch liền thu đao lại, hỏi Thường Ngọc Thanh: “Ta gọi người truyền tin cho Thôi Diễn, anh ta hiện giờ đang chờ ngươi ở xưởng rèn nào?”
Thường Ngọc Thanh đáp: “Là xưởng rèn tốt nhất ở đây, hình như gọi là Nghiêm Ký thì phải.”
A Mạch vẫn nhìn vào mắt anh ta, thấy anh ta không có vẻ như nói dối, liền nói “Thật có lỗi”, rồi thanh trường đao trong tay lật lên, cắt một góc áo bào của anh ta, sau đó để Thường Ngọc Thanh một mình đứng trong ngõ nhỏ, rồi tự mình ra ngoài tìm một đứa bé đang chơi bên đường, cho nó vài món đồ chơi[1], rồi kêu đứa nhỏ mang theo góc áo đến xưởng rèn tìm một nam tử trên cổ có thắt một chiếc khăn đen, nói với anh ta chủ nhân của góc áo này đang chờ anh ta ở đây. Đứa trẻ kia thấy chỉ cần cầm góc áo chạy đi một lát liền có đồ chơi, liền vui vẻ nhận lời chạy đi.
[1]. Nguyên văn là “đẩu tử”, mẹ Cún đã tra từ điển nhưng vẫn không hiểu từ này nghĩa là gì, đoán là một loại bánh kẹo hoặc đồ chơi gì đó mà A Mạch hứa cho đứa trẻ nếu nó mang giúp mảnh áo bào của Thường Ngọc Thanh đi tìm và đưa cho Thôi Diễn.
A Mạch xoay người trở lại con hẻm nhỏ, Thường Ngọc Thanh vẫn yên lặng đứng dựa lưng vào góc tường, nghe thấy tiếng bước chân của nàng liền quay đầu nhìn lại, hỏi: “A Mạch, ngươi phải bán mạng cho Nam Hạ như thế?”
A Mạch đứng bên cạnh anh ta, khẽ mím môi, trầm mặc một lát rồi mới đáp: “Vì ta bắt buộc phải làm thế!”
Thường Ngọc Thanh chỉ cười, cũng không hỏi A Mạch vì sao lại bắt buộc phải làm thế, chỉ dựa lại vào tường không nói.
Xưởng rèn kia ở cách đây không xa, một lúc sau liền nghe thấy có tiếng bước chân dồn dập chạy đến, A Mạch lập tức cảnh tỉnh, cũng không nói gì, chỉ nhẹ nhàng đưa đao đặt lại trên vai Thường Ngọc Thanh, giương mắt nhìn về phía người đang chạy tới.
Người mới tới đúng là Thôi Diễn, tuy mặc một thân thường phục, nhưng trên cổ vẫn buộc một chiếc khăn đen, che vết sẹo trên đó lại. Lúc này anh ta nhìn thấy A Mạch thì vô cùng sửng sốt, đảo mắt lại nhìn thấy A Mạch đang kề đao lên cổ Thường Ngọc Thanh, trong mắt liền hiện rõ sự hoảng hốt, nhìn Thường Ngọc Thanh kêu lên: “Đại ca!”
A Mạch ép đao xuống, nhìn Thôi Diễn hỏii: “Chủy thủ đâu?”
Trên mặt Thôi Diễn hiện ra một tia khó hiểu, há miệng đang định hỏi chủy thủ nào thì Thường Ngọc Thanh lại đột nhiên lên tiếng: “Chính là thanh chủy thù mà ngày ấy ở Nhạn Sơn ngươi đã từng nhìn thấy đấy, ngươi còn không đem trả lại cho Mạch tướng quân đi.”
Ngày ấy trên Nhạn Sơn, đúng là Thôi Diễn đã từng thấy Thường Ngọc Thanh cầm thanh chủy thủ trong tay, chẳng qua là anh ta cũng tận mắt thấy Thường Ngọc Thanh ném thanh chủy thủ kia vào trong núi, hiện giờ sao lại hướng về phía mình để đòi? Thôi Diễn mặc dù là kẻ lỗ mãng nhưng cũng không phải là đồ ngốc, giờ nghe Thường Ngọc Thanh nói như vậy liền thuận miệng đáp: “Để ta trả lại cho nàng ta.” Nói xong đưa tay vào ngực lấy ra một vật gì đó nhanh chóng ném về phía A Mạch, trong miệng kêu lên: “Nhận lấy này!”
Vật nọ bay vèo đến trước mặt A Mạch, A Mạch theo bản năng đưa tay tiếp lấy, đúng lúc phân tâm đó thì Thôi Diễn lao nhanh về phía trước, loan đao trong tay đồng thời cũng chém tới. A Mạch rùng mình, vội vàng vung đao lên đỡ, hai lưỡi đao chạm vào nhau phát ra một tiếng “keng” chát chúa, tia lửa theo đó bắn ra, A Mạch phải lui lại phía sau mấy bước mới đứng vững được, chỉ cảm thấy cổ tay chấn động đến nỗi run lên, suýt nữa thì đánh rơi cả trường đao.
Chỉ một chiêu đó, Thôi Diễn đã cứu được Thường Ngọc Thanh từ dưới lưỡi đao của A Mạch thoát ra. A Mạch cũng không phản kích, chỉ liếc nhanh vật mà Thôi Diễn vừa ném cho mình, thấy đó không phải là thanh chủy thủ của mình, lập tức lạnh giọng hỏi Thường Ngọc Thanh: “Chủy thủ của ta đâu?”
Thường Ngọc Thanh cụp mắt xuống không đáp, Thôi Diễn lại khàn khàn nói: “Ngươi làm như vật đó của ngươi đó bảo bối không bằng nên người khác lúc nào cũng phải mang theo bên người chắc, ta nói cho ngươi biết, đại ca đã ném nó lâu rồi!”
A Mạch không để ý tới lời lẽ kích bác của Thôi Diễn, chỉ trừng trừng nhìn thẳng vào Thường Ngọc Thanh, truy vấn tiếp: “Chủy thủ của ta đâu?”
Thường Ngọc Thanh cuối cùng cũng ngước mắt lên nhìn A Mạch, không nhanh không chậm đáp: “Ném rồi.”
Trên khuôn mặt của A Mạch vẫn giữ vẻ bình tĩnh, nhưng chuôi đao trong tay đã bị nắm chặt đến phát run, lạnh giọng hỏi: “Ném chỗ nào?”
Thường Ngọc Thanh khóe môi khẽ nhếch lên, hiện ra một nét cười khinh mạn: “Trên núi Nhạn Sơn.”
A Mạch yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, ánh mắt lạnh lẽo như băng, trên mặt cũng chậm rãi mỉm cười.
Thôi Diễn ở một bên thấy hai người bọn họ bỗng dưng nhìn nhau mỉm cười, không khỏi ngẩn ra, trong lòng càng sợ Thường Ngọc Thanh lại bị A Mạch mê hoặc, vội vàng hướng về phía A Mạch kêu lên: “Ít nói nhảm thôi, để lại mạng cho ta!” Nói xong loan đao trong tay liền vung lên, lao thẳng về phía A Mạch.
Thôi Diễn trời sinh thần lực, nên A Mạch không dám cùng anh ta trực tiếp đối kháng, trường đao trong tay hoặc đâm hoặc gạt, chứ không dám đón đỡ trực diện, chỉ trông vào sự linh hoạt của bản thân để tránh, chân cũng không lộ dấu vết lẳng lặng lùi về phía sau. Con hẻm nhỏ vắng vẻ này chính là phía sau của một cửa tiệm, ít người qua lại, nhưng hai đường vào ngõ đều hướng ra đầu phố, chỉ cần lui ra đến chỗ đông người qua lại trên đường thì Thôi Diễn không thể tiếp tục giao chiến với nàng được nữa.
Thôi Diễn thấy A Mạch chỉ thủ chứ không công, cũng đoán được vài phần tính toán trong lòng nàng, làm sao có thể thả cho nàng đi như vậy, vậy nên lại càng ra chiêu nhanh hơn, đao trước đao sau nối tiếp nhau bổ tới, tất cả đều hướng vào những chỗ yếu hại trên ngườu A Mạch, lộ rõ ý định nhất quyết muốn lấy bằng được tính mạng của nàng.
A Mạch vài lần rơi vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, trong lòng thầm nói xong rồi, mình đúng là nhất thời ngu xuẩn nên mới phải chết như thế này, khóe mắt lại thoáng thấy Thường Ngọc Thanh chỉ một mực yên lặng đứng dựa lưng vào tường, trong lòng đột nhiên vừa động, một bên tiếp tục duy trì sự chống đỡ với Thôi Diễn, một bên hướng về phía Thường Ngọc Thanh hô lớn: “Thường Ngọc Thanh, nếu ngươi muốn giết ta thì tự mình ra tay đi, sao phải mượn tay người khác!”
Thường Ngọc Thanh vẫn như trước không hề phản ứng, A Mạch ngửa người né một đao của Thôi Diễn, lưỡi đao đưa ngược ra sau lưng, nhân đó xoay ngược người lại, lao thẳng về phía Thường Ngọc Thanh. Nếu như nhất định phải chết, vậy thì liều mạng đánh bạc một phen mà dắt nhau cùng xuống tuyền đài đi!
Thôi Diễn vốn định giải quyết A Mạch chỉ trong vài chiêu, không ngờ đao pháp của A Mạch lại thuần thục đến thế, hơn nữa thân hình nàng lại vô cùng linh hoạt, trong chốc lát đúng là không thể khống chế được nàng, lại thấy A Mạch tránh về phía Thường Ngọc Thanh, trong lòng càng gấp, vội vàng vung đao nhằm thẳng vào yết hầu của A Mạch, nhưng đao mới tới nửa đường, thì A Mạch đã đã đưa tay nắm được cánh tay của Thường Ngọc Thanh, kéo anh ta lên trước thành vật cản. Loan đao của Thôi Diễn vừa xuất ra, vội vàng thu lại, trong lúc cấp bách thiếu chút nữa thì tự làm mình bị thương, đang phồng mồm định mắng A Mạch là đồ vô sỉ, chợt thấy A Mạch biến sắc, nhoáng một cái, cả người lẫn đao không ngờ lại lao về phía anh ta.
Thôi Diễn nhất thời sợ A Mạch dùng kế, theo bản năng lắc mình tránh đi, thân hình A Mạch lao thẳng đến vách tường mới ngừng lại được, khi quay lại, một tay cầm đao che ở trước người, tay khác giữ chặt bên xườn, mím chặt môi yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh.
Không biết thanh loan đao trong tay Thường Ngọc Thanh xuất hiện từ khi nào, trên lưỡi dao dính máu, cùng với máu trên vết thương của A Mạch tí tách nhỏ xuống đỏ tươi.
Máu từ trong vết thương của A Mạch chảy ra, rơi trên mặt đất, rất nhanh đọng thành một vũng nhỏ.
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ TƯ: Tự ma lệ kiếm mang sơ hiển lộ
(Từ khi được mài dũa, ánh kiếm bắt đầu hiển lộ)
...:::...
Chương 102: Nam nhân
Thôi Diễn nhìn A Mạch, lại nhìn Thường Ngọc Thanh, nhất thời ngây người.
Thường Ngọc Thanh cụp mắt xuống, tầm mắt vẫn dừng lại ở vết máu dính trên thanh đao, nói: “Ta tự mình ra tay thì ngươi có thể làm thế nào?”
Tay A Mạch vẫn giữ chặt miệng vết thương, khóe môi cũng chậm rãi nhếch lên, mang theo chút run run, gằn từng tiếng đáp: “Nếu vậy thì hai chúng ta không ai còn thiếu nợ ai.”
Thường Ngọc Thanh khẽ chấn động, đưa mắt nhìn A Mạch, ánh mắt lộ ra thần sắc kinh ngạc.
A Mạch nhìn thẳng vào mắt Thường Ngọc Thanh, nâng trường đao lên ngang người, trầm giọng nói: “Ra tay đi.”
Thường Ngọc Thanh như thể bị chôn chân tại chỗ, không thể nhúc nhích nhìn A Mạch. Thôi Diễn thấy vậy, sợ Thường Ngọc Thanh chịu thiệt, vội vàng nói: “Không cần đại ca ta phải ra tay, ta…”
A Mạch lạnh giọng ngắt lời nói: “Tốt!”
Lời còn chưa dứt, thân hình A Mạch đã lao đến, cả người và đao đã cuốn về phía Thôi Diễn, chiêu nào cũng như muốn bán mạng. Thôi Diễn không ngờ nàngxuất thủ nhanh như vậy, nhất thời trở tay không kịp, chỉ có thể lui về phía sau tránh né. Nhưng A Mạch lại bất chấp sống chết, kể cả khi loan đao của Thôi Diễn chém tới cũng không đón đỡ, chỉ liều mạng tấn công, dù chết cũng muốn đổi lại một cánh tay của anh ta, khiến cho đao của Thôi Diễn vài lần đi được nửa đường lại phải vội vã thu về phòng thủ. Từ lúc đó, chiêu thức của Thôi Diễn liền mất đi ưu thế, vì thế liên tục bị A Mạch đẩy lui về phía sau.
Trong lòng Thôi Diễn vừa tức lại vừa vội, đao thức phút chốc liền thay đổi, không để ý đến lưỡi đao của A Mạch đang lướt tới, liền vung loan đao chém thẳng xuống đỉnh đầu A Mạch… Một ánh chớp lóe lên, loan đao của Thường Ngọc Thanh đột nhiên len vào giữa hai người, thay A Mạch đỡ một đao đang nhằm xuống đầu nàng, ngay sau đó vội vàng dùng sống đao gạt một cái, đẩy A Mạch ra khỏi ngoài phạm vi cương tỏa của trường đao.
Thôi Diễn bị thế đao của Thường Ngọc Thanh đẩy liên tục lui về phía sau vài bước mới đứng vững được, tức giận gấp giọng hét lớn: “Đại ca!”
A Mạch lại dựa vào vách tường cắn răng không nói gì, chỉ nắm chặt trường đao trong tay nhìn Thường Ngọc Thanh.
Đang trong lúc giằng co, chợt nghe đầu ngõ có người kêu lên: “Mạch tướng quân ở trong này, đang giao chiến với người khác!”
Ba người trong ngõ đều sửng sốt, đều quay đầu nhìn lại, thấy Lâm Mẫn Thận đang vung tay chỉ vào trong ngõ lớn tiếng kêu lên: “Trời ơi, hai đánh một, mất mặt quá!”
Đường Thiệu Nghĩa từ bên cạnh Lâm Mẫn Thận vội vàng chạy tới, đứng bên cạnh A Mạch, không hỏi A Mạch bị thương thế nào, chỉ bất động thanh sắc đẩy A Mạch ra sau lưng mình, bình tĩnh nhìn Thường Ngọc Thanh và Thôi Diễn. Lâm Mẫn Thận từ sau đuổi tới, cúi đầu nhìn vết máu, lại ngẩng lên nhìn A Mạch, thất thanh kêu lên: “Mạch tướng quân, ngươi bị thương phải không?”
A Mạch thấy Lâm Mẫn Thận làm ra vẻ khoa trương, trong lòng bực bội, không khỏi nhíu mày, thấp giọng hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Giết được không?”
Đường Thiệu Nghĩa không nói, chỉ dùng khóe mắt nhìn lướt qua Lâm Mẫn Thận đang đứng bên cạnh, A Mạch lập tức hiểu ý của Đường Thiệu Nghĩa, hiện tại nếu không có Lâm Mẫn Thận, bọn họ là hai đối hai, nhưng A Mạch vốn yếu nhất, lại có thương tích trong người, nếu thực sự giao tranh tất nhiên sẽ phải chịu thiệt. Có thể giết được hay không, mấu chốt còn phải xem thái độ của Lâm Mẫn Thận.
Lâm Mẫn Thận chưa phát hiện ra, vẫn đầy căm phẫn chỉ trích Thôi Diễn: “Các ngươi khinh người quá đáng, đang lúc hai nước nghị hòa, thế mà quý quốc lại đi ám sát tướng lãnh của nước ta, thế này thì nhất định phải phân định cho rõ phải trái? Đi! Chúng ta đến dịch quán các ngươi tìm sứ thần nghị hòa nói chuyện!”
A Mạch thu lại ánh mắt trên người Lâm Mẫn Thận, thản nhiên nói: “Để cho bọn họ đi đi!”
Thường Ngọc Thanh ở bên cạnh vẫn lạnh lùng nhìn, nghe thấy vậy chỉ khẽ nhếch một bên khóe miệng đưa mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch rồi quay đầu lại nói với Thôi Diễn: “A Diễn, đi thôi!” Nói xong, liền lập tức quay đầu rời đi. Thôi Diễn không cam tâm, nhưng trong lòng biết hôm nay không thể giết được A Mạch, hung hăng trừng mắt nhìn nàng một cái rồi đuổi theo Thường Ngọc Thanh.
Chờ đến khi bóng dáng của Thường Ngọc Thanh và Thôi Diễn khuất hẳn, A Mạch mới dựa cả người vào vách tường, tinh thần vừa buông lỏng một chút, sự đau đớn dưới sườn lại dội lên, đau đến nỗi khiến A Mạch phải hít hà một hơi thật sâu.
Đường Thiệu Nghĩa vội vàng quay người lại, thấy mặc dù A Mạch đã dùng tay bịt chặt miệng vết thương, nhưng máu vẫn không ngừng chảy ra, sắc mặt lập tức ngưng trọng, hỏi: “Bị thương như thế nào?” Đường Thiệu Nghĩa nói xong định tiến lên kiểm tra thương thế của A Mạch, A Mạch dấu dấu diếm diếm tránh đi, tay vẫn giữ chặt vết thương, đáp: “Chỉ là vết thương trên da thịt, không sao đâu.”
Đường Thiệu Nghĩa không nghi ngờ gì, vội cởi áo bào trên người xuống xé thành những băng vải nhỏ, không để ý đến sự từ chối của A Mạch, liền vội vàng băng chặt miệng vết thương trên người nàng lại, lúc này mới xoay người ngồi xổm trước mặt A Mạch, trầm giọng nói: “Lên đi, ta cõng ngươi tới y quán!”
Tiết trời vốn nóng bức, bên trong áo bào, Đường Thiệu Nghĩa chỉ mặc một chiếc áo lót mỏng nhưng cũng đã thấm ướt mồ hôi, dính sát vào tấm lưng rộng lớn mà rắn chắc, hằn rõ đường nét cơ thể bên trong lớp áo. A Mạch chẳng những không nằm lên, mà ngược lại, lại lùi về phía sau hai bước, Đường Thiệu Nghĩa kinh ngạc quay đầu nhìn A Mạch. A Mạch lắc lắc đầu, nói: “Đại ca không cần cõng ta, ta vẫn tự đi được.”
Trong mắt Đường Thiệu Nghĩa hiện lên một tia khó hiểu, Lâm Mẫn Thận đang đứng bên cạnh đột nhiên lên tiếng: “Mạch tướng quân nếu vẫn có thể chịu đựng được thì cũng nên tự đi, hơn nữa các ngươi cũng không thể cứ như vậy mà đi ra ngoài được, nếu để người khác biết Mạch tướng quân xô sát cùng thát tử, thì nguyên soái nhìn cũng không vừa mắt đâu.”
Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy khẽ nhíu mày, rõ ràng là A Mạch bị Thường Ngọc Thanh cùng Thôi Diễn cố ý gây thương tích, qua miệng anh ta thế nào lại thành A Mạch xô sát với người khác nên bị thương, tên Lâm Mẫn Thận này đúng là cố ý lẫn lộn việc này rồi. Đường Thiệu Nghĩa còn đang nghi hoặc, lại nghe A Mạch nói: “Việc này nếu để cho nguyên soái biết thì đúng là rất phiền toái, chúng ta vẫn nên tránh đi thì hơn.”
Lâm Mẫn Thận cao thấp đánh giá Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch, lại nói tiếp: “Ta đã có cách, các ngươi chờ một lát, ta đi rồi sẽ trở lại.” Nói xong liền vội vàng ra khỏi ngõ nhỏ, để lại hai người đứng trong đó. Đường Thiệu Nghĩa nhìn thương thế của A Mạch, hai hàng lông mày lại càng nhíu chặt hơn nữa. A Mạch sợ anh ta hỏi vì sao mình lại cùng Thường Ngọc Thanh đánh nhau nên lập tức hỏi thật nhanh: “Đại ca sao lại đi cùng Lâm Mẫn Thận?”
Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa có chút bực mình đáp: “Gặp trên đường. Anh ta cứ quấn lấy ta hỏi han linh tinh, nếu không phải tại anh ta, thì ta đã sớm tìm được ngươi rồi, ngươi cũng sẽ không phải chịu một đao này.”
A Mạch thản nhiên cười cười, không nói gì. Đường Thiệu Nghĩa thấy sắc mặt nàng càng lúc càng tái nhợt, máu trên vết thương lại dần dần thấm qua lớp vải băng bó mà lộ ra ngoài, trong lòng càng sốt ruột, cả giận nói: “Cái tên Lâm Mẫn Thận này làm gì thế không biết, sao vẫn còn chưa chịu quay về?”
A Mạch cố gắng chịu đựng sự đau đớn từ dưới sườn dội lên, đáp: “Sợ là chạy đi mua quần áo cho ta và huynh.”
Quả nhiên, một lát sau, Lâm Mẫn Thận mang theo hai chiếc trường bào trở về, một chiếc đưa cho Đường Thiệu Nghĩa, một chiếc đưa cho A Mạch: “Mặc thêm cái này vào, nhất định phải che vết máu trên người của ngươi lại.”
A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa cùng khoác trường bào lên người, Đường Thiệu Nghĩa mặc rất vừa vặn nhưng khi khoác lên người A Mạch lại vừa dài vừa rộng, bao kín cả người nàng. Lâm Mẫn Thận thập phần vừa lòng, khẽ gật đầu nói: “Tốt lắm, mặc như vậy rất thích hợp.”
A Mạch cũng không phản bác, trên mặt cũng hiện lên vẻ đồng lòng. Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch và Lâm Mẫn Thận ngôn ngữ cử chỉ thật khác thường, trong lòng lập tức có chút nghi hoặc, song lại không để lộ ra ngoài, chỉ để tâm chú ý hai người. Ba người đi ra ngoài ngõ, vừa đến đầu ngõ, đột nhiên A Mạch nghĩ đến điều gì đó liền dừng cước bộ, nói với Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, những thứ huynh mua về vẫn còn để ở tửu lâu!”
Đường Thiệu Nghĩa còn chưa tiếp lời, Lâm Mẫn Thận đã nói: “Ai chà, khéo mà lại có người trộm mất thì khổ, Đường tướng quân mau trở về xem thế nào, ta và Mạch tướng quân đến y quán là tốt rồi.”
Đường Thiệu Nghĩa không để ý đến Lâm Mẫn Thận, chỉ nhìn A Mạch. Trên mặt A Mạch hiện lên một tia xấu hổ, nhưng vẫn nói: “Đại ca, vết thương của ta không việc gì, huynh đến tửu lâu lấy đồ về trước, nếu nguyên soái tìm ta, huynh che dấu cho ta một chút, ta đến y quán lấy thuốc rồi sẽ về.”
Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc một lát, gật đầu nói: “Được, ta về trước, các ngươi cẩn thận.”
Lâm Mẫn Thận đợi thân ảnh của Đường Thiệu Nghĩa biến mất trong đám đông, lúc này mới quay đầu nhìn A Mạch nói: “Ngươi lấy cớ thực vụng về! Ta đến đỏ mặt thay cho ngươi, nhưng anh ta thật đúng là rất biết phối hợp với ngươi.” Anh ta ngừng lại, nhịn không được lại hỏi: “Anh ta không biết ngươi là nữ thật sao?”
A Mạch cụp mắt không nói, Lâm Mẫn Thận không khỏi bật cười nói: “Người vốn lắm mưu nhiều kế, sao giờ lại trì độn như thế!”
A Mạch không để ý tới Lâm Mẫn Thận trêu chọc, chỉ hỏi: “Đi đâu?”
Lâm Mẫn Thận cười nói: “Tùy ngươi, nếu muốn đến y quán, ta sẽ giúp ngươi diệt khẩu. Nếu muốn đi cửa sau của Thương phủ, ta sẽ nghĩ cách khiến người không biết, quỷ không hay giúp người trà trộn vào.”
Trong lòng A Mạch nhất thời rất mâu thuẫn, Thương Dịch Chi không như Đường Thiệu Nghĩa, nếu đã biết việc này chắc chắn sẽ truy cứu, nhưng nàng và Thường Ngọc Thanh lại có khúc mắc không muốn để người khác biết, đến lúc đó phải làm thế nào để che dấu đây? Còn đi y quán, nếu như không giết những người trong y quán diệt khẩu, thì sẽ lưu lại hậu họa về sau. A Mạch cân nhắc một lát, cuối cùng nói: “Đi Thương phủ.”
Thương Dịch Chi chủ trì việc nghị hòa với Bắc Mạc nên không có mặt trong phủ, đến khi trở về đã là ban đêm, vết thương của A Mạch lúc này đã khâu xong. Một đao của Thường Ngọc Thanh không quá sâu, chưa đả thương đến nội tạng, nhưng cũng đã chạm đến xương sườn, chỉ khẽ cử động một chút liền cảm thấy đau đến tận xương tủy, A Mạch lại không muốn dùng ma phí tán[2], cho nên phải cố gắng chịu đựng, cả người mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa, không khác gì mới từ trong nước vớt lên, hơn nữa nàng mất máu quá nhiều, sắc mặt lại càng thêm trắng bệch khiến cho người khác nhìn mà phát sợ.
[2]. Ma phí tán: một loại thuốc gây tê do Hoa Đà phát minh ra, dùng trong điều trị ngoại khoa.
Từ miệng của Lâm Mẫn Thận, Thương Dịch Chi đã biết đại khái, nhưng khi chính mắt nhìn thấy dáng vẻ của A Mạch thì vẫn không khỏi giật mình kinh hãi. Anh ta âm trầm ngồi xuống bên cạnh, lạnh giọng hỏi: “Vì sao không chịu dùng ma phí tán?”
A Mạch không ngờ câu đầu tiên anh ta hỏi sẽ là câu này, liền cúi đầu trầm mặc rồi mới nhẹ giọng đáp: “Sợ về sau ảnh hưởng đến trí óc.”
Thương Dịch Chi vô cùng tức giận mà bật cười: “Chẳng phải hiện giờ trí óc của ngươi đã lú lẫn hết rồi sao, thế sau này vẫn còn sử dụng được à?”
Vết thương của A Mạch vẫn rất đau đớn, vô cùng khó chịu, vậy nên giọng nói có phần run rẩy, đáp: “Càng đau sẽ càng nhớ kỹ, về sau sẽ không tiếp tục phạm sai lầm.”
Nghe nàng trả lời như vậy, Thương Dịch Chi lại trở nên trầm mặc, lẳng lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nói: “Triều đình rất nhanh sẽ ký kết hiệp ước nghị hòa với thát tử, ngươi nên sớm chuẩn bị đi.”
A Mạch ngẩn ra, không khỏi hỏi: “Sao lại nhanh như vậy?”
Thương Dịch Chi nói: “Tình hình chiến sự ở Vân Tây căng thẳng, thát tử đã vừa ý với những thứ đạt được, triều đình lại muốn nhanh chóng giải quyết việc ở Giang Bắc để tránh thế hai mặt thụ địch.”
A Mạch nghĩ nghĩ, nói: “Đường Thiệu Nghĩa đã rời quân ngũ, không cần phải cố kỵ, những người khác trong quân đều không đáng lo ngại, nhưng còn Vệ Hưng thì phải xử trí như thế nào?”
Khẩu khí Thương Dịch Chi mặc dù nhẹ nhàng, nhưng từ ngữ thốt ra lại thật kinh người: “Giết.”
A Mạch lơ đễnh, lại hỏi: “Còn Lâm Mẫn Thận?”
Thương Dịch Chi thản nhiên liếc mắt nhìn nàng, đáp: “Ta để anh ta lưu lại cùng ngươi, để ngươi đỡ phải không biết khi nào thì bị người khác cho mình một đao.”
A Mạch nghe ý tứ ám chỉ trong lời nói của anh ta, nhất thời không dám nói tiếp, đành phải cụp mắt xuống.
Thương Dịch Chi nhẹ nhàng cười khẩy, nói: “A Mạch, ngươi cuối cùng cũng không phải là nam nhân, nên mãi mãi không thể đoán ra được tâm tư của nam nhân, Thường Ngọc Thanh là người như thế nào, cho dù tư tình có sâu nặng đến đâu thì cũng không thể vượt qua được hai chữ quốc gia!”
Trong lòng A Mạch vô cùng kinh hãi, nhất thời chấn động đến nỗi không biết phải ứng đối thế nào. Vẻ mặt đó rơi vào trong mắt Thương Dịch Chi khuấy động một nỗi tức giận khôn cùng trong lòng anh ta, nhưng anh ta lại không muốn dây dưa vụn vặn nên chỉ nói: “A Mạch, ta dùng ngươi nên tin ngươi, chỉ có điều về sau không được tiếp tục làm chuyện ngu xuẩn như thế này nữa! A Mạch có thể không có nước, nhà, nhưng Mạch Tuệ của quân Giang Bắc thì cả quốc và gia đều phải lưỡng toàn!”
A Mạch khống chế cảm xúc trong lòng, chậm rãi đáp: “A Mạch hiểu rồi.”
Thương Dịch Chi định nói tiếp điều gì đó nhưng lại thôi, lập tức chuyển sang chuyện khác: “Giờ ngươi muốn lĩnh quân thế nào? Có trở lại Ô Lan không?”
Nghe anh ta hỏi việc quân tình, tinh thần của A Mạch mới ổn định trở lại, trầm giọng đáp: “Trần Khởi mai phục trọng binh ở phía tây Thái Hưng, lúc này tây tiến ắt gặp phục kích, hơn nữa nguồn chiêu mộ binh lính trong núi Ô Lan có hạn, nếu trở về cũng rất khó để phát triển.”
Trong mắt Thương Dịch Chi lộ ra ánh sáng, hỏi: “Vậy sẽ đi đâu?”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ TƯ: Tự ma lệ kiếm mang sơ hiển lộ
(Từ khi được mài dũa, ánh kiếm bắt đầu hiển lộ)
...:::...
Chương 103: Mưu kế[1]
[1]. Mưu kế: nguyên văn là “mưu hoa”, nghĩa là kế hay, nhưng mẹ Cún thấy để mưu kế hay hơn.
“Thanh Châu!” A Mạch đáp.
Thanh Châu, phía bắc tiếp giáp bờ sông Tử Nha, phía đông dựa vào dãy núi Thái Hành, dễ thủ khó công, chính là nơi Thương Dịch Chi trấn thủ trước đây. A Mạch lại nói tiếp: “Chiếm giữ Thanh Châu rồi tiến vào Thái Hành, Ký Châu tạo thành địa thế hình túi, phía bắc có núi Yến Thứ có thể chống cự địch vùng quan ngoại, phía đông tiếp giáp biển lớn thành bức bình phong ngăn cản, phía nam hướng về vùng Sơn Đông, đi qua đó là sông Uyển địa thế hung hiểm. Bốn bề hiểm trở, bế quan[2] có thể tự thủ, xuất quan[3] có thể tiến thủ. Bên trong Ký Châu lại nhiều bình nguyên, sản vật phong phú, đủ để cung cấp nuôi dưỡng quân ta. Nhờ đó, quân ta có thể ổn định, củng cố hậu phương, tự cung tự cấp, cũng có thể vượt qua vùng núi non hiểm trở mà tiến công, hoặc lui về phía sau để phòng thủ, chỉ cần thúc đẩy lưu thông buôn bán, tích lũy lực lượng, sau này giành lại vùng Giang Bắc cũng không thành vấn đề.”
[2]. Bế quan: nghĩa là đóng cửa không giao lưu với bên ngoài.
[3]. Xuất quan: ngược lại với bế quan.
Tuy Thương Dịch Chi trầm ngâm không nói, nhưng ánh mắt đã dần dần sáng rực lên. A Mạch thấy vậy, biết anh ta đã bị lời nói của mình làm cho động tâm. Thương Dịch Chi cúi đầu cân nhắc một lát, rồi đưa mắt nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi thực sự thấy vậy sao?”
A Mạch vốn định gật đầu xác nhận, nhưng trước đôi mắt sâu không thấy đáy của Thương Dịch Chi, lời nói trong miệng lại chuyển thành: “Là Từ tiên sinh từng đề cập qua như vậy.”
Thương Dịch Chi yên lặng đánh giá A Mạch, ánh mắt sâu xa, không biết đang suy tính điều gì.
A Mạch dùng tay phủ lên vết thương bên sườn, cảm giác đau đớn kích thích tinh thần của nàng rung lên, thong dong nói tiếp: “Khi còn ở trong núi Ô Lan, ta từng nói chuyện phiếm với tiên sinh, tiên sinh đã giảng giải rằng thế cục giống như bàn cờ, trong đó Ung châu, Ký Châu, Vân Tây cùng Đông Nam hình thành nên một tứ giác, Dự Châu, Sơn Đông, Hán Trung, Kinh Châu là vệ tinh của tứ giác đó, Trung Nguyên chính là vùng trung tâm. Mặc dù mục tiêu tranh giành là Trung Nguyên, nhưng nơi thực sự diễn ra sự tranh giành của quần hùng, phần lớn lại không bắt đầu từ Trung Nguyên, mà là ở vùng tứ giác. Hay như nói ở vùng Giang Bắc, Ung Châu và Ký Châu là hai nơi dễ dàng cát cứ, mà phía tây Dự Châu tiếp giáp Ô Lan, phía đông hướng về Thái Hành, nếu tiến được vào cửa ngõ Ung châu và Ký Châu, bề mặt hướng về lưu vực sông Bình Nguyên, chính là giành lấy yếu hầu của vùng Giang Bắc. Trước, quân ta có thể chiếm Ký Châu làm căn cơ, sau, có thể tiếp tục chiếm Dự Châu, rồi từ từ giang rộng đôi cánh, bao bọc lấy Trung Nguyên, như vậy nhất định sẽ đoạt được Giang Bắc.”
Nàng một phen nói xong khiến Thương Dịch Chi khó nén được kích động, không kiềm chế được, tay liền nắm chặt thành quyền nói: “Không sai! Hoàn đàm [ tân luận ] viết: Thượng giả viễn kì khai trương, trí dĩ hội vi. Nhân nhi thành đắc đạo chi thắng. Trung giả tắc vụ tương tuyệt già, yếu dĩ tranh tiện cầu lợi, cố thắng phụ hồ nghi, tu kế sổ dĩ định. Hạ giả tắc thủ biên ngung, xu tác quải, dĩ tự sinh vu tiểu địa. (Thượng, xa xôi lúc bắt đầu, tỉ mỉ sử dụng sẽ thành. Người đắc đạo sẽ thắng. Trung, nguyên tắc công việc tự mình xem xét qua lại, nhất định phải tranh thủ sự thuận tiện mà thu lợi, cho dù thắng bại không chắc chắn, tính kế đã định. Hạ, nguyên tắc giữ vùng đất liền kề, tạo nên trở ngại, có thể tự tồn tại được ở vùng đất nhỏ)[4] Chính là để nói đạo lý này!”
[4]. Đoạn này tốn nơ-ron thần kinh quá, hơi lủng củng, các nàng thông cảm nhé. Mấy cái đoạn trích dẫn binh thư này sao mà oải thế không biết.
A Mạch cười yếu ớt không nói, Thương Dịch Chi tuy rằng kích động, nhưng rất nhanh đã khống chế được cảm xúc của mình, trên mặt hồi phục lại thần sắc bình tĩnh, bỗng hỏi: “Ngươi và Từ Tĩnh vẫn thường chơi cờ?”
Sắc mặt A Mạch bất động, nhưng ý niệm trong đầu đã xoay chuyển rất nhanh, thần thái tự nhiên đáp: “Những lúc rảnh rỗi thật ra cũng cùng Từ tiên sinh chơi vài ván.”
Nhớ lại chuyện năm trước, khi A Mạch cùng anh ta trên đường trở về Thịnh Đô, tình cảnh khi hai người ở trên thuyền đánh cờ, tinh thần Thương Dịch Chi không khỏi hoảng hốt, nhẹ giọng hỏi: “Ông ta có cho ngươi đi lại không?”
A Mạch lắc đầu nói: “Từ tiên sinh vừa mắng ta là cờ thối, vừa tính toán chi li, có chết cũng không nhường.”
Thương Dịch Chi không khỏi bật cười, khóe môi khẽ cong lên, thần sắc trong mắt cũng trở nên dịu dàng, khẽ cười nói: “Đúng là rất thối!”
A Mạch nhìn mà khẽ giật mình, Thương Dịch Chi nhận thấy vậy, trên mặt thoáng hiện lên vẻ xấu hổ, cúi đầu xuống uống trà tránh tầm mắt của A Mạch, đến khi ngẩng lên thì trong mắt đã là một mảnh an tĩnh, trầm giọng hỏi A Mạch: “Nếu muốn dẫn binh vào Thanh Châu, trong lòng đã có kế sách cụ thể gì chưa?”
A Mạch mím môi trầm ngâm một lát, đáp: “Có rồi, chỉ có điều là quá mạo hiểm.”
Thương Dịch Chi đổi chén trà, đứng dậy đặt vào trong tay A Mạch, nói: “Nói ta nghe thử một chút.”
A Mạch sớm đã khát khô, thấy vậy cũng không chối từ, nhận lấy chén trà uống một hơi, lúc này mới nói: “Từ Thái Hưng đông tiến đến Thanh Châu, nếu đi theo đường phía bắc, chắc chắn sẽ đi qua trấn Tân Dã, mà Tân Dã sớm đã bị Chu Chí Nhẫn chiếm giữ, khi đó sẽ không tránh khỏi một trận ác chiến. Nếu đi theo đường phía nam, dọc theo sông Uyển, trên đường mặc dù không có trọng binh của thát tử, nhưng đường đi gập ghềnh xa xôi, hiện lại đang là mùa mưa, đi được tới nơi cũng vô cùng vất vả. Từ năm trước, Trần Khởi đã lệnh cho Thường gia lĩnh quân đông tiến đến Thanh Châu, ngoại trừ ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, còn có hơn hai vạn quân ở phía tây Thanh Châu, mặc dù không thể đánh hạ Thanh Châu, nhưng lại có thể tràn tới chặn đánh quân ta vừa từ xa đến, một trận thắng bại khó liệu.”
Thương Dịch Chi cau mày: “Sợ là thắng ít bại nhiều.”
“Đúng vậy, chẳng qua…”
“Chẳng qua thế nào?” Thương Dịch Chi hỏi.
A Mạch đáp: “Nếu quân Thanh Châu ra khỏi thành đánh lén thát tử từ phía sau, thì một trận này sẽ là thắng nhiều bại ít!”
Thương Dịch Chi khẽ nhướn mày, tựa tiếu phi tiếu nhìn A Mạch, nói: “Thanh Châu là nơi ta phát binh, mặc dù hiện nay những quân nhân cũ trong quân đã chết trận quá nửa, nhưng vẫn còn không ít người xuất thân từ Thanh Châu, ngươi còn sợ không có cách nào điều động được quân Thanh Châu sao?”
A Mạch thấy Thương Dịch Chi nói trúng tâm tư của mình, cười gượng hai tiếng, nói: “Nếu nguyên soái có thể ra mặt, quân Thanh Châu tất nhiên là có thể điều động rồi.”
Thương Dịch Chi cười nhạt nói: “Nói hay lắm, còn gì khác nữa không?”
A Mạch thu lại nét tươi cười trên mặt, nghiêm sắc mặt nói: “Sau khi vào được Thanh Châu, tạm thời thát tử sẽ không đủ sức uy hiếp ta nữa, khó ở chỗ là làm thế nào vượt qua Thái Hành mà chiếm giữ Ký Châu, ta phản lại triều đình, Ký Châu tất nhiên sẽ không dễ dàng để ta tiến vào, vì thế có thể dẫn đến việc quân ta chưa đánh nhau với thát tử thì đã phải nồi da nấu thịt trước với đồng bào của mình, như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến thanh danh.”
Thương Dịch Chi yên lặng nhìn A Mạch, thản nhiên nói: “A Mạch, ngươi muốn thế nào thì cứ nói thẳng ra.”
A Mạch cẩn thận liếc mắt nhìn Thương Dịch Chi, thử nói: “Nghe nói thủ thành Ký Châu là tướng Tiếu Dực, từng là cấp dưới của Thương lão tướng quân…”
“Đúng!” Thương Dịch Chi tiếp lời, sảng khoái nói,“Ký Châu ta cũng sẽ thay ngươi nghĩ cách!”
A Mạch xoay người quỳ rạp xuống trước mặt Thương Dịch Chi, ôm quyền nói: “A Mạch đa tạ nguyên soái!”
Thương Dịch Chi cũng không đưa tay đỡ dậy, đợi A Mạch quỳ trên mặt đất một lúc lâu, bấy giờ mới chậm rãi nói: “A Mạch, trước ta vẫn dung túng ngươi, sau này còn có thể trợ giúp ngươi, ngươi…… đừng để cho ta cảm thấy thất vọng.”
A Mạch rùng mình, ngẩng đầu đón lấy ánh mắt sắc bén của Thương Dịch Chi, không hề né tránh, kiên định đáp: “A Mạch đã biết.”
Thương Dịch Chi vẫn bất động thanh sắc, thản nhiên nói: “Đứng lên đi.”
A Mạch đứng dậy, không dám ngồi, chỉ khoanh tay đứng một bên. Thấy nàng như thế, Thương Dịch Chi đứng dậy, nói: “Trên người ngươi có thương tích, hôm nay đi nghỉ sớm đi, ngày mai Lâm Mẫn Thận sẽ đưa ngươi về.”
Thương Dịch Chi nói xong liền không để ý tới A Mạch nữa, xoay người rời đi. A Mạch đợi tiếng bước chân anh ta càng lúc càng xa, lúc này mới để nguyên quần áo nằm xuống giường, tinh thần buông lỏng, vết thương dưới sườn lại bắt đầu đau dội lên, nói là phải ngủ sớm một chút, nhưng làm sao mà ngủ được.
Cứ mở to mắt như thế chịu đựng đến nửa đêm, vết thương mới hơi dịu đi một chút, A Mạch lúc này kiệt sức mà rơi vào mê man, đến khi mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao quá đỉnh đầu.
Bên ngoài, Lâm Mẫn Thận gõ cửa gọi: “A Mạch, nhanh lên, cho dù là qua đêm ở kỹ viện thì cũng phải nhanh lên một chút.”
A Mạch nghe anh ta nói thì bực không chịu nổi, nhíu mày, đứng dậy mở ra cửa phòng. Lâm Mẫn Thận lấy từ trong người ra một bình kim sang dược đưa cho A Mạch, nói: “Cầm lấy, về tự bôi đi, lang trung nói phải bôi mấy ngày.” Anh ta thấy A Mạch chần chờ không chịu nhận, liền ấn bình sứ kia vào lòng A Mạch, nói: “Yên tâm đi, không độc chết ngươi đâu. Anh ta nếu đã để ta lưu lại, chính muốn đem cái mạng nhỏ của ta và ngươi buộc chung vào một chỗ. Ngươi mà chết, thì ta cũng chẳng cách nào giải thích được.”
A Mạch không để ý tới sự châm chọc của Lâm Mẫn Thận, thu chiếc bình nhỏ vào trong lòng, thản nhiên nói: “Chúng ta đi thôi.”
Lâm Mẫn Thận thấy nàng lạnh nhạt như thế, ngược lại cảm thấy lạ, không khỏi đuổi theo hai bước, nhìn kỹ vẻ mặt A Mạch, hỏi: “Ngươi không muốn nói gì sao”
A Mạch liếc nhìn anh ta, hỏi ngược lại: “Nói gì?”
Lâm Mẫn Thận nhất thời nghẹn giọng, tức giận nói: “Dù sao về sau ngươi cũng ít gây chuyện thôi, ta không phải nhìn thấy những chuyện như thế thì nhất định sẽ giữ được cái mạng nhỏ của ngươi.”
A Mạch dừng chân lại, xoay người nhìn Lâm Mẫn Thận, yên lặng đánh giá Lâm Mẫn Thận, nhìn đến khi Lâm Mẫn Thận cảm thấy có chút sợ hãi, lúc này mới nói: “Ngươi không muốn lưu lại, ta kỳ thật lại càng không muốn ngươi lưu lại, ngươi cũng không cần phải bảo vệ cái mạng nhỏ của ta, chỉ cần đừng ở sau lưng đâm cho ta một dao là được rồi.”
Lâm Mẫn Thận ngẩn ra: “Ngươi……”
“Ngươi cái gì?” A Mạch ngắt lời anh ta, cười lạnh nói: “Hơn nữa anh ta vì sao phải để ngươi ở lại bên ta, trong lòng ngươi và ta đều hiểu rõ, ngoại trừ đề phòng ngươi còn muốn đề phòng ta, ngươi sao phải bày ra cái bộ dạng buồn cười này!”
A Mạch nói xong phẩy tay áo bỏ đi, chỉ còn lại Lâm Mẫn Thận ngây ngốc đứng ở phía xa xa, hơn nữa ngày mới hồi phục lại, thì thầm lẩm bẩm: “Đây… là nữ nhân sao?”
Lâm Mẫn Thận và A Mạch trở lại thành phủ vào buổi trưa, hai người trắng đêm không về đã kinh động đến Vệ Hưng, Vệ Hưng nghe nói trên người họ vẫn còn vương lại mùi rượu, sắc mặt liền trở nên âm trầm, rõ ràng là rất tức giận. A Mạch đang muốn thỉnh tội, lại bị Lâm Mẫn Thận vụng trộm kéo lại, đành phải đem những lời đã lên đến đầu lưỡi nuốt xuống, chỉ cúi đầu đứng đợi Vệ Hưng trách mắng.
Trong lòng Vệ Hưng vô cùng bực bội, hai người bọn họ, một là con trai độc nhất của Lâm tể tướng, không thể mắng, một là đối tượng mà anh ta đang phải mượn sức, cũng không thể trách. Vệ Hưng đành nén cơn tức giận trong lòng lại, lúc này mới giáo huấn: “Hiện giờ là lúc nào rồi! Hai ngươi còn dám uống say không về! Tại sao lại không biết phân nặng nhẹ như thế!”
A Mạch cúi đầu nói: “Mạt tướng biết sai rồi, về sau cũng không dám nữa.”
Vệ Hưng thấy sắc mặt A Mạch tái nhợt, chỉ nghĩ là nàng say rượu khó chịu, lại thấy nàng rất thành khẩn nhận lỗi, nỗi tức giận trong lòng cũng giảm bớt, lại giáo huấn vài câu rồi cho nàng trở về phòng nghỉ ngơi. Đợi A Mạch đi rồi, Vệ Hưng mới xoay người nhìn Lâm Mẫn Thận, còn chưa kịp mở miệng, Lâm Mẫn Thận đã cười hì hì nói: “Ta sao biết anh ta lại như thế, mới được vài chén rượu đã dính lấy cô nương ở kỹ viện rồi, ta còn phải kéo anh ta ra, nếu không thì túi bạc của ta nguy mất.”
Vệ Hưng chỉ sợ Lâm Mẫn Thận vẫn còn đặt tâm tư lên người A Mạch, liền cố gắng khuyên nhủ: “Mẫn Thận, mặc dù bộ dạng anh ta có vẻ mềm yếu, nhưng thật ra là một viên mãnh tướng, sau này biết đâu lại trở thành trợ thủ đắc lực cho Lâm tể tướng, ngươi ngàn vạn lần không nên đùa giỡn, khinh khi anh ta.”
Lâm Mẫn Thận trưng ra một vẻ mặt đau khổ, rất không tình nguyện nói: “Ta nếu không coi anh ta là huynh đệ thì sao có thể đưa anh ta tới kỹ viện a!”
Vệ Hưng nghe vậy không nói gì, yên lặng nhìn Lâm Mẫn Thận một lúc lâu, thấy trên mặt anh ta đầy vẻ ủy khuất cùng không cam lòng, đành phải bất đắc dĩ khoát tay áo, ý bảo Lâm Mẫn Thận rời đi. Lâm Mẫn Thận vội vàng ra ngoài, cho đến khi ra khỏi viện, khóe miệng mới cong lên một cái, rồi ngẩng đầu tìm A Mạch, đã không thấy thân ảnh của nàng đâu, trong lòng thầm mắng A Mạch người này quả thật chẳng thú vị chút nào, thế mà lại không tò mò xem Vệ Hưng lưu mình lại có việc gì.
Lúc này A Mạch đã về đến viện của mình, hai ngày nay nàng đã phải hao tổn tâm tư rất nhiều, lại thêm thương tích trong người, thể lực cùng tinh thần đã đến cực hạn, chỉ sợ thêm một lát nữa sẽ không thể chịu đựng nổi. Trương Sĩ Cường đã lo lắng đợi nàng suốt một đêm, hiện thấy nàng bình an trở về vừa mừng vừa sợ, vội vàng tiến đến hỏi: “Sao giờ mới về? Đường tướng quân chỉ nói ngươi đi cùng Lâm tham quân…”
A Mạch ngồi xuống giường, khoát tay áo cắt ngang lời Trương Sĩ Cường, hữu khí vô lực nói: “Đừng nói nữa, ta nghỉ một lát, ngươi xem có gì dễ tiêu đem đến cho ta ăn.”
Trương Sĩ Cường cũng phát hiện sắc mặt A Mạch không tốt, nghe nàng phân phó như thế cũng không dám hỏi lại, vội vàng xoay người đi ra ngoài chuẩn bị cơm canh. A Mạch để nguyên quần áo ngã xuống giường, đang lúc mơ màng liền cảm thấy có người vào nhà, ban đầu chỉ cho đó là Trương Sĩ Cường nên cũng không để ý, nhưng đợi một lát không nghe thấy Trương Sĩ Cường gọi nàng, trong lòng kinh nghi, cố gắng mở mắt ra nhìn, đã thấy Đường Thiệu Nghĩa im lặng đứng ở đầu giường.
A Mạch lập tức lại nằm trở lại trên giường, nhẹ nhàng thở dài, nói: “Đại ca, ngươi làm ta sợ muốn chết.”
Đường Thiệu Nghĩa ngồi xuống giường, nói: “Thấy ngươi ngủ, sợ làm ngươi tỉnh giấc nên không dám lên tiếng.”
A Mạch cười cười, không nói gì. Đường Thiệu Nghĩa cũng im lặng, hai người một nằm, một ngồi nhìn nhau không nói gì, im lặng hơn nữa ngày, A Mạch đột nhiên lên tiếng: “Đại ca, ta cảm thấy rất mệt mỏi.”
Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc một lát, nhẹ giọng nói: “Sống ở trên đời, có ai là không phiền lụy?”
Ánh mắt A Mạch dừng lại trên đỉnh màn, cười tự giễu, nói: “Đại ca, huynh không biết đấy thôi, ta là người nói dối rất nhiều, nhiều đến nỗi về sau chính ta cũng không biết rốt cuộc lời nào là thật, lời nào là giả dối.”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ TƯ: Tự ma lệ kiếm mang sơ hiển lộ
(Từ khi được mài dũa, ánh kiếm bắt đầu hiển lộ)
...:::...
Chương 104: Cõi lòng
Lời nói tuy thoải mái, nhưng lại không dấu được sự đau khổ bên trong, Đường Thiệu Nghĩa nghe mà mặt mày rung động, nhẹ nhàng đặt tay lên tay A Mạch, muốn khuyên giải an ủi nàng vài câu, nhưng lại không biết nên nói gì, cuối cùng chỉ nắm chặt tay A Mạch, thấp giọng nói: “Đừng nghĩ nhiều nữa, trên người ngươi có thương tích, trước hãy nghỉ ngơi cho khỏe đi.”
A Mạch quay đầu nhìn Đường Thiệu Nghĩa, hỏi: “Đại ca, nếu ta cũng từng nói dối huynh, huynh có oán ta hay không?”
Đường Thiệu Nghĩa hơi cân nhắc một chút, thành thật sự đáp: “A Mạch, ngươi và ta cùng nhau ra khỏi thành Hán Bảo đến Dự Châu, rồi xông pha trên núi Ô Lan, chiến đấu ở Thái Hưng, cùng trải qua sinh tử, là huynh đệ cùng chung hoạn nạn, miệng nói gì cũng không quan trọng, chỉ cần ngươi vẫn còn gọi ta một tiếng đại ca, ta vẫn sẽ là huynh đệ của ngươi.”
Trong lòng A Mạch bất chợt dâng lên cả trăm vị, trong mắt có ngấn lệ, vội vàng quay đầu vào phía trong dấu diếm. Đường Thiệu Nghĩa thấy khóe mắt nàng lấp lánh lệ quang, theo bản năng đưa tay định lau, nhưng chưa kịp chạm vào hai má của A Mạch thì bỗng chợt giật mình, vội vàng thu tay lại, mặt nóng bừng.
A Mạch chợt tỉnh táo, lo lắng quay lại hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi đã hạ quyết tâm rời khỏi quân Giang Bắc?”
Mi mắt Đường Thiệu Nghĩa cụp xuống, che khuất thần sắc phức tạp vừa lóe lên trong mắt, gật đầu đáp: “Ta đã suy nghĩ rất lâu rồi, chi bằng cứ dứt khoát rời đi có khi lại hơn.”
A Mạch nghĩ ngợi một lát, nghiêm sắc mặt nói: “Nếu đại ca đã quyết định rời đi, vậy thì nên đi cho sớm.” Nàng thấy thần sắc biến ảo trong mắt Đường Thiệu Nghĩa liền giải thích: “Ta nhận được tin tức rất chính xác, tình hình chiến sự tại Vân Tây đang hết sức căng thẳng, trong triều vì tránh lâm vào thế hai mặt thụ địch, cho nên muốn đẩy nhanh việc ký kết hòa ước với thát tử, trừ phía đông Ký Châu và Sơn Đông, toàn bộ vùng Giang Bắc đều phải nhượng lại cho thát tử, ít ngày nữa quân ta nhất định phải di chuyển về Giang Nam.”
Đối với kết quả nghị hòa, Đường Thiệu Nghĩa mặc dù đã sớm có sự chuẩn bị, nhưng khi thực sự nghe thấy kết quả này, thì vẫn tức giận đến lông mày dựng đứng lên, một quyền đấm mạnh xuống giường, căm hận nói: “Trong triều làm như vậy rõ ràng chính là uống rượu độc để giải khát đây mà!”
Tâm tưA Mạch xoay chuyển, nói: “Một khi hòa ước được ký kết, triều đình vì đề phòng quân ta có thể bất ngờ làm phản, tất sẽ tìm cách áp chế các tướng lãnh trong quân, đến lúc đó nếu đại ca muốn đi, sợ là không dễ, chi bằng thừa dịp hiện giờ đàm phán chưa xong mà sớm rời đi là tốt nhất.”
Đường Thiệu Nghĩa cụp mắt trầm mặc một lát, rồi đưa mắt nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi thì sao? Chẳng lẽ thật sự muốn theo quân đi về phía nam?”
A Mạch khẽ cười khổ, ánh mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa chăm chú, thành khẩn nói: “Ta vốn còn chưa xong việc, cho nên phải ở lại trong quân, về sừ tình cụ thể trong đó ta tạm không thể nói, đại ca, ta không muốn phải nói dối huynh.”
Đường Thiệu Nghĩa ánh mắt ngưng đọng, nói: “Ta hiểu, ta không hỏi nữa.”
A Mạch cố gắng ngồi dậy, lại yên lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa một lát, lúc này mới nói: “Đại ca, từ biệt lần này không biết khi nào mới gặp lại, ta vẫn chỉ có câu nói trước kia, chỉ mong đại ca và ta đều còn sống!”
Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa cuối cùng cũng lộ ra chút ý cười, đáp rành mạch từng từ một: “Được! Chúng ta, chúng ta nhất định đều phải còn sống!”
Hai người nhìn nhau một lát, cùng mỉm cười. Sau đó Đường Thiệu Nghĩa lại nghiêm sắc mặt nói: “A Mạch, nếu ngươi vẫn gọi ta là đại ca, đại ca có mấy lời này muốn nói với ngươi, ngươi thông minh thiên bẩm, chỉ cần gặp cơ duyên thích hợp, chuyện nổi danh chỉ là sớm muộn. Đại trượng phu lập thân vốn cần kiến công lập nghiệp, nhưng cũng không thể vì chuyện công danh mà cố tình phụ lại ân nghĩa, bỏ mặc dân chúng.”
A Mạch cúi đầu trầm mặc không nói, Đường Thiệu Nghĩa chỉ sợ A Mạch lơ đễnh, lại nói thật thấm thía: “Hiện nay, phần lớn non sông vùng Giang Bắc của ta đã bị thát tử xâm chiếm, phản quân Vân Tây lại từng bước tới gần, dân chúng đừng nói đến của cải, mà ngay cả tánh mạng cũng khó bảo toàn. A Mạch, ngươi và ta đều là người Nam Hạ, cha mẹ huynh muội chúng ta cũng là người Nam Hạ, bảo vệ bách tính Nam Hạ cũng chính là bảo vệ phụ mẫu, huynh muội của chúng ta… A Mạch! Ngươi có nghe không?”
Đường Thiệu Nghĩa càng nói, ngữ khí càng thêm phần nghiêm khắc. A Mạch ngẩng đầu, nhìn Đường Thiệu Nghĩa cười, đáp: “Ta đang nghe.”
Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng trả lời hời hợt, sắc mặt lại càng trầm xuống, ngữ khí càng nặng nề hơn: “A Mạch, một mệnh lệnh sai lầm của người cầm quân sẽ đánh đổi bằng tính mạng của binh lính! Thủ hạ của ngươi có hàng trăm, hàng ngàn tướng sĩ, chỉ một sơ xuất của ngươi sẽ đẩy họ vào chỗ chết! Những người này đều là nam nhi tốt của Nam Hạ ta, là cha, là anh, là con của bá tánh, bọn họ đi theo ngươi không phải vì công danh lợi lộc cá nhân, mà vì bảo vệ quốc gia, bảo vệ già trẻ lớn bé trong nhà! Bọn họ giao tính mạng của mình vào tay ngươi, ngươi nhất định phải trân trọng chuyện sinh tử của bọn họ, nếu như điểm ấy mà cũng không làm được! Ngươi cũng đừng đứng ở vị trí cầm quân nữa!”
A Mạch chưa từng nghĩ Đường Thiệu Nghĩa sẽ đột nhiên nói những lời cay độc như thế, kinh ngạc nhìn anh ta, sửng sốt kêu lên: “Đại ca…”
Thấy A Mạch phản ứng như thế, Đường Thiệu Nghĩa phát hiện mình đã nặng lời, bất giác có chút xấu hổ, ánh mắt không được tự nhiên nhìn đi nơi khác, trầm mặc một lát rồi mới khẽ thở dài, thấp giọng nói: “A Mạch, đại ca không phải đồ ngốc, tâm tư của ngươi, đại ca cũng có thể đoán được vài phần, đại ca không ngăn cản ngươi, chỉ cần ngươi trung quân ái quốc, bảo vệ bách tính, đại ca cam tâm tình nguyện…” Nói được nửa chừng, Đường Thiệu Nghĩa lại không nói nữa, một lúc lâu sau mới lại tiếp tục: “Nhưng đại ca tuyệt không thể để cho ngươi đem cả trăm ngàn tính mạng của người khác ra làm bước đệm cho dục vọng của mình.”
Đường Thiệu Nghĩa nói ra những lời như vậy, khiến cho A Mạch không khỏi trợn tròn mắt, hơn nửa ngày mới hồi phục lại tinh thần, mím chặt môi, nhìn Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đại ca, ngươi nhìn ta đi.” A Mạch vẻ mặt rất nghiêm túc, thong thả nói thật rõ ràng: “Đại ca, ta tòng quân thực sự không phải vì cứu dân cứu nước, nhưng cũng không phải vì ham công danh lợi lộc. Ta chỉ muốn bảo vệ niềm vinh quang của phụ thân ta, người cũng từng là một quân nhân Nam Hạ, ba mươi năm trước từng chống lại thát tử, bình định tứ phương, chiến công hiển hách, không ngờ cuối cùng lại chết trong tay nghĩa tử của mình.”
Vết thương dưới sườn A Mạch lại đau nhói, mỗi lần hít thở đều đau dội lên, nàng đành phải ngừng lại, nhắm mắt một lát, lúc này mới tiếp tục nói: “Nghĩa tử đó là một đứa trẻ mồ côi được phụ thân ta thu dưỡng từ trong chiến tranh loạn lạc, lý do hắn ta giết người đã có công ơn giáo dưỡng với mình là vì quốc thù gia hận.”
Đường Thiệu Nghĩa không biết A Mạch có thân thế như vậy, nghe xong, trên khuôn mặt chợt hiện đầy nét thương cảm, hai tay nắm chặt bả vai A Mạch, nhịn không được mà kêu lên: “A Mạch.”
Khóe môi A Mạch nhếch lên một nụ cười châm chọc, nhẹ giọng nói: “Cái gì mà quốc thù gia hận, chẳng qua là e ngại uy danh của phụ thân ta mà thôi! Nên ta càng muốn để cho người nọ biết, Nam Hạ mặc dù không có phụ thân ta, cũng sẽ không để cho người khác biến thành thịt cá trên thớt, phụ thân có ta, Nam Hạ có ta!”
A Mạch chưa bao giờ nói về thân thế của mình với người khác, cho dù có người hỏi, nàng cũng chỉ nói hàm hồ mấy câu cho qua chuyện, giờ lại dùng khẩu khí bình thản, chậm rãi nói với Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa nghe mà vừa kinh ngạc vừa mắc cỡ, kinh ngạc vì A Mạch lại có thân thế thế như vậy, mắc cỡ vì anh ta lại hiểu lầm A Mạch, sợ nàng sẽ dùng tính mạng của tướng sĩ để đổi lấy quyền thế danh vọng. Đường Thiệu Nghĩa vốn không phải người có khẩu khiếu lanh lợi, giờ phút này biết mình nghĩ oan cho A Mạch, liền âm thầm tự trách bản thân, vì thế nhất thời lại không biết nên nói cái gì mới tốt, vài lần há miệng, nhưng rồi lại không thể nói ra lời nào.
A Mạch cũng chỉ thản nhiên cười, nói: “Đại ca, là ta không tốt, không nên gạt huynh như vậy.” Nàng không để Đường Thiệu Nghĩa kịp trả lời, lại nói thêm: “Đại ca, huynh đừng hỏi cha ta là ai, cũng đừng hỏi danh tính người kia là ai, được không?”
Đường Thiệu Nghĩa yên lặng nhìn A Mạch, hai tay không tự giác nắm chặt lấy bả vai A Mạch, trầm giọng đáp: “Được, ta không hỏi.”
Giờ phút này, cõi lòng A Mạch đã vững vàng trở lại, trái lại, cảm xúc trong lòng Đường Thiệu Nghĩa lại khuấy động không ngừng, A Mạch sợ anh ta trong lúc nhất thời xúc động sẽ kéo mình ôm vào lòng, vội hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa nhếch miệng cười, cố ý trêu chọc nói: “Đại ca, tay huynh mà dùng thêm chút lực nữa là có thể gỡ được hai cánh tay của ta xuống đấy.”
Đường Thiệu Nghĩa nhất thời quẫn bách, vội vàng buông lỏng tay ra, đúng lúc đó lại nghe thấy tiếng cửa phòng mở ra, Trương Sĩ Cường bưng cơm canh từ ngoài cửa nhẹ nhàng bước vào, nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa ở trong phòng không khỏi sửng sốt, kinh ngạc nói: “Đường tướng quân? Ngài đến khi nào vậy?”
Đường Thiệu Nghĩa đỏ mặt gật gật đầu, cũng không trả lời câu hỏi của Trương Sĩ Cường, chỉ quay đầu nói với A Mạch: “Ngươi nhanh ăn cơm đi, ta về trước đây.” Nói xong, không đợi A Mạch trả lời liền vội vã đứng dậy đi ra ngoài.
Trương Sĩ Cường nhìn thấy thật kỳ quái, nhịn không được quay đầu hỏi A Mạch: “Đại nhân, Đường tướng quân làm sao vậy?” Lời còn chưa dứt, Đường Thiệu Nghĩa vừa ra khỏi cửa đã quay lại, đến trước đầu giường của A Mạch, muốn nói gì đó rồi lại thôi.
A Mạch ngửa đầu nhìn anh ta, ngạc nhiên nói: “Đại ca, làm sao vậy?”
Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa vẫn còn chút ửng hồng, vài lần muốn nói lại thôi, cuối cùng khi mở miệng chỉ là câu: “Ngươi nhanh ăn cơm đi!”
Nói xong lại xoay thẳng người bước đi. Trương Sĩ Cường bưng cơm canh đứng trước giường A Mạch, nhìn mà chẳng hiểu gì. Thần sắc A Mạch cũng đầy phức tạp nhìn theo bóng dáng kích động của Đường Thiệu Nghĩa, nhất thời có chút thất thần.
Bên ngoài phòng, mặt trời dù đã ngả về tây nhưng sức nóng lại vẫn vô cùng gay gắt. Đường Thiệu Nghĩa bước nhanh ra khỏi tiểu viện của A Mạch rồi mới dừng lại, chậm rãi mở lòng bàn tay vẫn nắm chặt ra. Trong lòng bàn tay, một khuyên tai bạc phản chiếu ánh nắng mặt trời tỏa ra ánh sáng chói mắt, chính là vật mà hôm qua ở cửa hàng trang sức A Mạch nhìn đến ngây người. Đường Thiệu Nghĩa cúi đầu yên lặng nhìn một lát, đem khuyên tai cẩn thận để vào trong hà bao tùy thân, lại quay đầu đưa mắt nhìn tiểu viện của A Mạch, lúc này mới nhanh chóng rời đi.
Cũng ở trong thành Thái Hưng, Thường Ngọc Thanh một mình ngồi dựa vào gốc cây hòe sau hậu viện, ước chừng đã ngồi đó cả nửa ngày. Thôi Diễn vài lần mượn cớ đi qua, cũng không khiến Thường Ngọc Thanh c, lần cuối cùng, khi Thôi Diễn thật sự không còn kiên nhẫn nữa, lập tức đi đến trước mặt Thường Ngọc Thanh, kêu lên: “Đại ca!”
Thường Ngọc Thanh cụp mi mắt xuống không biết cân nhắc cái gì, thần trí chẳng biết lạc ở đâu, khẽ “Hử” một tiếng.
Thôi Diễn nhìn mà không thở nổi, lại lớn tiếng kêu một tiếng: “Đại ca”, Thường Ngọc Thanh lúc này mới đưa mắt nhìn Thôi Diễn, thản nhiên hỏi: “Chuyện gì?”
Thôi Diễn đặt mông ngồi đối diện với Thường Ngọc Thanh, phẫn nộ nói: “Chẳng qua cũng chỉ là một nữ nhân, huynh nếu thực sự thích nàng như vậy, thì cứ đoạt nàng về, trước đưa vào động phòng rồi sau hãy tính! Khi gạo đã nấu thành cơm, nàng chẳng lẽ còn không ngoan ngoãn đi theo huynh sao!”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NĂM: Cao triển sí bằng trình thiên vạn lí
(Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)
...:::...
Chương 105: Mạch Tuệ – Sửa chữa sai lầm
Thường Ngọc Thanh nghe mà dở khóc dở cười, A Mạch là một tướng lãnh hết sức quan trọng của quân Giang Bắc, bao nhiêu năm qua Nam Hạ mới có được, vậy mà qua miệng Thôi Diễn lại thành “chẳng qua chỉ là một nữ nhân”! Lại thấy vẻ mặt tức giận cùng khinh thường của Thôi Diễn, Thường Ngọc Thanh đành phải trầm mặt, giáo huấn: “Ngươi quá loạn ngôn rồi đấy, nàng là tướng lãnh Nam Hạ, sao có thể dễ dàng để ngươi cướp đoạt? Lại còn gạo nấu thành cơm, ngươi coi ta là loại người nào?”
Thôi Diễn gân cổ, trừng mắt nói: “Cái gì mà tướng lãnh Nam Hạ, chẳng phải chỉ là một nữ nhân thôi sao, chúng ta chỉ cần vạch trần thân thế của nàng, ta không tin đám mọi rợ Nam Hạ có thể chấp nhận một tướng quân là nữ nhi! Đến lúc đó đại ca…”
“Thôi Diễn!” Thường Ngọc Thanh đột nhiên lớn tiếng quát, cắt ngang lời Thôi Diễn, sắc mặt đầy vẻ giận dữ, lạnh giọng nói: “Ngươi và ta thân là đại trượng phu, trên chiến trường lại thất bại trong tay nữ nhân đã là một nỗi sỉ nhục rồi, sao có thể lợi dụng thân phận nữ nhân của nàng để bức bách người ta ủy thân cho mình!”
Thôi Diễn thấy Thường Ngọc Thanh thật sự tức giận, sợ tới mức cúi đầu, miệng cũng chỉ dám nhỏ giọng nói thầm: “Ta cũng chỉ nói thế thôi, đại ca đừng giận a.”
Sắc mặt Thường Ngọc Thanh vẫn lạnh lùng như trước, nói: “A Diễn, dù ta có muốn cướp người, thì cũng là ở trên chiến trường quang minh chính đại cướp lấy, tuyệt sẽ không ngấm ngầm dùng thủ đoạn hạ lưu này, ngươi đánh giá đại ca ngươi quá thấp rồi đấy!”
Thôi Diễn nghe xong vội vàng nói: “Đại ca, ta không có ý đó.”
“Tốt nhất là không có,” sắc mặt Thường Ngọc Thanh thoáng dịu đi, ngừng lại một chút rồi nói thêm: “Về sau đừng bao giờ nhắc lại những lời này nữa!”
Thôi Diễn vội vàng vâng vâng dạ dạ, nhưng trong đầu vẫn vương vẫn chút thắc mắc, chần chờ một lát lại hỏi: “Đại ca, chẳng phải lần này chúng ta sẽ nghị hòa với bọn mọi rợ Nam Hạ hay sao? Chờ nghị hòa xong, đại ca và nàng không còn đánh trận nữa, thế thì làm sao ở trên chiến trường mà cướp người được?”
Thường Ngọc Thanh bị hỏi nhất thời nghẹn giọng, chằm chằm nhìn Thôi Diễn một lúc lâu, thấy trên mặt Thôi Diễn không hề có vẻ đùa giỡn, đúng là thật sự đang thắc mắc về vấn đề này. Thường Ngọc Thanh cười, bất đắc dĩ nói: “Chẳng qua chỉ là một cách nói khác mà thôi, chứ ta đâu thể ở trên chiến trường, trước mặt thiên binh vạn mã mà cướp người được! Lại nói lần này chúng ta nghị hòa cũng không biết là được bao nhiêu năm, chẳng lẽ không bao giờ còn đánh trận nữa sao? Hôm nay nghị hòa, ngày sau lại đánh, chỉ cần Bắc Mạc ta một ngày chưa bình định thiên hạ, thì trận chiến này chỉ là đánh trước hay đánh sau mà thôi.” Thường Ngọc Thanh dừng lại, nhẹ nhàng nhếch môi cười, lại nói tiếp: “Huống chi ta và nàng lại ở hai đầu chiến tuyến, trên tay ta dính máu mười mấy vạn tính mạng người Nam Hạ, trên tay nàng cũng dính máu mấy vạn nam nhi Bắc Mạc chúng ta, vậy thì còn có thể như thế nào được nữa?”
Những lời này khiến tâm tư Thôi Diễn càng thêm rối rắm, lấy tay gãi đầu, rất là khó xử hỏi: “Vậy làm sao bây giờ?”
Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Cái gì làm sao bây giờ?”
“Đại ca không phải thích nàng sao?”
Thường Ngọc Thanh nhìn Thôi Diễn, bật cười sang sảng, sắc mặt nặng nề, cười nói: “Bây giờ nên làm thế nào thì cứ làm thế ấy đi, ngươi không phải cũng đã nói rồi sao? Chẳng qua cũng chỉ là một nữ nhân!” Vừa nói, vừa từ dưới tàng cây đứng dậy, tùy ý vỗ vỗ bụi đất bám trên người, rồi một mình xoay người rời đi.
——————-
Tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, trên bàn đàm phán của hai nước Bắc Mạc và Nam Hạ nóng như trên chảo lửa, Bắc Mạc từng bước ép sát, ngoài phần lớn lượng tiền cống hàng năm, còn ép buộc Nam Hạ cắt nhường vùng Giang Bắc gồm tám châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, Ký. Ngoài bàn đàm phán, Chu Chí Nhẫn đã tập trung hơn mười vạn quân hướng vào phía bắc thành Thái Hưng, chỉ đợi nghị hòa thất bại liền tấn công Nam Hạ.
Sáu châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương đã bị Bắc Mạc khống chế, cắt nhượng thì đã đành, nhưng hai châu Thanh, Ký vẫn còn nằm trong tay mình, cứ như vậy mà đem những vùng đất trong thực tế không hề bị khống chế dâng cho địch, sao tránh được miệng lưỡi thiên hạ? Nhưng nếu nghị hòa không thành thì lại tiếp tục đánh, trong khi chuyện bình định ở Vân Tây mãi không thấy có kết quả, chưa nói đến quốc khố không thể duy trì chi phí quân sự khổng lồ này, mà chỉ cần nói vạn nhất đại quân Bắc Mạc thuận theo sông Uyển đánh xuống Giang Nam, cùng phản quân Vân Tây hai mặt giáp công Thịnh Đô, thì Nam Hạ lập tức sẽ rơi vào hiểm cảnh mất nước.
Triều đình Nam Hạ thực khó xử, những biện thủ[1] trên bàn đàm phán lại càng khó xử. Tuy rằng sứ thần nghị hòa mới tới là Thương tiểu Hầu gia đã mang chỉ thị mới nhất của triều đình đến – cắt nhường những vùng bị chiếm đóng ở Giang Bắc để đổi lấy hòa bình, nhưng không ngờ rằng cái miệng sư tử của Bắc Mạc hóa ra lại rất lớn, ngay cả hai châu chưa công chiếm được là Thanh, Ký cũng đều muốn!
[1]. Biện thủ: người phụ trách việc biện luận trong cuộc nghị hòa.
Nếu nhất định phải cắt nhường hai châu đó thì thật uất ức! Nếu không cắt nhường thì lại rất nguy hiểm! Rốt cuộc phải làm thế nào mới tốt?
Biện thủ Nam Hạ quay đầu nhìn thần sắc của sứ thần nghị hòa Thương Dịch Chi, chỉ thấy anh ta vẫn cúi thấp đầu, không nhanh không chậm thổi chén trà trong tay, khuôn mặt vẫn trầm lắng không lộ chút thanh sắc như mọi khi! Nhìn là biết không chịu đồng ý, vậy thì phải tiếp tục đàm phán rồi!
Nhưng phải đàm phán thế nào đây? Biện thủ Nam Hạ vừa khổ sở buồn phiền lại vừa mê man. Vị sứ thần nghị hòa mới tới này đúng là đại Phật gia a, chỉ biết ngồi đó mà chẳng chịu nói gì. Bộ dạng của vị Phật gia này trên bàn đàm phán nếu không phải híp mắt ngủ gà ngủ gật thì là bưng chén nhàn nhã tự tại phẩm trà, đến nửa phần cũng không bằng sứ thần nghị hòa Cao Cát trước đây.
Vẫn phải quay lại cùng Bắc Mạc tiếp tục thương lượng thôi: Nếu không làm như thế này đi, chúng ta cắt nhường sáu châu là Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, tiền cống hàng năm cho các ngươi sẽ nhiều lên một chút, được không?
Cầm đầu đám biện thủ Bắc Mạc: Không được, tiền cống hàng năm các ngươi không thể ít hơn, mà hai châu Thanh, Ký chúng ta nhất định cũng phải lấy.
Biện thủ Nam Hạ phẫn uất: Các ngươi đừng khinh người quá đáng, hai châu này vẫn nằm trong tay chúng ta, dựa vào cái gì chúng ta phải cho các ngươi?
Biện thủ Bắc Mạc khinh thường nói: Chúng ta ở phía tây thành Thanh Châu có đại quân đóng giữ, ít ngày nữa liền đánh hạ Thanh Châu, sau đó đông tiến đánh chiếm Ký Châu, hạ Sơn Đông, chúng ta có thừa sức lấy sông Uyển làm gianh giới!
Biện thủ Nam Hạ nóng nảy: Ngươi nói ngươi có có thừa sức? Nói suông vô dụng, ngươi cứ thử đem thực lực của ngươi chiếm lĩnh toàn bộ phía bắc sông Uyển để chứng minh thực lực của ngươi đi, không cần phải “Phân tích” nhiều! Trên bàn đàm phán tất cả những thứ phân tích đều không thể thừa nhận được.
Biện thủ Bắc Mạc đứng bật dậy vỗ mông nói: Tốt lắm, vậy thì chúng ta đánh tiếp.
Biện thủ Nam Hạ vô lực… Đánh tiếp? Binh lực triều đình chủ yếu đã tập trung bình định Vân Tây, sao còn có tinh lực cho phương bắc nữa!
Biện thủ Nam Hạ vội vàng đưa tay lên: Đừng nóng vội, ngồi xuống, ngồi xuống đã, có gì chúng ta cứ tiếp tục thương lượng, thương lượng…
Cuối tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, Nam Hạ và Bắc Mạc cuối cùng đã đạt được hòa ước: Thứ nhất, phía tây lấy sông Uyển làm gianh giới, phía đông lấy Thái Hành Sơn làm gianh giới, lấy phía bắc nối liền Bắc Mạc, lấy phía nam nối liền Nam Hạ; thứ hai, Nam Hạ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh cho Bắc Mạc; thứ ba, hàng năm Nam Hạ phải tiến cống cho Bắc Mạc bạc, lụa mỗi loại năm mươi vạn lượng, tấm; từ năm thứ năm Thịnh Nguyên sẽ bắt đầu, hàng năm vào mùa xuân sẽ đưa tới Thái Hưng giao nộp.
Đến đây, hòa ước Thái Hưng chính thức được ký kết, có người vui mừng có người buồn bã, còn có người nhìn không thấu.
Bên trong dịch quán Thái Hưng, Khương Thành Dực cúi đầu xem kỹ các điều khoản của hòa ước, đến khi nhìn đến điều khoản Nam Hạ chỉ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, thì ngẩng đầu hỏi Trần Khởi: “Nguyên soái, tại sao không lấy nốt cả Ký Châu?”
Trần Khởi một thân thường phục, thẳng lưng ngồi trước án thư, lật một trang của cuốn sách cầm trong tay, tùy ý đáp: “Có Thanh Châu sẽ không cần Ký Châu, bức ép bọn họ quá ngược lại cũng không tốt.”
Khương Thành Dực vẫn khó hiểu, hỏi: “Chẳng phải nói chỉ tiến cống thôi sao? Sao bọn họ lại đổi ý?”
Trần Khởi nghe vậy ngẩng đầu liếc mắt nhìn tâm phúc của mình, khóe miệng lộ ra một ý cười thản nhiên, nói: “Lời nói của Nam Hạ thì làm sao mà chuẩn xác được, hơn nữa thành trì chỉ có tự mình đánh hạ thì mới có ý nghĩa, Thanh Châu có thể cho chúng ta cũng đã là ngoài ý muốn rồi, có thể thấy được Thường gia cũng thật công phu, biết cũng nhiều!”
Khương Thành Dực nghe xong gật đầu, nói: “Khó trách lão hồ li Thường gia lại để Thường Ngọc Thanh đến Thịnh Đô, Thường gia tấn công đã lâu mà không hạ được Thanh Châu, nay mượn cơ hội này lấy được Thanh Châu, về sau làm bàn đạp tấn công hạ Ký Châu. Thường Ngọc Thanh vốn có công phá Tĩnh Dương quan, nếu có thể tiếp tục cướp lấy Ký Châu, e rằng Thường gia có lẽ sẽ được phong hầu.”
Trần Khởi cười cười, khẽ lắc lắc đầu, Thường gia đã tồn tại cả trăm năm, sao chỉ ham muốn một Ký Châu nhỏ bé như vậy!
Khương Thành Dực do dự một lát, lại hỏi: “Nguyên soái, ta vẫn không hiểu vì sao chúng ta phải nghị hòa với Nam Hạ, hiện giờ tình thế của chúng ta đang rất tốt, sao không tiếp tục truy kích, thừa cơ tấn công Nam Hạ? Cùng quân Vân Tây hình thành thế giáp công Thịnh Đô, chắc chắn sẽ diệt được Nam Hạ!”
Trần Khởi buông cuốn sách trong tay xuống, ngẩng đầu nhìn Khương Thành Dực, nói: “Thời cơ tiêu diệt Nam Hạ chưa tới.”
“Vì sao?” Khương Thành Dực hỏi.
Trần Khởi cân nhắc một chút rồi chậm rãi nói: “Quân ta sở dĩ có thể công chiếm Giang Bắc, chẳng qua chỉ dựa vào ưu thế của kỵ binh, thực hiện tấn công thọc sâu, sau đó quay ngược trở lại tấn công Tĩnh Dương quan, mở được biên quan Nam Hạ. Sau khi đại quân lọt qua quan ải cũng là tận dụng lợi thế tốc độ của kỵ binh, áp dụng nhiều hướng đột tiến, tiến công trọng điểm chiến lược. Mặc dù đã đánh hạ được đại bộ phận Giang Bắc, nhưng vốn chiến tuyến vừa trải rộng lại kéo dài, kết quả là binh lực bị phân tán, việc cấp dưỡng cung ứng gặp nhiều khó khăn. Mà Nam Hạ dù bị sa lầy trong vũng bùn bình định Vân Tây, nhưng quốc lực chiếm thế thượng phong, lại có sông Uyển hiểm trở, phòng thủ chiến tuyến tại sông Uyển vững chắc…”
Khương Thành Dực chỉ cảm thấy trong lòng được khai sáng, không khỏi nói tiếp: “Mà quân ta nếu một mình xâm nhập quá sâu, sẽ rơi vào thế hai mặt thụ địch, thêm nữa, càng đi về phía nam, ưu thế của kỵ binh quân ta lại càng giảm, tiếp viện cũng gặp nhiều khó khăn hơn.”
Trần Khởi cười, nói: “Không sai, cho nên hiện giờ không phải thời cơ tốt nhất để tiêu diệt Nam Hạ, cùng đối đầu với Nam Hạ, không bằng quay lại tập trung lực lượng giải trừ nỗi lo về sau[2], trước phân tán lực lượng phản kháng ở Giang Bắc, đợi Nam Hạ dốc toàn lực đối phó Vân Tây, binh lực bảo vệ sông Uyển không đủ, lúc đó chúng ta tấn công Nam Hạ cũng không muộn, trước từ Thanh Châu xuống Ký Châu, Sơn Đông, sau đó vượt qua Giang Nam, đó là thời khắc bại vong của Nam Hạ.”
[2]. Mối lo về sau: nguyên văn: Hậu cố chi ưu.
Khương Thành Dực nghe được kêu lớn một tiếng tuyệt, khen: “Khó trách lần này nguyên soái cùng Thường gia lại thống nhất ý kiến, không để ý đến sự phản đối trong triều mà nghị hòa, thì ra là sớm tính toán kỹ càng rồi.”
Trần Khởi cười mà không nói, lại cúi đầu đọc sách. Khương Thành Dực nghĩ nghĩ, lại có nghi vấn khác, nhịn không được lại hỏi: “Nhưng trước thì hòa ước, sau lại bội ước khởi binh, sợ là không hay cho lắm.”
Trần Khởi cười liếc nhìn anh ta, vui đùa nói: “Đến lúc đó tùy tiện tìm cái cớ nào mà chẳng được? Ngươi cũng không phải ngày đầu tiên mang binh đánh giặc, chẳng lẽ điều đơn giản như vậy cũng không biết đấy chứ?”
Khương Thành Dực đỏ mặt, đang muốn biện giải vài câu, lại nghe thấy ngoài cửa có thân binh bẩm báo sứ thần nghị hòa Tạ Thừa Ân cầu kiến. Khương Thành Dực ngẩn ra, không khỏi nhìn về phía Trần Khởi, thấy trên mặt Trần Khởi cũng hiện lên một tia ngạc nhiên, hiển nhiên cũng không biết Tạ Thừa Ân sao lại đến đây. Khương Thành Dực đang lúc cảm thấy lạ thì Trần Khởi đã lên tiếng: “Mời Tạ đại nhân vào.”
Sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc Tạ Thừa Ân từ bên ngoài tiến vào, đồng thời mang đến một tin tức ngoài dự liệu cho Trần Khởi và Khương Thành Dực. Đó là nguyên soái Vệ Hưng của quân Giang Bắc yêu cầu để quân Giang Bắc đóng ở phía tây thành Thái Hưng hội ngộ cùng quân giữ thành Thái Hưng, trước tiến vào thành, đi qua cửa nam thành Thái Hưng, ra khỏi thành Thái Hưng rồi hành quân về hướng Giang Nam.
Trong hòa ước Thái Hưng đã viết rất rõ ràng rằng Thái Hưng là thành trì lệ thuộc Bắc Mạc, cũng quy định quân Giang Bắc nhất định phải đi về Giang Nam, nhưng lại không quy định quân Giang Bắc là đi thẳng về Giang Nam hay là vào thành Thái Hưng rồi mới độ nam[3], vì thế mới sinh ra nghĩa khác, Vệ Hưng liền đưa ra yêu cầu này. Đừng nói Tạ Thừa Ân cảm thấy hồ đồ, mà ngay cả Trần Khởi nghe vậy cũng nhất thời không hiểu.
[3]. Nam độ: tiến quân về phía nam.
Vệ Hưng định làm gì?
Tạ Thừa Ân nói: “Vệ Hưng nói quân Giang Bắc vốn là vì Thái Hưng mới ra khỏi núi Ô Lan, vì thế tám vạn đại quân thiệt hại mất quá nửa, hiện nay nhất định phải độ nam, nói cái gì mà muốn cho tướng sĩ được một lần tiến vào thành Thái Hưng.”
Trần Khởi trầm mặc không nói gì, giống như đang cân nhắc. Khương Thành Dực đưa mắt nhìn Trần Khởi, ngạc nhiên nói: “Trong thành Thái Hưng, quân giữ thành đã độ nam hơn phân nửa, chỉ còn lại mấy ngàn người ở trong thành duy trì trị an. Quân Giang Bắc hiện tại không đủ ba vạn, vào thành Thái Hưng thì có thể làm được gì? Chẳng lẽ còn dám thủ thành? Như thế chẳng phải thành cá trong chậu sao?”
Trần Khởi đưa mắt nhìn Tạ Thừa Ân, hỏi: “Tạ đại nhân thấy thế nào?”
Trên mặt Tạ Thừa Ân hiện lên vẻ ngượng nghịu, do dự một chút rồi nói: “Hiện tại hòa ước mặc dù đã ký kết, nhưng hạ quan cảm thấy quân Giang Bắc một ngày chưa di chuyển về phía nam, hòa ước có khả năng sẽ xảy ra chuyện xấu, ý của hạ quan là, chi bằng…”
“Chi bằng trước hết làm theo ý bọn họ, cho bọn họ vào thành Thái Hưng, cũng sớm hoàn thành việc nghị hòa.” Trần Khởi cười, anh ta biết rõ tâm tư của Tạ Thừa Ân, thân là sứ thần nghị hòa, đương nhiên mọi sự đều lấy việc nghị hòa đặt lên hàng đầu.
Tạ Thừa Ân thấy Trần Khởi nói thẳng tâm tư của mình ra, không khỏi có chút ngượng ngùng, vội vàng nói thêm: “Hạ quan không hiểu việc quân, cũng không đoán ra Vệ Hưng rốt cuộc là có ý đồ gì, vẫn là thỉnh Trần soái định đoạt.”
Tuy Trần Khởi nắm trong tay hơn nửa binh quyền của quốc gia, nhưng cách xử sự làm người lại vẫn vô cùng nhũn nhặn, khi kết giao với đám quan văn lại càng khách khí hơn, nghe Tạ Thừa Ân nói thế, liền cười nói: “Tạ đại nhân quá khiêm nhường rồi. Hoàng Thượng lệnh cho ta đưa quân đến Thái Hưng chẳng qua là để đề phòng việc đàm phán thất bại có thể bất ngờ sinh biến cố. Này Hoàng Thượng đã giao việc nghị hòa cho Tạ đại nhân, vậy thì Tạ đại nhân cứ tuỳ cơ mà ứng biến.”
Trần Khởi tuy nói như vậy, nhưng Tạ Thừa Ân cũng không dám vượt mặt đại nguyên soái chinh nam mà tỏ ra chuyên quyền độc đoán, lại vội vàng cùng Trần Khởi khách khí đưa đẩy, thấy Trần Khởi cũng không cố ý làm ra vẻ ta đây, liền đứng dậy cáo từ, nói rằng sẽ đi chuyển thông cáo cho người phụ trách việc nghị hòa của Nam Hạ, cho phép quân Giang Bắc đi qua thành Thái Hưng thành nam độ.
Trần Khởi lại gọi Tạ Thừa Ân lại, cười nói: “Đàm phán đã thành công, ta ở lại trong thành cũng không có tác dụng nữa, hai ngày sau sẽ rút khỏi Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, sau này sẽ cùng đại quân vào thành.”
Lời này vừa nói ra, lập tức khiến Tạ Thừa Ân giật mình, chỉ có điều ông ta có thể trở thành sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc, thì có nghĩa cũng là người rất thông minh, chỉ một lát sau liền hiểu được ý của Trần Khởi, lập tức nói: “Cũng tốt, đợi mấy ngày nữa hạ quan tiếp quản thành Thái Hưng, chắc chắn sẽ đốt pháo nghênh đón Trần soái vào thành!”
Trần Khởi cười tiễn Tạ Thừa Ân đến tận cửa, lại lệnh cho Khương Thành Dực thay mình đưa ông ta ra ngoài. Một lúc sau, Khương Thành Dực trở về, lúc này mới hỏi Trần Khởi về nỗi nghi hoặc trong lòng: “Nguyên soái sợ Vệ Hưng vào thành là vì chúng ta sao?”
Khuôn mặt Trần Khởi bình tĩnh, ánh mắt trầm ổn, thản nhiên đáp: “Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng ngươi và đều ở trong thành, mặc dù là âm thầm vào thành, nhưng khó tránh khỏi có người nhận ra.” Nói tới đây, Trần Khởi bất giác khẽ giật mình mà ngừng lại, song rất nhanh lại phục hồi tinh thần, tiếp tục nói: “Mặc dù đại quân chỉ cách Thái Hưng khoảng một trăm dặm, nhưng vạn nhất khi Vệ Hưng đưa quân Giang Bắc vào thành, sau đó đột nhiên gây khó dễ, mấy người chúng ta e là khó có thể ứng phó được. Cho nên… không thể không đề phòng.”
Ngày hai mươi tám tháng bảy, Trần Khởi, Khương Thành Dực, Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng các tướng lĩnh Bắc Mạc âm thầm ra khỏi thành Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, cùng ngày hôm đó, sứ thần nghị hòa Bắc Mạc là Tạ Thừa Ân đồng ý cho quân Giang Bắc của Nam Hạ đi qua thành Thái Hưng mà nam độ.
Đại doanh Chu Chí Nhẫn cách Thái Hưng cùng lắm chỉ một trăm dặm, đám người Trần Khởi chưa đến buổi trưa đã đến bên ngoài đại doanh, chỉ thấy bên trong quân doanh kỷ luật nghiêm minh, hàng ngũ nghiêm chỉnh, phòng vệ chặt chẽ, thỉnh thoảng còn có quân sĩ mặc trang phục cấm vệ quân ra vào cổng doanh trại. Trần Khởi nhìn thấy trong lòng vừa động, Khương Thành Dực ở bên cạnh đã nhỏ giọng hỏi: “Nguyên soái, sao cấm vệ quân cũng đến đây?”
Trần Khởi vẫn chưa trả lời, chỉ xuống ngựa chờ trước cổng doanh trại, sai người vào thông báo cho Chu Chí Nhẫn. Thôi Diễn mất kiên nhẫn, nhịn không được lên tiếng nói: “Nguyên soái sao còn phải cho người thông báo làm gì, quân giữ cổng doanh trại nhìn thấy chúng ta kiểu gì chẳng nhận ra, cứ bảo thẳng hắn mở cổng doanh trại ra là được.” Nói xong liền đi lên định tìm tên quan giữ cổng vừa nhấc được một bước chân đã bị Thường Ngọc Thanh kéo lại. Thôi Diễn nhìn vẻ mặt trầm mặc của Trần Khởi, lại liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh đang nhếch khóe miệng cười, tuy không rõ điều gì nhưng cũng dừng cước bộ lại.
Một lát sau, cổng doanh trại mở ra, phó tướng của Chu Chí Nhẫn vội vàng từ trong doanh trại bước ra, một mặt đón đoàn người Trần Khởi vào trong doanh trại, một mặt thấp giọng nói với Trần Khởi: “Hoàng thượng tới, Chu tướng quân đang ở trong đại trướng tiếp thánh giá.”
Trong lòng Trần Khởi mặc dù sớm đã đoán ra, nhưng vẫn kinh ngạc hỏi: “Sao Hoàng Thượng lại đến đây?”
Phía sau, Thường Ngọc Thanh đột nhiên khẽ bật ra tiếng cười chế nhạo, khiến cho mấy người bên cạnh đều đưa mắt nhìn sang, Thường Ngọc Thanh lại cười giải thích với Thôi Diễn: “Đột nhiên nhớ tới câu chuyện cười ngươi kể hôm qua, nhất thời không nhịn được.” Thôi Diễn lần này không ngốc đến nỗi hỏi lại anh ta hôm qua mình kể chuyện cười gì, nhưng cũng không tự chủ được mà liếc mắt nhìn Trần Khởi. Sắc mặt Trần Khởi vẫn bình tĩnh, như thể không nghe thấy Thường Ngọc Thanh nói gì, thấp giọng hỏi viên phó tướng: “Hoàng Thượng tuyên triệu ta vào yết kiến sao?”
Viên phó tướng gật đầu nói: “Hoàng Thượng tuyên một mình nguyên soái vào yết kiến.”
Bên ngoài đại trướng, binh khí như rừng, bảo vệ nghiêm ngặt, quân sĩ bảo vệ mặc áo giáp sáng chói, đều là phục sức cấm vệ quân. Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc đang nghe lão tướng Chu Chí Nhẫn báo cáo dự trù kế hoạch kiến tạo thành lập thuỷ quân, nghe thấy thông báo Trần Khởi đã đến, liền vội vàng cho người triệu Trần Khởi vào trướng.
Trần Khởi tiến vào đại trướng, cung kính hành lễ với tiểu hoàng đế, sau đó ngay lập tức dùng trực ngôn can gián mà nói rằng: “Quân Nam Hạ chỉ cách nơi này hơn một trăm dặm, Hoàng Thượng không nên mạo hiểm đến đây.”
Tiểu hoàng đế Bắc Mạc mới mười bảy, mười tám tuổi, trong ánh mắt vẫn còn lộ vẻ non nớt của một thiếu niên ít tuổi, cười nói: “Ngươi và Chu lão tướng quân đều ở đây, trẫm đâu thể gặp nguy hiểm được!”
Khóe miệng Trần Khởi mấp máy, muốn nói lại thôi. Tiểu hoàng đế thấy vậy lại trêu ghẹo nói: “Ngươi chớ có học Thái Hậu mà suốt ngày nhẩm nhẩm niệm niệm đấy nhé, trẫm đợi ở Dự Châu ước chừng đã hơn một năm nay, thật sự rất nhàm chán, Thái Hậu lại còn truy theo, ngày ngày đều nhắn nhủ nhớ trẫm, giục trẫm quay về, trẫm có lẽ cũng sớm phải chạy về kinh đô mất thôi.”
Hoàng đế kể chuyện cười ai dám không cười? Trong trướng, mọi người đều vội vàng mỉm cười. Trần Khởi cũng cười, mượn cơ hội này không nói lời khuyên can nữa, đợi khi tiểu hoàng đế hỏi về việc tại thành Thái Hưng, liền đem chuyện Vệ Hưng nhất định đòi vào thành Thái Hưng nói ra, tiểu hoàng đế vừa nghe đến trong tay Vệ Hưng không có đủ hai vạn quân, thì chẳng buồn để ý, thậm chí còn nói đùa một câu: “Nghe nói Vệ Hưng trước kia từng làm thị vệ của hoàng đế Nam Hạ, một thân nội gia công phu rất cao, cứ để hắn ta chạy đi như vậy cũng thật đáng tiếc.”
Trần Khởi khẽ nhếch khóe môi, nhưng lại không nói gì.
Tiểu hoàng đế lại hỏi Trần Khởi một chút tình hình trong thành Thái Hưng, cuối cùng mới lệnh cho Trần Khởi lui xuống nghỉ ngơi. Khi Trần Khởi trở lại trong doanh trướng của mình, Khương Thành Dực đã là chờ ở đó, hai người chưa kịp nói chuyện, lại thấy tiểu công công hầu hạ bên cạnh hoàng đế tiến vào, trên mặt lộ nụ cười lấy lòng, đem một phong thư đặt vào tay Trần Khởi, nói: “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ giao tận tay cho Trần soái, nói là vừa rồi quên mất.”
Trần Khởi trịnh trọng tiếp nhận, tạ ơn tiểu công công kia rồi nói: “Làm phiền tiểu công công rồi.”
Tiểu công công kia đưa xong rồi cũng không chịu đi, vừa cười vừa nói: “Hoàng Thượng phân phó nô tỳ phải nhìn Trần soái đọc thư xong rồi mới được đi.”
Trong lòng Trần Khởi kinh ngạc, theo lời mở phong thư ra, rút ra một bức thư màu hồng nhạt, bất giác ngẩn người. Khương Thành Dực đứng bên cạnh cũng ngửi thấy có mùi thơm thoang thoảng từ lá thư kia bay ra, nhất thời cũng sửng sốt. Tiểu công công cũng che miệng cười, nói: “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ chuyển lời tới Trần soái, nếu muốn hồi âm thì cứ viết một phong thư để Hoàng Thượng mang trở về, Trần soái yên tâm, Hoàng thượng nhất định sẽ không đọc đâu.”
Trần Khởi dở khóc dở cười, hướng về phía tiểu công công nói: “Đa tạ ý tốt của Hoàng Thượng.”
Tiểu công công lúc này mới đi. Khương Thành Dực vui tươi hớn hở nhìn Trần Khởi, cười hỏi: “Nguyên soái, là Ninh Quốc trưởng công chúa?”
Trần Khởi khẽ gật đầu, tùy ý đưa mắt nhìn nội dung bức thư, rồi nhét lại vào phong thư đặt lên góc án, nghĩ nghĩ, cảm thấy thế cũng không hay, lại cầm lá thư lên.
Khương Thành Dực vốn rất thân cận với Trần Khởi, khi nói chuyện cũng không câu thúc, lại biết Ninh Quốc Trưởng công chúa từ nhỏ vốn ái mộ Trần Khởi, không khỏi cười nói: “Nguyên soái vốn đã sớm đến tuổi cưới vợ sinh con rồi. Xem ra Hoàng Thượng có ý tác hợp nguyên soái cùng Ninh Quốc Trưởng công chúa, nghe nói Ninh Quốc công chúa vừa xinh đẹp lại vừa hiền thục…”
Trên mặt Trần Khởi lại chẳng hề lộ chút vui mừng nào, trong lòng đột nhiên hiện lên bóng dáng của A Mạch, khi đó nàng mới mười ba, mười bốn tuổi, vẫn thường nắm lấy tay áo mình hỏi khi nào thì sẽ lấy tiểu nha đầu là nàng… Trần Khởi khẽ mỉm cười, chẳng nói gì.
Khương Thành Dực thấy thần sắc Trần Khởi không tốt, liền thôi không nói tiếp chuyện đó nữa, chuyển sang hỏi những ngày tới nên an bài như thế nào. Cõi lòng Trần Khởi đã bình ổn lại, thản nhiên cười nói: “Trước cứ chờ xem đã.”
Ngày mùng một tháng tám, sứ thần nghị hòa của Nam Hạ là Thương Dịch Chi quay về Thịnh Đô phục mệnh, thử thành Thái Hưng là Vạn Lương ở lại thành tiếp tục cai quản Thái Hưng.
Ngày mùng ba tháng tám, Vệ Hưng mang quân Giang Bắc từ phía tây thành Thái Hưng vào thành, nhưng không đi ra theo cửa phía nam như đã nói mà lại trú lại trong thành, ép Vạn Lương đóng tất cả bốn cửa thành lại, cũng không động chạm gì đến phái đoàn nghị hòa của Bắc Mạc, ngược lại, dung túng cho quân binh cướp phá cửa hàng của các phú hộ trong thành.
Vì sao Vệ Hưng lại cứ nhất quyết phải vào thành Thái Hưng cho bằng được, giờ thì mọi người đã nhất thời sáng tỏ, chẳng qua mắt thấy Thái Hưng sẽ được cấp cho Bắc Mạc, liền bất chấp nguyên tắc, lúc sắp đi muốn cướp phá sạch sẽ rồi mới tiến về phía nam.
Quả nhiên chẳng thể phân biệt được là binh lính hay giặc phỉ a!
Quân Bắc Mạc nhất thời đều ngạc nhiên. Lặng im một lát, tiểu hoàng đế mới than nhẹ một tiếng: “Vệ Hưng đã từng làm cận thần cho hoàng đế Nam Hạ, sao mới vào quân Giang Bắc chưa đầy một năm lại biến thành phường lưu manh vô lại thế này, quân Giang Bắc chẳng lẽ chính là một nhóm sơn tặc thổ phỉ hay sao?”
Chư tướng trong trướng phần nhiều đã cùng giao chiến với quân Giang Bắc, đều biết rằng sự lợi hại của quân Giang Bắc thì sơn tặc thổ phỉ còn lâu mới sánh bằng, riêng Thôi Diễn vốn nhanh mồm nhanh miệng, chỉ có điều những câu vọt ra miệng thường chưa thông qua đầu óc, lập tức nói: “Cũng không phải vậy! Đường Thiệu Nghĩa vốn cũng từng làm phỉ, trước kia từng mang theo một đám kỵ binh đánh cướp quân ta ở Tây Hồ. Trong đó còn có kẻ gọi là Mạch Tuệ, lại…”
Thôi Diễn nói đến đây mới đột nhiên tỉnh ngộ, trong giây lát liền ngậm miệng. A Mạch tuy có rất nhiều điểm không tốt nhưng cũng là người mà Thường Ngọc Thanh thích, há có thể trước mặt hoàng đế và bao nhiêu người khác mà mắng nàng sao.
Tiểu hoàng đế vốn đang nghe, thấy Thôi Diễn đột nhiên không nói nữa, không khỏi có chút kỳ quái, hỏi: “Mạch Tuệ có phải là kẻ đã mai phục Thường Ngọc Tông không? Lại thế nào, sao không nói tiếp?”
Khóe mắt Thôi Diễn cẩn thận liếc nhìn Thường Ngọc Thanh, ý nghĩ trong đầu đã xoay chuyển vài vòng, trên mặt liền hiện ra vẻ xấu hổ, ngượng ngùng nói: “Thần là bại tướng dưới tay hắn ta, không có mặt mũi nào để nói hắn.”
Tiểu hoàng đế cũng đang lúc vui vẻ, nên chẳng những không có trách cứ Thôi Diễn, ngược lại còn an ủi anh ta: “Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, cũng không cần phải như vậy.”
Thấy tiểu hoàng đế như thế, Chu Chí Nhẫn và Thường Ngọc Thanh bất giác đều nhẹ nhàng thở ra, thầm nghĩ tiểu tử Thôi Diễn này đúng là một tên ngốc thành thực, vận khí cũng không tồi, gặp đúng lúc tâm tình của tiểu hoàng đế đang rất tốt. Vệ Hưng dung túng cho binh lính đánh cướp dân chúng Thái Hưng, chính là tự hủy căn cơ của mình, tiểu hoàng đế mừng rỡ chế giễu, cười nói: “Cứ để mặc cho Vệ Hưng cướp bóc mấy ngày nữa rồi chúng ta dán thông báo an dân, thể hiện rằng quân ta chính là đội quân nhân nghĩa yêu dân.”
Tuy nói như thế, song tiểu hoàng đế vẫn hạ lệnh cho đại quân Bắc Mạc chuẩn bị có thể nhổ trại bất cứ lúc nào để “Cứu” dân chúng Thái Hưng khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Ai ngờ đại quân Bắc Mạc còn chưa kịp nhổ trại, thì từ thành Thái Hưng lại truyền ra tin tức: Vệ Hưng bị thủ hạ là hữu phó tướng quân Mạch Tuệ giết, đoạt lấy binh quyền, sau đó dán thông báo an dân, tiếp đó lại bố cáo trước dân chúng tuyên ngôn chống giặc ngoại xâm, rồi đưa binh ra khỏi Thái Hưng đi về hướng đông!
Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc sắc mặt âm trầm ngồi sau ngự án, viên tiểu công công từ ngoài trướng đi vào, dâng một tờ giấy được cuộn tròn lên trước án. Tiểu hoàng đế thản nhiên nhìn lướt qua, lạnh giọng phân phó: “Đọc đi.”
Trong trướng lập tức vang lên thanh âm the thé của tiểu công công:
“Mạch Tuệ, quê quán không rõ, sinh năm Đinh Hợi.
Năm Thiên Hạnh thứ bảy, theo thủ thành Thanh Châu là tướng Thương Dịch Chi gia nhập quân đội, trước khi tới Dự Châu là thân vệ của Thương Dịch Chi, sau gia nhập vào quân số bộ binh doanh của quân Thanh Châu, trong chiến dịch Dã Lang Câu chém hai mươi ba quân sĩ Bắc Mạc, được thăng làm Ngũ trưởng.
……
Năm Thiên Hạnh thứ tám, trong chiến dịch Ô Lan, dùng ba trăm tàn quân dụ Thường Ngọc Thanh liều lĩnh vượt ngàn dặm tiến vào núi Ô Lan, được thăng làm thiên tướng quan doanh.
Năm Thiên Hạnh thứ chín, trong chiến dịch Thái Hưng, cho quân mai phục tại Bạch Cốt Hạp giết hại ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, sau tại bờ phía đông sông Tử Nha đánh tan truy binh của Thôi Diễn…”