Sau khi đến pelew, Hoàng tốn 3 tháng để kiếm soát toàn bộ miền bác đảo Babeldaob, ở đây chỉ có những bộ tộc nhỏ, phần lớn những bộ tộc chỉ có trên dưới 100 người, có tổng công 30 bộ tộc, tổng cộng hơn 1.500 người. Trong chiến tranh luôn luôn có tổn thất. Phía Hoàng tổn thất hai người do không hợp khí hậu và bị sốt rét. Còn bên phía đối phương thì toàn bộ các thủ lĩnh điều tử vong. Kết quả Hoàng có được 1236 người dân bản địa định cư ở đây, khu trại nhỏ nằm ở bến thuyền ngoài cửa sông Ongimi, được đặt tên là Tân Triều.
Ngoài những việc chỉ huy họ làm việc, Hoàng còn để mọi người dạy cho dân bản địa nói những từ thông dụng tiếng Việt. Ngoài ra Hoàng còn tuyển một số người thông minh dạy họ đọc viết.
Sau ba tháng ở pelew, hoàng gọi Như Thanh lại nói:
- Khi ta về cậu có quản lý được ở đây ko?
Như Thanh tự tin đáp:
- Đại nhân yên tâm.
Hoàng nói:
- Muốn trị dân tốt phải có cả ân và uy. Trong hai cái thiếu cái nào cũng không được.
Thanh đáp:
- Con biết rồi ạ. Thường ngày con vẫn xem mọi người bình đẵng như nhau, không kỳ thị bất cứ người nào. Con nghe mọi người nói từ khi đến đây cuộc sống cảu họ tốt hơn trước kia nhiều.
Điều này cũng dễ hiểu, trước kia họ chỉ lấy khoai làm lương lực, thỉnh thoàng đi săn mới có thêm thịt, nhưng chỉ dùng gậy gộc. Không như bon Võ, Hùng,.. dùng súng đạn đi săn. thu hoạch hiện giờ rất khá, không như cuộc sống trước kia.
Hoàng nói:
- Ta để lại cho cậu 50 người, thêm 50 người dân bản địa mới tuyển. Cậu hãy ổn định lại tình hình nơi đây. Khi ta quay lại đất liền sẽ đưa thêm mấy đội hộ vệ quay ậi đây để luyện binh.
Thanh đáp:
- Đại nhân yên tâm. con sẽ chuẩn bị đầy đủ, và phái người thám thính tình hình các bộ tộc ở phía Nam.
Hoàng trả lời:
- Cậu chú ý đó, ở đấy có bộ tộc trên 1.000 người. Đừng kích động bọn họ.
Thanh vâng sạ đáp:
- Con sẽ vẹ người bản địa ở đây xuống đó do thám tình hình.
Hoàng mang đi 150 người hộ vệ và tài sản của thủ lĩnh các bộ tộc. Chủ yếu là trang sức, đem bán cho giới quý tộc Châu Âu còn kiếm được chút tiền.
Sau khi về đến Phò Trạch, Hoàng thấy đội hộ vệ đã lên đên 500 người thì ngạc nhiên. Ông Hoằng cho biết đa số người nghèo từ các tỉnh miền Bắc nghe tin mà đến. Họ chỉ cần nuôi ăn, không cần tiền công nên ông nhận hết. Hiện chừ vấn đề có người nhưng không có súng, cũng không có tiền để mua súng đạn trang bị cho họ. Hoàng đang suy nghĩ đối sách thì thấy Francisco Goya, Hoàng liền nãy ra một ý tưởng.
Mười ngày sau, đội thuyền của Hoàng lại ra biển. Lần này Hoàng mang theo 680 người, để lại 20 người ở lại bảo vệ lang, lần này Quỳnh không được Hoàng đưa đi theo, năm gã Tay Ban Nha cũng được đem theo lần này. Sau khi quay lại Tân Triều, Hoàng để lại lương thực và một số thứ. Chỉ đem theo 150 hộ vệ và 5 người Tây Ban Nha nữa là 155 người. Lần này Hoàng cho thuyển ngược lên phía Bắc. Sau 1 tháng lênh đênh trên biển đội thuyền của Hoàng gặp Đài Loan. Đài Loan gồm 4 châu 16 huyện( huyện là em chém đây, các thím đừng ném đá, ta chỉ biết Đài Loan thời nhà Thanh chỉ có 4 châu) do Phúc Kiến phủ quản lý. Phía nam có thành Nga Loan Tị bằng đá khá chắc chắn, ít nhất đối với bọn Hoàng là vậy. Không thể dùng vũ lực Hoàng định dùng mưu mô.
Hoàng gọi năm gã Tây Ban Nha đến, phân phó công việc, rồi hứa sau khi hoàn thành sẽ cho bọn gã thỏa sức cướp bóc. Cả bọn hoan hỉ lập tức vâng lệnh đi chuẩn bị.
Chiều hôm đó, người dân trên bến thuyền ngoài thành Nga Loan Tị chợt phát hiện có hai chiếc thuyền lớn ghé vào bến, trước mũi thuyền có mấy người “tây dương” đang đứng, vừa chỉ trỏ lên bờ, vừa xì xồ nói chuyện. Thời bấy giờ, người Thanh triều gọi người Âu Mỹ là tây dương, và còn cung kính gọi là dương đại nhân. Bởi vì sau mấy phen bại trận, phải cắt đất nộp tiền cầu hòa, thì người Thanh triều từ quan đến dân đều không dám đắc tội với người tây dương. Sau các cuộc chiến tranh nha phiến, Thanh triều đã phải ký kết Hiệp ước Nam Kinh (29/6/1852) và Hiệp ước Thiên Tân (tháng 6 năm 1858) cắt Hương Cảng cho Anh quốc, nhượng nhiều tô giới ở các thành thị lớn, cho tàu thuyền “tây dương” (kể cả chiến hạm) tự do đi lại trên Trường Giang, cho người “tây dương” tự do buôn bán và truyền giáo trên đất Đại Thanh, và phải nộp những khoản bồi thường chiến phí lớn. Chỉ riêng Hiệp ước Thiên Tân đã buộc Thanh triều phải bồi thường 5 triệu lượng bạc.
Do đó, khi những người “tây dương” rời thuyền lên bờ thì không ai dám ngăn cản. Nha dịch ở bến cảng lập tức chạy về thành báo cáo với quan trên. Quan tri châu khi biết tin lập tức xưng bệnh trốn trong phủ, và dặn nha dịch không được đắc tội các vị “dương đại nhân”.
Thành Nga Loan Tị tuy được xây bằng gạch, nhưng vì nằm ở nơi xa xôi hẻo lánh, nên đã lâu không được tu sửa, nhiều chỗ đổ nát rất thảm hại. Theo quy định, Nga Loan Tị có 300 quân, nhưng thực tế chỉ có hơn trăm lão nhược bệnh tàn. Nhiều kẻ vì hút thuốc phiện, hai mắt lờ đờ, cầm ngọn giáo không muốn vững, nói gì đến chiến đấu. Đó là tình trạng thành Nga Loan Tị lúc bấy giờ. Theo quân chế của Đại Thanh, quân địa phương được gọi là lục doanh, là một trong những đội quân được thừa nhận là vô năng nhất thế giới. Chỉ vài nghìn quân Anh là đã có thể đuổi mấy chục vạn Thanh binh chạy dài. Ngay cả đối phó với các cuộc nổi loạn trong nước cũng không xong, hoàn toàn phải dựa vào Tương quân, Hoài quân là lực lượng tư quân của giới sĩ phu và địa chủ miền nam chống giữ.
Chiều hôm đó, khi “dương thuyền” ghé vào cảng, đã có 5 vị “dương đại nhân” lên bờ. Một vị ở lại bến cảng chỉ huy thủy thủ khuân mấy chiếc rương lớn lên bến. Còn lại 4 vị dẫn theo 40 hộ vệ đi vào trong thành, rồi chia nhau đi đến các cửa hàng hỏi thăm giá cả hàng hóa. Các vị “dương đại nhân” không biết Hán ngữ, còn người trong các cửa hàng lại không biết tiếng Anh hay tiếng Tây Ban Nha, nên song phương nói chuyện bằng cách khua tay múa chân rất dữ dội. Vì ngữ ngôn không thông, việc thăm dò giá cả tốn rất nhiều thời gian. Khi trời tối, công việc vẫn chưa xong, các vị “dương đại nhân” quyết định nghỉ lại trong thành.
Tối hôm đó, đột nhiên trong thành có nhiều tiếng súng nổ vang, cùng với tiếng Thanh binh tử thương kêu gào thảm thiết. Cư dân trong thành ai nấy đều đóng chặt cửa nẻo, không dám ló đầu ra ngoài, sợ rước vạ vào thân. Đã lâu lắm rồi người dân nơi đây chưa từng biết chiến loạn là gì, nên ai nấy đều rất lo sợ.
Tiếng súng nổ chỉ khoảng nửa giờ thì dứt. Thanh binh bị tấn công bất ngờ, lại quá vô năng nên nhanh chóng bị tiêu diệt. Khi đã khống chế được toàn thành, Hoàng thống suất hộ vệ tiến vào chiếm lĩnh châu phủ nha môn. Các nhà hào phú và các cửa hiệu lớn cũng nhanh chóng bị khống chế. Vũ lực trong thành không ra gì, nên chiến đấu chẳng tốn bao công sức. Sau đó là lo dọn tài vật. Theo lệnh của Hoàng, những gì có giá trị đều được dọn sạch. Trong thành tài vật không ít, mọi người phải thu dọn đến tận trưa hôm sau mới xong. Quan ngân trong kho của nha môn không nhiều, nhưng tài sản của quan lại và phú hào thì vô số. Người Thanh triều quả thật giàu có. Đương nhiên, chỉ có phú hào và quan lại là giàu có, còn dân thường vẫn nghèo như dân Việt. Hoàng cảm thấy một viên Tri châu ở đây còn có nhiều tiền của hơn một viên Tổng đốc ở Đại Nam. Sau đó, Hoàng cho tất cả hộ vệ tùy ý cướp bóc trong thành, nhưng yêu cầu bọn họ hạn chế giết người. Cuộc cướp bóc diễn ra đến tận chiều thì mới kết thúc. Túi tiền ai nấy đều rủng rỉnh.
Xong đâu đấy, Hoàng quyết định rời Nga Loan Tị, kéo thuyền ra khơi. Trên bến cảng có ba chiếc thuyền buồm nhỏ cũng bị tịch thu, kéo theo. Mỗi chiếc thuyền buồm đó tải trọng chỉ vài chục tấn, nhưng có còn hơn không. Khi rời Nga Loan Tị, Hoàng còn để lại một bức thư trong nha môn, viết bằng tiếng Anh, đại ý khiển trách quan viên Thanh triều đòi hối lộ mới cho buôn bán.
Sau đó, các châu huyện gần bờ biển lần lượt bị bọn Hoàng “viếng thăm” không sót nơi nào. Ngay cả những khu dân cư nhỏ cũng không bỏ qua. Mọi cuộc “viếng thăm” đều rất thuận lợi, thu hoạch khả quan. Chỉ có trận chiến ở Trừng Hải huyện thành (trị sở của Triều Châu phủ), Thanh binh mới chống trả “kịch liệt”, gây cho bọn Hoàng ít nhiều tổn thất : 1 hộ vệ chết và 16 hộ vệ bị thương vì tên bắn hoặc giáo đâm, cũng may không nguy hiểm đến tính mạng, chỉ cần băng bó, nghỉ ngơi ít ngày là sẽ khỏe mạnh như thường. Dù vậy, Hoàng cũng nổi giận, cho xử lý hết toàn bộ quan binh trong thành.
Sau hai tháng ghé Đại Thanh “buôn bán”, bọn Hoàng thu hoạch cực kỳ khả quan. Túi tiền của chúng hộ vệ đều không đủ chỗ chứa, ai nấy đều phải may thêm cho mình một túi vải lớn để chứa tài vật. Cả 5 gã Tây Ban Nha giờ này cũng chính thức trở thành hộ vệ của Hoàng. Bọn gã cảm thấy cuộc sống hiện tại sướng hơn khi làm hải tặc hồi trước nhiều. Trong khi đó, thu hoạch của Hoàng càng nhiều hơn. Hiện tại không chỉ hai chiếc thuyền lớn mà cả 59 chiếc thuyền nhỏ kiểu vài chục tấn (tịch thu từ các bến cảng trên đảo) đều chở đầy tài vật. Sau khi thống kê, Hoàng thu được 120 vạn lượng bạc bằng ngân phiếu, hơn 5 vạn lượng bạc nén, ngoài ra còn rất nhiều tơ lụa, vải vóc và nhiều thứ có giá trị khác.
Sau khi hoàn thành việc “buôn bán”, Hoàng cho thuyền đi về hướng Hương Cảng. Ngân phiếu của Đại Thanh không thể sử dụng bên ngoài, do đó Tuấn Văn cần đổi thành hiện kim, rồi mua thêm vũ khí đạn dược.
Hương Cảng bị Thanh triều cắt nhượng cho Anh quốc vào năm 1852 sau Hiệp ước Nam Kinh, kết quả của cuộc Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất. Lúc này, Hương Cảng vẫn chưa phát triển, kém hơn Singapore nhiều. Hoàng cho chúng hộ vệ lên chơi thoải mái một ngày, rồi sau đó mới lo chuyện chính. Hoàng tìm chỗ đổi ngân phiếu rồi tìm người mua vũ khí. Hiện tại Hoàng có đủ tiền nhưng không có đủ vũ khí để mua. Vì Hoàng chỉ mua hai loại súng trường Pattern 1851 Minié và Pattern 1853 Enfield, thu góp tất cả các nhà buôn vũ khí ở Hương Cảng và Quảng Châu chỉ được 450 khẩu, mất hết mười mấy nghìn lượng bạc. Do Hoàng từng đi đến Singapore, có quan hệ với cả công sứ Mỹ quốc và Thống đốc Anh quốc, nên các nhà buôn không thể kêu giá trên trời được. Mỗi khẩu súng Pattern 1851 Minié giá 12 lượng bạc, mỗi khẩu súng Pattern 1853 Enfield giá 15 lượng bạc, đạn dược tính riêng. Hoàng còn mua được 1 chiếc thuyền trên 1.000 tấn bị hư hỏng nhẹ hết 100 vạn lạng bạc nữa.
Khi mọi người về đến Huế đã tháng 9 năm 1856, Hoàng đã quen sử dụng Dương lịch, sau khi đi Singapore đã mua một bộ lịch tây để tính ngày dương cho tiện việc giao thiệp với các nước tây phương. Còn người Việt lúc bấy giờ sử dụng âm lịch.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92
Hôm nay có hứng nên tặng các thím thêm chương này.
Chương 10: Thống nhất Babeldaob
Chương 10: Thống nhất Babeldaob
Thời gian ở làng Phò Trạch, lãnh địa của Hoàng sẽ có thêm một hộ gia đình mới. Trịnh Võ đã lấy cô con gái thứ nhì của ông Hoằng. Cuộc hôn nhân này có sự xúc tiến của Hoàng.
Hoàng ở làng Phò Trạch nữa tháng rồi lại ra Tân Triều. Đoàn người của Hoàng cập cảng Tân triều vào ngày 3 tháng 10 năm 1856. Lương thực vậtc tư hàng nghìn tấn. Như Thanh hay tin vội vã chạy ra nghênh đón, rồi huy động dân chúng vận chuyển vật tư về các kho ở Tân Triều.
Tân Triều giờ đây đã có diện mạo của một thì trấn trên nghìn dân. Các khu phố trong trại được xây dựng rất chỉnh tề ngăn nắp. Trong trại có 10 dãy nhà ở với hơn 200 hộ gia đình, cùng với nhiều nhà kho,...
Do Hoàng mang đến những dụng cụ trồng trọt mới, năng xuất lao động được nâng cao rõ rệt. Giờ đây quang trại với những cánh đồng ngô khoai rộng lớn, hầu như họ tận dụng tất cả những nói có thể trồng trọt được. Cuộc sống dân cư ở đây có thể nói an cư lạc nghiệp.
Sau khi an đốn mọi người xong, Hoàng triệu tập chúng thủ hạ thân tín nghị sự. Bọn họ gồm Trịnh Võ, Trần Văn Hùng, Nguyễn Văn Phương, Trương Như Thanh, Lê Văn Dật, đều là đầu lĩnh trong đội hộ vệ của Hoàng, theo quan niệm thời bấy giờ có thể xem là gia tướng. Nơi ở và làm việc của Hoàng là ngôi nhà hai tầng duy nhất ở đây, nằm ngay vị trí trung tâm, phía trước là một quảng trường nhỏ. Tầng dưới ngôi nhà có một đại sảnh rộng, dùng để hội họp. Sau khi nghe Thanh báo cáo lại tình hình ở Tân Triều, Hoàng nói:
- Hiện tại chúng ta có 700 khẩu súng có thể tâng lực lượng hộ vệ lên 1.000 người. Chúng ta còn thiếu 500 người nữa.
- Thanh này!! Tôi giao co cậu 1 chiếc thuyền loại lớn, cậu hãy vào Nam Kỳ mua thêm một lượng lớn Lương thực và vật tư thiết yếu. Tiện thể cậu hãy tuyển thêm người đưa ra đây, càng nhiều càng tốt. Cậu đã hiểu chưa?
Như Thanh trả lời:
- Vâng!!
Trịnh Võ chen vào:
- Đại nhân. Chúng ta có thể mua thêm vũ khí, chúng ta có tiền mà.
Hoàng mỉn cười nói:
- Mua vũ khí không phải là một cách hay. Ta định mua dây chuyền chế tạo súng và đạn dược. Như vậy chúng ta có thể tự chế súng dùng.
Hoàng nói:
- Tình hình phía Nam đảo Babeldaob sao rồi. Các cậu hãy báo cáo tình hình cho ta xem.
Như Thanh nói:
- Thưa đại nhân. Phía nam đảo Babeldaob có bộ tộc Airai khoản 500 người, xung quanh có hàng chục bộ tộc nhỏ.
- Xuống phía nam nữa là vương quốc Pelew có gần 7.000 người. Trong đó có năm nghìn người sống tại thủ đô Koror trên đảo Koror, khoản sáu trăm người sống trên đảo Ngerekebesang, Số còn lại chưa đến một nghìn người sống rải rác trong 11 ngôi làng nhỏ khác trên các đảo.
Nhóm đảo này có ba đảo lớn là Koror, Ngerekebesang và Malakal, cùng nhiều đảo nhỏ khác, là địa bàn thực tế của Quốc vương Pelew, thuộc bộ tộc Idid. Do đã từng tiếp xúc với phương tây từ những năm 1784, nên xã hội ở đấy tương đối phát triển hơn trên đảo Babeldaob. Tất cả người dân ở đấy đều chịu sự thống trị trực tiếp của Quốc vương. Xã hội tương đối thống nhất và đã có mầm mống quốc gia sơ khai.
Nghe xong báo cáo của Thanh, Hoàng suy nghĩ giây lát rồi quay qua nói với Trịnh Võ:
- Anh Voc này, em cho anh 400 hộ vệ, mục tiêu của anh là bộ tộc Airai, và các bộ tộc xung quanh.
Võ trả lời:
- Đã rõ thưa đại nhân.
Hoàng nói:
Thế anh chuẩn bị lên đường đi.
------------------------------------
Từ Tân Triều trấn đi đến Airai, nếu đi dọc theo bờ biển phía đông của đảo thì chỉ có khoảng 40 kilômét, hành quân một buổi là đến nơi. Khu trại của bộ tộc Airai nằm bên bờ vịnh, cách sông Ngerderar không xa. Dừng quân cách mục tiêu khoảng 1 kilômét, Trịnh Võ phái Lê Đức An suất lĩnh 50 quân mang theo hướng đạo đến đó chiêu hàng. Gã hướng đạo thuộc một trong số 10 gia đình dân bản địa được ở trong khu trung tâm của Tân Phú trấn, trải qua nửa năm học tập đã có thể giao tiếp thông thường bằng tiếng Việt, ngoài nhiệm vụ hướng đạo còn đảm đương vai trò phiên dịch khi giao thiệp với dân bản địa.
Lê Đức An dẫn quân đến trước khu trại của bộ tộc Airai, sai gã hướng đạo kêu gọi đối phương quy thuận. Thấy đối phương không đông lắm, các thủ lĩnh của bộ tộc Airai tức giận dẫn trai tráng trong bộ tộc ra nghênh chiến. Cả bộ tộc có gần 500 dân, nhưng số trai tráng chỉ có khoảng 150 người. Bọn họ cầm cung tên, gậy gộc ra đối trận cùng đối phương. Phía bọn Lê Đức An thì dàn thành trận hình chiến đấu, còn phía bộ tộc Airai loạn thành một đoàn, hàng ngũ lộn xộn. Nhưng cũng có một điều đặc biệt là phía bộ tộc Airai cho những người già yếu ở phía trước, còn những người mạnh khỏe cường tráng ở phía sau. Đây là cách bố trí chiến đấu thường thấy của các dân tộc còn lạc hậu, bởi đối với bọn họ, những người già yếu là không cần thiết cho xã hội, là gánh nặng cho những người còn lại, vì thế khi chiến đấu sẽ được mang ra hy sinh đầu tiên.
Sau một tiếng quát xung phong và giữa những tiếng trống trận tùng tùng vang dội, “đại quân” Airai tràn lên tấn công. Thấy khí thế đối phương quá hung hăng, Lê Đức An cho quân tạm thời rút lui về phía sau. Quân Airai thừa thắng xông lên, đuổi sát theo sau. Đến lúc này tố chất quân sự của bọn họ mới hiển lộ rất rõ ràng. Mạnh ai nấy truy đuổi, không ra hàng ngũ gì cả. Chỉ có 150 người mà chia thành ba tốp rõ rệt. Tốp đầu là những chiến sĩ dũng mãnh nhất, trong lúc truy đuổi đã vượt qua khỏi tốp những người già yếu ở hàng đầu, quyết đuổi theo giết giặc lập công. Tốp thứ hai là những người già yếu. Còn tốp cuối cùng là giới thủ lĩnh của bộ tộc.
Truy đuổi được một lúc, đột nhiên, nhiều tiếng nổ vang ở cả phía trước và phía sau khiến cả bọn kinh hãi thất thần. Bọn Lê Đức An đã dừng lại nổ súng phản kích, làm hàng loạt chiến sĩ thuộc bộ tộc Airai ở tốp đầu gục ngã. Bọn Trịnh Võ và Trần Văn Hùng mai phục từ hai bên cũng nổ súng công kích vào tốp cuối, tiêu diệt số thủ lĩnh của bộ tộc ở đấy. Sau đó, cả bọn đổ ra bao vây những kẻ còn lại.
Đến lúc này, phía bộ tộc Airai đã bị tiêu diệt quá nửa, chỉ còn lại những kẻ già yếu, mà chúng thủ lĩnh cũng đều tử trận, không người chỉ huy, khiến cả bọn hoang mang sợ hãi, sĩ khí không còn. Bị một lực lượng đông gấp nhiều lần với vũ khí tinh lương bao vây, cả bọn chỉ còn biết đầu hàng.
Tiếp đó, Trịnh Võ lại kéo quân đến khu trại của bộ tộc Airai, thu hàng số phụ nữ và trẻ con ở đó. Sau trận này, phía bộ tộc Airai tử trận 78 người, chỉ còn lại 391 người, đều là người già, phụ nữ và trẻ em.
Chinh phục được bộ tộc Airai, Trịnh Võ nhanh chóng chiêu hàng các bộ tộc nhỏ quanh vùng, không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào. Vậy là chỉ sau 4 ngày, khu vực phía nam đã được chinh phục. Toàn bộ đảo Babeldaob đã được thống nhất.
Sau khi hoàn thành việc nam chinh, Trịnh Võ một mặt phái người về Tân Triều trấn báo tin chiến thắng, một mặt cho tập trung toàn bộ cư dân trong vùng về xây dựng một thị trấn mới ở vị trí khu trại của bộ tộc Airai trước đây. Tổng dân số của thị trấn mới này là hơn hai nghìn người, đông gấp đôi so với Tân Triều trấn. Thị trấn mới này nằm ở vị trí thuận lợi hơn so với Tân Triều trấn. Phía nam là một vịnh nhỏ thích hợp xây dựng bến cảng. Xung quanh có nhiều vùng đất bằng phẳng nằm cạnh sông hồ, có thể trồng lúa. Vì vậy, Hoàng quyết định chuyển đại bản doanh đến đây, và đặt tên là Tân Phú trấn.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92
Sau một tháng thời gian ổn định và luyện quân, lần này Hoàng phái 45 tiểu đội người việt và 5 tiểu đội người địa phương. Tổng quân số xuất chinh lần này 500 người do Trịnh võ làm Tướng quân, Nguyễn Văn phương và Trần Văn Hùng làm phó tướng. Trương Như Thành và Lê Văn Dật ở lại bảo vệ thị trấn.
Đội hộ vệ giờ đây được gọi là quân đội, kể cả quân tướng hiện có 706 người, nên chỉ tổ chức một cách đơn giản, lấy 10 người làm 1 tiểu đội, đặt tiểu đội trưởng và tiểu đội phó. Rồi tùy vào mỗi trận chiến mà sẽ phái người chỉ huy và lấy số quân thích hợp. Bản ý của Hoàng là sẽ đặt quân chế theo kiểu tây phương : tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn; chứ không theo kiểu : ngũ, thập, đội, cơ / vệ, doanh, đạo như triều Nguyễn. Theo quân chế triều Nguyễn thì 5 người là 1 ngũ, 2 ngũ là 1 thập, 5 thập là 1 đội, 10 – 12 đội là 1 cơ / vệ, 5 – 8 cơ / vệ là 1 doanh, một số doanh (tùy tình hình) hợp thành đạo (cả nước chỉ có 5 đạo). Các chức vị Ngũ trưởng, Cai thập, Suất đội, Quản cơ / Chưởng vệ / Lãnh binh, ... nghe cũng không hay tí nào. Nhưng muốn tổ chức chính quy thì phải có đủ tướng lĩnh và có vài nghìn quân đã. Hiện tại quân ít tướng hiếm thì đành chịu vậy.
Koror, kinh đô của Vương quốc Pelew, lúc này đã là một thị trấn lớn với hơn năm nghìn dân, nằm ở phía tây bắc đảo Koror. Đảo Koror vừa dài vừa hẹp, nơi rộng nhất chưa đến 1 kilômét, còn nơi hẹp nhất chỉ khoảng trăm mét, nên các thôn trấn trên đó dễ dàng trở thành mục tiêu pháo kích của các chiến hạm. Trịnh Võ cho các chiến hạm tiến đến ngoài khơi thị trấn Koror, rồi cho các khẩu pháo hướng vào trong thị trấn, pháo thủ sẵn sàng, chuẩn bị pháo kích. Để giảm tổn thất binh lực, Lý Ngân quyết định pháo kích thị trấn trước khi cho quân đổ bộ.
Khác với các bộ tộc trên đảo Babeldaob, bộ tộc Idid trên đảo Koror, chủ nhân của Vương quốc Pelew, có một đạo quân thường trực 500 người, trú đóng tại kinh đô, phụ trách bảo vệ Quốc vương và vương tộc. Khi thấy các chiến hạm xuất hiện ngoài khơi, thủ quân và dân chúng trên bờ đều kinh hoàng sửng sốt. Thị trấn bắt đầu rơi vào hỗn loạn. Nhìn những chiến hạm ngoài khơi, ai nấy không lạnh mà run. Nhưng rồi, dưới sự chỉ huy của Quốc vương, thủ quân nhanh chóng ổn định tình hình, chiếm giữ các vị trí trọng yếu, chuẩn bị ứng chiến.
Trịnh Võ không để cho thủ quân có nhiều thời gian chuẩn bị, cờ hiệu lay động truyền lệnh tấn công. Pháo thủ lập tức khai hỏa, nã pháo đạn vào trong thị trấn. Thị trấn diện tích không lớn, hơn trăm khẩu pháo lê một lượt là gần như tan hoang. Những ngôi nhà mái cao, dấu hiệu cho biết chủ nhân là phú gia hay quyền quý, đều bị san bằng. Những nơi thủ quân tập trung phòng thủ cũng bị hủy diệt, khiến thủ quân tổn thất nặng nề. Sau đó, 400 quân đổ bộ lên bờ, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Phương, tiến vào trong thị trấn.
Thủ quân lúc này cũng còn được hơn 200 người, cũng tổ chức chống cự. Nhưng dùng gậy gộc, cung tên chống lại súng đạn, nên nhanh chóng bị tiêu diệt. Mặt đối mặt chiến đấu, cung tên có tầm bắn chỉ khoảng trăm mét, trong khi súng trường có tầm bắn xa hơn rất nhiều lần, thậm chí cả chục lần. Vì thế, thủ quân đều bị bắn gục trước khi kịp đến gần đối phương, toàn bị công kích chứ không thể phản kích. Chiến đấu hoàn toàn nghiêng về một bên. Nguyễn Văn Phương nhanh chóng dập tắt sự phản kháng và tiến vào khống chế thị trấn.
Tiếp đó, Trịnh Võ truyền lệnh xử lý toàn bộ những “kẻ chống đối” và tịch thu tài sản. Theo quan niệm của bọn Trịnh Võ, toàn bộ quý tộc của vương quốc Pelew đều từng tham gia phản kháng, đều là những “kẻ chống đối”, cần phải nghiêm trừng. Bọn họ chỉ lưu lại bình dân, cưỡng chế tất cả di dân đến TânPhú trấn bên kia eo biển. Xong đâu đấy, các chiến hạm lại chuyển mục tiêu sang thị trấn Meyuns trên đảo Ngerekebesang bên cạnh. Thị trấn này chỉ có 600 dân, nên nhanh chóng bị khống chế. Số phận cư dân ở đây cũng tương tự như cư dân ở Koror. Chỉ có dân của 11 làng trên các đảo vì thấy thời thế đổi thay, chủ động quy thuận, nên được giữ nguyên hiện trạng.
Ngày mồng 9 tháng 12 năm 1856, Hoàng chính thức trở thành Quốc vương Pelew. Một bữa tiệc nhỏ được tổ chức thay cho lễ đăng quang. Thật ra mọi người cũng không xem trọng ngôi vị đó cho lắm, ngay cả Hoàng cũng vậy, chủ yếu là để chính danh mà thôi. Chứ làm Quốc vương của một Vương quốc chỉ có chưa đến một vạn quân dân thì có đáng kể gì.
Kinh đô của Vương quốc, Tân Phú trấn, giờ đã có hơn tám nghìn dân, đã có dáng vẻ của một đô thị “hiện đại” (theo quan niệm thời bấy giờ). Nhờ có gạch ngói và xi măng, những ngôi nhà lầu hai, ba tầng lần lượt được xây dựng. Đường phố được tráng xi măng phẳng lỳ, khiến cho diện mạo phố xá cũng khang trang hơn.
Mỗi bộ tộc ở Pelew đều có một ngôi nhà “Bai” làm nơi hội họp của các thủ lĩnh bộ tộc. Những ngôi nhà đó cũng tương tự như “nhà rông” của các buôn làng ở Tây Nguyên. Hoàng cho phá dỡ chúng, dựng lên những ngôi nhà thờ, làm nơi học tập và sinh hoạt cộng đồng của dân chúng. Xây nhà thờ chỉ để cho người tây phương thấy, cũng như để cho người Tây Ban Nha theo Hoàng có chỗ cầu nguyện.
Hiện tại dân chúng đã có thể gọi là an cư lạc nghiệp, không đến nỗi thiếu đói vô gia cư, Hoàng quyết định cải thiện tình trạng văn hóa của bọn họ. Việc giáo dục rất quan trọng đối với mỗi quốc gia. Hoàng thân tự biên soạn chương trình xóa mù chữ dành cho dân chúng, chỉ dạy đọc viết chữ Việt (chữ quốc ngữ). Trước đây, Hoàng đã dạy chương trình thử nghiệm cho 10 người bản địa. Bọn họ chỉ mất khoảng bốn tháng là có thể nói viết bằng tiếng Việt, làm hướng đạo và phiên dịch cho quân đội của Hoàng. Do đó, ước tính đối với người bình thường chỉ cần nửa năm là có thể hoàn thành chương trình xóa mù chữ đó. Số người bản địa vừa được xóa mù đó sẽ lo việc dạy tiếng Việt cho cư dân bản địa. Bọn họ vừa biết tiếng Việt vừa biết tiếng Pelew, việc giao tiếp sẽ dễ dàng hơn. Ngay cả số người Tây Ban Nha và Philippine cũng bị buộc phải học tiếng Việt. Những ai học hành không xong sẽ phải làm những công việc nặng nhọc hơn những người khác. Ngoài ra, Hoàng còn biên soạn chương trình tiểu học với thời lượng hai năm. Thời kỳ này, bảng hệ thống tuần hoàn Mendeleev chưa ra đời, thuyết tiến hóa của Darwin cũng vậy, dòng điện chỉ tồn tại trong phòng thí nghiệm với máy phát điện đơn giản dùng nam châm vĩnh cửu cho dòng điện rất yếu, ... Do đó chương trình tiểu học này chỉ dạy toán, văn, sử, địa, đạo đức với nội dung rất đơn giản. Ít ra thì chương trình này tiến bộ hơn cách học Tứ Thư, Ngũ Kinh ở Đại Nam và Đại Thanh nhiều. Hệ thống giáo dục ở Đại Nam và Đại Thanh chỉ đào tạo ra những “ông đồ” giỏi viết văn làm thơ. Mà Hoàng không tin rằng giỏi làm thơ thì cũng giỏi trị nước. Cũng vì những “ông đồ” đó mà đề nghị duy tân của Nguyễn Trường Tộ đã bị triều đình Huế bác bỏ, trong khi cùng thời gian đó, ở Nhật Bản không có những “ông đồ” nên cuộc duy tân thời Minh Trị đã thành công.
Sau khi sắp xếp xong mọi chuyện ở Tân Phú, Hoàng quyết định vào đất liền ăn tết. Đi với Hoàng có vợ chồng Trịnh Võ, Lê Văn Dật, Nguyễn Văn Phương. Do Trần Văn Hùng buồn vì mất vợ nên không muốn quay về quê ăn tết, Trương Như Thanh đang ở vùng Nam Kỳ chưa kịp về.
Ngày 13 tháng 12 năm 1856 mọi ngượi lên thuyền quay về đất liền ăn tết.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92
Ngày 19 tháng 5 năm 1857, Hoàng đích thân xuất lĩnh quân đội viễn chinh gồm 50 tiểu đội bộ binh và một tiểu đội pháo binh, các tướng lĩnh đi theo có Trịnh Võ, Nguyễn Văn Phương, Trần Văn Dật, Francisco Goya, Fernando Rodriguez. Khi Hạm đội rời cảng Tân Triều, hướng về phương bắc, mọi người mới biết mục tiêu lần này chính là Đại Thanh. Nhớ đến lần “viếng thăm” đảo Đài Loan hồi cuối năm ngoái với thu hoạch cực kỳ phong hậu, ai nấy đều rất hứng khởi, kể cả những người Tây Ban Nha. Trong tâm niệm của bọn họ, Đại Thanh đồng nghĩa với lắm tiền và yếu ớt.
Hạm đội đi men theo bờ đông quần đảo Philippine về phía tây bắc, tốc độ ước khoảng sáu hải lý mỗi giờ, chỉ sau chín ngày hàng hành thì đội thuyền đến được phía đông nam đảo Quỳnh Châu. Toàn đảo có 3 châu 10 huyện, do Quỳnh Châu phủ quản lý. Vùng phía nam là Nhai Châu, châu thành là một tòa thành xây bằng gạch, không cao lắm, nhưng đối với bọn Hoàng là khá kiên cố. Không thể dùng sức thì dùng mưu vậy.
Sau khi đã “viếng thăm” một vòng quanh đảo, Hạm đội lại chuyển hướng sang dọc theo duyên hải Quỳnh Châu lên phía bắc thẳng Hằng Châu, không quên ghé thăm những nơi có thể. Lần này Không ghé qua Hương Cảng.
Ngày 24 tháng 6 năm 1857, Hạm đội tiến vào vịnh Hàng Châu. Sau đó, hai hộ vệ hạm được lệnh tiến vào cửa sông Tiền Đường, nã pháo vào các đồn trại của quân Thanh dọc hai bên bờ sông. Quân Thanh bỏ đồn trại, trốn vào trong thành.
Sáng sớm ngày 25, ba đại đội được cho đổ bộ lên bờ, do Nguyễn Văn Phương thống lĩnh, đi cướp phá những nhà hào phú ở ngoài thành. Người Hàng Châu ưa chuộng phong cách kiến trúc lâm viên, mà địa giới trong thành có hạn, nên nhiều nhà hào phú buộc phải xây dựng trang viện ở ngoài thành. Và giờ đây, bọn họ trở thành mục tiêu “chiếu cố” của bọn Nguyễn Văn Phương. Vô số tài sản bị cướp đưa lên chiến hạm. Bọn họ chuyển vận không hết, buộc phải uy bức dân bản địa làm phu khuân vác.
Trưa hôm sau, quan Tuần phủ Chiết Giang phái 1.500 quân ra ngoài thành trấn áp “hải tặc”. Do nhà nhạc phụ đại nhân của quan Tuần phủ ở ngoài thành, nên ông ta phải sai quân cứu viện. Và để đảm bảo, ông ta đã phái một lực lượng đông hơn “hải tặc” gấp mấy lần, vì nghe đâu bọn “hải tặc” chỉ có khoảng 200 người. Và số quân đó gần như là toàn bộ số quân “tinh nhuệ” của Hàng Châu Thành.
Song phương gặp nhau ở cách nhà nhạc phụ đại nhân của quan Tuần phủ không xa. Phe “hải tặc” ít người hơn, nên phải rút chạy, bỏ lại rất nhiều tiền bạc của cải, rơi đầy khắp mặt đất. Quân Thanh cả mừng, xông vào tranh cướp, cả viên Tổng binh cũng không sao ngăn cản được. Thậm chí, còn có nhiều kẻ đánh nhau để tranh giành chiến lợi phẩm.
Đột nhiên, tứ phía nổ vang những tràng đạn pháo. Tám đại đội bộ binh chia ra bao vây ba mặt, liên tiếp nã đạn vào quân Thanh. Ở phía sau là tiểu đội pháo binh, liên tục nã pháo. Trịnh Võ trực tiếp dẫn quân phục kích quân Thanh. Tiếng nổ vang trời, quân reo dậy đất, thanh thế kinh nhân. Quân Thanh trúng đạn tử thương rất nhiều, tiếng kêu gào thê thảm vang dậy toàn trường.
Không chống cự nổi, quân Thanh buộc phải chạy về hướng không có địch quân. Các tướng lĩnh phóng ngựa chạy trước, rồi binh lính ùn ùn chạy theo phía sau. Trịnh Võ thừa thế dốc quân đuổi theo, nã đạn vào những kẻ chậm chân.
Cắm đầu chạy được một lúc, quân Thanh chợt nhìn thấy sông Tiền Đường hiện ra trước mắt. Cả bọn vừa mới thầm than trong lòng thì chợt nghe thấy từ ngoài sông có nhiều tiếng nổ vang, rồi hàng loạt pháo đạn trút lên đầu bọn họ. Các chiến hạm ở ngoài sông đã chuẩn bị từ lâu, khi thấy quân Thanh chạy đến thì lập tức khai pháo. Quân Thanh lại một phen tử thương thảm trọng. Ngay sau đó, bọn Trịnh Võ đã đuổi đến nơi, giải quyết số còn lại. Quân Thanh bị tiêu diệt hoàn toàn. Chỉ có vài người nhân lúc hỗn loạn chạy thoát được về thành.
Xử lý xong chiến trường, Trịnh Võ liền báo tin chiến thắng cho Hoàng biết. Sau đó, các chiến hạm đều tiến vào sông Tiền Đường, đến sát Hàng Châu Thành, nã pháo vào thành tới tấp. Nhân lúc pháo đạn hấp dẫn sự chú ý của thủ quân trong thành, Trịnh Võ sai quân dùng chất nổ phá thành. Đây là cách quân Pháp đã dùng khi tấn công Gia Định Thành, và rất hiệu quả. Chỉ sau một lúc, bọn Hoàng đã phá được cửa đông, tràn vào trong thành. Thủ quân trong thành chỉ còn lại vài trăm quân lão nhược bệnh tàn, chống cự không nổi, tranh nhau vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ quân phục, trốn vào trong nhà dân chúng lánh nạn.
Trịnh Võ thân dẫn hai đại đội xông thẳng đến Tuần phủ Nha môn, sai bốn đại đội đến khống chế các cổng thành, và sai hai đại đội đi chiếm lĩnh các nha môn, quan thự khác. Tuần phủ Chiết Giang, Tri phủ Hàng Châu, cùng nhiều quan lại trong thành định bỏ trốn, nhưng không kịp, đa số bị bắt. Chỉ một số ít học theo binh lính, cởi bỏ quan phục, mặc đồ dân thường, ẩn náu trong dân chúng, nên mới thoát nạn. Bọn Trịnh Võ không biết mặt các quan lại ở đây, nên chỉ nhìn y phục để phân biệt.
Tiếp theo đó là đến việc dọn sạch của cải trong thành. Theo thông lệ, tài sản của các nha môn, quan lại, sĩ thân, đại hào phú và đại thương gia sẽ thuộc về Tuấn Văn. Số còn lại thuộc về quân binh. Hàng Châu nổi tiếng là nơi phú túc, vật sản phong phú, của cải vô số, nên việc dọn sạch của cải ở đây mất đến bốn ngày mới xong, trong đó có huy động đông đảo dân phu giúp đỡ. Việc này khi quân đội các nước tây phương tấn công Đại Thanh vẫn luôn làm, và khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Gia Định Thành cũng làm tương tự, nên Hoàng cũng chẳng thấy có vấn đề gì. Chỉ có điều, bọn họ không làm triệt để như Hoàng mà thôi. Mục đích của Hoàng và bọn họ khác nhau. Bọn họ cần thị trường Trung Hoa để tiêu thụ sản phẩm, còn Hoàng cần làm suy yếu thực lực của Thanh triều.
Rời Hàng Châu, Hạm đội tiếp tục tiến về phía bắc, vượt qua Thượng Hải, tiến đến địa phận Dương Châu – Hoài An. Đó là mục tiêu chủ yếu thứ hai của Hoàng. Hoàng không nhắm đến Tô Châu, bởi sau nhiều phen tranh đoạt giữa Thái Bình Thiên Quốc và Thanh triều thì Tô Châu không còn phú túc nữa. Nói về sự giàu có, người Hán có câu : “nhất Dương, nhị Ích”, ý muốn nói các thương nhân ở Dương Châu và Ích Châu (Thành Đô, Tứ Xuyên) là giàu có nhất. Vùng Dương Hoài và Thành Đô là những nơi sản xuất muối lớn nhất của Trung Hoa. Nghề buôn muối có lợi nhuận rất cao. Các diêm thương đều rất giàu có, nhiều người gia tài ức vạn, hào xưng “phú khả địch quốc”. “Quốc” ở đây là chỉ triều đình. Nhiều thương nhân thật sự còn giàu hơn cả triều đình. Tài sản trong tư khố của bọn họ còn nhiều hơn cả quốc khố. Ngay cả thời “Khang – Càn thịnh thế”, khi Càn Long truyền ngôi cho Gia Khánh, thì trong quốc khố chỉ còn lại hai triệu lượng bạc, đừng nói chi thời buổi loạn lạc như lúc này. Trong khi một ức là một trăm triệu, thì vài triệu lượng bạc chẳng đáng kể gì.
Hành động tương tự như ở Hàng Châu, quân đội của Hoàng cũng chiếm được Dương Châu phủ thành và Hoài An phủ thành. Do địa phương cách xa nhau, tin tức ở Hàng Châu chưa truyền đến đây, nên ở đây chẳng có phòng bị gì. Sau khi hạ được thành, tài sản của triều đình và quan thương hai nơi đó đều biến thành tài sản của Hoàng và chúng thuộc hạ. Các thuyền hạm đều đã chất đầy hàng hóa, không còn chỗ chứa nữa, Hoàng quyết định quay về. Lúc này Hạm đội không chỉ có bảy chiến hạm mà còn có thêm mấy chục chiếc chiến thuyền và thương thuyền tịch thu từ quan binh và thương nhân Thanh triều. Tất cả đều chở đầy hàng hóa, của cải. Trước khi rời đi, Hoàng cho thả các quan viên bị bắt ở Dương Châu, giao cho bọn họ một công hàm gửi cho triều đình Đại Thanh ở Bắc Kinh, nhân danh Vương quốc Pelew, phản đối quan lại Thanh triều đòi hối lộ và gây cản trở việc buôn bán của thương nhân Vương quốc Pelew. Hoàng cần lý do cho cuộc tấn công. Vấn đề tự do thương mại là lý do các nước tây phương vẫn nêu ra khi có chiến tranh với Đại Thanh, nay Hoàng cũng lấy sử dụng. Ít ra thì thương thuyền của bọn Hoàng đã từng ghé Quảng Châu một lần sau chuyến “viếng thăm” Quỳnh Châu hồi năm ngoái, và việc đòi hối lộ của quan lại Thanh triều đã là một điều bí mật mà ai cũng biết.
Hạm đội quay ngược về Hương Cảng. Hoàng cho ghé lại đó, liên hệ với thương nhân ở đấy và Thập tam hành ở Quảng Châu để bán bớt một ít hàng hóa ít giá trị, đổi ngân phiếu thành bạc nén hoặc bảng Anh, và mua thêm vũ khí. Quân đội cũng được cho luân phiên nghỉ phép, vào Hương Cảng và Quảng Châu vui chơi thư giãn. Sau chuyến này, ai nấy đều thu hoạch phong hậu, nên càng quyết tâm đi theo Hoàng. Kể cả số hàng binh Tây Ban Nha cũng cảm thấy đi theo Hoàng ít nguy hiểm mà thu nhập lại rất cao. Hoàng cần bọn họ bởi bọn họ có kiến thức và kỹ thuật. Chúng thủ hạ người Việt của Hoàng mặc dù dũng cảm và trung thành, nhưng kiến thức và kỹ thuật lại không bằng.
Phải nói rằng người ở Hàng Châu, Dương Châu và Hoài An quá giàu có. Hoàng cướp phá hầu hết phủ huyện ở Quỳnh Châu mà chỉ thu được khoảng 18 vạn lượng bạc, kể cả vàng bạc châu báu và hàng hóa. Trong khi chỉ riêng Hàng Châu Thành đã thu được hơn ba ức, Dương Châu và Hoài An được hơn 11 ức. Cộng thêm các thành trấn ở vùng duyên hải từ Hàng Châu đến Dương Châu được một ít nữa, tổng cộng khoảng 15 ức lượng bạc. Đó là chỉ mới tính hiện ngân, chưa kể châu báu và hàng hóa, đại khái giá trị hơn 800 vạn lượng bạc. Số tài sản đó là tích lũy nhiều năm, thậm chí nhiều đời của giới hào phú địa phương, và đã bị Hoàng cho dọn sạch sẽ. Cũng may của cải tích lũy của bọn họ hầu hết đều là hiện ngân, chứ với hơn chục ức lượng bạc ngân phiếu làm sao mà đổi cho hết. Ngân phiếu của Đại Thanh thời bấy giờ chủ yếu do các tiền trang Sơn Tây phát hành, đều là của tư nhân, nên khi tích trữ của cải người ta chỉ trữ hiện kim, hiện ngân chứ không trữ ngân phiếu, bởi có ai biết được nhiều năm sau tiền trang phát hành ngân phiếu đó có bị phá sản hay không. Môi trường kinh doanh ở Đại Thanh rất không đảm bảo, địa vị của thương nhân rất thấp kém, quan lại có thể kê biên, tịch thu tài sản của thương nhân bất cứ lúc nào, chỉ cần gán cho một tội nào đó là được. Hoàng thích vàng hơn bạc, chỉ đáng tiếc, do Đại Thanh chuộng dùng bạc, nên trong số đó chỉ có khoảng 600 vạn lượng vàng, còn lại đều là bạc khoảng 14 ức lượng.
Sau 3 ngày nghỉ ngơi ở Hương Cảng, Hoàng quyết định vượt Thái Bình Dương qua Mỹ. Thế là chuyến viễn hành qua Thái Bình Dương bắt đầu.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92
Chuyến đi thành công mỹ mãn nên Hoàng rất hài lòng. Bọn Trịnh Võ, Như Thanh cũng có cơ hội mở rộng tầm mắt. Sự phát triển của các nước Âu Mỹ khiến bọn họ choáng ngợp, càng quyết tâm phò tá Hoàng phát triển cơ đồ để có thể sánh vai cùng các cường quốc tây phương.
Về đến Tân Triều, Hoàng triệu tập thủ hạ, phân phó công việc, toàn lực phát triển Tân Triều. Nay đã có nhà xưởng thiết bị, đã có thể phát triển tiểu quy mô công nghiệp, nhưng vấn đề là thiếu nhân công. Toàn dân Pelew chỉ có hơn vạn người, quá ít. Đảo Babeldaob rộng hơn ba trăm kilômét vuông, cả quần đảo rộng gần năm trăm kilômét vuông, chỉ nhỏ hơn Singapore hoặc Hương Cảng chút ít, nhưng lại có nhiều sông hồ, thích hợp cư trú. Ít ra thì cũng có chỗ cho một triệu cư dân.
Do đó, vấn đề trước mắt là tăng số dân nhập cư đến Vương quốc. Gì chứ người thì ở Á Đông không thiếu. Không chỉ người Việt, Hoàng cần cả người Malaya, người Philippine, người Java, người Thái, người Khmer, nhưng tuyệt đối không nhận người Hoa. Hoàng mấy lần cướp phá Đại Thanh, nếu nhận người Hoa chỉ gây thêm bất ổn. Hơn nữa, ấn tượng về các khu người Hoa ở Singapore khiến Hoàng cảm thấy bọn họ thường đi kèm với kém vệ sinh và mất an ninh. Người Hoa có thói quen xả rác và khạc nhổ bừa bãi. Vì vậy mới có các bảng hiệu “Hoa nhân dữ cẩu bất đắc nhập nội” ở những nơi có nhiều người Hoa sinh sống. Sang đến thế kỷ 21, chính phủ CHND Trung Hoa còn phải ra lệnh cho dân chúng khi ra nước ngoài phải giữ vệ sinh để tránh làm xấu đi hình ảnh dân tộc.
Giờ vừa có tiền, vừa có súng đạn, Hoàng cho mộ thêm quân Quân đội có thể gồm cả người Việt và người các dân tộc khác, miễn sao người Việt chiếm quá nửa quân số, còn mỗi dân tộc khác không chiếm quá 20% là được. Ngoài ra, trước khi tham chiến cũng cần phải chuẩn bị đầy đủ súng đạn. Hiện tại, Tuấn Văn có đủ vũ khí để trang bị cho 4.000 quân. Nhưng Hoàng không bằng lòng với quân số đó.
Nóng lòng về vấn đề vũ khí, Hoàng đi thăm xưởng vũ khí ở phía tây bắc Tân Triều trấn. Hoàng đã cho xây dựng ở đó một thị trấn đặc biệt chuyên phục vụ các nhu cầu về quân sự, nằm bên bờ vịnh Ngeremeduu, gần cửa sông Tabcheding. Xưởng vũ khí cũng ở đấy. Vịnh Ngeremeduu là một vịnh kín, chỉ thông ra biển qua một eo biển hẹp, là căn cứ của Hải quân. Các chiến hạm vẫn neo đậu ở đấy. Còn cảng Tân Triều là thương cảng.
Xưởng vũ khí có ba dây chuyền sản xuất súng, sản lượng tất cả là 50 khẩu súng mỗi ngày. Nhưng lúc này công nhân chưa quen tay nghề, dù được các kỹ sư người Mỹ tận tình hướng dẫn, mà cũng chỉ có thể sản xuất được 20-30 khẩu súng mỗi ngày. Tuấn Văn khảo sát một lượt, rồi cho chia dây chuyền thành nhiều công đoạn, tổ chức công nhân thành nhiều nhóm, mỗi nhóm chỉ phụ trách một công đoạn. Như thế, tốc độ sản xuất nhanh hơn gấp bội, và theo các kỹ sư người Mỹ ước tính, khi công nhân thành thạo tay nghề thì sản lượng có thể đạt đến 100 khẩu súng mỗi ngày.
Còn có 3 chuyên gia người Do Thái theo Hoàng đến Pelew. Hoàng giao cho Zion Ozeri thành lập Hoàng Gia Ngân Hàng, giữ vai trò là Ngân Hàng Trung Ương, phụ trách phát hành tiền tệ. Sau chuyến đi Âu Mỹ vừa rồi, Hoàng mang về 2.500 tấn vàng, đủ để phát hành một lượng lớn tiền tệ. Hoàng không cho đúc thành nén vàng, nén bạc như các nước trong khu vực, mà đúc dạng đồng xu như các nước tây phương, gọi là Đồng Việt. Đồng Việt có trọng lượng 3,75 gam, tương đương một chỉ vàng, hình tròn không có lỗ ở giữa, một mặt in nổi hình mặt trời 18 tia và dòng chữ Hoàng Gia Ngân Hàng bằng tiếng Anh và tiếng Việt (chữ quốc ngữ), mặt kia là hình chân dung Hoàng. Giá trị của đồng tiền là 1 Đồng Việt = 0,5137 bảng Anh = 0,1 lượng vàng = 1,6 lượng bạc. Nếu đổi sang tiền của Đại Nam thì 1 quan = 3.7 Đồng Việt.
Xong vấn đề vũ khí và tiền tệ, Hoàng lại đến thăm mười ba vị khoa học gia theo Hoàng đến đây. Bọn họ được an bài cư trú ở nhà thờ tại Tân Triều trấn, và có một viện nghiên cứu trên một ngọn đồi bên ngoài trấn. Viện nghiên cứu có bốn khu với nhiều phòng thí nghiệm dành cho hóa học, sinh học, vật lý và quân sự, trong đó trang bị những thiết bị tiên tiến nhất thời bấy giờ. Giá trị của những thiết bị đó tương đương với một chiến hạm, nhưng đầu tư cho khoa học Hoàng không tiếc. Năm vị khoa học cũng rất hài lòng với điều kiện sinh hoạt và nghiên cứu ở đây. Ở tại nhà thờ, có viện nghiên cứu, thỏa mãn được nhu cầu nghiên cứu khoa học. Họ gồm bốn nhà hóa học là John Smith,Thomas Jefferson, Gordon Brown và Robert Taylor; năm nhà sinh vật học là Charles Thompson, Stonewall Jackson,Omar Martinez, David Wilson và Williams Walker;bốn nhà Vật lý học là William Wilson, Martin Luther, Andrew Johnson và Miles Davis: cùng nhà vũ khí quân sự Taylor Swift . Lẽ ra, vì điều kiện kinh tế không cho phép, các nghiên cứu của họ khó thể đi xa hơn, và họ vẫn sẽ là những kẻ vô danh trong giới khoa học. Nhưng nay thì khác rồi. Để họ khỏi mày mò nghiên cứu không mục đích, dẫn đến hoang phí thời gian một cách đáng tiếc, Hoàng đặt mục tiêu nghiên cứu cho họ.
Đối với bốn nhà hóa học, Hoàng đặt mục tiêu nghiên cứu thuốc nổ từ nitroglyxerin. John Smith lo ngại nói :
- Bệ hạ. Nitroglyxerin rất không ổn định, dễ gây cháy nổ, khó ứng dụng được. Nghe nói anh em nhà Nobel đã nghiên cứu nó nhiều năm nay, nhưng vẫn không thành công.
Hoàng mỉm cười bảo :
- Nó không ổn định thì phải tìm cách làm cho nó ổn định. Chúng ta có thể dùng những chất xốp để hấp thụ nó. Ví dụ như bọt biển, thứ vẫn được dùng để kê các thùng hàng đấy.
Và để nâng cao động lực nghiên cứu của hai người họ, Hoàng lại nói :
- Chỉ cần hai vị nghiên cứu thành công, ta có thể cung cấp cho hai vị một đề tài nghiên cứu mới : khám phá bí mật của hóa học, mà nếu thành công sẽ khiến cho hóa học bước sang một trang mới. Kể cả mấy trăm năm sau, hễ ai muốn học hóa học đều phải biết về hai vị, phải học về những gì hai vị nghiên cứu ra.
Robert Taylor vội nói :
- Bệ hạ nói cho biết đi, rồi chúng ta nghiên cứu luôn.
Rõ ràng việc khám phá bí mật của hóa học hấp dẫn họ nhiều hơn. Hoàng mỉm cười nói :
- Việc phải có trước có sau. Hai vị nghiên cứu công trình kia trước đã.
Thế là hai người họ lập tức kéo nhau đi vào phòng thí nghiệm, tiến hành nghiên cứu ngay. Mục tiêu đã có, phương hướng đã có, họ chỉ cần tiến hành các thí nghiệm để xác định thành phần và tỷ lệ thích hợp.
Đối với ba nhà sinh vật học, Hoàng cũng có đề tài nghiên cứu thích hợp với bọn họ : chất kháng sinh Penicillin. Hoàng nói :
- Nghe nói nhiều người ở Âu châu sử dụng mốc của bánh mì để xử lý các vết thương khi nhiễm trùng.
Charles Thompson nói :
- Vâng ạ. Ở Serbia và Hy Lạp, mốc bánh mì là một phương pháp điều trị truyền thống cho các vết thương và nhiễm trùng. Ở Nga, nông dân nghèo cũng sử dụng một loại đất ấm để điều trị các vết thương bị nhiễm trùng. Ở Ba Lan, bánh ướt được trộn với mạng nhện để điều trị vết thương. Nhưng các phương thức đó có lúc thành công có lúc thất bại, nên không được sử dụng phổ biến.
Hoàng nói :
- Khi ủ các loại chất bột như gạo, bột bánh mì sẽ tạo ra một loại nấm mốc có thể tiết ra các chất kháng khuẩn. Ta hy vọng các vị nghiên cứu về vấn đề này. Các vị có thể nuôi cấy loại nấm mốc, rồi chiết suất ra chất kháng khuẩn để sử dụng. Có thể dùng phương pháp chưng cất để thu được tinh chất.
Với những nhà vật lý học và quân sự Hoàng giao cho họ nghiên cứu Khinh khí cầu:
- Chắc các vị biết Khinh khí cầu chứ?
Nhà nghiên cứu quân sự Taylor Swift nói:
- Thưa bệ hạ! Khinh khí cầu hiện đại được Bartolomeu de Gusmão chế tạo tại Lisbon năm 1709, dùng không khí đốt nóng, chỉ bay xa được một kilômét. Năm 1766, Henry Cavendish chế tạo Khinh khí cầu với khí hidro. Nhưng đến năm 1783, anh em nhà Montgolfier mới chế tạo được Khinh khí cầu dùng không khí nóng có thể bay lâu được 25 phút. Đến năm 1852, Henri Giffard đã chế tạo Khinh khí cầu có thể lái được, sử dụng động cơ hơi nước, nhưng do bơm khí hidro nên rất nguy hiểm, dễ cháy nổ khi tiếp xúc với không khí nóng.
Hoàng cười nói:
- Đúng vậy!!
Hoàng quay qua nhìn những nhà vật lý học mỉm cười nói:
- Tôi cần các vị cải tiển lại Khinh khí cầu, nó phải điều khiển được và bay trên bầu trời ít nhân hai tiếng đồng hồ.
Nhà vật lý William Wilson trầm ngâm trong giây lát rồi nói:
- Vấn đề điều khiển chúng thần còn làm được nhưng bay trên bầu trời liên tục mấy tiếng e hơi khó. Không khí rất dễ cháy nên rất khó làm được điều đó.
Hoàng suy nghĩ rồi nói.
- Tôi nghĩ các vị hãy thử dùng khí heri vào xem sao.
Taylor Swift nói:
- Vậy để chúng thần thử xem sao.
Sau khhi sắp xếp cho các vị khoa học, Hoàng tính đến việc chuẩn bị quân đại quay lại Đại Nam.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92