Chương 5 – Kết Phát (Kết Tóc) - Thượng
Người dịch: Aficio
Biên dịch: luulang
nguồn: tàng thư viện
Cổ Bất Hóa quan sát tình trạng hiện thời, miệng “Ồ” lên một tiếng. Chỉ thấy Khoát Lạc đại sư vừa bắt đầu đã lập tức một tay sử dụng Bát Nhã chưởng, tay kia đánh ra Chư Không quyền. Hai tay một nặng một nhẹ liên tục thay đổi, thực sự có thể dùng bốn chữ “vô cùng thần diệu” để miêu tả. Khi Trương Hiểu Kí có thể hóa giải mười chiêu của mình, Cổ Bất Hóa đã thấy kinh ngạc, nhưng còn đáng kinh ngạc hơn là song chưởng của Khoát Lạc thiền sư không tiếp tục hoán đổi nữa, chỉ thuần tay trái Ban Nhược chưởng, tay phải Chư Không quyền. Xem ra lúc bình thường, đại sư có thói quen luyện tập tay trái nặng tay phải nhẹ. Tiếp đó, cả chưởng lẫn quyền hợp nhất, cùng sử dụng Ban Nhược chưởng, chỉ thấy chưởng ảnh như núi, trùng trùng điệp điệp phủ chụp lên Trương Hiểu Kí. Kẻ tầm thường quan chiến bên ngoài cho rằng Khoát Lạc đại sư đã chiếm thế thượng phong nhưng Cổ Bất Hóa thì nhìn rõ, một kiếm của Trương Hiểu Kí đã ngăn trở hết mọi biến hóa từ hai tay của Khoát Lạc đại sư, bức bách ông ta phải dùng cách đánh tốn thể lực nhất. Hai lòng bàn tay Cổ Bất Hóa rịn ướt mồ hôi, lão không tin nổi tiểu tử này lại khó đối phó đến thế.
Toàn Bảng Đức bên cạnh cười hì hì, nói: “Đây không phải là lúc tỉ võ tranh tài. Hồng trưởng lão, Bạch trưởng lão, chúng ta có nên xuất thủ bắt lấy hắn chăng?”
Hồng, Bạch nhị trưởng lão cũng nhìn ra Khoát Lạc đại sư thực tế bị bức vào thế hạ phong, chỉ có bề ngoài hoa dạng vậy thôi. Nếu tiếp tục không xuất thủ mà để cho Trương Hiểu Kí chiếm hết thượng phong, Ngũ phái Tam minh đâu còn mặt mũi nào nữa, lập tức tán đồng: “Đúng, đúng, với loại nghịch đồ này thì phải ra tay.”
Vị Hồng trưởng lão nói lời tuy nhẹ nhàng, nhưng trước khi xuất thủ, sắc mặt trước tiên đỏ bừng lên, sắc đỏ này dường như biết di chuyển, nhanh chóng lan từ trên mặt ông thẳng xuống bàn tay. Đây chính là bản lĩnh giữ nhà của ông ta - Chu Sa chưởng. Bạch trưởng lão thì cởi chiếc túi vải thô màu trắng bên lưng ra, vừa xuất thủ đã vung miệng túi quấn vào lưng của Trương Hiểu Kí. Còn Toàn Bảng Đức thân hình to béo nhất nhưng xem ra rất vững vàng, đợi Hồng, Bạch hai trưởng lão tham chiến rồi, lão vẫn đứng yên một chỗ quan sát. Chỉ thấy dù thêm hai người nhập trận – Khoát Lạc đại sư gánh trọng trách đảm đương chính diện, Hồng Bạch nhị trưởng lão một trái một phải tấn công hai bên, tinh thần Trương Hiểu Kí lại tựa như càng thêm phấn chấn. Bóng kiếm tung hoành, hậu viện cổ thụ âm u, kiếm ảnh ở nơi tối ám ấy dần dần tỏa ra màu trắng xám như ánh tuyết dưới bóng mây đen, tạo nên vẻ tươi sáng rạng rỡ giữa chốn mù mịt. Toàn Bảng Đức vốn là đệ tử Chung Nam, trông thấy liền kinh ngạc bật thốt: “Dư Tuyết kiếm khí! Sư huynh, hắn đã luyện thành Dư Tuyết kiếm khí rồi à?”
Dư Tuyết kiếm khí là tuyệt học cuối cùng trong Chung Nam tam đại tuyệt kỹ. Trong sáu mươi năm trở lại chưa ai luyện thành, cho nên Toàn Bảng Đức mới kinh hãi như thế. Trần Du Tử nhìn thế kiếm của Trương Hiểu Kí, vẫn trầm lặng không nói lời nào, nét mặt miên man biến đổi – đứa nhỏ này quả nhiên thâm tàng bất lộ, ông dựa vào kiếm ý của đồ đệ mà thấy được đây không chỉ là “Dư Tuyết kiếm khí”, nhưng bản thân ông ngày thường nào hay hài tử Hiểu Kí đã tập luyện công phu bản môn tới trình độ như vậy.
Quả nhiên Toàn Bảng Đức không còn đứng ngoài được nữa. Lão ta vừa tham dự vào trận chiến, kiếm thức của Trương Hiểu Kí còn đang trầm tĩnh tuấn dật bỗng lại thêm phần phiêu hốt vô định, ngay cả trình độ như Toàn Bảng Đức cũng chẳng nhìn ra kiếm ý ở đâu. Toàn Bảng Đức cười run giọng: “Hảo tiểu tử, đến cả kiếm pháp nhập môn hạ đẳng nhất của Chung Nam phái là Chung Nam Tiệp Kính, ngươi cũng đem kết hợp vào rồi!”
Chung Nam Tiệp Kính thực sự chính là loại kiếm thuật hạng hai, nguyên dạy cho tục gia đệ tử ở Chung Nam để mau thành tựu mà ứng dụng ngay. Không ai ngờ kiếm pháp này lại xuất hiện trong trận chiến sinh tử của bậc cao thủ. Tuy về lý là thế, nhưng kiếm pháp này vào tay Trương Hiểu Kí vận dụng thì trở nên điêu luyện nhuần nhị, kiếm chiêu rợp trời biến hóa nghênh chiến bốn đại cao thủ, tới lui công thủ hoàn toàn ung dung nhàn nhã. Trần Du Tử lẩm nhẩm: “Hài tử này, hài tử này, thêm hai ba năm nữa, Chung Nam phái khẳng định sẽ nhờ nó mà lừng danh.”
Toàn Bảng Đức thấy bốn người hợp công mà vẫn không hạ được Trương Hiểu Kí bèn quay mặt sang phía Cổ Bất Hóa lẩm nhẩm gì đó, ý trỏ về Lô Bán Nhi đang ngồi bên miệng giếng. Cổ Bất Hóa ngạc nhiên, trong lòng nghĩ kế này tuy không tệ nhưng lão phải giữ gìn thân phận, chẳng thể hạ thủ. Tuy nhiên kẻ vừa chịu nhục trong tay Trương Hiểu Kí là Ngô Hạ và Cảnh Ngọc Quang thì không nghĩ như vậy, như cởi tấm lòng đồng thời xông về phía Lô Bán Nhi. Trương Hiểu Kí quay lưng lại với Lô Bán Nhi nguyên ý muốn bảo vệ cho nàng. Hắn biết công phu của Bán Nhi rất khá, nhưng so với cao thủ hạng nhất thì vẫn không bằng. Trông thấy hai người xông lên, hắn lửa giận bừng bừng, không ngăn được hét lên: “Vô sỉ.” Ánh kiếm lóe sáng, bất ngờ xuyên qua khỏi vòng vây của bốn cao thủ, đâm thẳng vào hai tên Cảnh, Ngô.
Kiếm này của hắn đánh ra khiến cho cả bốn người đang bao vây vừa kinh hãi vừa hổ thẹn không còn mặt mũi nào nữa. Hai tên Cảnh, Ngô lập tức gặp nguy, nhưng kiếm này cũng làm sau lưng Trương Hiểu Kí lộ ra sơ hở. Cổ Bất Hóa là cao thủ như thế nào, lão chỉ chờ có cơ hội này thôi, một chiêu đánh ra, chộp thẳng vào lưng Trương Hiểu Kí.
Trương Hiểu Kí than thầm: “Đáng tiếc.” Hắn chuyển thân giữa không trung, gian nan tránh khỏi chiêu trảo của Cổ Bất Hóa, kiếm thế trên tay yếu đi, chỉ chém đứt sợi dây buộc tóc của Ngô hạ và một đoạn ống tay áo của Cảnh Ngọc Quang. Chân hắn vừa chấm đất, bảy đại cao thủ liền người lên kẻ xuống vây công liền lạc. Trương Hiểu Kí đứng chắn phía trước Lô Bán Nhi, không chịu lui một bước. Kiếm quang của hắn lúc co lúc duỗi, khi thu về khi nở bung đơn độc chống lại bảy vị cao thủ, nội tức vận hành cũng đã tới mức cực hạn. Đây chính là trận ác chiến quyết liệt nhất từ khi hắn xuất đạo đến nay, so với trận ở Động Đình thủy trại còn kịch liệt hơn nhiều.
Trận đấu này đâu chỉ ngừng ở mấy ngàn chiêu, đánh từ giờ Ngọ tới giờ Dậu, mắt thấy sắc trời sắp tối, một mảnh trăng lưỡi liềm đang dần treo lên bầu trời cao, chiếu xuống trường ác đấu những tia sáng lạnh lẽo. Nếu như quả thực có ông tơ dưới bóng nguyệt, không hiểu có thấy mình đã thắt nhầm sợi tơ hồng này chăng? Tình cừu quấn quít, ái hận khó ngừng, chỉ một dây tơ hồng của lão mà lại tạo ra nhiều oan khiên đến thế.
Lô Bán Nhi đau buồn nhìn vầng trăng – vì sao nàng và Trương Hiểu Kí không thể tránh nổi nỗi phiền não rối rắm nơi nhân thế? Xã hội quả là cỗ máy lạnh lùng tàn nhẫn nhất, cứ vận chuyển theo đúng trật tự của riêng nó, nghiền nát mọi thứ chẳng chút xót thương.
Lô Bán Nhi thở dài, chính tại Tước Bình sơn trang, trên tấm bình phong bằng đá trắng đã ghi lại hai mươi bảy cái tên. Mỗi tên là một tấm lòng, nếu nàng ưng thuận, có thể tiện tay chỉ vào một cái tên, chọn ra một người sống cùng mình trọn đời trọn kiếp. Nhưng nàng nhìn Trương Hiểu Kí múa kiếm dưới trăng, càng đánh càng dũng mãnh, mồ hôi thấm ướt lưng áo, nàng cảm thấy mình chọn lựa chẳng hề sai. Mối tình của họ, dẫu mọi ngưởi đều muốn phá hủy, nhưng tình ý ấy vẫn mãi vẹn nguyên.
Cho đến lúc này, những người bên ngoài phần lớn đều không nhúng tay vào được, cao thủ đang tham chiến trên người nhiệt khí ngùn ngụt. Trong số này Toàn Bảng Đức mập mạp nhất, thân người càng nóng bức, mồ hôi toát ra ướt đẫm y phục. Chỉ thấy lão kêu to: “Sư huynh, huynh đào tạo ra loại nghiệt đồ như thế mà vẫn còn chưa chịu xuất thủ sao?”
Trần Du Tử thân hình run lên.
Toàn Bảng Đức cười hắc hắc: “Sư huynh, huynh nhu nhược nuôi ong tay áo như vậy, quay đầu lại mặt mũi nào nhìn Ngũ phái Tam minh đây!”
Trần Du Tử hít vào một hơi – tình trạng thế này, ông không thể không xuất thủ. Ông lấy ra từ trong ống tay áo một thanh mộc kiếm dài hai tấc, khẽ búng thân kiếm rồi than: “Hiểu Kí, con chưa thấy mệt sao? Theo sư phụ về núi đi.”
Trương Hiểu Kí cười đau khổ: “Thưa sư phụ, con đã phá cửa thoát ra, không còn kể là đệ tử Chung Nam nữa. Lão nhân gia người sao lại bức bách con, chẳng lẽ nhất định muốn chúng con phải chia uyên rẽ thúy ư?”
Trần Du Tử thở dài: “Điều này không còn do ta và con quyết định nữa rồi.”
Từ khi Trần Du Tử tham chiến, cục diện liền có biến hóa vi diệu. Kiếm chiêu của Trương Hiểu Kí trước sau đều tránh né sư phụ, đương nhiên tạo thành nhược điểm, chỉ thấy kiếm thức của hắn dần dần mờ mịt, từ từ rơi vào thế hạ phong. Đối phương tổng cộng tám người, tuy Trần Du Tử trước sau không xuất sát chiêu nhưng lại là sự áp chế lớn nhất lên Trương Hiểu Kí. Cứ tiếp tục như thế này, hậu quả có thể biết trước.
Kiếm thức của Trương Hiểu Kí càng lúc càng chậm lại, mơ hồ nghe thấy tiếng thở gấp của hắn, mọi người đều cho rằng hắn không còn trụ được bao lâu. Nhưng tiếp theo đó, Trương Hiểu Kí chợt ngước đầu lên nhìn trời, tay trái bắt kiếm quyết, mũi kiếm nơi tay phải chỉ xéo lên, lại chỉ ngay vào mi tâm mình. Lần này hắn từ động chuyển sang tĩnh, biến đổi cực nhanh, mọi người thấy tư thế quái dị, thêm vào đó cảm giác trong tư thế cực tĩnh của hắn ẩn chứa lực lượng vô cùng. Ai cũng ngập ngừng không muốn hạ thủ, ai cũng đợi kẻ khác thử trước đã xem sao. Mọi người cùng nghĩ như vậy nên đều tạm dừng tay lại, cục diện đột nhiên trở nên tĩnh lặng, ai nấy đều ngạc nhiên, sau đó sắc mặt đều đỏ bừng, đang định phát chiêu, chợt nghe Trần Du Tử kêu lên: “Hiểu Kí, đừng, không được dùng Loạn Phi Phong kiếm pháp!”
Truyền thuyết giếng Thanh Ti
Tác giả: Tiểu Đoạn
Chương 5 – Kết Phát (Kết Tóc) - Thung
Người dịch: Aficio
Biên dịch: luulang
nguồn: tàng thư viện
Mấy chữ này vừa thốt ra, ai nấy sắc mặt đại biến. Trương Hiểu Ký lẩm bẩm: “Đây là do bọn họ bức bách con.”
Hồng Bạch nhị trưởng lão nhìn nhau, Cổ Bất Hóa tỏ vẻ không tin, Khoát Lạc đại sư chắp tay nói: “Thế gian này còn có người sử được Loạn Phi Phong kiếm pháp, Vân Phù thế gia quả thật lợi hại.”
Nguyệt chiếu trung đình, lưu quang như tuyết (Trăng chiếu giữa sân, sắc màu như tuyết) – Loạn Phi Phong kiếm pháp trăm năm trước xuất hiện, được tôn “cái thế” chẳng phải là chuyện kỳ lạ, khi đó kiếm pháp này đã gây ra không ít sát kiếp. Người người nghĩ đến điểm ấy, trong lòng trầm hẳn xuống, không hiểu bản thân có qua khỏi trận chiến hiện tại hay không.
Chỉ nghe thấy Trương Hiểu Kí lầm rầm: “Thả đối trung đình nhan như ngọc,mạc hành thế ngoại loạn phi phong” (Thà đứng trong sân nhìn người ngọc, chẳng muốn bôn ba chốn gió sương).
Trường kiếm của hắn uốn lượn, bắt đầu múa lên như điệu vũ một mình giữa sân. Từ nhỏ hắn tập luyện tâm pháp Chung Nam Âm Lĩnh Tú, lúc thường không để ý, nhìn qua chỉ thấy là một thiếu niên bình phàm, nhưng khi một kiếm múa lên, thân hình trong màn kiếm ảnh dần dần hiện ra tựa lớp tuyết mờ mờ, như làn gió buốt thổi lên giòng suối cuồn cuộn. Mọi người chỉ thấy trước mắt sáng lên, kẻ ngày thường chẳng có gì đặc biệt như Trương Hiểu Kí bất ngờ lại hiển lộ tài năng kinh thế hãi tục. Lô Bán Nhi mỉm cười e lệ nhìn hắn, nàng yêu nhất là Trương Hiểu Kí sau khi phẩy đi lớp bụi trần vây bám, lộ ra linh hồn vượt ngoài đám đông, vượt ngoài thói tục. Nàng thích ngắm Trương Hiểu Kí múa kiếm, bởi vì đó là sở trường của hắn, chỉ có ở giữa màn kiếm ảnh loang loáng, tâm và thân của hắn mới hợp nhất để đạt tới “tự do”. Sự tự do đấy hàm chứa một sức mạnh dẫn đường, trong thời khắc đó, nàng cảm thấy linh hồn mình cũng quấn quít với vẻ “tự do” ấy mà bay lên. Cảm giác này nàng không thể cảm nhận được ở Tước Bình sơn trang hay từ bất kỳ người nào khác, bao gồm cả hai mươi bảy cái tên khắc trên tấm bình phong nọ.
Hầu như tất cả mọi người đều chăm chú vào kiếm pháp, chỉ có Cổ Song Hoàn lặng lẽ nhìn vào Trương Hiểu Kí. Nàng đang nhìn hai người Trương Hiểu Kí và Lô Bán Nhi, chỉ thấy họ một thì vẻ mặt mềm mại như nước, một thì kiếm bay như gió; một tựa mây trôi lững lờ, một tựa cô tùng ngạo nghễ; người như muốn lìa bỏ thế gian, người không chịu thuận theo giòng đời; không hiểu sao đôi mắt nàng lại ướt đẫm. Nàng phát hiện, mình yêu có lẽ không hẳn là Trương Hiểu Kí, mà là yêu mối tình sinh tử không thể chia lìa giữa hắn với Lô Bán Nhi.
Trong không khí tranh đấu sát khí mịt mù đầy viện, có một tiểu cô nương đang nghĩ tới chuyện ái tình.
Nàng phát hiện – chính nàng, đã yêu lấy tình yêu rồi.
Ban đầu mọi người chưa cảm giác gì, đột nhiên, tất cả chợt phát giác những bóng cây chiếu trên mặt đất trong sân đều bắt đầu nhảy múa. Mà trời không hề nổi gió, nhưng ánh trăng dường đang run rẩy, bóng cây dường di động theo kiếm ý, loang loang lổ lổ, tụ tụ tán tán, như thực như ảo. Ai nấy nhìn đi nhìn lại mấy lần, sau đó tất cả cảm giác âm thanh thoát khỏi miệng mình đều bắt đầu lơ lửng trôi nổi, khi đứt đoạn khi liên tục, lúc cao lúc trầm, ánh sáng trong viện cũng trở nên mờ ảo, bao nhiêu niềm âu lo trần tục trôi chảy như mây, chỉ có Lô Bán Nhi và Trương Hiểu Kí là tĩnh lặng giữa luồng thời quang lưu chuyển. Hồng, Bạch nhị lão nhìn nhau, một người mặt lộ vẻ buồn bã, người kia lại như vui, dường như đang nhớ lại những chuyện xưa cũ trong đời. Hai con mắt nhỏ bé của Toàn Bảng Đức nhìn xuống dưới đất, nước mắt dần dần tuôn ra. Ngô Hạ và Cảnh Ngọc Quang một đang nghiến răng nghiến lợi, một lại lẩm bẩm chửi rủa sư phụ mình. Đến cả Cổ Bất Hóa sắc mặt cũng hơi hơi thay đổi. Người trong viện chỉ có Khoát Lạc thiền sư định lực cao nhất, ông là cao tăng Thiếu Lâm, tu qua thiền định, lúc này nhìn suốt một lượt, lòng thầm kinh hãi: ngay cả định lực thâm hậu như Cổ Bất Hóa, Hồng Bạch nhị lão cũng bị cuốn vào kỳ thuật này, có thể thấy Loạn Phi Phong kiếm pháp huyền ảo ma quái đến nhường nào. Ông biết rằng dù có kêu to cũng không thể làm mọi người tỉnh được, bèn vận khởi Phật môn Sư Tử Hống, ngâm lên một tràng “A di đà Phật!”
Âm thanh vừa vang lên đáng lẽ phải kinh động toàn trường, nhưng sau khi bốn chữ ấy được phát ra, đại sư chẳng hề thấy tác động gì. Âm thanh dường như biến mất tăm. Cảm giác trống rỗng vô định khiến người ta trăm đầu ngàn mối khó chịu vô cùng. Ngay khi Khoát Lạc thiền sư tay chân luống cuống tâm trạng rối bời, âm thanh đó không hiểu từ nơi nao trên trời cao truyền về, ong ong vang vọng, quyện thẳng tới đại sư. Âm thanh quả lợi hại, lại chính lúc Khoát Lạc thiền sư không hề phòng bị nên tai trái lập tức ứa máu. Ông chấm một ngón tay lên chỗ máu ươn ướt, tâm ý mê man: đây là máu của mình ư? Sư Tử Hống của mình từ lúc nào không những không tổn thương được người mà ngược lại gây hại cho chính mình?
Trong lúc hoảng hốt, thời gian trước mắt bất ngờ như quay ngược lại, tình cảnh hiện ra trước mắt vẫn như cũ – người thiếu niên đó một tay bắt quyết, một tay cầm kiếm, đầu ngẩng lên trời. Tuy hắn quay lưng lại người con gái đó nhưng mọi người đều hiểu rằng lời nói ấy là dành cho nàng: “Thả đối đình trung nhan như ngọc, mạc hành thế ngoại loạn phi phong”. Khoát Lạc đại sư tâm tư mờ mịt. Khắp sân thời gian ảo hóa không ngừng lưu chuyển, hiển bày lẽ vô thường mà kinh Phật nói đến. Đệ tử Phật môn phân ra làm rất nhiều tông phái, Thiếu Lâm vốn theo Thiền tông, tu hành vốn là để tham thấu lẽ vô thường này. Đệ tử Thiền tông phải dùng pháp “Tịch diệt” vô bi vô hỉ để ứng đối với vô thường. Nhưng, hôm nay, trong thời khắc này, Khoát Lạc không biết vì sao đột nhiên hiểu được, giữa luồng thời gian lạnh lùng lưu chuyển khắp sân, chỉ có đôi mắt của Trương Hiểu Kí và Lô Bán Nhi mới là nét “hữu thường” duy nhất giữa tấm lưới “vô thường”. Đó là niềm tin bất biến – điều duy nhất có thể chống cự lại sự xâm thực của thời gian, còn bản thân mình – chỉ vì một chấp niệm bức bách, chẳng phải đã sai lầm rồi sao?
Chỉ có Trần Du Tử vẫn chưa bị mất đi định lực, ông hiểu kiếm ý của đồ nhi không công kích đến mình. Ông nhìn lên mặt trăng: nhân thế ơi nhân thế, ông biết Tâm Tự quyết của Loạn Phi Phong kiếm pháp vốn nhằm thẳng vào tâm con người. Ông buộc phải tiến lên, nhưng ông cũng thấy quang cảnh trong sân lưu chuyển, khác hẳn với lúc trước. Bóng cây khắp sân khi khai khi hợp, lúc mau lúc chậm. Thời gian và không gian tựa hồ trôi nổi bất định. Trần Du Tử thầm than: Hiểu Kí, dù con tự phụ mình là tuyệt thế kỳ tài, có thể không bị ảnh hưởng bởi vòng xoáy thời gian này, nhưng người khác lại không được như con, người khác phải nương nhờ vào những âu lo trần tục, những chuyện phiền toái nhỏ nhoi để đi qua kiếp nhân sinh của họ. Con không thể hủy hoại ý niệm sinh tồn của mọi người nơi đây được.
Ông bước lên trước một bước, thật nặng nề; lại một bước nữa, càng thêm trĩu nặng; thêm một bước nữa, là sức nặng mà sinh mệnh không thể nào chịu nổi.
Đây là bước cuối của ông, sau khi bước xong, miệng ông đã thổ ra một bụm máu, kêu lên: “Hiểu Kí, dừng lại!”
Một giọt máu bắn lên mặt Trương Hiểu Kí, Trương Hiểu Kí kinh ngạc, trông thấy sư phụ lảo đảo muốn ngã lập tức dừng kiếm, xông tới trước đỡ lấy, cất tiếng gọi: “Sư phụ!”
Trần Du Tử miệng đọng máu cười nói: “Đừng dùng kiếm pháp này nữa, con mau đi đi. Loạn Phi Phong kiếm pháp hướng đến lòng người, phá hết ảo vọng. Mọi ngưởi chẳng phải như con, ảo vọng bị phá sạch, bọn họ còn dựa vào cái gì để sống tiếp đây. Không phải ai cũng có thể tìm được Bán Nhi của mình, không phải ai cũng có thể tập luyện Loạn Phi Phong kiếm pháp để tự tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình đâu. Con phá hết rồi bọn họ chẳng còn gì để mà tiếp tục muốn sống nữa đâu.”
Nước mắt Trương Hiểu Kí lăn xuống, hắn điểm mấy chỗ huyệt đạo trên ngực sư phụ, ngăn chặn nội thương. Sau đó nắm lấy lòng bàn tay ông đưa một luồng nội lực vào, những muốn giúp sư phụ hồi phục.
Hắn định giúp sư phụ trị thương xong sẽ cùng Lô Bán Nhi rời khỏi, vĩnh viễn từ giã giang hồ, làm người dân thường cho qua đời này. Hắn đã lưu lại cho sư phụ sự phiền phức lớn rồi, hắn cũng hiểu rằng việc mình bỏ đi sẽ khiến Chung Nam phái gánh thêm phiền phức, do đó trong lòng càng thêm hổ thẹn. Chỉ có điều hắn không nghĩ tới kiếm pháp của mình lại uy lực như thế. Nội thương của sư phụ không nhẹ, còn bản thân hắn sau khi liên tục chiến đấu nội lực cũng hao tổn đi nhiều, vì vậy đã hết thời gian một tuần trà, hắn vẫn chưa thể rút tay về.
Trần Du Tử nói: “Mau đi đi.”
Trương Hiểu Kí lắc lắc đầu, sư phụ là người duy nhất trên trần thế mà hắn quan tâm. Sau khi nhìn thấy sự tuyệt vọng trong mắt sư phụ, hắn nói không nên lời. Trương Hiểu Kí toàn tâm trị thương cho ông, không hề phòng bị, đâu ngờ sư thúc Toàn Bảng Đức nội lực đã khôi phục được chút ít, chỉ là chưa thể xuất thủ thôi. Không hiểu sao, Toàn Bảng Đức nhìn tình cảnh dưới ánh trăng hai sư đồ dù khốn khổ vẫn tương trợ nhau, lại dường như trông thấy mối tình khăng khít không rời của Trương Hiểu Kí, trong lòng tràn ngập thù hận. Lão không ngần ngại vận dụng Tự Tổn đại pháp của Chung Nam phái trước tiên tụ lại nội lực, nhảy lên đánh ra một chiêu.
Chưởng này đánh một đòn cực nặng vào lưng Trương Hiểu Kí. Lực đạo từ thân mình Trương Hiểu Kí truyền sang Trần Du Tử, từ miệng Trần Du Tử liền thổ ra một búng máu. Trương Hiểu Kí chỉ thấy phủ tạng đau xé mà vẫn chưa biết ai đã đánh lén mình, chỉ biết nội lực đó rất giống với tâm pháp Chung Nam Tiệp Kính. Trương Hiểu Kí nghiến răng, cố dùng sức mạnh ý niệm tiêu hóa luồng lực đạo ngay trong nội phủ.
Nhưng chưởng này quá nặng, Trương Hiểu Kí há miệng phun ra một búng máu – chỉ có điều trước lúc phun ra ngụm máu, hắn đã làm được một việc, chính là quay đầu lại, phun trọn búng máu lên mặt Toàn Bảng Đức. Toàn Bảng Đức kinh hãi, Trương Hiểu Kí vừa trông thấy lão, trong lòng không khỏi trồi lên một nỗi hận vô danh, một chỉ điểm tới, ấn thẳng vào Khí Hải huyệt của lão. Toàn Bảng Đức chỉ thấy chân khí toàn thân từng đợt từng đợt tán ra, ngã oặt xuống đất. Trương Hiểu Kí lúc này cũng không còn sức để mà ngã lăn ra nữa. Lúc này toàn sân không còn ai có thể cử động. Trương Hiểu Kí cười nói với Lô Bán Nhi: “Bán Nhi, không xong rồi, may mà bọn họ nhất thời còn chưa cử động được, nàng hãy đỡ ta dậy, chúng ta mau đi thôi.”
Lô Bán Nhi bước tới, đưa tay nâng Trương Hiểu Kí lên. Khi tay nàng chạm vào vai Trương Hiểu Kí, hắn cảm giác hận không thể khiến thời gian ngừng lại ngay giây khắc hạnh phúc này. Hạnh phúc là gì vậy? Trương Hiểu Kí trước nay chưa từng nghĩ tới, rất nhiều người cả đời cũng không hiểu, nhưng giờ đây hắn đã nghĩ ra: cái gọi là hạnh phúc, thực chất chính là hy vọng đạt đến như thế này mà thôi, đến tâm cảnh yên ổn tốt lành một đời! Được nàng đỡ lên, Trương Hiểu Kí liền cảm thấy, chỉ cần có Bán Nhi ở bên, hắn có chịu thương thế nặng hơn, mang tội lớn hơn hắn cũng cam tâm tình nguyện.
Lô Bán Nhi nâng đỡ Trương Hiểu Kí lên, thân hình nàng lại run rẩy. Trương Hiểu Kí kinh hãi hỏi: “Bán Nhi, nàng sao vậy?”
Lô Bán Nhi khẽ thở dài, lắc lắc đầu, cố sức bước lên trước hai bước, sau đó đột nhiên nói: “Tiểu Khấu, thiếp xin lỗi.”
Một giọt lệ lăn dài từ khóe mắt nàng. Nàng hiểu Trương Hiểu Kí đã dùng hết toàn lực để chiến thắng môt cơ hội thoát hiểm nhỏ nhoi. Khoảng cách giữa họ và hạnh phúc không còn xa nữa. Một khi ra khỏi cánh cửa này thì như cá về biển rộng, chim lượn trời cao, nhưng – thân thể nàng lại run lẩy bẩy, cuối cùng không còn sức lực. Trương Hiểu Kí vốn dựa vào nàng, cả hai đồng thời ngã xuống. Lô Bán Nhi cười khổ: “Hiểu Kí, thiếp cũng không đi nổi nữa.”
Nàng bất lực nhìn Trương Hiểu Kí: “Khi thiếp chạy khỏi Tước Bình sơn trang đã bị Thất trưởng lão phái người theo truy sát, thiếp cũng đã thụ thương.”
Từ khi nàng đến, biến động liên tục xẩy ra, Trương Hiểu Kí cũng không chú ý tới tay Bán Nhi lúc nào cũng lạnh. Lúc này hắn run run đưa tay kéo tuột cổ áo nàng xuống vai, liền trông thấy giữa bờ vai trắng như tuyết của nàng một dấu ấn hoa mai đen như mực.
Trương Hiểu Kí giọng run run: “Mai Lạc!”
Lô Bán Nhi nhẹ gật đầu.
Hai người nhìn nhau, Mai Lạc là nội lực tuyệt độc của Ma giáo, ngay cả thụ thương cực nhẹ muốn trị khỏi hẳn cũng phải mất một năm. Xung quanh toàn là địch nhân đang dần hồi phục, bản thân đã tận lực, lẽ nào, lẽ nào chỉ đạt được kết quả như vậy sao? Trương Hiểu Kí nhìn Bán Nhi dưới ánh trăng, chỉ hận không được dùng môi bao phủ khuôn mặt yêu thương kia suốt một đời, hắn không biết nên cười hay nên khóc. Lô Bán Nhi chợt khẽ nói: “Thiếp muốn đến bên bờ giếng.”
Trương Hiểu Kí gật đầu, hai người gắng sức lết tới cạnh bờ giếng, bò lên ngồi tựa vào thành giếng. Lô Bán Nhi cười khẽ: “Đây chính là giếng nước Thanh Ti nổi danh của Ma giáo.”
Nơi này vốn là nhà cũ của công chúa Ma giáo.
Sau đó nàng khẽ hát lên: “Giếng Thanh Ti, sâu bảy trượng, trăm năm kết tóc đợi phu quân – thiếp từ nhỏ đã biết hát khúc này, nữ nhân Ma giáo bọn thiếp trước đây đều hát khúc ca này ở bờ giếng này chờ đón tình nhân trong mộng.”
Trương Hiểu Kí cười khổ: “Chỉ đáng tiếc ta làm chẳng được, khiến giấc mộng của nàng tiêu tan rồi.”
Lô Bán Nhi nghiêng mặt, khẽ hôn lên má hắn, đáp: “Không, với thiếp, chàng chính là người tuyệt vời nhất.”
Sau đó nàng khẽ gỡ bím tóc của mình ra, rồi vươn tay lên đầu Trương Hiểu Kí, gỡ luôn búi tóc của hắn, nàng khe khẽ nói: “Giấc mộng của chúng ta đâu bị phá, chỉ mới bắt đầu thôi.”
Nàng gỡ một lọn tóc của hai người, nắm trong lòng bàn tay, tay trái là tóc của Trương Hiểu Kí, tay phải là tóc của chính mình, sau đó thắt cả hai lại với nhau thành một mối. Trương Hiểu Kí thấy trong lòng ấm lên. Chỉ nghe Lô Bán Nhi nói: “Họ không cho chúng ta làm lễ cưới, chúng ta tự mình làm vậy.”
“Chúng ta cũng không cần phải phô trương, chỉ một nghi thức nho nhỏ thôi, là thiếp đang làm đây…”
Nói đến đây, Lô Bán Nhi khẽ mỉm cười, thì ra nữ nhân đẹp nhất chính là người sau muôn vàn gian khó vẫn mỉm cười với tình quân, chỉ thấy nàng khẽ nói: “Trăm năm kết tóc, lòng này khắc ghi.”
Ánh trăng trong sáng chiếu lên đôi tình nhân đang dựa vào bờ giếng Thanh Ti, một giọng nữ nhân dịu dàng: “Trăm năm kết tóc, đôi lòng khắc ghi!”
Truyền thuyết giếng Thanh Ti
Tác giả: Tiểu Đoạn
Chương 6 – Trường Hận - Thượng
Người dịch: Aficio
Biên tập: hieusol
nguồn: tàng thư viện
Đôi tim của hai người ấy đã bay xa rồi, những kẻ trong sân mới bắt đầu hồi phục thể lực. Khi mọi người đã đề tụ được chân khí, trông thấy đôi tình nhân vẫn còn đang ngồi bên miệng giếng. Khoát Lạc đại sư niệm lên một câu “A di đà Phật!”
Trật tự của trần thế đã được tái lập nơi khoảnh sân nhỏ bé này. Bọn họ không còn ý định giết chết đôi tình lữ nhưng vẫn muốn chia rẽ hai người. Trương Hiểu Kí nhẹ nhàng nói với thê tử: “Bán Nhi, nàng ở bên ta đã đủ chưa?”
Lô Bán Nhi say đắm lắc đầu: “Không đủ, làm sao mà đủ được. Một ngàn năm vẫn chưa đủ.”
Trương Hiểu Kí nói: “Tốt lắm. Đợi ta nhé!”
Lời hắn vừa dứt, có tiếng khóc của một thiếu nữ vọng tới: “Ông ơi, buông tha cho họ đi. Họ, họ đáng thương quá.”
Đó là tiếng của Cổ Song Hoàn. Trương Hiểu Kí khóe môi chợt cười, thầm nhủ: “Cô em tốt.” Khoát Lạc đại sư, Hồng Bạch nhị trưởng lão, Cổ Bất Hóa, Ngô Hạ, Cảnh Ngọc Quang đều đã vây kín hai người. Trương Hiểu Kí ngước đầu lên nhìn họ, rồi ngắm sang vầng trăng sáng trên cao. Nguyệt lão nếu có linh thiêng, hãy giúp con một tay – hắn thầm khấn. Mắt thấy địch nhân đã bước vào phạm vi cách thân bảy thước, Trương Hiểu Kí đột nhiên nhún một chân nhảy lên, nhanh chóng đâm tới, miệng thét lên lanh lảnh: “Chung Nam Tuyệt Kiếm.”
Chung Nam Tuyệt Kiếm chính là: “Thu phong xuy Vị thủy, lạc diệp mãn Trường An” (Gió thu lướt sông Vị, lá rụng khắp Trường An). Chẳng ai ngờ Trương Hiểu Kí học được tuyệt kỹ đã thất truyền trăm năm này, cũng chẳng ai ngờ thời khắc này Hiểu Ký còn có thể xuất thủ. Giữa lúc kinh ngạc ấy, Trương Hiểu Ký một kiếm đã chế trụ được Khoát Lạc đại sư. Mái tóc dài của hắn xõa tung, vẫn kết chặt với lọn tóc của Lô Bán Nhi. Mọi người đều ngưng lại, họ không dám xem nhẹ tính mệnh của thủ tọa Thiếu Lâm Đạt Ma đường.
Khoát Lạc vừa muốn nói, Trương Hiểu Ký đã ngăn ông lại. Hắn cất giọng: “Đại sư, ta cũng không quá hi vọng các người sẽ dung tha cho chúng ta, nhưng ta lấy tính mệnh của đại sư để đổi lấy một đêm phu thê bên nhau, có được không? Chỉ một đêm thôi, sáng hôm sau thế nào, ta để mặc các người xử trí.”
Nói rồi hắn khẽ than: “Phu phụ chúng ta bái đường thành thân, cho tới lúc này vẫn chưa được một ngày.”
Khoát Lạc đại sư không trả lời, ông nhìn qua Hồng Bạch nhị lão và Cổ Bất Hóa, ba người đó đều gật đầu. Lúc này Khoát Lạc mới gật đầu theo, rồi lại hỏi: “Nhưng ta làm sao tin được thí chủ, ngày mai nếu phải tái chiến, muốn bắt giữ ngươi thật quá khó khăn.”
Trương Hiểu Kí thở dài đáp: “Đại sư có thể dùng Già Diệp chỉ phong trụ Đốc mạch của ta.”
Đốc mạch bị phong bế, bách khí khó lòng hội tụ. Khoát Lạc đại sư liền đồng ý, đây có thể coi như một phương cách hay để chiến thắng mà không cần đổ máu. Trương Hiểu Kí thấy ông gật đầu, tay liền lỏng ra, bảo kiếm rơi xuống đất. Khoát Lạc vươn tay xuất chỉ, trên dưới điểm mười mấy cái phong bế Đốc mạch của hắn, tiếp đó nói với mọi người: “Các vị sư huynh, lão nạp hổ thẹn không cẩn trọng nên thất thủ. Chúng ta hãy cho Trương thí chủ được một đêm tương tụ đi.”
Mọi người đều thuận theo. Ngay lúc bọn họ dợm đi, Hồng Bạch nhị lão bất chợt ra tay như điện, dùng các thủ pháp khác nhau phong trụ thêm vài đường kinh mạch của Trương Hiểu Kí, đoạn cười nói: “Như vậy ta mới yên tâm. Tốt rồi, mọi người đi thôi.” Xem ra bọn họ quả cực kỳ sợ hãi năng lực của Trương Hiểu Kí.
Cảnh Ngọc Quang dần dà lưu lại muốn tiếp tục trừng phạt Trương Hiểu Kí. Khoát Lạc đại sư sợ gã tức giận mà ngầm ra tay tàn độc, bèn dừng bước ngăn trở.
Trương Hiểu Ký nhìn theo mọi người đang quay lưng rời khỏi, thấy họ bỏ sót một người, liền chỉ Toàn Bảng Đức đang nằm trên mặt đất nói: “Đưa người này đi luôn đi.”
Cảnh Ngọc Quang quay lại nhấc Toàn đại lão gia lên, cười hắc hắc: “Cũng phải, sao lại để Toàn lão gia quấy nhiễu tới hứng thú đêm động phòng hoa chúc của Trương huynh chứ, chuyện này ngay cả ‘Toàn Bang Đắc’ cũng không giúp được rồi.” (Chơi chữ đồng âm Toàn Bảng Đức - toàn bang đắc = giúp đỡ tận tình)
Ngô Hạ nghe thế cười lên một tiếng quái dị - bọn chúng đánh không lại Trương Hiểu Kí thì phải lấn lướt bằng mồm miệng thôi. Trương Hiểu Kí thở dài, lúc này mà bọn họ còn mở miệng nói những câu thô bỉ nhỏ mọn như vậy. Lời của tiểu nhân không cần để tâm tới, cứ để chúng đi đi.
Trương Hiểu Kí và Lô Bán Nhi ngồi lại bên miệng giếng. Lô Bán Nhi lấy từ trong người ra một chiếc lược, khẽ khàng chải tóc Trương Hiểu Kí. Nàng mỉm cười: “Nhìn xem chàng kìa, đầu đầy mồ hôi.”
Trương Hiểu Kí cũng cười ngây ngô. Dù họ chỉ còn thời gian một ngày nhưng hắn bình thường không phải là người nhiều lời, lúc này chẳng biết nói gì cho tốt.
Lô Bán Nhi than: “Chàng biết tại sao họ nhất định không cho hai chúng ta thành thân không?”
Trương Hiểu Ký cũng thấy kỳ quái, bèn hỏi: “Ta không biết, nàng biết à?”
Lô Bán Nhi mỉm cười: “Thiếp đương nhiên biết.”
Nàng giơ chiếc lược trong tay lên: “Chính là vì cái này.”
Kế đó, chỉ nghe nàng thì thầm kể lại một đại bí mật đau thương của võ lâm: “Chàng chắc đã rõ trăm năm trước, giữa Võ lâm ngũ phái, Cái bang và Ma giáo từng xảy ra một trận tranh đấu cực lớn. Thực ra chuyện đó thị phi thế nào sau này khó luận, điều duy nhất có thể nói chính là khi ấy lớp lớp kiêu hùng xuất thế, máu chảy thành sông. Mỗi người đều muốn dùng cách thức của mình để chỉnh đốn võ lâm, khiến toàn thiên hạ phải phục tùng mình. Người bình thường không kể, thấy bóng đại kỳ là liền theo sau, nhưng những kẻ kiêu hùng cùng thế hệ sao chịu hợp tác được? Lúc đầu còn tranh đấu cho đạo nghĩa, sau này thì toàn là vì quyền lợi. Tất cả đều cho là đạt được quyền lực tối cao mới có thể thi hành ‘Đạo’ riêng của mình. Nhưng không ai nghĩ được rằng phải trả bao nhiêu mạng người. Vậy ‘Đạo’ ấy dù cao minh cách mấy chăng nữa liệu có đáng không?”
Ngây người một lúc, Lô Bán Nhi lại kể tiếp: “Bấy giờ, cuối cùng có một vị tiền bối thấy sự tình quá sức tồi tệ, sinh lòng cảm khái mà nhập thế. Người mất bảy năm, dùng một thanh trường kiếm đánh bại hết từ thủ lĩnh của Võ lâm ngũ phái, Cái bang cho đến cả Ma giáo. Nhưng những kẻ đó đâu dễ dàng nhận thua như vậy? Lại qua ba năm nữa, bọn họ mới tâm phục khẩu phục. Theo lời đề nghị của vị tiền bối này, các thủ lĩnh tụ họp lại, cùng đồng ý ký kết một hiệp định. Sau đó, Ma giáo rút vào bóng tối, Ngũ phái hiện diện công khai, Mỗi phe thực hiện ‘Đạo’ của riêng mình, nước sông không phạm nước giếng, lại còn lập khế ước Tam minh cùng giúp đỡ nhau. Không ngờ đúng ngày minh ước hoàn thành, vào thời khắc cuối cùng, thủ lĩnh các phái lại trù trừ không muốn ký kết. Vị tiền bối đó liền hỏi: ‘Lần này là vì sao?’
Ngũ phái với Ma giáo thế tuy đối lập nhưng lúc này lại đứng về một phe, cùng lên tiếng rằng: ‘Bởi vì hiệp ước tuy hay, nhưng còn có một nhân tố không ổn định trong đó cần xem xét.’
Vị tiền bối đó hỏi: ‘Điều gì?’
Chưởng môn Thiếu Lâm đáp: ‘Chẳng cần khách khí nữa, nhân tố không ổn định đó chính là – tiền bối. Nhân phẩm của tiền bối, chúng tôi tâm phục, võ công càng phục hơn, nhưng tiền bối sao có thể đảm bảo sau này nhân phẩm đệ tử của người cũng khiến chúng tôi tâm phục? Nếu như chúng tôi chính tà hai phe ký vào hiệp ước, sau này không khuếch trương thế lực, mà không may đệ tử của tiền bối có dã tâm, chẳng phải có thể độc bá giang hồ sao? Một thân võ công của người sẽ trở thành mối họa lớn nhất cho thiên hạ, bất kỳ ai được thừa hưởng võ học của người cũng có thể nhiễu loạn giang hồ.’
Vị tiền bối ấy trầm ngâm hồi lâu, thiếp đoán trong lòng ông hẳn đã cân nhắc. Đúng vậy, ông tuân theo lý tưởng dùng một thanh kiếm để mở ra con đường hòa hợp cho võ lâm vạn thế, trực tiếp chỉnh đốn lại sự rối loạn giữa các môn phái, áp chế những náo động chốn giang hồ. Nhưng ở thế gian này, kiếm pháp tuyệt thế cùng lý tưởng tuyệt thế không thể nào thực sự thích hợp để truyền bá rộng rãi nơi nhân thế. Giang hồ chỉnh đốn lại rồi, vốn nên dựa theo tục lệ để vận hành. Những người sống trong thời thanh bình, những người già cả, cái hạnh phúc mà họ thực sự mong cầu chỉ là ăn uống và những chuyện tầm thường khác. Tuyệt thế lý tưởng và tuyệt thế kiếm pháp trong hoàn cảnh đó chẳng có chỗ dụng võ nữa. Nếu không chẳng phải giang hồ lại xáo động, quần hùng lại tranh đấu nữa sao? Những đại anh hùng đại hào kiệt thông thường muốn tạo lập công trạng tuyệt thế đều quên mất một điểm hết sức quan trọng: Sau khi đạt đến thành công tuyệt thế thì cũng là lúc làm cuộc ra đi tuyệt thế khỏi vòng thế tục (chơi chữ đa nghĩa: ‘Tuyệt thế’ vừa có nghĩa là ‘có một không hai’, vừa có nghĩa ‘chấm dứt cuộc sống’) . Vị tiền bối ấy nghĩ thông điểm này bèn nói: ‘Được rồi’. Ông chia một thân võ học của mình thành hai phần, một nửa là Loạn Phi Phong kiếm pháp, truyền cho Vân Phù thế gia, nửa kia là một món vật thần bí truyền cho Ma giáo, sau đó lập tức tự tán công lực, từ giã cõi đời!”
Trương Hiểu Kí nghe tới mức ngẩn ngơ, Lô Bán Nhi kể tiếp: “Một trăm năm lại đây giữa Ngũ phái và Ma giáo không có chuyện gì xảy ra. Mọi người đều dựa theo lề luật định sẵn để tiến hành xử, xem ra cũng ổn. Thực ra những quy củ mà chúng ta vốn coi thường có thể chính là lòng quan hoài tốt đẹp nhất cho trăm họ thương sinh, còn lý tưởng chân chính lại có khả năng khiến cả thế giới này vĩnh viễn không có đươc ngày tháng an lành. Đường lối bảo thủ vẫn tồn tại lâu bền. Vì vậy các phái bảo thủ ngày càng chiếm thượng phong. Điều họ lo ngại nhất chính là thế hệ sau của Vân Phù thế gia, đương nhiên họ không thể để Vân Phù thế gia lấy được di bảo mà vị cao nhân kia truyền cho Ma giáo, kết hợp hai thành một. Bọn họ đinh ninh rằng: Thời khắc hợp nhất đó chính là lúc chủ nghĩa lý tưởng sống dậy, chính là lúc giang hồ có nguy cơ nổi sóng. Do đó, bọn họ hạn định người trong Vân Phù thế gia mỗi đời chỉ được sinh một trai, lại còn phải làm môn hạ một trong Ngũ phái. Chính vì chuyện này, họ luôn luôn nghĩ tới việc hủy diệt sự tồn tại của Loạn Phi Phong kiếm pháp, nếu như không phải vì đối kháng với Ma giáo, họ đã hạ thủ với gia tộc của chàng rồi.”
Trương Hiểu Kí hỏi: “Chuyện này thì liên quan gì tới hôn sự của chúng ta?”
Truyền thuyết giếng Thanh Ti
Tác giả: Tiểu Đoạn
Chương 6 – Trường Hận - Hạ
Người dịch: Aficio
Biên tập: hieusol
nguồn: tàng thư viện
Trương Hiểu Kí hỏi: “Chuyện này thì liên quan gì tới hôn sự của chúng ta?”
Lô Bán Nhi ngồi trên miệng giếng, nhẹ nhàng chải đầu cho Trương Hiểu Kí. “Bởi vì theo truyền thuyết, bảo vật vị cao nhân ấy đưa cho Ma giáo chính là Bích Ngọc Sơ (chiếc lược bằng ngọc bích). Vật này mỗi đời đều do nữ nhân cất giữ. Đời trước nó thuộc về mẹ thiếp, mẹ thiếp mệnh danh là Trưởng Công Chúa, ngày xưa võ công trác tuyệt bậc nhất. Tới đời này thì truyền cho thiếp.”
Sau đó Lô Bán Nhi khẽ mỉm cười: “Giờ đây nó đang chải tóc chàng đó.”
Trương Hiểu Kí ngạc nhiên quay đầu, nhìn lại chiếc lược hết sức bình thường kia, hỏi: “Chính là vật này sao?”
Đấy rõ ràng là một chiếc lược sừng, không phải ngọc bích gì cả. Lô Bán Nhi thấy hắn đang nghi ngờ, lại cười nụ nói: “Thực ra tên thật của chiếc lược này là Tất Ngộ Sơ, những tin đồn nhảm đã biến nó thành Bích Ngọc Sơ đó.” (“Tất ngộ” và “bích ngọc” đọc âm Quan Thoại như nhau).
Nói rồi, khuôn mặt nàng hòa thêm đôi phần say mê: “Theo truyền thuyết, người con gái giữ chiếc lược này đến một ngày nào đó nhất định sẽ gặp được mối tình tuyệt vời nhất thế gian, do đó nó mới có tên là Tất Ngộ Sơ – Lược Ắt Gặp (Tất: nhất định, Ngộ: gặp, Sơ: lược). Mẹ thiếp đợi cả đời mà chẳng thấy, nào ngờ, thiếp đợi được.”
Nàng nói xong, gương mặt ửng hồng. Nàng đợi được rồi, nhưng tại sao vừa mới có lại sắp mất đi? Trương Hiểu Kí nhẹ tựa đầu mình lên gối Lô Bán Nhi. Bọn họ một ngồi trên bờ giếng, một ngồi dưới đất, cả hai đều lặng yên không nói thêm gì. Mảnh trăng cao vời trên kia vẫn tỏa ra ánh sáng thanh tao u nhã. Hồi lâu, Trương Hiểu Kí cất tiếng hỏi: “Tại sao cả thế giới này vẫn lưu truyền và chờ đợi mối tình sinh tử không rời, nhưng với chúng ta bọn họ lại nghiến răng bóp nghẹt. Tại sao khi còn nhỏ sư phụ hết sức cổ vũ ta luyện thành tuyệt thế kiếm pháp, vậy mà ta luyện được rồi người khác lại sợ hãi đến thế. Tại sao vị cao nhân ấy ấp ủ lý tưởng tuyệt thế, muốn xây dựng thiên đường ở nhân gian nhưng cuối cùng người ta lại bức bách ông phải lánh xa? Tại sao?”
Lô Bán Nhi nhè nhẹ vuốt mái tóc hắn, khẽ than: “Bởi vì: Tuyệt thế ái tình đối với cơm áo gạo tiền của mỗi người, đối với khoảng cách tình cảm lửng lơ giữa yêu và không yêu, chỉ là cung đàn lạc điệu, hay là sự thúc ép tâm lý. Tuyệt thế ái tình cao cả đến nỗi làm cho người ta tự ti hay tuyệt vọng. Không ai thực sự hy vọng hay tin tưởng thế gian này có người nào đạt đến tuyệt thế ái tình. Khi chàng thực sự luyện thành tuyệt thế kiếm pháp, trật tự vốn có của Ngũ phái Tam minh sẽ bị đánh đổ, những kẻ thủ lợi trong trật tự này không muốn thấy thế. Cao nhân kia coi thường nhục thể, theo đuổi thiên đường của tinh thần thuần túy. Nhưng những người còn lại không giống vậy nên lý tưởng của ông sao có thể lưu truyền rộng rãi được. Mọi người vẫn còn lưu luyến những dục vọng và khoái lạc mà mình có, lưu luyến cái nhục thể đầy rẫy xấu xa, ô trọc. Chàng có thể hiểu, nhưng chàng không thể nào nói ra.”
Nói đoạn, Lô Bán Nhi mỉm cười: “Do đó người trên thế giới này suốt ngày vẫn lải nhải rằng muốn có ái tình mà lại chẳng hề tin tưởng vào lý tưởng ấy, tuyệt kiếm ấy.”
Nàng và Trương Hiểu Ký đối mắt nhìn nhau: “Bọn họ, chẳng qua chỉ là Diệp công mê rồng* mà thôi.”
Tình yêu đích thực cũng như con rồng có thực, hoặc bay tít trời cao, hoặc ẩn mình vực sâu. Người suốt ngày mơ mộng cảnh giàu sang quyền thế thì không thể nào thực sự nhìn thấy rồng được. Mà nếu thấy rồi lại đâm sợ, xem như yêu ma, xem như điềm gở. Tình yêu đích thực chính thực rất đơn độc!
Vừa khi ánh sáng nhợt nhạt của buổi sớm mai lan đến là lúc hai người sắp phải phân ly, Lô Bán Nhi chợt thốt: “Hiểu Kí, đôi ta còn một cơ hội mong manh nữa.”
Trương Hiểu Kí tinh thần chấn động. Lô Bán Nhi nói khẽ: “Nghe nói chiếc lược này khi thấm đẫm nước mắt của tình nhân, hạt sương lúc ban mai và hơi khí mù ẩm ướt, thêm vào nước của giếng Thanh Ti sẽ có thể trị lành mọi vết thương của người thế tục, phá đi những cấm chế của võ công bị phong bế.”
Trương Hiểu Kí mắt sáng lên, Lô Bán Nhi cười nói: “Còn không mau lấy nước!”
Trương Hiểu Kí cúi xuống múc lên một gàu nước, sau đó hắn nhìn Lô Bán Nhi cười trêu: “Chỉ có điều, đang yên đang lành có lý do gì để nàng rơi lệ chứ?”
Lô Bán Nhi cũng cười theo. Nàng nhìn khuôn mặt trẻ trung chân thật đang mỉm cười, nhìn sâu vào, nhìn sâu nữa, một nỗi xúc động liền trào dâng. Nàng không khóc được sao? Nước mắt nàng rơi xuống, nhỏ lên chiếc lược, những giọt lệ ấy thấm vào từng răng lược một như thể muốn ôm giữ, ghi nhớ một nỗi niềm gì đấy. Dòng lệ của Lô Bán Nhi tựa chuỗi hạt châu đứt dây nối. Nàng đâu có thương tâm, nàng chỉ, không hiểu vì sao, nàng chỉ - muốn khóc mà thôi.
Trương Hiểu Kí tâm tình khuấy động, ngây ngốc nắm lấy tay Lô Bán Nhi… Nếu như được một đời ôm ấp, một đời nắm giữ… Không hiểu sao, trong tâm trí Lô Bán Nhi chợt hiện ra câu thơ:
Dây sắn phủ bụi gai
Cỏ liêm lan ngoài ruộng
Chồng ta đi biền biệt
Thui thủi cùng sớm mai… - hieusol dịch.
Chẳng phải quá bi thương sao, nàng muốn nghĩ đến mấy câu tiếp sau:
Giác chẩm sán hề
Cẩm khâm lạn hề
…
Bách niên chi hậu
Quy vu kì cư…***
Gối sừng rực rỡ này
Chăn gấm tươi đẹp này
…
Trăm năm rồi trôi hết
Bên mộ người là em - hieusol dịch.
…
Đấy là những dòng thơ thê lương mà mĩ lệ nhất nàng từng đọc: Phụ nữ một ngàn năm trước đã ngâm lên như vậy, một đời chung chăn gối, trăm năm sau cùng nhau về đất!
Đột nhiên nơi bờ tường bay lên một làn mây đen, Trương Hiểu Kí và Lộ Bán Nhi không hề phát hiện ra, đến hảo thủ Ngũ phái Tam minh phòng vệ bên ngoài cũng đều không kịp cảnh giác. Khối mây đen ấy chầm chậm bay vào, lặng lẽ tiến đến bên giếng hướng về đôi tình nhân, tiếc rằng đôi lứa này không hay không biết.
Tiến sát đến nơi, từ trong đám mây một bàn tay màu đen vươn ra, kế đến chỉ nghe một tiếng “Ùm!”, một người đã ngã xuống giếng, tiếp đó một giọng nữ nhân thét lên: “Cha!”
Đám mây đen kia huyễn hóa thành hình người. Đây là Thiên Âm đại pháp của Ma giáo, chỉ nghe người đấy nói: “Con gái ta không thể gả cho người của Vân Phù thế gia được.”
Lô Bán Nhi cười đau khổ, cười thê lương, cười như khóc… Đúng vào thời khắc cuối cùng, người trong Ma giáo lại đến… Ngay cả Ma giáo cũng không chấp thuận mối tình vượt qua giáo điều. Hỡi nhân thế! Nước mắt nàng rơi như mưa. Nàng là yếu nhân của Ma giáo nên hiểu rằng không một ai có thể thoát thân khỏi giếng Thanh Ti. Giếng này có ma lực, không ai có thể thoát ra! Nước mắt nàng nhỏ xuống lược, người nàng vừa mới dùng lược chải tóc cho giờ đã không thấy đâu. Nàng ném chiếc lược xuống giếng… “Tất ngộ”, “ắt gặp”, vậy chuyện gì là “tất ngộ”? Cái điều không thể né tránh chính là mối tình đau khổ này, là tình yêu tuyệt đối này sao?
Tất ngộ ái thì tất thương tâm
Cảnh cảnh trường thiên hựu nhất nhân...
Ắt gặp - yêu thời ắt thương tâm
Trời cao thăm thẳm một cô thân…
Lô Bán Nhi đau đớn ngã xuống…
Loáng thoáng, nàng nghe thấy cha nói đầy hào khí: “Ngũ phái Tam minh thì làm đươc gì, rốt cuộc vẫn phải nhờ ta giải quyết. Người ngoài viện nghe cho rõ, đây là con gái của ta, bất kể ai cũng không được động vào. Hà, con gái ngốc của ta, để nó đau đớn một chút cũng tốt, trái tim đau một lần thì sẽ chai cứng đi thôi.”
… Nhưng chẳng ai biết rằng, một trái tim đã từng yêu sẽ vĩnh viễn không bao giờ chai cứng được.