Mặt trời từ từ mọc làm tan sương mù còn lại ban sáng và bầu không khí ở khu phố trong trẻo một cách lạ thường. Nhưng cái lạnh ẩm ướt vẫn còn khiến Remy thọc hai tay vào hai túi trước cái áo khoác ngoài bằng len màu đen, và mừng vì đã mặc bên trong một áo len màu vàng cam, và cái quần xốp bằng len sọc carô đen trắng.
Nàng đã thức dậy từ khi hừng sáng, bồn chồn và bực bội quá, không nằm yên trong phòng được cho đến khi cả nhà đều dậy. Ý nghĩ đầu tiên của nàng là đi thơ thẩn trong căn nhà để xem các đồ vật quen thuộc có khơi dậy một vài ký ức nào của nàng không, như bác sĩ Gervais đã gợi ý. Nàng đi qua phòng khách màu xanh lam, rồi đi vào phòng lộ thiên có các ghế mây bọc nệm và những chậu cây cảnh, nhưng trong lòng cảm thấy căng thẳng, ruột nóng như lửa đốt không để ý đến gì cả. Và căn nhà trống rỗng cũng như tiếng bước chân nàng dội lại rỗng tuếch đã ám ảnh nàng.
Cuối cùng nàng không chịu được phải đi ra ngoài, trong sân đầy sương mai càng dày thêm do hơi nước bốc lên từ hồ bơi nước nóng. Suốt thời gian đó, sự thúc giục nàng đi khỏi nơi đây, đi, đã trở nên mỗi lúc một mạnh thêm. Sự thúc đẩy làm như một phần nào liên kết với cảm giác của nàng rằng một nơi nào đó đang cần sự có mặt của nàng.
Cuối cùng nàng không cưỡng được nữa, và để lại một mảnh giấy trong phòng nàng cho cha mẹ nàng biết rằng nàng đi dạo một vòng. Nàng rời ngôi nhà im lìm và ra đi, để cho sự thúc đẩy ấy hướng dẫn nàng đi, hy vọng rằng nó sẽ đưa nàng đến chỗ phục hồi lại trí nhớ phần nào.
Khi chiếc xe điện đến gần nhà thờ St. Charles, nàng trèo lên và đi suốt đến khu phố Canada, rồi băng qua đường đi vào khu phố Pháp.
Đi thơ thẩn dọc theo các con đường hẹp ở khu cổ thành, Remy ý thức sự yên tĩnh của khu phố còn đang ngủ. Còn quá sớm để nghe tiếng lọc cọc của các xe ngựa, quá sớm để thấy các nghệ sĩ chơi nhạc, đóng kịch câm hay nhảy múa trên đường phố, quá sớm để thấy các họa sĩ móc các tranh của họ lên hàng rào sắt xung quanh quảng trường Jackson, và quá sớm để các người ăn mừng lễ Mardis Gras trong đêm vừa qua thức dậy và đi lại. Không khác gì nàng có cả một thành phố dành riêng cho nàng. Nhưng không, không hẳn thế, vì nàng thấy một người đàn ông mặc áo thun có tay ngắn và quần sọc vén tấm màn ở cửa sổ lầu hai một căn nhà, lừ đừ nhìn ra bầu trời ban mai. Rồi Remy thấy hai bàn tay một người đàn bà luồn qua eo anh ta và ôm lên ngực anh. Miệng anh ta nhếch lên mỉm cười và bỏ màn xuống lại. Remy cũng mỉm cười, hơi buồn rầu một chút vì con đường phố rã rượi cũng đang khơi dậy trong nàng những nỗi nhớ nhung vô kể.
Tiếp tục đi, nàng ngắm nhìn các tòa nhà cũ kỹ nằm hai bên các phố ở khu Quartier, lơ đễnh thưởng thức vẻ đẹp của các mặt tiền đắp bằng thạch cao và các lan can bằng sắt uốn như đăng ten ở các bao lơn. Thế nhưng ở các mặt tiền ấy không có chỉ dấu gì về những sân trong bị che khuất. Có cái gi giống như mặt ngoài của nó bao giờ đâu? Đây là khu phố Pháp, nhưng kiến trúc lại theo kiểu Tây Ban Nha.
Một tiếng kèn clarinet vang lên trong sự im lặng của ban mai, những âm thanh trầm bổng và dịu dàng. Remy ngừng lại để tìm xem nó từ đâu phát ra. Kia kìa, trên một cái bao lơn, một người da đen đang ngồi, vẫn còn mặc cái áo sơ mi trắng và bộ đồ đen của đêm trước. Anh ta gác hai chân lên lan can bằng gang và cái ghế nghiêng ra sau trên hai chân trong khi anh ta thổi bản nhạc để đón vầng đông mọc sớm. Không có âm điệu than vãn, không có nhạc jazz trong đó. Chỉ có âm điệu êm ái, dịu dàng, buồn và khao khát.
Và cái đó cũng là New Orleans, Remy nhận thấy vậy. Dù rằng mặt ngoài trưng ra cho cả thế giới thấy là vui nhộn, nóng bốc hơi và cuộc sống sung túc, nhưng có một vẻ buồn rầu tế nhị ở đằng sau. Đây là quê hương của nhạc jazz, nhưng cũng là nơi lớn lên của các ca khúc blues. Người Pháp có một câu gì đấy? “những vùng nhiệt đới buồn rầu”.
Remy lại đi, nàng sải bước nhanh hơn, để thoát ra khỏi tiếng kèn clarinet trầm tư ngọt ngào ấy. Nàng không muốn sự yên tĩnh và cô quạnh của khu Quartier nữa. Có một nơi không bao giờ yên tĩnh, ngày cũng như đêm, bất cứ giờ nào, và Remy đi thẳng đến đó, dọc theo ngõ hẻm giữa Cabildo và nhà thờ St. Louis với ba cái tháp sừng sững. Nàng bước đi trên đường phố lát đá tảng đối diện quảng trường Jackson, có các cổng vẫn còn đóng. Trong khi nàng đi vòng quanh quảng trường và bắt đầu đi ngang qua các lô nhà ở Pontabla lịch sử, một đàn bồ câu cất cánh bay lên trắng xoá, đập cánh giữa mùi thơm của các bánh rán và cà phê Lousiana vừa mới pha.
Cầm một tách cà phê thơm phức của tiệm cà phê Monde, Remy trèo lên cái đập và đứng đối diện với con sông Mississippi đục ngầu hôi mùi đất. Chuông nhà thờ đổ giờ và một chiếc xe tải giao hàng chạy qua rầm rầm trên đường Cecatur. Trước mặt nàng là khúc quanh hình lưỡi liềm của sông Mississippi, từ lâu đã cho New Orleans cái tên thân mật là The Crescent city.
Trên sông luôn luôn có hoạt động, luôn luôn có một việc gì xảy ra, luôn luôn có một vật gì đang di chuyển. Tàu kéo và xà lan, tàu buôn và tàu chở dầu, tàu hoa tiêu và tàu có bánh bơi chèo. Lưu thông luôn luôn hai chiều trên sông Mississippi, với những tàu viễn dương trôi dọc từ từ bờ sông, và những xà lan ôm sát bờ tây.
Remy uống một ngụm cà phê và áp hai bàn tay hai bên cái tách, hơi nóng từ thành tách bằng nhựa dẻo thấm qua tay nàng. Nàng bị thu hút bởi mùi hương, quang cảnh và tiếng động. Nàng thấy một tàu chở dầu lướt dưới sâu, trên mặt nước, đang đi về hạ lưu, tiếng máy nổ ì ạch vẳng đến tai nàng. Từ đâu đó ở thượng lưu vẳng đến một tiếng còi tàu hụ thật to.
Đang nhìn chiếc tàu chở dầu thì bỗng nhiên bất ngờ, một cái gì khác thoáng hiện ra như ánh chớp trong trí óc nàng, qua nhanh đến nỗi một giây nàng mới ý thức được đó là hình ảnh một chiếc tàu chở dầu khác bị bao phủ bởi bóng tối và sương mù. Nó hiện ra nhanh quá nên ngoài hình ảnh đó không có gì khác nữa. Nàng nhìn đăm đăm vào chiếc tàu chở dầu đang xuôi về hạ lưu, cầu mong thấy lại hình ảnh trong trí óc, nhưng không được nữa. Nôn nóng, nàng quay đi và bắt đầu đi thơ thẩn ngược lên trên đập, bị thu hút bởi sự náo nhiệt của dòng sông. Khi đến khu bờ kè, Remy vẫn cứ đi. Rồi nàng nhìn thấy biểu tượng của công ty, giống như biểu tượng Cole có trên tấm danh thiếp của anh ta. Chữ C với chữ L dính ở nửa vòng dưới, sơn trên một toà nhà. Nàng dừng lại, hơi sửng sốt. Phải chăng nãy giờ nàng đi theo sự hướng dẫn của tiềm thức đến bờ kè của công ty? Tại sao?
Nàng nhìn đăm đăm vào tòa nhà, hơi dầu dãi nắng mưa, hơi dơ bẩn, như hầu hết các nhà ở bờ kè dọc theo sông. Nàng cố gắng nhưng vẫn không thể nhớ lại nó như một quang cảnh quen thuộc. Phải chăng do ngẫu nhiên nàng đã đến đây thấy nó? Không chịu chấp nhận như vậy, nàng đi quanh tòa nhà dài ra cầu tàu.
Một chiếc tàu buôn bóng loáng đang neo dọc theo bến tàu, và cần trục cao nghệu trên boong đang bốc hàng từ trong khoang tàu bỏ xuống bờ. Trong giây lát, Remy đứng ngắm cảnh tượng trước mắt, tiếng quay ầm ầm của cần trục, tiếng động cơ rầm rầm của các xe nâng hàng, tiếng la ơi ới của các thủy thủ và phu khuân vác, mùi dầu cặn, mùi nước sông, và cả ngàn mùi khác mà nàng không nhận ra được. Một tiếng huýt sáo dài, như một tiếng rú của chó sói xé tan không khí, và tiếp theo là tiếng tán tỉnh thô lỗ:
- Ê, em bé, tối nay có rảnh không?
Qua đuôi mắt, Remy trông thấy một thủy thủ đang nhe răng cười và nhìn nàng từ đầu đến chân. Y đang quay qua nói gì đó với một bạn thân của y, thì một người đàn ông thấp và mảnh khảnh hơn, mặc áo sơ mi cụt tay, cầm một cái bảng kẹp giấy, và túi áo gài đầy bút mực, bút chì, từ đâu đi lại. Ông ta nói gì đó với người đã huýt sáo chọc ghẹo nàng. Ông nói nhỏ quá, Remy không nghe được, nhưng giọng ông rõ ràng là giận dữ.
Một cái gì đó thoáng hiện ra trong ký ức, khiến nàng lơ đễnh. Nàng cau mày, vì biết như vừa nhớ lại một điều gì. Nhưng điều gì? Nàng lại tập trung chú ý vào chiếc tàu buộc ở cầu tàu, có một cái gì cho nàng hay rằng điều vừa suýt nhớ lại có liên quan tới nó.
Nàng không để ý đến người đàn ông đang đi tới gần, cho tới khi ông ta lên tiếng:
- Tôi rất tiếc về chuyện vừa xảy ra, thưa cô Jardin. Cái thằng Bosco điên khùng ấy, đầu óc nó bằng đầu vịt. Nó không có ác ý gì. Chỉ vì nó không biết cô là ai.
- Không có sao, thật mà!
- Sáng nay cô dậy sớm. Cô cần gì không ạ?
Lần này tai nàng nghe thấy giọng nói của ông ta, nhưng không giúp ích gì được cho nàng.
- Không, tôi chỉ đi bộ một vòng.
Nàng để ý thấy biểu tượng của công ty ở ống khói của con tàu. Nàng hỏi:
- Tàu này tên là gì?
- Dạ, tên là Crescent Lady. Xin mời cô xuống xem.
Một cái gì hiện ra như ánh chớp trong óc nàng, nhưng một lần nữa, nó hiện ra quá nhanh và biến mất quá nhanh, nên Remy không nắm được. Nàng ráng sức nhớ lại, không để ý đến người đàn ông đang quanh quẩn bên nàng đầy vẻ lo lắng. Phải là một điều gì quan trọng. Nàng chắc chắn như vậy.
- Xin lỗi cô Jardin, nhưng tôi phải trở lại làm việc – Cuối cùng ông ta nói – Nếu cô cần gì, cứ bảo một cậu ở đàng kia tìm Henry cho cô.
- Cảm ơn.
Nàng đáp lại một cách máy móc mà không thật sự nghe ông ta nói gì. Nhiều ý niệm thoáng hiện ra nữa, nối đuôi nhau thật nhanh. Nàng đứng im lìm, cố không nghĩ, để cho chúng hiện ra. Nàng không thấy người đàn ông rời đi chỗ khác. Nàng không để ý đến những đôi mắt đang nhìn về phía nàng, những tiếng nói hạ thấp quanh nàng, những lời trò chuyện giới hạn vào công việc đang làm, sự thân mật giữa bạn bè bị đè nén trước sự hiện diện của nàng.
Một phút, hai phút, năm phút… Remy không có ý niệm gì về việc nàng đã đứng nhìn trừng trừng vào chiếc tàu bao lâu. Rồi một bàn tay nắm vào cánh tay nàng và kéo mạnh nàng xoay người lại:
- Cô làm gì mà đứng đây? – Cole tức giận hỏi. Anh ta đã không tin, khi Henry báo cáo nàng đứng ở cầu tàu – Cô không biết là không nên đi bộ ở bờ sông giờ này hay sao?
Dù là cái gì khác chăng nữa, New Orleans là một thành phố cảng lớn. Và giống như bất cứ hải cảng nào, nó thu hút nhiều phần tử không tốt. Cole biết điều đó. Anh ta đã lớn lên với nó, nhưng nàng thì không.
- Tôi đã từng đến đây – Nàng nhìn trừng trừng vào anh ta, đưa mắt lướt nhìn vào mặt anh ta với một vẻ xa vắng lạ kỳ, như thể thấy anh ta, mà cũng không thấy anh ta – Anh đã đưa tôi đến đây! – Nàng ngừng lại một chút, đưa mắt nhìn con tàu đang cập bến – Để xem chiếc tàu mới nhất của công ty, chiếc Crescent Lady.
Cole đứng im, lặng thinh, và nhớ lại rõ ràng, một cách sinh động buổi chiều ấy. Tất cả các điểm, từ hơi nắng ấm trên lưng anh ta, đến làn vải len của cái váy nàng mặc bay phất phơ trước ngọn gió mát...
- Sao vậy? Không có sâm banh à? – Nàng liếc mắt trách anh ta với vẻ đùa giỡn - Tôi tưởng anh đưa tôi đến đây để đặt tên cho chiếc tàu mới nhất trong đoàn tàu chứ? Tôi rất thất vọng!
- Lễ nghi đó chỉ được áp dụng khi một chiếc tàu được hạ thủy lần đầu tiên. Chiếc Crescent Lady đã tròn một tuổi rồi – Anh ta đưa nàng đi trên cầu thang lên tàu, bàn tay anh ta đặt len eo lưng của nàng, và ý thức hai hông nàng uốn éo, và hơi nóng của người nàng tỏa ra.
- Và chắc là người ta tin dị đoan nên không dám đặt tên lại một lần thứ hai – Nàng nói, giả vờ thở dài tiếc rẻ – Xưa nay tôi luôn ước ao có dịp đập vỡ một chai sâm banh ở mũi một chiếc tàu thủy.
- Cô phải chờ đến khi công ty có khả năng sắm một chiếc tàu thủy mới tinh để cô thỏa mãn ý thích hão huyền ấy.
- Nếu nói như anh, công ty đang ở trong tình trạng tài chính vô cùng khó khăn, thì làm sao còn đài thọ nổi ngay cả chiếc tàu này?
Cole làm ngơ trước câu hỏi châm chọc của nàng:
- Tai nạn chìm tàu xảy ra cho chiếc Dragon đã là một chuyện tốt lành, tuy ngoài mặt không phải vậy. Khi công ty bảo hiểm trả tiền bồi thường, tôi đã dùng một phần trong số tiền ấy và huy động thêm các nguồn tài trợ thông thường để mua chiếc tàu này.
Nàng liếc nhanh anh ta:
- À ra anh đã chi tiêu tiền bồi thường của công ty bảo hiểm vào mục này.
- Không phải toàn thể số tiền ấy.
- Tôi nhớ ba tôi đã bực tức – Nàng nói, không e ngại – Ba tôi đã nghĩ rằng phải chia lợi nhuận cho các cổ đông nhân dịp đó.
- Số tiền ấy thuộc công ty, không phải của gia đình.
Nàng cười to:
- Ông thích có quyền hành trên sự chi tiêu của gia đình tôi, có phải không?
Viên thuyền trưởng đang chờ để chào đón họ lên tàu, nên Cole khỏi phải trả lời câu nói của nàng, chẳng phải là anh ta cần phủ nhận. Trong thâm tâm phần nào anh ta thích chí vì có quyền hành như vậy trong tay. Và một phần khác lại sẵn sàng muốn trao đổi cái đó với quyền hành trong mối quan hệ giữa Remy và anh ta mới có từ ba tháng trở lại đây. Hai người đã gặp nhau đều đặn từ đấy, mỗi tuần gặp nhau từ hai đến ba lần, thường thường ở căn nhà của anh ta, thỉnh thoảng đi ăn tối ở ngoài, hay dự một buổi dạ hội địa phương, hay đi nghe hòa nhạc công cộng, hay xem triển lãm ở viện bảo tàng, hoặc một phòng bán tranh. Anh ta không hề đi dự một buổi chiêu đãi nào của xã hội thượng lưu với nàng, và từ chối thẳng thừng bất cứ sự gợi ý nào của nàng muốn anh ta gặp các bạn hữu của nàng.
Tuy nhiên, dạo này họ ở căn nhà của anh ta nhiều hơn. Anh ta đã nghĩ rằng như vậy hay hơn, và anh ta có thể đối phó với cuộc tình đang diễn ra giữa hai người. Anh ta đã nghĩ rằng có thể lợi dụng nàng, cũng như nàng lợi dụng anh ta. Nhưng trong mỗi ngày anh ta đã phải ép mình không nghĩ đến nàng bao nhiêu lần? Bao nhiêu lần anh ta ngồi ở bàn giấy, nhìn trừng trừng vào các báo cáo mà hình dung thấy thân mình thon thả và trắng trẻo của nàng nằm bên anh ta, những đốm vàng như tia nắng hạ bị mắc kẹt trong đôi mắt màu nâu đỏ của nàng, chỉ rực sáng với sự thèm muốn dành riêng cho anh?
Thế nhưng tất cả những cái đó sẽ không bền. Anh ta biết vậy và sự hiểu biết ấy là lá chắn che chở cho anh ta. Cole giới thiệu Remy với người thuyền trưởng tên là Peder Van de Hor, một người Bắc Âu da thịt hồng hào, tóc vàng ngả qua màu xám tro. Sau khi đi xem sơ qua con tàu, giới hạn trong khu vực nhà bếp, các phòng ở của các sĩ quan, tới cầu chỉ huy, vì boong tàu luôn luôn bị chất chuyến hàng đầu tiên cho công ty, người thuyền trưởng để Remy đứng lại trên cầu chỉ huy vài phút, và Remy được dịp quan sát cần trục tốc độ nhanh đang cẩu các container được chế tạo đặc biệt lên boong tàu để sắp xếp vào các khoang ở dưới. Còn lại một mình với nàng, Cole nhận thức sự im lặng đang có giữa họ, nếu có thể gọi là im lặng, giữa tiếng ồn của các cần trục và tiếng gọi nhau của các phu khuân vác. Anh ta xích lại gần nàng hơn ở lan can, cố tình dán mắt vào các hoạt động trên boong tàu.
- Chi phí điều hành của chiếc Lady sẽ ít hơn nhiều so với Dragon mà nó thay thế. Không những thuỷ thủ đoàn ít người hơn, theo tỷ lệ, giảm bớt chi phí nhân công, mà các container kia còn giảm bớt sự mất mát, làm hạ được chi phí bảo hiểm. Dùng container còn có lợi là có thể chất hàng và xuống hàng trong vòng mấy giờ đồng hồ, nhờ vậy thời gian cập bến rút bớt, và hạ thấp phí tổn về nhân công, và còn có khả năng đi nhiều chuyến hơn, làm lợi thêm cho công ty – Anh ta nói, cố ý để lấp khoảng trống giữa hai người – Như viên thuyền trưởng đã nói khi chúng ta ở trên cầu chỉ huy, cái tốc độ cao hơn trung bình của chiếc tàu này…
- Thôi đủ rồi – Remy cắt ngang, vờ đưa hai tay lên trời ra vẻ đầu hàng, vừa cười vừa lắc đầu quầy quậy – Vô ích, Cole. Tôi sẽ không bao giờ phân biệt được giữa một tàu thuỷ chở container và một tàu thủy chở dầu.
- Cái đó có gì mà phải khoe khoang? – Cole đáp.
- Không phải là khoe khoang mà sự thật là vậy – Nàng quay lưng lại lan can, tựa hai cùi tay lên đó, để gió thổi lùa qua mái tóc – Nếu anh nói về đồ sứ thì là chuyện khác.
Câu nói của nàng hàm ý nhắc anh ta rằng, nàng là đồ sứ, còn anh ta chỉ là đồ gốm do đất sét thường tạo ra. Cả hai điểm anh ta đều không quên, mặc dầu nàng giả vờ không để ý. Anh ta chợt nhìn thấy chiếc phà ở xa xa đang lạch bạch băng qua dòng sông chảy cuồn cuộn để đến bến phà bờ bên kia, Cole quay lại lan can để nhìn theo nó.
- Chiếc phà đang chạy qua Algiers – Anh ta hất hàm về phía chiếc phà để chỉ cho nàng, và nàng quay lại, đưa tay vuốt mái tóc bị gió xoã xuống mặt – Tôi lớn lên ở đấy, trong một ngôi nhà tầm thường cạnh đường Socrates.
Tên đúng của nó là mũi Algiers, và do đâu mà có tên ấy thì không ai còn nhớ cả. Trong thời kỳ Pháp và Tây Ban Nha cai trị, những trại nhốt nô lệ đã được dựng lên tại đó để tiếp nhận những người da đen mới chở đến từ vùng Tây Âu hay Phi Châu. Mặc dầu bị ngăn cách bởi dòng sông Mississippi, Algiers là một phần của thành phố New Orleans, có nhiều người gọi là khu Algiers đen, không phải vì gốc tích của nó.
- Có người bảo rằng Algiers là nơi xuất phát các bài hát Blues – Remy nói, và nhìn về mũi đất nhô ra. Rồi nàng quay lại dán mắt vào anh ta với vẻ thẳng thắn cố hữu của nàng – Gần đây anh có trở về đấy không? Đang có nhiều công trình được phục chế và canh tân rất đẹp. Trên thực tế, khu ấy đang trở thành một nơi được ưa chuộng.
Cole cảm thấy ngay câu nói ấy không phải chỉ là một lời nói suông, mà có ẩn ý gì trong đó. Anh ta hỏi:
- Phải chăng cô hàm ý là tôi có thể trở thành được ưa chuộng?
- Tôi không biết – Nàng quay lại đáp, miệng cười mỉm chi để chọc anh ta – Anh có nghĩ rằng bản thân anh cần được phục chế và đổi mới không?
- Không.
Nàng cười lớn:
- Tôi cũng không nghĩ vậy. Thật tình mà nói, tôi không tưởng tượng được anh khác bây giờ. “chịu hay không chịu”, anh là thế đấy – Nàng bỏ lan can quay mặt lại với anh ta bằng một cử chỉ duyên dáng và xoa hai bàn tay lên vạt áo sơ mi của anh ta, không bị trở ngại vì cái áo vest và cái cravat của anh đã cởi ra và bỏ lại ở nệm sau xe hơi – Và tôi rất mừng vì đã quyết định chịu anh.
Anh ta chặn hai bàn tay đang luồn lên cổ anh:
- Vấn đề là cô định đưa tôi đến tận đâu, Remy? Gia đình của cô không chấp nhận chuyện… tình hiện nay giữa đôi ta.
Nụ cười mỉm vẫn còn trên môi, nhưng nàng rút tay lại và nhích ra xa một chút:
- Có ai nói với anh về việc đó sao?
- Không! – Nhưng anh ta cũng không ngạc nhiên vì thế – Cha cô đang ở trong một tư thế lúng túng. Có lẽ tôi chỉ xứng đáng để điều hành công cuộc kinh doanh của gia đình, nhưng không xứng đáng để lấy con gái của ông. Tôi chắc chắn không qua lọt cuộc trắc nghiệm về máu, để xác định thành phần “máu xanh” (máu quý tộc) trong mạch máu của tôi.
- Tại sao anh cứ nêu lên những chuyện phi lý đó?
Anh ta thấy nàng sắp sửa nổi nóng, nhưng làm ngơ:
- Bởi vì đó là sự thật, dù cô chấp nhận hay không.
- Anh có biết cái gì mới là sự thật không, Buchanan?
Cơn giận của nàng bùng nổ, hai mắt bắn ra những tia vàng rực:
- Anh lớn lên ở khu Algiers và tôi thì ở khu Garden, điều đó là có thật. Xưa kia anh nghèo và tôi sung túc. Anh đã đấu tranh để sống, còn đối với tôi, cuộc sống là những du thuyền trên mặt hồ, những buổi khiêu vũ trong mùa hè, và những buổi dạ vũ hóa trang trong mùa Carnival. Anh đã làm việc để kiếm tiền theo học đại học, còn tôi thì theo học ở một trường đắt tiền. Anh đã đấu tranh để tiến lên địa vị ngày nay, còn tôi thì không! Và tôi nghĩ rằng, như thế thì đã sao? Trời đất, bộ anh nghĩ rằng tôi xét đoán giá trị của một người đàn ông căn cứ vào gốc gác của anh ta hay lai lịch của anh ta hay sao? Bây giờ nàng lại nói thế, cũng trong cơn nóng giận như vậy, và nhớ lại rõ ràng cả lời lẽ và cảm xúc của nàng lúc đó. Nghe nàng nói, Cole lại cảm thấy rung động dù tự kiềm chế như lúc đó.
Lúc đó, cách đây mấy tháng, nàng đã quay phắt đi nhưng anh ta không để nàng bỏ đi. Anh ta đã nắm tay kéo nàng xoay lại, vì cần thấy mặt nàng, để xem nàng nói thật hay không. Rồi anh đã hôn nàng, ngay trên cầu tàu, giữa tiếng huýt sáo tán thưởng của các phu khuân vác, và cơn giận của nàng đã đổi thành sự say mê âu yếm.
Anh ta cảm thấy bị thúc đẩy muốn diễn lại cảnh này cho đến hồi kết thúc giống như lần trước, và ánh mắt nàng cũng lộ vẻ thèm muốn như thế. Nhưng lúc đó anh ta đã tin tưởng ở nàng, đã tin rằng nàng khác những người khác, anh ta đã tin và đã phải trả giá vì vậy, một cái giá có thể còn lên cao hơn. Không, đã có quá nhiều thay đổi, đã có quá nhiều việc đổi thay. Anh ta không còn dễ tin nữa. Và tệ hơn, nàng cũng vậy.
Cole theo dõi sự thèm muốn tắt ngấm trong ánh mắt nàng, và anh ta không hề làm một cử chỉ gì, không hề đưa tay ra để giữ nó lại ở đấy. Có lẽ anh ta nên làm vậy. Có lẽ nàng đã quên hết. Có lẽ nàng sẽ không bao giờ nhớ lại, ngoại trừ một điểm là gia đình nàng sẽ tìm cách làm cho nàng nhớ lại.
Ngọn gió ban mai thổi một lọn tóc của nàng bay xõa xuống má. Nàng vuốt nó lên, và mắt họ không còn nhìn nhau nữa.
- Tôi nhớ giây phút ấy – Nàng điềm tĩnh nói – Chuyện đã xảy ra như thế, phải không?
- Phải – Tiếng anh ta nghe cộc lốc, và anh ta biết vậy. Cố che giấu điều đó, anh ta liếc vào đồng hồ tay – Tôi phải có mặt ở văn phòng trong 10 phút nữa. Tốt hơn, cô nên đi theo tôi, và tôi sẽ gọi taxi đưa cô về nhà.
Remy lắc đầu:
- Tôi đi bộ được.
- Giờ này thì không nên, và khu vực này càng không nên.
Anh ta cầm cánh tay nàng kéo đi khỏi bến tàu. Nàng cưỡng lại một chút, nhưng rồi thôi rồi để anh ta dẫn đến xe hơi.
Remy ngồi im lặng trong khi xe chạy ra khỏi bến tàu. Trước khi rời nhà đi sáng nay, nàng đã hy vọng sẽ nhớ lại một cái gì. Nàng đã nhớ. Nàng đã có được thêm một mẩu ký ức, một mẩu ký ức đẹp đẽ về nhiều mặt. Thế nhưng, sau đó… nàng có cảm giác rất mạnh mẽ là đã mất một cái gì? Tại sao? Tại sao nàng nghĩ vậy? Tại sao nàng cảm thấy vậy?
Nàng liếc trộm Cole. Ngay cả khi nhìn nghiêng, khuôn mặt anh ta cũng mang cái vẻ lạnh lùng và khó chịu đã lộ ra với nàng ở bến tàu. Làm như anh ta thù ghét nàng, cũng người đàn ông đã làm tình với nàng một cách vô cùng dữ dội, như tuyệt vọng, không chừa một điều gì không làm, mới hôm qua đây thôi. Tại sao anh ta đã thay đổi? Nàng đã làm điều gì? Hay là… vì anh ta đã làm một điều gì?
Nàng chợt cảm thấy căng thẳng, ráng sức để nhớ, và liền thư giãn trở lại. Ký ức của nàng không phải là thứ có thể ra lệnh cho nó trở lại, như nàng đã đau đớn nhận thấy. Để thay đổi ý nghĩ, Remy tập trung sự chú ý vào khu buôn bán của New Orleans đang mở ra trước mặt nàng với các phố giống như những cái vực thẳm chạy dài giữa các tòa nhà cao, đủ kiểu kiến trúc chọn lọc, với những tòa nhà theo kiểu thế kỷ IXX xen lẫn những nhà cao tầng bằng kính và bê tông của thế kỷ XX. Nàng chờ cho Cole rẽ vào đường Poydras và vào đến trung tâm của khu ấy. Nhưng anh ta lại rẽ vào ngã dẫn vào khu bán hàng quốc tế.
– Đi vào đây làm gì? – Nàng day qua Cole và cau mày, khi anh ta mở cửa xe phía nàng và đưa một bàn tay ra mời nàng bước xuống – Tôi tưởng anh phải có mặt ở văn phòng chứ?
- Đây là nơi đặt các văn phòng của Công ty Crescent Line – Anh ta đáp, và khoát tay chỉ về hướng tòa nhà baba tầng trong khi anh bước xuống xe không cần anh ta đỡ.
- Tôi không nhớ cái đó – Tại sao? Nàng tự hỏi – Ở đây lâu chưa?
- Từ đầu những năm 60, khi tòa nhà vừa được xây cất. Theo tôi hiểu, ông nội cô đã quyết định dời trụ sở công ty tới đây – Anh ta đỡ cánh tay nàng và dẫn đi vào cửa – Một hành động thông minh vì có khoảng 28 tòa lãnh sự nước ngoài và văn phòng thương mại đặt ở khu bán hàng này, cũng như nhiều xí nghiệp xuất nhập khẩu, công ty xà lan, và công ty tàu thuỷ khác.
Đáng lẽ nàng đã tỏ ra ngạc nhiên vì anh ta khen một hành động của một người trong gia đình nàng là một điều hiếm có, nhưng nàng vẫn còn lạ lùng vì các văn phòng của công ty nằm ở trong toà nhà này. Nàng không cãi lại anh ta, nói đích xác là vậy, nàng chỉ có một cảm giác mơ hồ là anh ta giấu nàng một điều gì, một điều mà nàng “gần như” nhớ ra một mình.
- Có xe taxi vừa đậu kìa! – Tay anh ta nắm chặt tay nàng. Khi anh ta bắt đầu hướng dẫn nàng về phía ấy.
Remy bước lùi lại:
– Không, tôi chưa muốn về nhà. Tôi muốn xem các văn phòng.
Anh ta mở miệng định cãi lại, nhưng rồi im lặng và quay đi về phía tòa nhà.
Khi lên đến lầu thứ 15, nàng thấy biểu tượng của công ty ở cửa, bằng chữ vàng có viền đen đề tên The Crescent Line. Một tấm bản đồ thế giới có ghi các hải cảng quan trọng và các đường hàng hải chiếm cả một bức tuờng ở khu tiếp tân, một cách trang trí rất điển hình của một công ty hàng hải, cũng như các mẫu tàu thủy viễn dương có đường nét đẹp và những kiểu tàu hiện đại lộng lẫy.
Nàng đi theo Cole dọc hành lang rộng đến khu văn phòng ban giám đốc. Nàng máy móc chào lại người thư ký của anh ta, nhưng không dừng lại ở bàn giấy bà ấy khi Cole làm vậy.
- Họ đến chưa? – Cole hỏi, trong khi Remy thơ thẩn không yên trong phòng giấy ngoài, cố tìm một điểm gì quen thuộc, bàn tay sờ lên tay vịn của một cái ghế nệm, và tự hỏi có phải đó là cái ghế mà Cole đã đặt bức tranh in lên để kiểm soát xem có hư hại gì không, rồi tiếp tục di chuyển khi nó không khơi dậy một âm hưởng nào trong đầu nàng.
- Chưa, thưa ông Buchanan – Bà thư ký khó nhọc mới giữ được thân hình mảnh khảnh trả lời, và nói thêm – Tôi đã để một chồng thư trên bàn giấy của ông, chờ ông ký.
Remy dừng lại một chút trước cửa vào văn phòng của anh ta ở góc tòa nhà, mơ hồ nghe Cole nói:
- Cô Jardin sắp về. Bà lo liệu cho có xe taxi chờ sẵn dưới nhà để đưa cô ấy về.
- Tôi lo ngay.
Bàn tay Remy đặt lên nắm cửa cô nhận thấy cần phải nhìn bên trong. Nàng vặn nắm cửa bằng đồng, đẩy cánh cửa mở toang. Nàng ngần ngừ rồi bước vào phòng. Đôi giày bốt cao nện vang trên sàn gỗ cứng cho đến khi nàng bước lên tấm thảm Tabriz dày. Ánh sáng ban mai lùa qua các cửa sổ rộng lớn, làm cho gỗ lát ở vách bóng loáng, gỗ gụ đã lên nước, mà trí óc cho nàng biết không phải chỉ mấy chục năm mới lên nước bóng như thế. Phải một thế kỷ, có lẽ, chứ mấy thập kỷ cũng chưa được. Cái ghế nệm dài bọc da và cả ghế dựa ở khu tiếp khách nhỏ hẹp cho thấy đã có quá nhiều bàn tay sờ vào. Và cái bàn giấy đồ sộ, có chỗ để chân khoét ngay giữa, rõ ràng là một món đồ cổ, hiệu Sheraton, nàng nghĩ thầm. Lạ lùng hơn bao giờ cả, nàng quay lại và bắt gặp Cole đang nhìn nàng theo dõi ngay bên trong cửa.
- Tôi không hiểu. Văn phòng này… cũ rồi.
- Phải. Ông cụ nội của cô dời trụ sở của công ty đi, nhưng đã giữ nguyên phòng giấy của ông cụ. Nó đã được tháo ra từng mảnh: sàn, vách và trần, lắp lại ở đây. Dĩ nhiên ông cụ đã phải chừa các cửa sổ của tòa nhà này ra, một cách miễn cưỡng, như tôi đã nghe nói lại.
- Trong tiềm thức tôi ắt hẳn đã nhớ ra cái phòng giấy này cổ xưa đến mức nào, mà không nhớ là nó đã được dời đến đây.
Nàng đưa tay quay một vòng trái cầu cổ kính trong cái giá Clippendale của nó, và tự hỏi nàng có chơi với nó khi nàng còn bé và đến đây thăm cha hay không.
- Nếu cô đã thoả mãn sự tò mò, hay thứ gì khác, thì tôi có việc phải làm – Anh ta nói cộc lốc và bước ngang qua phòng đến bàn giấy.
Remy ngẩng lên nhìn biết rõ anh ta muốn nàng ra về và nghi ngờ không phải chỉ vì anh ta bận việc. Nàng nói:
- Tôi có một câu hỏi khác.
- Cái gì vậy? – Giọng anh ta gay gắt, như cố ý tỏ ra cứng cỏi với nàng, giống như khi ở cầu tàu.
- Tại sao anh ra khỏi phi cảng tối qua mà không nói một tiếng với tôi hay với ai khác?
- Tôi có một câu hỏi dành cho cô. Tại sao cô không đi theo tìm tôi?
- Tôi không có câu trả lời cho câu hỏi đó.
- Và có lẽ điều ấy, tự nó đã là một câu trả lời.
- Có lẽ.
Bước ra xa trái cầu, ánh sáng ở cửa sổ phản chiếu lại trên một bức chân dung đóng khung, làm nó mờ đi và lôi kéo sự chú ý của nàng. Trong trí nàng thoáng hiện ra hình ảnh một người đàn ông tóc bạc trắng, đứng cứng nhắc, mình mặc áo vest có hai ve rộng.
- Ông nội! – Nàng nhận ra ngay - Có phải đây là chân dung của ông nội tôi?
Không chờ Cole xác nhận, Remy bước tới để tự mình xem lấy. Nàng ngạc nhiên nhìn đăm đăm vào hình người đàn ông bảnh bao trong bức tranh sơn dầu, mặc một cái áo vest có vạt sau dài màu đen và một áo gilê bằng gấm màu bạc. Tóc ông không bạc chút nào, mà màu đỏ sậm, cắt khá ngắn, chỉ đến ngang vành tai, và rẽ ngôi hơi lệch về một bên, chỉ có điểm đó là chỉ dấu ông chịu khuất phục một chút, nếu có. Cặp mắt ông tươi cười, và một cái cười mỉm làm đuôi ria mép của ông vểnh lên, tạo ra hai nếp nhăn trên hai má rám nắng thật sậm của ông. Cảm tưởng toàn bộ là một người đàn ông mạnh khoẻ, đầy nghị lực, thích chấp nhận thách đố, không sợ rủi ro.
- Người trong tranh là ai thế? – Bức tranh này là một bức của anh, phải không? – Ngay khi vừa hỏi, Remy giật mình và hơi tái mặt – Tôi đã hỏi anh câu đó rồi, phải không?
Anh ta gật đầu, và chờ xem nàng còn nhớ được gì nữa không. Nhưng sau đó trống rỗng:
– Anh đã nói gì với tôi khi tôi hỏi?
- Đó là chân dung của người sáng lập công ty. Tôi tìm thấy nó bị chôn lấp dưới bụi bặm đã được 100 năm trong một nhà kho của công ty, dọc theo bờ sông.
Nàng nhìn lại bức tranh:
- Lạ lùng chưa. Ông ta không giống dòng họ Jardin chút nào.
- Bởi vì ông ta không phải là dòng họ Jardin – Cole nói.
- Cái gì? Chuyện ấy không thể có được. Từ xưa, người dòng họ Jardin luôn luôn làm chủ công ty Crescent Line.
- Không phải luôn luôn. Chắc chắn không phải trong lúc đầu. Người này, Brodie Donovan, sáng lập ra công ty Crescent Line.
- Donovan! – Trong lòng nàng muốn phủ nhận tất cả những gì Cole đã nói, vì chắc chắn rằng anh ta phải sai lầm. Nhưng nàng không nhớ được. Anh ta nói đúng chăng? Có phải đây là thêm một mẩu thông tin về gia đình nàng còn bị kẹt sau bức tường quên lãng?
- Đúng ra, Remy – Cole nói tiếp – Tên cô phải là Donovan, không phải là Jardin.
- Anh nói gì vậy? – Nàng hoàn toàn bối rối.
Anh ta định trả lời, nhưng nhìn ra cửa, anh ta ngừng lại một giây, và mỉm cười lạnh lẽo.
- Có lẽ cô nên nhờ chú cô giải thích cho.
Remy quay phắt lại phía cửa thông ra phòng ngoài đang còn để mở. Marc Jardin đứng chân trong chân ngoài ở đấy, cặp mắt màu sẫm của ông ta nheo lại nhìn bức tranh, môi mím lại có vẻ không bằng lòng. Rồi cái vẻ ấy biến mất, không còn lại dấu vết, thay bằng một nụ cười mỉm trống rỗng.
- Đấy là một sự ngạc nhiên, Remy – Ông bước qua tấm thảm tới gần nàng.
- Chú Marc. Chào chú.
Nàng chắc chắn ông ta đã nghe được những câu nói khẳng định của Cole vừa rồi về gia đình nàng, thế nhưng hình như ông ta cố tình làm ngơ. Tại sao? Sự im lặng của ông phải chăng chứng minh những câu ấy là đúng sự thật? Hay Brodie Donovan là một đề tài ông không muốn bàn đến trước mặt Cole? Một tiếng nói khẽ bên trong nàng bảo rằng “ các bí mật của gia đình nên để yên”. Nàng làm theo ông, và đáp:
- Sáng nay cháu đi dạo, và… cuối cùng đến đây.
- Có chuyện gì ông đến văn phòng sớm vậy, Marc? – Cole hỏi với vẻ hơi xa cách và dửng dưng – Vào giờ này thường thì ông còn ngồi với bạn bè ở tiệm cà phê của khách sạn Pontchartrain kia mà?
- Thường thì vậy – Chú nàng thừa nhận – Nhưng có cuộc họp sáng nay.
- Có cuộc họp sáng nay! Nhưng điều đó có liên quan gì đến ông? – Giọng Cole có vẻ lạnh lùng khó chịu, làm cho nhiệt độ trong phòng có vẻ như hạ xuống vài ba độ.
- Tôi cảm thấy nên có mặt ở đây – Marc Jardin trả lời, nụ cười mỉm trở nên hơi gượng gạo.
- Tại sao?
Cổ chú nàng bắt đầu đỏ ửng:
- Tại sao? – Ông ta cười lớn, hơi có vẻ gượng ép – Tôi là một quản trị viên của công ty, Cole, cũng như là một thành viên của hội đồng quản trị và một cổ đông quan trọng.
- Đúng là vậy – Cole đồng ý – Nhưng tôi e rằng ông đã quên bây giờ “tôi” thay mặt cho công ty. Và sự hiện diện của ông hôm nay không cần thiết.
- À ra vậy – Chú nàng lẩm bẩm, vẻ mặt và bộ điệu cứng nhắc, đờ người ra.
Nhận thấy ông ta không có cách nào để rút lui mà không bẽ mặt, Remy vội vàng lên tiếng:
- Nếu người ta không cần chú ở đây, cháu nhờ chú cho cháu quá giang về nhà, được không, chú Marc?
Ông quay lại, mắt ánh lên vẻ biết ơn:
- Chú rất sẵn lòng, Remy – ông đưa cánh tay ra mời nàng vịn vào một cách đùa giỡn. Remy vịn vào và cùng ông đi ra khỏi văn phòng của Cole.
Ngồi trong chiếc xe Mercedes màu xám của chú nàng, Remy lắng nghe ông nói trong khi ông ta lái xe dọc theo đại lộ St. Charles đưa nàng về nhà. Từ khi ở văn phòng Cole ra xe, Marc Jardin thao thao kể chuyện về cậu con trai, các cô con gái và các đứa cháu nội, ngoại, kể với nàng về những buổi diễu hành và lễ lạc mà các đứa cháu của ông tham dự, và những chuyện vui vẻ phản ứng của chúng. Remy mỉm cười ở những chỗ nào nên cười, nhưng không tập trung chú ý được vào đấy. Mắt nàng cứ nhìn qua cửa kính xe quan sát ánh sáng ban mai trên đại lộ, không còn bị che khuất bởi bóng tối trong đêm trước và sương mai cuồn cuộn từng lớp vào sáng hôm sau.
Dọc theo con đường người ta thích đến xem diễu hành này, còn thấy những dấu tích của mùa đại hội hóa trang đang diễn ra như các hạt tròn màu sắc sặc sỡ treo ở các cành cây sồi hùng vĩ dọc hai bên đại lộ, và những cái tách bằng nhựa dẻo rất được dân chúng ưa thích, dùng để chứa rượu họ uống, nằm dưới chân các bụi cây khô cắm dọc theo các khoảng trống, với các nụ hoa sắp nở màu hồng rực rỡ.
Đây đó Remy thấy thấp thoáng lá cờ chính thức của câu lạc bộ đại hội hóa trang ưu tú Rex bay phấp phới trước một tòa dinh thự ở khu phố Garden, nằm yên ổn sau những hàng rào bằng sắt uốn kiểu cọ và bao bọc bằng những bụi hoa mộc lan cao ngất. Thấy các dấu hiệu, nàng sực nhớ rằng theo truyền thống, chỉ những nhà cai trị cũ của Mardi Gras, những vị vua và các bà hoàng hậu của họ mới được quyền treo cờ màu tím, xanh lục và vàng trước nhà họ. Màu tím tượng trưng cho công lý, xanh lục cho lòng trung thành, và vàng cho quyền lực.
Thấy các dấu hiệu bên ngoài của mùa đại hội hóa trang, Remy lại càng thắc mắc, tại sao Marc Jardin đã cố tình lái câu chuyện giữa họ đi xa câu chuyện vừa bị tiết lộ trong văn phòng của Cole. Tại sao ông không nói cho nàng biết Brodie Donavan là ai? Nàng nhớ cách ông nhìn trừng trừng vào bức chân dung, và nàng chắc chắn rằng ông đã nghe Cole khẳng định người mang tên Donavan ấy đã sáng lập ra công ty Crescent. Vậy mà ông chẳng nói gì về chuyện ấy cả, và không thể cho nàng có cơ hội để hỏi. Cũng vì thế, nàng đã không thúc ép ông đem chuyện ấy ra nói. Tại sao nàng miễn cưỡng không muốn hỏi ông?
Cơ hội để sửa chữa sự thiếu sót ấy không còn nữa, vì ông ta vừa nói
– Đến rồi!
Và quẹo chiếc Mercedes vào giữa hai cột bằng sắt uốn, hai cánh cổng của tòa nhà cổ đã mở ra cho xe vào.
- Cháu trở về nhà lại, chắc là mừng lắm, sau những nỗi khổ cực đã trải qua?
- Nếu chú nói với cháu như vậy cách đây hai hôm ở Nice, có lẽ cháu đồng ý với chú – Remy đáp trong khi ông ta đậu xe lại trước nhà để xe ngựa cũ, đã biến cải thành một gara chứa bốn chiếc xe hơi – Bây giờ cháu có cảm giác những sự khổ cực chỉ mới bắt đầu.
Ông để sự im lặng bao trùm lấy họ mà không nói gì. Sự im lặng ấy càng rõ rệt hơn sau những câu chuyện tầm phào ông nói suốt nãy giờ trong khi lái xe đến đây, và điều đó làm Remy càng tin rằng câu nói của nàng có thể đúng sự thật nhiều hơn nàng tưởng.
Khi họ bước qua cửa hông để vào nhà, mùi thơm ngào ngạt xông lên, và chú nàng dừng lại hít mạnh, giả bộ thích thú một cách cường điệu. Ông nói:
- Hình như Nattie mới nướng xong một mẻ bánh mì sáng nay, thơm quá!
- Vừa đúng lúc cô về – Một người đàn bà da đen cao lớn, mảnh dẻ, đứng ở cuối hành lang, mình đeo một cái tạp dề trắng buộc chặt vào một bộ đồng phục màu đen. Tóc chị ta cắt sát ở hai bên, và dành lại để bùng lên ở đỉnh đầu. Tóc quăn lẩn những sợi đã muối tiêu, kiểu này vừa đẹp vừa tiện lợi, và làm nổi bật hai gò má cao của chị. Cặp mắt đen của chị ta nheo lại nhìn Remy – Tôi thấy hình như khi bị va chạm vào đâu, không phải cô chỉ mất trí nhớ mà thôi, mà còn mất cả một phần lý trí nữa. Ai lại đi dạo trước khi trời sáng!
- Ắt hẳn chị là Nattie – Remy tiến tới gần chị ta, chờ xem có một tia sáng nào của ký ức lóe ra khi thấy người đàn bà này không.
- Trong nhà chỉ có độc một người đàn bà da đen mà thôi, tôi không thấy có cách nào cô lầm tôi với người khác được.
Remy ngạc nhiên phì cười:
- Chị luôn luôn nói thẳng như vậy sao?
- Nếu có, thì do tôi học của cô đấy.
Chị ta đáp ngay thật nhanh khiến Remy chắc rằng câu đó là điển hình cho những câu đối đáp giữa hai người trong quá khứ.
- Họ ở đâu cả? – Marc hỏi.
- Ông Frazier và bà Sibylle đang dùng cà phê buổi sáng ở phòng lộ thiên – Nattie cất ngang để trả lời.
- Để tôi báo cho họ biết, cháu đã về – Ông ta nói với Remy, rồi đi vào, sải bước về phía gian phòng bằng gỗ và kính màu trắng.
- Ông bà thấy mảnh giấy tôi để lại chưa? – Remy hỏi.
- Tôi tìm thấy – Nattie đáp – Khi ông bà bảo bưng cà phê sáng lên phòng cô. Liền khi đó, bà chủ bắt đầu lo rằng nếu cô mất trí nhớ, làm sao cô biết nhà ở đâu mà tìm đường trở về?
- Tôi đã hứa sẽ về được.
- Cô thử nói cho bà tin được không? – Nattie đáp và bắt đầu lộ vẻ bực mình.
Mặc dầu người đàn bà da đen nói với nàng bằng lời lẽ thân mật Remy để ý không một lần chị ta hỏi nàng đã đi đâu, tại sao đi, và đã làm gì. Nàng nhớ rằng cô đã bảo nàng coi Nattie như một người thân trong gia đình trên thực tế, nhưng hiển nhiên không đến mức nàng cảm thấy phải khai báo với chị ta nàng đi đâu. Và cũng hiển nhiên là Nattie không trông đợi nàng làm vậy.
Nattie bỗng đưa bàn tay lên, lòng bàn tay đỏ hồng, và áp vào má Remy:
- Tôi vui mừng thấy cô về nhà. Tôi lo cho cô quá! – Chị ta nói, hơi cộc lốc một chút, rồi vội vàng rút bàn tay lại – Tôi không hiểu sao tôi đứng đây nói chuyện với cô trong khi còn việc phải làm. Cô hãy lên nói với ba má, trong 20 phút nữa điểm tâm sẽ dọn lên. Và hỏi ông Marc có ở lại dùng điểm tâm không?
- Vâng – Remy đáp, nhưng Nattie không chờ nàng trả lời mà vội vàng đi xuống bếp.
Remy mỉm cười đi về phía chú nàng đã đi hồi nãy. Không còn có mặt Nattie làm nàng đãng trí, ý nghĩ của nàng tức thì quay trở lại với những gì xảy ra ban sáng, với Cole và chú nàng.
Tới gần phòng lộ thiên, nàng nghe có tiếng nói, và tự động đi chậm lại.
- Tôi không bao giờ nghĩ rằng Buchanan có thể cấm không cho chú dự buổi họp – Tiếng cha nàng vẳng ra, có vẻ bực tức và lo lắng – Chuyện này càng làm cho mọi việc rắc rối thêm.
- Anh nói thế là còn ít – Chú nàng đáp – Bây giờ chúng ta sẽ phải tìm một cách khác để truy tầm cái gọi là bằng chứng mà công ty bảo hiểm quả quyết rằng họ đã có. Chưa biết được cái đó là cái gì, chúng ta chưa thể chắc chắn đường lối hành động kế tiếp tốt nhất là gì.
- Sao chú không sắp xếp để gặp riêng cái đại diện của công ty bảo hiểm ở một chỗ khác văn phòng – Gabe đề nghị – Lấy lý do là cần họp với họ để biểu lộ sự quan ngại của gia đình đối với những điều họ nêu ra.
- Trong giai đoạn này, được, dù lý do ấy có đứng vững như thế nào, tôi cũng thấy rằng không khôn ngoan – Marc Jardin nói – Nó có thể gợi ý cho họ nghĩ rằng các lời buộc tội của họ phần nào có cơ sở đúng đắn. Làm như vậy, chúng ta có thể mất một lợi thế để thương lượng.
- Thật tình mà nói – Cha nàng xen vào – Tôi lo ngại hơn là công ty bảo hiểm có thể thực hiện lời hăm dọa của họ công khai hóa toàn bộ câu chuyện về chiếc Dragon. Một vụ tai tiếng như vậy sẽ vô cùng có hại.
- Nếu là con, thì việc đó không đáng lo, ba ạ. Có thể đánh cá rằng công ty bảo hiểm cũng muốn tránh làm việc đó như chúng ta. Nhưng chú Marc nói đúng. Trước khi ta có hành động gì, ta phải tìm cho ra họ nắm được những bằng chứng gì, nếu có.
- Và Buchanan biết chuyện ấy – Cha nàng lẩm bẩm – Gã ấy quỷ quyệt quá chừng!
Remy lợi dụng giây phút im lặng sau đó để tiến lên mấy bước còn lại, tới gần cửa kính vào phòng lộ thiên.
- Chào tất cả!
Nàng cảm thấy sự căng thẳng trong phòng, dù mọi người đều đang mỉm cười, cha nàng ngồi ở cái ghế mây bọc nệm, mẹ nàng đang quấy kem vào tách cà phê cạnh cái xe đẩy mang cà phê, Gabe đứng ở cửa sổ có nhiều tấm kính, tựa vai vào khung cửa gỗ sơn trắng, còn Marc Jardin thì đứng ngay giữa phòng, như thể đang đi đi lại lại trong phòng và đột ngột dừng lại
– Tôi có phận sự thông báo rằng, các thức ăn điểm tâm sẽ được dọn lên bàn trong 20 phút nữa – Nàng nói và hỏi – Chú có dùng bữa với chúng tôi không, chú Marc?
Trong khoảnh khắc, Remy kinh ngạc vì ý thức rõ nàng không nhận ra ai trong gia đình cả, tuy rằng nàng biết từng người một, họ là ai. Họ là gia đình của nàng, nhưng thế mà họ là những kẻ xa lạ. Nàng không nhớ chút gì về họ. Ngay cả Gabe và mẹ nàng. Những ký ức từ thời thơ ấu nàng đã nhớ lại về người anh của nàng không cho nàng biết gì thêm về người anh bây giờ, cũng như hình ảnh thoáng qua về mẹ nàng đứng trong vườn hoa hồng, không cho nàng biết bà là người như thế nào. Bất giác Remy ngẩng cằm lên cao hơn một chút nữa, và cố xua đuổi những ý nghĩ làm nàng bất an ấy.
- Tôi e rằng không dùng bữa điểm tâm được sáng nay, dù rất muốn nếm các bánh của Nattie làm rất ngon, vì cần trở lại văn phòng – Marc Jardin đặt lại tách đĩa lên cái xe đẩy.
Remy vội nói ngay để chận ông ta ra về:
- Trước khi tôi vào đây, tôi nghe chú nói… gì đó về những điều đó công ty bảo hiểm nêu ra chống lại công ty tàu thủy của chúng ta? Có chuyện gì vậy? – Nàng nhìn họ và bắt gặp họ hấp tấp liếc trộm nhau – Phải chăng đó là một chuyện lẽ ra tôi không nên biết?
- Cháu biết cũng không sao, Remy ạ – Chú nàng đáp, và dịu dàng mỉm cười có ý trách móc – Họ chỉ tranh chấp về một đòi hỏi của chúng ta đưa ra. Cháu cũng dư biết các công ty bảo hiểm ra sao. Ta đóng phí bảo hiểm đó họ đặt ra quá cao, vậy mà khi ta đòi một khoản bồi thường quan trọng liên quan tới một hợp đồng bảo hiểm, y như rằng họ viện ra lý này lý nọ để tránh khỏi phải bồi thường. Đó là điều họ đang làm trong vụ này.
Remy cau mày:
- Nhưng chú nói nghe có vẻ nghiêm trọng quá.
- À, Remy – Chú nàng nói ra và cười lên, rồi quàng tay ôm vai nàng một cách âu yếm – Công việc làm ăn thì luôn luôn rất nghiêm trọng – Ông nói, rồi nhìn cha nàng – Frazier, anh có nhớ hồi chúng ta quyết định đã đến lúc thay đổi biểu tượng của công ty Crescent không? Chúng ta đã đắn đo lo âu về việc đó suốt hơn một tháng.
- Đúng! – Sibylle Jardin xen vào trong khi bưng tách cà phê và băng qua phòng đưa cho Gabe – Họ cãi nhau hết ngày này qua ngày khác, cứ như là quyết định của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của thế giới.
- Cháu thấy chưa? – Chú nàng hỏi, rồi vỗ lên vai nàng một cái, và không buông vai nàng ra – Tôi phải đi! – Ông bước đi, và dừng lại ở ngưởng cửa, quay lui nói – Hễ biết được điều gì, tôi sẽ gọi điện thoại, cho anh, Frazier.
- Phải.
Remy nhìn ông ra về, băn khoăn tự hỏi phải chăng tình hình đối với công ty bảo hiểm ngay thẳng như vậy theo lời ông ta nói, hay chính việc này là điều rắc rối mà nàng đã cảm thấy. Nhưng làm sao như vậy được? Trước kia nàng không dự phần vào việc điều hành công ty hàng hải. Do đó, có ai cần đến nàng, mà nàng chưa cảm thấy, lại là một nhu cầu sinh tử, thậm chí ngay cả trong trường hợp công ty hàng hải thật sự lâm vào một cuộc khủng hoảng. Ắt phải là một việc khác.
- Con muốn uống cà phê không Remy?
Remy quay lại, vì khung cửa không còn ai đó nữa.
- Con xin mẹ – Nàng đáp, và quan sát thấy mẹ nàng khẽ ấn tay lên vai chồng khi đi ngang qua ghế ông ngồi, và ông lơ đễnh đưa bàn tay lên vỗ vỗ vào bàn tay bà. Một cử chỉ trao đổi giữa họ nói lên sự thương yêu hai chiều, một mối ràng buộc có vẻ càng chặt chẽ thêm sau 30 năm hôn nhân.
Điều đó khiến nàng phân vân tự hỏi, đã quan sat những cử chỉ ấy lần nào chưa trong quá khứ, hay là đã coi là đương nhiên.
Nàng theo dõi mẹ nàng rót cà phê từ cái bình bạc vào cái tách sứ, để ý hai bàn tay thanh tú của bà, các móng tay để dài vừa phải, và tô màu trong. Chỉ có các tĩnh mạch nổi lên ở lưng hai bàn tay nói lên tuổi tác của bà, ngoài ra, ngoại hình của bà trông còn rất trẻ.
Ngước nhìn lên, Remy thấy mặt bà cũng vậy, cảm tưởng đầu tiên là bà còn trẻ, và chỉ khi nhìn kỹ hơn mới thấy làn da mỏng đi ở quanh hai mắt và miệng. Nhưng mà cái đó không hề làm giảm đi vẻ lịch sự kín đáo, và vẻ duyên dáng cố ý ở bà, hay sự cương nghị trong tâm hồn bà mà nàng cảm thấy bà có dư, vừa cứng rắn nhưng cũng vừa dịu dàng, nồng hậu. Nàng tự hỏi quan hệ giữa mình và mẹ như thế nào trước đây. Nàng có lấy mẹ làm mẫu không? Hai người có gần gũi nhau không? Remy phần nào không tưởng tượng ra được mình thổ lộ những bí mật sâu kín nhất của mình với mẹ, nhưng… nàng cũng không thể tưởng tượng đã gây gổ với mẹ hồi nào.
Còn đối với cha, quan hệ giữa nàng và ông lại là một bí ẩn càng lớn hơn, vì nàng tuyệt đối không nhớ gì về ông hết. Nàng lại nhìn về phía ông, với những nét điềm đạm, tư lự, và cặp mắt màu sẫm đầy vẻ lo ngại… hay là lo sợ?
- Cà phê của con, Remy
Nàng cầm lấy cái tách và dĩa bà Sibylle trao cho. Khi nhìn lại, nàng thấy cha nàng cúi đầu xuống, khiến nàng càng ít chắc chắn hơn trước, phải chăng nàng đã thấy trong mắt ông sự lo sợ, hay chỉ là sự lo ngại sâu sắc. Chợt Gabe nói:
- Chúng ta vào phòng ăn được chưa? Nếu ở đây, tôi e rằng không tránh khỏi sự cám dỗ muốn nằm dài ra trên cái ghế nệm kia mà ngủ bù, vì đã mất ngủ khi bay đi bay lại một nửa vòng trái đất.
- Anh mệt hả? – Remy mỉm cười với vẻ thiện cảm, thấy mắt anh ta bị thâm quầng và sưng húp lên.
- Mệt? – anh ta nhướng một chân mày lên, hỏi vặn lại – Tôi thấy cần có mấy cái tăm để chống hai mi mắt lên mới mở ra được.
- Đừng làm vậy – Nàng giả bộ khuyên can nghiêm túc – Đau thật đấy!
- Có đau một chút cũng chẳng sao, mệt quá đã tê hết rồi – Anh ta nói giỡn lại, và bước tới quàng một tay lên vai nàng, tựa hết sức nặng vào người nàng – Em có chịu để anh nhờ em cõng anh vào phòng ăn được không?
- Anh nặng như vậy, em chưa ra tới cửa là đã ngã sụm rồi!
- Anh cũng đã nghĩ rằng, em sẽ nói vậy.
Anh ta đứng thẳng lên, nhưng vẫn giữ tay trên vai nàng, kéo nàng đi qua phòng ăn, theo sau là cha và mẹ họ. Gabe nói:
- Em nói cho anh hay, em tìm đâu ra nghị lực để đi dạo sáng nay sớm quá vậy?
- Dễ ợt. Em đã đi một nửa vòng trái đất, vì vậy, chỉ còn một việc để làm là bay trở lại.
Hai người trao đối chẳng đâu vào đâu cả, thế nhưng Remy ý thức rõ họ đã tự động trao đổi theo kiểu đó với nhau một cách tự nhiên, thoải mái vô cùng. Và sự thoải mái đó nói lên hai anh em vẫn gần gũi nhau ngay cả sau thời kỳ thơ ấu.
- Anh ước chi tìm được câu nói như thế. Cái đó cho thấy anh mệt đến thế nào – Anh ta nói, giả bộ nhăn mặt thất vọng – Vậy thì… em đi đến chỗ nào đích xác trong khi đi dạo?
- Em lên xe điện và đi tới khu Canada, rồi đi dạo qua khu phố Quatier. Anh sẽ ngạc nhiên nếu biết vào giờ đó khu ấy bình an và yên tĩnh đến thế nào – Nàng ngập ngừng một chút rồi nói tiếp – Sau đó, em ngừng lại ở quán cà phê thế giới để uống cà phê, rồi đi thơ thẩn dọc bờ sông một lúc, và bỗng nhiên thấy mình ở bờ kè của công ty.
- Bờ kè! – Giọng của cha nàng vừa có vẻ sửng sốt vừa có ý la rầy – Ở đó không phải là chỗ để một phụ nữ trẻ đi bách bộ một mình.
- Cole cũng có phản ứng như vậy khi gặp con ở đó – Remy thú nhận trong khi đi vào phòng ăn trang trí màu xanh dịu mát.
Cái bàn dài đã bày sẵn đồ dùng cho 4 người, màu gỗ tốt bóng láng dưới ánh sáng của ngọn đền bằng đồng mạ vàng ngay bên trên, giống hệt ngọn đèn treo ở phòng khách chính. Một bình thủy tinh cao đầy nước cam mới vắt và 4 cái ly đặt trên cái bàn nhỏ dọn thức ăn theo kiểu đế chế Pháp, mặt đá cẩm thạch, ở đấy có gắn tấm gương soi. Remy thoát ra khỏi cánh tay của Gabe, đến bên cái bàn ấy. Nàng nói:
- Thật ra, Cole đã dùng lời lẽ hơi thô lỗ một chút. Anh ta quát lên “cô làm cái khỉ gió gì ở đây?”.
- Ba lấy làm lạ, sao con lại gặp Cole sáng nay? – Cha nàng ngồi xuống ở đầu bàn nói.
- Thì bằng cách đó - Nàng đặt tách và dĩa của nàng xuống mặt bàn cẩm thạch, rồi bưng bình nước cam lên rót vào hai ly, một cho nàng và một cho người anh đang chờ – Sau đó, anh ta bắt con phải lên xe của anh ta về văn phòng, rồi lấy xe taxi từ đấy về nhà – Nàng đưa ly nước cam cho Gabe và cầm ly của mình lên, bước qua ngồi vào chỗ – Nhưng khi…
- Không, đừng ngồi chỗ đó, Remy – Mẹ nàng nói khi nàng kéo ghế ra để ngồi - Đó là chỗ của Gabe.
Nàng buông lưng ghế có chạm trổ ra, như nó đã làm nàng bỏng tay. Nàng sững sờ vì thấy mình bỗng nhiên trở thành lúng túng và không được thoải mái lắm. Một cảnh từ thời kỳ khác hiện ra trong trí nàng, một cảnh lúc nàng lên 7 hay lên 8 tuổi, mẹ nàng cũng đã nói rằng nàng không được ngồi vào chỗ ấy “đó là chỗ của Gabe”. Lúc đó nàng đã dậm chân rất trẻ con và cãi lại “nhưng anh ấy luôn luôn được ngồi cạnh ba”.
Remy nhìn sững vào chiếc ghế suýt nữa nàng đã ngồi, chiếc ghế cạnh ghế của cha nàng, và lẩm bẩm.
- Con không nhớ.
- Em có thể ngồi đó, Remy – Gabe ra hiệu cho nàng trở lại ghế – Không có sao.
- Không, em không nghĩ vậy – Nàng biết bây giờ mà ngồi đấy nàng sẽ không thoải mái. Nàng kéo một cái ghế khác, ở cuối bàn – Thà em ngồi ở đây.
- Tùy em – Anh ta nhún vai và ngồi xuống chỗ thường lệ.
Cha nàng tiếp tục câu chuyện như thể không có chuyện gì xảy ra:
- Ở khu bán hàng đó mà không tìm được một chiếc taxi thì lạ quá! Thường thường buổi sáng có ba, bốn chiếc ở quanh đấy.
- Sáng nay cũng có – Remy nói – Nhưng con muốn xem các văn phòng của công ty.
- Tại sao? – ông sửng sốt nhìn nàng, bàn tay đang đưa ra định bưng ly nước cam bà vợ để trước mặt, thì dừng lại nửa chừng.
Thay vì giải thích các cảm nghĩ mơ hồ đã thúc đẩy nàng đến thăm trụ sở của công ty hàng hải thuộc gia đình nàng, Remy nói:
- Phần lớn là vì tò mò. Con muốn thử xem con còn nhớ gì không.
- Vậy em có nhớ lại không – Gabe hỏi.
- Trên thực tế, em nhớ bức chân dung của ông nội. Luôn luôn treo ở trên bức vách đó – Nàng đáp, vừa đúng lúc cửa thông qua giữa phòng ăn với bếp mở tung ra, và Nattie bước vào, tay bưng một cái khay. Ông Frazier Jardin lại đặt ly nước cam vắt xuong bàn và ngồi dựa ngửa ra, mặt tươi lên.
- A, cuối cùng đã có điểm tâm dọn lên. Thơm quá, Nattie.
- Dĩ nhiên – Chị ta đáp và đặt một dĩa trước mặt ông, đầy chả trứng và sốt Hà Lan, với dâu tây và trái kiwi sặc sỡ – Món gì tôi nấu cũng thơm và ăn còn ngon hơn. Ông biết chứ, ông Frazier.
- Khi nào tôi quên, thì dòm vào eo là nhớ liền – Ông nói đùa.
Nattie cười khúc khích và tiếp tục dọn cho bà chủ. Remy vừa trải tấm khăn ăn lên đùi vừa nói:
- Nhân thể, cho tôi hỏi, có ai cảm phiền cho tôi biết Brodie Donovan là ai không? Cole quả quyết rằng ông ta sáng lập công ty Crescent. Có đúng vậy không?
Cha nàng liền trân cứng người lại, mặt lộ vẻ giận dỗi:
- Nói theo nghĩa hẹp, thì anh ta nói đúng – Ông cắt một miếng chả – Ông ta là một kẻ đầu cơ trong thời chiến tranh, đã làm giàu bằng cách vi phạm lệnh phong tỏa trong cuộc chiến giữa các tiểu bang. Ông ta nhập lậu satin lụa, rượu whisky, rượu vang, và vô số các món hàng xa xỉ khác, bán lấy đôla theo giá cao, trong khi miền Nam kêu gào được tiếp tế các dụng cụ y tế và thuốc men, thức ăn, và chăn mền để khỏi bị đói rét. Tên của công ty có thể là của ông ta trong thời kỳ đầu, nhưng một người dòng họ Jardin mới là người biến công ty Crescent thành một công ty hàng hải được mọi người kính nể – Ông kết luận một cách cương quyết và coi thường. Quay qua Nattie ông Frazier trừng mắt hỏi – Có chuyện gì không ổn hả, Nattie?
- Tôi ấy à, không có gì – Chị ta đặt dĩa thức ăn của Remy trước mặt nàng rồi điềm nhiên nhìn lại ông – Ông có chuyện gì không ổn chăng?
Ông nhìn trừng trừng chị ta một lát, rồi Gabe lên tiếng:
- Có phải Balzac đã nói rằng, tất cả các tài sản kếch sù đều bắt đầu dựng nên nhờ một tội phạm?
Ông Frazier Jardin nhìn sang Gabe một cách gay gắt, còn Nattie thì bưng cái khay không trở xuống nhà bếp. Ông nói:
- Không hài hước lắm, Gabe.
- Xin lỗi! – Anh ta liền cúi gầm mặt xuống có vẻ nhận lỗi, nhưng lén liếc nhìn Remy và mỉm cười.
- Tất cả những chuyện đó đã thuộc về dĩ vãng, và tốt hơn là để lại ở đấy, bất kể Buchanan muốn nghĩ sao thì nghĩ – Ông Frazier nói.
- Vâng, nhưng… – Remy bắt đầu nói, nàng muốn hỏi ông tại sao Cole đã bảo tên họ của nàng lẽ ra phải là Donavan thay vì là Jardin.
- Hiện tại là cái chúng ta cần bàn đến – Cha nàng cắt ngang – Đặc biệt là bệnh mất trí nhớ của con, Remy, và chúng ta phải làm gì về việc đó.
- Phải làm gì? – nàng bối rối lặp lại – Ba muốn nói gì?
- Khi được biết tình trạng của con, ba đã gọi bác sĩ John…
- Bác sĩ John là ai? – Tên ấy không có nghĩa gì với nàng.
- Bác sĩ John Lucius Sebastian là bác sĩ của gia đình ta từ nhiều năm nay. Ông săn sóc cho ông nội con khi gần đất xa trời trong mấy năm chót và đỡ cho con ra đời – Ông kiên nhẫn giải thích – Dù con không nhớ được, ba chắc con cũng thích nghe rằng ông ta đã chú ý đặc biệt đến con. Ông ấy mến con từ nhiều năm nay. Lẽ tự nhiên ông ấy không yên tâm khi nghe nói con bị mất trí nhớ. Mẹ con và ba đã bàn bạc với ông rất lâu về những việc gì phải làm. Ông ấy giới thiệu một dưỡng đường ở ngoại ô Houston. Nhân viên ở đó có nhiều kinh nghiệm chữa trị những trường hợp như của con.
- Bác sĩ John đã bảo chỗ ấy đẹp lắm – bà Sibylle Jardin xen vào – Đó là một chỗ có khung cảnh khuất lấp, bình an và yên tĩnh. Mỗi… “khách”… có một nhà lều riêng cho mình trong khu ấy, đầy đủ người phục vụ nữ và nếu muốn, có thể có cả đầu bếp riêng. Thật ra, gần như là một chỗ nghỉ mát.
- Ba mẹ muốn con đến đó à? – Remy nhìn hết cha đến mẹ, không muốn tin những gì nàng vừa nghe nói.
- Bác sĩ John bảo đảm với ba mẹ rằng, các cơ sở và nhân viên của dưỡng đường ấy thuộc hạng nhất trong cả nước. Ông biết chắc chắn ba mẹ không muốn cho con ở một nơi nào không tốt bằng – Cha nàng điềm nhiên ăn thêm một miếng trứng – Ba nghĩ có thể đưa con đến đấy ngày mai bằng máy bay. Ở đó có sân bay riêng…
- Không! – Nàng giận dữ cự tuyệt ngay, chính nàng cũng thừa nhận thấy nàng to tiếng một cách không cần thiết.
- Không? Con nói vậy là nghĩa gì? – Ông tỏ vẻ sửng sốt về sự phản đối của nàng.
- Con muốn nói, con không đi đâu – Nàng đáp lại bằng giọng bình tĩnh hơn nhưng không kém cương quyết.
- Nhưng tại sao? Con có thể được săn sóc và chữa trị đúng mức ở đấy. Không vì mục đích nào khác là để cho con lấy lại trí nhớ. Ắt hẳn con cũng muốn vậy như ba mẹ.
- Dĩ nhiên là con muốn vậy.
- Vậy thì họ có thể giúp con đạt được cái đó, Remy.
- Họ không làm được đâu – nàng cãi – Chứng mất trí nhớ của con không thể chữa trị bằng thuốc hoặc chữa trị tâm lý hay thôi miên. Ba cứ tin con, con đã hỏi về mọi khả năng khi con nằm ở bệnh viện tại Nice, trong lúc cố tìm trong tuyệt vọng xem con là ai. Rủi thay chứng mất trí nhớ của con là do chấn thương sọ não, một chứng bệnh đòi hỏi thời gian để lành. Ông bác sĩ chuyên khoa đã quả quyết như vậy.
- Ba không sẵn sàng chấp nhận ý kiến của ông ta – Ông Frazier nói – Theo ý ba, ta nên tham khảo ý kiến một chuyên gia thứ hai. Dù sao, người bác sĩ chuyên khoa con nói đó là ai? Ông ấy có những chứng minh gì? Làm sao biết chắc ông ta theo kịp những tiến bộ mới nhất của y học?
- Con đã hỏi kỹ – Nàng xắn một miếng thịt mỡ khô Canada ngâm trong nước sốt Hà Lan đông đặc, lòng cảm thấy tức giận và phân vân một cách khó giải thích. Nhưng về chuyện gì? Tại sao? Ba mẹ nàng chẳng phải đã hành động vì quan tâm đến nàng hay sao? Hay là họ cố kiểm soát cuộc đời nàng? Trong quá khứ họ đã làm vậy, hay không? Phải chăng vì vậy mà tiềm thức nàng xúi giục nàng phản ứng lại?
- Nếu chứng mất trí nhớ của con thuộc loại cần có thời gian để lành, thì dưỡng đường ấy là một khung cảnh lý tưởng – Mẹ nàng nói – Ở đấy con có thể nghỉ ngơi, thư giãn và có cơ hội để phục hồi sức khỏe, không bị căng thẳng vì chuyện gì cả.
- Ở đây con cũng có thể được như vậy, mẹ ạ – Nàng cương quyết nói và đặt đĩa xuống- Tại sao ba mẹ nôn nóng muốn đẩy con đi nơi khác ngay vậy? Con về nhà chưa được 24 giờ?
- Ba mẹ nôn nóng muốn cho con lấy lại trí nhớ, Remy ạ – Mẹ nàng nói, vẻ mặt đau đớn – Không phải là ba mẹ không muốn cho con ở đây. Nhưng ba mẹ cố gắng không nghĩ đến mình, chỉ nghĩ đến việc gì tốt nhất cho con.
- Chỗ tốt nhất để con chữa bệnh là ở đây! – Một lần nữa, nàng có cảm giác mạnh mẽ vô cùng là nàng “phải” ở đây, điều đó có giá trị sinh tử. Trong khoảnh khắc nàng tự hỏi, nếu không vì cảm giác ấy, nàng đã có thể nghe theo lời cha mẹ để đi vào dưỡng đường chăng – Con đã bắt đầu nhớ lại nhiều chuyện. Gabe, ba mẹ, bức chân dung của ông nội. Bác sĩ Gervais đã bảo con rằng những cảnh vật quen thuộc xunh quanh có thể khơi lại cho con những ký ức cũ. Có chỗ nào tốt bằng nơi đây, ở trong căn nhà mà con đã sống coi như suốt đời?
- Con thấy phải đồng ý với Remy – Gabe lên tiếng lần đầu – Nếu cô ấy đã bắt đầu nhớ lại, thì nên ở lại đây với chúng ta. Hy vọng chúng ta có thể giúp cô ấy nhớ thêm.
- Có lẽ – ông Frazier nhượng bộ, nhưng không tỏ ra sốt sắng mấy với ý kiến đó – Riêng ý ba, ba không tin rằng dưỡng đường ấy không phải là chỗ tốt nhất cho nó.
- Con… - Remy định nói nữa nhưng Gabe đã đặt bàn tay lên cánh tay nàng.
- Để anh bênh vực cho em, anh là luật sư kia mà, nhớ không? – Anh ta nháy mắt một cái với nàng, và bóp cánh tay nàng để cho nàng an tâm.
Biết ơn anh đã ủng hộ mình, Remy mỉm cười đáp lại và lặng thinh trong khi anh ta quay sang cha nàng:
– Sáng nay cuộc họp hội đồng của ba lúc mấy giờ?
- 10 giờ. Con hỏi làm chi vậy?
- Con có ý nghĩ, ba có thể quá giang xuống phố với con. Chúng ta sẽ có dịp bàn về tình trạng của Remy.
- Chúng ta đã nói xong rồi.
- Thì đã sao? Chúng ta sẽ bàn nữa. Nhưng đừng nên bàn cãi về chuyện ấy bây giờ làm hỏng bữa điểm tâm.
- Được rồi – ông Frazier Jardin miễn cưỡng đồng ý.
Suốt bữa ăn còn lại, không ai nhắc đến dưỡng đường nữa, nhưng vấn đề ấy còn treo lơ lửng trên đầu họ như một lưỡi gươm Damoclès. Dù cho cha me nàng có thiện ý đến thế nào khi muốn nàng đến đấy, Remy biết nàng không thể đi được, và không muốn đi. Nàng không thể nào rời khỏi New Orleans, trước khi nhớ lại được, tại sao việc nàng ở lại đây quan trọng đến như vậy.
Ngay sau khi Nattie thu dọn các dĩa điểm tâm xong, Gabe và Frazier Jardin cùng nhau rời căn phòng. Mấy phút sau, Remy nghe tiếng xe hơi chạy đi. Nàng nhấp một ngụm cà phê, ý thức sự im lặng đang bao trùm mẹ nàng và nàng, mà nàng, lạ lùng thay, không muốn phá tan.
- Remy – bà Sibylle ngập ngừng nói – Mẹ không muốn con hiểu lầm về chuyện dưỡng đường.
- Con không đi đâu, mẹ ạ, đó là điều dứt khoát.
- Nhưng chúng ta chỉ muốn con đi đến đấy, vì thật tình chúng ta tin rằng điều đó tốt cho con.
Nàng thở dài, hối tiếc đã lỡ lời. Nàng nói:
- Cảm ơn mẹ đã có lòng nghĩ đến. Nhưng…
- Trời đất, Remy – Mẹ nàng cười ầm lên – Làm gì mà con phải cám ơn ba mẹ, chúng ta là ba mẹ của con. Ba mẹ yêu con.
- Con biết – Nàng ước chi có thể nhớ được đã cảm thấy một sự gần gũi với mẹ nàng như thế. Nàng ước chi có thể nhớ lại được căn nhà này, căn phòng này.
Nàng bất giác nhìn quanh, tìm xem có gì quen thuộc trong các đồ đạc bày biện ở đấy. Nàng chợt thấy cái chậu Sèvres có bốn chân để trên bàn dọn thức ăn viền vàng chung quanh và có hình vườn Versailles trên nền sứ xanh dương. Tự nhiên nàng biết món đồ ấy có từ thế kỷ IXX, thời đại hoàng kim của các đồ sứ có những họa tiết địa hình. Và nàng cũng biết cái chậu có chân ấy là một di sản mà gia đình được thừa hưởng từ lâu.
- Con đã bao giờ xác định cái chậu này là một món đồ riêng lẻ hay là một cái trong bộ đồ sứ, hở mẹ? - Nàng có cảm tưởng đó là một vấn đề có khả năng hấp dẫn nàng điều tra.
- Con luôn luôn tin rằng nó là một cái trong một bộ đồ sứ, nhưng mẹ không nhớ con đã bao giờ tìm ra một món khác tương đối giống nó về kiểu mẫu và phong cách để chứng minh điều đó – Mẹ nàng đáp – Tuy nhiên, cách đây hai hay ba năm, con đã tìm được vật liệu nguyên thủy để khắc họa hình ấy trên cái chậu. Thật sự là con đã tìm được một bản sao của bức tranh nguyên thủy. Nó ở đâu đó trong nhà, mẹ chắc vậy – Bà đặt tách xuống cái đĩa sứ và nghiêng đầu nhìn nàng với vẻ tò mò – Tại sao con hỏi? Con đã nhớ lại điều gì chăng?
Nàng lắc đầu:
- Con chỉ nhớ là nó đã ở trong gia đình ta nhiều năm rồi.
Bà Sibylle định nói lại điều gì đó nhưng thôi:
- Suýt nữa mẹ quên. Paula gọi điện thoại cho con sáng nay. Cô ta nghe tin con về, muốn mời con đến dự một bữa ăn tối nho nhỏ hôm nay. Tin tức lan đi quá nhanh trong thành phố này, phải không?
- Paula là ai? – Remy cố hết sức vẫn không thấy tên ấy quen thuộc.
- Paula Miches. Cô ta mang họ Michels trước khi lấy Daryl Gaylord. Nó với con là bạn thân nhất từ hồi còn để chỏm. Thật ra các con là một bộ ba: con với Paula và Jenny d’Anton.
Nàng lắc đầu chịu thua:
- Con không nhớ được ai cả.
- Mẹ chắc chắn con sẽ nhớ lại… với thời gian.
- Dạ – Remy nói, và tự hỏi sẽ mất bao lâu – Con có phải gọi lại Paula không?
- Không cần thiết. Khi nó nói cho mẹ biết về buổi chiêu đãi, mẹ đã đón trước và xin lỗi thay cho con. Con không phiền lòng chứ?
- Không, vậy cũng hay.
- Mẹ nghĩ, có lẽ con muốn ở nhà tối nay với ba mẹ.
Có gì bên ngoài cửa sổ làm bà chú ý. Bà nhìn ra, và nói:
- Chiếc xe thùng của người bán hoa vừa vào. Mẹ hy vọng hoa hôm nay tốt hơn tuần rồi. Các hoa cúc rũ xuống thảm hại, và các hoa huệ bị úa các cánh chung quanh. Rủi thay mẹ đã ra ngoài khi họ đưa hoa tới, nếu không mẹ đã từ chối không nhận. Đến gần 6 giờ mẹ mới về, và lúc đó thì đã quá chậm, không xoay sở được gì nữa. Ông bà Girard và ông bà d’Anton đã hẹn đến ăn tối trong hai giờ nữa. Lúc 7 giờ, mẹ còn phải cắt các cành hoa úa đi và quấn đầy kẽm quanh các cánh hoa cúc rũ xuống, cố gắng thu nhặt lại để được vài bó hoa tươi trang hoàng trong nhà. Tệ hơn nữa, cả hoa hồng không tươi được quá ba ngày. Mẹ đã bảo Robert, nếu hoa tuần này không được tốt, mẹ sẽ trả lại hết và từ nay mua hoa chỗ khác – Bà lấy cái khăn ăn lên và đặt cạnh tách dĩa – Mẹ cáo lỗi để đi kiểm tra hoa hôm nay.
- Dạ.
Remy theo dõi bà đi ra khỏi phòng ăn. Tách cà phê của nàng đã cạn, nàng không muốn ngồi nán lại một mình ở bàn ăn. Nàng ra ngoài phòng ăn và thơ thẩn băng qua đại sảnh giữa nhà, và phòng khách chính.
Dù kiểu kiến trúc vĩ đại và có nhiều nét cổ kính ở trần nhà cao vút, căn phòng có vẻ đầy đủ tiện nghi và thường có người ở đấy. Cái bàn nhỏ kiểu Louis Napoleon để đầy các báo ảnh, và một cái áo dài bằng len mỏng màu trắng vắt ngang lưng chiếc ghế nệm dài kiểu Victoria bọc gấm màu nho khô, và hai bên có hai cái ghế ăn màu. Bên cạnh cái ghế dựa bọc vải nhung màu mỡ gà có một băng màu tía chạy quanh, là cái khung thêu của mẹ nàng, và cạnh đó là cái túi đựng dụng cụ thêu đan của bà.
Một cái bàn giấy kê ở góc phòng cạnh cửa sổ. Remy thơ thẩn bước tới gần và đưa tay xoa lên mặt gỗ, băn khoăn tự hỏi trước đây nàng có ngồi ở đây làm bài hay không, hay thay vì thế chỉ nhìn qua cửa sổ. Nàng sờ lên các hình hoa phong lan bạc màu, rồi mỉm cười khi nhìn thấy các tấm màn dệt vải hoa phong lan rũ xuống trên sàn nhà. Một dấu hiệu điển hình nhung tế nhị của sự giàu có trong thời đồn điền cũ, và là một truyền thống một lần nữa trở thành thời thượng. Quay lại, nàng nhìn quanh căn phòng một lần nữa, để ý cái bệ lò sưởi bằng cẩm thạch đen và tấm thảm Đông phương trên sàn nhà, với màu sắc đậm đà xứng hợp với các màu trang trí trong phòng.
Nàng đã từng ở trong phòng này bao nhiêu giờ? Chắc là hàng trăm. Thế nhưng không có gì ở đó khơi dậy những ký ức của nàng.
Nén một tiếng thở dài vì vẫn trống rỗng. Remy đi qua tiền sảnh, ở đó nổi bật là cái cầu thang lớn uốn cong xinh đẹp bằng gỗ gụ. Mắt nàng ngước lên nhìn hình hoa văn ở đầu tường chạy theo đường viền của trần nhà, và cái phù hiệu cầu kỳ có cắm lông móc ngọn đèn treo bằng đồng mạ vàng. Các vách dán giấy vẽ phong cảnh màu xanh, lặp lại một loại giấy có tính cách lịch sự nổi tiếng do Dufour chế tạo. Một tấm thảm làm ở Brussels trải dài trên sàn nhà bằng gỗ bách của tiền sảnh.
Có gì xao động ở bên lề trí óc của nàng, và nàng nhắm mắt lại. Hình ảnh hiện ra cũng là hình ảnh hiện có trước mắt nàng, ngoại trừ có thêm các cành lá mộc lan kết ở chung quanh lan can chạm trổ của cầu thang. Nàng nghe tiếng cười khúc khích dội lại và thấy nàng đang chạy ào xuống cầu thang, cố xuống đến chân cầu thang trước Gabe. Ông già Noel đã đến. Ông già Noel bằng tên Pháp của ông.
Từ trong màn sương của ký ức đó hiện ra một ký ức khác, của mùa đại hội hóa trang vài năm nàng bắt đầu vào đời, khi nàng đi lướt xuống cầu thang trong chiếc áo dài để khiêu vũ, một cái áo đẹp kinh hồn bằng vải xatanh trắng và ren, kết các hạt cườm và hạt đá quý lấp lánh. Và một lần khác mặc cái áo dạ vũ khác, kết những hạt trai và lông chim. Remy đã được bầu làm hoa hậu của hai buổi dạ vũ, làm mẹ nàng nở mặt nở mày, vì đó một là danh dự rất hiếm có chưa có ai được hưởng trước đó, và là dấu hiệu dòng họ Jardin có quyền thế và có uy tín lớn.
Remy cau mày cố nhớ lại cảm nghĩ của nàng về tất cả những cái đó. Nàng đã thích thú khi dự các buổi tiệc tùng, chiêu đãi và khiêu vũ quay cuồng ấy, hay nàng chỉ miễn cưỡng tham dự, vì coi chuyện được giới thiệu vào “ xã hội thượng lưu” là lỗi thời trong thế giới phóng khoáng ngày nay? Cả hai đều không đúng. Nàng đã coi việc đó như là một bổn phận, và việc nàng chấp nhận thi hành bổn phận ấy như là một sự thừa nhận gia đình nàng, cũng như việc nàng không được nhận những danh dự ấy có thể việc nàng không được nhận những danh dự ấy có thể phản ánh không tốt vào gia đình nàng.
"Có những điều người ta chờ đợi ở cô vì cô là một người của dòng họ Jardin” – nàng nghe những tiếng ấy trong trí óc nàng, nhưng không nhớ được ai đã nói. Nhưng những tiếng ấy vẫn còn lắng xuống ở đó, vừa âm vang, vừa duy trì một sức ép mà ngay cả bây giờ nàng vẫn còn cảm thấy.
Remy mở mắt ra, và cơn mê vụt tan biến. Tiền sảnh trước mắt nàng trở lại là một tiền sảnh của một toà dinh thự, mang đôi chút dư âm của những kỷ niệm xa xưa. Nàng tần ngần thêm một lát, rồi băng ngang qua tấm thảm Brussels, qua khỏi chân cầu thang, tới cánh cửa hai lá mở vào phòng làm việc của cha nàng. Dừng lại bên trong cửa, Remy đứng yên giữa các vách màu xanh rực rỡ của căn phòng. Hai bên lò sưởi là những kệ sách bằng gỗ, bệ lò sưởi cũng làm bằng đá cẩm thạch đen có sọc xám rất đẹp. Gần cửa sổ là một cái bàn thư viện bằng gỗ mun đen với các đồ dùng bọc da các đồ gỗ, cái ghế nệm dài và các ghế dựa bọc đã làm cho căn phòng có vẻ đàn ông rõ rệt hấp dẫn nàng. Nàng bước tới gần một cái ghế xích đu cũ kỹ, bọc da màu xanh lục đậm và có những đinh bằng đồng. Trên mặt bàn bằng gỗ mun để sát tường, cạnh cái ghế, để một cuốn sách của Virgil đã có bàn tay lật ra nhiều lần. Nàng khẽ vuốt lên mặt bìa da sờn của cuốn sách, rồi ngửi thấy mùi thuốc lá, và mắt bị thu hút vào cái giá để các ống điếu cạnh bên cuốn sách.
Những hình ảnh hiện ra nhanh chóng trong trí nàng như những hình chụp bởi một cái máy ảnh được bấm liên tiếp. Nàng cố tập trung chú ý vào những hình ảnh ấy và níu kéo những ký ức ào ạt trồi lên vẫn còn lẫn lộn với cái nền bên dưới chúng. Đột nhiên nàng thấy lại cha nàng đang ngồi nghỉ trên cái ghế xích đu, với mái tóc quăn ngay ngắn không có một sợi nào bị rối. Gương mặt nghiêm trang của ông đang nở một nụ cười tự hào và tán thành, trong khi ông đưa tay ra cầm một cái gì đó ở tay nàng.
Cái ống điếu. Đúng là cái ống điếu này! Remy lấy lên cái ống điếu bằng gỗ briar cũ, cái đuôi bị cắn gần nát hết một nửa, miệng ống điếu đã cháy sém nhưng cạo sạch hết thuốc và than. Bên cạnh nó, là một cái bàn thấm mực bằng bạc ròng, có các chữ đầu tên của ông khắc trên đó. Cái đó do nàng tặng cho ông vào dịp lễ Giáng Sinh khi nàng 12 tuổi. Remy nhìn xuống cái ghế xích đu và nhớ, và nghe lại tiếng nói của cha nàng, đầy khen ngợi và thương mến. Tình yêu thương chứa chan trong đó làm nàng sung sướng, cũng như đã tác động như vậy trong nhiều năm qua.
Mẹ nàng đi vào phòng, tay bưng một cái bình pha lê cắm hoa tuylip màu ngà, nổi bật lên giữa những cành lá trúc tơ xanh lục. Thấy Remy, bà hơi giật mình:
- Con làm mẹ giật mình. Mẹ tưởng không có ai trong này – Bà tiến tới bàn thư viện và đặt bình hoa vào một góc – Các hoa tulip trắng này đẹp tuyệt, phải không? Robert gởi tới để đền tội đợt hoa bị hỏng hết tuần rồi. Mẹ nghĩ rằng, các hoa này mà cắm ở đây thì tuyệt hảo, và biết rằng ba con sẽ thích lắm.
- Con đã nhớ lại ba rồi, mẹ ạ – Nàng qua bận tâm về sự nhớ lại tuyệt vời nên không sá gì một bó hoa tulip màu trắng hiếm hoi - Con đã nhớ lại ba - Ông không còn là một người xa lạ đối với nàng, một gương mặt vô nghĩa, một cái tên không có ý nghĩa gì riêng – Ba xưa kia hay để cho con nhồi thuốc vào ống điếu, và ba chỉ cho con cách nhồi làm sao để hút cho thông. Ba không chịu để cho ai khác làm, vì chỉ có con mới nhồi đúng cách – Nàng nhìn sững vào cái ống điếu cầm ở tay, ý thức có một cái gì nghẹn ở cuống họng, khi nàng nhận ra mình thương ông biết chừng nào, tôn thờ ông biết chừng nào. Trước đó, nàng không biết chắc chắn cảm nghĩ của nàng xưa kia đối với ông ra sao. Không biết hai cha con có gần gũi nhau không. Ông có quan tâm đến nàng không? Hay Gabe, con trai ông? Ông đã dành hết sự chú ý cho anh ấy? Bây giờ thì nàng biết – Đây là ống điếu ba con thích nhất!
- Phải… thật là khốn khổ. Mẹ đã muốn vứt bỏ cái ống điếu hôi hám ấy từ nhiều năm rồi, nhưng ba con không chịu. Tại sao? Mẹ cũng chả biết. Chẳng phải là vì ông không còn các ống điếu khác – Bà Sibylle khoát tay chỉ vào cái giá mang nhiều ống điếu.
- Mẹ không biết con đã cảm thấy nhẹ nhõm như thế nào – Remy thú nhận – Con đã bực bội vì đã không nhớ được ba.
Bà Sibylle dịu dàng mỉm cười thông cảm:
- Ba con cũng bực bội vì chuyện đó, mẹ chắc con cũng đoán ra như thế. Ba con rất lo lắng về con, Remy ạ. Và ba con cũng cảm thấy có lỗi do việc cả nhà đã rời khỏi Nice vì đoán rằng con đã đi đâu đó vài ngày một mình, như con đã có ý định trước đấy. Cuối cùng, khi biết có chuyện gì không hay đã xảy ra, ông cứ nhắc đi nhắc lại rằng, đáng lẽ chúng ta phải biết, con không đời nào rời du thuyền mà không một lời từ giã gia đình.
- Đáng lẽ ba không nên tự trách mình vì chuyện đó.
- Mẹ biết, nhưng ông vẫn vậy. Và thêm vào đó, còn đang có chuyện rất căng thẳng. Ông để cho mình bị ảnh hưởng. Ông vẫn đang bị như vậy – Bà loay hoay sửa bình hoa – Mẹ chắc vì vậy ba con đã gắt gỏng với con trong bữa điểm tâm sáng nay.
- Mẹ muốn nói khi con cãi lại ba về việc đi vào dưỡng đường phải không? – Remy đoán.
Bà Sibylle ngoái lại nhìn có vẻ sửng sốt, bà vội vã nói để che giấu:
- Phải, chuyện ấy nữa.
Remy biết ngay nàng đã đoán nhầm.
- Mẹ muốn nói về chuyện con hỏi về ông Brodie Donavan, phải không?
Do dự một chút, bà Sibylle nói:
- Phải – Bà quay lại với bình hoa và nói tiếp – Mẹ ước chi con đừng hỏi ba con về ông ta, mặc dầu thật sự đó không phải lỗi tại con. Trách nhiệm là của anh chàng Cole ấy đã khơi lại mọi sự. Anh ta không có quyền gì hạ bức chân dung của ông nội xuống và treo hình ông kia vào chỗ đó. Có thể mẹ không nên nói, nhưng Remy ạ, mẹ hy vọng con không bao giờ nhớ lại chút nào về cảm tình gắn bó của con đối với anh ta trong thời gian qua. Mẹ đã lo ngại cho con có một hành động gì điên rồ… - Bà bỏ lửng câu nói.
- … như làm phép cưới với anh ấy, phải không? – Remy gợi ý, nàng bỗng ý thức rằng bà Sibylle Jardin không thể nào chấp nhận một người có lai lịch như của Cole làm con rể.
Mẹ nàng quay lại:
- Remy, nếu mẹ muốn con làm vợ một người đàn ông tốt và được an toàn, thì điều đó có gì sai?
Remy nghĩ, đáng lẽ bà nên nói thêm ba chữ “chấp nhận được” sau chữ “tốt”.
- Mẹ ạ, con không bao giờ có thể lấy chồng để được “an toàn” – Nàng mỉm cười cãi lại.
- Không nên coi nhẹ sự an toàn. Hôn nhân không phải bao giờ cũng bảo đảm có hạnh phúc, Remy ạ. Đối với một người phụ nữ, tốt hơn hết là nên yêu một cách khôn ngoan.
- Mẹ đã làm vậy hả mẹ? – Nàng cảm thấy bực tức.
- Mẹ hết lòng vì ba con, và ba con hết lòng vì mẹ. Chúng ta đã sống 35 năm tuyệt vời bên nhau – Bà nói ngay để tự bào chữa – Và một phần lớn kết quả ấy là do chúng ta biết chia sẻ với nhau nhiều điều: cùng một lai lịch, cùng chung một số bạn bè…
- Những quan điểm giống nhau về cái gì nên hay không nên chấp nhận – Remy xen vô – Xin lỗi mẹ, con thấy chuyện này khó chịu quá.
Nàng quay gót định đi ra, nhưng vừa bước đi, nàng bị mẹ nắm tay giữ lại:
- Remy, mẹ rất tiếc. Mẹ không định làm chạm tự ai của con khi nói những điều ấy – Bà nói, có vẻ ăn năn thật sự – Có thể mẹ đã nói như một người kỳ thị giai cấp, nhưng mẹ đã thấy chuyện gì xảy ra khi hai người thuộc thành phần khác xa nhau lấy nhau. Mẹ đã thấy sự bối rối, sự ngượng nghịu, sự cứng nhắc trong các buổi họp mặt xã hội thượng lưu và những cố gắng can đảm để bắc cầu giữa hai giai cấp khác nhau. Không bao lâu sau đó, vấn đề một cuộc hôn nhân như vậy có được hạnh phúc hay không trong phòng ngủ chỉ là một phần nhỏ của một cuộc hôn nhân. Nếu bên ngoài phòng ngủ, cuộc hôn nhân không tồn tại được, thì cuối cùng nó sẽ không tồn tại được chút nào cả. Đó là lý do tại sao mẹ vui mừng thấy con không có hành động sai lầm với anh chàng Buchanan ấy. Con hiểu chứ?
Remy từ từ gật đầu, hơi gượng gạo một chút:
- Con hiểu.
- Mẹ hy vọng vậy – Bà áp hai bàn tay lên hai má của Remy – Mẹ biết con đã cắt đứt với anh ta, và mẹ rất tiếc lại nhắc đến tên anh ta.
Nàng đã cắt đứt với anh ta, ai cũng nói vậy, kể cả Cole. Vậy mà sáng nay ở bến tàu, khi nàng nhìn thấy chiếc tàu thủy chở container ấy và nhớ lại lần trước họ cùng nhau đến thăm nó, nàng đã nhớ lại mình đã yêu anh ta nhiều như thế nào, và đã tức giận như thế nào khi anh ta cố tình nói bóng gió rằng lai lịch của anh ta là một rào cản giữa họ. Và nàng cũng đã nhớ lại anh ta đã áp môi lên môi nàng như thế nào. Ngay bây giờ nàng còn cảm giác thấy cái hôn nồng nàn ấy như thế nào.
Sau đó, khi anh ta đã ngẩng lên và nàng nhìn thấy nụ cười rạng rỡ của anh ta, nàng đã cương quyết bảo “em yêu anh, Cole Buchanan. Không có ai và không có gì làm thay đổi được điều đó bao giờ”.
Nhưng một cái gì đã làm “thay đổi” điều đó. Và trí nhớ của nàng trống rỗng về điểm ấy.
- Trông con có vẻ mệt, Remy. Tuy nhiên, cũng là phải thôi, vì con đã dậy sớm và đi lại từ trước khi mặt trời mọc – Bà Sibylle nói với giọng dịu dàng trách móc, và luồn một tay dưới cánh tay nàng, bà đưa nàng đi ra hành lang – Sao con không nằm nghỉ một lát.
- Có lẽ con sẽ nằm nghỉ.
Nhưng Remy không chắc là do mệt nhọc trong khi nàng để cho mẹ đưa mình đi từ phòng đọc sách đến tiền sảnh.
Mẹ nàng dừng lại ở chân cầu thang:
– Con hãy đi nghỉ, mẹ còn phải lo cắm hoa. Nhà sẽ đầy hoa khi con xuống, mẹ đã muốn như vậy khi con trở về nhà.
Remy nhìn theo bà đi về hướng phòng lộ thiên, rồi nàng quay lại cầu thang đi lên hành lang ở lầu hai. Cửa vào phòng ngủ của nàng vẫn để mở. Khi đến gần, Remy nghe có người đi trong phòng, miệng hát một điệu nhạc jazz, thỉnh thoảng chêm vào đôi câu hát. Nàng nhận ra ngay tiếng của Nattie và mỉm cười bước vào phòng vừa lúc chị ta đang hát “tôi có động tác Elgin trong hai hông của tôi với một thời gian bảo đảm là 20 năm…”
- Chỉ 20 năm mà thôi à – Remy nói chọc trong khi Nattie với tay lấy cái gối còn lại ở đầu chiếc giường kiểu cổ – Ít quá vậy?
Nattie giật mình nhìn lên, rồi đứng thẳng dậy, chống nạnh hai tay lên hông:
- Cô lên nằm phải không? – Chị ta hỏi thách thức – Bởi vì, nếu vậy thì tôi dọn giường cho cô để làm gì?
Remy nhìn chiếc giường, tất cả các tấm trải giường đã được lột ra và các trái gối chồng lên nhau trên sàn. Nàng không thể tưởng tượng ra cái gì khác là nàng sẽ chỉ xoay qua trở lại trên giường, dù nàng đã có ý nghĩ lên phòng nằm nghỉ.
- Không, tôi đi tắm và thay áo quần – Nàng đáp và bắt đầu mở nút cái áo vest bằng lên màu đen. Nattie lại cúi xuống nệm, kéo cái gối còn lại – Chị cũng làm cả việc nhà nữa sao, Nattie?
- Tôi? Dọn dẹp tòa nhà lớn này? – Nattie rũ và vỗ vỗ vào cái gối rồi liệng nó vào chồng gối ở trên sàn – Làm sao đủ thì giờ! Không, có những người đến quét dọn nhà mỗi tuần hai lần. Tôi thì làm giường, nấu ăn và coi sóc mọi thứ cho được gọn ghẽ mà thôi!
- Tôi thắc mắc vậy thôi – Cởi áo mặc ngoài sặc sỡ ra, Remy đi đến tủ áo ẩn trong vách, băng ngang trên tấm thảm hiệu Aubusson, cùng màu xanh lục xen lẫn màu vàng như căn phòng. Nàng gỡ một cái móc áo ra, và cau mày nhìn quanh tủ – Tôi tưởng cái nhà cũ này không có tủ ẩn trong tường chứ!
- Xưa kia đó là một cái buồng xép. Hồi còn ông cô, ông cụ thân sinh của cô cho sửa lại thành tủ áo – Nattie vừa nói vừa rũ tấm dra trải giường kêu phành phạch trên tấm nệm.
Remy móc cái áo vest lên móc áo và treo nó lên chung với áo quần khác.
- Chị làm cho gia đình tôi bao lâu rồi, Nattie? – Nàng quay ra và hỏi.
- Đến mồng 3 tháng 11 này là đúng 20 năm - Chị ta vuốt tấm trải giường thật thẳng cả bốn mép vào dưới nệm.
- Mồng 3 tháng 11, bộ đó là một ngày đáng nhớ lắm hay sao mà chị biết đích xác như vậy? - Nàng bước tới gần và dựa vào một cột giường gỗ gụ ở phía chân.
- Tôi biết, vì bắt đầu làm cho gia đình cô hai ngày sau khi tôi mất cái tiệm ăn, vào ngày Lễ các thánh – Chị nói với giọng bình thường không có gì lạ, tuy nhiên hai ban tay chị như thể bị khựng lại một chút.
- Chị đã có một tiệm ăn à? - Remy hỏi lại.
- Có, được 6 tháng. Tiệm ăn ở chỗ tốt lắm. Tôi gọi nó là tiệm Natalie, vì tôi đọc tên theo tiếng Pháp. Tôi đã nghĩ rằng tên ấy gieo ấn tượng tốt hơn ở vùng này – Chị dừng tay một lát, vẻ mặt trở nên xa vắng, và rồi bật cười, tiếng cười nghe như là tự cười mình – Thế đó, khi tôi mở tiệm ấy, tôi đã nghĩ không lâu mọi người sẽ nhắc đến tiệm Natalie cũng như đã nhắc đến tiệm Antoine hay tiệm Brenan. Tôi đã nghĩ lớn lối như vậy đó.
- Chuyện gì đã xảy ra?
- Bị lỗ không còn đồng xu dính túi, chuyện đó đã xảy ra. Tất cả những gì học được về ngành nấu ăn cao cấp ở Pháp, tất cả 10 năm trời tập sự ở trong các bếp của các khách sạn sang trọng, mà khi ở đó, tôi biết là tôi còn giỏi hơn các những đầu bếp đàn ông, tất cả những mơ ước của tôi, mất toi! – Chị ta nhún vai, làm ra vẻ dửng dưng, nhưng Remy biết lòng chị không dửng dưng như vậy.
- Tại sao? – Nàng hỏi cho được, vì nàng cũng tức tối như chị ta.
- Thì cũng là câu chuyện cũ. Hễ là đàn ông vào bếp thì được gọi là đầu bếp trứ danh, còn đàn bà mà vào bếp thì chỉ được gọi là đầu bếp, thế thôi. Và nếu là một phụ nữ da đen, thì khách ăn ai cũng đinh ninh rằng chị ta nấu món ăn chẳng ra gì. Họ chờ đợi thấy trên thực đơn những món như xương cổ, đuôi bò, và cơm gạo xấu, chứ không phải là suplơ, trứng cá hồi, vịt quay sốt vang, hay là bồ câu đút lò. Thế là tôi lỗ vốn, mắc nợ ngập đầu, với một đứa bé gái lên 9 tuổi phải nuôi. Bà nội tôi đã giúp việc cho ông nội cô trong gần 40 năm. Bà xin cho tôi vào làm ở đây, và từ đó đến nay tôi ở nguyên chỗ này.
- Tôi rất tiếc, Nattie.
Chị ta nhún vai và kéo tấm phủ giường lên trên các tấm dra.
- Việc đời thường là như vậy đó!
Remy lắc đầu có vẻ ngơ ngác:
- Làm sao chị kể lại tự nhiên như vậy được? Chị phải thất vọng, đau đớn, tức giận, cay đắng chứ!
- Tôi cảm thấy những cái đó và còn nhiều cái nữa – Nattie thừa nhận – Nhưng tôi không biểu lộ ra ngoài như các người mà thôi. Những người sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo nàn không để lộ ra. Làm như thể chúng tôi đã được giáo dục ăn sâu vào trong lòng như vậy, có lẽ vì có quá nhiều chuyện có thể làm cho tan nát cõi lòng. Chỉ những người sống trong cảnh giàu sang mới có thể tự cho phép mình khóc mùi mẫn, nổi giận lôi đình, tức tối đến xanh cả mặt.
Remy nghĩ ngay đến Cole, nhớ lai sự tự chủ sắt đá của anh ta trên cảm xúc. Quá tự chủ đến nỗi nàng đã thắc mắc không biết anh ta có cảm xúc sâu đậm về một thứ gì hay không. Có lẽ Nattie vừa cho nàng câu giải đáp về điểm đó cũng như thái độ bất cần đời của anh ta, nghĩ tới Cole làm nàng nhớ đến những lời anh ta nói về Brodie Donovan, và phản ứng của Nattie đối với lời giải thích của cha nàng.
- Trong bữa điểm tâm, khi ba tôi nói về ông Brodie Donovan, tôi có cảm tưởng chị không tin ông.
- Tôi không tin.
Chị ta lượm gối ở sàn và chồng từng cặp lên đầu giường.
- Tại sao?
- Bởi vì không phải như vậy.
- Làm sao chị biết? – Remy cau mày.
Nattie nhìn nàng, mỉm cười ra vẻ khôn ngoan:
- Những người đi vào ngôi nhà này bằng cửa trước chỉ thấy các cột trắng đồ sộ, cầu thang bằng gỗ gụ, và các khối thủy tinh của ngọn đèn treo. Nhưng những người đi vào bằng cửa sau thì biết ở đâu có bụi bặm.
Không cãi được câu nhận xét tinh tế đến vậy, Remy chỉ hỏi:
- Nhưng tại sao ba tôi lại nói với tôi một điều không đúng sự thật?
Chị ta lật tấm phủ giường lên che các gối và nhét các mép vào dưới nệm, đáp:
- Có lẽ là một trường hợp mong mỏi được như vậy. Đôi khi người ta muốn rằng một việc gì đó xảy ra như vậy, và cuối cùng cũng quả quyết là vậy. Thiếu gì gia đình đã sửa lại lịch sử của họ bằng cách đó. Cô hãy xem những gì đã xảy ra hồi trước khi New Orleans còn đang trên đường trở thành một thị trấn, và đàn ông đang không có đủ đàn bà để lấy làm vợ. Chính phủ Pháp gởi đến đây 88 cô, tất cả đều là phạm nhân trong nhà tù. Họ được gọi là những thiếu nữ ở những nhà trừng giới. Rồi 7 năm sau, vào năm 1728, chính phủ bắt đầu gởi đến một số con gái chọn lựa trong các gia đình trung lưu có đôi chút khả năng nội trợ. Họ được gọi bằng cái tên “các cô có rương” vì họ mang theo những cái rương nhỏ đựng quần áo và đồ đạc. Và ngày nay cô sẽ ngạc nhiên nếu biết được có bao nhiêu gia đình cổ xưa đàng hoàng có tổ tiên là một trong những cô gái có rương ấy. Nhưng các cô là gái ở nhà trừng giới thì lạ lùng thay đều không có con cháu gì cả.
- Rất lạ – Remy đồng ý và mỉm cười, rồi một lần nữa trở nên nghiêm túc – Chị nói cho tôi hay, chị biết gì về Brodie Donovan, Nattie. Ông ấy là ai? Có phải ông ta sáng lập ra công ty Crescent? Gia đình Jardin thừa hưởng của ông ta bằng cách nào?
- Để xem… - Nattie cầm một cái áo gối màu vàng và xanh lục giống như tấm phủ giường, và ngừng lại như tập hợp các ý nghĩ trong đầu – Tôi không biết cô còn nhớ được bao nhiêu về lịch sử của New Orleans, nhưng hồi đầu những năm 1830, một thời gian ngắn, sau khi đường xe lửa Ponchartrain dài bốn dặm giữa thành phố và hồ mang tên ấy được thiết lập, một số nhà kinh doanh ở khu phố Mỹ mới mọc lên, quyết định đào một con kênh xuyên qua khu đầm lầy, để cho các tàu chạy nhanh và tàu thủy khác từ Mobile có thể đi theo ngã tắt vào sông Mississippi. Huy động vốn để đào con kênh sáu dặm ấy không phải là vấn đề khó khăn, nhưng tìm ra nhân công mới là vấn đề. Họ không thể dùng các nô lệ, vì hai lý do. Cô thấy không, vào thời kỳ đó đã có luật cấm đem người da đen vào trong nước để làm nô lệ, có nghĩa là họ phải mua những người nô lệ đã có sẵn ở đây. Họ biết rằng, họ cần hàng ngàn nhân công cho công tác ấy, nhưng việc đó quá tốn kém, nhất là họ biết sẽ có rất nhiều nô lệ có thể chết vì làm việc trong vùng đầm lầy.
- Tại sao họ có thể chết?
- Thì cô cứ nghĩ đến những điều kiện làm việc tồi tệ trong thời ấy, cái nóng oi bức, bùn ngập tới bắp vế, và muỗi mòng như trấu, chưa kể rắn rít, và cá sấu. Và đừng quên rằng bệnh sốt rét vàng da là một cái dịch ở Lousiana trong thời đó. Phải đến đầu thế kỷ này người ta mới khám phá ra bệnh ấy do muỗi truyền đi. Trước đó, mọi người hầu hết đều nghĩ rằng, bệnh sốt rét vàng da do những hơi xông lên từ những khu đầm lầy. Dù sao, họ cũng đã nhận thấy rằng, các nô lệ da đen có giá quá cao để làm việc trong một chỗ như thế - Chị ta kể tiếp – Vì vậy, giải pháp tốt nhất là nhập nhân công từ Ailen. Không bao lâu, hết chiếc tàu thủy này đến chiếc tàu thủy khác chở đầy phu Ailen cặp bến ở New Orleans. Brodie Donovan lên 15 tuổi khi đến đây cùng cha và ba người anh trai vào năm 1835. Cũng như đa số các người Ailen, họ làm việc đào kênh. Chưa đầy một năm, một người anh chết vì bị sốt rét vàng da và người cha chết vì bệnh dịch tả. Trong bảy năm đào kênh, có hàng ngàn người chết vì các bệnh dịch tả và sốt rét vàng da. Có một lúc, có quá nhiều xác chết đến nỗi người ta chỉ quăng các thây ma lên các xe cút kít và vùi vào các lỗ đào dọc theo bờ kênh – Nattie dừng lại một chút để ngẫm nghĩ – Cũng là mỉa mai khi ta nghĩ lại chuyện ấy, nhưng thái độ của mọi người lúc đó thì cái chết của một người Ailen có làm cho ai phải quan tâm đâu. Luôn luôn có một người khác đang chờ điền vào chỗ của y.
Brodie Donovan là một người già với tuổi 20 vào lúc hoàn thành kênh đào mới. Cậu ta và các anh xoay qua làm việc ở các bờ kè. Theo bà ngoại tôi kể lại, lần đầu tiên ý nghĩ làm chủ một chiếc tàu thủy đến với Brodie Donovan trong chuyến vượt biển từ Liverpool sang New Orleans. Cái đó có thể là thật, nhưng theo tôi nghĩ, đó chỉ là một ước mơ cho đến khi cậu ta làm tại bờ sông – Môi chị ta hé mở một nụ cười, và đôi mắt lộ vẻ xa vắng – Bờ sông của New Orleans cổ ắt phải là một nơi đáng xem vào thời xa xưa ấy. “Đường chính của thế giới”, người ta đã gọi nó như vậy. Đủ loại tàu bè các cỡ, tàu thủy đi biển, tàu đi sông, tàu chạy hơi nước, tàu buồm, tàu đáy bằng… cặp dọc theo bờ kè trên một khoảng dài bốn, năm dặm, đôi khi cặp bến hàng hai, hàng ba. Theo ý tôi, Brodie Donovan đã thấy các tàu chạy hơi nước cặp vào, chở các kiện bông vải không còn chừa lại một phân vuông nào để trống, và cậu ta cũng đã nói chuyện với các thủy thủ của những tàu chạy trên sông, nghe họ kể về biết bao nhiêu kiện bông vải đang chờ ở thượng lưu, để được chở đến New Orleans và xa hơn. Cậu ta đã nghe, đã thấy. Và cậu biến giấc mơ của mình thành một kế hoạch. Sau một năm làm ở bờ sông, cậu cùng hai anh rời New Orleans đi lên Bayou Sara ở thượng lưu dòng sông. Ở đó ba anh em được một chủ đồn điền thuê phát quang một cụm rừng của ông ta, tiền công là số đồ gỗ họ hạ được. Họ đã dùng gỗ đó đóng một chiếc tàu đáy bằng. Rồi họ chất đầy bông vải lên chiếc tàu và xuôi dòng sông Mississippi xuống đến New Orleans, ở đó họ bán cả bông vải lẫn chiếc tàu. Họ trở lại ngay vùng thượng lưu và làm lại như vậy. Sau chỉ ba chuyến, họ mua một tàu chạy hơi nước cũ. Hai năm sau họ mua một chiếc nữa, rồi sau đó cứ mỗi năm mua thêm hai chiếc. Cuối cùng vào năm 1847, Brodie Donovan có được chiếc tàu đi biển đầu tiên, một chiếc tàu chạy nhanh. Và thế là công ty tàu thủy Crescent được hình thành.
- Nghe giống như giấc mơ của xứ Mỹ- Remy nói.
- Đúng thế – Nattie gật đầu – Sau vài chuyến vượt biển bằng chiếc tàu chạy nhanh, anh ta bán hết các tàu chạy sông và mua thêm tàu đi biển, nâng tổng số lên bốn chiếc chỉ trong vòng một năm. Một thành tích đáng kể, nếu ta xét rằng, chưa đầy 15 năm trước đó, anh ta còn lội trong bùn để đào kênh.
- Nhưng gia đình Jardin có được công ty tàu thủy ấy bằng cách nào? Và tại sao Cole đã bảo họ của tôi đáng lẽ phải là Donovan, chứ không phải là Jardin?
- Đó là vì cô Adrienne.
- Cô Adrienne là ai?
- Adrienne Louise Marie Jardin – Nattie đáp – Cô ta là một cô gái đẹp giống Creole (người da trắng đẻ ở thuộc địa), tóc đen mắt sẫm, người ta thường hay viết truyện kể về đời họ. Cha mẹ cô ta đều đã chết khi cô còn bé, vì bị bệnh dịch sốt rét vàng da. Adrienne và cậu anh trai, tên là Dominique được ông nội là Emil Jardin và một người cô tên là cô Zee Zee nuôi.
Bây giờ, cô nên biết là ở New Orleans đã có những người thuộc họ Jardin gần như từ đầu, vào khoảng năm 1718. Đến khi Brodie Donovan gặp những người thuộc dòng họ Jardin, họ đã làm chủ nhiều tài sản đất đai ở thành phố, cổ phần nhà băng, một đồn điền trồng bông vải ở địa phận Feliciana, và vài đồn điền trồng mía ở Baton Rouge, ấy là chỉ kê ra vài tài sản lớn mà thôi.
- Nói cách khác, họ đã giàu có – Remy xen vào.
Nattie xì một tiếng:
– Hừm, họ là một trong những gia đình Creole giàu nhất thành phố.
- Chị nói Brodie Donovan gặp các người dòng họ Jardin. Việc đó xảy ra hồi nào?
- Anh ta gặp “Adrienne” – Natttie sửa lời nàng – Đó là vào năm 1852…
Các tàu thủy chạy bằng hơi nước và bằng buồm cặp dọc theo bờ kè. Các cột buồm cao ngất kiêu hãnh chọc lên trời xanh như một rừng cây trụi lá. Các cánh buồm vải da cuốn chặt lại. Các boong tàu và các cầu lên tàu bằng ván chật ních người lên xuống, nào là phu khuân vác chạy tới chạy lui, thân mình vẹo qua một bên dưới gánh nặng trên vai, nào là các thuyền trưởng tàu biển đi lại có vẻ sốt ruột, thêm những phu khuân vác khác lăn xuống các khoang tàu, các toán sắp xếp cố sứ đẩy thêm các bành khác vào trong lòng tàu, và những thuỷ thủ mặc áo quần của hơn một chục nước khác nhau nhảy tung tăng lên bờ hoặc lảo đảo về nhà. Và tiếng ồn ào, điếc tai nhức óc không bao giờ ngừng, tiếng la ơi ới xen lẫn tiếng chửi thề, tiếng cười hô hố, và tiếng khoe khoang thách đố, những bài hát và câu hò của các toán phu khuân vác, tiếng chuông kêu lanh canh và tiếng còi hụ bằng hơi nước.
Và gió đưa tất cả những tiếng ấy đi, một làn gió nặng mùi mật mía vào ngào ngạt hương liệu, gió thổi tung những sợi bông từ các đống bành bông chất cao ngất trên bờ kè, bay đầy trong không khí.
Từ chỗ đứng trên bờ kè, Brodie Donavan nhìn thấy tất cả những thứ đó. Sự chen chúc, sự ồn ào, các mùi, và sự nhộn nhịp quen thuộc, còn quen thuộc với chàng hơn cả ngôi nhà riêng của chàng. Chàng giơ tay lên chào người thuyền trưởng đang đứng trên boong chiếc Crescent Glory, rồi quay lưng lại với cảnh đó, chàng sửa lại tay đang nắm một gói đồ đẹp và nhỏ ở bàn tay trái.
Ngay trước mặt chàng là một dãy nhà chen chúc nhau chạy dài, và các đường phố hẹp của khu phố Pháp cũ, vẫn còn là thành trì của các gia đình Creole quý tộc. Phố Kênh, gọi bằng tên đó vì cái mương, thật ra là một cái hào cũ (nhưng không hề là một con kênh) xưa kia chạy dọc theo suốt chiều dài của nó, trong thời kỳ New Orleans còn là một thị trấn có tường thành bao quanh, là đường ranh không chính thức giữa khu phố cũ và khu phố Mỹ loè loẹt và nhộn nhịp, nay là trung tâm buôn bán của thành phố. Công ty Crescent, đặt ở khu phố Mỹ, và thường ngày chàng đi ngược lại bờ kè về đây. Nhưng hôm nay thì không, hôm nay chàng có chút việc phải đi đến khu phố cổ thành.
Chàng ung dung sải bước đi xuống dốc bờ kè, ngang qua mấy cái chòi lợp tôn bày bán những đồ trang sức rẻ tiền cho các thuỷ thủ, ngang qua mấy quán rượu đã có khách ngồi, và ngang qua các quầy bán sò. Đường phố phía ngoài chật ních xe tải, việc mậu dịch trên sông đã biến New Orleans thành một thành phố đầy xe lừa, xe ngựa.
Brodie lách qua các xe ấy để sang bên kia đường, vừa đi vừa nhận ra mấy người quen đang lái xe và kêu lên chào hỏi họ, bằng giọng trở lại bình dân.
- Ê, Sanghnessy, tại sao anh ngoẹo cái đầu như vậy? Có phải tối qua nhậu quá chén không?
- Michelin, nói lại với cô vợ xinh đẹp của anh, tôi sẽ ghé mua mấy món đồ. Khi anh không có nhà, dĩ nhiên.
- Dolan, có phải bị bầm mắt đấy không? Bộ lại quên cúi đầu để tránh nữa hả?
Và họ trả lời cùng một kiểu:
- Ô kìa, chính anh ta chứ còn ai? Hay là bây giờ phải xưng với anh ta bằng thưa Ngài?
- Kìa, hãy nhìn coi cái áo vest anh ta đang mặc? Anh ta đâm ra diện đáo để!
- Anh cầm gói gì trong tay đó, Donavan? Chắc là khăn tay để hỉ mũi, có lẽ.
Trong những câu chuyện chọc ghẹo của họ có sự cảm mến và tự hào vì một người trong bọn họ đã thành công ở đời, và không quên họ. Cũng như Brodie, những người chủ xe Ailen ấy là những kẻ đã sống sót sau khi đào con kênh chết tiệt ấy, như họ thường gọi.
Chàng có thể là một người trong bọn họ, nhưng chàng không giống họ. Và sự khác biệt không hẳn là ở cái áo vest màu đen và cái áo gilê bằng gấm mà chàng đang mặc, hay cái mũ cao màu đen cha đang đội trên đầu và đôi giày ống bằng da bóng láng. Sự khác biệt đã có ở đó ngay khi chàng ăn mặc lam lũ như họ. Đúng vậy, Brodie đã trung thành với gốc gác cũ của chàng cũng như bọn họ, và cũng có những giây phút buồn rầu đen tối, nhưng rất hiếm. Tính chàng ưa cười giỡn và có thể nổi đoá thật nhanh. Và giống họ, chàng có tính độc lập mạnh mẽ, nhưng nhu cầu độc lập ấy dẫn chàng đi theo một con đường khác và lái ý nghĩ của chàng về một hướng khác.
Đúng vậy, chàng đã lội trong bùn sình con mương bên cạnh họ, đã ngửi mùi hôi thối của các đầm lầy và các thây ma đang mục rữa ở dọc hai bờ mương, và nằm vật xuống chõng khi đêm đến trong mồ hôi ướt đẫm thân mình.
Nhưng không một lần chàng mơ đến các thung lũng xanh tươi và các dòng suối lấp lánh của xứ Ailen khi ở trong đầm lầy ấy, như bọn họ thường vậy. Đối với chàng, ý nghĩ đã giúp chàng tiếp tục sống đã làm cho mồ hôi, sự mệt mỏi và sự chết chóc quanh mình chàng có mục đích, là ước mơ một ngày kia các tàu thủy “của chàng” sẽ xả máy chạy qua con kênh chàng đã đào. Những chiếc tàu thuỷ giống như chiếc đã đưa chàng sang Mỹ. Chàng đã mơ như thế, và bờ sông đã cho chàng thấy bằng cách nào chàng có thể biến giấc mơ ấy thành hiện thực. Dĩ nhiên bằng một cách quanh co, đầu tiên là xà lan, rồi tàu chạy sông, cuối cùng tàu đi biển của chàng. Nhưng chàng đã rút được bài học là luôn luôn có một cách, dù rằng không phải là một cách trực tiếp.
Bỏ sự nhộn nhịp của bờ sông lại đàng sau, Brodie đi vào khu phố cũ, đưa mắt nhìn ba cái tháp mới của nhà thờ chính St. Louis, thay thế ba tháp chuông cũ, làm biến đổi đường nóc nhà của khu phố, càng bị biến đổi nhiều hơn bởi các mái vừa làm thêm ở Cabildo và tòa nhà cũ của cha xứ, và ngôi nhà có ba tầng lầu song đôi bằng gạch đỏ và sắt uốn theo kiểu phục hưng do bà nam tước Pontalba vừa xây cất, ở các tầng lầu trên có nhiều tầng lộng lẫy. Brodie nghĩ rằng, đó không phải là những thay đổi cuối cùng ở quảng truờng diễu binh cũ này. Có nhiều ý kiến đang đề nghị đổi tên nó thành quảng trường Jackson để ghi nhớ người anh hùng của trận chiến ở New Orleans, việc ấy sẽ xảy ra trong nay mai. Người Mỹ hiện đang giữ đa số ghế trong hội đồng thành phố, và họ sẽ lo liệu cho việc đó được thi hành. Thây kệ các người Creole.
Chàng tiến lên thêm hai bước và không còn thấy các tháp nhà thờ, vì nhà cửa vươn lên cao hơn hai bên đường phố hẹp, mặt tiền các nhà đều tô láng bằng thạch cao và sơn màu đào, hay xanh, hay hồng, tất cả đều có hai tầng lầu cao, đỡ bằng những cột sắt chôn đến tận lề đường và bộ lan can cao ngang ngực bằng sắt uốn nhiều kiểu khác nhau rất thanh tú. Brodie đi dưới các tầng lầu chồm ra lơ lửng ấy, khuất ánh nắng, trong không khí ấm áp như mùa xuân ban sáng thay vì trong cái lạnh thường lệ của mùa đông ướt át và ảm đạm.
Những chiếc xe ngựa kêu lọc cọc trên các đường đất thỉnh thoảng nhường chỗ trên đường phố bùn lầy cho một vài chiếc xe song mã lộng lẫy. Ngay trước mặt, một người da trắng tay cầm một cái roi đang trông coi một toán nô lệ mang xiềng xích ở chân và kiềng sắt ở cổ, vét mương, một công tác hiếm thấy, và các nô lệ này ắt hẳn là những kẻ đã bỏ trốn và bị bắt lại.
Brodie tiếp tục đi trên vỉa hè lát gạch ngang qua các cửa tiệm nhỏ hẹp gọn ghẽ, và những chuồng nhốt nô lệ với các cửa sổ có chấn song sắt to, qua những sạp bán trái cây và hoa ở góc đường, qua các du khách đang trố mắt xem phong cảnh ở thành phố nổi danh này, qua những cậu quý tử trẻ tuổi, ăn mặc sang trọng con của những gia đình Creole quý phái, có lẽ đang đi đến những lớp dạy kèm đánh kiếm ở phố Exchange, hay chỉ là đi uống một tách cà phê với bạn bè và qua một cô gái lai da đen, đẹp không thể tưởng, với nước da màu ngà, một cô gái da màu, một cô gái tự do mà tư cách ấy có thể thấy ở cái khăn trùm sặc sỡ quấn quanh đầu, cặp mắt nhìn xuống đúng điệu. Cô ta có một căn nhà nhỏ dọc theo bức tường thành bao quanh thành phố, nơi đó có áo quần bằng xa tanh và đồ nữ trang đầy tủ, cô ở đấy chờ người tình da trắng của cô muốn đến thăm lúc nào tuỳ thích.
Brodie đưa bàn tay lên vành mũ và gật đầu chào một cô thiếu nữ Creole đi với một bà theo kèm, để ý thấy mắt cô ta vội ngó lảng đi nơi khác, và mỉm cười khi cô ta buột miệng nói “Yanqui”.
Đối với những người Creole ở Lousiana, tất cả người Mỹ gốc, dù gốc gác ở đâu, đều thuộc về một trong hai loại: “Kaintucks” gồm những người Mỹ sống trên mặt sông không biết chữ, không được giáo dục, sống bát nháo, và loại “Yanqui” là những người thương gia, chủ đồn điền, người có của, và những người học thức. Đối với hạng người thứ nhất, những người Creole chỉ quay lưng lại lạnh lùng ra mặt, nhưng đối với hạng thứ hai, thì với thời gian, vì số Yanqui đông hơn họ quá nhiều, và nhất là hoàn cảnh kinh tế đã bắt buộc họ phải chịu đựng. Họ buôn bán làm ăn với người Yankee, uống cà phê với họ và mời họ tham dự những sinh hoạt có tính cách xã hội, nhưng ít khi một người Yankee được mời về nhà họ. Đúng, có những cuộc hôn nhân giữa những người Yankee và người Creole, nhưng Brodie nhận thấy đa số các cuộc hôn nhân ấy phần lớn đều có lợi cho người Creole, hoặc là mang thêm của cải đến cho họ, hoặc là để củng cố một số quan hệ đã có giữa hai bên về mặt lợi tức.
Người Mỹ và người Creole đại diện cho hai nền văn hóa hoàn toàn khác biệt nhau. Sau gần 50 năm, họ đã học được cách sống chung trong sự dè dặt, đôi khi xung đột, nhưng luôn luôn ganh đua nhau, dù rằng một cách tế nhị khó thấy.
Không như những người như chàng ở khu phố Mỹ, Brodie đã bỏ thì giờ học tiếng của người Creole, tuy chàng thường thấy có lợi khi giả vờ không nói được và không nghe được tiếng đó, ít nhất là không thạo lắm. Và chàng đã học được cách tự kiềm chế khi nôn nóng, và không thúc ép đi đến một quyết định trong công việc làm ăn, mà cứ để cho câu chuyện thong thả tiến đến chỗ kết cuộc là vấn đề chính được nêu lên, nếu có. Kết quả một phần lớn công cuộc làm ăn của chàng là với khu phố Quatier, kể cả một số liên hệ đáng giá với các khách hàng ở Âu châu. Phải, chàng làm ăn nhiều với khu phố Quatier, nhưng không phải là tất cả với những người quý phái.
Một người da đen mù đang kéo vĩ cầm ở góc phố, mớ tóc quăn màu xám tro để trần dưới nắng, cái mũ mềm xèo của y để ngửa trên vỉa hè trước mặt y, đôi mắt che giấu một phần bởi cặp kính màu đen. Brodie dừng lại và bỏ một đồng đôla vào cái mũ của y.
- Cám ơn – Người ăn xin già ngẩng phắt đầu lên khi nghe tiếng đồng bạc va vào các đồng hào và đồng xu.
- Sức khỏe thế nào, Cado? – Brodie hỏi y bằng tiếng Pháp.
Y nghiêng đầu lên khi nghe tiếng chàng.
- Ông Donovan – Y nói vì nhận ra ngay tiếng chàng, trong khi tay vẫn kéo đàn, không lỗi một nhịp – Lão Cado khỏe mạnh thưa ông, nhất là hôm nay có mặt trời sưởi ấm nắm xương già mỏi mệt.
- Có ai nói chuyện gì không?
- Trong nhà họ Gautier trên phố Royal, người ta đang khóc lóc và cầu nguyện dữ lắm. Cậu con trai chủ nhà Gautier tức khí vì một câu nói của một người chủ đồn điền ở thượng lưu dòng sông. Hai người hẹn nhau dưới bóng các cây sồi vào lúc chạng vạng tối qua. Cậu ta bị kiếm đâm lủng ngực, bây giờ máu đang chảy ra có bọt ở vết thương.
- Một lá phổi bị thủng – Brodie lẩm bẩm, rồi hỏi tiếp – Có gì khác nữa không?
Ông già nhe răng cười:
- Ông Vamier ở đồn điền Julian đêm qua thua một canh bạc 50 ngàn. Tôi nghĩ rằng hôm nay ông ấy sẽ bán rẻ bông vải của mình.
Brodie mỉm cười:
- Ông đàn hay lắm, Cado – Và chàng bỏ thêm hai đồng đola vào cái mũ của ông già.
- Ông cũng vậy, ông Donovan, ông cũng vậy – Ông lão cười khúc khích và bắt đầu đàn một bản nhạc nhảy Ailen trong khi Brodie bỏ đi.
Brodie dừng lại ở lề, chờ cho hai chiếc xe ngựa chở nặng đi qua, rồi bước xuống đường phố bùn lầy và gọi chiếc xe thứ ba đang tiến tới. Người lái xe kéo cương thắng lại, kêu lên một tiếng “họ” với mấy con lừa, và chửi thề với chúng bằng tiếng Ailen trong khi Brodie trèo lên băng ngồi xuống, cặp chặt gói đồ vào bên nách, và rút ở túi áo vest ra một tập giấy ghi chép với một cây bút chì.
- Anh chịu khó ghé qua công ty Crescent, trao tờ giấy này cho anh Sean của tôi nhé, Flaunery.
Chàng hấp tấp nghệch ngoặc mấy chữ lên đó, gấp mảnh giấy lại và đưa cho người lái xe ngựa, làm ngơ như không biết các tiếng la ó tức giận, và những nắm tay đưa lên của những người lái các xe ngựa khác, bị bắt buộc phải dừng lại ở phía sau.
- Dĩ nhiên tôi sẽ làm giúp anh nhưng anh phải trả cho tôi một chai whisky, Brodie Donovan – Anh chàng tóc đỏ Flaunery nói trong khi Brodie nhảy xuống xe.
- Anh đưa tới tận tay Sean trong vòng 5 phút thì tôi sẽ mua cho anh một chai whisky. Mà anh phải giấu vợ anh mới được.
- Được rồi, nhớ thi hành phần anh nhé! – Anh ta búng tay kêu lóc bóc bên trên tai của cặp lừa, và quất dây cương vào mông chúng, hối thúc chúng chạy tới bằng tiếng la hét chửi thề và kêu ầm lên với các xe ở phía trước – Cho qua!
Tránh người chiếc xe khác đang lao theo xe của Flaunery, Brodie băng qua đường đến bờ lề bên kia, và đi qua khỏi một của tiệm đến tiệm bán mũ của bà Rideaux, ở đó có một bảng nhỏ ghi: hàng mới nhất từ Paris sang. Kết quả của lời hứa ấy đang trong gói đồ chàng cặp ở nách, đó là những bản kiểu thời trang mới nhất ở Pháp, mới vừa có được hai tuần, do chiếc tàu thuỷ của chàng tên Crescent Glory chở sang.
Chàng bước vào rồi kéo của lại, rồi đi vào phía sau của tiệm, đưa mắt tìm bà chủ tiệm tóc nâu. Chàng nhìn thấy một phụ nữ mặc một cái áo dài nhưng sáng loáng, màu rất đẹp, cô ta đang đứng quay lưng lại chàng, và đang thử nhiều cái mũ trước một tấm gương soi để trên quầy. Brodie để ý ngay hai điểm cùng lúc: cái eo nhỏ của nàng, càng thấy rõ hơn do cái váy phình rộng ra, và màu tóc đen huyền của nàng, thay vì màu nâu sẫm điển hình của đa số phụ nữ Creole. Hiển nhiên cô ta có dòng máu Tây Ban Nha trong người.
Ngay sau đó, Brodie thấy bóng nàng trong gương, và liền đứng dừng lại: một cảm giác đột ngột thức dậy chàng đứng dừng lại và làm chàng sửng sốt. Khuôn mặt trái xoan tuyệt hảo của nàng làm chàng nghĩ đến một viên đá quý bầu dục thường dùng làm trang sức, nét mặt nàng điềm nhiên thanh thản, nhưng vẫn giữ một tính cách tế nhị, đầy rung cảm, làm cho gương mặt sẵn sàng sống động. Chàng nhìn sững, biết rằng mình phải tìm cho ra nàng là ai, nhưng không đành bỏ chỗ đang đứng, và mãn nguyện vì được nhìn ngắm nàng.
Nén một tiếng thở dài và không thõa mãn, Adrienne Jardin bỏ cái mũ trùm đầu qua một bên, cầm lên một cái mũ đi với cái áo dài bằng lụa màu ngọc trai, có viền một vành lá bằng nhung, hoa và các dải. Nàng đội lên lắc đầu để cho các dải buông thõng xuống, rồi buộc chúng lại thành cái nơ lỏng. Nàng quay ngang để nhìn bóng mình trong gương, thì thấy một khuôn mặt khác trong đó, một khuôn mặt đàn ông. Trong một khoảnh khắc cực kỳ ngắn ngủi, hai mắt nàng dán vào hai mắt của chàng trai trong gương. Đôi chân mày đen rậm của chàng nhíu lại, nét nhìn của chàng đưa lên cái mũ, và đầu chàng hơi lắc qua lắc lại, tỏ ý không tán đồng. Adrienne lập tức không nhìn vào bóng chàng trong gương nữa, mà nhìn lại vào bóng nàng. Nàng trân mình cứng nhắc vì bực mình trước sự táo bạo, có thể nói là sự thô lỗ của người đàn ông ấy. Bộ anh ta nghĩ rằng người cần anh ta cho ý kiến về cái mũ nàng đang thử hay sao?
Nàng càng khó chịu hơn vì nàng cũng không ưa cái mũ ấy. Nàng nán thêm một chút, thử nhét một khúc dải vào chỗ nãy, sửa lại một khúc khác vào chỗ kia, và cố suy nghĩ có phải là bị ảnh hưởng ý kiến của chàng ta không. Cuối cùng, nàng lột bỏ cái mũ ra và đặt nó qua một bên. Suốt thời gian đó, nàng giả vờ không để ý đến bóng chàng phản chiếu trong gương, làm như vẻ không thấy vầng trán rộng và nghiêng, cái mũi thẳng hơi gãy, cái cằm có dáng dẹp, hai gò má cao và rộng, quai hàm xéo và rất gọn, hay mái tóc đỏ sẫm của chàng dưới chiếc mũ đen và đôi mắt màu nâu sẫm. Nàng phải ngay thẳng thừa nhận rằng anh chàng rất bảnh trai. Một cách phong trần như kiểu người Yankee thường vậy.
Trong khi cầm lên một cái mũ lụa trắng, kết hoa hồng bằng xa tanh và viền đăngten trắng, Adrienne tự hỏi anh ta ở trong tiệm bà Simone làm gì. Nàng nhớ có nghe tiếng mở cửa, nhưng không biết anh ta đã đi vào một mình hay cùng đi với ai. Anh ta đi cùng với vợ chăng? Hay em gái? Hay cô gái làng chơi của anh ta? Điểm chót này có vẻ có nhiều khả năng hơn cả. Con người anh ta có một vẻ phiêu bạt bất lương, thực đây anh dám làm những chuyện công khai xuất hiện với một loại phụ nữ như thế.
Adrienne kín đáo liếc nhìn quanh tiệm, xoay đầu qua lại như thể ngắm nghía cái mũ lụa đang đội, trong khi đó nhìn hết quanh phòng. Nhưng không, không có ai cả ngoài cô Zee Zee đang dừng lại ở quầy, nói chuyện với một người bán hàng, kiên nhẫn chờ cô quyết định dứt khoát nên mua đôi găng tay nào. Làm như cặp găng tay giúp được gì thêm cho bề ngoài của cô, Adrienne nghĩ thầm và chót thương hại cho người phụ nữ đã nuôi nấng nàng từ bé. Cô Zee Zee đáng thương và thừa hưởng của ông nội cái mũi rất to, một nét cao quý ở trên mặt ông, nhưng trên mặt cô thì… Adrienne hiểu tại sao cô nàng đã thích uống thứ rượu màu xanh ngọc đến thế.
Nàng nhìn lại bóng mình trong gương, và thắc mắc với câu hỏi trước đó: anh chàng Yankee kia đến tiệm bà Simone, một mình, để làm gì? Anh ta có công việc với bà chủ tiệm chăng? Nhưng việc gì? Anh ta ăn mặc sang trọng quá để có thể nghĩ là một thương gia, và anh ta đã không hỏi về bà chủ tiệm, đang vào xưởng cắt may ở phía trong để lo sửa sang cái gì đó.
Tò mò, Adrienne lại liếc nhìn bóng anh ta trong gương. Mặt nàng lại bắt gặp mắt anh ta, và lại thấy anh ta khẽ lắc đầu, chê cái mũ nàng đang thử. Tuy nhiên, Adrienne vẫn giả vờ không để ý đến anh ta. Nàng biết đơn giản hơn cả là dời qua một tấm gương khác, nhưng làm vậy có nghĩa là thừa nhận nàng đã biết anh ta chú ý đến nàng, và nàng không muốn cho anh ta tự mãn vì biết nàng đã bị ảnh hưởng vì sự có mặt của anh ta. Tốt hơn là luôn luôn làm ra vẻ như không biết đến cái anh chàng Yankee ấy.
Thế nhưng nàng lại nảy ra ý nghĩ muốn làm một việc ngược đời là thử một cái mũ xấu xí có vành, được người ta đặt cho cái tên thật thích hợp là cái “mũ kỳ cục”. Nhìn trong gương, nàng thấy nó xấu thật, và còn hơn thế nữa. Nàng cho phép mình mỉm cười một tí xíu và liếc nhanh vào bóng người Mỹ trong gương. Cặp mắt của anh ta nhìn xuống như muốn che giấu sự buồn cười, trong khi môi anh ta nhếch lên mỉm cười, làm lộ ra hai nếp nhăn rất hấp dẫn ở hai má. Anh ta lại lắc đầu, nhưng lần nay có vẻ tức cười nhiều hơn.
Cố giấu nụ cười mỉm của mình, Adrienne gỡ cái mũ ra và đội lên một cái nón trước đó đã thu hút nàng. Có kiểu tinh vi hơn một chút, với một tấm mạng buông xuống nửa chừng từ vành nón, tạo nên một hiểu quả hơi mạnh mẽ. Nàng ưa nó ngay, và chắc chắn rằng ngay cả anh chàng Yankee kia cũng phải ưa. Nhưng khi nhìn lại bóng anh ta trong gương để xem phản ứng của anh, thì anh ta không còn đấy nữa! Sửng sốt, Adrienne liếc nhanh về phía sau lưng, nhưng anh ta không còn ở chỗ cũ. Nàng chợt ý thức mình làm gì, và đứng ngay lại trước tấm gương, cảm thấy vô cùng thất vọng. Một giây sau, nàng càng sửng sốt hơn vì thấy anh ta hiện ra trước mặt nàng, cạnh tấm gương. Nàng ý thức tột độ tim mình đập nhanh, vì sửng sốt thấy anh ta đứng đấy, dĩ nhiên, chứ làm gì có lý do nào khác.
- Cái nón ấy rất hấp dẫn – Anh ta nói tiếng Pháp với giọng Mỹ rõ rệt, giọng trầm – Nhưng khổ nỗi, nó che mất đôi mắt của cô. Và tôi chắc có người nói với cô trước đây rằng cô có đôi mắt rất đẹp, đen và sáng như mặt biển một đêm không trăng.
Nàng không trả lời, thẳng thắn mà nói, nếu nàng trả lời, Brodie có lẽ đã ngạc nhiên. Các cô gái Creole có gia giáo không đời nào tiếp chuyện người lạ, và rõ ràng nàng là người có gia giáo. Nhưng nàng không cần phải nói chuyện với chàng, nàng có một gương mặt rất sống động, và cử chỉ của nàng biểu lộ những gì nàng không nói ra.
Nàng đã lấy lại bình tĩnh thật nhanh sau khi sượng sùng lúc đầu vì thấy anh ta ở quá gần. Không đỏ mặt vì ngượng nghịu, hay hoảng hốt trong ánh mắt. Còn hơn thế nữa, không có chuyện quay ngoắt bỏ đi và tỏ ra bực tức. Nàng đã ở yên tại chỗ. Vì tức khí? Hay vì kiêu hãnh? Vì hiếu kỳ? Brodie không quan tâm lý do chính là gì. Miễn là nàng ở đó, và nghe chàng nói, dù nàng có làm ra vẻ dửng dưng đến mấy.
Cái nón có tấm mạng được thay bằng một nón rơm rộng vành kiểu cô gái chăn cừu, màu trắng, có một vòng hoa quanh chóp và những dải xa tanh màu hồng rủ xuống hai bên. Thay vì biến nàng thành một thiếu nữ trinh trắng, cái nón làm cho nàng càng có vẻ khêu gợi. Thế nhưng, nàng không có vẻ gì làm đỏm cả.
Lần này, Brodie ra mặt lắc đầu phản đối:
- Tôi công nhận cái vành nón che nắng cho cô, nhưng nó buộc đàn ông phải ngừng lại ở một quãng cách xa cô. Nếu là tôi, và cô đi với tôi, tôi không muốn cô đội cái nón ấy.
Một lần nữa, câu nói của chàng được đáp lại bằng sự im lặng. Nàng bỏ cái nón rơm ra và thử bằng một cái mũ trùm đầu có gắn những lông đà điểu rũ xuống hai bên. Brodie cau mặt tỏ vẻ bất đồng ý một cách hơi cường điệu.
- Cái đó chắc chắn sẽ chọc vào mũi đàn ông và thay vì nói thì thầm, anh ta sẽ hắt xì hơi.
Khoé môi nàng khẽ nhếch lên như khẽ mỉm cười, dấu hiệu duy nhất câu nói của chàng đã làm nàng buồn cười. Brodie không cần có dấu hiệu gì khác.
Khi giở cái nón ra, nàng đưa tay buột lại mấy sợi tóc bung ra vào lại chỗ, khiến chàng nhìn theo và thấy mái tóc đen bóng của nàng, rẽ ngôi ngay giữa, kéo sát về phía sau, và búi lại thành một búi nhỏ ở gáy.
- Tôi xin nói thẳng thắn rằng, tóc cô không nên che giấu dưới cái mũ bất cứ loại gì, thưa cô. Tự nó đã là một món trang sức, và giống như một màn đêm lấp lánh ánh sao – Chàng nói trong khi nàng với tay lấy một cái mũ khác – Che khuất một vẻ đẹp như vậy là có tội.
Nàng điềm nhiên đội lại cái mũ trùm đầu bằng nhung, màu nó lộng lẫy ăn với màu cái áo dài của nàng mặc đi phố. Không một lần nhìn anh ta, nàng bắt đầu buộc cái dải đang rủ xuống dưới cằm chung với một chùm hoa giả.
Bà Simone từ sau tiệm bước ra, liếc một cái vào Brodie, và nhào tới. Mắt bà diễn tả nhiều vẻ, từ khủng khiếp sang giận dữ, đến hoảng hốt và tức tối.
- Thưa cô, tôi rất tiếc vì đã chậm trễ – Bà ta nói, lúng búng – Nếu ông này đã làm phiền cô trong khi tôi không có ở đây…
- Trái lại, bà Simone – Cuối cùng nàng lên tiếng, bằng tiếng anh rất chuẩn, với giọng dịu dàng và dè dặt, làm Brodie nghĩ thầm nàng có thể bắt đàn ông làm theo ý muốn một cách dễ dàng – Tôi e rằng chính tôi đã làm phiền ông ta.
Brodie phì cười và cố nén khỏi phải cười phá lên vì câu nói rất khôn ngoan và lại khiêu khích. Đúng là nàng đã làm phiền chàng… một cách vô cùng thích thú.
- Xin cáo từ, bà Simone, tôi chắc cô tôi đã mua xong đồ – Nàng nói tiếp.
Nàng quay lại, bước đi rất duyên dáng. Bà Simone định chạy theo nàng, nhưng Brodie giữ tay bà lại:
- Giới thiệu tôi đi!
- Quỷ thần ơi! Ông không thấy rằng… - Bà ta lẩm bẩm hoảng hốt phản đối.
- Giới thiệu dùm tôi đi mà! – Chàng lặp lại bằng giọng hạ thấp xuống và đưa gói đồ đang cầm lên – Bà hãy giới thiệu tôi, nếu không, những bản vẽ này sẽ nằm ở đáy sông Mississippi thay vì ở xưởng cắt may của bà sau nhà. Và tôi cho bà biết, chiếc Sao biển bị hư hỏng sau khi gặp bão, đã khó nhọc lắm mới tới được Havana, và hiện nay còn ở đó sửa chửa ít nhất phải một tuần nữa mới xong. Có nghĩa là ít nhất một tuần nữa bà Trussard, là cửa hàng cạnh tranh với bà, mới nhận được các bản sao của bà ta vẽ các kiểu mũ mốt mới nhất.
- Một tuần! – bà ta thở phào đầy phấn khởi.
- Giới thiệu tôi đi!
Bà ưỡn thẳng người lên, nếu còn chút nào dè dặt không muốn nghe lời chàng, thì cũng bị dẹp tan bởi viễn ảnh ít nhất là một tuần lễ đối với tiệm cạnh tranh với bà. Quay lại, bà nở một nụ cười thật tươi rói cùng chàng đi đến phía cô gái và bà lớn tuổi đi theo kèm, mặt không giống cô ta chút nào. Bà ta nói:
- Ông Donovan, cho phép tôi giới thiệu bà Jardin và cháu gái của bà, cô Adrienne Jardin. Thưa bà và cô, đây là ông Brodie Donovan. Ông ấy là chủ nhân công ty tàu thuỷ Crescent.
Bà Jardin nhìn chàng, vẻ rầu rĩ:
- Ông là một Yankee?
- Rất tiếc là vậy. Đó là một tai biến ngoài khả năng kiểm soát của tôi. Tôi hy vọng bà và cô không trách tôi vì đã sinh ra trong giới đó.
Chàng cúi rạp xuống để chào từng người và bắt gặp nụ cười vui thú, đồng tình của Adrienne Jardin. Ánh mắt của nàng nói lên sự chú ý rõ rệt.
- Hân hạnh, ông Donovan – nàng gật đầu chào lại.
- Vâng, rất hân hạnh, ông Donovan – Người cô lặp lại không mấy sốt sắng – Bây giờ chúng ta phải chia tay.
- Hẹn gặp lại… chúng ta sẽ có dịp gặp nhau lại – Brodie nói, chàng nhìn thẳng vào Adrienne Jardin khi nói, và nhận thức rõ chàng sẽ phải gặp nhiều thử thách lòng kiên nhẫn về những cung cách đối xử thận trọng và luôn đúng đắn của xã hội Creole. Chàng nhìn theo người cùng người cô ra về, rồi quay lại bà chủ tiệm:
- Jardin. Tôi đã nghe tên ấy ở đâu rồi?
- Đó là tên ông Emil Gaspard Jardin, lẽ tất nhiên. Người ta thầm bảo nhau là ông ta làm chủ một nửa khu phố “cổ thành” và nửa tá đồn điền dọc theo sông. Adrienne là cháu gái của ông ta – Bà đáp, và đưa bàn tay ra – Ông đã được giới thiệu như ý ông, tuy rằng chưa biết có lợi gì không. Cho tôi gói đồ.
Brodie trao cái gói cho bà ta:
- Do đâu bà nghĩ rằng sẽ không có lợi gì cho tôi?
Bà ta vừa xé giấy gói các bản vẽ ra, vừa nói:
- Ông đã nghe bà cô giống như con quạ ấy nói ông là một Yankee. Còn Emil Jardin thì bám chặt các thái độ xưa cũ đối với “người Mỹ”.
- Để xem – Chàng biết thế nào cũng luôn luôn có một cách. Luôn luôn có cách.
Để bà Simone đứng đấy xem các bản vẽ, Brodie ra khỏi cửa tiệm và dừng lại ở vỉa hè để nhìn theo hình dáng của nàng mặc chiếc áo nhung. Tiếng đàn vĩ cầm của Cado lọt vào tai chàng. Chàng quay lại, băng qua đường đến bên người mù đánh đàn.
- Cado, ông Emil Jardin, nhà ông ta ở đâu?
- Ông muốn biết về ông ấy à? – Sửng sốt, ông già mù để lỗi một nhịp.
- Tôi muốn biết về cô cháu gái của ông ta tên là Adrienne, mọi cái ông có thể tìm cho ra cơ mà! Cô ta có thường đi chợ không? Nếu có, thì lúc nào? Có giờ nào nhất định không? Rạp hát, rạp nhạc kịch, cô ta thường ngồi ở đâu? Cô ta thường nhận những lời mời gì? Cô sẽ tham dự những buổi khiêu vũ nào và dạ hội hoá trang nào? Tôi muốn có ngay vài giờ cụ thể.
- Nhưng mà chi tiết như vậy thì…
- Các người ở trong nhà sẽ biết, và có thể khuyến khích họ nói.
Lần này chàng không bỏ đồng bạc vào mũ của lão. Chàng gấp mấy tờ giấy bạc lại nhét vào túi áo của lão ta.
Nattie đi ra xa cái giường và nhặt chiếc áo choàng satin mà Remy đã quẳng lên một cái ghế sáng sớm hôm nay. Chị tiếp tục kể:
- Tôi chắc không có gì đáng ngạc nhiên là Brodie Donavan có được tin chi tiết về hoạt động và dự định hàng ngày của Adrienne.
Chị ta mang cái áo choàng đến tủ áo và móc lên ở sau cánh cửa:
– Và trong hai tuần lễ sau đó, chàng ta đã “sắp đặt” để hai người gặp nhau trên đường phố mấy lần. Hai lần chàng có mặt ở tầng hầm có hàng cột của chợ Pháp cũ, khi nàng đến đó cùng người cô để mua thực phẩm dùng hàng ngày. Chàng xem lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ chính toà St. Louis, vì gia đình nàng đi lễ ở đó. Khi được biết nàng có hẹn để thử đồ ở tiệm bà Trussard, chàng chờ ở một tiệm cà phê gần đó cho đến khi nàng đi ra, và “ngẫu nhiên” gặp nàng trên đường phố. Và còn nhà hát kịch nữa.
- Thưở đó – Nattie giải thích – Bốn vở nhạc kịch được biểu diễn mỗi tuần ở nhà hát Orleans, hai bi kịch và hai hài kịch. Khi biết được nàng đi xem vở kịch nào, chàng liền mua vé hai ghế, ở khu các bà mặc áo dài. Bà ngoại tôi kể rằng giữa hai hồi, chàng vào lô của nàng để thăm hỏi. Dĩ nhiên, không phải lần nào chàng “ngẫu nhiên” gặp nàng là cũng được nói chuyện với nàng.
- Nhưng chắc Adrienne đã khuyến khích ông ta theo nàng tán tỉnh và đoán được đó không phải là những cuộc gặp gỡ “ngẫu nhiên” – Remy nói, quàng tay ôm một cột giường và ngồi trên tấm nệm ở chân giường làm nhăn nheo tấm trải giường mà Nattie đã vuốt thẳng cẩn thận.
- Chắc chắn là nàng đoán được – Nattie đồng ý – Không thể nghi ngờ nàng cũng đã bị chàng thu hút. Một phần có lẽ vì chàng khác những thanh niên Creole nàng quen biết. Chàng ăn mặc đẹp, nhưng không phải loại công tử bột như một số thanh niên ấy. Chàng không phải là một kẻ khoác lác hay gây sự, bị ám ảnh bởi danh dự và việc đấu kiếm. Và chàng tuân theo các phép tắc thời đó mà không tỏ ra bị chúng ràng buộc. Và có lẽ vì chàng là một Yankee nên có thêm sự hấp dẫn của trái cấm. Ngoài ra - Nattie nhún vai – Có cô gái nào mà trong cuộc đời của mình không một lần mơ tưởng sẽ gặp một người đàn ông làm cho cô ta mê thích. Một người đàn ông bạo dạn và bảnh trai, sẵn sàng thách thức mọi thứ để chiếm cô ta làm của riêng mình? Thời buổi có thể đổi thay, và con người thay đổi theo, nhưng không có gì thay đổi trong những đường đi nước bước của tình yêu và những ước mơ của con người về tình yêu. Đàn ông hay đàn bà cũng vậy.
- Dù sao – Nattie nói tiếp – Sau những cuộc gặp “ngẫu nhiên” ấy, Brodie biết được Adrienne sẽ đi dự một buổi khiêu vũ ở khách sạn St. Louis. Hầu như tất cả các buổi khiêu vũ sang trọng được tổ chức ở đấy. Ít nhất những buổi khiêu vũ của người Creole. Người Mỹ thì tổ chức liên hoan ở khách sạn St. Charles… trong khu phố Mỹ. Buổi khiêu vũ của xã hội thường lưu này, như họ gọi thế, là một buổi đóng tiền và tổ chức riêng. Có lẽ Brodie Donavan đã phải nhờ đến tất cả những người chàng có liên lạc ở trong khu Quartier và dùng đến tất cả sức ép mà chàng có được để tên chàng được ghi trên danh sách khách được mời. Và rồi chàng còn phải trả giá đắt để được quyền tham dự buổi khiêu vũ. Nói tóm lại, chàng cũng toàn tâm toàn trí trong việc đeo đuổi Adrienne Jardin giống như trước kia trong việc xây dựng công ty tàu thủy của chàng, không kể thì giờ, tiền bạc hay nguy hiểm…
Hàng cột bao quanh đại sảnh hình tròn nổi tiếng của khách sạn St. Louis, với sàn lát đá cẩm thạch màu mỡ gà pha hồng bên dưới mái vòm cao và trần trang trí cầu kỳ. Các vách tường treo đầy tranh, và một quầy rượu dài bằng đá cẩm thạch nguyên khối bao quanh một nửa chu vi đại sảnh. Các khách khứa cũng chọn lọc như đồ trang trí, trong đó có Brodie Donavan. Mang đôi găng tay trắng bắt buộc, cùng với cái vest dạ hội đuôi tôm mặc ngoài áo gilet trắng, Brodie cầm lấy một ly rượu brandy ở một quầy cẩm thạch và xoay xoay chiếc ly trong tay, quay đầu qua một bên, chàng nhìn về hướng của vào đại sảnh, không để ý đến cái cổ áo hồ cứng chọc vào da chàng.
Bản nhạc nổi một khúc quadille với nhịp điệu nhanh hơn. Brodie nhìn lướt qua các cặp đang nhảy trên sàn, không tin rằng đã nhìn sót khi nàng đến, tuy nhiên vẫn kiểm soát lại cho kỹ. Yên tâm vì không thấy nàng trong số người đang khiêu vũ, chàng quay qua nhìn theo các khách dự dạ vũ đang trà trộn vào nhau ở vòng ngoài gần hàng cột cao ngất. Những chiếc áo dài bằng xa tanh trắng, lãnh màu mỡ gà, lụa màu xanh nhạt và những áo vẽ hoa, kết các hạt cườm và đanten, nhưng không có cái nào là của nàng Adrienne Jardin tóc đen mắt đen.
Chàng nhấp một ngụm rượu và nhìn vào một nhóm khách đang tiến vào đại sảnh. Chàng nhận ra một chủ nhân đồn điền ở miền thượng lưu dòng sông cùng gia đình của ông và định quay mặt đi, nhưng kịp nhìn thấy người đàn bà luống tuổi mặc áo dài màu xám, đội một cái mũ bằng ren có những dải màu hồng không che kín được các chỗ tóc nâu đã bắt đầu thưa. Đó là người cô của Adrienne, có vẻ chua chát và buồn bã.
một giây sau, người chủ đồn điền và gia đình quẹo qua bên phải, còn lại nàng đứng đấy, mái tóc đen cuốn cao trên đỉnh đầu, một hoa hồng đỏ như máu cài một bên mái tóc, cổ áo hở thấp của chiếc áo dài lụa để lộ hai vai trắng ngần. Bỗng nhiên không khí ban đêm trở thành sắc bén và gay gắt, và mọi mùi hương đều trở thành dễ chịu và ngào ngạt. Thấy nàng, chàng hết bồn chồn và sốt ruột.
Chàng đặt lại ly rượu trên quầy, rồi đờ người ra khi trong thấy người thanh niên đi bên nàng, mảnh dẻ và lịch sự trong bộ áo quần dạ hội màu đen. Anh ta cũng có tóc đen và mắt đen như Adrienne, và nét mặt hai người hao hao giống nhau, tuy nét mặt anh ta cứng cỏi hơn. Đó là Dominique Jardin. Dòng họ Jardin sẽ tồn tại qua chàng thanh niên này.
Brodie thở ra nhẹ nhõm hơn nhưng không nhiều lắm. Theo lời Cado, Dominique Jardin không phải là một loại công tử bột Creole dễ xem thường. Mới 25 tuổi, anh ta đã có thành tích đấu kiếm hơn 12 lần, và người ta nói rằng tài đánh kiếm của anh ta chỉ có thầy dạy kiếm của anh ta đánh lại mà thôi. Hơn thế nữa, anh ta và Adrienne gần gũi nhau một cách đặc biệt, còn hơn là anh và em. Người ta nói rằng anh ta tự hào về sắc đẹp của cô em gái và bảo vệ thanh danh của nàng vô cùng chặt chẽ. Brodie tư lự cầm lại ly rượu Brandy và dành một phút để suy nghĩ về trở ngại mới xuất hiện này. Cho tới nay, chàng chỉ phải quan tâm đến người cô đi theo kèm Adrienne mà thôi, và bà ta tương đối dễ đối phó. Bà ta nổi tiếng hà tiện trong khu Quartier; Brodie chỉ cần chờ cho bà mặc cả với một người bán hàng nào đó, là chàng có thể yên tâm nói chuyện với Adrienne. Cado quả quyết rằng cô gái già ấy dùng tiền cho bớt được để lén mua rượu. Các người ở trong nhà nói, bà ta uống vũng rượu.
Khổ thay Dominique Jardin không có những khuyết điểm tương tự. Trái lại, người ta nói anh sắc bén và nhanh nhẹn như lưỡi kiếm của anh lúc sử dụng, là một người thừa kế xứng đáng để nối dõi dòng họ, một người đàn ông phải trực tiếp tiếp xúc. Brodie uống cạn ly brandy và rời quầy rượu, chậm rãi, ung dung bước về hướng hai người.
Trong khi tiến vào đại sảnh, vịn vào tay người anh, Adrienne chàp đáp lại các người quen biết vẫy tay hoặc gật đầu chào, mắt luôn luôn di chuyển, cẩn thận không bỏ sót một dấu hiệu nhận biết của một bà mệnh phụ nào, và miệng luôn luôn mỉm cười đầy vẻ chủ ý.
Các âm điệu vui tươi của khúc quadrille tràn đầy gian đại sảnh, nổi lên trên tiếng nói rì rầm vui vẻ và tiếng sột soạt tràn lan của lụa là, xa tanh, trong đó tiếng sột soạt khe khẽ của cái áo dài tổ ong của nàng bị chìm hẳn, cái vòng tròn nâng váy lót của nàng lên và giữ cho váy ngoài phồng ra tròn xoay, hở khỏi mình nàng, làm nàng có vẻ như trượt trên sàn cẩm thạch bóng loáng.
một vài nơi có những bàn tay mang găng đưa ra nắm lấy cánh tay nàng và Dominique giữ lại.
- Adrienne, phải chi mẹ cô còn đây để thấy cô lớn lên xinh đẹp như thế nào!
một người khác:
- Ái chà, mới hôm qua đây thôi cô còn ngủ quên trong lô chúng tôi ở nhà hát nhạc kịch.
- Dominique, anh nhớ Gisette, con gái của tôi chứ?
- Ông nội các cháu đâu? Tôi đã hy vọng gặp ông các cháu tối nay.
Dominique giải thích rằng một chuyện khẩn cấp tại một đồn điền của họ ở thượng lưu sông đã đòi hỏi ông nội của anh ta có mặt, nhưng có lẽ không lâu, vài ba ngày thôi, rồi hai người tiếp tục đi tới, dưới các hành lang vòng quanh trần nhà mái vòm.
Bản Quadrille chấm dứt, Adrienne theo dõi các cặp khiêu vũ rời sàn nhảy, và ý thức nàng bị căng thẳng đến nỗi bàn tay nàng bóp chặt cái quạt xếp trong tay. Một lần nữa, nàng liếc qua các gương mặt đàn ông mặc đồ dạ hội màu đen bắt buộc, bỏ qua các bà để hở vai trong áo dài satin, không chịu thừa nhận nàng có tìm một người nào đặc biệt.
Sàn nhảy chưa trống hết thì ban nhạc đã nổi lên một bản nhạc khác, lần này là một điệu valse. Dominique quay qua bà lớn tuổi:
- Đi cô Zee Zee. Cho phép cháu nhảy bản này với cô.
Bà ta hừm một tiếng để đáp lại, vẻ mặt coi thường lời mời, nhưng ánh mắt đầy thương mến nhìn anh ta:
- Cô già quá rồi, không còn nhảy nhót gì nữa. Cháu hỏi mời cô như vậy là đủ bổn phận rồi, đừng đề cập đến chuyện đó nữa.
- Vậy mà cô bảo là thương cháu nhất, cô thương ở chỗ nào, cô làm cháu chạm tự ái đấy – Dominique nói giỡn.
- Thì cháu là cháu trai duy nhất của ta, con bị chạm tự ái thì rồi cũng hết nhanh thôi. Tốt hơn là cô nên ngồi dọc theo tường với các bà già khác. Nếu cháu muốn tỏ ra thương cô, thì chút nữa nhớ bưng đến cho cô một ly rượu mùi.
Bà tách ra khỏi hai người và đến ngồi chung với các bà nạ dòng dọc theo tường, trên những chiếc ghế đã dành sẵn cho những người không khiêu vũ. Bà sẽ ngồi hết đêm ở đó, nghe chuyện mách lẻo và thỉnh thoảng xen vô một câu châm chích của mình. Adrienne thấy thương hại cho sự cô đơn của người cô, đóng vai trò không hơn gì một người ở được quý trọng, quản gia của cha, lệ thuộc vào ông mà sống, và chỉ có hai nguồn vui: Dominique và rượu mùi.
- Chút nữa anh đã làm cho cô bật cười – Adrienne nói châm chọc người anh – Cô thương anh quá chừng!
- Vậy là xấu hay sao? – Anh ta ngửa đầu lui, giả vờ bị xúc phạm.
- Rất xấu. Có quá nhiều phụ nữ tôn thờ anh rồi, thêm một người nữa sẽ làm cho anh kiêu ngạo – Nàng nói đùa lại.
Thay vì tiếp tục nói giỡn, Dominique bỗng xoay qua nghiêm túc:
- Nhưng có quá nhiều phụ nữ thương anh vì anh thì ít, mà vì tên tuổi Jardin và sự giàu sang của gia đình mình thì nhiều.
Nàng nhìn anh, câu nhận xét của anh ta làm nàng nhớ lại, một ngày nào đó anh ta sẽ phải đảm nhận một mình rất nhiều bổn phận và trách nhiệm, mà anh ta đã được giáo dục để đảm nhận từ khi mới sinh ra. Lúc lên mấy tuổi nàng đã biết, dù ông nội nàng thương yêu nàng bao nhiêu chăng nữa – và ông chưa hề cho nàng cái cớ để nghi ngờ lòng thương yêu của ông đối với nàng – nàng cũng sẽ không bao giờ chiếm được một chỗ quan trọng trong đời ông như Dominique, anh nàng. Nàng là nỗi thú vị của đời ông nội nàng, nhưng Dominique là người thừa kế ông. Nhờ có anh ta mà dòng họ của ông sẽ còn mãi mãi có người mang. Đời là thế, và nàng thương yêu người anh quá nhiều nên chẳng bao giờ ganh tỵ với địa vị của anh trong gia đình.
Ngắm nét mặt nhìn nghiêng của anh, nàng nói:
- Cô gái nào nhìn anh mà chỉ thấy những cái đó thì không xứng đáng với con người của anh.
- Em gái của anh khen anh à? – Dominique nhướng một bên chân mày làm bộ ngạc nhiên – Tối nay ắt hẳn có nhiều chuyện lạ đến với anh.
- Hay hy vọng sẽ có nhiều nữa.
Adrienne lại quay ra nhìn các cặp đang bước xuống sàn nhảy, và nhìn lướt qua những khách đứng đông đúc hai bên. Bằng đuôi mắt, nàng thoáng thấy một màu đỏ sẫm. Chàng có ở đấy. Cách nàng chưa đến 10m. đang nói giỡn qua lại với ông Rousseau. Nàng liếc mắt nhìn chàng một giây, và hài lòng hơn vì thấy chàng mặc lễ phục thật lộng lẫy, cái cravat trắng thắt thành một nút nhỏ, ngay ngắn ở cổ áo, chiếc áo dạ hội đen đuôi tôm làm nổi bật hai vai rộng của chàng một cách tuyệt đẹp. Rồi nàng nhìn đi nơi khác, đột nhiên cảm thấy hân hoan trong lòng và mỉm cười thầm nhủ “có lẽ sẽ có nhiều ngạc nhiên tuyệt vời hơn nữa”.
Mặc dầu nàng vẫn tránh nhìn về phía chàng, nàng biết ngay khi chàng bắt đầu bước đi về phía nàng. Thế nhưng nàng vẫn làm ra vẻ không biết chàng đi tới gần, mà khoái chí nhìn mấy phụ nữ khác day lại nhìn về hướng chàng với đôi mắt tò mò và hâm mộ.
Chờ cho đến khi hình dáng cao lớn của chàng đã vào hết trong tầm mắt, nàng mới làm ra vẻ chợt thấy chàng. Nhưng đôi mắt nâu của chàng ánh lên một sự tinh tế khiến nàng tự hỏi có lừa được chàng hay không.
- Chào ông Donavan – Nàng nói trước.
- Chào cô Jardin.
Chàng nghiêng đầu bày tỏ sự kính trọng, mắt chàng nhìn thẳng vào mắt nàng hơi lâu hơn một tí xíu như phép lịch sự đòi hỏi, để khẳng định lại chàng để ý đến nàng, rồi tiến tới người anh trai của nàng, một lần nữa tỏ ra tuân theo phép lịch sự trong xã giao, dù chỉ ngoài mặt.
- Dominique, cho phép em giới thiệu với anh ông Brodie Donavan – Adrienne nhanh nhẩu giới thiệu – Anh tôi, Dominique Jardin.
Nàng nghe tiếng người anh đáp lại lạnh lẽo và thấy họ bắt tay như thử sức nhau. Những câu hỏi tế nhị của Brodie Donavan đúng như sự trong đợi của nàng, và những câu đáp đúng cách của Brodie Donavan cũng vậy.
Trong hai tuần lễ vừa qua, Adrienne đã điều tra kín đáo về Brodie Donavan và biết được chàng được sự kính nể của vài ba nhà kinh doanh lớn nhất ở khu phố Cổ thành, họ đều nhận xét là chàng lịch sự, kiên nhẫn và bén nhạy về mặt làm ăn, họ luôn luôn nói thêm: “phải chi có được nhiều hơn những người Yankee như ông ta”. Nhưng qua mấy lần gặp chàng, nàng cũng ý thức được, tuy chàng có thể đã thích nghi với lối cư xử của họ, chàng không lấy nó làm của mình. Chàng không chút nào giống những thanh niên Creole mà nàng quen biết, không bao giờ huênh hoang ưỡn ngực ra như những con gà đá, không bao giờ dở thói dâm đãng làm nàng ớn lạnh xương sống, khác với sự kích thích nàng cảm thấy được với đôi mắt sắc bén, vui vẻ của Brodie Donavan.
Không, Donavan có tính thắng thắn mà chàng không hề bao giờ che đậy, bằng chứng là cách chàng nhìn nàng – cách một người đàn ông nhìn người phụ nữ anh ta muốn và có ý định cuối cùng sẽ chiếm được.
- Xin phép ông Jardin cho tôi được mời cô em gái của ông khiêu vũ bản này – Chàng nói và nhìn vào nàng bằng cách ấy.
Nàng có cảm giác Dominique nhìn nàng nên nàng quay mặt lại và khẽ gật đầu tỏ ý chấp thuận lời yêu cầu của chàng. Vẻ mặt Dominique liền trở nên tư lự và dò xét, một nét cau mày thoáng hiện ra. nhưng anh ta mỉm cười và gật đầu với Brodie đối với tỏ ý chấp nhận.
- Vâng, tôi đồng ý – Anh ta nói.
Khi Brodie đưa cánh tay lên mời, Adrienne đặt bàn tay lên tay áo chàng và đi theo chàng ra sàn nhảy. Khi chàng quay ngang đối diện với nàng, nàng thấy trước mặt mình hai vai rất rộng, và vạt áo sơ mi bằng vải phin trắng của chàng. Nàng cảm thấy mấy ngón tay chàng co lại đỡ bàn tay nàng, và bàn tay kia áp lên tấm lưng ấm áp ở eo nàng, hướng dẫn nàng đi mấy bước đầu điệu Valse, cái váy rộng thùng thình của nàng giữ một khoảng cách giữa hai người. Nàng ngước lên nhìn vào đường môi chàng đang cong lại với vẻ ấm áp, rã rượi.
- Ông nhảy hay lắm, ông Donavan – Nàng nhìn thẳng vào mắt chàng, ý thức trong lòng đang xao xuyến một cách thú vị.
- Cô muốn nói đối với một người Mỹ? – Chàng mỉm cười, hai khóe miệng lõm vào, làm hai nếp lúm ở má hiện ra.
Adrienne khẽ mỉm cười. Có lẽ chàng đã nghe câu nói ấy cả ngàn lần, và bây giờ áp dụng nó vào chính mình.
- Ông nhảy giỏi, đối với bất cứ ai – Nàng lại quả quyết.
- Một lời khen ngợi của cô Jardin xinh đẹp – Chàng khẽ nghiêng đầu tỏ ý cám ơn, mắt ánh lên vẻ vui thích – Tôi chỉ nghĩ ra được một chuyện khác có thể làm tôi thích thú hơn tối nay.
- Và chuyện ấy là gì, thưa ông? – Nàng đáp lại cũng bằng giọng đùa cợt, câu hỏi nửa đùa nửa thật.
- Một cái hôn của đôi môi cô.
Bất giác nàng nhìn xuống miệng chàng, và trong khoảnh khắc, tưởng tượng ra… và nói lớn:
- Sao ông cả gan nói với tôi như vậy?
- Sao cô cả gan dám nghe? – Chàng đáp lại, bàn tay của chàng áp chặt thêm lên eo nàng và xoay nàng liên tiếp mấy vòng làm nàng muốn hụt hơi, không có dịp để trả lời.
Cuối cùng khi chàng trở lại với nhịp độ cũ, thì nàng cảm thấy không nên nhắc lại câu nói của chàng làm gì nữa. Bản nhạc chấm dứt, những câu nói kia vẫn còn đeo đuổi nàng – “một cái hôn của đôi môi cô!”, “một cái hôn”, “hôn”. Những tiếng đó vang dội mãi trong đầu óc nàng mỗi lần nàng gặp mắt chàng trong đêm đó, mỗi lần nàng khiêu vũ với chàng, mỗi lần nàng nghĩ đến chàng.
Chàng lại đến mời nàng nhảy một bản valse nữa, và nàng lại theo chàng ra sàn nhảy, bàn tay chàng áp lên người nàng, những bước trượt dài của chàng, hình ảnh gương mặt của chàng trước mắt, bây giờ đã trở thành quen thuộc.
- Ông có biết bản này là bản thứ 12 chúng ta nhảy với nhau tối nay không? – Nàng nói, ý thức nhiều cặp mắt đang dồn vào họ và đoán già đoán non.
- Cô có đếm kia à? – Chàng nói rồi mỉm cười, cái mỉm cười chầm chậm mà nàng đã thấy mình đâm ra chờ đợi – Tôi cũng vậy.
- Người ta bắt đầu để ý.
- Cho họ để ý. Dù họ có nghĩ gì, cũng có lẽ đúng – Chàng nhảy chậm lại và đưa mắt nhìn quanh – Cô mệt chưa, cô Jardin?
- Tại sao ông hỏi vậy? – Nàng ngạc nhiên vì câu hỏi bất ngờ.
- Hãy đi đây với tôi – Chàng chỉ nói vậy và điềm nhiên dẫn nàng bước ra khỏi sàn nhảy, làm như ngừng nhảy ngay giữa một bản valse là một việc tự nhiên vô cùng.
Chàng thong thả đưa nàng đi qua những người đứng xem vây quanh. Adrienne thấy hai người đang đi về hướng cửa ra thành phố St. Louis. Nàng không nói gì khi mấy ngón tay chàng ấn vào cánh tay nàng để giữ nàng đứng lại, làm như thể họ nán lại quanh đó. Chàng lén nhìn quanh một lần nữa, rồi kéo nàng đi ra cửa. Chàng nhìn nàng với vẻ có âm mưu, họ rời khỏi phòng khiêu vũ và rảo bước đi qua các cửa tiệm ở dọc theo hàng cột. Bà cô của nàng có lẽ sẽ khó chịu nếu Adrienne đã cố tình lẻn đi ra khỏi tầm mắt canh chừng của bà, nhưng bây giờ nàng không quan tâm đến việc đó.
Vào khoảng giữa của chiều dài hàng cột, âm nhạc và tiếng nói rì rầm không còn nghe nữa. Tay chàng lại kìm giữ nàng dừng lại. Nàng quay qua đối mặt với chàng, cảm thấy hết sức vui thích, nhất là khi thấy lại ánh mắt ấy của chàng. Họ đang ở gần chỗ thụt vào trước một cửa tiệm. Adrienne thơ thẩn bước tới nhìn vào tủ kính, rồi quay lại, hai tay chắp sau lưng và dựa vào một góc cửa ra vào.
- Đáng lẽ ông không nên đưa tôi đến đây – Nàng nói.
Chàng chống bàn tay lên trên khung cửa bên trên đầu nàng.
- Đáng lẽ cô không nên đến. Tại sao cô đã đến?
Adrienne trả lời chàng thẳng thắn, ngay thật:
- Tôi muốn ở một mình với ông.
Nàng nghe tiếng chàng hít vào và mắt chàng dán lên hai môi nàng. Nàng nhìn đôi mắt chàng tới gần, hai mi mắt nàng hạ xuống dần cho đến khi hàng mi của nàng khép lại cùng lúc môi chàng chạm vào môi nàng. Sự tiếp xúc đầu tiên nhẹ nhàng và có ý thăm dò, phớt lên chỗ này, áp lên chỗ kia, và hơi thở của nàng thoát ra trộn lẫn vào hơi thở của chàng. Rồi miệng chàng áp riết lên miệng nàng, phủ hết lên đôi môi nàng trong một nụ hôn dịu dàng nhưng làm nàng rạo rực.
Khi chàng ngẩng lên, nàng cảm thấy hối tiếc. Từ từ mở mắt ra, nàng nhìn chàng, sửng sốt vì thấy chàng không ôm nàng vào lòng. Môi họ lại gặp nhau, nhưng sự tiếp xúc chỉ có thế. Vẫn còn khoảng cách giữa hai người. Nàng nhìn mặt chàng dò xét, tìm câu trả lời cho sự ngây ngất đang xâm chiếm nàng. Mắt chàng cũng dò xét nàng.
- Adrienne! – Chàng kêu lên.
Gần như đồng thời, hai bàn tay chàng ôm chầm nàng kéo vào lòng, trong khi môi chàng lại áp lên môi nàng. Đâu đó trong trí nàng có sự ghi nhận là nàng chưa hề cho phép chàng gọi tên nàng bằng tên tục. Nhưng anh chàng Yankee này không phải hạng người chờ được phép. Chàng ta muốn gì là chiếm lấy, cũng như đang chiếm lấy môi nàng để hôn. Nàng hôn trả lại còn nồng nhiệt hơn, hai bàn tay nàng ôm choàng lấy chàng, các đầu ngón tay bấu vào tóc chàng. Người nàng nóng ran lên, nhưng nàng không tìm hiểu nguồn gốc ở đâu. Nàng còn mải chú ý đến rất nhiều cảm giác khác được phát hiện, trong khi nụ hôn của chàng giải phóng tất cả những thèm khát bị dồn nén của nàng và để lộ ra lần đầu tiên cho nàng thấy bản tính đam mê sâu sắc của mình.
Khi chàng buông môi nàng ra, nàng chỉ nhìn mà không nói được, ý thức con tim đang đập rộn ràng và trong lòng run rẩy không phải vì yếu, mà rõ ràng vì chàng hôn. Nụ cười mỉm của chàng cũng có vẻ không vững chắc. Chàng nói:
- Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc tôi nói chuyện với ông nội của cô được rồi.
- Dạ – Nàng nói, hoàn toàn đồng ý – Ông tôi đang đi vắng. Chúng tôi chờ đợi ông về nhà đầu tuần tới – Nàng đưa tay lên vuốt theo đường cong của môi chàng, và nhớ lại cảm giác khi hôn – Ông đã có được cái hôn rồi đấy. Tối nay sự thích thú của ông thế là đầy đủ đấy nhé!
- Phải, nhưng cuộc đời tôi bây giờ lại thiếu thốn – Chàng cầm lấy mấy ngón tay nàng đưa lên môi – Tốt hơn là chúng ta nên trở lại với buổi khiêu vũ, trước khi tôi hành động như một gã Yakee và bắt cóc cô đưa đi khỏi nơi này.
Trong khi đi trở lại phòng khiêu vũ, Adrienne bất giác ngẩng đầu cao hơn, trong lòng vui thích vì cảm thấy mình lớn hẳn lên. Sau khi trở lại phòng khiêu vũ, Brodie đề nghị uống sambanh, nàng nhận lời ngay, mừng vì được đứng lại một mình trong một lúc để tìm hiểu những cảm xúc mới của mình. Nhưng chưa được bao lâu thì Dominique đã đến.
- Trong em có vẻ sung sướng vì một chuyện gì – Anh ta nói.
- Đúng thế – Nàng thú nhận – Ông Donavan sắp xin phép ông nội đến thăm em tại nhà.
Dominique sửng sốt nhìn nàng:
- Adrienne, bộ em mất trí rồi sao? Ông ấy là một Yankee…
- Em biết.
- Ông nội sẽ…
- … làm mình làm mẩy, kêu trời kêu đất, làm mặt giận trong vài ngày, và cuối cùng cho phép – Adrienne nói với vẻ tự tin.
- Sao em có thể chắc chắn như vậy? – Dominique lắc đầu với vẻ không tin.
- Dominique – Nàng nói với giọng trách móc nhưng mỉm cười – Có bao giờ ông nội từ chối không cho em cái gì em thích đâu.
- Nhưng vì em chưa bao giờ thích một Yankee – Anh ta nhắc nhở nàng.