Hồi 99 - Đan Vân, Song Chúc, Tam Kỳ, Tứ Sơn
Dịch: Đả Cẩu Bổng
Nguồn: Nhạn Môn Quan
Ân Thừa Phong, Thiết Thủ, Tức đại nương, Hách Liên Xuân Thủy, Hỷ Lai Cẩm, Đường Khẩn, Dũng Thành, Thập Nhất Lang cùng Thúy Hoàn tránh nạn tại Bí Nham động mười lăm ngày.
Trong thời gian này, bên ngoài xôn xao, đến đâu cũng nghe thấy quan binh đang tìm “phỉ đồ” nhưng không tìm được Bí Nham động.
Trừ mấy thân tín của Thiên Khí Tứ Tẩu, không ai biết trong phong hóa nham cạnh sông Dịch lại có một nơi bí ẩn như vậy, trong vùng sâu lại có một động huyệt thiên nhiên.
Kỳ thật đó cũng chỉ là một động huyệt, Bí Nham động do mười mấy động huyệt thiên nhiên nối nhau, trong đó có máy động bích được đào thông, thậm chí phải đào vách núi mới liền nhau, dùng làm sào huyệt có thể đối kháng quan binh truy sát. Hiện tại nơi đây thành nơi tị nạn của Liên Vân Trại, Hủy Nặc Thành, Thanh Thiên Trại, Hách Liên tướng quân phủ, cùng với bộ thuộc của Cao Kê Huyết, Vi Áp Mao, nha sai Tư Ân trấn, tiêu đầu Thần Uy tiêu cục.
Trừ nhóm nhân thủ vốn đã tụ tập, có thêm mười mấy đệ tử Liên Vân Trại bất ngờ tới.
Nhưng đệ tử này may mắn trốn thoát, ẩn tính mai danh, lưu lạc giang hồ, có người tạm thời giả ý thuần phục rồi nhân lúc Cố Tích Triều truy sát Thích Thiếu Thương liền trốn khỏi quân ngũ Liên Vân Trại, kéo thêm không ít đồng liêu thề không đầu hàng đang ôm lòng oán hận, họ đều không muốn theo Cố Tích Triều và quan binh đi vào vũng nước đục.
Trong năm đội nhân mã, Hủy Nặc Thành không nhớ thù cũ, thu nạp tàn binh của Liên Vân Trại, người Giang Nam Lôi môn định đến tương trợ, không ngờ Hủy Nặc Thành bị công hãm, người Lôi môn thương vong hết sạch, cũng may Hách Liên tướng quân tận lực giúp rập, cả Kê Huyết Áp Mao trượng nghĩa cứu viện, cả nhóm mới kéo đến gia nhập Thanh Thiên Trại.
Những đệ tử trung thành của Liên Vân Trại định tới gia nhập nhưng lại nghe tin Nam Trại bị quan binh phá, bọn Tức đại nương liều vượt sông Dịch, không biết tung tích, quan binh triệu tập binh mã, dốc toàn lực truy tìm. Thất bại này khiến nhiều hảo hán vốn hùng tâm tráng chí, thề chết nghe theo hiệu lệnh của Thích trại chủ nguội lạnh quá nửa nhiệt huyết, một đội nhân mã tiêu tan ý chí, tự lập chỗ đứng, hai đội còn lại án binh bất động, quan sát tình thế rồi mới hành động. Còn lại hai đội binh mã, biết tình thế nguy cấp vượt sông Dịch, đi tìm tứ xứ, để lại ám kí, hy vọng giúp đỡ chủ cũ một tay.
Thiên Khí Tứ Tẩu vốn có giao tình với Liên Vân Trại lão đương gia Lao Huyệt Quang, Liên Vân Trại đến Hải phủ nghe ngóng, Ngô Song Chúc nhiệt tâm, vừa tìm cách giữ lại vừa ngầm sai người đến báo cho Tức đại nương biết đệ tử Liên Vân Trại thoát kiếm nạn tìm tới, hai bên hoan hỷ gặp gỡ, cùng về Bí Nham động thương lượng đại kế.
Cũng tương tự, nữ đệ tử Hủy Nặc Thành cùng Tức đại nương tụ tập tại Bí Nham động.
Quần hiệp trú lại nham động, không dám khinh suất ra ngoài, giữa chắc bốn bề, về phương diện lương thực do Ngô Song Chúc toàn diện tiếp ứng, nước uống có nước ngầm của sông Dịch chảy qua nên không đáng lo.
Vì thế họ an phận dưỡng thương, bình bình an an qua được mười lăm ngày.
Sau đó thì sao?
Đời người có quá nhiều việc không như ý nguyện.
Khi một người cầu bình an chưa chắc đã được như ý nguyện nên y đặc biệt hy vọng bình an, mọi công danh lợi lộc đều không đáng gì.
Nhưng khi y được bình an rồi lại thấy “bình an” quá nhàm chán, lại cho rằng phải có sóng to gió lớn, xông pha vạn tầng sóng phú quý công danh mới là sống.
Cuộc sống luôn mâu thuẫn như vậy.
Lúc một người cầu xin một vật, hoặc không đạt được hoặc đánh mất nó.
Có lẽ đời người là một đại mâu thuẫn, dệt nên từ nhiều tiểu mâu thuẫn.
Hải Thác Sơn cũng có mâu thuẫn.
Trong lòng lão muốn giúp nhóm “vong mệnh” này nhưng lại sợ rước họa với triều đình.
Nhưng lão thiếu ơn Hách Liên Nhạc Ngô tất phải báo đáp, hà huống theo đạo nghĩa võ lâm đồng đạo, không thể bỏ mặc nhóm người đến cầm mình giúp đỡ.
Bất quá lão không muốn đối địch với Phó Tông Thư, Thái Kinh.
Lão đang lúc khó xử, đi đi lại lại.
Hách Liên Xuân Thủy cũng đang mâu thuẫn.
Y biết người phe mình tạm thời buộc phải dựa vào Hải Thác Sơn nhưng y lại không muốn liên lụy Thiên Khí Tứ Tẩu.
Bên ngoài, quan binh truy lùng ráo riết, nếu xông ra càng tệ hại hơn.
Nên y đành tạm thời án binh bất động.
Y chỉ hy vọng có ngày báo đáp được Quỷ Vương thủ thần tẩu.
Tuy hiểu rõ “ngày đó” vô cùng phiêu diêu, hiện tại y là địch nhân của Hoàng Kim Lân, Cố Tích Triều, Văn Trương, thậm chí của cả thừa tướng, Hoàng thượng hay phụ thân.
Hậu quả này y không dám tưởng tượng.
Y không quên bày tỏ cảm kích trong lòng, Hải Thác Sơn mong y “coi là chuyện nhỏ, người đồng đạo nên làm, không cần để tâm” nhưng lão cũng tăng tương thăm dò cục thế trong triều thế nào? Việc này phải giải quyết ra sao? Có ai hóa giải được không?
Sáng ngày thứ mười sáu, Hách Liên Xuân Thủy và Thiết Thủ giả trang xuất động đến Hải phủ gặp Ngô Song Chúc vận lương về Bí Nham động, gặp Hải Thác Sơn liền đàm luận một hồi.
Hách Liên Xuân Thủy và Thiết Thủ thành thật trả lời.
Họ không phải không biết cách nói dối, mà không muốn lừa bằng hữu.
Lừa một bằng hữu thật lòng giúp mình quả vô sỉ cực độ.
Có lúc bằng hữu biết rằng một người lừa mình mà vẫn nhân nhượng, không bóc mẽ, trong khi kẻ đó lại vui sướng, tự cho rằng mình thông minh có thể hai tay che trời, đó mới là việc khó coi.
Thông thường, nhân loại thích những việc như thế.
Thiết Thủ và Hách Liên Xuân Thủy đương nhiên không muốn.
Lấy chân thành đáp lại.
Lấy chữ nhân đối đãi với người.
Nguyên tắc nhất quán của họ là vậy.
Nên lúc họ từ Hải phủ sóng vai bước ra, lòng đều trầm trọng, không nhướng mày lên nổi.
Vì họ nhận ra thần sắc Hải Thác Sơn có điểm bất an.
Dáng vẻ đó rõ ràng tâm sự trùng trùng, trong lòng giằng xé nhưng miễn cưỡng diễn trò, rặn cười cho phải phép.
Hải Thác Sơn có bá lực, cách dùng người cũng có bá lực nhưng vẫn còn chưa đủ linh hoạt, nói về che giấu thần sắc, diễn kịch như những lão hồ ly quan trường làm gì đến lượt lão.
“Huynh thấy thế nào?”. Vừa ra khỏi Hải phủ, Hách Liên Xuân Thủy hỏi Thiết Thủ ngay.
Thông thường câu hỏi này được thốt ra khi “việc được hỏi” đã rồi.
Thiết Thủ cười: “Không cao hứng lắm”.
Hách Liên Xuân Thủy lấy làm kỳ lạ: “Huynh?”.
Thiết Thủ thấp giọng: “Người đó không thích thân phận của chúng ta”.
Hách Liên Xuân Thủy vội hỏi: “Hải thần tẩu?”.
Thiết Thủ trầm giọng: “Ba tam gia tử”.
Hách Liên Xuân Thủy “à” lên một tiếng.
Thiết Thủ nói: “Đệ không thấy ông ta đứng cạnh, dù mỉm cười hay nói mấy lời khách khí, trong mắt lộ rõ thần tình không cao hứng sao?”.
Hách Liên Xuân Thủy đáp: “Đệ không chú ý”.
Thiết Thủ lại nói: “Họ không cao hứng cũng hợp lý, mấy trăm ‘đào phạm’ ở riết nửa tháng, họ lo lắng, lại phải xuất tiền xuất lực, không lý gì không bực mình”.
Hách Liên Xuân Thủy bảo: “Đệ chỉ lưu ý một người”.
Thiết Thủ hỏi: “Ai?”.
Hách Liên Xuân Thủy đáp: “Ngô nhị gia”.
Thiết Thủ thắc mắc: “Ông ta?”.
Hách Liên Xuân Thủy đáp: “Người chân chính sốt sắng với chúng ta là ông ta, rõ ràng có vẻ như ông ta đang làm một việc nên làm, không hề phiền hà”. Y mỉm cười: “Có lẽ mình đệ không nhận ra”.
Thiết Thủ nói: “Ta cũng không nhận ra”.
Hách Liên Xuân Thủy nói đùa: “Chúng ta cùng không nhận ra có khi lại là hảo sự”.
Thiết Thủ mỉm cười: “Một người nhìn rõ mọi việc có khi lại không phải chuyện gì hay ho”.
Hách Liên Xuân Thủy ngẫm nghĩ: “Chí ít, bản thân người đó cũng không dễ đạt đến khoái lạc”.
Thiết Thủ chêm vào: “Người biết nhiều quá cũng thế”.
Hai người trò chuyện trên đường rời Hải phủ, ra đến đại môn, định nhảy lên ngựa chợt thấy một chiếc kiệu dừng lại.
Chỉ thấy quản sự cùng gia đinh đứng ngoài đều tiến lên hớn hở: “Đại lão gia về rồi”.
“Mau bẩm cáo lão gia”.
“Vâng”.
Thiết Thủ và Hách Liên Xuân Thủy biết lão đại Lưu Đan Vân trong Thiên Khí Tứ Tẩu đã về, định lên chào hỏi nhưng rèm kiệu mới vén lên một nửa liền dừng lại.
Người trong kiệu chỉ thò nửa người ra, để lộ tà áo xám bạc chạm gối, châm đi giày da. Thiết Thủ sửng sốt, người trong kiệu buông tay, “vụt”, rèm kiệu lại rơi xuống.
Người trong kiệu trầm giọng: “Khiêng vào”.
Kiệu phu hơi ngạc nhiên nhưng vẫn nghe lệnh khiêng vào trong.
Khiêng kiệu vào phủ vốn là việc không tầm thường, hà huống trên kiệu là nam nhân, không phải nữ quyến.
Không chỉ các gia đinh nhìn nhau, không hiểu đại lão gia vì sao lại nổi giận, cả Hách Liên Xuân Thủy và Thiết Thủ cũng kinh ngạc, đành đi luôn.
Kỳ thật, cả Hải Thác Sơn và Ba Tam Kỳ vội vàng ra đón cũng chỉ thấy chiếc kiệu vào thẳng, cả hai đều mù tịt, không hiểu lão đại có ý gì?
Dụng ý của Lưu Đan Vân rất đơn giản.
Lão đang giận.
Lão gần như chụp cứng Ba Tam Kỳ, quát vang: “Các ngươi có óc không hả? Lại dám oa tàng yếu phạm của triều đình?”.
Lão không dám chạm vào Hải Thác Sơn, luận tuổi tác, lão là lão đại nhưng võ công lại không bằng lão tứ, quyền thế càng không sánh được.
Vì thế lão tham gia chiến dịch vây bắt Thanh Thiên Trại.
Trong võ lâm, địa vị không bằng người; ở Hải phủ, thực lực cũng kém hơn, lão đành kiếm chút quân công để khiến người ta phải ngưỡng vọng.
Không ngờ “đào phạm” mình và quân đội trăm cay ngàn đắng không tìm được lại có hai tên xuất hiện tại sào huyệt.
Lưu Đan Vân gần như phát điên.
Lão tuy không muốn kém người, cũng không nhẫn tâm thấy ba lão huynh đệ kết nghĩa nhiều năm bị hủy hết thành quả vất vả gây dựng, trở thành “tội phạm”.
Ba Tam Kỳ hoảng sợ luống cuống chân tay: “Không phải đệ, là ý của Ngô lão nhị và tứ đệ”.
Lưu Đan Vân quay sang hỏi Hải Thác Sơn: “Lão tứ, thật là ý của đệ?”.
Hải Thác Sơn thở dài: “Đệ cũng bị bức bách, đại ca buông tay rồi tính”.
Lưu Đan Vân đành nghe lời, buông tay ra, mắng Ba Tam Kỳ: “Ngươi chẳng được tích sự gì, ta mới đi có nửa tháng, ngươi không giúp rập gì cho tứ đệ thì chớ lại gây ra việc khiến cả phủ có thể bị chém”.
Ba Tam Kỳ xanh lét mặt mày, nhăn nhó phân biện: “Đệ có khuyên nhưng nhị ca một lòng chủ trương giữ mấy kẻ đó”.
Lưu Đan Vân giận cành hông: “Hừ, lão nhị, lão nhị biết cái gì”.
Hải Thác Sơn thấy Lưu Đan Vân kích động như vậy bèn hỏi dò: “Vụ án này xôn xao lắm sao? Có thể yên được không?”.
Lưu Đan Vân giậm chân: “Lão tứ, mấy hôm nay không ra ngoài nên đệ không biết vụ án động trời này, bọn chúng rước đại họa, cả đời không rũ nổi”.
Hải Thác Sơn kinh ngạc: “Vậy lúc trước, quan nha hạ hịch muốn chúng ta đi đánh phỉ, lẽ nào...”.
Lưu Đan Vân đáp: “Để diệt Nam Trại!”.
Hải Thác Sơn giật nảy mình: “Huynh động thủ với họ?”.
Lưu Đan Vân nói: “Cả họ Thiết đó ta cũng từng đấu rồi”.
Hải Thác Sơn hỏi: “Lúc huynh vào có gặp họ không?”. Câu này thập phần ngưng trọng, Lưu Đan Vân từng giao thủ với Thiết Thủ, vạn nhất bọn hắn cảnh giác, không kể gì đạo nghĩa mà phản đòn trước, Hải phủ sẽ không kịp bố phòng, mà có muốn cũng không kịp.
Lưu Đan Vân đáp: “Đương nhiên không, vì thế ta mới ngồi kiệu đi vào”.
Hải Thác Sơn thở dài: “Cũng còn may”.
Lưu Đan Vân nói: “Nhưng đại hoạn chưa trừ ngày nào quyết không yên thân, nếu thay Phó tướng gia trừ khử đại hoạn, sau này sẽ có thăng tiến”.
Hải Thác Sơn do dự: “Nhưng Hách Liên tướng quân đãi chúng ta không bạc”.
Ba Tam Kỳ vội hùa với Lưu Đan Vân: “Nhưng càng không thể đắc tội với Phó tướng gia”.
Hải Thác Sơn ngần ngừ: “Có điều đệ tử Thiết nhị gia của Gia Cát tiên sinh đến giúp họ, chúng ta làm thế không phải đối địch với Gia Cát sao?”.
Lưu Đan Vân khuyên: “Gia Cát tiên sinh đã thất thế, không có thực quyền, bồ tát đất qua sông, tự thân không giữ nổi, Thiết Du Hạ đang bị triều đình truy bắt, đương nhiên chúng ta không cần lo”.
Hải Thác Sơn nói: “Nhưng...”.
Lưu Đan Vân trầm giọng: “Còn nhưng gì nữa? Còn do dự chỉ sợ quan bình liệt chúng ta vào danh sách truy bắt, lúc đó không giữ được mạng nữa đâu”.
Trong mắt Hải Thác Sơn nhuệ khí sáng lên: “Được...”.
Chợt một người quát vang: “Không được”.
Người đến theo tiếng thét: “Theo đạo nghĩa, chúng ta không thể nhân lúc người ta gặp nguy mà làm chuyện bất nghĩa”.
Hồi 100 - Phúc như Đông hải, thọ bỉ Nam sơn
Dịch: Đả Cẩu Bổng
Nguồn: Nhạn Môn Quan
Lưu Đan Vân cố rặn cười: “Lão nhị, ta đang định tìm đệ thương nghị, đệ đưa đám người đó đến đâu?”. Nguyên lai Lưu Đan Vân biết Ngô lão nhị xưa nay thẳng thắn, một khi phát tác còn nóng tính hơn mình nên tránh xung đột.
Ngô Song Chúc lạnh lùng: “Đệ đưa lương thực cho Thiết nhị gia chuyển về”.
Lưu Đan Vân biến sắc: “Các gì? Chúng ta còn nuôi chúng?”. Lão cố nén giọng hỏi: “Chúng có bao nhiêu người?”.
Ngô Song Chúc đáp: “Trước sau gần ba trăm người kéo tới, huynh định thế nào?”.
Lưu Đan Vân suýt nhảy dựng lên, gầm vang: “Ba trăm người? Hừ, các ngươi đúng là muốn tạo phản?”.
Ngô Song Chúc đáp: “Huynh muốn lập công với triều đình nhưng đệ thì không”.
Hải Thác Sơn che miệng ho khẽ: “Nhị ca, đệ thấy chuyện này nên bàn kỹ, chi bằng...”.
Ngô Song Chúc quát: “Bàn cái gì? Không phải quyết định rồi sao? Giúp thì giúp cho trót, giờ mà rũ tay, quan binh có mặt khắp nơi, họ phải đi đâu đào mệnh? Việc này không thể thay đổi, nếu chúng ta nuốt lời, trên giang hồ còn chỗ cho chúng ta đứng chân nữa chăng”.
Hải Thác Sơn bị mắng, lập tức không thốt lên lời.
Ba Tam Kỳ vội cười vuốt: “Theo đệ, nhị ca à, chúng ta cứ đem việc này trình báo thật với quan phủ, mặc họ tự hành xử”.
Ngô Song Chúc lạnh giọng: “Tùy đệ”.
Ba Tam Kỳ không ngờ Ngô Song Chúc mát tính như vậy, mừng ra mặt: “Hay lắm, quan phủ xử lý thế nào không phải việc của chúng ta”. Lão không cầu thăng quan phát tài, chỉ muốn hưởng phúc, có ba người vợ cùng bảy tiệp thiếp, ba con gái, đầy đàn con cháu, đương nhiên lão không muốn sống những năm tháng đầu rơi máu chảy, chân trời góc bể nữa, lúc bọn Hách Liên Xuân Thủy đến nhờ, lão không vui hơn hết.
Ngô Song Chúc nói: “Lão tam”.
Ba Tam Kỳ ngẩn người: “Nhị ca gọi đệ?”.
Ngô Song Chúc đứng sừng sững, thần tình lạnh nhạt: “Động thủ đi”.
Ba Tam Kỳ cả kinh: “Huynh sao vậy?”. Trong Thiên Khí Tứ Tẩu, võ công Ngô Song Chúc cao nhất, chỉ Hải Thác Sơn miễn cưỡng ngang tay.
Ngô Song Chúc nói: “Đệ nhát gan định bán bạn cầu vinh, gây ra việc vô sỉ như thế thì giết ta trước đã”.
Ba Tam Kỳ biến sắc, ấp úng: “Nhị ca, chuyện, chuyện này. Huynh lại bênh bọn chúng”.
Hải Thác Sơn thấy tình hình căng thẳng, vội can: “Đều là huynh đệ, không nên động thủ vì chút chuyện vặt này”.
Lưu Đan Vân chợt trách: “Lão tam, chuyện này đệ sai rồi”.
Ba Tam Kỳ nghe Lưu Đan Vân lên tiếng, vốn nghĩ sẽ được ủng hộ, có lão đại liên thủ, sợ gì không chế trụ được lão nhị? Không ngờ lão đại lại cho rằng mình sai, tức thì nghẹn họng, không thốt thành lời.
Lưu Đan Vân nói: “Chúng ta là người hiệp nghĩa, không thể làm những chuyện vô sỉ đó để giang hồ hảo hán cười chê”.
Vẻ mặt Ngô Song Chúc lúc đó mới giãn ra: “Lão đại, lâu lắm huynh không nói đến hiệp nghĩa, đệ còn tưởng hào khí năm xưa của huynh đã tiêu ma rồi”.
Lưu Đan Vân cười: “Ta là loại người tráng chí tiêu tan sao?”.
Vẻ mặt Ngô Song Chúc thoáng hiện nụ cười: “Nói thật lòng, Cố Tích Triều phản Liên Vân Trại trở thành việc võ lâm đồng đạo đều thóa mạ, sau đó quan phủ bức hại giang hồ, diệt mấy lục lâm trọng trấn Liên Vân Trại, Hủy Nặc Thành, Thanh Thiên Trại. Bây giờ chúng ta cũng trợ Trụ vi ngược tất hậu quả tai hại vô cùng”.
Lưu Đan Vân thở dài: “Lão nhị nói rất có lý, thật ra ta thấy mình không xứng làm lão đại, nên do đệ làm mới đúng”.
Ngô Song Chúc cả kinh, vội lên tiếng: “Đại ca sao lại nghĩ vậy?”.
Lưu Đan Vân ủ rũ cúi đầu: “Xưa nay đệ không nghe lời ta, ý kiến lại cao minh hơn ta, lão đại này ta sao xứng?”.
Ngô Song Chúc giật mình: “Đại ca vạn lần không nên nói vậy khiến tiểu đệ hổ thẹn chết mất! Xưa nay đệ hay nói thẳng, không biết cách giữ gìn...”.
Lưu Đan Vân cười nhạt: “Đệ nặng lời rồi, đệ giao tình thân thiết với bằng hữu trong hiệp đạo sao lại bảo không biết cân nhắc, tiến thoái. Hơn nữa võ công của ta cũng không bằng đệ”.
Ngô Song Chúc rùng mình, vội giật tay Lưu Đan Vân, nóng nảy hỏi: “Nói vậy, lão đại không coi lão nhị là huynh đệ?”.
Lưu Đan Vân chợt ngẩng đầu: “Có chứ”.
Lập tức xuất thủ, điểm vào bảy yếu huyệt trên mình Ngô Song Chúc.
Ngô Song Chúc ngẩn người, mắt hiện lên vẻ phẫn hận rồi mới chầm chậm ngã xuống.
Hải Thác Sơn cả kinh, vội tiến lên: “Không được, huynh đệ với nhau, làm sao...”.
Lưu Đan Vân đỡ Ngô Song Chúc mềm nhũn ngã xuống: “Vì là huynh đệ ta mới điểm ngã đệ, không để đệ chuốc lấy họa sát thân. Khi sự tình xử lý thỏa đáng, ta sẽ thả đệ ra, chưa biết chừng sẽ cảm kích lão đại này cả đời”.
Hải Thác Sơn thấy Lưu Đan Vân tịnh không hạ độc thủ mới yên tâm, dừng bước đứng quan sát, chợt nghe Lưu Đan Vân nói tiếp: “Đệ nên nhớ ta làm lão đại được không phải vì ta có hiệp danh hay võ công cao cường hơn các đệ mà ta chỉ biết thời thế hơn mà thôi”.
Lúc đó Ba Tam Kỳ mới minh bạch dụng ý của Lưu Đan Vân.
Lưu Đan Vân quay sang nói với Hải Thác Sơn: “Không thể thả lão nhị được, mấy ngày này phải cho thân tín phục thị, đợi thu thập phỉ đồ xong sẽ thả ra”.
Hải Thác Sơn vẫn chần chừ.
Lưu Đan Vân bực mình: “Lão tứ, đừng dùng dằng nữa, trong lúc sinh tử quan đầu này đừng liên lụy đến lớn nhỏ cả nhà”.
Hải Thác Sơn đành hạ quyết tâm: “Chúng ta nên làm gì?”.
Lưu Đan Vân nheo cặp hổ nhãn: “Làm thì làm cho trót, lập công nhỏ chi bằng lập công lớn luôn”.
Ba Tam Kỳ hỏi: “Ý đại ca là...”.
Lưu Đan Vân chợt nói: “Chúng tín nhiệm lão nhị nhất phải không?”.
Ba Tam Kỳ đáp: “Đương nhiên, mấy hôm nay toàn do lão nhị tiếp đãi chúng”.
Lưu Đan Vân cười ha hả: “Đúng, lão nhị sắp đại thọ năm mươi nhỉ?”.
Hải Thác Sơn ngẫm nghĩ rồi nói: “Không đúng, sinh nhật nhị ca mới qua chưa đầy ba tháng...”.
Lưu Đan Vân cắt lời: “Có can hệ gì? Ta muốn lão nhị sinh nhật là sinh nhật”.
Ngô Song Chúc nằm dưới đất, giận cực độ nhưng không động đậy được, ngay cả lên tiếng cũng không thể, Lưu Đan Vân điểm cả á huyệt của lão.
Ba ngày sau, quân hiệp trong Bí Nham động nhận được thiếp.
Là thọ thiếp.
Trong đời khó tránh phải nhận thiếp, quá nửa là việc vui mừng nhưng thỉnh thoảng có ngoại lệ. Lần nhận thiếp này của Hách Liên Xuân Thủy, Thiết Thủ, Tức đại nương lại là ngoại lệ đó.
Thiếp nói ra hai ngày nữa là đại thọ năm mươi của lão nhị Ngô Song Chúc trong Thiên Khí Tứ Tẩu.
Người phát thiếp là “ân nhân” của họ, mấy hôm nay không nề hà chiếu cố cho họ, đương nhiên, Tức đại nương, Thiết Thủ, Hách Liên Xuân Thủy, Ân Thừa Phong, Dũng Thành không lý gì không đi.
Thiếp không mời tất cả cùng đi.
Nếu mời cả ba trăm “đào phạm” cùng tới chắc Hải phủ không mời thêm ai nữa.
Tức đại nương đại biểu cho “Hủy Nặc Thành”, Ân Thừa Phong đại biểu cho “Thanh Thiên Trại “, Thiết Thủ đại biểu “công môn”, Hách Liên Xuân Thủy đại biểu cho “Tướng quân phủ”, Dũng Thành đại biểu cho “Thần Uy tiêu cục”, vậy là đủ rồi...
Người đưa thiếp có nói những người không đến uống thọ tửu được sẽ có người mang đồ ăn đến để tất cả chia vui.
Ân Thừa Phong xem thiếp xong, cười bảo: “Chả trách mấy hôm nay không thấy Ngô nhị lão, hóa ra ở trong trang làm thọ tinh công”.
Hách Liên Xuân Thủy cảm ơn người đưa thiếp, đáp “sẽ đến đúng lúc”. Thiết Thủ ngồi cạnh hơi nhíu mày.
Tựa hồ hắn đang trầm tư.
Hắn đang nghĩ gì?
“Không ngờ trong lúc này còn nhận được thiếp”. Tức đại nương mỉm cười, “Thông thường những người yên ổn mới cho rằng nhận thiếp là phiền não, những kẻ lang thang lại hay hoài niệm về những năm tháng được nhận thiếp”.
Có thiếp mời tức là còn có người nhớ đến y, bất kể vì nguyên cớ gì, chỉ cần trên đời có người nhớ đến mình là được rồi.
Những kẻ lang thang mất đi an định, mất đi tin tức của thân hữu.
“Còn có một dạng người coi nhận thiếp là phiền não”. Hỷ Lai Cẩm tiếp lời: “Kẻ bần cùng hoặc cố gắng sống cầm cự”.
Y ăn cơm công môn mười lăm năm, hiểu rõ sự đời hơn ai hết.
“Nhận thiếp cũng không sao, tối đa chỉ phải thắt lưng buộc bụng”. Tâm tình Dũng Thành u ám, Cao Phong Lượng nuốt hận mà tiêu vong khiến y buồn bã mãi không thôi, “Sợ nhất là nhận phó văn, bằng hữu lần lượt ra đi, bản thân cũng sẽ liên tưởng đến ngày ra đi không xa”.
Hách Liên Xuân Thủy vội cười gạt đi: “Thôi thôi, vừa nhận thọ thiếp, đừng nói những lời xui xẻo”.
Ân Thừa Phong nói: “Chúng ta cùng đi một chuyến”.
Tức đại nương cẩn thận, phát hiện Thiết Thủ đang trầm tư bèn hỏi: “Ồ, Thiết bộ gia sao vậy?”.
Thiết Thủ cho rằng họ đang giao đàm nên không nhận ra có người gọi.
Tức đại nương vừa hỏi, tất cả đều nhìn sang hắn.
Tức đại nương mỉm cười: “Thiết nhị ca, đang nghĩ gì vậy?”.
Thiết Thủ vẫn không nhận ra Tức đại nương đang nói với mình.
Bình thường hắn vẫn cảnh giác, sao lại thất thần như vậy, tất cả đều ngừng lời, lập tức hắn phát giác.
Thấy ai nấy nhìn mình, hắn hơi sửng sốt: “Sao thế?”.
Tức đại nương đảo mắt, liếc hắn: “Nhị gia đang suy tư?”.
Thiết Thủ đưa ngón tay gõ trán, gạt đi: “Đúng, có mấy việc tại hạ không hiểu”.
Tức đại nương đề nghị: “Nhị gia cứ nói để mọi người cũng tính toán”.
Thiết Thủ cười: “Chỉ là chuyện nhỏ, nhất thời chưa có gì”.
Tức đại nương bĩu môi: “Đương nhiên, việc mà Thiết thần bộ cũng không nghĩ ra, bọn thiếp xen vào có tác dụng gì”.
Thiết Thủ nhận ra nàng có ý trào phúng, vội ngượng ngùng đáp: “Đại nương, đừng nói vậy. Tại hạ nói ra không sao nhưng là chuyện không đầu không đuôi”.
Hắn quay sang Hách Liên Xuân Thủy: “Công tử, còn nhớ ba ngày trước lúc chúng ta rời Hải phủ có gặp một chiếc kiệu không?”.
Hách Liên Xuân Thủy hơi ngẫm nghĩ: “Đúng, người trong kiệu không xuống mà cho khiêng luôn vào”.
Thiết Thủ trầm ngâm: “Hình như đó là đại lão gia của Hải phủ, lão đại Lưu Đan Vân trong Thiên Khí Tứ Tẩu”.
Hách Liên Xuân Thủy tỏ vẻ không hiểu: “Rất có thể, quản sự cũng gọi vậy, bất qua có gì không ổn sao?”.
Thiết Thủ đáp: “Không có, tại hạ thấy...”.
Hách Liên Xuân Thủy vội hỏi: “Huynh muốn nói là Lưu Đan Vân ép Hải bá bá gây bất lợi với chúng ta?”.
Đường Khẩn đứng bên buột miệng: “Hải thần tẩu sao là loại người như vậy được”.
Ân Thừa Phong chen lời: “Ông ta là người như thế đã không để chúng ta đến hôm nay”.
Đường Khẩn đồng tình: “Đúng”.
Thiết Thủ vội nói: “Không phải, nhưng Lưu Đan Vân chỉ vén nửa rèm kiệu, tại hạ liền nhận ra...”.
Hách Liên Xuân Thủy chen ngang: “Tiểu đệ không thấy mặt lão”.
“Tại hạ cũng không”. Thiết Thủ đáp: “Nhưng nhất định lão đã gặp chúng ta”.
Hách Liên Xuân Thủy nhíu mày: “Huynh muốn nói lão ngồi trong kiệu nhận ra chúng ta nên mới hạ rèm, không bước ra?”.
Thiết Thủ hỏi ngược: “Nếu không phải, lão vì sao lại làm thế?”.
Tức đại nương lên tiếng: “Có khi lão gặp các vị trong triều nên không muốn các vị nhận ra”.
Thiết Thủ đồng ý: “Đúng thế”.
Hỷ Lai Cẩm hỏi: “Lão là ai?”.
Thiết Thủ đáp: “Tại hạ nghĩ tới việc này, lúc nhìn hạ bán thân của lão, tại hạ thấy rất quen nhưng không nhớ ra đã gặp ở đâu? Gặp lúc nào?”.
Tức đại nương thận trọng hỏi: “Ý của nhị gia là không đi phó ước lễ thọ Ngô nhị gia?”.
Ân Thừa Phong xen vào: “Chúng ta phiền nhiễu người ta mà không đi dự lễ, e rằng không hợp lẽ...”.
Hách Liên Xuân Thủy chợt nói: “Việc này nếu Lưu đại bá, Ba tam bá mời, tại hạ còn nghi ngờ, kể cả Hải bá bá cũng phải cân nhắc”. Y tỏ vẻ kích động, “Nhưng Ngô nhị bá mời, tại hạ đảm bảo không việc gì”.
Thiết Thủ nhận rõ tình huống, thầm thở dài: “Tại hạ cũng không bảo các vị không nên đi”.
Lập tức bầu không khí nhẹ nhõm hẳn.
Những người vào sinh ra tử nhiều lần, phải trốn trong một nơi tăm tối lâu ngày đều hy vọng được thấy niềm vui và những gì bắt mắt.
Tức đại nương sáng mắt lên: “Nhị gia còn chưa nói hết”.
Thiết Thủ tiếp lời: “Tại hạ chỉ hy vọng, tốt nhất nên để lại một hai người có thể chủ trì đại cục”.
Hắn ngừng lại một lát rồi nói: “Hơn nữa chúng ta nên rút lui giữa chừng buổi tiệc, tốt nhất không nên ăn uống đồ đưa tới”.
Những lời này đương nhiên không được đại chúng hoan nghênh.
Ân Thừa Phong thấy người trong “động” đa phần thuộc Nam Trại vội đứng lên chủ trì: “Chỉ cần dự một hai thời thần, không ăn thì không ăn, đề phòng một chút cũng là việc hay. Không thành vấn đề”.
Tức đại nương nói: “Thiếp không đi nữa”.
Hách Liên Xuân Thủy hơi bất ngờ: “Đại... đại nương không đi?”.
Tức đại nương đáp với vẻ đượm ý vị thê lương: “Thiếu Thương không ở đây, thiếp đi hay không có gì phân biệt đâu?”.
Vẻ mặt Hách Liên Xuân Thủy hiện rõ vẻ thất vọng pha lẫn đau lòng, gần như tuyệt vọng.
Tức đại nương u oán thở dài.
Hách Liên Xuân Thủy chợt nói đúng một câu: “Được, Đại nương không đi, vậy ta đi, tự ta đi”.
Ân Thừa Phong vội lên tiếng: “Chi bằng Thiết nhị gia ở lại chủ trì đại cục”.
Thiết Thủ đáp với vẻ chém đinh chặt sắt: “Không, tại hạ đi”. Ánh mắt hắn phảng phất nhìn ra bão bùng sắp nổi.
Ai không trải qua gió bão không thể coi là đã trải qua kiếp sống hoàn chỉnh, cũng như không có mưa gió, trời sao hửng được.
Thuyền ra biển đương nhiên phải đối đầu sóng gió, cũng là thời cơ khảo nghiệm tốt nhất.
Nhưng có những cơn bão, không phải con thuyền nào cũng chịu được.
Khác nào không phải ai cũng chịu được gian khó.
Họ sẽ đối diện với gian nguy nào?
Ngày nhận thiếp là một ngày trời nắng ráo, trời xanh ngăn ngắt, mây trắng lững lờ, dòng sông gợn sóng, gió thổi phiêu diêu nhưng trong động vẫn âm u.
Buổi sớm hai hôm sau cũng vẫn là một ngày đẹp trời.
Tựa hồ là một ngày nắng chói chang.
Từng cụm mây ngoài xa trắng xóa kéo tới.
Ánh dương quang chiếu vào người trong động cũng mang lại cảm giác bỏng rát.
Trước đó có vị võ lâm tiền bối từng nói: trời nắng là thời tiết sát nhân tốt nhất, máu sẽ khô cực nhanh.
Ân Thừa Phong không đồng ý lắm.
“Hôm nay đẹp trời”. Y lên tiếng, “Chính thị ngày tốt để mừng thọ”.
Một lão nhân trong ngày đại thọ mà thấy cảnh mưa gió não nùng, lòng khó tránh khỏi buồn bã.
Họ đều yêu mến Ngô Song Chúc, đương nhiên hy vọng ngày lão đại thọ sáng sủa.
Dũng Thành nhìn sắc trời, tỏ vẻ không thoải mái lắm: “Sẽ có mưa”. Y khẳng định: “Mưa rất to”.
Hơn hai mươi năm áp tiêu sinh nhai khiến y quan sát khí hậu chuẩn hơn cả Khâm thiên giám chuyên dự đoán khí tượng.
Hách Liên Xuân Thủy lẩm bẩm: “Hy vọng bái thọ xong mới đổ mưa”.
Thiết Thủ vẫn bình thản, những trong mắt hiện rõ vẻ lo lắng.
Hắn ngầm bảo Dũng Thành ở lại.
Tức đại nương là nữ tử, có thêm một “lão giang hồ” áp trận sẽ chu toàn hơn.
Hắn đã nghĩ ra người trong kiệu là ai.
Bất quá hắn không nói ra.
Bởi hắn chưa hoàn toàn khẳng định.
Hắn nhìn thấy trên eo người đó có một cây tỏa cốt tiên.
Ân Thừa Phong mỉm cười: “Bất kể nắng hay mưa, hôm nay thích hợp nhất với câu: Phúc như Đông hải, thọ bỉ Nam sơn”.
Hành động này gọi là “chúc thọ”.
“Chúc thọ” là một hành động giết người.
Giống như nhiều chuyện không nên để bắt gặp, thông thường đều dùng lý do đường hoàng để che giấu, cũng giống như quá nhiều việc ác độc hẹp hòi luôn luôn được dùng những ngôn từ văn vẻ tô đắp lên.
Ví như, xâm lược đất nước người khác thì gọi là “thánh chiến”; tàn sát những người khác mình bảo rằng “thế thiên hành đạo”, thậm chí phản bội một ai đó cũng có thể gọi là “đại nghĩa diệt thân”; chốn buôn bán thân xác và linh hồn của thiếu nữ, thông thường đều có những từ nho nhã, không là “lâu” gì gì đó thì cũng là “các” gì gì đó; ngay cả độc dược giết người cũng có tên “tì sương”, “hạc đỉnh hồng”.
Ba Tam Kỳ biết đã sắp xếp thỏa đáng, hành động đã sẵn sàng triển khai.
Hành động chia ra hai phần.
Một là sau khi đám Thiết Thủ tiến vào đại đường của Hải phủ, nếu phát hiện tình hình không hay, muốn rời Hải phủ, thì lập tức phát động.
Bọn chúng đã giăng bảy tuyến mai phục, từ đại đường, hoa viên, hành lang, đại sảnh, tiền đình, đại môn, bậc cấp, càng vào trong lực lượng mai phục càng mạnh.
Bọn chúng biết mai phục này vô cùng lợi hại, đủ sức sát hại “kẻ đến”, nhưng vẫn không nhất định có thể giết được một người.
Thiết Thủ.
Cho nên bọn chúng đã bày bố đủ loại vũ khí sát thương nhắm vào đối phó với Thiết Thủ, trong đó có cả thuốc nổ.
Cho dù Thiết Thủ có thể xông qua được chướng ngại trùng trùng, một trăm năm mươi tay cung tiễn mai phục bên ngoài Hải phủ, còn có số thuốc nổ gài trước cửa đủ để nổ chết ba chục người, cũng đủ để bắn Thiết Thủ thành con nhím, nổ tan xác thành những đống bầy nhầy.
Thuốc nổ được chôn ngoài cửa, không sợ hư hại đến Hải phủ, cho dù gây thương tổn đến người vô can, thì cũng là người không liên quan đến Hải gia, những người không liên quan đến mình. Nếu như phải chịu trách nhiệm, thì là trách nhiệm của quan phủ, không liên can gì đến “Thiên Khí Tứ Tẩu”.
Cho nên Ba Tam Kỳ có thể an tâm không phải lo lắng.
Nếu như chuyện này thành công một cách thuận lợi, một mẻ lưới bắt được cả đám tặc đảng, lão và Lưu Đan Vân công trạng không ít, muốn có một chút quan chức, yên hưởng tuổi già, chắc không thành vấn đề.
Giờ đây đã nửa đời làm cường đạo, lại lo việc trong Hải phủ nhiều năm, cuối cùng có thể vào quan trường, chẳng là chuyện khoan khoái một đời ư?
Một kẻ đã từng làm ăn cướp đặc biệt ưa thích quan chức, tựa như một người ngồi tù rất ư yêu quý tự do, một người đã là kỹ nữ đặc biệt ao ước hoàn lương.
Ba Tam Kỳ cũng không ngoại lệ.
Lão cảm thấy vô cùng hài lòng.
Lão cảm thấy lão làm chuyện này không sai chút nào.
Bắt cường đạo cho quan binh, bản thân mình đứng về phe quan binh, trên đường hy sinh một vài bằng hữu, có gì không đúng?
Đương nhiên không có gì sai trái cả.
Chỉ có một điểm không phải.
Chuyện gì khiến Ba Tam Kỳ cảm thấy không phải?
Ba Tam Kỳ cũng nói không ra được.
Sự việc này một khi bắt đầu tiến hành, là đã có chỗ không phải không thể nói ra.
Hoàng Kim Lân tay nắm binh quyền, vầy tụ hai vạn bảy nghìn binh mã mười chín hương làng của huyện Nhiếp Ngũ, thống lãnh điều động bảy quân tiêu gộp thành một quân doanh, lại chia ra hai lộ, một lộ tinh binh mai phục trước, sau Hải phủ, một lộ chủ quân bao vây trùng trùng điệp điệp xung quanh “Bí Nham động”, dứt khoát phải tiêu diệt hết đám nghịch tặc một lượt.
Cố Tích Triều thống suất đồng đạo võ lâm, tập hợp chủ lực “Liên Vân Trại” và các lộ nhân mã nghe lời hiệu triệu tham dự hành động thanh trừ phỉ tặc, phối hợp với đội quân chủ lực của Hoàng Kim Lân bố trí mai phục, một trận này quyết phải thắng, hơn nữa chỉ có thắng mà không được bại.
--- Những điều này đương nhiên không có gì không phải.
Có lẽ không phải chỉ là: chuyện này một khi báo quan, câu nói đầu tiên của Hoàng Kim Lân là hỏi: “Tại sao các ngươi phải đón nhận bọn chúng?”. Mà Cố Tích Triều lại hỏi: “Vì sao các người không báo quan ngay lập tức?”.
Bất quá bọn họ không có hỏi truy tiếp, ngược lại dùng lời ngon ngọt an ủi, nức nở khen ngợi, đồng thời Hoàng Kim Lân cùng Cố Tích Triều chuẩn bị ngay chuyện đại sự, vài ngày thì đã điều quân bố trí, đảm bảo đánh một trận sẽ mang lại thành công.
Đợi sau khi Hoàng đại thống đốc và Cố đại đương gia đã tiếp quản bố phòng giăng bẫy ở Hải phủ, đệ tử của Hải phủ vốn cũng muốn tham gia ứng chiến, nhưng đều bị điều phái lãnh những nhiệm vụ không quan trọng, hơn thế nữa toàn là giám thị chuồng trại. Chẳng lẽ là Hoàng đại nhân và Cố đương gia không tín nhiệm người của Hải phủ?
Nghĩ đến điều này, Ba Tam Kỳ không khỏi có phần tức tối, cũng có chút hậm hực.
--- Nếu như không phải bọn ta cáo mật, dám chắc bọn họ có lục lọi khắp Hoa Quả sơn cũng không tìm ra một tên nghi phạm!
--- Nào ngờ còn chơi trên đầu bọn ta!
Điều khiến Ba Tam Kỳ phẫn nộ bất bình nhất chính là: Hoàng, Cố hai ngươi hiển nhiên không đối đãi lão và Lưu lão đại như người mình.
Có vẻ như mình tự chuốc lấy bị khinh thị, Ba Tam Kỳ thầm nghĩ. Lúc lão rảnh chân đi lại trong nhà, không ngờ đã có người cản trở lão, nói không thể tới mấy chỗ này chỗ nọ, hóa ra họ Hoàng, họ Cố xem cơ nghiệp của Hải lão tứ như dinh thự riêng của bọn chúng?
Ba Tam Kỳ không cam lòng.
Lão thân là tổng quản của Hải phủ, nói gì đi nữa cũng phải đi xem cho được.
Lão từ bậc đá cửa trước, vượt qua thềm cửa, đi qua tiền đình, vào đại sảnh đường, rồi đi qua hành lang, rẽ vào hoa viên, đến được đại đường, đại đường tức là nơi “thiết yến”.
Hồng môn yến.
Mỗi chốn lão đi qua đều đã bố trí các sát thủ và có mai phục, mà chỗ nào nhìn bề ngoài đều như đang mở tiệc mừng thọ, tưng bừng nhộn nhịp, mỗi một chi tiết đều được bố trí thỏa đáng: từ thọ trướng đến chiếu ngồi bên dưới, bánh mừng thọ đến đồ nhấm, quà lễ và thức ăn.
Thật xứng hợp, đủ mọi chi tiết từ lớn tới nhỏ làm giống như thật có người ăn tiệc đại thọ.
Huyền cơ lại ở trên “rượu”.
Đương nhiên sẽ có người đến bái thọ.
Người đến bái thọ có nam có nữ, có già có trẻ, ăn mặc trang sức khác nhau, đại diện những thân phận khác nhau, thậm chí khẩu âm cũng khác, cho thấy bọn họ đến từ những địa phương khác nhau, bất quá, bọn họ kỳ thật chỉ có một mục tiêu: tiễu trừ phỉ tặc!
Nghe nói người tổng phụ trách bố trí kỳ này là Cố Tích Triều, Ba Tam Kỳ đã làm tổng quản biết bao nhiêu năm, nhìn qua liền thấy cực giống thọ yến thật, ngay cả lão cũng có phần bội phục gã trẻ tuổi này.
--- Một gã trẻ măng có thể thiếu niên đắc chí, được Phó tướng gia coi trọng, đích xác có chỗ hơn người.
--- Một canh giờ nữa, là lúc máu đẫm chiếu thọ, là lúc biến thành sát khí xung thiên, sát khí đằng đằng.
--- Nếu như bọn chúng uống thứ “rượu” được đặc biệt chuẩn bị, chịu ngoan ngoãn nằm xuống, được vậy mọi việc ngược lại không cần ra tay đã có thể giải quyết.
--- Nếu như bọn chúng phát hiện có điều không đúng, tất nhiên đột phá vòng vây, dù có thể xông ra khỏi đại đường, xông khỏi hoa viên, xông khỏi hành lang, xông khỏi đại sảnh, xông ra cổng lớn, xông qua bậc cấp, cũng bị bắn chết ngoài cửa!
Cho nên “hành động chúc thọ” này, vạn lần không có thất bại.
--- Chỉ sợ bọn chúng không đến.
Đã đến thì sẽ không quay đầu được.
Hoàng Kim Lân có nói: bọn chúng không nghĩ đến sẽ động thủ trên bàn tiệc.
Trên bàn tiệc chỉ có ăn uống.
--- Chỉ cần bọn chúng uống “rượu”, sự tình đã liễu kết rồi.
Nhưng còn có một vấn đề.
--- Chủ nhân chính của “thọ tinh”, nếu như một mực không xuất hiện, há không khiến người nghi ngờ?
Ngô Song Chúc có chết vẫn không chịu hiệp trợ quan binh, bắt giết đồng đạo.
Hoàng Kim Lân và Cố Tích Triều đều cho rằng chỉ có nhờ đến Hải Thác Sơn.
Nhờ vào Hải Thác Sơn một lòng chiếu cố đến đám liều mạng đó, tại buổi yến tiệc giải thích tròn trặn “thọ tinh” vì sao chậm trễ chưa xuất hiện, kính vài chén rượu, bọn Thiết Thủ không có lý do gì không uống.
--- Uống một chén thì đã thành sự rồi.
Trong rượu là ma dược cho chính tay “Dược Vương” Mạc Phi Oan, một trong “Bát Đại Thiên Vương” của “Quyền Lực bang” năm xưa, pha chế.
Thiết Thủ nội lực cao tới đâu, uống vào cũng phải ngã.
--- Ngã là tốt nhất, mọi chuyện êm xuôi.
Một canh giờ nữa người “chúc thọ” sẽ đến. Cố Tích Triều đề phòng bọn họ đến sớm, cho nên bố trí xong xuôi từ lâu, mà ngoài “Bí Nham động” cũng có bày bố trạm canh, giám thị các người ra vô trong động.
Ba Tam Kỳ nhìn sắc trời.
Quá nóng.
Quá khô.
Mây trắng xa xa nặng trĩu, e khó mà tránh được một trận mưa gió bão bùng.
Tâm tình lão cũng giống như mây trắng, nặng xịt.
Kỳ thật cũng tịnh không có gì không thỏa đáng, chỉ là nghĩ đến việc lão vốn là một chủ nhân, giờ đây bỗng dưng đã thành “đón khách”, mọi an bài đều không do lão làm chủ.
Lão càng nghĩ càng không yên tâm, đích thân đến chỗ yến tiệc ở đại đường xem sao.
Trong đại đường có lắm “hạ khách”.
Nhưng bọn họ không có chút “vui mừng”.
Bọn họ chỉ là đang “chờ đợi”.
--- Chờ người “chúc thọ” thật sự đến.
Ba Tam Kỳ nhìn lướt qua, đặc biệt xem kỹ mấy cái chén.
--- Rượu không có độc, chén mới có độc.
Chén có độc có ký hiệu đặc biệt, người ngoài tuyệt đối không nhìn ra được.
Cho nên rượu thì ai ai cũng có thể uống, nhưng có mấy cái chén lại không đụng được.
Mà còn không bừa bãi được.
Ba Tam Kỳ kiểm tra xong, cảm thấy rất hài lòng.
Lão định rời khỏi đại đường.
--- Lão phụ trách “tiếp đãi”, nên đứng ngoài cổng lớn.
--- Hải lão tứ mới chủ trì tiền đường.
--- Nhưng Hải lão tứ còn đang mật nghị với Hoàng Kim Lân, chưa đi ra.
Ba Tam Kỳ định xoay người đi lên trước, một luồng gió nổi lên, thổi tắt đèn nến bên trái phía trước thọ trướng.
Lão tính đi qua thắp lại, nhưng đã lập tức có người lấy mồi lửa thắp nến.
--- Ngay cả thắp nến cũng không phải chuyện của ta!
--- Mấy người này dường như không vui mừng gì, cũng không hy vọng có người đến gần thọ trướng!
--- Nơi này vốn là chỗ của ta, bọn chúng bằng vào cái gì mà chiếm lấy?
Ba Tam Kỳ ngao ngán trong lòng, lão không khỏi vọng nhìn thọ trướng vài lần, cuối cùng lão phát hiện một góc phía dưới trướng hơi xốc lên, tựa như có một đường chỉ.
Ba Tam Kỳ hiếu kỳ, giả vờ cúi đầu khom người cột lại giày, bất chợt lướt tới trước trướng.
Nghe có người trầm giọng quát: “Đứng lại”.
Người quát là Hoắc Loạn Bộ đang ẩn trong bóng tối giám thị.
Ba Tam Kỳ không lý đến, đưa tay vén màn lên.
Lão cuối cùng đã thấy vật phía sau trướng.
Thuốc nổ.
Thuốc nổ vào lúc này xuất hiện ở đây, đúng ra là việc “hiển nhiên”.
Thuốc nổ để thật gần cái bàn chính, chắc chắn đây là nhắm vào người ngồi cái bàn đó.
Thuốc nổ một khi mồi lửa, lập tức nổ tan xác những người ngồi trên, bản lãnh ra sao cũng không có chốn dụng võ.
An bài này đương nhiên rất “tuyệt”.
Nhưng Ba Tam Kỳ lập tức nghĩ điểm còn “tuyệt” hơn.
Muốn bọn “hạ khách” Thiết Thủ thượng tọa, chắc chắn sẽ có người “tiếp khách”, nếu không, “rượu thọ” và “thuốc nổ” đều trở thành vô dụng.
--- Đám Thiết Thủ không phải là đang ngồi rồi ngã nhào hôn mê, mà là bị nổ chết, chắc chắn là việc tốt.
Nhưng Ba Tam Kỳ nghĩ đến một việc khác, lại rất ư không hay.
Lão nghĩ đến Hải lão tứ cũng sẽ ngồi ở trên.
--- An bài này, rõ ràng đem Hải tứ đệ làm vật hy sinh!
Bọn chúng đã hy sinh được lão tứ, đương nhiên cũng không ngần ngại hy sinh một hai người!
--- Ngược lại không hy sinh người của bọn chúng!
Nghĩ đến đây, Ba Tam Kỳ cảm thấy bị sỉ nhục bị lừa gạt.
Lão suýt hét lên:
- Việc này, bọn ta không làm!
Ngay lúc đó, một bóng người đã đến sát cạnh lão.
Người này tướng mạo đường đường, nghi biểu bất phàm, nhưng thần sắc lại có chút tà khí, một luồng sát khí.
Người này chính là Cố Tích Triều.
Cố Tích Triều mỉm mỉm cười, thần thái ôn hòa, vừa nhìn là biết y là người hiểu lý lẽ.
Ngay cả y cũng cảm thấy mình là một người hiểu lý lẽ.
Đôi lúc y cảm thấy bản thân mình thật sự quá biết điều.
Trên thế giới này, quá biết điều thật khó có đất sống, dù có thể sinh sống, cũng chưa chắc sống được sung sướng.
Như y đối phó với Thích Thiếu Thương, đã chịu thiệt thòi vì “quá biết điều”: trong “An Thuận sạn” ở “Tư Ân trấn” y nhờ Vưu Tri Vị trợ giúp, đã thành công khống chế đại cục, đáng lẽ vừa đắc thủ thì nên ra tay giết Thích Thiếu Thương trước, đoạn tuyệt hậu hoạn!
Y thậm chí còn cảm thấy mình quá “nhân từ như nữ nhân”.
Y còn quyết tâm “không gặp đau khổ trước nữa”, về sau đối với người phải tâm ngoan thủ lạt hơn.
“Thọ yến” lần này, đã chắc thắng trong tay, người của y trong bóng tối giám thị mọi việc, nhất cử nhất động của bất cứ ai đều không thoát khỏi mắt y.
Cho nên y phát hiện Ba Tam Kỳ đã phát hiện thuốc nổ chôn trong thọ trướng.
Y cười nói: “Đây là thuốc nổ”.
Ba Tam Kỳ cố nuốt giận, nói: “Ta biết”. Lão nói thêm một câu: “Nhưng trước đây ngươi đâu có nói cho bọn ta biết”.
Cố Tích Triều cười nói: “Đây là quân tình, quân tình cơ mật, thứ cho ta không thể nói ra”. Y cũng bổ sung một câu: “Huống chi, đây là dùng thuốc nổ sát hại đám cướp bóc phản loạn, không liên quan tới các người”.
Ba Tam Kỳ nói: “Nhưng, Hải lão tứ cũng ngồi ở cái bàn đó, thì có liên quan đến ta”.
Cố Tích Triều cười càng tươi hơn, y giơ tay vỗ vỗ vai trái Ba Tam Kỳ: “Ba lão tiền bối, tại hạ sao lại có thể lấy thuốc nổ đối phó một người đã lập đại công như Hải Thần Tẩu được, thuốc nổ này chỉ là dùng đối phó với đám lưu khấu, vả lại, mấy tên phản tặc đó chỉ cần uống dược tửu là đã đủ xuôi tay chịu trói, căn bản không cần dùng đến thuốc nổ”.
Ba Tam Kỳ bảo: “Nhưng nếu như bọn chúng không uống, vạn nhất phải dùng thuốc nổ, các ngươi có thể kịp thời đến thông tri cho Hải lão tứ sao?”.
Cố Tích Triều mỉm cười nhìn Ba Tam Kỳ, đáp: “Ông thật muốn tôi trả lời?”
Ba Tam Kỳ thốt: “Mạng người hệ trọng, ta muốn biết”.
Cố Tích Triều nói: “Đến không kịp”.
Ba Tam Kỳ liền nói: “Để ta đi thông tri cho lão tứ, bảo lão ta đến lúc đó kịp thời tránh đi”.
Cố Tích Triều thở dài: “Ông muốn thông tri cho ông ta?”.
Ba Tam Kỳ ngạc nhiên: “Sao không thể thông tri cho lão ta?”.
Cố Tích Triều cười nói: “Nên thông tri cho ông ta lắm, bất quá, đáng tiếc...”.
Ba Tam Kỳ thắc mắc: “Đáng tiếc gì?”.
Cố Tích Triều hỏi: “Ông thật muốn biết?”.
Ba Tam Kỳ: “Xin nói rõ”.
Cố Tích Triều nói: “Đáng tiếc đã trễ”.
Bất thình lình, giương một tay ra, một luồng đao quang lóe lên.
Ba Tam Kỳ trước ngực tê tái, sau lưng cay xè, quay đầu nhìn, thấy một mũi phi đao, đã cắm vào thọ trướng, xuyên vào tường.
Chuôi đao còn rung nhè nhẹ.
Đao không dính máu.
--- Đao đó là đao của Cố công tử...
--- Đao đó không ngờ đã xuyên qua ngực ta...
Ba Tam Kỳ chỉ nghĩ được đến đó.
Nghĩ đến đó, máu trên ngực lão liền bắn vọt ra.
Cố Tích Triều nắm giữ ống tay áo của lão ta, nhét ống tay áo đè lên miệng vết thương, không để máu bắn ra ngoài, tay áo ấn vào thấm đầy máu, tiện tay rút cây búa nhỏ ra, bửa một búa vào trán Ba Tam Kỳ.
Sau đó y nói với Hoắc Loạn Bộ sau lưng: “Ngươi tìm hai người, âm thầm đem thi thể của lão quăng xuống sông, ngàn vạn lần chớ để người của Hải phủ phát giác, được như thế, có như vậy, cho dù sau này ‘Thiên Khí Tứ Tẩu’ còn chưa chết sạch chết gọn, mò được thi thể, cũng nghĩ đám cướp kia làm, không liên quan đến chúng ta!”.
Hoắc Loạn Bộ đáp: “Dạ”. Liền gọi người hành sự.
Cố Tích Triều lấy một chiếc khăn tay trắng, lau sạch máu dính trên ngón tay mình, thuận đó co giãn huyết mạch trên ngón tay.
--- Hôm nay số người phải giết không ít, ngón tay nhất định phải linh hoạt.
--- Nghĩ đến cuộc truy tập suốt mấy tháng liền, ngày hôm nay sẽ đạt được thành quả trọng đại, y cũng không ngăn nỗi cảm giác hưng phấn.
--- Giết người vốn là một việc hưng phấn.
Cho nên y trước khi đại khai sát giới, tế đao một phen, nhen nhóm sát khí của mình.
Thậm chí y không hy vọng phải sử dụng thuốc nổ.
--- Nếu như bọn chúng chết dưới đao của mình, nhất định thú vị hơn!
Có điều Cố Tích Triều luôn luôn giữ được tâm trí. Con người có thể làm chuyện thống khoái, nhưng không thể làm chuyện ngu xuẩn. Giống như ngày nọ Thích Thiếu Thương mang y vào “Liên Vân Trại”, nâng đỡ tột độ, chính là dùng cảm tình mà hành sự. Dùng tình cảm hành sự, theo y, đôi khi đồng nghĩa với “ngu xuẩn”. Đám người Thiết Thủ võ công quá cao, mình không thể hành sự chỉ vì thấy thú vị.
--- Kết cuộc của kẻ ngốc, là đáng nối gót theo Ba Tam Kỳ.
--- Y làm sao có thể để Hải Thác Sơn biết sau lưng lão ta có đủ thuốc nổ để chỉ một chớp mắt nổ tan xương nát thịt một lúc mười ba con voi? Vạn nhất để lão ta lộ liễu hình tích, nói không chừng sẽ bị đám Thiết Thủ nhận ra, lúc đó thật khó tránh khỏi nảy sinh biến cố.
Không thể để nảy sinh biến cố.
Cố Tích Triều quyết không để kế hoạch “Chúc thọ” hoàn mỹ còn có bất cứ sơ hở nào.
Đã là Ba Tam Kỳ nhất định lo toan cho huynh đệ của lão, hơn nữa cũng đâu có thời gian giải thích khuyên nhủ lão, chi bằng giết cho xong chuyện.
--- Bản thân mình tuyệt đối có lý do giết lão.
--- “Thiên Khí Tứ Tẩu” ngoại trừ Lưu Vân Đan đã tham gia đánh cướp với bọn mình, còn ba lão kia, biết rõ mấy tên kia là khâm phạm của triều đình, còn thu nhận giúp đỡ một thời gian, biết chuyện mà không báo, đáng chết từ trước rồi!
--- Ba lão già khốn kiếp này khiến mình và đám thuộc hạ truy tìm cả nửa tháng, đã vậy còn muốn tranh công! ?
Cố Tích Triều giết xong Ba Tam Kỳ, cảm thấy tâm tình rất khoan khoái.
Trong đại đường dĩ nhiên không có người của Hải phủ, người phòng thủ trong này, không phải là tâm phúc của Hoàng Kim Lân thì là thân tín của mình.
Y cảm thấy mình “tinh minh” hơn nhiều so với trước đây.
Y biết làm sao “không để đường thoát”, giờ đây cuối cùng đã học hiểu được làm sao để bớt nói lý lẽ hơn trước.
Cho nên sau khi y phóng đao xuyên qua tim của Ba Tam Kỳ, còn bồi một búa lên đầu lão ta, cái này gọi là “thần tiên khó cứu”.
--- Giết một người cần phải giết đến khi tắt thở, giết một đám người tất cần phải đuổi tận giết tuyệt; nếu không, sau này sẽ mang tới phiền hà cho chính mình, lại thêm phiền não.
Đang lúc tâm tình Cố Tích Triều càng lúc càng lâng lâng, phía chân trời lại nổi lên tiếng sấm sét.
Tiếp đó, những giọt mưa rào rào đập xuống mặt đất.
Cũng đập xuống mái hiên, mái ngói, hiên trước, thềm trước, trong đình, mặt hồ, trong sân, trong vườn, Cố Tích Triều vọng nhìn ra, thấy ngoài đình viện những đan kín màn mưa bàng bạc.
Ngoài trời sấm giật đì đùng, như thiên quân vạn mã ào ạt tràn tới.
Cố Tích Triều khoanh tay nhìn mưa nhỏ trước hiên, lẩm bẩm: “Hay cho một cơn mưa”.
Ngay lúc đó, y nhìn thấy tín hiệu.
Tín hiệu cho biết bọn Thiết Thủ đã xuất phát rời khỏi “Bí Nham động”, khởi trình đến Hải phủ phó ước.
Hải Thác Sơn không biết Ba Tam Lực đã đi đâu.
--- Đang giờ phút khẩn yếu này, lại chẳng thấy bóng dáng lão ta!
Hải Thác Sơn trong lòng hơi cáu, nhưng đâu thể để ý lắm, công việc tiếp đón ở trước cửa, vốn là do Ba Tam Lực phụ trách, giờ đây chỉ đành để họ Hải lão đích thân ra đón.
Mưa thật to, nguyên một góc đường ngập mưa, ban trưa trời vốn nắng đẹp, mà giờ đây trở thành một màn âm u ẩm ướt thê lương.
--- Mưa to như vậy, thuốc nổ bố trí trước cổng chắc chắn phải bị ảnh hưởng.
--- Thậm chí quan binh, cao thủ mai phục ở xung quanh nhà dân, đầu tường, mái ngói, trên cây, cả đám đương nhiên phải chịu nước mưa quấy nhiễu.
Bắt người trong cơn mưa lớn, khó khăn bội phần, duy chỉ có dẫn đám Thiết Thủ đi vào đại đường, như rùa trong giỏ, sẽ dễ dàng nắm bắt hơn nhiều.
Hải Thác Sơn đứng dưới ô trước cổng, cuối cùng đã thấy xa xa bọn Thiết Thủ đội mưa đi tới.
Hải Thác Sơn bất giác có chút khẩn trương.
Kỳ quái, bản thân mình lưu lạc giang hồ vài chục năm, cũng chẳng sợ ai, vậy mà giờ đây lại chút lo sợ, có chút phập phồng.
Lẽ nào là mình “bán rẻ bằng hữu vứt bỏ nghĩa khí”, tâm đã bất chính, cho nên không cách gì trấn định như xưa?
Hải Thác Sơn không thể nghĩ tiếp.
Dù có hối hận cũng chẳng kịp, chuyện này như là trường bào thấm đẫm nước mưa, đã là một sự thật không thể tránh né.
Một sự thật đáng sợ.
Hải Thác Sơn chỉ còn nước đối mặt với hiện thực.
Lão quyết định mang mấy bằng hữu tín nhiệm lão đẩy xuống địa phủ.
Vừa thấy đám người Thiết Thủ xuất hiện ở đầu đường, lão đã biết “kịch” lập tức vào vai.
“Người đóng kịch”, kẻ vào cửa thì vào cửa, kẻ buột ngựa lo buột ngựa, kẻ bái thọ thì bái thọ, kẻ chúc mừng lo chúc mừng, bọn chúng diễn màn kịch này, mục đích là muốn chờ một “màn kịch hay”.
Màn kịch hay ở phần cuối.
“Màn kịch hay ở phần cuối” dường như cũng là một quy củ, cao trào thường ở phần cuối, “kịch tính” cũng phần lớn để lại phần cuối.
Trong đời người đúng nghĩa, “màn kịch hay” không nhất định luôn ở phần cuối. Có người, còn trẻ đã diễn xong màn kịch hay, không còn gì nữa. Có người, chưa từng diễn một màn kịch hay, đã kết thúc màn diễn. Có người, cả đời người toàn là màn kịch hay, cao trào thường xuyên, màn kịch hay liên tục. Có người, căn bản không mong tìm màn kịch hay, chỉ cầu không có kịch đã là may mắn rồi.
Hải Thác Sơn lại chắc chắn cơn mưa sấm sét chiều nay, sẽ có một màn kịch hay, diễn ở nơi này.
Bất quá, màn mở đầu lại khiến lão có chút thất vọng.
Vì vài người nên đến đều không đến.
Tức đại nương của “Hủy Nặc Thành” không đến.
Dũng Thành của “Thần Uy tiêu cục” cũng không đến.
Chỉ có ba người đến: Thiết Thủ của “Tứ Đại Danh Bộ”, Trại chủ của “Thanh Thiên Trại” Ân Thừa Phong, Hách Liên Xuân Thủy của “Tướng quân phủ” đến.
Mặc dù mọi người tịnh chưa đến hết, nhưng ba người bọn họ đã đến, cũng đã đủ.
--- Ý định ban đầu của Hoàng Kim Lân và Cố Tích Triều là chỉ muốn tiêu diệt vài chủ tướng của đám đó, muốn tiêu diệt bọn chúng, lấy đông đánh ít, thì tuyệt đối không thành vấn đề. Nhưng trong “Bí Nham động” có người chủ trì đại cuộc, đâu dễ dàng đồng thời phát binh công thủ.
Không biết vì sao, Hải Thác Sơn thấy mọi người chưa đến đông đủ, trong thất vọng lại thấp thoáng có chút mừng.
Tại sao lại cảm thấy mừng?
Tự lão cũng không biết.
Có lẽ lão “lương tâm nảy phát”, hoặc có lẽ lão cảm thấy càng ít càng dễ đối phó. Có lẽ tâm lý của lão cũng không muốn vì mẻ lưới này của mình mà cả đám giang hồ hảo hán kia “một lưới tóm gọn”.
Có điều có nghĩ thế nào đi nữa, lão ta cũng hy vọng mình có thể “đóng trọn vai tuồng”.
Lão chỉ mong mình có thể “diễn xuất thành công”.
Thành công?
Thất bại?
Đang trong màn mưa lờ mờ, nhìn không rõ đường xá, vận mạng tương lai sau cơn mưa, ai nấy đều không biết nổi.
Đám người Thiết Thủ cuối cùng đánh ngựa tới trước cổng Hải phủ, trong mưa gió Hải phủ giăng đèn kết giấy màu, tình cảnh, ngược lại, càng thêm thê lương.
Bọn chúng đương nhiên đã hóa trang xong, dịch dung xong, bất quá tịnh chưa hoàn toàn thay đầu đổi mặt.
Bọn chúng làm thế chỉ là tránh người khác chú ý, hơn nữa, thuật dịch dung tối đa chỉ có thể lừa gạt những người thờ ơ, tuyệt đối không thể hoán nhật thâu thiên, cũng không thể thoát khỏi những con mắt sắc bén của các tay giang hồ lão luyện.
Bọn chúng hóa trang giống như đám người vận chuyển lương thực cho Hải phủ, cho nên Hải Thác Sơn nhận ra bọn chúng rất dễ dàng.
Có một điểm Hải Thác Sơn luôn cảm thấy an ủi.
Thị lực của lão vẫn sắc bén như xưa.
Điều này chứng tỏ lão chưa già.
Ít ra chưa hoàn toàn già.
Cho dù lão ta đã già, lão ta còn có thể dựa vào điểm này để an ủi mình; một người già nếu như không biết tự an ủi mình, tuyệt đối là một việc rất không hay ho, giống như một người thất bại vậy.
Lão cảm thấy nhãn lực của mình tốt hơn nhiều so với Ngô Song Chúc.
Mỗi lần lão nghĩ như thế, chắc chắn đều quên lãng không lo âu thể lực của lão càng ngày càng không bằng Ngô Song Chúc.
Có những chuyện, không nghĩ đến tốt hơn là nghĩ đến.
Quên, vốn là một “lá bùa hộ thân” của nhân loại. Không có từ này, thiếu đi bản năng này, người ta phải sống bớt hẳn khoan khoái.
Chỉ sợ, có những chuyện càng muốn quên, càng khó quên.
Có những chuyện muốn nhớ, lại cứ hay quên.
Chuyện đau khổ nhất trong đời người, chính là không thể khống chế tư tưởng của mình; tự do đáng quý nhất của con người, là đối phương không cách gì khống chế mình nghĩ làm sao, nghĩ cái gì.
Có đôi lúc, cả quên cũng quên luôn, thế mới là thật sự quên, có lúc, hạnh phúc nhớ được, sẽ khiến ngươi nhớ đến những ký ức đau khổ đã quên, sẽ khóc lóc cho quên đi những gì đã nhớ.
Lão đứng trước cửa nghênh đón vài bằng hữu, địch thủ đã lặn lội mưa gió đường xá xa xôi mà đến, cho nên lão ta nhớ đến đoạn đường giang hồ mưa gió bão bùng mà lão đã đi quá nửa đời.
Thiết Thủ cũng nhớ đến một việc.
Trước giờ, đều là Ngô Song Chúc nghênh đón bọn hắn ở đây, hiện giờ Ngô Song Chúc đang tổ chức tiệc thọ, có lẽ không tiện đứng trước cổng đội mưa, nhưng Ba Tam Lực đâu? Việc gì Hải thần tẩu phải đích thân ra đón? Tại bàn tiệc không cần lão chủ trì đại cuộc à? Thiết Thủ chỉ nghĩ đến đó mà thôi.
Nghĩ đến đó, tịnh không thể thay đổi việc gì.
Càng không khiến hắn ngập ngừng không tiến lên, hoặc quay đầu đi ngược lại.
Thay đổi trong đời người, thường không vì nghĩ đến điều gì, mà là gặp phải điều gì, người minh bạch điều này nên biết cứ hay chìm đắm trong hồi ức kỳ thực chuyện vô bổ.
Hải Thần Tẩu nghênh tiếp: “Các ngươi đã đến”.
Ba người trên ngựa có dù, nhưng áo quần đều ướt hết.
Một tia chớp nhoáng lên.
Thiết Thủ cười nói: “Mưa lớn quá”.
Ân Thừa Phong tiếp: “Lắm náo nhiệt, ngay cả gió mưa cũng tặng thêm phần hứng chí cho Ngô lão”.
Hải Thác Sơn vội đáp: “Các người thật là những kẻ có lòng, mưa gió to thế này mà cũng lặn lội nể mặt lão nhị!”.
Hách Liên Xuân Thủy nhảy xuống ngựa, cười bảo: “Ta muốn bái thọ Ngô nhị bá, thật là gấp không thể chờ thêm đâu!”.
Lại một tia chớp.
Tiếp theo là một tiếng sấm.
Ba người giũ áo đi lên thềm đá, đi vào cổng chính.
Khi tia chớp chói lòa mặt đất, bọn họ đều không có mắt dõi trông trăm họ để nhìn thấy trên mảnh đắt xám xịt chói lòa này có biết bao nhiêu người đang lăm lăm đao kiếm ngời ngời giữa mưa bão ẩn mình trong bóng tối hầm hố hoặc những nơi cao.
Cố Tích Triều mai phục trong nội đường, đã nhận được tin tức đám Thiết Thủ ba người đến trước cổng.
Hai tay y thu vào trong tay áo.
Ba ngón cái, trỏ, giữa của bàn tay trái cầm cán gỗ của một thanh tiểu đao, động đậy nhè nhẹ, tay phải cầm cây búa nhỏ, khẽ siết giữ.
“Ầm”, một tia chớp dẫn theo tiếng sấm.
Cố Tích Triều vụt nhớ đến một việc.
Y lướt nhanh vào đại đường.
--- Y nhớ đến việc gì?
--- Y muốn làm việc gì?
Thiết Thủ, Hách Liên Xuân Thủy và Ân Thừa Phong, đã được Hải Thác Sơn dẫn đường, đi qua tiền đình.
Cố Tích Triều vọt vào đại đường, đám người đang “đóng kịch” ai nấy cũng đều thất kinh.
Cố Tích Triều trầm giọng quát: “Chớ có loạn, không cần nhìn ta, tiếp tục giữ bộ mặt cười đùa uống rượu như cũ”.
Hoàng Kim Lân kinh ngạc, cũng từ mé đông lao tới, vội hỏi Cố Tích Triều: “Bọn kia đã tới, ngươi ra làm gì!?”.
Cố Tích Triều chỉ gật gật đầu, mũi chân điểm xuống, nhảy vọt lên, rút ra cây đao gãy vẫn còn cắm trên thọ trướng, cột lại thọ trướng che đậy cái lỗ đao cắm, sau đó mới soạt chân căng vải cho bằng bên dưới thọ trướng, che giấu dây dẫn lửa cho thuốc nổ, cuối cùng mới nói: “Chúng ta có thể đi rồi”.
Hoàng Kim Lân bấy giờ mới minh bạch, đang định lướt vào trái đông, chợt nghe Cố Tích Triều “úy” một tiếng.
Hoàng Kim Lân nhìn theo ánh mắt y, thấy tấm khăn trải bàn có một vệt sẫm.
--- Đó là huyết tích máu tươi phún ra lúc Cố Tích Triều động thủ giết Ba Tam Lực.
--- Cũng có thể nói là vết máu đầu tiên tối nay.
Cố Tích Triều vội gọi người cầm lấy một chiếc khăn, phủ lên vết máu, thở phào, bảo: “Đối phó với bọn Thiết Thủ không thể lơ đễnh một chút nào”.
Sau đó hai tên lại chạy về chỗ cũ.
Bọn chúng đã chuẩn bị đến lúc tất yế, châm thuốc nổ, không những nổ chết đám Thiết Thủ, Hải Thác Sơn chết theo, cả bộ hạ trong toàn đại đường cũng thành vật hy sinh.
Chỉ cần có thể tiêu diệt cường địch, hy sinh vài bộ hạ có là gì chứ?
Chỉ cần có quyền, sao lo không có thuộc hạ?
Cơ hội giết cường địch mấy khi có.
Suy nghĩ về mặt này, Cố Tích Triều và Hoàng Kim Lân thật sự giống nhau không khác một ly.
Thiết Thủ và Hách Liên Xuân Thủy cùng Ân Thừa Phong đã đi ra đại sảnh.
Tim Hải Thác Sơn đập thình thịch.
--- Mỗi một bước của bọn họ, khác gì một bước tiến vào Sâm La điện.
Hải Thác Sơn cảm giác được bước chân mình nặng trịch, tựa như đang vác trên lưng một tòa núi.
Mà trong đầu giống như màn mưa hỗn loạn.
Mắt thấy phải sắp đi qua hành lang dài, chợt nghe có người trên tường ngoài mưa, thảm thiết gào lên: “Chớ đi vào!”.
Thiết Thủ, Hách Liên Xuân Thủy, Ân Thừa Phong nghe thấy, vừa mừng vừa sợ, mặt thoắt biến sắc.
Bởi đấy là giọng nói của Thích Thiếu Thương.
Giọng nói thê lương bức nhân, tuyệt không giống giọng nói hàng ngày của Thích Thiếu Thương, nhưng bọn họ lại rõ ràng nhận ra đấy đích thực là giọng nói của Thích Thiếu Thương!
Tiếng dây cung bật ra.
Ám khí theo tiếng mưa vù vù gào rít.
Thích Thiếu Thương vừa mới hiện thân ở bờ tường, lập tức bị vây công.
Thiết Thủ hét như sấm: “Lui!”.
Hải Thác Sơn đột nhiên uốn người nhảy về phía Ân Thừa Phong.
Ân Thừa Phong vội vàng bạt kiếm.
Kiếm vừa đánh ra, màn mưa dày kín bị kiếm quang ép dạt vài thước.
Kiếm này chỉ thấm máu, không thấm nước mưa.
Đường kiếm hung mãnh như thế này, ngay cả quỷ thần cũng phải tránh né.
Nhưng Hải Thác Sơn gầm khẽ một tiếng, khom người thóp bụng, lại nhào vào đường kiếm đâm tới.
Bởi Thiết Thủ đã nghi ngờ, cho nên Ân Thừa Phong và Hách Liên Xuân Thủy tới “chúc thọ” cũng giấu mang theo binh khí.
Trong nhất thời, ổ mai phục tại hành lang đã tổng phát động.
Một màn đao - thương - tên, dường như mỗi một nơi có thể ẩn mình đều có người lướt ra, tập kích Thiết Thủ và Hách Liên Xuân Thủy.
Mà cao thủ ở đại đường, hoa viên, nội đường, tất cả lao trở lại hành lang dài, phục binh ở đại sảnh, tiền đình, cửa lớn cũng đã phát động.
Nhào vào cản đường!
Cục diện tuy nảy sinh kỳ biến, đội phục binh chắc ăn này không tán loạn chút nào, trái lại đã kích thích lòng tàn độc như dã thú vồ mồi!
Đám phục binh lao vào trong do Lưu Đan Vân cầm đầu.
Đội ngũ lao ra sát địch do Cố Tích Triều thống lĩnh.
Hoàng Kim Lân dẫn người bao vây Hải phủ.
Thiết Thủ thoáng thấy Lưu Đan Vân, lập tức minh bạch chuyện gì đã xảy ra: quả nhiên là bất hạnh đã liệu trước.
Lúc đó Hải Thác Sơn và Ân Thừa Phong thình lình tách ra.
Trên người Hải Thác Sơn có vết máu.
Trên áo Ân Thừa Phong cũng thấm máu.
Máu nhanh chóng bị nước mưa xóa sạch.
Mưa đổ thật dữ.
Máu chảy thật nhiều.
Nước mưa lẫn với máu rưới lên người binh sĩ, chảy ra ngoài nhà, không biết chảy tới những chốn nào.
Thích Thiếu Thương rên một tiếng, dường như đã bị thương, nhưng vẫn không nhảy xuống tường.
Bởi vì chàng quyết không để con đường duy nhất có thể rút lui bị người chiếm cứ hoặc bịt kín.
Y một tay cầm kiếm, lưỡi kiếm như con rồng xanh.
Sắc xanh của kiếm dấy lên từng sóng máu đỏ chói, giữa màn mưa xám xịt.
Thiết Thủ thấy chiêu phá chiêu, thấy người đánh người, ít nhất hai mươi người vừa bị hai tay hắn chạm phải, lập tức ngã xuống đất không đứng dậy nổi.
Hách Liên Xuân Thủy hai thương trong tay, lại chưa có cơ hội nối trường thương lại đánh địch khoảng cách xa, địch nhân mặc hoa y cẩm phục đã như thủy triều tràn tới, y đã giết mười ba người, đã bị thương năm chỗ, ba nơi nhẹ, hai nơi nặng.
Còn Ân Thừa Phong lại chìm trong biển người của đối phương.
Chỉ thấy một luồng bạch quang nhanh như ánh sét chớp đông chớp tây giữa đám địch nhân bao vây, khó mà nắm bắt ở đâu.
Thiết Thủ thấy tình thế không hay, quyết không thể ham chiến, liền quát một tiếng: “Chạy mau!”. Tay vượn duỗi ra, nháy mắt đã nắm quăng bảy tám cường địch, vận khởi thần công, xông vào trận địch, hai bàn tay cứng như sắt lại đoạt lấy mười mấy binh khí, tới lúc đó mới thấy được Ân Thừa Phong.
Cố Tích Triều và Phùng Loạn Hổ, Tống Loạn Thủy, đều lo vây đánh Ân Thừa Phong, mà Lưu Đan Vân cũng phóng mình nhào tới, điên cuồng liều mạng, Hải Thác Sơn đã ngã xuống đất, máu tuôn chảy trên cổ, thấm đỏ tóc râu bạc trắng của lão.
Thiết Thủ vừa sợ vừa giận, hai tay bắt chéo, ngấm ngầm vận lực, Cố Tích Triều quát lên: “Chúng ta cùng xông lên!”. Chính mình lại không tiến lên, vẫn bám theo Ân Thừa Phong.
Có mười hảo thủ trong quan trường và trong võ lâm tham công liền đánh tới, Thiết Thủ quát lớn một tiếng: “Tránh ra!”. Song thủ tung ra, hàng trăm hạt mưa bị lực chấn chặn lại, trở thành một dạng ám khí bật ngược, bay đi thật nhanh, có sáu bảy người né không kịp, đâm nhào vào nhau thành một đống, ôm mặt ôm má, rên xiết không ngừng.
Thiết Thủ bước lên trước một bước, uy phong bức người, Phùng Loạn Hổ vốn tới cản, nhưng thấy thế thanh thế của hắn, không khỏi né qua một bên, Tống Loạn Thủy muốn ngạnh tiếp, Thiết Thủ còn chưa động thủ, một cước đã quét gã văng ra.
Thiết Thủ vươn tay, chụp lấy tà áo Cố Tích Triều.
Cố Tích Triều một búa nhắm cổ tay Thiết Thủ bửa xuống.
Cái bửa đó chỉ là hư chiêu.
Ánh búa làm lóa mắt, đao của y âm thầm không hơi không tiếng phóng ra, trúng giữa lưng Ân Thừa Phong.
Chuôi đao khẽ đong đưa, Ân Thừa Phong chưa rên thành tiếng.
Thân mình Cố Tích Triều như cá bơi, bàn chân trượt đi, y phục rách toẹt, người thoái lùi ra sau, Thiết Thủ còn chưa nhào tới, “Ngư Lân Tử Kim đao” của Hoàng Kim Lân đã bay tới, nhắm chém ngay cổ hắn.
Cố Tích Triều lùi cực nhanh, nhưng có một đường kiếm lại nhanh hơn y.
Kiếm của Ân Thừa Phong.
Cố Tích Triều một đao đắc thủ, lùi về cực nhanh.
Nhưng y có nhanh mấy, cũng không không nhanh bằng kiếm của Ân Thừa Phong.
Ân Thừa Phong Ngoại hiệu “Điện Kiếm”, so về độ nhanh của kiếm, cho dù Lãnh Huyết trong “Tứ Đại Danh Bộ” cũng không nhanh hơn hắn.
Kiếm pháp của Lãnh Huyết, kiếm này kiếm nấy cũng ép bức tới, chiêu nào chiêu nấy cũng liều mạng, không một chiêu nào chừa đường thoát thân cho mình, luận về khí thế, Ân Thừa Phong kém hẳn một khoảng xa, nhưng luận về độ nhanh của kiếm pháp, khoái kiếm của Ân Thừa Phong vẫn trên nhạc phụ sư tôn “Tam tuyệt nhất thanh lôi” Ngũ Cương Trung thời trai tráng.
Một kiếm của hắn phát sau đến trước, đuổi kịp Cố Tích Triều.
Nhưng kiếm này xuất ra, cũng chẳng khác nào để hở hông cho Lưu Đan Vân nhào vào!
Lưu Đan Vân bi phẫn. Bi phẫn chỉ có Lưu Đan Vân.
Cuộc chiến vừa nổ ra, Cố Tích Triều, Lưu Đan Vân, Hải Thác Sơn và bảy tám cao thủ vây đánh Ân Thừa Phong, chính vì:
Một, Ân Thừa Phong là trại chủ “Thanh Thiên Trại” chỉ cần có thể bắt được hắn, có thể ép đám đệ tử của Nam trại trong “Bí Nham động” ra hàng, nếu như giết chết hắn, ít nhất cũng đả kích sĩ khí của đám người Thanh Thiên trại. Hai, võ công của Thiết Thủ quá cao, những nhân vật thành danh bọn y ai nấy cũng có lòng riêng, không dám coi thường thế công dũng mãnh của Thiết Thủ, tránh nặng chọn nhẹ, nên chọn Ân Thừa Phong ra tay. Ba, Hách Liên Xuân Thủy là con trai duy nhất của Hách Liên đại tướng quân, nếu giết y trước bao cặp mắt trừng trừng, chỉ e khó mà tránh được tai họa về sau, huống gì Hách Liên Nhạc Ngô đối với “Thiên Khí tứ tẩu” vốn có ân tình, mọi người đều vô tình hay hữu ý không muốn đuổi tận giết tuyệt Hách Liên Xuân Thủy.
Bởi thế, Ân Thừa Phong càng khốn đốn hơn.
Trong đó có lẽ có một người tương đối ngoại lệ, chính là Hải Thác Sơn.
Lão cùng Ân Thừa Phong cùng xưng hùng hai bờ Dịch Thủy, nếu ra tay ác độc với đồng đạo, cũng chỉ là vì tên đã lắp trên cung, không thể không bắn, là chuyện bất đắc dĩ, bản thân lão chỉ muốn bắt lấy Ân Thừa Phong, tịnh không muốn lấy mạng của hắn.
Chiếc cuộc diễn ra, phải liều mạng, Cố Tích Triều và Hoàng Kim Lân dồn sức đánh Ân Thừa Phong, Hải Thác Sơn thấy tình thế không hay, vội cản phía trước, rõ ràng muốn một mình đọ sức với Ân Thừa Phong, thật không có ý muốn Ân Thừa Phong chết tại đương trường.
Nhưng làm cách này, ngược lại phát sinh thảm họa.
Ân Thừa Phong đang xả thân trong cuộc chiến, nào nhận ra ai muốn bắt sống, ai muốn lấy mạng? Mà chính hắn lại liều mạng hơn là người đuổi giết hắn.
Kiếm của hắn chỉ biết nhanh, nhanh đến nỗi khiến người ta không thể đỡ được, nhanh đến nỗi khiến người không thể tránh kịp, nhanh đến nỗi khiến người ta không thể hóa giải, nhanh đến nỗi khiến người ta chỉ còn nước trúng kiếm.
Giờ đây hắn không những nhanh, hơn nữa còn liều mạng.
Liều mạng như kiếm pháp của Lãnh Huyết.
Nhưng kiếm pháp của hắn lại không phải là thứ kiếm pháp liều mạng.
Hắn chỉ là khoái kiếm.
Lúc hắn vừa nhanh mà lại liều mạng, tự nhiên lộ ra sơ hở.
Từ đầu Lưu Đan Vân luôn rình rập chờ sơ hở trong kiếm chiêu của hắn, Tỏa Cốt tiên của lão lập tức chọt vào.
Có điều kiếm pháp của Ân Thừa Phong quả thật quá nhanh.
Nhanh đến nỗi dù có chỗ hở, chỉ chớp mắt đã biến mất.
Nói một cách khác, lúc mình phát hiện ra sơ hở trong kiếm chiêu của hắn, thì kiếm chiêu của hắn đã biến chuyển rồi, hoặc đã đâm trúng mục tiêu, chỗ sơ hở đã biến mất, không còn tồn tại nữa.
Nên khi địch nhân muốn công vào chỗ hở, vừa mới dợm chiêu, chỗ hở đã không còn thấy, một chiêu hụt khoảng không, ngược lại để cho kiếm chiêu của Ân Thừa Phong trói buộc.
Khoái kiếm của Ân Thừa Phong một chiêu đánh ngã ba địch thủ liền.
Lưu Đan Vân một tiên kích hụt, kiếm của Ân Thừa Phong như độc xà đâm vào yết hầu lão.
Lưu Đan Vân đã đánh giá sai thực lực khoái kiếm của Ân Thừa Phong.
Một kiếm đó, dù lão có tránh được, chỉ sợ cũng thụ thương.
Hải Thác Sơn lại kịp thời ngăn chặn, hai chưởng lão chắp lại, kẹp giữ khoái kiếm của Ân Thừa Phong.
Ân Thừa Phong hừ lạnh một tiếng, “Thiên Vương Thác Tháp chưởng” của “Quỷ Thủ Thần Tẩu” Hải Thác Sơn vang danh thiên hạ, hắn cũng từng nghe qua, hai chân đảo một vòng, phi tới đá vào hạ bàn Hải Thác Sơn.
Công phu hạ bàn của Hải Thác Sơn trước giờ luyện không khá, hấp tấp phải buông tay, lão vốn chỉ muốn cứu Lưu Đan Vân, hù cản Ân Thừa Phong, cũng không có ý giết hắn, nhưng lão bị buộc phải buông tay, Ân Thừa Phong đã đánh ra ba kiếm liên tiếp “xoạt xoạt xoạt”, công tới Hải Thác Sơn.
Hải Thác Sơn lập tức tay rối chân loạn, chụp lấy bao kiếm của Ân Thừa Phong, gắng gượng cản ba kiếm.
Hải Thác Sơn có danh là “Quỷ Thủ Thần Tẩu”, bằng vào chưởng pháp, đạo kỹ cùng “Địa Tâm Đoạt Mệnh châm” nổi danh giang hồ, lão trong lúc gấp rút vội vàng, vẫn có thể thuận tay dắt dê, mượn bao kiếm của Ân Thừa Phong đón đỡ kiếm chiêu của hắn.
Đối với Ân Thừa Phong đang liều chết khổ chiến đột vây mà nói, chắc chắn sẽ có cảm giác võ công đối phương quá cao, vừa nhấc tay là giật được vỏ kiếm bên hông mình, đùa giỡn khinh thường mình.
Bởi thế Ân Thừa Phong càng dùng toàn lực đối phó, không có lòng thương tiếc ngọc nát đá tan.
Hải Thác Sơn lấy bao kiếm đỡ kiếm, chỉ cản được ba kiếm, kiếm thứ tư của Ân Thừa Phong phản thủ tra vào vỏ, kiếm vào trong vỏ liền giật thật mạnh, năm ngón tay của Hải Thác Sơn bị chấn nới giãn ra, Ân Thừa Phong vít kiếm, vỏ kiếm bay đánh Lưu Đan Vân, tung liền tấn công Cố Tích Triều đằng sau, Hải Thác Sơn đẩy chưởng ra, hét: “Đỡ!”. Đột nhiên hai tay tách ra, bấu hai bên sườn Ân Thừa Phong!
Hải Thác Sơn thấy Ân Thừa Phong quá liều mạng, giống như cầu chết hơn cầu sống, liền giả vờ phóng ám khí, thật ra là chụp lấy hắn.
Lão tự tin với oai danh “Quỷ Vương Địa Tâm Đoạt Mệnh châm” của mình, Ân Thừa Phong chắc sẽ phân tâm thất thần, cho dù mình chụp không trúng, thì những người khác sẽ lợi dụng đó mà bắt lấy Ân Thừa Phong.
Nhưng hỏng một chỗ là “Địa Tâm Đoạt Mệnh châm” của lão quá có tiếng.
Ngày nọ quần hùng trong chiến dịch ở “An Thuận Sạn”, Vi Áp Mao nhìn thấy mũi châm của Vô Tình, cho rằng là “Địa Tâm Đoạt Mệnh châm” của Hải Thác Sơn, liền sợ đến nỗi mặt không còn chút máu, mà tất cả mọi người đều hoảng vía, phải biết “Địa Tâm Đoạt Mệnh châm” của Quỷ Thủ Thần Tẩu, có thể đẩy châm chui xuống lòng đất, giết người cách ngoài trăm bước, với lại châm có tẩm kỳ độc, không có thuốc giải, trong “Thiên Khí Tứ Tẩu” thì Hải Thác Sơn và Ngô Song Chúc võ công cao nhất, nhưng trong giang hồ Hải Thác Sơn nổi tiếng hơn Ngô Song Chúc, chính là bởi “Địa Tâm Đoạt Mệnh châm” bách phát bách trúng, có muốn phòng cũng phòng không được đó.
Ân Thừa Phong nhác thấy Hải Thác Sơn định phóng ám khí, thì liền nghĩ đến sự lợi hại của “Địa Tâm Đoạt Mệnh châm”!
Trong tình hình đột nhiên bị tập kích, hắn không kịp suy tính thắc mắc “Địa Tâm Đoạt Mệnh Châm” của Hải Thác Sơn đó giờ chỉ phóng xuống đất, lại từ dưới chân địch nhân đâm lên, sao nay lại nghênh không vung tay mới phóng đi?
Hắn không kịp suy nghĩ cặn kẽ, chỉ biết Hải Thác Sơn muốn phóng độc châm, hắn quyết ý liều mạng với lão!
Hắn rướn người lên!
Khinh công của hắn, được chân truyền từ “Tam tuyệt nhất thanh lôi” Ngũ Cương Trung, nhanh chẳng kém gì kiếm pháp của hắn.
Đáng sợ nhất là đấu chí của Ân Thừa Phong.
Đấu chí của hắn có thể sánh với Lãnh Huyết.
Càng bị khốn cùng, càng kiên cường; càng gặp nguy hiểm, càng chiến đấu hăng hái.
Toàn thân hắn hóa thành một luồng kiếm quang, cả người lao đến, nhắm ngay đầu Hải Thác Sơn!
--- Với khí thế một chiêu đó, chính là muốn cùng Hải Thác Sơn lưỡng bại câu vong!
Hải Thác Sơn kinh hãi, lão vốn đâu có phóng ra “Địa Tâm Đoạt Mệnh châm”, giờ đây cũng không có cơ hội phóng ra “Địa Tâm Đoạt Mệnh châm”.
Cố Tích Triều là người duy nhất có thể tức khắc ngăn cản Ân Thừa Phong toàn lực lao tới.
Nhưng y tịnh không ngăn cản.
Y đương nhiên không ngăn cản.
--- Bất kể là ai chết, đối với y cũng đâu có tổn hại gì.
Y chỉ chờ Ân Thừa Phong liều mạng giết địch.
Y đang chờ Ân Thừa Phong dùng chiêu này.
Ân Thừa Phong quả nhiên đánh ra chiêu này.
Hải Thác Sơn trúng kiếm chết tức thì.
Ân Thừa Phong cũng liền phát giác ra Hải Thác Sơn đâu có phóng “Địa Tâm Đoạt Mệnh châm”.
Lúc đó, Lưu Đan Vân kích một roi trúng sườn trái hắn, đao của Cố Tích Triều cũng ghim vào lưng hắn.
Lưu Đan Vân lồng lộn như cọp dữ, lão biết có thể nói Hải Thác Sơn vì cứu mình mà chết, nên điên cuồng công kích Ân Thừa Phong.
Bốn lão già bọn họ mấy chục năm nay, cũng có thể được coi là tình như thủ túc, thậm chí còn thân hơn so với huynh đệ cùng cha cùng mẹ, huynh đệ ruột thịt chỉ là cùng một mẹ sinh ra, nhưng bọn họ lại cùng nhau trải qua vô số nguy nan; cho nên, Lưu Đan Vân chế ngự Ngô Song Chú, vốn nghĩ là làm tốt cho lão nhị, quyết không có ý gây hại cho lão ta.
Cái chết của Hải Thác Sơn khiến cho Lưu Đan Vân cảm thấy ray rứt đối với hành động do mình mưu tính lần này, càng quyết chí đốn ngã Ân Thừa Phong dưới cây roi của mình.
Thiết Thủ biết không xông ra được nữa, hôm nay có lẽ bốn người chết tại đây, liền hét một tiếng, hai tay bắt chéo trước ngực.
Hoàng Kim Lân huy đao đánh tới, chợt thấy Thiết Thủ ngưng thần vận khí, liền nghĩ tới nội công người này, khắp gầm trời kẻ có thể tiếp được một chiêu toàn lực của hắn tuyệt đối không quá mười người, nếu mình chính diện giao phong, há không phải sẽ chịu thiệt thòi ư? Liền vội lùi lại, đao thế chuyển sang Hách Liên Xuân Thủy.
Cố Tích Triều đánh lén Ân Thừa Phong một đao đắc thủ, hào khí hừng hực, lại bổ một búa vào đầu Thiết Thủ!
Thiết Thủ gầm một tiếng, song chưởng bung thật nhanh.
Cố Tích Triều thấy hắn phát chưởng, lập tức phi lùi ra sau, một mặt thu búa vào tay áo, hai người cách nhau hơn một trượng, Cố Tích Triều toàn lực vận khí ngạnh tiếp một chưởng.
Cố Tích Triều chỉ cảm thấy một luồng nội lực vô cùng hùng hậu ụa tới, phải loạng choạng lùi tám, chín bước, mới đứng lại được, bất giác huyết khí trào dâng, trong lòng liền nghĩ đến ba việc: nội công của Thiết Thủ, bất quá thế thôi! Chẳng lẽ nội công mình đã có tiến bộ? Hay là nội thương của Thiết Thủ vẫn chưa khỏi?
Một chút do dự đó, nghe thấy có người rên rỉ dưới đất, nhìn lướt xuống, mới biết dưới đất lăn lóc tám chín tên, toàn là bị mình đụng ngã, giờ mới biết: Thiết Thủ mượn thân thể mình truyền đi nội lực của hắn, tính toán chính xác những người gần mình thà chịu đụng ngã chứ nào dám dụng binh khí đánh mình, một hơi đánh ngã tám chín người, dùng nội lực truyền qua đánh lên người bọn chúng!
Cố Tích Triều vừa tức vừa thẹn, nhất thời không còn dũng khí tiến lên tấn công Thiết Thủ tiếp.
Thiết Thủ thừa cơ xông vào trong trận, một tay chụp lấy Ân Thừa Phong, Hách Liên Xuân Thủy vốn đang nguy ngập, nhưng Thích Thiếu Thường trên cao nhảy xuống, “Bích Lạc kiếm pháp” như mưa lớn rải rắc. Thoáng đó đã đánh ngã bảy tám quan binh, Thích Thiếu Thương hô: “Lên tường thoát ra!”.
Thiết Thủ xốc Ân Thừa Phong đang định phi thân lên, Lưu Đan Vân lửa giận thiêu lòng, một roi quất tới, Thiết Thủ vừa định tiếp chiêu, nào ngờ Hoàng Kim Lân từ bên hông bất ngờ tập kích thành công, một đao chém vào cánh tay phải.
Lần này, công lực trên cánh tay phải của Thiết Thủ chấn ngược lại trả đòn, lưỡi “Ngư Lân Tử Kim đao” của Hoàng Kim Lân cong vòng, suýt bay khỏi tay.
Có điều Thiết Thủ cũng bị cản lại.
Trong lúc bị cản đường, Ân Thừa Phong đang trọng thương hấp hối đột nhiên vọt ra.
Điều này cả Thiết Thủ lẫn Lưu Đan Vân đều không ngờ được.
Một roi của Lưu Đan Vân, mạnh mẽ quét ngang trước ngực Ân Thừa Phong, có thể nghe tiếng xương cốt vỡ vụn.
Kiếm của Ân Thừa Phong cũng đã đâm trúng Lưu Đan Vân.
Lưu Đan Vân chỉ kịp lách mình, kiếm đâm không trúng ngực, mà đâm vào cánh tay.
Tỏa Cốt Tiên của Lưu Đan Vân lập tức rơi xuống đất.
Hách Liên Xuân Thủy đã lướt nhanh tới, song thương hợp nhất, một tay đỡ lấy Ân Thừa Phong.
Thiết Thủ vụt vươn tay, nắm giữ Lưu Đan Vân, phong bế liền sáu huyệt đạo của lão.
Thích Thiếu Thương lướt đi trước, nhảy lên tường chém giết mở đường.
Cố Tích Triều nhìn thấy Thích Thiếu Thương, đúng là “cừu nhân gặp mặt, mắt nổ đom đóm” đang định toàn lực lao tới cản đường, nhưng Thích Thiếu Thương đi đầu mở đường, Hách Liên Xuân Thủy đỡ Ân Thừa Phong bám sát theo, Thiết Thủ nắm Lưu Đan Vân xoay vòng vòng, phụ trách đoạn hậu, một mặt hét to: “Các ngươi nếu phóng ám khí, thì lão ăn đòn trước!”.
Cố Tích Triều đối với Thiết Thủ dĩ nhiên có chút e ngại, không dám mạo hiểm tiến lên.
Cao thủ của Hải phủ ném chuột sợ vỡ đồ, cũng không dám truy đuổi quá ráo riết.
Hoàng Kim Lân quát: “Phóng tên!”.
Người rượt đuổi theo sau và mai phục bốn bề, mặc dù trận địa đã rối loạn, nhưng người nào người nấy cũng tung ám khí, giương cung bắn tên, Thiết Thủ, Thích Thiếu Thương, Hách Liên Xuân Thủy, Ân Thừa Phong chân vẫn không ngừng, chạy thẳng về hướng “Bí Nham động”.
Đến khi đã thoát khỏi truy binh, Thiết Thủ đoạn hậu, thương thế rất nặng, ít nhất đã trúng ba mũi ám khí, hai mũi tên, Lưu Đan Vân làm khiên đỡ tên, bị bắn chi chít như con nhím, Thiết Thủ thở dài, thầm nghĩ: “Thiên Khí Tứ Tẩu tội gì phải bán rẽ bằng hữu? Bản thân họ cũng đâu có kết cục tốt đẹp!”. Bèn buông thi thể Lưu Đan Vân xuống, nén đau rút ám khí ra, trong số có một mũi ám khí có tẩm độc, vội nặn máu đắp thuốc, lúc lên đường vẫn im ỉm vận huyền công gắng chịu đau ép độc ra ngoài.
Phải biết khi động thủ hoặc thi triển khinh công, thật không thể đồng thời vận công điều tức, vận khí liệu thương, nội lực Thiết Thủ kinh người, lại có thể làm được điều này, những cũng hao tổn không ít chân lực.
Ân Thừa Phong thoi thóp thở.
Ánh mắt hắn vô hồn.
Giờ đây ai nấy đều có thể suy ra được Ân Thừa Phong liều mạng sát địch, đương nhiên là vì đột vây mở đường máu cho mọi người, nhưng bản thân hắn thật sự đã không nghĩ đến sống còn nữa.
Sau khi Ngũ Thải Vân chết, Ân Thừa Phong vốn không còn sinh thú.
Một người không còn sinh thú, chết ngược lại đã trở thành lạc thú.
Ân Thừa Phong chính là trường hợp này, hắn đang cầu tử, không phải cầu tồn.
Một đao của Cố Tích Triều trúng lưng hắn, và một roi của Lưu Đan Vân trúng ngực hắn, đã đủ lấy mạng hắn.
Hách Liên Xuân Thủy nãy giờ cõng Ân Thừa Phong.
Y vạn vạn lần không thể để Ân Thừa Phong chết.
Bởi vì y cực lực chủ trương cả đám đi nương nhờ Hải Thần Tẩu, kết quả “Thiên Khí Tứ Tẩu” lại bán rẻ bọn họ.
Chuyện này, Hách Liên Xuân Thủy cảm thấy không khác gì mình hại chết Ân Thừa Phong.
Y càng lo lắng cũng sẽ hại chết Tức đại nương.
Cho nên y muốn trở về “Bí Nham động” lập tức, thông báo với Tức đại nương, thậm chí hoàn toàn quên mất thương tích trên mình.
Thích Thiếu Thương hỏi: “Bọn họ đang ở đâu?”.
Chàng chỉ nói “bọn họ”, đương nhiên là bọn “Tức đại nương”.
Thiết Thủ đáp: ““Ở Bí Nham động “.
Thích Thiếu Thương hỏi: “Bí Nham động là địa phương nào?”.
Thiết Thủ đáp: “Cách nơi này bảy, tám dặm, cực kỳ kín đáo, dễ thủ khó công, có điều chỗ đó lại do Thiên Khí Tứ Tẩu chỉ”.
Thích Thiếu Thương vội thốt: “Nói vậy, chỗ đó nhất định cũng nguy hiểm”.
Hách Liên Xuân Thủy chen ngang: “Nhưng bọn ta không thể không trở về”.
Thích Thiếu Thương bảo: “Đương nhiên không thể không trở về, bọn ta phải thông báo cho bọn họ biết”. Hai người nói chuyện lại không nhắc tới tên Tức đại nương.
Thiết Thủ thốt: “Ta đã thỉnh đại nương chủ trì đại cuộc, còn dặn Dũng nhị thúc và Đường lão đệ tăng cường đề phòng”.
Hách Liên Xuân Thủy lầm bầm: “Chỉ mong bọn họ... không chuyện gì thì tốt rồi”.
Thiết Thủ bảo: “Cho dù không có chuyện gì, quan binh chắc chắn đã bao vây chỗ đó từ lâu”.
Hách Liên Xuân Thủy thóa mạ: “Bốn cái lão con rùa, nói như thế...”.
Thiết Thủ bảo: “Phen này bọn ta thoát khỏi vòng vây trùng điệp nữa không, thật phải nhờ vào ý trời”.
Hách Liên Xuân Thủy nói: “Tốt! Nhờ ý trời thì nhờ ý trời, xông về rồi cùng liều chết chung một đám”.
Thích Thiếu Thương chợt thốt: “Không đúng!”.
Ba người nói chuyện mà vẫn không giảm tốc độ, cước bộ tuyệt không chậm.
Hách Liên Xuân Thủy không ngờ đến Thích Thiếu Thương lại nói vậy, hỏi: “Cái gì không đúng?”.
Thích Thiếu Thương bảo: “Chúng ta cùng quay về tìm chết, há không phải toại tâm nguyện của tên cẩu quan họ Cố? Huống chi, đâu cần thiết phải thế!”.
Hách Liên Xuân Thủy bực dọc: “Chẳng lẽ bọn ta nên bỏ mặc đại nương... bọn họ gặp nạn mà không lý đến ư!”.
Thích Thiếu Thương cộc lốc: “Đương nhiên không!”.
Hách Liên Xuân Thủy hồ nghi: “Ý ngươi là sao?”.
Thích Thiếu Thương nói: “Các ngươi đi thỉnh cứu binh, ta quay lại được rồi!”
Hách Liên Xuân Thủy chợt ngửa mặt lên trời cười lớn.