Chúng tôi từ bỏ ý định đi qua nước Khương, quyết định từ phía đông nước Trần vòng qua nước Triệu đến nước Trịnh để đánh lạc hướng Mộ Nghi và toán hộ vệ áo đen, cuối cùng thành công.
Suốt dọc đường bôn ba như vậy vốn rất mệt mỏi, nhưng do đi cùng Mộ Ngôn tôi chẳng thấy mệt chút nào. Trong thâm tâm tôi còn mong hành trình dài hơn chút nữa, nhưng không có Tiểu Hoàng vướng chân, nguyện vọng đó không dễ thực hiện, tôi cũng cố tình dềnh dàng nhưng vẫn nhanh chóng đến biên giới hai nước Trịnh, Triệu.
Trăng treo giữa trời tỏa sắc vàng óng ánh, chúng tôi tìm một lữ quán, ai về phòng nấy ngủ. Tôi nằm trên giường vừa tính lộ trình đến thành Tứ Phương nước Trịnh, vừa âm thầm nhớ Tiểu Hoàng, trong lòng hơi oán thán, tại sao họa hoằn mới có lần cần đến nó thì nó lại không có mặt, đúng là một con hổ đáng ghét.
Sáng sớm hôm sau, rửa mặt súc miệng xong xuôi, xuống lầu ăn sáng đã thấy Mộ Ngôn đợi ở phòng lớn lữ quán. Chàng đã thay áo chùng gấm màu lam óng ánh, trong ánh sáng buổi sớm trong như ngọc bích, toàn thân chàng như phủ màn khói lam mờ. Tôi dừng chân thầm nghĩ, trên đời có lẽ không ai hợp với màu lam hơn chàng, ai dám mặc màu lam trước mặt chàng là tự biến mình thành kệch cỡm.
Lại nghĩ, lần sau gặp Quân Vỹ nhất định phải khuyên anh ta nên kiên trì màu trắng hiệp sỹ, không nên thấy màu lam không dễ bắt bụi mà chuyển sang mặc màu lam. Ngắm nhìn lam y trên người Mộ Ngôn, lại nhìn lam y trên người Quân Vỹ, e sẽ thấy ngay sự khác biệt.
Nghĩ xong đi tiếp xuống lầu, nhân tiện chỉnh lại cái váy, ngẩng đầu nhìn thấy Mộ Ngôn vốn đang nghiêng đầu nhìn ra cửa sổ, không biết từ lúc nào đã chuyển sang nhìn tôi, khi ánh mắt gặp nhau, chàng mỉm cười với tôi, hậu quả trực tiếp là tôi ngã lăn xuống cầu thang.
Cho dù Mộ Ngôn thân thủ phi phàm, lần này cũng không giải cứu thành công, bởi vì không phải là khoảng cách từ tầng bảy xuống tầng một, chỉ là từ bậc cầu thang thứ bảy xuống mặt đất, khoảng cách của tôi với mặt đất quá gần, trong khi khoảng cách với chàng lại quá xa, ấy là chưa nói giữa đường còn có những vật cản như bàn ghế.
Điều đáng buồn là trong khoảnh khắc tiếp đất nhanh như tia chớp, đầu tôi đang nghĩ liệu cái váy có bị lấm bẩn, nhưng trong họa có phúc, trong đầu lóe lên ý nghĩ, cú ngã này hóa ra lại tốt, tôi sẽ có lý do giả bệnh, nấn ná ở lại thị trấn nhỏ vùng biên này là có thể, là có thể ở bên Mộ Ngôn lâu hơn nữa.
Chỉ bực từ trước không nghĩ ra biện pháp tự lực cánh sinh như vậy, một lòng gửi gắm hy vọng vào Tiểu Hoàng cách xa nghìn vạn dặm không biết giờ đang làm gì. Nhưng giả bộ đau đớn cũng không đơn giản, bởi vì bây giờ tôi đã không còn cảm giác đau đớn thể xác nữa, chỉ cố nhớ lại cảm giác ngày xưa, đang nghĩ như vậy thì bị Mộ Ngôn nâng dậy: “Đi cầu thang cũng ngã, cô bao nhiêu tuổi rồi?”.
Tôi giả bộ xuýt xoa rên rỉ, tỏ ra mình rất đau.
Chàng cau mày điều chỉnh tư thế ôm tôi: “Đau ở đâu?”.
Tôi khổ não nhìn chàng: “Chỗ nào cũng đau”.
Chàng dừng lại: “Vậy phải đến y quán gặp đại phu”.
Tôi hốt hoảng, thầm nghĩ trò đùa này hơi quá rồi, vội vã vùng khỏi lòng chàng, cười cười: “Chẳng đau ở đâu hết, không đi y quán, tôi đùa huynh đấy”.
Chàng nhìn tôi không chớp mắt.
Tôi lau mồ hôi trên trán, vẫn cười cười: “Đến y quán thì to chuyện quá, huynh xem, tôi rất khỏe, đùa huynh tí thôi, hồi nhỏ tôi ngã liên tục, quen rồi, chẳng đau tẹo nào”.
Chàng cau mày: “Thật không?”.
Tôi gật lia lịa: “Thật”.
Chàng vẫn cau mày, “Lúc nhỏ là thời kỳ cơ thể phát triển, nếu bị trật xương sau này sẽ rất phiền phức”.
Tôi trả lời: “Tôi mười bảy rồi”.
Chàng mỉm cười bất lực, lát sau đã chuyển chủ đề: “Không sao thì tốt, đi ăn sáng thôi”. Mới bước hai bước lại hỏi: “A Phất, bữa sáng cô muốn ăn gì?”.
Cuối cùng Mộ Ngôn không đưa tôi đến y quán khám bệnh, nhưng tôi vẫn phấp phỏng, mặc dù tỏ ra hùng hổ mạnh mẽ, nhưng lúc bước đi quả thật cũng hơi tập tễnh, có điều nếu không tỏ ra hùng hổ mạnh mẽ sẽ bị đưa đến y quán, sau đó bị phát hiện là một người chết, rồi bị đưa đến một cơ quan nghiên cứu những sinh vật kỳ lạ thì phiền phức to.
Có lẽ tôi nhảy nhót quá mạnh, cứ như hồi quang phản chiếu ấy, Mộ Ngôn càng cho là tôi cần nghỉ ngơi, quyết định lưu lại một đêm ở thị trấn vùng biên này.
Thị trấn rất sầm uất, bán đủ thứ, có đồ chơi hình thiếu nữ bằng lông vũ, kết tóc kiểu như ý, có cả một chiếc khăn quàng nghe nói là của một người đàn ông phong lưu rất điển trai nào đó qua đời đã lâu, còn có cả bạch trùng tử phơi khô, đặc sản của nước Triệu, nghe nói đem pha nước uống có thể chữa được bệnh tương tư.
Tôi rất hứng thú với bạch trùng tử đó, thầm nghĩ nếu đúng có công hiệu như vậy, có thể mua một ít nghiền nhỏ cho vào thức ăn của Mộ Ngôn, để chàng quên Tử Yên cô nương, để làm lại từ đầu.
Nhưng hỏi thăm tiểu nhị, phát hiện cái đó chỉ có thể pha nước uống, không thể đem một con bạch trùng tử đó pha nước, đổ vào bát cơm của Mộ Ngôn và nói với chàng: “Nào, cho huynh ăn món này, huynh xem, hình như trùng tử này… thực ra nó đúng là trùng tử, nhưng không phải là trùng tử thường…”.
Có lẽ tôi còn chưa nói hết, chàng đã đổ sạch cơm, như vậy e quá lãng phí.
Người biên giới rất giỏi nấu rượu, bữa trưa dùng rượu hoa mai pha tuyết, vẫn là Mộ Ngôn trả tiền, sau đó được chàng dẫn đi nghe kể chuyện ở một trà quán rất trang nhã gần khu chợ. Chúng tôi không đi dạo phố nữa.
Tôi còn nhớ Quân Vỹ có một quan điểm, anh ta cho là, đàn ông hầu hết đều không thích đưa các cô gái đi chơi, bởi vì nếu cô gái thích thứ gì nhất định đàn ông phải trả tiền, đàn ông chẳng qua chỉ là cái túi tiền mà thôi, còn giả sử cô gái không thích gì… điều này không bao giờ xảy ra, quả thực không bao giờ xảy ra. Đương nhiên quan điểm hẹp hòi đó không thể áp dụng đối với tôi và Mộ Ngôn, chúng tôi đến trà quán nghe kể chuyện chỉ là do lúc đó bên ngoài đang là nắng tháng sáu, bỏng rát đầu.
Trong quán trà không còn chỗ trống, đành phải ngồi ké với một người khách ở chân cầu thang, Mộ Ngôn rút trong ống tay áo một cái quạt gấp, xòe ra đủ mười hai nan, quạt phe phảy, hơi gió mát thoảng qua mặt. Lão tiên sinh kể chuyện ngồi ngay ngắn đang kể đến một trường đoạn rất thê lương: “Mười lăm tháng năm là một đêm trăng, nhị công tử Tô Tạ nghe nội giám truyền mật báo, nói: ‘Trần hầu vương bệnh trọng đã lâu, hiện đã trút hơi thở cuối cùng, lúc tạ thế chỉ có tể tướng Doãn Từ phục hầu trước long sàng, nửa khắc trước, Doãn Từ đã sai tâm phúc đi đón thế tử Tô Dự đang ở cách xa tám trăm dặm về cung kế thừa vương vị, nhị công tử nếu muốn khởi sự, đêm nay là thời cơ tốt nhất, nếu để thế tử trở về, cục diện khó bề vãn hồi’. Tô Tạ bao năm khổ công chính là chờ đợi ngày này, phụ hoàng đã cưỡi hạc tây quy, huynh trưởng kế vị đang bị trọng thương, lang thang cách cả gần ngàn dặm chưa về, thời cơ thuận lợi hiếm có. Vậy là, đêm đó Tô Tạ khởi sự bức cung, thế mạnh như chẻ tre, chém giết, xông thẳng vào vương cung, vệ úy Quang Lộc Huân trở giáo đầu hàng, Hạo thành bị đốt, lửa ngùn ngụt sáng rực suốt bảy chục dặm, cả vương đô mù mịt mùi khói lẫn mùi máu tanh. Trong vụ chính biến ở vương cung, do thế tử kế vị vắng mặt, ai cũng tưởng đại cục đã định, người kế vị Trần hầu vương đương nhiên là nhị công tử Tô Tạ. Nhưng sự đời thay đổi khó lường, khi Tô Tạ còn chưa kịp tra thanh bảo kiếm dính máu vào bao, cánh cổng vương cung đóng chặt đột nhiên từ từ mở ra…”.
Tôi nói: “Cánh cổng đó nhất định là nhiều năm không bảo dưỡng”. Vừa dứt lời, hoảng hốt nhận ra lão tiên sinh đã rất mệt mỏi đang uống nước lấy lại sức, trong khi mọi người xung quanh vẫn ngồi im phăng phắc, đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng của cuộc binh biến trong cung, cả lầu hai trà quán im lặng rất lâu, lời nói của tôi nghe rõ mồn một.
Mộ Ngôn phe phẩy quạt, trong mắt hơi cười cười, nhưng không nói gì. Tôi lè lưỡi, cúi mặt xuống bàn, chấp nhận những ánh mắt bất bình của mọi người.
Bên ngoài, nắng vẫn gay gắt, lá liễu mỏng manh bị nắng đốt khô vàng, cong queo, tiếng ve trong tán lá dày khàn đặc như kiệt sức. Lão tiên sinh uống nước xong, tiếp tục kể: “Nghe đồn, Trần thế tử Tô Dự có một đội quân riêng gồm ba trăm thiết vệ, mỗi người là một thanh lợi kiếm vô cùng lợi hại, trở thành đội kỵ binh dũng mãnh không gì ngăn được. Trước đó, chuyện về đội quân bí mật của thế tử Tô Dự đa phần chỉ là đồn đại, nhưng chính lúc nhị công tử Tô Tạ tạo biến, đại cục sắp ổn định, từ phía sau cổng cung mở rộng, ba trăm thiết vệ cưỡi ngựa vó bọc sắt lần đầu xuất hiện. Từ dưới vó sắt của đội kỵ binh quét ra một đường máu thảm đạm, từ cổng chính đồ sộ màu nhạt của vương cung, một con hắc mã chân đạp tuyết thong thả đi vào, thế tử Tô Dự vốn tưởng đang ở cách vạn dặm lại đường hoàng cưỡi trên lưng chiến mã, trong tay cầm thủ cấp đẫm máu của trưởng cấm vệ quân Hình Vô Giai. Tình thế lập tức xoay chuyển, mấy phó cấm vệ quân phần lớn là do Tô Dự bí mật tiến cử giờ đã đứng về phía Tô Dự, Tô Tạ dù có là hổ mọc cánh thì lúc này cũng không thể khống chế cục diện”.
Tôi cảm thấy mình sắp ngủ gật đến nơi, tiếng kể chuyện như tiếng ru ngủ bên tai, tôi gắng chống đầu khẽ nói: “Câu chuyện này dài ghê”.
Mộ Ngôn vừa uống trà vừa hỏi: “Cô đã nghe đoạn kết chưa? Kết cục rất đơn giản, Trần hầu vương thực ra không chết, chỉ hôn mê một thời gian, khi tỉnh dậy thấy đứa con bất hiếu nhân lúc mình bệnh nặng làm phản, lập tức ban cho cái chết. Nhị công tử Tô Tạ bị xử tử chưa được mấy ngày, nước Đường, láng giềng của Trần bị nước Tấn xâm lấn, bèn cầu viện Trần. Trần hầu vương vừa ốm dậy, lại phiền não vì vụ binh biến của nhị công tử, hơn nữa thâm tâm cho rằng, trong cuộc chiến Đường – Tấn, tốt nhất Trần nên đứng ngoài cuộc, vì vậy không muốn xuất binh trợ Đường. Thế tử Tô Dự lại dâng biểu xin dẫn binh viện Đường, bàn luận mấy ngày, cuối cùng Trần – Đường liên thủ đánh bại Tấn”. Nói xong ngước nhìn tôi, “Những chuyện đánh nhau liên miên như vậy, cô còn nhỏ chắc là không muốn nghe?”.
Tôi nhìn chàng suýt khóc: “Tôi chỉ cảm thấy câu chuyện hơi dài, đâu phải tôi không muốn nghe, tại sao huynh lại coi thường tôi thế, lại còn coi thường lộ liễu như vậy, tôi hận huynh muốn chết!!!”.
Mộ Ngôn: “…”.
Một ấm trà sắp uống hết, lão tiên sinh cũng sắp kể đến đoạn kết cuộc chiến Đường – Tấn, bên ngoài nắng đã nhạt, ánh nắng lọt qua kẽ lá liễu dịu dàng tỏa xuống, hắt bóng nhảy nhót lên tường. Sau khi bị Mộ Ngôn chọc tức, tôi không còn thấy buồn ngủ nữa, gục đầu trên bàn lơ đãng quan sát nhân tình thế thái.
Lát sau, Mộ Ngôn đột nhiên nói: “Chuyện kể ở đây rất hay, mặc dù đa phần là nói quá, coi như nghe câu chuyện ly kỳ, cũng thấy thú vị”.
Đang nói đến đây, một chàng trai có vẻ rất hăng máu hét lên: “Tô Dự chẳng qua cũng chỉ có thế, nếu là tôi, cuộc chiến Đường – Tấn, vũng nước đục đó nhất định tôi sẽ không đi, đợi khi cả hai đại bại mới nhảy vào kiếm chác, chẳng phải quá tốt sao?”.
Xung quanh có người phụ họa.
Tôi lắc đầu, giơ tay cầm ấm trà, tỏ vẻ không tán đồng quan điểm đó.
Mộ Ngôn thong thả gập cái quạt trong tay: “Cô định nói gì à?”.
Tôi liếc nhanh chàng một cái, cúi đầu ấp úng: “Thôi”.
Tôi nói, “Bởi vì nói ra dài lắm, sau đó huynh lại bắt tôi ăn bánh bao, bánh chẻo gì đó, ăn xong tôi lại quên mất định nói gì”.
Bàn tay rót trà của chàng hơi run, bật cười: “Lần này tôi không bắt cô ăn, cô muốn nói gì cứ nói”.
Tôi nói: “Ồ, mà cũng chẳng có gì, chỉ là muốn bộc bạch một chút, định nói là thực ra cuộc đời giống như chiếc đồng hồ quả lắc, có vẻ như chỉ có hai khả năng, bên phải và bên trái, thực ra đúng là chỉ có hai khả năng bên phải và bên trái… huynh có thể nói trong quá trình quả lắc dao động diễn ra bao nhiêu khả năng, nhưng đều không phải là khả năng, chỉ là con đường dẫn tới khả năng, cuối cùng không ở bên phải thì ở bên trái. Tất cả đều có khả năng, nhưng cái gọi là tất cả đó chẳng qua cũng chỉ có hai khả năng hoặc bên phải, hoặc bên trái, chỉ có sự bất biến trong đó là không thể có, trừ phi đồng hồ hỏng, đó là hình dáng của sự sống dừng lại”. Nói xong liếm môi, hỏi chàng: “Huynh có hiểu không?”.
Chàng lắc đầu.
Tôi nghĩ phải nói thế nào đây, nghĩ hồi lâu cuối cùng nghĩ ra một ví dụ để đơn giản hóa ý của mình: “Thực ra chính là nói, giống như thế gian này, thế gian này không là đàn bà thì là đàn ông, đương nhiên nhân yêu cũng không phải không có, nhưng nếu anh ung dung làm một nhân yêu, nhất định sẽ bị xã hội kỳ thị, hơn nữa rất khó tìm bạn đời”. Tôi liếm môi hỏi, “Huynh hiểu không?”.
Chàng nói không hiểu.
Tôi bực mình “Thực ra rất đơn giản, ý tôi muốn nói chuyện này rất giống cảnh ngộ của Tô Dự, giả sử anh ta giữ thái độ trung dung, đứng ngoài cuộc, thì sau này anh ta sẽ rất khó tìm đồng minh trong các nước chư hầu. Những người kia đều suy nghĩ quá đơn giản, họ không biết thế sự rối loạn cũng giống như cuộc đời, không anh thì tôi, không tôi thì anh, nếu bản thân nước mình không đủ mạnh, về cơ bản không có tư cách trung dung, minh quân thánh chủ trong thời loạn thế lập trường phải rõ ràng. Đương nhiên nếu minh quân thánh chủ này đã là bá chủ một phương thì chẳng còn gì để nói”. Tôi nghiến răng: “Lần này huynh hiểu chưa?”.
Mắt chàng như cười, nhìn tôi: “Hay là chúng ta ăn chút gì đi, ăn xong hãy nói”.
“…”.
Nhớ lại thì đây là lần thứ hai tôi nghe thiên hạ bàn tán về Tô Dự ở chỗ đông người.
Nửa năm trước, con người đó dẫn mười vạn thiết binh nhẹ nhàng đánh bại Vệ quốc trong nụ cười nhạt, chứng tỏ dụng binh hết sức cơ mưu lại rất ung dung, trong cuộc khảo thí tuyển chọn quan lại ở đế đô, anh ta đã ra đề thi liên hệ với tình hình thời cuộc rất hóc búa, khiến cho những người hỏng thi vô cùng căm hận, người đó vinh hạnh trở thành nhân vật hoàng tộc bị giới nhân sĩ trí thức không ưa nhất trong năm.
Từ đó có thể thấy con người Tô Dự nhất định sau này sẽ làm nên nghiệp lớn, nhưng không phải là nói anh ta còn trẻ đã quyền cao chức trọng, hoặc có tài huấn luyện binh mã, chỉ có điều trong lịch sử, những người có thể ảnh hưởng đến tuyển lựa người làm quan cho triều đình đã chết sạch, anh ta là người sống duy nhất, khiến thiên hạ nhìn bằng con mắt khác. Hơn nữa có thể đồng thời bị nhiều người ghét như vậy cũng là một minh chứng, minh chứng anh ta hoặc là có ngoại hình xuất chúng, hoặc là nhà rất giàu sang, hoặc là rất có tài gì đó. Cho dù cả ba điều này đều không phải, ít nhất cũng chứng minh sự hiện hữu của con người anh ta rất nổi bật.
Nhưng bất luận thế nào, ngày hôm nay cũng là một ngày vô cùng viên mãn.
Đêm đen, gió vô tình khơi gợi tâm tư, tôi ngồi chong đèn viết những điều tâm đắc ngày hôm nay rồi thu xếp dọn dẹp chuẩn bị đi ngủ. Vừa tắt nến, ngoài cửa sổ cách giường hai bước đột nhiên có những tiếng động rất gấp, rồi có người rơi xuống đất, nền nhà bằng gỗ đàn hơi rung, tôi nghiêm giọng hỏi: “Ai?”.
Có vật gì lạnh ngắt chớp mắt đã kề cổ tôi, lúc này tay tôi đang mò tìm cái đánh lửa trong người. Về sau bao nhiêu lần nhớ lại cảnh đó, tôi cảm thấy mình đúng là đã thể hiện chí khí anh hùng, lúc nguy biến không hề sợ hãi. Nhưng thực ra chỉ là không biết vật kề cổ mình rút cục là vật gì. Sau đó xoẹt một cái, lửa lóe lên, tôi thận trọng cúi nhìn, một con dao găm sáng loáng .
Ánh lửa mờ mờ chiếu sáng một góc phòng, trên nền nhà là một đôi giày thêu có đường viền màu trắng, phía trên đôi giày là đường chân váy màu tím, cô gái kề dao vào cổ tôi khẽ cười: “Đao kiếm vô tình, cô nương xin chớ động đậy kẻo bị cứa đứt cổ”.
Tiếng cười gần trong gang tấc. Tôi liếc qua khóe mắt, quan sát người đó, ánh mắt vừa chạm mắt cô ta lại rùng mình kinh ngạc. Đó là khuôn mặt tôi đã nhìn thấy ở Trịnh vương cung, một khuôn mặt như hiện ra từ tranh thủy mặc, hoàn toàn giống hệt! Thập Tam Nguyệt.
Nhưng Hoa Tư dẫn tuyệt đối không thể sai sót, không như độc dược Quân sư phụ chế ra, chỉ làm người ta tắt thở tạm thời, cơ bản không đầu độc chết người, mặc dù nhìn đúng là đã chết, nhưng lúc khâm liệm lại là người sống.
Tôi vẫn còn nhớ nửa tháng trước, đêm hai mươi lăm tháng năm trong Dụ Cẩm viên của Trịnh vương cung, tôi chơi Hoa Tư điệu tự tay kết thúc tính mạng của Thập Tam Nguyệt. Lúc này cô ta có lẽ đã là cái xác mục nát dưới ba tấc đất, cho dù Dung Tầm có mật dược bảo quản tốt đến mấy cũng chỉ có thể như tôi, sắc mặt nhợt nhạt, người tỏa mùi tử khí, đương nhiên tử khí này người thường khó nhận ra, cho dù nhận ra cũng chỉ cảm thấy một khí chất khác thường. Nhưng Thập Tam Nguyệt trước mặt tôi sắc mặt hồng hào, còn đẹp hơn nhiều so với lần trước tôi gặp, quả thật không thể nào hình dung đó là người đã chết.
Tôi nhìn cô ta: “Tôi không biết cô, cô là ai?”.
Cô ta tiến gần tôi một chút, hơi cau mày, khóe miệng nhếch lên, từ từ nở nụ cười: “Là người qua đường thôi, muốn nhờ phòng cô nương một lát, trốn kẻ thù, băng bó vết thương”.
Con dao găm kề cổ tôi khẽ nhích, có lẽ muốn uy hiếp, nhưng cảm giác của tôi hết sức chậm chạp, thiếu nhạy cảm nên hiệu quả uy hiếp không như mong muốn. Nụ cười trong mắt cô ta càng rõ, mép lại nhếnh cao hơn: “Cô nương bạo gan đấy”. Giọng nói đó giống như tiếng thở dài gió đêm mang đến. Sau đó cô ta ép tôi vào cánh cửa phòng, con dao găm sượt qua tóc tôi, cắm vào cánh cửa gỗ, nụ cười vẫn trong mắt, nhưng không biết cười thật hay cười giả, giọng nói lại cực nhẹ: “Đề nghị của tôi, cô nương có bằng lòng không?”.
Tôi vội gật đầu: “Bằng lòng, bằng lòng”. Kết quả một viên gì đó đột nhiên đã ở trong họng tôi, trượt xuống cổ, tôi mím môi suy nghĩ không biết viên giao châu trong người tôi liệu có thể giải độc .
Cô gái áo tím tự nói ra tên cô là Oanh Ca, nhưng tôi không tin, bởi vì ý nghĩa của cái tên chúng tôi đã tìm hiểu kỹ, kết luận rút ra là, phàm những kẻ lưu lạc giang hồ, ai chẳng có một nghệ danh.
Sau khi đầu độc xong, Oanh Ca thản nhiên ngồi lên giường sai tôi: “Thuốc, băng, nước sạch, dao, nến”. Vừa sai bảo tôi vừa cau mày cởi khuy áo, lộ ra vết thương ở bả vai, làn da trên bờ vai không bị rám nắng trắng lóa dưới ánh nến, máu thấm ra lớp vải băng trắng, trông như bông hoa đỗ quyên đỏ tươi, nở xòe trên bờ vai trắng như tuyết.
Những thứ cô cần hầu như đều có sẵn, tôi đưa cho cô thuốc cầm máu, nhìn vết kiếm thấu đến tận xương, tôi lè lưỡi ái ngại: “Đau lắm hả?”.
Cô nghiêng đầu nhìn tôi, răng cắn vào môi hằn lên mấy vết sâu nhợt nhạt, mặt vẫn gượng cười: “Cô thử đoán xem, trước khi lấy chồng tôi làm nghề gì?”.
Tôi lắc đầu, nói tôi vừa không biết cô đã lấy chồng, vừa không biết cô làm nghề gì.
Cô hơ con dao trên ngọn lửa, đột nhiên nhắm mắt, con dao cạo trên vết thương, lấy ra lớp thịt nát, trong phòng yên tĩnh, lát sau, nghe thấy một giọng khản, đứt quãng như từ dưới đất vọng lên: “Lúc đó tôi là một sát thủ, ngày nào dao cũng dính máu, giết người, bị giết, mấy lần đã đến quỷ môn quan, đau đớn mấy cũng đã trải qua”. Cô cười gằn, trong đêm tối có một vẻ ma quái, “Không ngờ nhàn rỗi mấy năm, hôm nay chỉ đau thế này đã không chịu nổi”.
Nói xong nghỉ một lát, lại bôi thuốc vào vết thương, mồ hôi toát ra trên trán, mép lại nhếch lên, “Cô nương sợ phải không? Tôi chỉ quấy quả đêm nay, sáng mai sẽ đi, sự chăm sóc của cô nương đêm nay, tôi xin cảm tạ trước”.
Thâm tâm tôi thấy thực ra chuyện này chẳng có gì đáng sợ, cũng không hiểu sao cô lại hỏi như vậy. Huống hồ, nếu nói sợ, có lẽ cô mới là người sợ, thử tưởng tượng đêm khuy vắng, ở chung phòng với một xác chết, hơn nữa xác chết này có thể nói chuyện với mình, đảo vị trí cho nhau, quả thực cô sợ mới phải.
Còn tôi vừa nghĩ xong điều đó, lòng đột nhiên chấn động, cảm thấy mớ hỗn loạn trong đầu đột nhiên lóe ra tia sáng, tôi hỏi cô: “Oanh Ca là tên thật của cô chứ?”.
Cô ngoẹo đầu trên thành giường, sắc mặt trắng xanh, trán lấm tấm mồ hôi, thật không thể tưởng tượng, lúc đau đớn như vậy cô vẫn có thể làm được bao động tác khó như thế, giọng nói vẫn ngắt quãng, nhưng đã có lực hơn: “Tên thật thì sao, tên giả thì sao, từ năm mười một tuổi đã không có ai gọi cái tên đó, Oanh Ca, Oanh Ca. Cô nói xem, thực ra cái tên đó hay đấy chứ. Ồ, cô đừng nhìn tôi lạ lùng như vậy, cũng không phải có gốc tích gì đặc biệt, khi sinh ra chị em tôi, cha tôi đã cõng cả một vại dưa muối đến nhờ ông giáo làng đặt giúp một cái tên sao cho vừa dễ nuôi vừa nho nhã. Tôi khóc to hơn cô em, tên là Oanh, nhưng hoàng oanh là loài chim quý yểu điệu, con nhà nghèo, lại là gái, sao có thể mang cái tên đó. Ông thầy nghĩ một lát, điền thêm một chữ Ca vào sau, ngụ ý để cho thần linh trên trời nhìn thấy tưởng rằng tôi là con trai, sẽ xứng đáng mang tên Oanh đó”.
Tôi đăm đăm nhìn cô, vẻ ngạc nhiên: “Thật thú vị!”. Lại hỏi tiếp: “Cô nói cô có một em gái? Vậy em cô tên gì?”.
Cô nheo mắt nhìn tôi từ đầu xuống chân, mỉm cười mơ hồ, “Quên rồi”.
Trên đời không thể có hai thứ giống hệt nhau, ngay quả trứng do một con gà mái đẻ ra cũng mỗi quả một vẻ, huống hồ con người.
Tôi suy nghĩ rất lâu, thầm đặt giả thiết: Oanh Ca và Thập Tam Nguyệt thực ra là một người, nhưng lại lập tức gạt đi. Giả thiết khác, dung mạo này của Oanh Ca thực ra là giống hệt dung mạo của Thập Tam Nguyệt đã chết, nhưng tại sao cô ta phải đội lốt Thập Tam Nguyệt lại trở thành một vấn đề mới. Còn một khả năng nữa, giả sử cô chị mà Thậm Tam Nguyệt nói trong Hoa Tư mộng thực ra chưa chết, cô chị đã khiến Thập Tam Nguyệt đau khổ day dứt đến mức lấy cái chết để tạ tội liệu có phải chính là Oanh Ca?
Trong thuốc có chất gây mê, Oanh Ca sau khi bôi thuốc, băng bó xong, lập tức ngủ thiếp đi, điều đáng quý nữa là trước khi ngủ cô còn xé một mảnh vải trói tay chân tôi lại.
Tôi nằm bên mép giường ngắm nhìn khuôn mặt cô, hai mắt nhắm, lông mày vẫn hơi chau, tôi thầm nghĩ điều bí ẩn tôi và Mộ Ngôn đang bôn ba tìm kiếm có lẽ câu trả lời đã ở trước mắt, chỉ có điều đó là một thứ quả vỏ cứng, tạm thời chưa biết ra tay thế nào.
Trong lòng nhất thời bấn loạn, mãi không ngủ được, khoảng một canh giờ sau, trong ánh trăng rọi đầy phòng, có tiếng sột soạt vang lên. Một con chuột lặng lẽ bò lên giá nến, định ăn trộm nến, tôi mở to mắt quan sát, sau lưng đột nhiên truyền đến tiếng thút thít khe khẽ, con chuột sợ quá chui xuống bàn chuồn mất, còn tôi lại lăn xuống đất.
Khó khăn ngồi dậy, Oanh Ca vẫn chưa tỉnh, trong giấc ngủ, khuôn mặt trắng nhợt đầy ngấn nước mắt, nước mắt vẫn đang tràn ra từ khóe mắt nhắm nghiền, một giọt to tròn rơi trên mặt chiếc gối gốm, nhưng không còn tiếng thút thít nữa, tôi quỳ trên nền đất, nhích lại gần một chút, nhìn kỹ mặt cô, thầm nghĩ có lẽ cô đang nằm mơ, không biết là giấc mơ như thế nào.
Cái quả vỏ cứng đó cuối cùng lộ ra kẽ nứt, muốn biết bí mật của cô lúc này chính là cơ hội tốt. Nhưng chuyện này liên quan đến vấn đề đạo đức, nghĩa là không nên dùng công lực của viên giao châu để đi vào giấc mơ của người khác. Nghe đồn những người có Hoa Tư dẫn trăm nghìn năm nay đều từng đối diện sự lựa chọn khó khăn như vậy, vấn đề này một thời cùng với vấn đề “đàn bà hoang thai liệu có thể phá thai” của triều đại nào đó trở thành vấn đề luân lý được xã hội rất quan tâm, cuối cùng biện pháp giải quyết vấn đề sau là đàn bà hoang thai sẽ bị nhốt trong chuồng lợn.
Thực ra dưới sức mạnh của bạo lực, mọi vấn đề đều không phải là vấn đề, bởi vì bản thân bạo lực đã là vấn đề lớn nhất. Tóm lại, lúc này tôi đang do dự, cái cớ giúp tôi đưa ra lựa chọn là một cơn giãy giụa của Oanh Ca trong mơ, đó là dấu hiệu bị đè nén, muốn vùng vẫy thoát ra. Tôi tìm một lý do cho mình, tôi cần đi vào giấc mơ của cô để đưa cô trở lại.
Tôi nắm chặt tay Oanh Ca, tập trung tinh lực, cảm nhận thần trí của cô để đi vào giấc mộng đang đè nén cô, mặc dù đây là lần đầu tiên dùng giao châu làm chuyện này nhưng cũng không thấy mệt, đó là do tôi là người chết, ít ham muốn đối với cuộc đời hơn các bậc tiền bối từng tu luyện Hoa Tư dẫn.
Không gian trước mắt xuất hiện một con đường cổ tối om, có tiếng trống điểm canh văng vẳng, một chiếc cầu bắc qua sông, có lẽ đây chính là chiếc cầu đi vào giấc mơ của Oanh Ca, tôi hít một hơi, đang định bước vào thì tay đột nhiên bị ai nắm lấy, bên tai có tiếng nói nhỏ “A Phất,”. Tôi sững người, định vùng khỏi bàn tay đó nhưng không kịp, tiếng trống điểm canh tan biến trong tận cùng bóng đêm, chớp mắt, tôi đã rơi vào giấc mơ của Oanh Ca.
Tôi đang ở một nơi xa lạ, ngẩng đầu nhìn thấy Mộ Ngôn đang nắm tay tôi, hỏi: “Sao cô lại vào đây?”.
Chàng hơi nhướn mày, mắt lại nhìn về phía trước, ở đó là một con ngõ sâu, hai bên là nhà dân tường đen ngói xanh, trên những mái hiên cong phủ lớp tuyết mỏng, trên trời trăng suông, bốn bề tĩnh mịch. Mộ Ngôn thôi không nhìn con ngõ, quay lại nói với tôi: “Nghe thấy phòng cô có tiếng động liền ghé qua, không ngờ…”. Chàng dừng lại: “Đây là đâu? Cô gái trong phòng cô là ai?”.
Tôi nói vắn tắt câu chuyện, người rét run cầm cập, đây chính là nỗi khổ của người đi xa không nắm được tình hình thời tiết. Mộ Ngôn vẫn giữ tay tôi, lát sau nói: “Sao tay cô lạnh thế?”.
Tôi thầm nghĩ, thật nực cười, tay người chết sao không lạnh, nhưng vẫn khinh suất rùng mình, định rút tay ra, Mộ Ngôn nhìn tôi, tôi nói khẽ: “Có thể là do… xương như ngọc, thịt như băng như truyền thuyết nói”.
Mộ Ngôn: “…”.
Trong con ngõ phía trước vẳng đến tiếng vó ngựa và tiếng bánh xe lăn trên đường đá, tôi đi lên trước vài bước, loáng thoáng nhìn thấy một người ăn mày rách rưới ngồi co ro trên đường, Mộ Ngôn kéo tôi lại, tôi ngoái đầu giải thích với chàng: “Người đó không nhìn thấy chúng ta”.
Nghĩ một lát lại bổ sung, “Người trong giấc mơ này không nhìn thấy chúng ta”. Một chiếc xe ngựa có mui từ trong ngõ tối phóng nhanh ra, cảm tưởng như sắp nghiến qua người ăn xin, phu xe vội kéo giật dây cương, con ngựa đen chồm hai vó trước, hí vang, trong xe có tiếng nói vọng ra: “Sao thế?”. Phu xe vội lùi xe ngựa về sau: “Có một người ăn xin ngáng đường”.
Rèm xe vén lên, lộ ra ống tay áo màu tím, phu xe nhảy xuống giữ con ngựa, kéo người ăn xin sang một bên, giọng nói nhỏ nhẹ, lạnh lùng trong xe lại vang lên sau bức rèm: “Đưa về phủ”. Phu xe nói: “Chúa thượng đây là…”.
Sau bức rèm vẳng ra tiếng cười: “Chưa biết chừng cô bé chính là… sát thủ tốt nhất trời ban cho ta như thầy bói phán”.
Tiếng vó ngựa mất hút trong ngõ, cảnh trước mắt trở nên vắng lặng, ngay sau đó đã thấy một căn phòng rộng sáng choang, ánh nến trùng trùng, từ chiếc đỉnh đá trên hương án khói bốc nghi ngút, trên giường một cô gái nhỏ nằm co quắp, đoán là người ăn xin bị ngất trên đường mấy khắc trước, có vẻ đã được thu xếp ổn thỏa, chỉ có điều không nhìn thấy mặt, một thiếu niên áo chùng tím đứng chếch trước giường. Xiêm y sang trọng, dáng dong dỏng nho nhã, cậu ta hơi cúi đầu: “Tên cô là gì, nhà có những ai?”. Cô gái nhỏ mở mắt định ngồi dậy, bị cô hầu bên cạnh giữ lại, chỉ thấy dưới lần chăn lộ ra khuôn mặt nhỏ như bàn tay, vàng võ, nhưng không hề sợ hãi: “Oanh Ca, nô tì lên là Oanh Ca, năm ngoái quê nhà bị lụt, cha mẹ nô tì đều qua đời, trong nhà chỉ còn bà nội và hai chị em nô tì”.
Tôi đi lại gần, mặt cô bé quả nhiên hơi nhang nhác Oanh Ca, không ngờ cô gái áo tím có nụ cười vừa dịu hiền vừa nghiêm khắc nửa thật nửa giả nhảy vào phòng trọ của tôi mặt mũi lúc nhỏ lại như vậy. Nhưng nhìn vào đôi mắt đen láy của cô bé, cuối cùng tôi đã có cảm giác hòa nhập vào cô bé. Viên giao châu phát huy công lực khiến thần trí tôi hòa nhập vào thần trí chủ nhân giấc mơ, cái hay là tôi có thể hiểu được suy nghĩ của họ, cái dở là có hiểu cũng chẳng ích gì.
Bởi vì tôi muốn khách quan nhìn thấy toàn cảnh sự việc, bởi tư tưởng con người nhiều khi đầy định kiến.
“Oanh Ca?”. Thiếu niên áo tím mỉm cười, “Vậy em gái cô chắc là OanhVũ”.
Đôi mắt đen láy của cô bé mở to nhìn thiếu niên, không hiểu cậu ta nói gì. Thiếu niên lơ đãng liếc nhìn khuôn mặt xanh xao của cô bé, rồi quay người nhìn ánh trăng vằng vặc ngoài cửa sổ, thong thả: “Cái tên Oanh Ca quả là rất tuyệt, đêm nay đúng vào đêm mười ba tháng Chạp, là lúc trăng sáng nhất, vậy từ nay gọi cô là Thập Tam Nguyệt, ta đưa cô về đây, từ nay cô hãy theo ta”.
Cùng với ánh nến, tôi nhìn rõ khuôn mặt tuấn lãng đoan nghiêm đó, vẫn còn vẻ non nớt thiếu niên, chiếc đai ngọc nổi bật giữ tà áo chùng tím, mặc dù đang cười, vẻ mặt lại lạnh như tuyết. Đó là… Trịnh hầu vương Dung Tầm thuở thiếu thời.
Tôi cúi nhìn tay mình, Thập Tam Nguyệt nửa tháng trước bị tôi chính tay giết chết thì ra đã bị tráo đổi sao?
Sau đó ánh nến trong phòng tan dần, cảnh trước mắt liên tục thay đổi, cảnh trí loang loáng chuyển động, tôi thầm nghĩ may mà mình không dễ say xe.
Lát sau cảnh trí dừng lại, một rừng trúc yên tĩnh mở ra trước mắt. Trên trời lác đác có những ngôi sao mọc sớm, giữa khoảng đất rộng đầy lá rụng có một đống lửa cháy không đượm lắm, đôi ủng da giẫm lên lá khô, dừng lại bên đống lửa, dọc theo đôi ủng nhìn lên trên, quả thật không thể tưởng tượng, người vừa đến chính là Dung Tầm.
Chàng nhìn quanh, khi liếc nhìn, trong ánh mắt lạnh như có ánh cười, nhưng nét mặt vẫn dửng dưng, giả bộ cúi nhìn đống lửa trên mặt đất, chính lúc đó trên không đột nhiên truyền đến tiếng lá trúc rào rào, một bóng dáng màu tím từ trên trời rơi xuống, người chàng hơi dịch sang phải né tránh, một con dao găm sắc bén sượt qua giải lụa trên búi tóc chàng, cắm sâu vào một thân trúc to sau lưng chàng, chàng không hề né tránh, mắt mở to nhìn bóng tím từ trên trời rơi xuống mỗi lúc mỗi gần.
Sau đó tất cả xảy ra rất nhanh, mấy chiêu giao đấu trực diện cơ hồ kết thúc trong nháy mắt, khi tôi định thần, nhìn rõ đã thấy Dung Tầm bị cô gái áo tím ép chặt xuống mặt đất. Cô gái trẻ hơn Oanh Ca bây giờ một chút.
Đống lửa cháy nổ lép bép, lửa hắt lên ánh trăng mờ tỏa xung quanh, vị công tử hào hoa bình thản nằm trên mặt đất trải đầy lá vàng khô, xung quanh trúc xanh lả lướt, cô gái áo tím đè trên ngực chàng, hai gối chống đất, mái tóc dài như dải lụa đen óng, tay trái nắm vạt áo chàng, nửa lưỡi dao găm dài sáng loáng cắm xuống đất.
Hai má cô đỏ hồng, động tác dứt khoát, tay trái dụng lực càng mạnh, ép càng chặt, chàng khẽ rên dưới thân cô, cô mở to đôi mắt đen láy nhìn chàng “Hôm nay, đao của em nhanh hơn hôm qua chứ?”.
Chàng giơ tay gối đầu, mỉm cười nhìn cô: “Nguyệt nương, em làm rất tốt, em có thể làm tốt hơn”.
Trên mặt cô lộ vẻ đắc ý, bàn tay nắm áo chàng hơi buông, khóe mắt chàng lóe ra tia lạnh, tay bất chợt vung lên như tia chớp khống chế bàn tay còn lại của cô, người bất ngờ bật lên, xoay chuyển tình thế, đè cô xuống đất, cả người cô đã bị khống chế, mặt lộ vẻ phẫn nộ, chàng nhìn cô, tươi cười: “Ta nói bao lần, muốn làm một sát thủ giỏi, từ mai phục đến ra tay, kết thúc, khâu nào cũng phải hết sức thận trọng”.
Cô cắn chặt môi, mặt lộ vẻ tủi thân, không cam chịu, hai tay vùng vẫy. Chàng giơ tay vuốt môi cô, bật cười thành tiếng: “Sao cắn chặt thế, không nén được giận sao”.
Mặt cô càng đỏ, ánh mắt nhìn chàng càng long lanh giận dữ.
Mộ Ngôn bên cạnh đột nhiên nói: “Hình như sắp mưa”, lời vừa dứt, trên trời đột nhiên xuất hiện ánh chớp, tiếp đó là trận mưa ầm ầm trút xuống. Oanh Ca vẫn còn ấm ức, ngồi thẳng người, ngay sau đó nép vào lòng Dung Tầm. Chàng nhẹ nhàng vỗ lưng cô, như an ủi đứa trẻ: “Vẫn sợ sấm? Như thế này sao có thể trở thành sát thủ giỏi”.
Cô nghiến răng ôm chặt cổ chàng, vẻ mặt đầy quyết liệt, nhưng lời nói ra lại hết sức trẻ con, “Em sợ thêm lần này nữa thôi”.
Chàng ngồi thẳng người nhìn cô đăm đăm, tay vuốt má cô, thở dài: “Thật hết cách”.
Sắc đêm trong rừng trúc không ngớt lay động như muốn vỡ tung, mưa sắp ập xuống, khi hạt mưa rơi trên áo tôi, cảnh trí trước mặt lại thay đổi. Đây là một sự thần kỳ, tôi có thể nhìn rõ từng hạt mưa rơi, lại có thể mang hạt mưa đó di chuyển sang cảnh sau.
Mộng cảnh này thật vô lý, tôi vừa nghĩ như vậy, vừa thầm tiếc, vừa rồi trên trời rơi xuống sao không phải là vàng bạc châu báu, khi đầu óc tỉnh táo trở lại, phát hiện bị Mộ Ngôn kéo đến đứng trước một khung cảnh rất đẹp, xung quanh rất nhiều hoa, còn có một cô gái đẹp như hoa.
Không biết tại sao, tôi biết, có lẽ là do thần trí hòa nhập, giống như ai đó viết lên trên não, nói với tôi đây là sinh nhật lần thứ mười sáu của Oanh Ca, nửa tháng trước cô đã tự dựng lên cảnh ngộ, bán mình vào lầu xanh này, quỳ phục giữa những cô gái trẻ đẹp, hôm nay sẽ giết chết một người mà định mệnh đã định phải chết trong tay cô, chính thức trở thành sát thủ bí mật của Dung gia, hoàn tất lễ trưởng thành của một sát thủ.
Tôi còn nhớ quanh cảnh lễ trưởng thành mười sáu tuổi của tôi, tôi trói chân tay Quân Vỹ ép anh ta nghe tôi đánh đàn suốt một ngày, tôi rất khoái trá, chỉ có điều hơi tàn nhẫn với Quân Vỹ, còn lễ trưởng thành của Oanh Ca đối với bất kỳ ai cũng là tàn nhẫn.
Mộ Ngôn ở phía sau gập quạt giấy đập lên vai tôi: “Cô dáo dác ngó quanh là muốn tìm ai?”.
Tôi hất chiếc quạt của chàng: “Tìm Dung Tầm”.
Chàng tỏ vẻ hứng thú: “Sao? Cô cho là chàng ta nhất định đến?”.
Tôi không chắc chắn lắm: “Cũng phải”. Nghĩ một lát hỏi chàng, “Nếu là huynh, huynh có đến không?”.
Chàng gập cái quạt: “Nếu sát thủ dưới tay tôi là cô, tôi sẽ đến”.
Tôi ngớ người, ngây ngây nhìn chàng.
Chàng liếc tôi, thong thả nói: “Cô ngốc thế, nếu tôi không đến, cô giết nhầm người thì sao?”.
Tôi tức giận: “Sao tôi có thể giết nhầm. Có lúc, có lúc tôi cũng hơi hồ đồ một chút, nhưng vào thời điểm quan trọng như vậy, tôi sẽ rất lợi hại”.
Chàng lại cười: “Thời điểm quan trọng? Lần trước găp chó sói trong đêm, nếu tôi không đến kịp, cô sẽ thế nào?”.
Tôi nói: “… Được, coi như chưa có cuộc trò chuyện vừa rồi”.
Chàng vẫn không chịu: “Lần trước trong Hoa Tư mộng của Thẩm phu nhân Tống Ngưng, cô bị rơi xuống núi, nếu tôi không theo kịp, thì cô thế nào?”.
Tôi nhích xa chàng một chút: “Chuyện đã qua sở dĩ đẹp chính là vì nó đã trở thành quá khứ, quá khứ hãy để cho tan thành mây khói, nào, chúng ta suy nghĩ vấn đề hiện thực quan trọng hơn”.
Chàng phe phảy cái quạt, dường như vẫn muốn nói tiếp, ánh mắt như cười, nhìn tôi không nói gì.
Tôi bảo chàng: “Huynh xem chuyện của Thập Tam Nguyệt, Thập Tam Nguyệt của Trịnh vương đã chết vì tình lúc còn sống luôn mồm nói có lỗi với chị gái, còn Oanh Ca còn sống lại giống hệt Thập Tam Nguyệt. Cô ấy có một cô em gái, chính cô ấy nói với tôi, cô ấy quên tên cô em đó rồi. Dung Tầm xem ra dường như rất có tình với Thập Tam Nguyệt trong Trịnh vương cung, nhưng rõ ràng cũng biết Thập Tam Nguyệt thật sự rút cục là ai, hơn nữa, cũng không có vẻ vô tình với Oanh Ca”.
Tôi vốn chỉ định chuyển chủ đề, nhưng cuối cùng lại bị cuốn hút bởi vấn đề vừa nêu, nghĩ một lát vẫn không tìm ra manh mối gì hơn, đành thở dài.
Tôi nói với Mộ Ngôn suy nghĩ của mình: “Dung Tầm kia cũng rất khó hiểu, cần tiếp xúc nhiều may ra biết thêm được gì. Ôi, nhưng cũng khó nói, phương ngôn có câu người trong cuộc thường mù quáng, có ý khuyên răn người đời cố gắng bình tĩnh trước những vấn đề nan giải, nhưng lại có câu không tìm hiểu, không có quyền phát ngôn. Ôi chao, tôi rất băn khoăn”.
Mộ Ngôn xua tay: “Tôi cũng rất băn khoăn. Cô lạc đề rồi, cô vừa nói gì tôi nghe chẳng hiểu gì hết”.
Trong hoa đình, trên sân khấu cao các cô ca kỹ đang biểu diễn, có một cây to, cành lá tươi tốt cao vút sum suê, dưới gốc cây đàn sáo tưng bừng, điệu múa lời ca dập dìu, làm như thiên hạ thái bình thịnh trị.
Chỉ có điều, tất cả đều là giả dối. Thật đáng buồn cho hoàng đế lúc vi hành thường thích đến chốn lầu xanh, bởi vì cho rằng nơi đây thượng vàng hạ cám hội tụ, có thể nghe thấy tiếng nói của muôn dân, nhưng rốt cuộc chỉ khiến cho hoàng đế càng thêm phong tình mà thôi.
Tôi kéo Mộ Ngôn vào một lầu nhỏ có rèm che màu hồng phía sau sân khấu, đi vòng qua một cái cửa gỗ chắc chắn, mở một cánh cửa, đúng lúc nhìn thấy Oanh Ca trang phục gọn gàng từ cửa sổ đối diện nhẹ nhàng nhảy vào. Có mấy cô gái cúi đầu đứng một bên, chờ được hầu hạ khách, hoàn toàn không hay biết gì, lập tức bị chuôi đao nhanh như cắt đập vào đầu, khụy xuống, bị kéo vào giấu dưới gầm giường, thời điểm chưa đến, Oanh Ca mười sáu tuổi bước đến trước đài gương, cầm lên chiếc quạt lụa có vẽ một khóm mẫu đơn mùa thu, kéo rèm cửa sổ, ngồi uống rượu một mình.
Tôi đã nhập được vào thần trí của Oanh Ca, tự nhiên biết cô ở đây, Mộ Ngôn cũng hiểu, chỉ hơi thán phục khung cảnh kỳ diệu của ảo mộng.
Không lâu sau, bên ngoài có tiếng bước chân, cánh cửa gỗ bị đẩy ra, một người đàn ông đi vào, mình mặc áo chùng lụa màu đen, khuôn mặt rất bình thường, hình như đã uống khá nhiều, bước chân lảo đảo.
Oanh Ca nhàn tản ngồi dựa mép giường, xòe chiếc quạt trong tay, miệng mỉm cười, đôi mắt đen láy đong đưa. Trông rất lả lướt phong tình, một vẻ phong nguyệt lão luyện, như người đàn bà lăn lộn đã lâu ở chốn nguyệt hoa.
Người đàn ông nheo mắt, đôi tay được chau chuốt kỹ càng âu yếm vuốt ve cái cổ thon nhỏ trắng bóc của cô: “Nghe nói nàng là người nước Lầu? Con gái nước Lầu da thịt trắng như mỡ, hôm nay phải cho ta xem…”. Tay anh ta hất tấm chăn mỏng phủ trên bụng cô, cúi đầu thô bạo cắn vào bờ vai trắng tuyết của cô: “… Xem có phải da nàng cũng trắng như mỡ”. Người đàn ông bắt đầu hôn từ bờ vai lên cổ, sắp phủ lên mặt cô, nhưng Oanh Ca vẫn không nhúc nhích.
Tôi thán phục nhìn con dao găm cắm vào lưng người đàn ông, hỏi Mộ Ngôn: “Huynh có nhìn rõ động tác rút dao vừa rồi của Oanh Ca không? Thật nhanh gọn”.
Người đàn ông chết trên người cô như vậy, cô lại chưa lập tức rút hung khí, mắt hoang mang nhìn đỉnh màn, không thấy nhanh nhẹn như khi cắm dao vào lưng người đàn ông. Lát sau, như sực nhớ ra điều gì, cô vội thu dọn hiện trường, xong xuôi ngoái lại nhìn khắp một vòng, rồi vội vã nhảy qua cửa sổ theo lối cũ.
Mộ Ngôn lập tức kéo tôi đuổi theo, phát hiện cô chưa ra khỏi đây, chỉ nhảy vào một gian phòng ở lầu dưới.
Mộ Ngôn khẽ cười bên tai tôi: “Đúng rồi, ai dám nghi ngờ cô gái ở bên cạnh Dung công tử lại là hung thủ giết người, cho dù có người nghi ngờ, Dung Tầm cũng sẽ đứng ra làm chứng, cô ta vẫn uống rượu, ngắm trăng họa vần với chàng ta, làm gì có thời gian đi hành hung”.
Mộ Ngôn ôm eo tôi cùng nhảy vào căn phòng Oanh Ca vừa vào, nói: “Đây chẳng có gì đáng gọi là cao mưu, mà dựa vào thân phận của Dung Tầm nên không có sai sót gì, Oanh Ca cô nương lần đầu giết người coi như làm rất tốt”.
Không ngoài dự đoán của Mộ Ngôn, Dung Tầm quả nhiên ở trong phòng. Trên chiếc bàn tròn bằng gỗ đàn màu tím viền đá vân hoa bày mấy món điểm tâm đơn giản, chiếc cốc bạc tinh xảo trong tay chàng ta, rượu chưa hết nửa. Bóng chàng ta đổ dài trong ánh nến, in lên tấm bình phong sau lưng vẽ cảnh đầm sen mùa thu dưới trăng. Ngoài cửa sổ, bắt đầu nổi gió lớn, những ánh nến chao đảo suýt tắt, gió vừa thổi qua là tiếng sấm đinh tai, ầm ầm như ở chân trời có vị thần ra sức khua chiêng.
Tôi cảm thấy hơi lạnh, khẽ dựa vào Mộ Ngôn, chàng nhìn tôi, kéo tôi lại gần hơn.
Sấm chớp từng trận nối nhau càng dầy đặc, Dung Tầm thong thả đặt chiếc cốc bạc trong tay xuống bàn, cầm một đài nến vòng qua tấm bình phong đi đến bên giường. Ánh nến màu vàng chiếu lên Oanh Ca nằm thu mình trên giường. Người cô run run, mắt lại mở rất to, lông mày chau lại, răng cắn ngập vào môi.
Chàng để ngọn nến một bên, giơ bàn tay mảnh khảnh vuốt ve đuôi mắt cô, dường như muốn lau những giọt nước mắt vô hình, cô ngây ngây nhìn chàng: “Em giết người”. Cô giơ cánh tay phải trắng như tuyết, đặt lên bờ vai Dung Tầm đang cúi xuống, “… Chính bàn tay này”.
Một tiếng sấm xé tai, mưa ầm ầm dội trên mái nhà, cô co người run rẩy, Dung Tầm hơi chau mày, nắm hai tay cô, nằm nghiêng, đối mặt với cô, cái gối bằng gốm không đủ rộng, chàng dịch sát vào cô, kéo thẳng đôi chân co quắp của cô, ôm cô vào lòng. Hai người đều mặc áo tím, giống như hai con bướm tím ôm chặt nhau. Môi chàng kề sát mái tóc đen của cô: “Em đã làm rất tốt”.
Cô lại lắc đầu, ngước mắt nhìn chàng, nói khẽ: “Em dùng dao găm đâm một nhát trúng tim, lúc chết hắn ta còn kinh ngạc trợn mắt nhìn em, máu hắn ta vọt ra, bắn đầy ngực em, cả đời em sẽ không quên vẻ mặt hắn ta lúc đó, mạng sống con người mong manh như vậy, em cảm thấy rất sợ, em sợ làm sát thủ, em sợ giết người”.
Cô gái nói ra những lời yếu đuối như vậy, trên mặt lại không có bất kỳ biểu cảm nào, mắt vẫn mở rất to.
Nến cháy gần hết chảy thành dòng xuống giá, chỉ còn lại đoạn lõi cuối cùng vẫn đang cố sức vùng vẫy, phát ra ánh sáng yếu ớt. Chàng giơ tay vuốt tóc cô, lát sau cười nhẹ: “Năm xưa lúc ta nhặt được em, em vẫn còn rất nhỏ, ta hỏi em có muốn theo ta không, em mở đôi mắt to, trong veo gật đầu lia lịa, điệu bộ thật đáng yêu. Ta nghĩ em sẽ là tác phẩm hoàn mỹ nhất của ta”.
Chàng hôn trán cô, ôm chặt cô vào lòng, nói vào tai cô, “Nguyệt nương, vì ta, hãy trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia này”.
Ngoài cửa sổ, mưa lạnh heo hắt rơi trên những khóm trúc tháng hai, từng giọt từng giọt rơi vào lòng tôi.
Sau đó cảnh trí thay đổi rất nhanh.
Thế giới sát thủ vô tình, chỉ có ánh đao lóe như chớp, vết máu loang và sự vùng vẫy của sinh mệnh trong khoảnh khắc giữa sống và chết. Tôi nhìn thấy thế giới của Oanh Ca ngày càng chìm sâu trong đó, eo giắt thanh đoản đao, như một đóa anh túc nở dần, cánh hoa là ánh dao sắc lạnh, còn hàng lông mày rậm của cô lạnh dần trong những bóng đao. Cảnh trí liên tục thay đổi giống như tấm gương vỡ trải trước mắt tôi, có những tiếng nói lao xao không biết từ đâu truyền đến: “Cô nương áo tím lúc nào cũng đi theo đình úy đại nhân lai lịch thế nào? Chậc, một khuôn mặt đẹp như vậy”, “Hừ, một khuôn mặt đẹp như vậy, lại nghe nói giết người không chớp mắt, đó là đệ nhất cao thủ của đình uý phủ, hộ vệ thiết thân của đình uý đại nhân”.
Những mảnh nhỏ trong tấm gương vỡ đó cùng với tiếng người xa dần rồi mất hẳn, thay vào đó là một sân khấu cao, một cô ca kỹ trang điểm cực kỳ xinh đẹp uốn mình như bông hoa lan, mắt sóng sánh đong đưa, bội phần quyến rũ, giọng mềm như nước đang hát một ca từ trong vở kịch tư xuân, ánh mắt quyến rũ mời gọi luôn hướng về Dung Tầm đang nhàn tản dựa tay vào lan can trên đài cao. Khoảng cách hai người không xa, cũng không gần, khi ánh mắt giao nhau, Dung Tầm mơ hồ mỉm cười.
Chính lúc đó, một cô gái áo xanh bưng khay trà đi đến bên Dung Tầm, đột nhiên rút từ ống tay áo một con dao găm sáng loáng. Cô gái còn chưa kịp ra tay đoản đao của Oanh Ca bên cạnh phi ra cắm vào giữa mặt cô ta, thanh đao sắc lẹm cắm vào giữa hai hàng lông mày, nhanh như tia chớp, khuôn mặt khá đẹp của cô gái bị xẻ làm hai nửa nhầy nhụa, máu phun vào khuôn mặt làn với da trắng tuyết của Oanh Ca. Cô cũng không hề chớp mắt. Trên đài cao chỗ Dung Tầm đang ngồi có tiếng kêu huyên náo, Oanh Ca lại như không nghe thấy, rút đao về, lau vết máu vào vạt áo tím, ngẩng đầu nhìn khuôn mặt trầm tư của Dung Tầm, mỉm cười với chàng: “Không sao chứ?”.
Dung Tầm liếc nhìn cô gái áo xanh nằm gục trên đất, hai mắt vẫn mở trừng trừng, cau mày: “Nhát đao quá hiểm”.
Oanh Ca cúi xuống, nhìn ngắm vết đao trên mặt cô gái: “Như thế này không đẹp lắm, hơi làm người ta sợ, sau này nên cắt đứt cổ thì hơn”.
Dung Tầm chìa tay kéo cô đứng lên, chậm rãi nói: “Ta còn nhớ lần đầu tiên em giết người, sợ run nép vào lòng ta”.
Cô mím môi: “Cuối cùng em đã lớn”. Cô dựa người vào lan can chăm chú nhìn Dung Tầm, nói: “Em sẽ trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia”. Nói xong má ửng hồng, nổi bật trên làn da trắng đẹp mê hồn.
Dung Tầm lại không nhìn cô, ngoái nhìn ra xa, chỗ đó gió xuân đang vờn ngọn cây cao, bên dưới là thảm hoa đủ sắc màu, một đôi cò trắng cất tiếng kêu lanh lảnh, bay về phía chân trời xanh xa tít.
Oanh Ca không thể trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia, cũng như Quân Vỹ không thể trở thành tiểu thuyết gia chuyên nghiệp, bởi vì hai người đều bị phân tâm. Một tiểu thuyết gia chuyên nghiệp nên một lòng một dạ chuyên tâm viết tiểu thuyết, nhưng Quân Vỹ ngoài viết tiểu thuyết còn phải làm một kiếm khách để an ủi người cha.
Cũng như vậy, sát thủ tốt nhất nên một lòng một dạ chuyên tâm giết người, nhưng Oanh Ca ngoài giết người còn phân tâm bởi chuyện yêu đương với Dung Tầm, sát thủ tuyệt nhiên không thể có tình yêu, bởi giả sử sát thủ có người yêu, sát thủ sẽ bối rối khi người yêu xuất hiện đúng lúc sát thủ sắp ra tay, vậy là công việc bị cản trở, mà một khi công việc không thành, sát thủ coi như cũng khó giữ tính mạng.
Vì Dung Tầm, Oanh Ca khiến lòng mình trở nên sắt đá, vì Dung Tầm cô mới giết người, nhưng trái tim cô rốt cuộc vĩnh viễn không thể sắt đá đến mức một sát thủ cần có.
Đầu mùa hạ khi Oanh Ca mười chín tuổi, bà nội qua đời, cô lại đang bận một vụ việc ở xa, không thể về nhà nhìn mặt bà lần cuối, khi trở về Dung phủ, Dung Tầm đã cho người đón cô em gái của cô ở quê lên kinh thành.
Đó là một mùa hè mát mẻ, khắp đại viện của đình uý phủ nở đầy hoa tử dương, em gái vận đồ tang trắng toát, khuôn mặt giống hệt cô, hai hàng nước mắt đầm đìa đứng sau bụi hoa, tay ôm bình gốm đựng tro cốt bà nội.
Cô vội vàng trở về, vẫn màu áo tím trang nhã, dính đầy vết máu chưa kịp thay, gió thổi qua có thể ngửi thấy mùi máu tanh trên người cô. Cô em gái mím môi, điệu bộ giống hệt cô lúc mười lăm tuổi, vừa yếu đuối vừa kiên cường, lao vào tay cô, nghẹn ngào: “Bà rất muốn gặp chị, bà bảo nhất định phải gặp chị lần cuối mới nhắm mắt được”. Cô run run giơ tay đón bình tro, mặt không biểu cảm, hồi lâu sau mới nói: “Để bà yên tâm ra đi”.
Dung Tầm thong thả bước đến, nhìn hai chị em Oanh Ca ôm nhau, nói nhẹ nhàng: “Em mệt rồi, về nghỉ đi”.
Cô ngây người, buông em gái ra, tay vẫn ôm bình tro, chàng chăm chú nhìn cô: “Nghe nói ba ngày nay em không chợp mắt, việc hậu sự của bà nội em, ta sẽ lo liệu”.
Nói xong, chầm chậm quay đầu nhìn em gái cô, lại quay sang nhìn cô, “Vẫn tưởng tên cô ấy là Oanh Vũ, không ngờ lại là Cẩm Tước”. Cẩm Tước mặt vẫn còn nước mắt ngẩng phắt đầu, tròn mắt nhìn chàng, một đôi bướm trắng từ trong khóm hoa tử dương bay ra, bắt gặp ánh mắt đó của cô, Dung Tầm ngẩn người.
Hai con bướm trắng đùa giỡn trên khóm hoa bỗng chốc bốc cháy thành dải khói đen, lòng tôi đột nhiên trống rỗng, bỗng có một dự cảm chẳng lành, có lẽ cảnh ngộ này chính là nỗi khổ trong lòng Oanh Ca, còn đối với tôi phút nguy hiểm nhất cuối cùng đã đến.
Trong Hoa Tư mộng do tôi dệt ra, nơi hạnh phúc dừng chân chính là đau khổ, khi hy vọng tuyệt đỉnh chính là tuyệt vọng, tất cả vẫn rõ ràng như logic hiện thực. Nhưng trong cuộc sống, người ta thường dùng những phương thức cực đoan để chống lại sự bất lực của mình trước hiện thực.
Giống như tôi thích Mộ Ngôn, nhưng lại không có được chàng, vậy là tôi muốn giết chàng, chia cho chàng nửa viên giao châu để chúng tôi vĩnh viễn bên nhau, nhưng đây là ý nghĩ điên rồ. Chỉ cần còn lý trí, tôi sẽ không làm như vậy.
Nhưng hàng ngày tôi vẫn có ý nghĩ đó, đành thể hiện trong giấc mơ, sau đó trong giấc mơ tôi trở thành kẻ giết người, đó chính là dùng hành động cực đoan chống lại hiện thực. Hoặc là tôi phải độc ác hơn một chút, cảm thấy số phận mình quá thê thảm, muốn tất cả thiên hạ đều phải cùng chết với tôi, vậy là trong giấc mơ của tôi, xuất hiện cảnh trời long đất lở, biển cạn, đá mòn, đó chính là dùng phương thức cực đoan chống lại hiện thực… đây cũng là nguyên nhân Quân sư phụ khuyên tôi không nên tùy tiện nhập vào giấc mơ của người khác, giả sử tôi nhập vào giấc mơ của người nào đó, trong mơ người đó đang mơ cảnh trời long đất lở để xả thù hận trong lòng, tôi đột nhiên xuất hiện, không may bị đá lớn rơi trúng người, đè nát viên giao châu trong ngực, vậy là tôi chết chắc.
Giấc mơ của người sống đối với họ chỉ là mơ, nhưng với tôi lại vô cùng nguy hiểm. Giả sử tôi chết trong giấc mơ của họ, có nghĩa là sinh mệnh tôi chấm dứt thực sự.
Oanh Ca trong giấc mơ lúc này muốn hủy diệt tất cả, tôi không biết hy vọng và đau khổ của cô là gì, chỉ biết cô lựa chọn hủy hoại tất cả để kết thúc mọi hạnh phúc đau khổ của mình, còn tôi phải tìm cách nhanh chóng đưa cô ra khỏi giấc mơ trước khi cô làm việc đó.
Nhưng rõ ràng đã không kịp, chính lúc tôi giằng khỏi tay Mộ Ngôn chạy thục mạng về phía Oanh Ca, trời đất đột nhiên một dải trống không, không gian bao la trong chớp mắt đã nhấn chìm khóm hoa tử dương trắng, mây đen như mực cuồn cuộn phía chân trời, ào ạt tản ra che kín bầu trời, đây chính là ảo mộng, một khắc trước vẫn còn là cuộc sống hồng trần tràn đầy sinh khí, một khắc sau trời đất đã đổi thay, chỉ còn một màu đen như mực.
Bóng Oanh Ca biến mất trong màu đen đó, tôi đột nhiên hoang mang, dừng lại không biết nên chạy hướng nào, bỗng cả người bị kéo giật về sau, cánh tay áo màu lam quàng vào cổ tôi, hơi thở của Mộ Ngôn đã sát bên tai, nặng nề đầy nộ khí: “Chạy nhanh thế, không biết đang rất nguy hiểm sao?”.
Tôi nắm tay áo chàng chạy thục mạng, chỉ tay về phía trước: “Ô, thần kỳ quá, huynh xem, đó là gì vậy?”.
Chàng dừng lại, nắm cánh tay tôi đi về phía ánh sáng đột nhiên hiện ra trong mây đen. Trong màn đêm đen hun hút trống vắng như cánh đồng hoang, chỉ nghe thấy tiếng bước chân chúng tôi bì bõm như đang giẫm lên nước.
Màn đêm đen kịt rạn dần, trên trời hiện ra một vầng trăng bạc rất tròn. Trong ánh trăng trắng lạnh, một cây anh đào lớn ngả nghiêng trong gió, từng cánh hoa phấn hồng bay lả tả như những bông hoa tuyết màu hồng.
Oanh Ca mình vận áo tím, tay cầm bình rượu nhàn tản ngồi dựa gốc cây, hơi ngẩng đầu nhìn người đàn ông áo trắng vẻ mặt nghiêm lạnh đứng trước mặt. Mộ Ngôn đã được coi là vô cùng tuấn tú, nhưng người đàn ông này còn tuấn tú hơn, cả thân mình như khoác ánh trăng bạc, sắc mặt càng lạnh lùng.
Gió lạnh tháng ba mang theo cánh hoa anh đào và giọng nói Oanh Ca truyền đến: “Nếu đường đao của bệ hạ nhanh hơn thiếp, ngoài chấp nhận những nghi thức cung đình phiền hà, thiếp cũng sẽ tình nguyện hầu bệ hạ chuyện gối chăn…”.
Lời cô chưa dứt, một đường đao dài đã vạch một đường vòng cung lóe sáng trong không trung, rồi nhanh chóng thu về, người đàn ông vẫn đứng bất động, dải lụa hồng trên búi tóc cuốn cao của cô đứt phựt cùng với âm thanh sắc gọn, mái tóc đen óng như tơ xõa vuống vai, mấy cánh hoa anh đào bị chém đứt, tơi tả bay trước ngực cô.
Cô sững người nhìn chàng một lát, cười khanh khách: “Hóa ra trường đao ở thắt lưng chàng không phải đeo làm vì”.
Đôi mắt đen của chàng sóng sánh phong tình, nhưng vẫn trầm mặc không hề suồng sã. Chàng bước lên hai bước, hơi cúi người chìa tay cho cô: “Vụ cá cược vừa rồi của phu nhân, quả nhân đã thắng”.
Cô giơ tay, làm như định nắm tay chàng, nhưng lại chộp lấy vai chàng, tay vừa giơ lên, chớp mắt đã kéo tuột dải lụa trên búi tóc chàng. Cô cười nhạt, vỗ tay: “Như thế mới công bằng”.
Trong cánh hoa anh đào phơ phất, tay cầm bình rượu cô loạng choạng bước đi, nụ cười trên mặt như có như không. Chàng đi sau, sắc mặt lạnh lùng, nhìn thân người lảo đảo xiêu vẹo của cô cũng không dìu đỡ. Lớp mây dày tản ra, có tiếng hát du dương vọng ra sau đám mây: “Chuyện xưa như một tiếng than, mộng vàng tan vỡ hồng trần hư không, tình sơn nghĩa hải trầm luân, ngoái đầu phút chốc đã thành thiên thu…”.
Mộ Ngôn hỏi tôi: “Có nên đi theo không?”.
Tôi lắc đầu. Mộng cảnh này đã quá nguy hiểm, sau khi người đàn ông áo trắng xuất hiện tất cả cơ hồ đang phát triển theo hướng tốt. Tôi hỏi Mộ Ngôn: “Huynh có biết người đàn ông áo trắng là ai không?”.
Chàng dừng lại nói: “Trịnh quốc tiên vương, Cảnh hầu vương Dung Viên, thúc phụ cùng tuổi với Bình hầu vương Dung Tầm”.
Tôi còn chưa kịp đưa Oanh Ca thoát khỏi giấc mơ, giấc mơ đó của cô đã tự kết thúc trong hòa bình, bị ném ra khỏi giấc mơ quả thực khó chịu, điều này có thể đoán được qua cái cau mày của Mộ Ngôn, tôi quả không có cảm giác gì, nhưng để chàng khỏi nghi ngờ, cũng đành giả bộ khó chịu.
Khi Mộ Ngôn đã trở về phòng của mình, Oanh Ca mới tỉnh hoàn toàn, mắt mơ màng nhìn tôi: “Tài cởi trói của cô cũng không tồi”. Tôi nghĩ quả thực không tồi, lúc nhỏ tôi và Quân Vỹ thường hay chơi trò đó, dù anh ta trói kiểu gì tôi cũng nhẹ nhàng thoát được, huống hồ cô chỉ trói sơ sài.
Tôi cầm đèn đi lại gần cô, hỏi: “Cô vừa mơ thấy gì?”.
Cô cau mày, trầm tư một lát, cười: “Phu quân của tôi”. Lúc sau, lại nói: “Người ta bảo chàng đã chết, nhưng tôi không tin”.
Trăng lạnh gió thanh, cô ngồi trên giường, co một chân gục vào đầu gối, lại mỉm cười như thật như ảo: “Còn mơ thấy rất nhiều chuyện cũ, miên man mãi, đột nhiên nhớ ra người ta bảo phu quân tôi đã chết, tôi liền nghĩ, nếu phu quân quả thực đã xa tôi mãi mãi, vậy tôi còn cần đến giấc mơ an ủi này làm gì? Chi bằng phá hủy cho xong”.
Cô ngẩng đầu nhìn tôi: “Cô thấy đúng không?”.
Tôi gật đầu, “Đúng”. Quả thật trong lòng tôi đã nghĩ như vậy, nếu có ngày Mộ Ngôn rời xa tôi, và giả sử tôi có sức mạnh hủy diệt thế giới này, nhất định tôi sẽ hủy diệt tan tành, nhưng may cuối cùng không phải chàng rời xa tôi trước, mà chính tôi rời xa chàng trước.
Ngày hôm sau trời nổi gió nam, gió thổi từ nước Triệu đến nước Trịnh, cũng chính là lộ trình chúng tôi định đi. Nếu đi bằng thuyền sẽ thuận chiều gió, nhanh hơn nhiều. Tôi và Mộ Ngôn đều cho rằng, so với đi tìm Thập Tam Nguyệt theo kế hoạch đã định thì thà lẳng lặng đi theo Oanh Ca biết đâu lại tìm ra manh mối sớm hơn.
Nhưng Oanh Ca lại đi đường thủy ngược chiều gió từ Trịnh đến Triệu, lẽ ra có thể cưỡi sóng đạp gió lướt băng băng cuối cùng lại chịu cảnh nhích từng bước. Lại còn một khó khăn khác, chính là lúc này chỉ có một chuyến thuyền đi nước Triệu, việc theo dõi Oanh Ca chắc chắn rất dễ bị phát hiện.
May có Mộ Ngôn thân thủ khá trên đường đi mới không bị mất mục tiêu. Oanh Ca đang lơ đãng đứng tựa lan can thuyền, đầu đội mũ sa rộng, từng lớp rèm sa mỏng dài, màu tím xung quanh vành mũ rủ xuống tận đầu gối, bao bọc khuôn dung và vóc dáng yêu kiều, chỉ lộ một đường chân váy màu tím bạc và suối tóc dài chấm gót chân.
Tôi hơi ngạc nhiên, đêm qua dưới ánh nến mờ, quả thật không nhận ra mái tóc cô lại dài như vậy. Hơn nữa hôm nay dáng điệu và trang phục của cô lại ung dung trang nhã đến thế, giống hệt tiểu thư quý tộc của một gia đình gia giáo nghiêm khắc, trang trọng đi du ngoạn, có lẽ ăn vận như vậy là để tránh kẻ thù. Nếu không theo sát suốt dọc đường, chắc tôi đã không thể tin cô tiểu thư kiêu sa trước mặt chính là sát thủ áo tím đã kề dao vào cổ tôi đêm qua.
Lúc sắp xuống thuyền, Mộ Ngôn giữ tôi lại, nói là cần đi làm một việc quan trọng. Tôi đành đứng đợi, lúc thuyền sắp nhổ neo mới thấy chàng xách một cái lồng chim quay lại. Lồng chim bằng gỗ mun, trên chiếc cột đơn chạm trổ hoa văn rất tinh xảo, bên trong có một con chim màu đen thoạt nhìn hơi giống quạ, nhưng hai bên mỏ có đường viền màu tím hồng, khác hẳn quạ.
Bước lên thuyền, để không bị Oanh Ca chú ý, chúng tôi tìm một góc vắng ngồi hóng mát. Cảm thấy buồn tẻ tôi ngồi trên ván thuyền bắt đầu ngắm nghía con chim đen trong lồng, ngắm một lúc, hỏi Mộ Ngôn: “Vừa rồi huynh đi mua con chim này phải không? Mua để làm gì?”.
Chàng cúi đầu nhìn tôi, thong thả đáp: “Mua cho cô chơi, thích không?”.
Lòng run run, tôi nắm chặt con hổ ngọc trong ống tay áo, sực nhớ lần trước chàng dùng con hổ này để đổi lấy cái nhẫn ngọc của tôi, do dự một hồi lâu, lại rụt rè hỏi: “Không phải huynh định dùng con chim quèn này để đổi con hổ ngọc chứ?”.
Con chim quèn trong lồng mở to mắt, kêu éc một tiếng. Mộ Ngôn ngây người, ánh mắt bắt gặp ánh mắt tôi, miệng nhoẻn cười.
Tôi lườm chàng, ngoảnh mặt đi: “Con chim quèn này chẳng đáng tiền”.
Lời vừa dứt, túm lông vũ trên đầu con chim dựng ngược, nó xông về phía tôi kêu một tiếng. Tôi bực mình khẽ đẩy cái lồng ra xa, tay nắm chặt con hổ ngọc, không biết thái độ của Mộ Ngôn thế nào.
Thực ra con hổ này tôi đã gần như cưỡng đoạt của chàng, cho dù Mộ Ngôn đòi lại cũng đành chịu. Hơn nữa đây lại là món đồ quý, chàng có thể đòi lại bất cứ lúc nào. Nhưng tôi vẫn trợn mắt: “Tuyệt đối không đổi đâu, tôi không thích con chim quèn này tẹo nào”.
Con chim quèn kích động nhảy lên, đập cánh loạn xạ, kêu ầm ĩ, mọi người trên thuyền đổ mắt nhìn lại, Mộ Ngôn kéo tôi đứng lên, lúng túng: “Vừa cảm thấy trông cô ra dáng một cô gái giờ lại trẻ con rồi”.
Tôi nghĩ đây không phải là trò trẻ con, mà là quyến luyến, những bậc chân tu gọi là lòng tham, cho là xấu, nhưng lòng tham của tôi bé nhỏ như vậy, ngoài làm tổn thương chút tình cảm của con chim, thật sự chẳng hại đến ai, cho nên tuyệt đối chẳng có gì là xấu.
Tôi và Mộ Ngôn cuối cùng cũng sẽ xa nhau, tình cảm của tôi với con hổ ngọc chính là tình cảm với Mộ Ngôn, theo cách nói văn chương có thể gọi là gửi gắm tình cảm, nhưng có lẽ điều này không ai hiểu, chỉ có mình tôi biết.
Tôi nhìn Mộ Ngôn, tôi không biết chàng thích một cô gái như thế nào, tôi vẫn luôn muốn chàng nhìn thấy tôi trong dáng vẻ đẹp nhất, nhưng lúc nào cũng không như ý, khiến chàng cảm thấy tôi bướng bỉnh, cảm thấy tôi chỉ là đứa trẻ. Tuy là một người chết, không có tim tôi vẫn thấy đau lòng, quả là bất lực.
Phía xa xa là trời xanh nước biếc, Mộ Ngôn nhìn tôi, tôi sịt mũi tỏ vẻ phấn khởi, định chuyển chủ đề câu chuyện, bỗng bị chàng kéo mạnh vào lòng. Má ép vào ngực chàng, Mộ Ngôn ôm rất chặt, khiến tôi muốn ngoái đầu cũng khó.
Lòng run run, ý nghĩ đầu tiên là Mộ Ngôn có lẽ cũng hiểu lòng tôi, còn chưa kịp nảy sinh ý nghĩ thứ hai, giọng chàng đã từ trên đầu vọng xuống: “Đừng động đậy”. Tiếp đó là tiếng cười rất nhỏ: “A Phất, người cô muốn tránh cũng ở trên thuyền này”.
Tôi nép vào ngực chàng, vừa thất vọng thầm nghĩ mình đúng là khéo suy diễn, vừa lục tìm trong đầu xem gần đây người mình muốn tránh là ai, bất giác hỏi: “Huynh nói là ai?”.
Trên sàn thuyền truyền đến những rung chấn mạnh mẽ, đều tăm tắp, chắc chắn phải là bốn người trở lên bước chân đều tăm tắp mới đạt hiệu quả như vậy, tiếng bước chân từ sau lưng vọng lại, lát sau, Mộ Ngôn kéo tôi ra, đoàn tùy tùng của Dung Tầm đã lên lầu .
Tôi vô thức nhìn về phía Oanh Ca ngồi tựa mạn thuyền phía xa, tưởng là lần này cố nhân tương phùng, có thể hé ra manh mối nào đó, nhưng cô vẫn ngồi ung dung, cơ hồ không thay đổi.
Điều thần tình là ánh mắt Mộ Ngôn cũng đánh về phía Oanh Ca, nhưng chỉ thoáng qua, cuối cùng quay lại nói vẻ dửng dưng: “Đừng nhìn, Dung Tầm ở trên lầu, không chạm trán Oanh Ca cô nương”. Chàng hơi dừng, lại tiếp:
“Trước khi lên thuyền tôi nghe được một bí mật cung đình rất thú vị, có muốn nghe không?”.
Tôi vui vẻ gật đầu lia lịa.
Trong gió sông mang hơi lạnh, Mộ Ngôn kể cho tôi nghe bí mật cung đình thú vị đó, cũng như mọi bí mật khác, thực ra chẳng có gì là bí mật, cũng chẳng có gì thú vị, nhưng cái hay là do chuyện xảy ra đã lâu, tình tiết phức tạp, tôi vẫn hào hứng lắng nghe.
Bí mật này truy về Trịnh hầu vương hai đời trước, tức là cha của Cảnh hầu Dung Viên, ông nội của Bình hầu Dung Tầm.
Theo tổ chế xa xưa, Trịnh hầu vương lúc đầu lập con trưởng là người kế vị, chính là thế tử, cha của Dung Tầm, nhưng do lão Trịnh hầu vương là người phúc dày, lập thái tử đã ba mươi năm vẫn không thấy dấu hiệu cưỡi hạc tây quy, khiến cha Dung Tầm vô cùng sốt ruột, mưu hoạch đã lâu, cuối cùng vào một đêm tối trời lặng gió quyết định phản loạn bức cung, kết cục tất yếu là bị giết, để lại đại gia đình thế tử bị lưu đày đến miền tây bắc xa xôi, bao gồm cả Dung Tầm mới mười bốn tuổi văn võ song toàn nức tiếng vương đô.
Lão Trịnh hầu vương một đời phong lưu, con cái rất nhiều, nhưng dòng đích đa phần là gái, chỉ có bốn trai, trong đó hai người đã chết yểu, chỉ còn con trưởng và con út. May con trưởng mặc dù phạm tội phản nghịch, nhưng con út Dung Viên xem ra có tài kinh bang trị quốc hơn con trưởng. Năm sau, lão Trịnh hầu vương bố cáo thiên hạ lập con út Dung Viên làm thế tử, trở thành người kế thừa vương vị sau này.
Năm đó, Dung Viên mười lăm tuổi, ngoài danh hiệu công tử đẹp nhất Trịnh quốc còn được mệnh danh là Trịnh quốc đệ nhất đao thủ. Sau chuyện con trưởng phản loạn bức cung, lão Trịnh hầu buồn phiền mãi, trở thành mối tâm bệnh lớn, hai năm sau qua đời, Dung Viên mười bảy tuổi lên ngôi, trở thành Trịnh quốc Cảnh hầu vương.
Sau khi Cảnh hầu vương kế vị, rất thích tài năng của Dung Tầm, nhân lúc quốc gia cầu hiền, liền triệu đại gia đình huynh trưởng từ miền tây bắc trở về vương đô, vừa trấn áp, vừa trọng dụng. Dung Tầm quả không phụ lòng thúc phụ, chức đình úy làm rất tốt, quan hệ chú cháu vô cùng hòa hợp, sáu năm trước, Dung Tầm còn tặng thúc phụ một đại mỹ nhân, về sau được phong là Như phu nhân.
Nghe dân gian đồn, Dung Viên vốn lạnh tình quả dục lại tỏ ra rất mực sủng ái mỹ nhân mà người cháu tặng, mỹ nhân đó trong lúc thưởng hoa lãm nguyệt đã làm một câu thơ, “Cung hoàn thâm thâm nguyệt dung dung”(*). Dung Viên bèn đổi tên cung của mỹ nhân đó thành Dung Nguyệt cung.
Còn Trịnh sử lại ghi Dung Nguyệt cung phu nhân sau khi vào cung chưa đầy hai năm liền được phong chính cung phu nhân, phong hiệu Tử Nguyệt, mẫu nghi Trịnh quốc. Có vẻ là một giai thoại phong lưu của vương thất, nhưng chưa quá một năm sau, Tử Nguyệt phu nhân luôn được Cảnh hầu vương sủng ái lâm bệnh qua đời.
Sau khi Tử Nguyệt qua đời, Cảnh hầu phiền não bi thương, cuối năm đó bệnh nặng quyết định nhường ngôi, do không có con trai bèn truyền ngôi cho cháu ruột là Dung Tầm, năm sau tạ thế ở hành cung, tuổi mới hăm bảy.
Buổi tối hôm Cảnh hầu vương qua đời, hành cung Đông Sơn bốc cháy dữ dội, lửa ngút trời, không chỉ hành cung cháy trụi ngay cả anh đào trồng trên núi cũng cháy thành tro, ly kỳ hơn nữa là từ đó về sau anh đào ở đó không bao giờ ra hoa đỏ nữa.
Nghĩ lại cảnh trong mơ, Oanh Ca khuôn mặt xinh đẹp ửng hồng nói với Dung Tầm: “Em sẽ trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia”.
Nghĩ đến bóng cô loạng choạng dưới bầu trời lả tả cánh hoa anh đào, tôi hỏi Mộ Ngôn: “Mỹ nhân mà Dung Tầm tặng Dung Viên sau được phong Tử Nguyệt phu nhân chính là Oanh Ca phải không?”.
Chàng phe phảy cái quạt gật đầu: “Rõ ràng”.
Tôi băn khoăn: “Vậy cái chết của Tử Nguyệt phu nhân sau này là thế nào?”.
Mộ Ngôn ngập ngừng: “Theo chiếu bố cáo với thiên hạ, Cảnh hầu vương chủ động nhường ngôi, nhưng trước kia có tin đồn chính Bình hầu ép Cảnh hầu thoái vị, nguyên do cũng vì một cô gái”. Chàng mím môi cười. Tôi rất thích cử chỉ đó của chàng.
“Cô gái đó chính là Tử Nguyệt phu nhân. Đây quả là một tin thú vị, nhưng không biết thật giả thế nào, nghe đồn Bình hầu đã kề kiếm vào cổ Cảnh hầu, hỏi một câu: ‘Tôi đã trao nàng nguyên vẹn cho thúc, tại sao thúc lại giày vò nàng tan nát’, thì ra ngày xưa vẫn cho là một đồ vật, hôm nay mới biết là một mỹ nhân”.
Tôi lẩm bẩm: “Nhưng chàng ta đã đem cô ấy tặng người khác, còn trách ai? Thật không thể hiểu, nếu có người bảo tôi đem người trong lòng tặng cho kẻ khác, đánh chết tôi cũng không chịu”.
Mộ Ngôn liếc tôi: “Sao? Không chịu đem ai đi tặng?”.
“Chàng chứ ai”, mấy chữ đó đã ở trong miệng, ngập ngừng một lát, dưới cái nhìn ý tứ mập mờ của chàng, tôi đổi giọng: “Tiểu Hoàng…”.
Cái quạt đập lên đầu tôi, “Lại nói bừa”.
Phía xa núi trập trùng nhấp nhô, sương khói vấn vít, khu rừng cây trên núi xanh ngắt thấp thoáng trong sương. Mộ Ngôn lơ đãng nói: “Con người ta thường có rất nhiều ước vọng, nhưng trở thành hiện thực không nhiều, cho nên cần phân ra cái gì cần nhất, cái gì tương đối cần, cái gì có thể có, có thể không…”.
Tôi nghĩ một lát, “Ý huynh là chỉ cần đạt được cái mình cần nhất?”.
Chàng cười: “Không, cái cần nhất và cái tương đối cần đều phải đạt được, ví như Bình hầu, lúc đầu đem Oanh Ca cô nương tặng cho người khác có lẽ cảm thấy Oanh Ca cô nương không quan trọng lắm”.
Tôi nhìn chàng: “Ý huynh nói nếu huynh là Dung Tầm sẽ không mang Oanh Ca đi tặng, nhưng Oanh Ca không phải là thứ quan trọng nhất của huynh cơ mà?”.
Chàng phe phảy quạt như cười như không nhìn tôi: “Ai nói cái quan trọng nhất chỉ có một?”.
Tôi hiểu lơ mơ, nhưng chàng không nói gì nữa.
Nhìn lên phía mui thuyền, Oanh Ca không biết đã đi đâu, thuyền ra giữa sông, gió mạnh dần, tôi tìm một chỗ vắng, lấy mặt nạ da người đeo lên mặt, Mộ Ngôn ngắm nghía nói: “Đây là khuôn mặt thật của cô sao?”. Tôi nghĩ, nếu không có vết sẹo trên đầu đó, khuôn mặt tôi còn đẹp hơn nhiều, nhưng nghĩ lắm ích gì, quá khứ tốt đẹp nên quên hết thì hơn, để khỏi thêm buồn.
Tôi lắc đầu: “Không, tôi rất xấu, không muốn để ai nhìn thấy”.
Thực ra tôi chỉ không muốn để chàng nhìn thấy.
Bước lên lầu hai, nhìn thấy Dung Tầm toàn thân áo tím ngồi dựa lan can chạm trổ hoa văn, uống rượu một mình. Đây là quân vương Trịnh quốc, lúc này lại xuất hiện trên chiếc thuyền bình dân ở biên giới Trịnh, Triệu, thật là điều khó tưởng tượng. Cẩm Tước, Oanh Ca, Dung Tầm, tất cả lần lượt xuất hiện trước mắt tôi, giống như một lớp kịch đã diễn xong, lại giống như đóa hoa mùa thu chưa nở hết đã tàn, có gì đó khiến người ta muốn kêu lên, khiến người ta muốn dừng lại cũng không được, nhưng vẫn không tìm ra bất cứ manh mối nào.
Dung mạo của Dung Tầm phía trước vẫn tuấn lãng đoan nghiêm như trong giấc mơ của Oanh Ca, những ngón tay dài cầm chiếc cốc gốm Long Tuyền màu xanh trông thanh tao nho nhã như nét cọ trong tranh thủy mặc.
Tôi vẫn chưa tìm được chỗ ngồi, đột nhiên nghe thấy dưới lầu có tiếng ẩu đả liền nhìn xuống, mặt nước sông bên ngoài thuyền đục ngầu, vọt cao cả trượng, khách trên thuyền kinh sợ tản ra tứ phía, dưới sông đột nhiên vọt lên mấy sát thủ áo đen bịt mặt. Thích khách áo đen thế hung mạnh, lưỡi kiếm lạnh lùng ép về phía cô gái áo tím dáng yêu kiều trên thuyền.
Tôi đã nhìn thấy Oanh Ca giết người không chỉ một lần. Nhưng đây là lần đầu nhìn thấy cô giết người bằng trường đao, bóng thanh đao dài hẹp lóe như tia chớp từ không trung thu về, tư thế vẫn không đổi, nhưng đều là nhát đao chí mạng, chính là chiêu thức Dung Viên đã dùng dưới tán anh đào.
Ngọc thạch màu lam khảm trên chuôi đao lóe lên lóng lánh trong chùm tia nước trắng xóa bắn lên từ dưới sông, tương phản với màu đỏ tươi của máu vọt ra từ cổ người áo đen, tạo nên một vẻ đẹp yêu ma. Còn Oanh Ca toàn thân áo tím vẫn ung dung đứng trên mũi thuyền, trông tựa bức sa nhẹ rủ trên mũi thuyền, mũi trường đao chạm đất, giết chết sáu người, thanh đao sắc chỉ dính một vết máu nhạt, quả là thanh đao tốt.
Xung quanh sặc mùi máu tanh, nhưng trên người cô lại không một vết máu. Một thủ pháp giết người sạch tinh nhanh gọn.
Tìm được chỗ quan sát, tôi và Mộ Ngôn đều nhìn chăm chú, chỉ tội cho một số khách trên thuyền sợ run lập cập, trong gió đã có hơi lạnh, trời sắp mưa, trời nước tĩnh lặng. Trong cái tĩnh lặng mênh mông, tiếng cười của Oanh Ca đột nhiên vang lên lạnh như nước: “Tại hạ đã được giáo huấn sát nhân cũng là một nghệ thuật, phải nhanh và gọn, đó là chính cái đẹp của sát nhân. Hôm nay chúa thượng các ngươi cử đến nhiều người như vậy để giết một tiểu nữ yếu đuối, tha lỗi cho tại hạ không chú ý tới vẻ đẹp của sát nhân”.
Một tiếng “choang” vang lên, tôi ngoái nhìn, thấy Dung Tầm bàn tay vẫn giơ ra như nắm cốc rượu, nhưng trong tay lại chẳng có gì, trên nền những mảnh gốm xanh vỡ nát, ánh mắt chàng ta theo dõi sát Oanh Ca chiến đấu với những người áo đen, khuôn mặt lạnh băng lộ vẻ thất kinh.
Oanh Ca đã phóng lên không, bóng trường đao lại lóe lên trong chùm tin nước vọt cao, dáng cô phóng lên giống như con bướm tím phá kén chui ra. Tôi đến gần Mộ Ngôn: “Cô ấy sẽ bị thương”, mối lo của tôi chưa bao lâu đã được giải tỏa khi mấy hộ vệ mặc thường phục bên cạnh Dung Tầm nhảy xuống tầng một tham chiến. Tôi chăm chú nhìn Oanh Ca, mặc dù đã thấy Dung Tầm tham chiến, tay vung trường đao vào người áo đen vẫn không một chút bối rối. Cô quả là một sát thủ đầy bản lĩnh.
Khi người áo đen cuối cùng mất mạng rơi xuống nước dưới trường đao của Oanh Ca, trường kiếm trong tay Dung Tầm lại lật trở lại hướng vào mũ sa của cô, cự ly nửa cánh tay, vốn không thể sơ sẩy, nhưng cô đã khéo léo xoay người đứng trên mép thuyền, sau lớp mạng không nhìn rõ nhưng có lẽ cô đang quan sát người đàn ông trước mặt. Gió sông ù ù, rèm sa bay phần phật, tựa như có một dải mây màu tím bỗng hé ra ở đường chân trời lúc ngày tàn.
Trường dao trong tay cô kề cổ Dung Tầm, chàng ta tiến lại gần, chỗ lưỡi kiếm cứa vào da rỉ ra một vệt máu. Trong tiếng gió ù ù vị công tử phong lưu hơi cau mày, nói như than: “Là em sao, Nguyệt nương?”. Thanh đao trong tay cô thu lại, không trả lời, quay người nhảy xuống mặt sông sủi nước đục ngầu, Dung Tầm vội giơ tay kéo lại, nhưng chỉ túm được một mảnh rèm sa. Một tiếng ùm vang lên, thị vệ bên cạnh kêu to: “Mau cứu lão gia, lão gia không biết bơi!”.
Tôi đứng ngây ra nhìn, tất cả cảnh tượng vừa diễn ra chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “quá đẹp” rồi lập tức lại nghĩ hỏng rồi, “Chúng ta đã mất dấu vết Oanh Ca”.
Mộ Ngôn đã ngồi xuống rót trà vào cốc, nói vẻ nghiêm túc: “Oanh Ca cô nương mặc dù là sát thủ cao cường, nhưng với trình độ theo dõi của tôi, có lẽ không thành vấn đề, vấn đề là vướng cô, trình độ phải chia đôi, thực lực giảm không ít”.
Tôi buông chiếc cốc quay người đi xuống lầu: “Núi cao không đổi, sông dài vẫn chảy, hôm nay chia ly, sẽ là mãi mãi”. Bị chàng kéo lại, “Tôi không định theo cô ta suốt dọc đường, một sát thủ như vậy, chỉ cần cô ta hơi sinh nghi là lập tức thoát khỏi chúng ta, như vậy chẳng phải bao công sức vừa rồi đi tong, cho nên mới mua con chim này, cô có nghe nói thuật theo dõi bằng cách dùng bột hoa tây mộc chưa, giấu bột đó trong người kẻ bị theo dõi, dù người đó đến chân trời góc bể con chim này cũng sẽ theo mùi hoa mà tìm được”.
Tôi lắc đầu: “Chưa từng nghe nói”.
Chàng gật đầu: “À, cũng phải thôi, đó là thuật theo dõi do tổ tiên chúng tôi truyền lại, người ngoài làm sao biết”.
Tôi “…”.
Thuyền cập bến, chỉ thấy Dung Tầm, không thấy Oanh Ca.
Địa điểm đến là thành Tùy Viễn ở biên giới nước Triệu, chúng tôi đi vào thành, chờ Oanh Ca đến, nghe Mộ Ngôn nói, nếu Oanh Ca vào thành, con chim nhất định phát hiện được. Nhưng điều rắc rối là, nếu gặp chim mái con chim đực trong lồng cũng có phản ứng như vậy, thật hết cách, đành chờ xem sao, bởi vì loài chim hiếm này đâu dễ gặp.
Tôi cảm thấy nếu đi lâu dài với chúng tôi, nhất thiết phải đặt cho con chim một cái tên, nghĩ một lát, tôi hỏi Mộ Ngôn: “Huynh thấy gọi nói là Tiểu Hắc được không?”.
Chàng trợn mắt “Cô dám?”.
Mới sực nhớ ra, hồi đầu tôi đặt tên cho chàng là Tiểu Lam.
Sau đó không lâu, lại nhận được thư của Quân Vỹ do chim bồ câu đưa đến. Mộ Ngôn tỏ ra kinh ngạc khi thấy tôi có thể nhận được thư trên đường đi, nhưng cơ chế vận hành của con bồ câu thực ra cũng gần như con chim đen của chàng, như vậy cũng dễ giải thích. Tôi mở thư ra xem. Nét chữ rồng bay phượng múa, vẫn mở đầu như sau:
“A Phất tiểu muội của huynh, xa cách bấy lâu, huynh nhớ muội vô chừng, muội có nhớ huynh chăng?
Ngủ trưa chiêm bao, mơ thời thơ ấu, huynh đến vương đô thăm muội, tay trái dắt Tiểu Hoàng tay phải cầm cây thương, tứ bề quạnh quẽ, lệ rơi hàng ngàn. Buồn thay!
Mấy hôm trước ngủ trưa, vẩn vơ nhớ muội, từ mắt đến tim, nhớ nhung chở mấy thuyền cho đặng, đang lúc mơ màng túi tiền bị người ta lấy mất…
Huynh nghĩ rất nhiều, chuyện này muội tự làm, muội nên tự chịu…”.
Mộ Ngôn hỏi: “Viết gì vậy?”. Tôi nói: “Anh ta ngủ trưa, không cẩn thận bị kẻ trộm lấy mất tiền, sau đó Tiểu Hoàng không chịu mãi nghệ, anh ta đành đem Tiểu Hoàng cầm cố cho một vườn thú, bảo tôi dùng con bồ câu này chuyển ngân phiếu cho anh ta”.
Mộ Ngôn lục hầu bao lấy ngân phiếu, tôi ngăn lại: “Không cần”. Tôi viết hồi âm cho Quân Vỹ: “Nội trong mười ngày nếu không chuộc Tiểu Hoàng ra, muội sẽ bán huynh cho kỹ viện, mong huynh sớm lo liệu”. Đợi thư khô mực, cuộn lại cho vào ống trúc nhỏ, buộc vào chân chim bồ câu thả cho bay, chuyện vậy là giải quyết xong.
Chúng tôi thu xếp chỗ ở trong thành Tùy Viễn, ở liền năm ngày. Chập tối ngày thứ sáu, con chim đen trong lồng bỗng hưng phấn khác thường, có thể quanh đây xuất hiện con chim mái, cũng có thể cuối cùng Oanh Ca đã vào thành, quả thật không biết thế nào.
Mộ Ngôn lặng lẽ quan sát màn đêm xung quanh, mở lồng chim, con chim đen lập tức xông ra, giương cánh bay vút lên, chúng tôi đuổi theo sau. Tôi thấp thỏm, không nén nổi hỏi Mộ Ngôn: “Huynh nói xem, sao nó hưng phấn thế? Có phải đã đánh hơi thấy bạn tình?”.
Mộ Ngôn không ngoái đầu: “Sao có thể”.
Tôi thở dốc chạy theo chàng: “Nhỡ thật thì sao”.
Chàng thản nhiên: “Thì làm thịt nó hầm cho cô ăn”.
Con chim trên trời giật mình kêu oác một tiếng.
Một canh giờ sau, quả nhiên phát hiện Oanh Ca ngã gục trên đám cỏ ở ven sông, toàn thân ướt sũng, cũng không biết năm ngày vừa rồi đã xảy ra chuyện gì.
Tôi còn nhớ vết thương trên vai cô, vội mở lớp vải băng dính kết, thấy một vết thương rất đáng sợ đã trắng nhợt vì ngấm nước sông.
Đêm đó chúng tôi ở lại một y quán phía bắc thành.
Lão đại phu kiểm tra vết thương, lấy ra thuốc tốt nhất của y quán, đem sắc với nhân sâm dùng thìa bón từng miếng cho Oanh Ca. Bón được quá nửa bát thuốc, cô vẫn chưa tỉnh, cơn sốt vẫn chưa hạ, trong mê sảng miệng liên tục lắp bắp nói gì chúng tôi không hiểu, dường như đang rơi vào ác mộng khủng khiếp nào đó.
Lão đại phu nói đại ý rằng nếu sáng hôm sau cô nương này vẫn không tỉnh, thì chỉ còn cách ra cổng sau rẽ phải, bên hàng xóm có cửa hiệu bán quan tài, cũng kiêm luôn lo liệu tang sự.
Chúng tôi hiểu ý tốt của lão đại phu, nhưng Oanh Ca tuyệt đối không thể chết ở đây. Cô chết, trước hết chúng tôi phải mua quan tài, sau đó đi tìm mua chỗ chôn cất, thuê người đào huyệt… việc nào cũng phải bỏ tiền, thật hậu họa vô cùng. Kế sách hiện nay là vẫn dùng kế cũ, đi vào giấc mơ của Oanh Ca, đưa cô ra khỏi ác mộng trước bình minh.
Tôi cảm thấy yêu một người nhất thiết phải trân trọng người đó, có nghĩa là không thể để Mộ Ngôn gặp bất kỳ nguy hiểm nào, nhưng tôi vẫn không kìm được đưa chàng vào mộng cảnh đầy nguy hiểm, điều đó làm tôi sợ, tôi biết trong tiềm thức, tôi vẫn muốn để chàng chết, chỉ không ngờ lý trí đã bị tiềm thức đánh bại nhanh như thế.
Nói cách khác, lý trí con người xưa nay đa phần không thắng nổi tiềm thức. Thắng được tiềm thức họa chăng chỉ có những bậc tu hành.
Đã nghe thấy tiếng trống điểm canh, bước vào mộng kiều nhìn về xa, không như cảnh đổ nát chia ly lần trước, lần này giấc mộng của Oanh Ca rất liền mạch cũng rất rõ ràng.
Nhất định phải tìm ra bí ẩn trong nội tâm của cô, hóa giải bí ẩn đó, mới có thể đưa cô trở về thuận lợi, chúng tôi không thể không bỏ thời gian lần theo dấu vết câu chuyện. Trong lòng bao hồ nghi thắc mắc, có những điều đã được giải đáp, nhưng vẫn chưa thể làm rõ bí ẩn của Oanh Ca thực ra là gì, mỗi nút thắt của câu chuyện này xem ra đều có khả năng giúp tìm ra bí ẩn đó. Đó chính là số phận của một sát thủ, một số phận bi thảm như thế nhắc người đời quả thật không thể suốt đời sống bằng nghề sát thủ.
Câu chuyện bắt đầu từ năm thứ bảy sau khi Cảnh hầu lên ngôi.
Năm Cảnh hầu thứ bảy, mùa xuân đã đi được quá nửa, hoa trên cành đã rụng lác đác.
Oanh Ca hai mươi tuổi là sát thủ giỏi nhất đình úy phủ, bắt đầu từ năm mười sáu tuổi lần đầu tiên giết người, bốn năm nay, bao người đã bỏ mạng dưới đoản đao của cô.
Những năm tháng đẹp nhất của đời con gái trôi qua trong màu đỏ choáng váng của máu tươi, trong mùi tanh và phế khí, dung mạo đẹp dần lên nhưng quanh năm làm bạn với đoản đao trường kiếm, chút yếu lòng cuối cùng trước phút sinh tử đã bị xóa sạch không còn dấu vết, từng cử chỉ, động tác, nụ cười đều lạnh toát như thanh lợi kiếm.
Những kẻ ăn người ở trong Dung phủ đều sợ cô, không ai dám nói chuyện với cô, cho nên cô thường xuyên vò võ một mình, không một ai lai vãng thăm hỏi, mọi việc đều tự làm. Có điều như thế cũng không hoàn toàn là không tốt, ít nhất lúc xem tiểu thuyết cũng không bị ai quấy rầy.
Trái ngược hoàn toàn, rõ ràng mặt mũi giống hệt nhau, Cẩm Tước được đón vào Dung phủ sau khi bà nội qua đời lại khiến người ta vừa nhìn đã yêu, nhân khí không mập mờ như Oanh Ca.
Tổng kết nguyên nhân, một là Cẩm Tước hay cười, lúc nói chuyện chưa nói đã cười, như một đóa hướng dương nở bừng trong ngày mưa, xinh đẹp, lại sạch sẽ. Hai là, Cẩm Tước thích giúp đỡ mọi người, nhổ cỏ giúp thợ vườn, nấu cơm, giặt giũ giúp nhà bếp, lại còn nhiệt tình dạy các cô hầu thêu thùa vá may.
Cẩm Tước bình dị dễ mến, có tất cả những đức tính tốt đẹp của một thiếu nữ mười bảy tuổi. So với cô em, Oanh Ca không hề biết nữ công là gì, chỉ duy nhất biết giết người, mà giết người rõ ràng không được coi là nữ công, nếu cũng được lớn lên bình thường như các cô gái khác, như cô em mỗi tháng có tiền của chị gửi về, đương nhiên những việc nấu ăn thêu thùa cô đâu chịu kém ai.
Nhưng cô không bận lòng, chín năm trước Dung Tầm nhặt được cô, Dung Tầm là ân nhân của cô, chàng ta muốn cô trở thành như thế nào thì cô sẽ cố trở thành như thế. Ví dụ cô nhìn thấy máu là choáng, nhưng lại trở thành sát thủ. Ví dụ cô sợ sấm, nhưng lại có thể thản nhiên ra tay lấy mạng sống của người khác trong tiếng sấm ầm ầm.
Ngày mười bảy tháng tư, sinh nhật lần thứ hai mươi tư của Dung Tầm.
Mưa xuân dai dẳng. Oanh Ca bị thương trong khi đi làm một vụ việc ở nước Triệu, cánh tay bị trúng một nhát kiếm dài khá hiểm, lẽ ra nên nghỉ ngơi chữa trị, nhưng lại nhớ sinh nhật Dung Tầm, cô đi suốt ngày đêm, vội vàng gấp gáp trong bảy ngày kịp về thành Tứ Phương trước một ngày, ngày mười sáu tháng tư.
Nước Triệu có đặc sản đồ gốm trắng, cô muốn tự tay làm một món đồ gốm từ nước Triệu mang về tặng sinh nhật Dung Tầm, đáng tiếc là vết thương quá nặng, tay lóng ngóng cử động đau đớn khó khăn, học theo sư phụ mấy ngày mới gắng làm ra một cái cốc trông là lạ, uống rượu thì hơi lớn, uống trà lại hơi nhỏ, không biết gọi là gì.
Nhưng màu sắc rất đẹp, nhẵn bóng sáng long lanh, thoạt nhìn biết ngay không tầm thường. Cô dùng vải lụa bọc kỹ mấy lớp, đi bảy ngày đường mang về thành Tứ Phương, vừa bước vào Dung phủ đã nóng lòng chạy ngay đến phòng Dung Tầm muốn khoe với chàng.
Mọi người đều nói Oanh Ca lạnh tình, người lạnh tình khi bộc lộ tính trẻ thơ thực ra là đáng yêu vô cùng.
Mưa rất to, cây ngô đồng trước sân tán lá che kín cả khoảng trời, những trận sấm xuân ẩn sau tán lá sum suê, hoa ngô đồng run rẩy trong mưa. Người hầu đứng ở cửa đưa cho cô chiếc ô, cô cởi áo ngoài bọc lại chiếc cốc đã được bọc mấy lần vải lụa, miệng cười mãn nguyện, tay giương ô đội mưa đi vào.
Không cho hầu nữ ở phòng ngoài bẩm báo, cô muốn dành cho chàng một bất ngờ, đang thầm nghĩ chàng nhìn thấy cô lúc này sẽ như thế nào, hàng lông mày sẽ nhướn cao ra sao, môi giãn ra nụ cười nửa có nửa không thế nào, thậm chí nghĩ đến câu đầu tiên chàng nói khi nhìn thấy cô: “Sao về nhanh thế, đi đường có vất vả không?”.
Đường xa, ngựa phóng gấp, bụi đường còn bám trên áo choàng, cô cởi áo choàng, trao chiếc ô cho cô hầu, chỉ ôm chiếc cốc, nhanh nhẹn lách qua cánh cửa phòng khép hờ. Chân trời lóe lên một tia chớp, giống như cây kiếm bạc trong tay thần sấm vung lên trong màn đêm mênh mang. Trong ánh chớp, nhìn Dung Tầm đứng trong thư phòng sau án thư đang cúi đầu viết gì đó.
Ngoài ra, trong thư phòng của chàng vốn rất ít người được bước vào, cô em Cẩm Tước cũng chống cằm tư lự ngồi bên án thư.
Trong phòng rất yên tĩnh, có thể nghe thấy tiếng ngòi bút lông cáo đi trên giấy, Dung Tầm chăm chú viết một hồi, ngẩng đầu nhìn Cẩm Tước, ánh mắt như cười: “Hai chữ này là Cẩm Tước, tên của nàng”.
Cẩm Tước tò mò đứng lên, ngắm nghía tờ giấy: “Vậy hàng chữ nhỏ bên cạnh là gì…”. Lời chưa dứt đã hốt hoảng bịt tai, miệng hét lên cùng với tiếng sấm đột nhiên bùng nổ phía chân trời, người run run, ngồi sụp xuống đất.
Dung Tầm tay đang cầm bút, sững người nhìn cô, giơ tay kéo cô lên: “Lớn thế này vẫn sợ sấm ư?”. Chưa dứt lời, một tiếng sấm nữa lại nổ vang, Cẩm Tước vừa được kéo đứng lên, lại bịt tai lùi về sau, chân va vào án thư suýt ngã, chàng đã kịp thời giơ tay kéo cô vào lòng, tránh cho cô khỏi va vào góc án thư, cau mày: “Sao lại không cẩn thận thế”.
Hồi lâu sau, chàng vẫn không buông ra. Hai tay Cẩm Tước vẫn bịt tai.
Có những thứ càng cố giữ càng không giữ được, giống như tình yêu của Oanh Ca, giống như chiếc cốc gốm trong tay cô. Phòng ngoài một tiếng động nặng nề vang lên, Cẩm Tước đột nhiên mở mắt, ánh mắt dừng lại trên đường gấu váy ở ngưỡng cửa thư phòng.
Trên giá nến đồng chỉ có một ngọn nến đang cháy, trong phòng ánh sáng lờ mờ. Trong ánh sáng lờ mờ đó, giọng Dung Tầm nhàn tản: “Ai?”.
Chân váy tím di chuyển, xiêm y gấm sột soạt như tiếng lá ngô đồng trước sân vào một ngày nắng đẹp có gió, Oanh Ca toàn thân váy tím đứng ở cửa phòng, mái tóc rối dính nước mưa bết vào trán, vào hai má, sắc mặt lạnh như nước mưa tháng tư.
Lại một tiếng sấm bùng nổ, như chiếc búa khổng lồ đập nát bầu trời, Cẩm Tước run lập cập trong lòng Dung Tầm, vội đẩy mạnh chàng ra, loạng choạng ngã xuống đất, chàng lại nắm tay cô, lửa nến ánh lên ống tay áo tím thêu hoa mộc lan.
Sau khi dìu Cẩm Tước đứng lên, Dung Tầm ngẩng đầu nhìn Oanh Ca đứng ở cửa thư phòng, dường như bấy giờ mới phát hiện ra cô: “Sao về nhanh thế, đi đường có vất vả không?”. Câu nói đúng như cô đoán, một chữ không sai.
Cô nhìn chàng, trên khuôn mặt lạnh hiện ra nụ cười, nụ cười đó lan dần đến góc mắt, giống hệt một cây khô đang từ từ nở hoa. Vẻ phong tình lộ trên khuôn mặt, giả dối như một gái lầu xanh lão luyện, khiến khách làng chơi nổi giận.
Nụ cười phong tình đó ẩn dưới hàng mi như cánh bướm, chưa lan đến đáy mắt: “Công việc xong sớm, nên trở về sớm”.
Trong phòng tĩnh mịch, Dung Tầm ngẩng đầu nhìn cô, lại cầm lên chiếc bút lông: “Vậy nghỉ ngơi đi”. Mắt liếc nhìn bọc vải trên đất, “Cái gì kia?”.
Cô quay người định đi, nghe vậy nhặt lên bọc vải vừa rồi đánh rơi, dừng một lát nói: “Không có gì, những thứ không quan trọng nên vứt đi”.
Công việc ở nước Triệu xử lý nhanh chóng, gọn gàng, Dung Tầm thưởng cho Oanh Ca ngôi nhà lớn bên đầm sen gọi là Thanh Đầm cư, món quà thưởng quả thực quá hậu, tự cổ chí kim mọi vật đều biến động thất thường, duy chỉ có nhà đất không ngừng tăng giá.
Trong Dung phủ, Thanh Trì cư chỉ đứng sau Thanh Ảnh cư nơi ở của Dung Tầm, có nghĩa là hai toà viện lớn như vậy để phù hợp đối xứng trong thẩm mỹ kiến trúc, nhất định phải thiết kế ở hai đầu đông tây hoặc nam bắc trong phủ đệ, tóm lại tuyệt nhiên không thể tọa lạc cạnh nhau. Oanh Ca chuyển khỏi Tập Âm các sát bên tẩm cư của Dung Tầm, chuyển đến Thanh Trì cư cách Dung Tầm mười vạn tám ngàn dặm.
Cô sống sáu năm trong Tập Âm các, từ năm mười bốn tuổi đến năm hai mươi tuổi, cuối cùng chuyển ra ngoài, còn vị khách chuyển đến Tập Âm các thế chỗ cô là cô em Cẩm Tước.
Có một dạo người trong Dung phủ xì xầm bàn tán đủ kiểu. Có người cho rằng Oanh Ca đã bị thất sủng hoàn toàn, nhưng lại thấy, nếu đã bị thất sủng như vậy Dung Tầm không thể thưởng cho cô một ngôi nhà lớn như thế, về sau lại có tin nói, căn nhà đó có thể là Dung Tầm bù đắp cho Oanh Ca để chia tay.
Lại có tin, Dung Tầm yêu Cẩm Tước, nhưng ở đời phàm một người đàn ông vì một người đàn bà mà bỏ một người đàn bà chỉ có thể có một nguyên nhân, người đàn bà thứ hai phải cực kỳ giầu có lại rất đẹp, nhưng Cẩm Tước và Oanh Ca giống hệt nhau, nếu Dung Tầm thật sự vì Cẩm Tước mà bỏ Oanh Ca thì quả khó lý giải.
Về sau người ta lại cho rằng tình cảm vốn là chuyện mơ hồ, thế giới tình cảm của đàn ông càng mơ hồ, nếu không là đàn ông có lẽ mãi mãi không thể lý giải. Có điều, theo cách nói đó, đàn ông và đàn bà ở với nhau vĩnh viễn không thể hòa hợp bằng đàn ông ở với đàn ông, bởi vì cơ hồ chỉ có đàn ông với nhau mới dễ hiểu nhau. Vậy là lý lẽ khi phát triển đến nước này, người ta đành bỏ cuộc.
Trong khi Dung phủ không ngớt bàn tán xung quanh sự việc này thì hai trong số ba người trong cuộc lại tỏ ra vô cùng điềm tĩnh.
Dung Tầm thân ở ngôi cao, xưa nay vốn điềm tĩnh. So sánh hai người, sự điềm tĩnh của Oanh Ca càng khó hiểu. Hầu như tôi chưa từng thấy cô tỏ ra bối rối, cho dù cái đêm lọt vào phòng tôi, trong khi mơ mặt đầy nước mắt, nhưng không hề khóc lóc thở than. Người duy nhất không thể bình tĩnh là Cẩm Tước.
Hôm Oanh Ca chuyển khỏi Tập Âm các, Cẩm Tước đứng đợi cô ở bên ngọn giả sơn trên con đường thông đến Thanh Trì cư, mặt tiều tụy, đôi mắt hay khóc không một chút khí sắc, nhìn chị gái đăm đăm: “Sao chị không mắng em? Sao không trách em, có phải chị, có phải chị ghét em, ghét em…”.
Lời chưa dứt đã nước mắt chứa chan, ướt đẫm vạt áo, phía trên những đám hải đường đỏ cháy như lửa. Cô lao vào lòng Oanh Ca, ép cô vào vách hòn giả sơn, níu lấy cổ cô, giống như hồi nhỏ, nước mắt đẫm má.
Oanh Ca bị cô ôm riết, cuối cùng cúi đầu nhìn cô, trong tròng mắt đen thẳm in hình khuôn mặt cô em, như hai bông hải đường trên một cành. Cẩm Tước nghẹn ngào: “Chị, chúng ta hãy rời khỏi đây, Dung Tầm không phải là người tốt với chị đâu”.
Oanh Ca dựa lưng vào hòn giả sơn, trên chiếc váy dài gấm màu tím thêu những con bướm vờn hoa, một cảnh xuân sắc ngời ngời ở trên người cô lại trở nên lạnh lẽo đìu hiu. Cẩm Tước ôm chặt cô khóc nức nở. Đầu cô gối lên một mỏm đá nhô ra trên hòn giả sơn, hơi hếch cằm, nhìn bầu trời xanh miên viễn trên cao, khẽ cười: “Em có biết, sát thủ được Dung gia nuôi nếu rời bỏ chủ, hậu quả sẽ thế nào? Năm năm qua vì Dung gia chị đã gây cho mình biết bao kẻ thù”.
Cô em nép chặt vào người chị ngẩng đầu: “Kiếm cớ, chị không muốn đi bởi chị thích Dung Tầm phải không?”.
Hơi lạnh tụ trong mắt Oanh Ca.
Cẩm Tước vẫn ôm riết cô, răng đánh vào nhau lập cập: “Em sẽ chứng minh cho chị, chàng ta tuyệt đối không đối tốt với chị”.
Tay cô định đặt lên vai cô em, lại buông thõng, vẫn hơi ngẩng đầu, trong mắt ánh lên sắc hoa hải đường đỏ chói, giọng dửng dưng: “Cẩm Tước, bấy lâu nay chị không ở bên em, em buồn lắm phải không?”.
Sự chứng minh của Cẩm Tước đến rất nhanh, nhanh như con dao trong tay Oanh Ca, giả sử trong những việc khác cũng hiệu quả như vậy thì Cẩm Tước sớm đã thành một thiếu nữ tự cường.
Có điều, tiền đề là thích khách đêm mười sáu tháng năm đó chính là do cô em bố trí. Nhưng như vậy có vẻ như nghĩ về người khác quá xấu, có lẽ tất cả chỉ là ý trời, Cẩm Tước chẳng qua mượn ý trời.
Ý trời để cho khóm hoa trong hoa viên Dung Phủ nở đúng đêm đó, ý trời để Dung Tầm đột nhiên nổi hứng đưa Cẩm Tước đi dạo hoa viên ngắm trăng, ý trời để Oanh Ca không ngủ được, đang đêm chạy đến mài dao trên bậc cầu ao trước hoa viên, ý trời để thích khách đột ngột xuất hiện khi ba người họ không hẹn mà nên ánh mắt gặp nhau.
Phải nói, chức đình úy cai quản lao ngục Trịnh quốc của Dung Tầm khiến chàng ta luôn có thích khách viếng thăm, chuyện thích khách nhảy vào phủ mọi người đã quen, chẳng có gì đáng ngạc nhiên, chỉ có điều mục tiêu lần này của thích khách không phải là Dung Tầm, dưới ánh trăng, bóng kiếm như một con rắn lao thẳng vào Oanh Ca đang cúi xuống cầu ao.
Nhát kiếm đó nhanh đến mức hầu như không thể tránh, nếu Oanh Ca không phải là sát thủ lão luyện, có thể đã mất mạng ở đây, may mà ngày ngày cô nghiên cứu cách giết người, cũng nghiên cứu cánh tránh kẻ địch giữ mạng sống, theo bản năng cô lăn lên bờ ao, thoát được.
Đối với thích khách, sau nhát kiếm đó đã mất thế chủ động, không dễ lấy lại. Chính lúc Oanh Ca cầm dao kháng cự, một đường kiếm khác đã nhằm thẳng lưng Dung Tầm đâm tới.
Khi đó tôi mới phát hiện hóa ra có hai thích khách hành sự, người trước chỉ khống chế Oanh Ca, người sau mới là người ra tay thực sự. Nhưng điều tôi không biết là thân thủ của Dung Tầm vượt xa Oanh Ca.
Thích khách áo đen kinh hoàng cúi nhìn mũi trường kiếm xuyên qua ngực mình, dường như không tài nào hiểu nổi, tại sao đình úy đại nhân vừa rồi còn quay về phía mình túm lấy cô gái áo hồng, vậy mà trong nháy mắt đã lấy đi tính mạng của mình. Nhưng mắt lóe lên tia ác độc cuối cùng, lật thanh kiếm trong tay lao vào Oanh Ca đang đấu với thích khách kia. “Chị!”. Tiếng hét thất thanh xé màn đêm hoa viên, Cẩm Tước vừa kêu vừa chạy vụt về phía thanh kiếm đang phi tới. Thanh kiếm đang đà đâm thẳng vào bụng phát ra một tiếng “bụp” nặng nề.
Cùng lúc đó, đoản đao của Oanh Ca đã xuyên qua cổ thích khách, đoản đao của thích khách cũng đồng thời đâm trúng hõm vai cô, ngập tới tận chuôi. Máu trào ra thấm xuống ngực, may trên người cô mặc màu áo tím sẫm nên cũng không rõ lắm, cô ngước nhìn về phía vừa phát ra tiếng kêu, thấy Dung Tầm hay tay run run ôm lấy Cẩm Tước trong vũng máu.
Chưa bao giờ nhìn thấy chàng thất thần như vậy, thực ra mũi kiếm đó đâm vào bụng, nhìn có vẻ nghiêm trọng, nhưng không trúng chỗ hiểm, năm mười tám tuổi cô cũng đã bị thương như vậy, nằm nghỉ mấy tháng là khỏi, chỉ có điều rất đau.
Cẩm Tước rên rỉ như con mèo trong lòng chàng: “… Đau… em đau…”.
Mặt Dung Tầm ghé sát mặt cô, giọng khàn khàn, nhỏ nhẹ: “Đừng sợ, có ta ở đây, lập tức đưa em đến đại phu, ngoan nào, cố chịu một chút”. Rồi thận trọng bế cô lên.
Cẩm Tước sục sùi: “Chị… chị.”. Dung Tầm cau mày, lúc này mới ngoái nhìn Oanh Ca.
Oanh Ca mặt tái nhợt, gượng cười, cố đi đến gần: “Chị đây”. Dừng lại một lát: “Chị không sao”.
Cẩm Tước nghe vậy gật đầu yên tâm rồi ngất đi, nhưng người Dung Tầm run run, nỗi kinh hoàng như sắp mất báu vật quý nhất đột nhiên xuất hiện trong mắt.
Oanh Ca sững người, lơ đãng nhìn chàng, “Không nghiêm trọng đâu, cô ấy chỉ bị choáng do nhìn thấy máu thôi”. Nhưng Dung Tầm cơ hồ không nghe thấy, cũng không nhìn cô, quay người bế Cẩm Tước đi thật nhanh.
Cô nhìn theo bóng chàng, cuối cùng kiệt sức, ngã khụy, sau đó một mình nằm trên bờ ao, gấu váy chấm mặt nước, trông như chiếc lá sen lớn màu tím, con dao găm lại cắm sâu hơn vào da thịt, khi cô ngã xuống, cuối cùng cô mới bật rên một tiếng, mắt mở to nhìn bầu trời đầy sao, nghĩ đến lời nói của Dung Tầm trong sinh nhật lần thứ mười sáu của cô: “Nguyệt Nương, vì ta, hãy trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia”.
Cô cười thành tiếng: “Cuối cùng chàng đã không cần tôi nữa”.
Không có tiếng trả lời, chỉ thỉnh thoảng có tiếng côn trùng kêu. Cô thôi cười, giơ tay, nhìn kỹ mười ngón tay dính máu: “Thực ra, mình rất ghét, rất ghét giết người”.
Dưới bầu trời sao, trên mặt ao đột nhiên có mấy bông hoa súng trắng hé nở, ánh trăng bạc màu trải trên mặt ao, những bông hoa súng thấm đẫm ánh trăng trông như hoa mùa thu làm từ băng tuyết. Oanh Ca nằm trên bờ cỏ, bên cạnh là mặt nước với mấy bông hoa súng trắng, từ từ nhắm mắt, giơ tay đè lên đó, nước mắt lặng lẽ rỉ ra từ kẽ ngón tay, lát sau tay vừa buông, mắt lại phẳng lặng như hồ thu, không chút xao động.
Đó là phút yếu mềm của một sát thủ, dẫu yếu mềm, cũng yếu mềm ở nơi không ai nhìn thấy, ngay chính mình cũng không nhìn thấy.
Vết thương của Cẩm Tước quả nhiên không nghiêm trọng, nhưng thể lực không bằng cô chị, vẫn phải nằm hơn một tháng, từ đó Dung Tầm ít gọi Oanh Ca theo hầu, giống như Dung phủ chưa từng có cô.
Nghe nói một số sát thủ khi đi làm nhiệm vụ muốn Oanh Ca cùng phối hợp, chủ động nói với Dung Tầm, mặt chàng lạnh lùng: “Dung phủ không có những hộ vệ không thể bảo vệ chủ, càng không có những hộ vệ phải nhờ người khác che chắn”. Chàng vứt bỏ cô như vậy, thậm chí còn không nói một tiếng.
Chàng là chủ, cô là tớ. Từ cái đêm chàng cứu cô, cô đã trao tính mạng cho chàng, chàng cũng chỉ coi như nắm trong tay một tính mạng, một thứ thuộc về mình, cần thì dùng, không cần thì vứt, không hề nghĩ đó là một trái tim chân thật độc nhất trên đời.
Tháng chín là mùa chim nhạn, vương thất tổ chức đi săn. Cẩm Tước cuối cùng đã bình phục hẳn, Dung Tầm sợ cô ở lâu trong phủ buồn chán, đưa cô đi chơi cho khuây khỏa. Có lẽ là giờ xuất hành không tốt, ngay chuyến xuất phủ đầu tiên đã xảy ra chuyện. Tuy nhiên chuyện chẳng có gì lạ, chỉ trách Dung Tầm sơ suất, có tài không nên lộ ra, tài nữ cũng không nên lộ diện, huống hồ Cẩm Tước lại đa tài như vậy.
Trong buổi đi săn, con báo gấm bé tí của Cảnh hầu vương Dung Viên không may bị trúng mũi tên vu vơ nào đó, đúng lúc gặp Cẩm Tước đang lạc đường bắt gặp, cứu chữa, xem ra chỉ là người tốt việc tốt, nhưng ngày hôm sau, con báo gấm với chi trước băng bó cẩn thận được một người trong cung ôm đến Dung phủ.
Phụ thân của Cảnh hầu vương là Thanh hầu do một con báo gấm mà nên duyên với mẫu thân Cảnh hầu là Hạ Mạt phu nhân, đó là mối lương duyên đẹp đẽ truyền khắp Trịnh quốc, con báo gấm nhỏ xinh bên cạnh Dung Viên là cháu của con báo gấm năm xưa, đưa nó đến Dung phủ, ý tứ của Dung Viên thế nào, khỏi nói ai cũng rõ. Nói đơn giản nghĩa là Cảnh hầu vương thích Cẩm Tước, ngầm ý bảo Dung Tầm đưa mỹ nhân đó vào cung.
Đang đêm, Oanh Ca nhận được mật thư của Dung Tầm, đó là lần đầu tiên trong ba tháng liền, thanh kiếm dài treo trên tường đã lâu không thấm máu, phần nào mất đi sát khí. Sắc mặt dửng dưng, ánh mắt đột nhiên sinh động, lóng lánh như thủy tinh. Bức thư run run trên tay, mãi mới mở được ra. Ánh nến chiếu sáng mực đen giấy trắng, Oanh Ca bình thường lạnh lùng, khó xúc động, khuôn mặt nhuận hồng đột nhiên không còn sắc máu, tia sáng long lanh trong mắt tắt ngấm, tay bám góc bàn lảo đảo, rất lâu sau mới bật cười một tiếng, trong đôi mắt đen in một hàng chữ rồng bay phượng múa, thanh thoát mà cứng cáp: “Thay Cẩm Tước vào cung”.
Cô cầm bức thư rất lâu, rồi đưa nó lại gần ngọn nến, lưỡi lửa liếm một cái, nháy mắt biến thành tro.
Đêm đó trăng hiện ra trên nền trời sao mờ như bụi. Thanh Ảnh cư của Dung Tầm lại một lần nữa đón thích khách, chủ nhân Dung Tầm không hổ danh là đại thần bị ám sát nhiều nhất đương triều, điều đó cho thấy chức đình úy quả thật nguy hiểm. Ánh trăng nhảy múa trên tán cây ngô đồng, lá xào xạc ngân nga như hát. Dung Tầm lặng lẽ đứng bên án thư, trong tay vẫn cầm nghiên mực, nến bị gió quạt tắt, từ lõi vừa tắt bốc ra làn khói xanh, đao của Oanh Ca kề sát cổ chàng.
Chàng ngẩng đầu nhìn cô: “Không ngờ, đao của em lại có ngày kề vào cổ ta”.
Cô cười: “Tôi cũng không ngờ”.
Gió đập cánh cửa lách cách, cô khẽ nghiêng đầu, thần sắc trở nên u ám: “Chàng không sợ bởi vì chàng biết tôi sẽ không giết chàng, chàng không tin tôi sẽ giết chàng phải không?”.
Chàng không nói, chỉ nhìn cô.
Người cô áp lại gần, cơ hồ đầu sắp đặt lên vai chàng, nếu không kể thanh đoản đao kề vào cổ chàng vẫn không một chút lỏng tay thì đó chính là tư thế tình tự âu yếm. Giọng cô nhẹ nhàng: “Tôi cũng không tin”.
Giọng dịu dàng nhưng lời hung mãnh, trong chớp mắt cô đã ấn thanh đao vào tay Dung Tầm, cô nắm bàn tay chàng đang cầm chuôi đao, trở mũi hướng thẳng vào ngực mình. Mũi đao nhọn dừng lại trên ngực, máu tươi men theo năm ngón tay nắm chuôi đao của Dung Tầm tụ thành một dòng đỏ, chàng cau mày, trầm giọng phẫn nộ: “Em điên rồi”.
Cô nhìn chàng dường như không hiểu, một lát sau như tỉnh ngộ: “Tôi không điên, tôi rất tỉnh, chàng xem, tôi vẫn biết đây không phải là nhát đâm chí mạng”.
Giọng cô thanh nhẹ ôn tồn, vang trong đêm: “Dung Tầm, tôi không thể giết chàng. Chàng đã cứu tôi, cứu cả nhà chúng tôi, đại ân như vậy tôi không dám quên, vì chàng chuyện gì tôi cũng làm là để báo ơn, báo ơn cứu mạng, ơn nuôi dưỡng, nhưng chàng để tôi làm chuyện đó, để tôi thay Cẩm Tước vào cung lấy thúc phụ chàng, chỉ bởi chàng không thể xa Cẩm Tước”.
Cô dừng lại, nụ cười trên môi trong sáng như hồi mười lăm tuổi, nhưng chỉ trong chớp mắt nụ cười đó lan qua mắt, miên man như ngàn sợi tơ, không biết thật tâm hay giả ý, cô nhìn Dung Tầm, chầm chậm nhắm mắt, tay nắm bàn tay cầm đao của chàng nhằm vào ngực mình: “Giết tôi đi, tôi sẽ được tự do”.
Ánh trăng lốm đốm trên tán lá ngô đồng, cô muốn hủy hoại bản thân, tay chàng cũng nắm chặt mũi đao, máu trên năm ngón tay tụ thành dòng nhỏ xuống, giọng chàng vang lên tai cô: “Ta không cần mạng của em. Thay Cẩm Tước vào cung, em giúp ta làm nốt một việc cuối cùng, sau đó em tự do”.
Hai mắt cô đột nhiên mở ra, kinh ngạc nhìn thẳng vào đôi mắt mông lung của chàng, cuối cùng nhòe ướt.
Tính cô vốn không nhẫn nại, nhẫn nhịn lâu như vậy, chỉ là bởi vì có lý do không thể đau lòng. Một người như thế khóc cũng phải nén, không bật thành tiếng, chỉ có nước mắt lặng lẽ tuôn. Đoản đao rơi xuống đất “cạch” một tiếng, cô nhìn vũng máu nhỏ trên nền đất, khó nhọc ngẩng đầu: “Dung Tầm, có phải chàng cho rằng sát thủ là kẻ không tim?”.
Chàng im lặng.
Cô từ từ sụp xuống đất, như người kiệt sức, uy phong ngày xưa và vẻ dữ dằn nhất thời hoàn toàn tiêu tan, toàn thân co rúm, run rẩy như một đứa trẻ: “Sao có thể không có tim, tôi đã để nó ở chỗ chàng rồi, nhưng Dung Tầm, chàng để nó ở đâu?”. Lại như hỏi chính mình, “… vứt nó ở đâu?”.
Người chàng khẽ run. Lát sau, đưa bàn tay không bị thương cho cô: “Hãy đứng lên đã”.
Cô ngây người, mặt lấm lem nước mắt, nhìn chàng nhưng không khóc, hơi cau mày: “Tôi vẫn muốn hỏi một câu, bao năm nay, tôi là gì trong lòng chàng?”.
Lát sau, chàng chậm rãi đáp: “Nguyệt Nương, trước nay em làm rất tốt, là thanh đao tốt nhất của Dung gia”.
Cô từ từ ngẩng đầu, từ từ đứng lên, sự yếu đuối vừa rồi đã tiêu tan vô hình vô ảnh, hình như sự bi lụy vừa rồi chỉ là ảo giác. Giơ ống tay áo lau nước mắt, xong xuôi lại là một Oanh Ca băng lạnh như xưa. Cô nhìn chàng, như đã quen chàng cả một cuộc đời, lại như chưa bao giờ quen, mắt hé ánh cười lạnh nhạt: “Tôi sẽ làm cho chàng nốt việc cuối cùng, sau đó tôi không nợ chàng gì nữa”.
Cô sải bước qua cửa phòng, đến bậc cửa hơi dừng lại: “Dung Tầm, nếu có ngày chàng không yêu Cẩm Tước nữa, xin hãy đối xử tốt với nó, đừng như đối với tôi, nó không giống tôi, không phải là sát thủ”.
Từ đó có thể thấy, lòng tin nên thận trọng, không thể tùy tiện đặt lung tung, giống như Oanh Ca mù quáng tin rằng mình là người đặc biệt nhất của Dung Tầm, bởi vì mình là sát thủ tốt nhất của Dung gia.
Tự cô đã đánh giá mình quá cao, đánh giá Dung Tầm quá thấp. Điều bất hạnh là từ năm mười một tuổi đến năm hai mươi tuổi, chẵn chín năm cô mới hiểu đạo lý đó. May mắn là cuối cùng cô đã hiểu ra.
Nột tháng sau, Thanh Trì cư bỗng nhiên có rất nhiều đại phu ra vào, những lão đại phu đó đều bị bịt mắt, từng người thay nhau được cáng đưa vào phòng Oanh Ca, không lâu sau lại được cáng ra. Con lạch thoát nước chảy từ trong ra ngoài có màu bã thuốc, bã thuốc màu nâu mỗi ngày một đậm. Cả Thanh Trì cư vẫn tĩnh mịch như chết trong dòng đời cuộn chảy. Một tháng yên tĩnh như vậy, những vết thương cũ trên cơ thể Oanh Ca đã biến mất như kỳ tích, có thể thấy kỹ thuật chỉnh hình của Trịnh quốc thời đó quả rất cao siêu.
Có lẽ Dung Tầm muốn Oanh Ca biến thành Cẩm Tước từ trong ra ngoài. Về cốt cách thì không thể, nhưng ít nhất thân thể phải giống Cẩm Tước, nghĩa là tuyệt đối không thể có một vết sẹo. Cho dù có, cũng không thể là vết đao, vết kiếm, cùng lắm chỉ là vết đứt tay do dao gọt hoa quả gây ra mà thôi, như thế mới giống thiếu nữ xuất thân thanh bạch, đáng để Dung Viên vừa gặp đã yêu.
Dung Viên trị quốc xưa nay thái bình, hầu như không xảy ra cố sự. Oanh Ca vào cung trở thành đại sự của nước Trịnh năm đó, các sử quan rất phấn khởi, cũng phải thôi, thử nghĩ, nếu Oanh Ca không vào cung, năm đó họ biết viết gì vào Trịnh sử.
Có thể dẫn Mộ Ngôn bước qua mộng kiều vào giấc chiêm bao của Oanh Ca là do viên giao châu khiến tôi và cô thần trí tương thông ở mức độ nhất định, nhưng cho dù vậy, tôi cũng không thể đoán được cái đêm vào cung, Oanh Ca ngồi trong điện Chiêu Ninh phía tây vương cung thực ra trong lòng nghĩ gì.
Lúc đó rõ ràng là mùa thu tháng mười, tay cô vẫn cầm chiếc quạt ngà chỉ dùng trong mùa hạ. Đôi mắt bẩm sinh hơi lạnh giờ đây trở nên vừa nhu mì vừa e dè nhẫn nhịn, hoàn toàn không nhận ra bóng dáng sát thủ. Khi cô cầm cái quạt gõ lên đầu con báo gấm dưới chân, ý bảo nó nhích xa một chút, chúng tôi hiểu công dụng cụ thể của chiếc quạt đó, chỉ là chưa kịp nghiên cứu thêm đã thấy Dung Viên xuất hiện ở cửa tẩm điện.
Thực ra, từ chỗ tôi và Mộ Ngôn đứng, quả khó có thể nhìn thấy Dung Viên xuất hiện, chỉ cảm thấy bầu không khí khác thường phả đến, ngẩng đầu đã thấy thân hình dong dỏng của Trịnh hầu vương ở ngay trước mặt, làm lu mờ ánh nến trước điện.
Điều đó chứng tỏ Dung Viên là mệnh đế vương. Một người khí chất mạnh mẽ tự lộ phát như vậy chính là bậc đế vương, chiếc quạt gõ trên đầu con báo hơi dừng lại, biến thành động tác vuốt ve âu yếm. Đối với Oanh Ca, những vật mềm mại được chia làm hai loại, có thể ăn được và không thể ăn được, nhưng lúc này, trước mặt Dung Viên, trong mắt Dung Viên cô là Cẩm Tước dịu hiền đã cứu con báo, một Cẩm Tước thân thiết ân cần với cả con kiến, còn bản thân cô ghét nhất những trò yểu điệu như cưng nựng vuốt ve động vật, tuy nhiên Dung Viên không biết cô không phải là Cẩm Tước.
Do ngược sáng, mặc dù khoảng cách gần mấy thước cũng không nhìn rõ biểu hiện trên mặt Dung Viên, chỉ thấy chiếc áo chùng màu trắng lóng lánh ánh sao, giống như một thân cây màu bạc, mỗi bước đi đều lóng lánh phát sáng trong ánh nến.
Oanh Ca miễn cưỡng ôm con báo gấm đang ư ử vùng vẫy trong lòng ngồi bên mép giường, đầu hơi cúi, vẻ như e thẹn, có lẽ vốn muốn tỏ vẻ e thẹn nhưng cố gắng lâu như vậy vẻ mặt cô lại không hiện ra nét ửng hồng e lệ như ý mà khuôn mặt xinh đẹp dưới làn tóc mai càng trắng xanh. Dung Viên đứng trước mặt, đôi mắt đen như đầm sâu lướt qua con báo gấm đang cố vùng vẫy trong lòng cô, lại lướt qua mái đầu cúi thấp của cô: “Hầu nữ đâu?”.
Con báo cuối cùng thoát ra được, luồn qua đầu gối cô lẻn ra ngoài, cô ngây người: “Đông người khiến thiếp nhức đầu, thiếp cho bọn họ lui rồi”.
Chàng gật đầu, giơ tay kéo bức rèm trước giường, ánh nến từ giá nến cao hắt lên bức rèm in bóng hai người áp sát vào nhau, giọng chàng trầm trầm phía trên đầu cô: “Vậy đêm nay nàng thay áo cho quả nhân”.
Ánh nến hồng lờ mờ, những ngón tay thon thả của Oanh Ca từ từ nắm lấy dải đai áo của Dung Viên, tiếng ngọc bội rung nhè nhẹ.
Chàng đột nhiên trở tay nắm tay cô, cô ngẩng đầu ngạc nhiên nhìn chàng, môi chàng lướt trên má cô.
Trên bức rèm in bóng hai người giao vào nhau, xiêm áo Dung Viên vẫn còn trên người chàng, chiếc váy tím dài trên người Oanh Ca đã trượt từ vai xuống, lộ ra làn da trắng tuyết.
Rõ ràng đang hôn, nhưng mắt hai người vẫn mở to, chứng tỏ cả hai đều tỉnh táo. Hơn nữa ép vào nhau lâu như vậy, tư thế hai người vẫn không thay đổi, đối với cả hai đều là một đòn đau, buông ra giữa chừng, Oanh Ca thở gấp, đôi môi vốn hơi tái chuyển màu hồng rất đẹp, khóe mắt nhòe ướt. Ngón tay Dung Viên chạm vào đuôi mắt cô, hỏi nhỏ: “Khóc ư?”. Cô nhìn chàng không nói. Chàng chống tay bên gối, hơi cau mày: “Sợ hả?”. Không chờ cô trả lời đã quay người nằm thẳng, gối lên chiếc gối khác. “Sợ thì ngủ đi”.
Tôi thất vọng thở dài, chưa thở hết một hơi, lại thấy Oanh Ca nửa người để trần ngồi trên bụng Dung Viên: “Bệ hạ để thiếp tự làm, thiếp sẽ không sợ”.
Mắt đỏ hoe, môi mím, thần sắc kiên định… nhìn không giống đang nói đùa…
Mặc dù Oanh Ca thuận theo lời Dung Viên thừa nhận mình sợ, nhưng tôi hiểu không phải cô khóc vì sợ, một người ngay sự sống chết cũng xem thường, thì cũng có thể xem thường trinh tiết, huống hồ Dung Viên là một người đàn ông ưu tú, dung mạo ngời ngời.
Thần trí của tôi và Oanh Ca lúc thông lúc không, khiến tôi hiểu cô chỉ đột nhiên nghĩ đến Dung Tầm, lòng thấy buồn. Nhưng cô buồn không phải do Dung Tầm thay lòng đổi dạ yêu Cẩm Tước, mà là do chàng biết đêm nay sẽ xảy ra chuyện gì, vô số đêm sau này sẽ xảy ra chuyện gì nhưng chàng vẫn đưa cô vào cung dâng cho Dung Viên, cô khóc vì lẽ đó.
Đôi mắt Dung Viên sâu thẳm, mở to nhìn cô. Cô vùi đầu vào vai chàng, mái tóc xõa theo sống lưng, như dòng thác đen đổ xuống, một lúc sau, cô cười, “Nhất định có ngày cùng bệ hạ như vậy, chi bằng ngay đêm nay, bệ hạ thấy đúng không?”. Nói xong quả quyết, ngẩng đầu cởi áo chùng gấm không một nếp nhăn trên người chàng, bàn tay quen cầm đao run run, nhưng vẫn không dừng lại.
Thần sắc Dung Viên chìm trong bóng cô phủ lên người chàng, lát sau chàng hỏi: “Nàng có thể không?”.
Theo bản năng, thực lòng tôi muốn xem tiếp. Người luyện Hoa Tư dẫn nhất định không được sợ máu, sợ bạo lực, sợ chuyện phòng the, và bạo lực phòng the.
Luyện Hoa Tư dẫn thành bại quyết định ở chỗ phải biết quan sát nhận ra ẩn tình trong rất nhiều chi tiết của mộng cảnh. Nhưng lúc này có Mộ Ngôn bên cạnh, nhất định chàng sẽ cho rằng như vậy là đáng xấu hổ, từ khi Dung Viên hôn Oanh Ca tôi đã nghĩ chàng sắp kéo tôi ra khỏi điện Chiêu Ninh.
Và tôi cũng đã nghĩ xong câu ứng phó với chàng. Có thể chàng sẽ nói: “Cô còn nhỏ không nên nhìn cảnh người ta ân ái, đi theo tôi”. Tôi sẽ nói: “Mỗi người một khác, hôm nay họ động phòng, cái huynh nhìn thấy chỉ là chuyện ân ái hoan lạc hay sao? Xin lỗi, cái tôi nhìn hoàn toàn khác, tôi muốn nhìn để biết cái gì khiến Oanh Ca chìm mãi vào giấc mơ không tỉnh, nhìn thấy trăm mối tâm tư trong lòng cô ấy”. Chàng nhất định xấu hổ hỏi tôi: “Vậy tâm tư của cô ấy là gì?”. Tôi sẽ trả lời: “À, hiện chưa tìm hiểu toàn diện, để tôi xem hết đoạn này hẵng hay”.
Lúc Oanh Ca ôm cổ Dung Viên, cuối cùng Mộ Ngôn lên tiếng, nhưng lời nói khác hẳn giả định của tôi. Chàng phe phảy cái quạt, chậm rãi hỏi tôi: “Hay không?”.
Đương nhiên không tiện nói là hay, ấp úng một hồi, tôi trả lời, “Không, không hay”.
Chàng vẫn phe phảy quạt: “Đã không hay, vậy sao còn xem tiếp?”.
Tôi nói: “Cũng tạm…”.
Chàng hỏi: “Sao, cô nói gì? Cô cảm thấy chuyện đó rất hay?”.
Tôi nói: “Không, không xem, cái đó rất khó coi, không hợp tuổi tôi chút nào”.
Chàng gật đầu: “Vậy ta đi thôi”.
Chàng đi mấy bước về phía cửa điện, ngoái đầu nhìn tôi nửa cười nửa không: “Sao còn chưa đi?”.
Tôi liếc nhìn bức rèm trước giường, bực mình chạy đuổi theo chàng: “Đi đây”.
Năm Dung Viên gặp Oanh Ca, chàng mới hai nhăm tuổi âm, hậu cung có tám vị phu nhân, năm trước một vị lâm bệnh qua đời, còn bảy vị, Oanh Ca vào cung, vừa may bổ sung chỗ trống trên bàn mạt chược, khiến hậu cung Trịnh quốc luôn vang tiếng cười, mọi người hòa hợp vui vẻ…
Tuy nhiên đấy là hình dung của tôi, kỳ thực Oanh Ca không chơi mạt chược, bảy vị phu nhân cũng không chơi mạt chược.
Có thể hình dung, nếu Quân Vỹ hai nhăm tuổi, lấy tám bà vợ, anh ta sẽ chỉ còn là bộ xương, nhưng Dung Tầm hai nhăm tuổi có tám vị phu nhân, thiên hạ lại cảm thấy quân vương Trịnh quốc thật là thanh tâm quả dục, thích thanh tịnh. Có thể thấy yêu cầu của thiên hạ đối với quân vương quả là rất thấp.
Nhưng nói vậy, cho dù hậu cung chỉ có tám vị phu nhân, cạnh tranh vẫn vô cùng ác liệt, vị nào cũng bận chải chuốt, trang điểm, chăm sóc dung nhan, ngay lúc ngủ cũng không lơ là. Ai cũng muốn dùng diện mạo đẹp nhất hấp dẫn quân vương, cho dù có khi Dung Viên nửa đêm canh ba chạy đến cung nào đó cũng phải xinh đẹp rạng ngời trước mắt chàng ta, thậm chí cả khi chàng ta đến lúc họ đang bận đi vệ sinh.
Lâu dần họ trở thành những người đi vệ sinh nhanh nhất Trịnh quốc.
Tình trạng đó kéo dài đến khi Tâm Liễu phu nhân sau khi sinh hạ công chúa Hy Hòa lâm bệnh qua đời.
Tâm Liễu phu nhân lâm bệnh qua đời, để lại công chúa Hy Hòa năm tuổi, Hy Hòa công chúa Dung Đàm là tử tức duy nhất của Dung Viên.
Một bên là quân vương thanh tâm quả dục, đế dạ khó dò, chiếm được lòng cũng không dễ. Một bên là tiểu công chúa còn nhỏ mất thân mẫu, không có bất kỳ uy hiếp nào, chỉ cần nuôi dưỡng công chúa, nhất định tương lai được đảm bảo.
Vậy là bảy vị phu nhân trong cung từ bỏ lối sống cũ, lao vào cuộc chiến tranh giành nuôi dưỡng tiểu công chúa. Nhưng sự đời nhiều khi tranh tức là không tranh, không tranh tức là tranh, kết quả cuộc đấu hậu cung là Dung Tầm thân chinh đưa tiểu công chúa đến điện Chiêu Ninh giao cho Oanh Ca mới vào cung vài tháng.
Tiểu công chúa mặt buồn bã ôm một con thỏ bị thương đứng trước Oanh Ca: “Phụ vương nói phu nhân có thể băng bó vết thương cho thỏ. Ở đây, ở đây, ở đây, con thỏ bị nô tài xấu đánh đau, một, hai, ba, ba vết thương. Phu nhân, mau băng cho nó đi”.
Hai cây anh đào trước điện Chiêu Ninh đã rụng hết lá, cô ngẩng đầu bắt gặp ánh mắt Dung Viên đứng sau tiểu công chúa, dáng thanh tú như ngọc, dưới cây anh đào trụi lá, đôi mắt đen như đầm sâu bình thản khó dò. Chưa làm mẹ đã làm mẹ kế là một chuyện phiền phức.
Cũng may Oanh Ca không mơ hồ về cuộc sống như những cô gái đẹp thông thường, không ôm ảo tưởng lãng mạn về cuộc sống vương giả trong cung. Từ lúc bước vào hậu cung của Dung Viên, cô vẫn luôn chờ đợi thời cơ, một thời cơ để cô có thể bỏ trốn trót lọt.
Nửa đời trước cô là sát thủ, sống vì Dung Tầm, nhưng Dung Tầm không đắn đo đem cô vứt vào hậu cung hưu quạnh của Trịnh quốc. Cô mới hiểu mình sống bằng ấy năm thực ra chỉ là một công cụ, công cụ chỉ cần hoàn thành sứ mệnh của công cụ, một công cụ không nên yêu cầu chủ nhân suốt đời có trách nhiệm với mình, một công cụ tốt không cầu báo đáp, chỉ một lòng hoàn thành tâm nguyện của chủ, lúc chết còn muốn hóa thành bùn bón cho cỏ cây trong hoa viên của chủ.
Lúc này, Oanh Ca cảm thấy cô đã làm đủ sứ mệnh của một công cụ, giờ rơi vào chiếc lồng khổng lồ này, không ai cứu cô, cô sẽ tự cứu mình, không ai tốt với cô, cô phải tự tốt với mình.
Trong ánh mặt trời ấm áp hiếm hoi của mùa đông, trong điện Chiêu Ninh cô đưa ra một quyết định xem ra không tồi: Nếu có cơ hội rời khỏi thành Tứ Phương cô sẽ tìm một ngôi làng nhỏ có sông có suối, mua vài mẫu đất, học nghề dệt vải như những người đàn bà khác, tự nuôi sống mình mà không phải giết người.
Thời cơ đó đến rất nhanh.
Mùa đông tháng mười hai, vào ngày giỗ của Tâm Liễu phu nhân, mẫu thân tiểu công chúa, Oanh Ca dẫn công chúa lên linh sơn thắp hương tế bái, Dung Viên phái một toán cấm vệ quân đi theo. Chiếc kiệu đi đến lưng chừng núi bất thần gặp một toán thích khách không biết từ đâu ra, mặc dù được cấm vệ quân bảo vệ chu đáo, nhưng sơ sẩy vẫn khó lường, lại thêm thế núi hiểm trở, Oanh Ca ôm công chúa ngã lăn xuống núi.
Thực ra theo ý Oanh Ca không nên đem theo công chúa, nhưng không có cách nào khác, tất cả xảy ra quá nhanh, cô còn chưa kịp chớp đúng thời cơ, chuẩn bị chủ động lăn xuống núi, đã thấy Hy Hòa công chúa ôm con thỏ lăn xuống trước, nếu cô không cứu công chúa sẽ chết, làm mẹ kế hai tháng cô cũng không đành lòng.
Rơi thẳng từ sườn núi xuống, tay ôm đứa trẻ, thân thủ tốt đến mấy cũng không dễ làm gì để giảm nhẹ hậu quả. Nhưng may núi cũng không quá cao, trong khi lăn xuống cô đã cố một tay ôm công chúa, tay kia cởi thắt lưng quăng móc vào thân cây để làm chậm đà rơi, vì vậy khi tiếp đất chỉ có xương bàn chân phải bị gẫy. Tiểu công chúa nằm trên người cô, tay vẫn ôm chặt con thỏ con bị thương hai tháng trước, công chúa không bị thương, chỉ sợ quá ngất đi.
Dưới chân núi bóng đêm đặc dần, cô chống người bò dậy, bế công chúa vào một cái hang gần đó, đốt lửa, làm thịt con thỏ, xiên cành cây nướng vàng ươm, xong xuôi bóc hết xương, chỉ còn thịt nạc để trên chiếc lá to đặt cạnh công chúa.
Rừng núi đêm đông, chim náu trong tổ, mọi sinh vật sống đều đã ngủ, tiếc là giờ cô đã bị què chân, cho dù tứ chi vẹn toàn, trong cảnh ngộ thế này cũng khó tìm cái ăn, may khi ngã công chúa vẫn ôm con thỏ, như vậy cho dù cô bỏ đi, thị vệ của Dung Viên cũng chưa thể tìm được cô ngay, có chỗ thịt thỏ nướng, tiểu công chúa sẽ không bị đói, chắc chắn sáng ngày mai họ sẽ tìm thấy công chúa.
Khi lê được cái chân đau ra ngoài, Oanh Ca kiếm một cành cây to làm gậy chống, hình dung ra bộ dạng của mình, cô bất giác bật cười.
Nhưng chưa được hai bước nụ cười đã đông cứng trong mắt.
Phía trước, bên một cái đầm bốc khói mù mịt, đột nhiên hiện ra một bóng người như từ trên trời rơi xuống, áo chùng gấm màu bạc lóe sáng. Mấy con chim trên ngọn cây chí chóe cãi nhau, nửa vầng trăng ló khỏi đám mây, tỏa ánh sáng trắng mờ lạnh lẽo, xung quanh không có chỗ nào có thể trốn, cô nắm chặt cái gậy, mắt tối sầm, trân trân nhìn Dung Viên khoác ánh trăng bước đến. Ủng mềm đạp trên cành lá khô, chàng dừng trước mặt cô cách hai bước, ống tay áo dính đất và vụn cỏ, nét mặt tư lự, dáng thanh tao, khuôn mặt đẹp của chàng dưới ánh trăng như dát bạc, đôi mắt đen trầm tư lướt qua cái gậy trong tay cô, lướt qua bàn chân đau của cô: “Sao lại ra nông nỗi này?”.
Cô ngẩng đầu, mắt lại nhìn về đầm nước bốc khói: “Hy Hòa không sao, chỉ bị kinh động vẫn đang ngủ, thiếp đi ra…”. Cô dừng lại: “… kiếm nước cho công chúa”.
Chàng nhìn cô không nói.
Cô ngây người, gượng cười: “Chân thiếp… cũng không sao…”.
Đôi mắt đen bỗng lóe lên giận dữ, vừa trở tay đã ép cô vào vách núi bên cạnh, bàn chân gãy bị kéo đi đột ngột, đau xói đến tận óc, nhưng Oanh Ca chỉ nghiến chặt răng, hơi cau mày.
Chàng khóa cô giữa hai cánh tay mình, “Đau không?”.
Cô cắn môi không đáp, chỉ có làn hơi lạnh lọt qua kẽ răng. Mắt chàng tối lại, bỗng giơ tay giật dải lụa buộc trên búi tóc, nhét vào miệng cô, mái tóc xõa xuống, chàng cúi đầu, hai tay nắm chặt bàn chân gẫy của cô: “Nếu đau cứ kêu lên”.
Một tiếng “rắc” nhẹ, chỗ xương gãy bị chệch đã được kéo về đúng vị trí, trán cô toát mồ hôi, cơn đau từ chỗ xương gẫy như làn sóng lập tức lan ra toàn thân, đau ứa nước mắt, nhưng cô cắn môi không để bật ra tiếng rên, nộ khí trong mắt chàng càng tăng, nhìn cô đăm đăm: “Ai dạy nàng như thế, chân gẫy cũng không nói, đau mấy cũng cố chịu?”.
Cô ngây người nhìn chàng.
Chàng cau mày đón nhận ánh mắt đó, ngón tay đưa lên chạm vào đuôi mắt cô, nét mặt dịu dần, lại trở về là một Dung Viên thâm trầm, mắt cô vừa chớp, long lanh ngấn nước, cô vội ngẩng đầu.
Chàng giữ chặt đầu cô không cho động đậy, cứ vậy nhìn thẳng vào đôi mắt ngấn nước của cô, nhìn giọt nước lăn ra từ khóe mắt, áp trán vào trán cô, nhẹ nhàng nói: “Cẩm Tước, hãy khóc đi”.
Tiếng khóc khi đã bật ra không thể kìm lại, sụt sùi, sau đó bật thành tiếng, nức nở, đau đớn, có lẽ Oanh Ca cũng không biết tại sao mình khóc, nhưng ít nhất cũng khiến chúng tôi hiểu, thì ra các cô gái trên đời không có ai sinh ra đã không biết khóc.
Chàng ôm chặt cô, dưới ánh trăng, bên mặt đầm khói phủ, giọng trầm trầm: “Được rồi, có ta ở đây”.
Oanh Ca khóc to như vậy, tôi nghĩ nguyên nhân một nửa là do khó khăn lắm mới tìm được cơ hội bỏ trốn, cuối cùng lại bị Dung Viên phá hỏng, niềm tiếc nuối cần được xả ra, khi tôi nói suy nghĩ đó với Mộ Ngôn, chàng phán một câu: “A Phất, cô là người rất thực tế”.
Chung quy tôi là người làm ăn, mặc dù tự biết vẫn là người đa sầu đa cảm. Nhưng khi thần trí bất tương thông, tôi hầu như không hiểu được suy nghĩ của Oanh Ca, đây là một cô gái rất thực tế, có ý thức cảnh giác cao nhất mà tôi từng gặp.
Bởi vì đây là giấc mơ của Oanh Ca trong lúc hôn mê, không phải là ảo mộng tôi dệt cho cô, đành chỉ có thể nhìn mọi cảnh trôi qua như là xem đèn kéo quân mà thôi, không thể tác động vào. Không biết sau lần ngã xuống núi đó tình cảm giữa Dung Viên và cô có gì tiến triển, điều đó quả khó phán đoán, nhưng dường như những gì cần tiến triển đều đã tiến triển hết. Bởi vì đêm đó, sau khi được kiệu đưa về Trịnh cung, Oanh Ca không ở điện Chiêu Ninh nữa, mà chuyển đến điện Thanh Lương, tẩm cung của Dung Viên.
Tẩm cung của Trịnh hầu vương Dung Viên có tên là Thanh Lương, bày trí trong cung rất trang nhã, đơn giản, cạnh giá nến cao có một chiếc bình gốm cắm hai cành anh đào trắng khô héo, giữa tiết đông hàn trông càng lạnh lẽo cô liêu. Vết thương ở chân Oanh Ca được các ngự y trong cung chăm sóc chu đáo, nhưng do bị giày vò lâu, vừa vào đến giường đã mệt mỏi nhắm mắt ngả đầu xuống gối. Hầu nữ thắp thêm nến, Dung Viên đầu tựa thành giường, tay cầm cuốn sách, vẻ bồn chồn, cả hai đều im lặng.
Tôi cảm thấy chẳng có gì đáng xem, định kéo Mộ Ngôn đi ngắm sao, chưa kịp nắm ống tay áo Mộ Ngôn, đã nhìn thấy Dung Viên vừa giở sách vừa ngẩng nhìn Oanh Ca, rồi lại cúi xuống trang sách, giọng nhẹ nhàng: “Nằm lui lại đây”.
Mộ Ngôn nghiêng đầu nhìn tôi, tôi dừng bước. Oanh Ca lặng lẽ trở người, mắt vẫn nhắm, tấm chăn hơi phồng lên, có vẻ như thu hẹp khoảng cách giữa hai người, thực tế chỉ là thay đổi tư thế nằm, Dung Viên ngẩng đầu khỏi trang sách, cau mày đắn đo một hồi, lại cúi đầu đọc tiếp: “Ta sợ lạnh, lại gần hơn chút nữa”.
Lần này Oanh Ca không nhúc nhích, chắc là giả bộ ngủ. Thực tế đã nằm cùng một giường giả bộ ngủ hay không cũng thế. Quả nhiên, lát sau Oanh Ca bị Dung Viên kéo vào lòng. Cô hơi giãy giụa trong lòng chàng, điều này chỉ đoán ra thông qua chuyển động của tấm chăn, tiếng cọ xát của xiêm y và lời nói của Dung Viên.
Trong ánh nến hồng mờ ảo, giọng Dung Viên trầm lạnh vang lên: “Sao khó bảo thế, đã nói rồi, ta sợ lạnh”. Giọng Oanh Ca: “Bảo người đi lấy thêm…”. Lát sau, nghe thấy giọng Dung Viên vui vẻ, rõ ràng đang đùa nhưng nghiêm túc như một mệnh lệnh: “Nằm yên nào”.
Đàn ông muốn ngủ cùng phụ nữ là một chuyện, nhưng đắp chung chăn với phụ nữ thuần túy chỉ để nói chuyện lại là chuyện khác, từ đó có thể thấy Dung Viên là một minh quân, đương nhiên, nếu người khác phủ định tôi cũng chẳng nói gì. Nhưng tôi nghĩ, một người đàn ông có thể chuyện trò chia sẻ, lắng nghe ý kiến của người đàn bà của mình nhất định là người đàn ông tốt, huống hồ người đàn ông đó lại là bậc quân vương.
Ngày hôm sau khi Oanh Ca thức dậy, nắng ấm tỏa trên cao. Ngoài cửa sổ có tiếng chim hót vang, ánh mặt trời hắt qua cửa sổ chạm hoa văn, chiếu lên chăn lụa óng ánh như dát vàng. Chân Oanh Ca vẫn đau, đang mơ màng ngơ ngẩn.
Vừa ra khỏi cung đã xảy ra chuyện lớn ngã xuống núi, là một người chồng có trách nhiệm, trong thời gian sau đó đương nhiên không nên để vợ ra khỏi cửa. Nhưng tư duy của những đệ nhất không thể dùng đạo lý thông thường để suy đoán, cho dù là đệ nhất gọt táo, đệ nhất cắn hạt dưa, huống hồ Dung Viên lại là Trịnh quốc đệ nhất đao thủ.
Chỉ nửa tháng, vết thương của Oanh Ca đã lành hẳn, ban đêm Dung Viên đến điện Chiêu Ninh, ánh mắt dừng lại trên bàn chân nhỏ đã khỏi hẳn dưới gấu váy tím, lát sau chàng nói: “Vào cung đã ba tháng, chắc nàng buồn lắm, ngày mai quả nhân sẽ đưa nàng đi loanh quanh”.
Có lẽ đi loanh quanh mà Dung Viên nói chỉ là đi dạo trong vương cung, thật sự được đưa ra đường phố của thành Tứ Phương, vốn điềm tĩnh như Oanh Ca cũng nhất thời cơ hồ không dám tin. Còn tôi và Mộ Ngôn chỉ cảm thấy sự phồn hoa của phố phường kinh đô Trịnh quốc cũng chẳng khác hiện tại bao nhiêu.
Quý công tử dung sắc lạnh nhạt, nghiêng đầu hỏi tân nương mới cưới ba tháng: “Muốn đi đâu?”.
Cả người Oanh Ca bọc kín trong chiếc áo dài mền bông dày, bên ngoài còn khoác thêm áo choàng gió bằng lụa tím viền lông cáo, dưới vành mũ lộ ra đôi mắt lóng lánh tuyệt đẹp: “Nếu bệ hạ để thần thiếp lựa chọn…”, nghĩ một lát, nói “… thiếp muốn đến Bích Phù lầu”.
Dung Viên hơi ngước mắt, vẻ ngạc nhiên, nhưng chỉ thoáng qua, rồi giơ tay phẩy chiếc lá vàng rơi trên mũ của cô.
Dung Viên ngạc nhiên là có nguyên do, bởi vì Bích Phù lầu mặc dù nghe tên rất phong nhã, giống như nơi bán hoa sen, nhưng thực tế là sòng bạc nổi tiếng ở thành Tứ Phương.
Thường xuyên có khách lân quốc vượt ngàn dặm đến đây đánh bạc, chuyện này vốn là phi pháp, nhưng khách láng giềng nhàn rỗi đến chơi, vô tình thúc đẩy du lịch địa phương phát triển, đây quả là vấn đề gay cấn.
Tông pháp tổ tiên vốn quý, nhưng nếu cản trở kiếm tiền thì cũng nên bỏ. Triều đình suy tính sao cho vẹn toàn cả hai, vậy là quyết định đưa đánh bạc trở thành một nghề. Các sòng bạc lớn nhỏ được chính quyền cổ vũ ra sức cạnh tranh tàn sát, ba năm sau chỉ còn lại Bích Phù lầu lớn nhất, ông chủ sòng những tưởng một mình làm vua một cõi, ai ngờ bị cưỡng chế bán cho nhà nước với giá gốc.
Có lẽ tôi hiểu tại sao Oanh Ca muốn đến Bích Phù lầu, khi còn là sát thủ của Dung gia, Dung Tầm chủ trương các sát thủ phải tu thân dưỡng tính, không kiêu ngạo, không nóng nảy, không mù quáng tham lam, đánh bạc là tham lam, hơn nữa đối tượng ám sát không ai mê cờ bạc, khiến Oanh Ca hai mươi năm sống trong chốn bụi hồng, chưa bao giờ bước chân đến sòng bạc, nơi hội tụ những người giàu tham vọng của thế gian.
Nhìn thân hình ung dung chậm bước phía trước, tôi nén không nổi hỏi Mộ Ngôn: “Dung Viên cũng biết Oanh Ca đã khỏe hẳn, mà vẫn cho cô ta mặc nhiều như vậy, bó chặt như cái bánh chưng, nếu có thích khách, làm sao ra tay? Hay là muốn cô ta lăn một vòng đè chết thích khách?”.
Mộ Ngôn dừng bước, nhưng không phản bác như mọi lần, trái lại có vẻ suy nghĩ nghiêm túc: “Đàn ông đa phần như vậy, người con gái mình yêu dù mạnh mẽ đến mấy cũng vẫn là nhi nữ, không muốn để nàng chịu khổ hay lâm vào cảnh đáng sợ, phải tận mắt nhìn thấy nàng sống sung sướng đủ đầy mới yên tâm”.
Trong ngực có gì nảy lên, tôi nhìn sang bên: “Huynh nghĩ như vậy, cô gái nào sau này lấy được huynh thật có phúc”. Nhưng số tôi không có phúc đó.
Nhưng chàng lại nghiêm trang gật đầu, ánh mắt hướng về tôi, như cười như không nhìn tôi: “Đúng, lấy tôi rất hời”.
Lòng càng buồn thêm, tôi không thể trở thành cô gái của chàng, cũng không hy vọng trở thành cô gái của bất kỳ ai. Chợt lại nảy sinh ý nghĩ ác độc, chàng đã không thể yêu tôi, vậy nhất định không để chàng yêu cô gái khác, hoặc dứt khoát để chàng đi yêu đàn ông.
Bích Phù lầu trên đường Huyền Vũ, hiên cong mái lượn, tráng lệ lộng lẫy, kiến tạo mô phỏng dinh thự làm việc của quan lại trong triều, đối lập với tửu lầu bên trái và thanh lâu lớn nhất thành Tứ Phương bên phải.
Đi vào trong, chọi gà đấu chó, mạt chược, cờ vây, xúc xắc, rất nhiều trò chơi, cơ hồ mọi trò cờ bạc của thiên hạ ở đây đều có, chẳng trách những kẻ ham cờ bạc nhưng không có tiền chơi cũng đến xem cho thỏa.
Nhưng nghe đồn, Bích Phù lầu này không có con bạc, chỉ có khách đánh bạc.
Khách đánh bạc của Bích Phù lầu đều là những người giàu, một lần vung tay cả ngàn lạng, thắng thua đều tính bằng ngàn lạng, tôi thầm nghĩ hôm nay Oanh Ca đến đây là có ý đồ khác, không phải muốn đánh bạc, không ai mang theo ngân phiếu ngàn lượng đi dạo phố. Khách vây quanh bàn xúc xắc đông nhất, Oanh Ca bước đến bên bàn, Dung Viên đi sau.
Tiểu nhị thoáng nhìn đã biết chàng công tử áo trắng đi sau Oanh Ca rõ ràng ngời ngời phú quý, bèn tiến lại gạ gẫm nói, vị công tử áo gấm ngồi ở bàn kia là một cao thủ lục bác kỳ(*), cao thủ cao thủ đại cao thủ, chơi ở sòng bạc này đã ba năm chưa bao giờ thua, nếu Dung Viên có hứng, xin hãy thử so tài với anh ta một phen.
Nói mãi Dung Viên vẫn không động đậy, tiểu nhị chưa hiểu thế nào, lại tiếp tục tán dương công tử áo gấm, nào là người đó rất bí hiểm, rằng không ai biết tên anh ta, càng không biết thân thế anh ta, chỉ biết đâu như là người Tân Lương nước Lầu, do mấy năm nay chỉ chơi lục bác kỳ, cho nên mọi người ở đây gọi anh ta là Tân Lương bác khách, một cách gọi vừa thân thiết lại không thất lễ.
Tiểu nhị nói một hồi, Dung Viên vẫn không động lòng, nhưng lại làm động lòng Oanh Ca đứng bên, đôi mắt đen liếc chàng: “Thật thú vị, bệ… à, phu quân chơi lục bác kỳ rất giỏi, sao không thử một ván, biết đâu có thể thắng anh ta?”.
Dung Viên nhìn cô: “Có thể ư?”, dừng một lát, “… Không mang tiền”.
Tiểu nhị: “…”.
Tân Lương bác khách đã ăn đứt của đối phương ba quân đen, thắng bại đã rõ ràng, khách đứng xem trầm trồ xuýt xoa. Dung Viên vừa mới nói không mang tiền, lại ngồi ngay vào ghế của người bị thua vừa đứng lên. Tân Lương bác khách ngồi đối diện ngẩn người, nói giọng lễ phép: “Hôm nay ngày mười lăm, số mười lăm tại hạ chỉ có thể chơi ba ván, ba ván đã mãn, thứ lỗi cho tại hạ không thể hầu các hạ”.
Dung Viên tung con bài trắng trong tay, dung sắc thản nhiên: “Nghe nói ba năm nay anh chưa từng thua. Ta nói có thể thắng anh, phu nhân ta không tin, hôm nay muốn thử một ván, anh muốn đánh bao nhiêu không thành vấn đề”.
Chàng trai trẻ được gọi là Tân Lương bác khách lộ vẻ kinh ngạc, ánh mắt dừng lại sau lưng Dung Viên, cất tiếng cười giòn tan: “Khẩu khí của các hạ thật lớn, đã vậy tại hạ sẽ phá lệ, hôm nay sẽ đánh thêm ván này, tại hạ xin đưa vợ mình ra cược, các hạ đưa vị phu nhân đứng sau các hạ ra cược, thế nào?”.
Khuôn mặt Oanh Ca vốn đỏ hồng bỗng trắng nhợt. Tôi biết là vì sao.
Bầu không khí im lặng bắt đầu từ bàn cờ lan ra, toàn nội đường im phăng phắc, quân cờ trắng trong tay Dung Viên “cạnh” một tiếng đập lên mặt bàn gỗ hoa, giọng dửng dưng: “Thay vật cược”.
Tân Lương bác khách lộ vẻ hứng thú: “Chẳng phải vừa rồi các hạ nói như đinh đóng cột ván này nhất định thắng tại hạ? Đã vậy tạm thời để quý phu nhân chịu tủi một chút, được không?”.
Quân cờ bằng ngà trong tay Dung Viên bị bẻ làm bốn miếng không một tiếng động, chàng mặt không biểu cảm xòe bàn tay, hai vết đứt như bị dao cắt: “Một khắc trước ta còn muốn trân trọng nó, một khắc sau lại muốn bóp nát nó, có thể thấy trên đời không có gì là tuyệt đối. Mạo hiểm người mình yêu như thế…”. Chàng dừng lại “… thì quả là khinh suất”.
Oanh Ca còn đang chưa kịp định thần, ngẩng phắt đầu, tay đón cây trường đao Dung Viên ném cho, miếng ngọc thạch màu lam khảm trên chuôi cây đao lóe ra ánh sáng chói mắt, không biết phải phá bao nhiêu ngọn núi mới thu được một mẩu ngọc thạch quý đó, ánh mắt hai người thoáng gặp nhau, chàng quay người lại: “Hãy đưa thanh đao này cho ông chủ, bảo ông ta đổi mười vạn ngân bạc”.
Hai câu trước là nói với Oanh Ca, hai câu sau là nói với chàng trai trước mặt, “Nếu anh còn muốn đưa vợ ra đặt cược, tùy anh, nhưng cũng không để anh chịu thiệt, ván này ta đặt mười vạn thù vàng”.
Lời Dung Viên vừa dứt, Bích Phù lầu lập tức náo loạn, khách đổ dồn đến, không ai muốn bỏ qua canh bạc lớn chưa từng có kể từ khi khai trương Bích Phù lầu.
Chiếc bàn của Dung Viên và bác khách huynh đệ trong nháy mắt đã bị vây kín vòng trong vòng ngoài, trong khi khách chơi ở dưới lầu nghe tin vẫn đang ùn ùn kéo tới.
Không có vật gì bảo vệ che chắn tốt hơn đám đông, tôi nghĩ đây chính là thời cơ bỏ trốn tốt nhất, có lẽ Dung Viên cố tình cho Oanh Ca một cơ hội bỏ trốn, nhất định là thế. Bởi vì chàng vốn có thể trực tiếp đưa thanh đao quý đặt cược với phu nhân của bác khách, nhưng lại bảo Oanh Ca đem đi đổi, nếu không phải lý do đó, quả rất khó tìm ra lý do nào khác.
Bất luận thế nào Oanh Ca cũng nắm lấy cơ hội này. Cần phải tìm cho mình một người đồng hành tâm đầu ý hợp trong cuộc đời hỗn loạn này, có lẽ cuối cùng Dung Viên cũng nhận ra Oanh Ca không phải là người đó, cô đã chán cuộc sống tù túng trong cung, luôn muốn bỏ trốn, luôn luôn muốn.
Lầu hai rộng rãi, Mộ Ngôn tìm được một vị trí có thể quan sát ván bài của Dung Viên. Lát sau ông chủ Bích Phù lầu cầm túi bạc run run rẽ đám người đến bên bàn, cúi gập người nâng túi bạc như nâng thánh vật dâng trước mặt Dung Viên.
Bàn tay Dung Viên cầm quân bài bằng ngà dừng lại trên không: “Phu nhân ta đâu?”. Ông chủ Bích Phù lầu lau mồ hôi hột trên trán không biết nói sao. Lúc sau, Dung Viên bất ngờ đặt quân bài xuống bàn: “Ta thua rồi”. Trên ván cờ hai bên đen trắng rõ ràng đang triển khai hết sức gay cấn, huynh đệ bác khách đối diện kinh ngạc tròn mắt, hồi lâu sau, nghiến răng: “Các hạ thế này… là ý gì?”.
Ông chủ sòng đứng bên hoảng hốt giật mình, vội đi đến bên bàn: “Vị công tử này không muốn chơi nữa thì thôi, anh được không mười vạn đồng, anh cũng là khách quen của chúng tôi, đều là chỗ thân tình, đừng làm khó lão hủ này”.
Tôi nghĩ điều Dung Viên muốn nói không chỉ là ván cờ, chàng cho Oanh Ca cơ hội, nhưng không muốn cô bỏ đi thật, giống như tôi biết rõ đi theo Mộ Ngôn thế này chỉ ngày càng quyến luyến chàng, một vong hồn lại dung thứ bản thân ngày càng lưu luyến thế gian, nỗi đau thế nào khi phải chia ly chỉ một mình mình biết, giống như ván cờ vô vọng kia, giống như tâm trạng Dung Viên lúc này.
Khách xem tản dần, có vẻ tiếc rẻ, thông thường họ có thể nài chơi tiếp, nhưng có lẽ đoán Dung Viên là một quan lớn nào đó đành thôi, vốn tưởng được chứng kiến một ván bài nảy lửa xứng với mười vạn thù vàng đặt cược, không ngờ lại kết thúc như vậy.
Vị quân vương trẻ tuổi trầm ngâm ngồi bên bàn tròn, quân cờ trắng trong tay đột nhiên bị bóp vụn, bụi trắng lọt qua ngón tay rơi xuống mặt bàn, một lúc lâu sau chàng đứng lên, thần sắc lại bình thường như chưa xảy ra chuyện gì, dường như hôm nay từ đầu đến cuối chỉ có một mình chàng bỗng dưng nổi hứng đến chỗ này, bỗng dưng nổi hứng tham gia một canh bạc, canh bạc chưa tàn vẫn mãn nguyện một mình hồi cung. Cảnh đường phố trước Bích Phù lầu vẫn sầm uất náo nhiệt, chàng đứng ngây ở bậc thềm rất lâu, dáng cô đơn, dường như trước giờ vẫn cô đơn như vậy, giữa cảnh phồn hoa trông không hề lạc lõng.
Một cậu bé rao bán kẹo hồ lô đi qua, chàng gọi lại, bạc đã móc ra, đột nhiên sực nhớ điều gì, lại thôi: “Không mua nữa”.
Sau lưng vang lên một giọng nữ dịu dàng: “Sao lại không mua? Thiếp muốn ăn”.
Dung Viên cứng người, vẫn giữ tư thế nhét tiền vào ống tay áo, mãi vẫn chưa hiểu ra, tôi cũng mãi chưa hiểu ra. Mộ Ngôn gập cái quạt, nhìn tôi, nói vẻ đắn đo: “Dung Viên hồn xiêu phách lạc, không phát hiện Oanh Ca cô nương vẫn đứng ở lầu hai đã đành, nhưng đừng nói với tôi cô cũng không phát hiện ra. Cô ấy thậm chí… đứng ngay cạnh cô”.
Tôi tức điên vì nụ cười giễu cợt của chàng: “Tôi, tôi cũng hồn xiêu phách lạc”.
Mộ Ngôn: “…”.
Tôi nói thật, nhưng chàng không tin, tưởng là tôi biện hộ, nhìn Dung Viên dường như tôi nhìn thấy bản thân mình, nhưng Mộ Ngôn vĩnh viễn không biết, thực ra cũng không cần chàng biết. Tôi tự an ủi mình, A Trăn, đừng buồn, chàng không biết là tốt, ở đời có quy tắc vuông tròn không thể phế bỏ, người sống có thế giới của người sống, người chết có thế giới của người chết, chỉ cần được nhìn thấy chàng là tốt rồi, tham lam quá cũng không hay.
Oanh Ca mình khoác áo gió màu tím đứng sau Dung Viên năm bước, vừa thoáng ngoái nhìn, chàng lại đắn đo không ngoái hẳn, tựa hồ như trên đường phố sầm uất đột nhiên hiện ra một khoảng trống, trong đó chỉ có hai người, khách qua đường là ngoại cảnh, thời gian ngừng lại. Cuối cùng là cậu bé bán hồ lô phá vỡ bầu không khí yên lặng, nhìn Oanh Ca lại nhìn Dung Viên: “Công tử có mua không?”.
Oanh Ca bước đến chọn hai chiếc to nhất: “Mua chứ, sao lại không mua”. Cậu bé lắc đầu: “Vậy ai trả tiền?”.
Đôi mắt đen lúng liếng nhìn Dung Viên đứng bên: “Sao còn đứng ngây ra thế, trả tiền đi”. Ánh mắt cô chứa muôn ngàn tia sáng, như thuở mười lăm đẹp nhất, bàn tay còn chưa dính máu, là một giai nhân tuyệt mỹ, nhất là đôi mắt, hơi cười là sóng sánh xuân tình.
Cậu bé được tiền thưởng sung sướng chạy biến, gió bắc lớn dần, Dung Viên cuối cùng ngoái đầu lại, khuôn mặt anh tú vẫn lạnh lùng, giơ tay gạt những sợi tóc mai xõa xuống mặt cô, cử chỉ vô cùng cẩn trọng, nhưng giọng nói vẫn không chút xao động: “Đi đâu vậy?”. Tôi nghĩ vị quân vương trẻ tuổi này quả rất giỏi kiềm chế.
Mắt Oanh Ca như cười: “Người đông, ngại chen vào, xem ở lầu trên. Tại sao giữa chừng đã nhận thua, lại thua nhiều như vậy, tiền đó thà thưởng cho thiếp”.
Tai Dung Viên hơi đỏ, nhưng mặt vẫn lạnh: “Không muốn chơi thì không chơi nữa, mà nàng cần nhiều tiền thế làm gì, tiền tiêu hàng tháng trong cung vẫn chưa đủ sao?”.
Cô nhìn chàng, hai người rẽ vào ngõ bên phải vắng người, nói giọng khổ não: “Thì ra bệ hạ cũng biết món tiền thua hôm nay rất lớn, trong các gia đình bình thường, người chồng thua bạc, vợ càu nhàu vài câu là chuyện thường”. Đoạn quay đầu lườm chàng: “Huống hồ chàng thua nhiều như vậy”.
Tai Dung Viên càng đỏ, mặt cũng càng lạnh: “Vậy nàng muốn ta thắng, dẫn vợ người ta vào cung xưng hô tỷ muội với nàng?”.
Tôi giơ tay ôm trán, cảm thấy rất thú vị, quân vương trẻ này còn biết khiêu khích nữa, rõ ràng đã xúc động đỏ cả tai, nhưng câu nói khiêu khích đó đã đánh trúng tâm lý Oanh Ca.
Oanh Ca quả nhiên lạnh mặt, nói dỗi: “Nếu bệ hạ có ý đó, là phúc của cô ta…”.
Lời chưa hết đã bị Dung Viên ép vào góc tường. Ánh nắng rọi xuống, bị gió thổi tan ra, chàng cau mày nâng mặt cô lên: “Vậy còn nàng, ở bên ta nàng có cảm thấy đó là phúc phận?”.
Cô nhìn chàng, dường như muốn nặn ra nụ cười ở khóe mắt, như cô vẫn làm thế, nửa thật nửa giả, dường như không gì có thể làm cô tức giận. Môi chàng đã bất ngờ áp vào đôi mắt ấy: “Nàng có biết, tình yêu của quân vương là thế nào không?”.
Cô nói ngay: “Ân trạch ban khắp muôn dân”.
Môi chàng rời mắt cô, nhìn hai má cô dù cố trấn tĩnh vẫn ửng hồng, bàn tay lại vuốt tóc cô: “Ta không giống họ”.
Tôi không biết Oanh Ca có yêu Dung Viên, chỉ biết cơ hội chạy trốn hiếm có gần như được Dung Viên ngầm cho phép, cô đã bỏ qua.
Gió mùa đông thổi gấp, thành Tứ Phương như một con thú khổng lồ phủ phục ở nơi màu mỡ nhất Trịnh quốc.
Mấy ngày tốt cuối năm có liền mấy đám cưới, lão thừa tướng gả con gái, Hổ Phần tướng quân tục huyền, thiếu phủ Khanh nạp người thiếp thứ chín. Mấy việc tốt liền nhau, ngay đình úy đại nhân cũng cưới vợ, chuyện này không có gì lạ, Dung Tầm cưới vợ đương nhiên sẽ cưới Cẩm Tước, mỹ nhân chàng đã bỏ bao công sức giữ lại.
Đương nhiên Cẩm Tước lúc này không phải là Cẩm Tước mà là Oanh Ca, Thập Tam Nguyệt, vốn thân phận không xứng làm chính thất, nhưng trong triều đều biết Thập Tam Nguyệt có một cô em gái, mấy tháng trước đã vào cung được phong Như phu nhân.
Toàn thành Tứ Phương tưng bừng hỉ khí, trong thời đại cười người nghèo không ai cười kẻ xướng ca, chỉ cần thân phận tương xứng mọi chuyện khác đều không thành vấn đề, ít nhất ngoài tôi, chưa thấy ai bận tâm chuyện Dung Viên và Dung Tầm là chú cháu, Oanh Ca và Cẩm Tước là chị em ruột, sau này gặp nhau mọi người sẽ xưng hô thế nào.
Em gái xuất giá, mặc dù chỉ từ Thanh Trì cư của đình úy phủ gả đến Thanh Ảnh cư của đình úy phủ, chị gái cũng nên đến dự. Do quan hệ nội tộc, không chỉ Oanh Ca đi dự, Dung Viên cũng đi.
Sảnh đường cao rộng, khắp nơi treo những chữ hỉ đỏ to tướng, Dung Tầm toàn thân hỉ bào đỏ chói, mắt sáng mày thanh, thân hình tựa chi lan ngọc bội đứng một bên kính cẩn nghênh đón Dung Viên.
Triều thần quỳ phục hai bên sảnh đường, Dung Viên mình vận triều phục, màu ngọc thạch, đai ngọc lóng lánh, ánh mắt thoáng dừng trên mặt Dung Tầm, rồi dắt Oanh Ca ngồi lên vị trí tôn quý dành sẵn cho mình, vừa yên vị đã khoan thai lên tiếng: “Sau khi thành hôn cũng nên để Thập Tam Nguyệt vào cung chơi với Cẩm Tước, một mình nàng trong cung cũng rất buồn”.
Dung Tầm ngẩng đầu, ánh mắt chạm vào dung nhan trang điểm đoan nghiêm của Oanh Ca, chàng sững người. Không biết lúc này lòng chàng thế nào, có lẽ hoàn toàn không có cảm giác gì, giống như gặp lại một con mèo, con chó đã vứt đi, đây là lần đầu tiên hai người gặp lại sau khi Oanh Ca vào cung, nhưng lại ở một nơi như vậy, trong hoàn cảnh như vậy.
Mười ngón tay thon thả của cô đón cốc trà từ tay hầu nữ, lòng bàn tay hơi ngửa, không hề tìm thấy dấu vết một thời cầm đao, cô cúi đầu thổi trà trong cốc, giọng dịu dàng. “Đã có Hy Hòa suốt ngày ríu rít, thiếp đâu có buồn”.
Dung Viên hơi nghé mắt: “Nàng chỉ nói vậy thôi”.
Hai gò má mịn như ngọc ửng hồng vẻ giận dỗi nhưng bị cốc trà che khuất, cô âu yếm lườm chàng.
Dung Tầm đứng cách hai bước, đôi mắt dài hẹp thoáng lộ vẻ băn khoăn, nhưng quan khách không ai để ý, họ đâu có như tôi lúc nào cũng chăm chú quan sát biểu hiện của Dung Tầm, có lẽ các thiếu nữ cũng muốn vậy, nhưng mấy ai dám làm như thế. Dung Tầm dường như bẩm sinh thích màu tím, thực ra chàng càng hợp màu đỏ thẫm hơn máu.
Khi chàng ngẩng đầu nhìn cô lần nữa, thần sắc lại bình thường như không, xem ra có vẻ chăm chú, nhưng ít nhiều lạnh lùng xa cách. Chàng nhìn cô, chậm rãi nói: “Mấy ngày trước Nguyệt nương bị ốm, nên vẫn chưa vào cung thăm phu nhân, chưa đến giờ cát tường, nếu phu nhân không bận gì, có thể đến Thanh Trì cư chuyện trò với Nguyệt nương”.
Cô khoan thai đặt cốc trà xuống bàn, ánh mắt lướt qua hỉ bào đỏ chói của chàng, mỉm cười, giờ cô đã không còn là con người luôn dằn vặt đau đớn chỉ vì một câu nói của chàng ngày trước: “Bệ hạ mấy hôm nay bị thương hàn, kẻ dưới không hiểu biết, ta phải hầu bên người mới yên tâm, mấy ngày nữa nhân đại tiệc đêm trù tịch tỷ muội hàn huyên cũng được”.
Mắt Dung Tầm lóe ra tia lạnh, môi lại cười vẻ chân thành: “Cũng được”.
Dung Viên ngồi bên hơi cau mày, đưa cốc trà cho Oanh Ca: “Trà nóng quá, ta đã bảo bọn họ thay cốc khác”.
Làm hoàng đế cũng khó, khó ở chỗ phải cư xử sao cho vẫn giữ được chủ ý của mình lại không làm mất lòng quần thần, ngoài ra còn phải chịu đựng mọi con mắt săm soi, đánh giá của thuộc hạ, ngay đến tối nay ngủ với mỹ nhân nào trong hậu cung cũng bị thuộc hạ và thuộc hạ của thuộc hạ bàn luận suy đoán mãi, có khi ân sủng đã ban xong cho mỹ nhân, kẻ dưới vẫn chưa bàn luận xong.
Như đã nói, hôn lễ của Dung Tầm là một ngày đại cát, đó cũng là ngày Hổ Phần tướng quân tục huyền, thiếu phủ Khanh nạp thiếp, để không làm mất lòng đại thần, Dung Viên đã đến hôn lễ của Dung Tầm thì không thể không đến mừng hôn lễ của Hổ Phần tướng quân và thiếu phủ Khanh. Oanh Ca lại không cần đi, được Dung Viên giao cho lưu lại đình úy phủ chủ trì hôn lễ, cho dù muốn rút lui sớm cũng không thể, để tránh bị quan khách chú ý, đành nhẫn nhịn tuân thủ.
Giống như tôi năm mười sáu tuổi được Đường quốc công tử đến cầu hôn, không ngờ lại là một đứa trẻ miệng còn hơi sữa, nhìn tiểu công tử ôm khư khư bức chân dung của tôi, tôi chỉ muốn đá cho cậu ta một nhát, nhưng nghĩ đến tình bang giao giữa hai nước nên đành nhẫn nhịn.
Theo tính cách dễ xúc động của Cẩm Tước, vốn tưởng giữa chừng sẽ xảy ra chuyện khó xử, đại loại đột nhiên hất bỏ khăn trùm đầu ôm lấy chân Oanh Ca khóc lóc, nhưng may không xảy ra chuyện gì.
Nhờ phúc của ngày tốt, mọi việc đều thuận lợi, tân lang phong lưu tuấn tú, tân nương xinh đẹp dịu hiền, cặp đôi tân nhân nắm chặt tay nhau trước mặt Oanh Ca, thực hiện mọi nghi thức, nhất bái thiên địa, nhị bái cao đường, phu thê tương bái, trong tiếng hô dõng dạc của chủ hôn.
Trịnh hầu vương phu nhân ngồi trên chiếc kỷ trang trọng cạnh chiếc kỷ bỏ trống của Dung Viên, trong tiếng chúc mừng của quan khách, nụ cười trong mắt như một đóa hướng dương mùa đông có đủ ánh mặt trời, không thể đoán lúc nào nở thật, lúc nào không, giống như cô sau năm mười một tuổi, trong ánh dao và sắc máu đã dần dần học được cách hành xử nửa thật lòng nửa giả dối. Ánh mắt Dung Tầm ngưng lại trên gương mặt kiều diễm đoan nghiêm của cô, dường như muốn tìm biết điều gì, tôi nhìn theo ánh mắt chàng ta, nhưng cũng chẳng biết gì hơn.
Trong yến tiệc đông vui náo nhiệt, chớp nhoáng gặp riêng cũng không khó lắm. Trên bầu trời, những bông hoa tuyết bay tơi tả trong gió lạnh ù ù, đậu kín cành cây trụi lá, trong rừng mai phía xa nở rộ hoa trắng, chi chít trên cành, run rẩy trong gió lạnh.
Oanh Ca toàn thân áo tím, đứng dưới tán mai trắng, mái tóc đen dài chấm gót, vầng trán trắng ngần vương hoa tuyết trông như tuyết rơi trên bạch ngọc, môi hơi mím, cô ngoái đầu, ngay tôi đã quen nhìn mỹ nhân cũng không khỏi sững sờ, vội vàng nhìn sang Mộ Ngôn đang uống trà bên cạnh, sắc mặt chàng vẫn bình thường, không thấy tỏ ra xúc động. Có tiếng chân bước đến gần, trong rừng mai vắng, giọng Oanh Ca chầm chậm vang lên: “Đại nhân mời Cẩm Tước ra đây không biết vì nguyên cớ gì?”.
Tiếng bước chân dừng lại, người đàn ông vận đại hỉ bào tay cầm chiếc ô màu nhạt, đứng yên trong khoảng trống đầy hoa tuyết: “Oanh Ca…”.
Khuôn mặt thanh thú của mỹ nhân áo tím lộ vẻ băn khoăn: “Đại nhân… đại nhân nhận nhầm người rồi!”.
Môi ép ra nụ cười: “Cẩm Tước, Cẩm là cẩm tú lương duyên, Tước là dương tước cầu hoàn, phu nhân thứ chín của Trịnh hầu vương. Oanh Ca mà đại nhân vừa nói đã chết từ bốn tháng trước, tôi không phải là Oanh Ca, người đại nhân cưới hôm nay mới là Oanh Ca”.
Dãy núi phía xa uy nghi tĩnh mịch, tuyết lẫn trong gió, Dung Tầm đứng trước cô, cách năm bước, môi động đậy, nhưng không thành lời, lát sau, rút trong người ra một cái cốc gốm hình thù kỳ quái, thành sáng bóng nhưng đầy vết rạn, có vẻ như đã được ghép lại từ những mảnh vỡ.
Chàng nhìn cô, ánh mắt thâm sâu đặc như mực: “Ta thấy vật này ở Thanh Trì cư, nghe nói đó là món quà em định tặng ta?”. Cô giơ tay đón chiếc cốc, “Thế ư? Để tôi xem”. Cô buông tay, chiếc cốc rơi đúng vào hòn đá dưới chân, vỡ vụn.
Chàng nhìn cô, trầm ngâm: “Em hận ta?”.
Bất chấp uy nghi của phu nhân quân vương, cô ngồi xuống, cúi nhìn những mảnh gốm vỡ, lát sau đột nhiên bật cười: “Chiếc cốc này tôi từ nước Triệu phi ngựa trăm dặm hộc tốc mang về, định tặng chàng, chỉ sợ không kịp sinh nhật chàng, tay bị thương, lẽ ra phải đợi chữa trị xong quay về cũng không muộn, sao có thể muộn, lúc đó tôi quá ngốc, đã nghĩ là cả năm chàng chỉ có một ngày sinh, không ngờ tôi về sớm mà vẫn muộn, tôi đã đưa chàng lên quá cao, đến mức nhất định phải trân trọng, phải đối xử tinh tế chu toàn, kỳ thực chàng hoàn toàn không cần sự trân trọng và tinh tế chu toàn của tôi, trong mắt chàng tôi chỉ là một công cụ”.
Cô đưa tay vuốt món tóc mai ướt tuyết, môi vẫn cười, “Tôi giữ lời, giúp chàng nốt việc cuối cùng để hôm nay chàng có thể cưới Cẩm Tước như ý nguyện, tôi không nợ chàng nữa. Nhớ quá sâu sẽ bị tổn thương. Chàng thấy có phải không?”.
Chiếc ô màu nhạt hơi rung rung, rừng mai tĩnh mịch, chỉ có tiếng lạo xạo tuyết rơi, giống như ai đi chân trần trên lá khô mùa thu. Chàng giơ tay định kéo cô lên, nhưng cô đã tự đứng dậy.
Giọng chàng khe khẽ dưới tán ô: “Ta đã phụ em”.
Cô gật đầu: “Chàng đã phụ tôi. Chàng và Cẩm Tước, hai người đã phụ tôi”.
Chiếc ô rơi xuống đất, chàng không cúi nhặt, ánh mắt trở nên âu yếm dịu hiền, tôi nghĩ tôi không nhìn nhầm, nhưng tôi mong là tôi nhìn nhầm, thần sắc đó giống như cái buổi sáng lúc cô mười lăm tuổi, trong rừng trúc chàng luyện đao cho cô, lúc đó cô vẫn là đứa trẻ, sợ sấm sét, nhìn thấy máu là choáng, chàng thường cười cô, nét mặt cũng như bây giờ thật âu yếm thật dịu hiền.
“Ta đã phụ em, hận ta đi, như thế cũng tốt”.
Có những phụ nữ hâm mộ kẻ giết người, có vẻ vô lý, thực ra xuất phát từ ý nghĩ lãng mạn, cho rằng sát thủ rất mạnh mẽ yêng hùng, khi gắn bó với anh ta mới biết thật thảm khốc.
Giết chết một sát thủ không khó, làm sát thủ động lòng mới khó, cuộc đời của họ giống như đi trên dây giữa hai bờ vực thẳm, chỉ có nguy hiểm, với xã hội họ luôn có thái độ thù địch chống đối.
Có một cách khiến sát thủ động lòng, chính là giao tính mệnh của mình cho họ. Điều này có cơ sở logic vững chắc, thử nghĩ, những người đó luôn phải đối mặt với hiểm nguy sinh tử, hiểu rõ nhất sự yếu đuối rất nhân tính trước cái chết, chỉ cần giữ được tính mạng, mọi thứ khác đều không quan trọng, dẫu là kẻ keo kiệt nhất hạng, khi kề dao vào cổ hỏi cần tiền hay cần mạng, nhất định kẻ đó cũng không nói tôi cần tiền, hãy giết tôi đi.
Nếu có thể trao tính mạng cho người khác, không nói một sát thủ, một thích khách, cho dù một phàm nhân cũng khiến họ cảm động đến có thể xả thân tương cứu. Tôi không biết Dung Viên có hiểu, nhưng bất luận có hiểu hay không, trong đêm trừ tịch ở vương cung, khi một con báo gấm to đã trưởng thành điên cuồng lao vào Oanh Ca, phản ứng đầu tiên của chàng không phải là trốn vào một góc mà là kéo Oanh Ca về phía sau.
Dung Viên là Trịnh quốc đệ nhất đao thủ, người trong thiên hạ hình dung đao thuật Trịnh hầu vương nhanh như chớp giật, hoàn toàn không thể nhìn ra chiêu thức, ánh dao vừa lóe, đao đã thu về cắm vào bao, người bị chém thậm chí chưa kịp nhận ra, người ra tay đã đi xa. Theo lý, đao pháp như vậy, chém hai con báo là chuyện có thể, cái khó ở chỗ, trong bữa tiệc đêm trừ tịch đó Dung Viên lại không mang đao theo người, phản ứng của cơ thể nhanh đến mấy, trong tay ôm một người, né tránh cũng khó khăn.
Còn con báo gấm vồ mồi vốn rất nhanh, khi thịnh nộ càng khủng khiếp.
Bộ vuốt sắc bất ngờ chồm lên vai trái Dung Viên, bảy vị phu nhân xung quanh đồng thanh thét lên, cùng lúc các thị vệ lao đến, một người kịp thời đâm kiếm trúng ngực con báo, con vật trúng thương gầm lên, lao đến ngoặm đứt nửa cánh tay thị vệ đó. Cả toán thị vệ lập tức quây vòng tròn quanh con thú, bảo vệ Dung Viên phía sau. Nhưng con báo trúng thương điên cuồng lồng lộn còn lao đến cắn xé làm mấy thị vệ bị thương nặng.
Oanh Ca mặt tái nhợt, tay giằng đao của thị vệ đứng gần, Dung Viên cau mày, nghiêng người khéo léo cướp thanh đao trong tay cô, trở tay đẩy cô vào lòng Dung Tầm lúc này vừa xông ra cứu.
Đèn lồng trong cung sáng suốt mười dặm trong màn đêm bảng lảng sương khói, hoa tươi khắp nơi, một cảnh đêm đông huy hoàng hiếm có, phút chốc ánh nến hồng đã loang loáng ánh đao, nhuộm sắc máu, Trịnh hầu vương trẻ tuổi ung dung thể hiện đao pháp nhanh như ánh sao băng, chỗ ánh đao lướt qua chùm tia máu vọt lên không trung tản mạn sương khói, con báo giãy giụa gục xuống, đầu lăn lông lốc mấy vòng như một quả cầu.
Trong hoa đình bất chợt im phăng phắc, môi Oanh Ca run run, một tay đẩy Dung Tầm ra, lê váy dài loạng choạng chạy về bên Dung Viên đang cầm trường đao, giơ tay vuốt bờ vai bị thương của chàng, chợt tròn mắt thất kinh, máu đen đang thấm qua thường phục màu bạc, thần sắc chàng vẫn không thay đổi, hơi nhíu mày nhìn cô, vẻ không vui: “Cướp đao nhanh như thế để làm gì?”. Ngừng lại rồi tiếp, “Những lúc như thế này chỉ cần đứng sau ta là được”.
Cô không thể nói nên lời, mặt càng tái nhợt, môi run run, ôm chặt cánh tay chàng, dường như mọi nỗ lực của chàng đều là gắng gượng, quả nhiên chàng gục xuống ngay sau đó.
“Độc, vuốt con báo đó có độc”.
Sự thật là Dung Viên đã quá gắng sức, khi ngự y hốt hoảng đi đến, chàng vừa ngã ra, trường đao rơi xuống, Oanh Ca cố đỡ chàng, nhưng cả hai đều ngã ra đất. Cô nhổm dậy, quỳ trên nền tuyết nhuốm máu đỏ ôm lấy chàng, hoang mang nhìn vết thương vẫn đang tuôn máu trên vai chàng, nhìn đôi mắt nhắm nghiền và khuôn mặt đã trắng bợt của chàng, đôi môi tím ngắt ghé sát vành tai cứ xúc động là đỏ ửng của chàng, cô khẽ nói: “Nếu chàng chết, em sẽ đi theo chàng”.
Dung Tầm bên cạnh nghe vậy ngẩng phắt đầu, nhìn thẳng vào Oanh Ca đang ôm Dung Viên, nhìn sâu vào đôi mắt đen như nhân hạnh đào của cô, lúc này dù ánh trăng chiếu vào cũng không thấy ánh sáng.
Dung Viên đúng là bị trúng độc, mặc dù tôi tin là có nhiều người mong chàng ta chết, nhưng chung quy không phải là kịch độc có thể nôn ra máu chết ngay, cho dù cách thức đầu độc cao tay hơn nhiều so với dùng thuốc chuột.
Oanh Ca túc trực ở điện Thanh Lương suốt ba ngày đêm không ngủ, Dung Viên cuối cùng tỉnh lại, mặc dù vẫn suy yếu xanh xao, đôi mắt đen lại tràn đầy sinh khí khác thường. Chàng khoác áo choàng mỏng ngồi dựa đầu giường chăm chú nhìn Oanh Ca bê bát thuốc đi đến: “Lúc đó nàng đã nói gì?”.
Cô cúi đầu, múc một thìa thuốc đưa lên miệng thổi, đưa sát miệng chàng, “Uống thuốc đi đã, hết nóng rồi”.
Chàng cụp mi mắt: “Không uống”.
Mặt cô lộ vẻ bất bình, đổ thìa thuốc vào bát, lặng lẽ nhìn chàng, từ từ lấy ra trong ống tay áo một con xúc xắc: “Vậy, cái này tặng chàng”.
Chàng nhìn cô, cầm xúc xắc nhìn kỹ dưới đèn, miệng lẩm nhẩm: “Xúc xắc gắn đậu tương tư…”. Lát sau, cầm xúc xắc trong tay, ánh mắt như cười: “Tại sao tặng ta quân xúc xắc này?”.
Cô ngẩng đầu lườm chàng, “Chàng không biết ư?”.
Dung Viên lắc đầu: “Ta không biết”.
Cô nhao đến hai tay ôm mặt chàng, dụi mũi vào mũi chàng: “Chàng không biết thật ư?”.
Chàng nắm tay cô, ngẩng nhìn cô: “Không ai dám đối với ta như vậy, như thế là khi quân, đợi ta bình phục…”.
Cô nghiêng đầu nhìn chàng, má ửng đỏ như hoa mùa xuân lại nở sau tiết đông hàn. “Đợi chàng bình phục thì sao?”.
Chàng không nói, lặng lẽ nhìn cô.
Cô trượt xuống, gục trên đầu gối chàng, nói như tự an ủi: “Thiếp đợi chàng bình phục, nhanh bình phục nhé”.
Sau đó, mọi chuyện như Mộ Ngôn nói, Oanh Ca và Dung Tầm chung sống ba năm, được sủng ái nhất Trịnh cung, mùa xuân năm sau được phong đệ nhất phu nhân. Tôi không biết trên đời liệu có tình yêu vĩnh hằng, hoặc như Mộ Ngôn nói, một cuộc tình dang dở giữa lúc đẹp nhất mới có thể vĩnh hằng, như Thẩm Ngạn và Tống Ngưng ngày nào.
Sử Trịnh không thấy ghi chép chuyện này, đó là bí mật cung thất được giấu kín. Dung Viên bố cáo thiên hạ Tử Nguyệt phu nhân lâm bệnh qua đời, từ khi biết thân phận Oanh Ca chúng tôi đã biết nhất định có sự cố, nhưng không nghĩ sự cố chỉ là sự tự tôn của bậc quân vương. Năm Cảnh hầu thứ mười, chuyện Oanh Ca tráo đổi thân phận vào cung bị bại lộ. Dung Viên nổi giận. Oanh Ca bị phạt giam mười năm trong núi Đình Hoa để sám hối, mười năm không được xuống núi.
Núi Đình Hoa ở ngay sát biên giới Trịnh – Triệu, đó là ngọn núi thiêng của nước Trịnh, tương truyền là nơi hóa thân của một nữ thần được vương thất sùng bái, đàn ông không được đến, đàn bà nếu không được vương thất cho phép, cũng không được lui tới, ai trái lệnh sẽ bị chu di.
Năm đó Oanh Ca hai mươi ba tuổi, lừa dối Dung Viên ba năm, chàng chôn vùi mười năm tuổi xuân của cô ở nơi núi sâu cách biệt thế gian. Thị vệ trói cô áp giải khỏi Dung Nguyệt cung, cô muốn gặp chàng lần cuối cũng không được.
Hai tháng đầu bị nhốt ở núi Đình Hoa, ngày đêm cô suy tính tìm cách phá trận pháp trong núi trốn ra, cuối cùng mình đầy thương tích, cô cũng thoát ra được, đi suốt ngày đêm trở về vương cung ở kinh thành, dọc đường nghe tin triều đình ra bố cáo mình bị bệnh qua đời, và vị phu nhân thứ sáu của Dung Viên, Như phu nhân Hồng Châu đã hoài thai cốt nhục của chàng.
Do mình đầy vết thương, cô đi rất chậm, mới đến nửa đường đã bị thị vệ truy đuổi bắt được. Đường trường hoang vắng, trên trời một mảnh trăng lưỡi liềm cùng mấy đốm sao tàn, Dung Viên tưởng là đang ở kinh thành xa ngàn dặm bỗng vén rèm kiệu, dưới ánh trăng nghiêng, hiện ra khuôn mặt ẩn phong sương.
Mũi đao dài kéo lê trên đất, cô khó nhọc lết từng bước đến trước mặt chàng, như một đóa hoa rơi, để lại vệt máu dài sau lưng. Cô ngẩng đầu nhìn chàng, mắt ngấn lệ long lanh, giọng nghẹn ngào: “Lúc đó chàng đã nói với thiếp, chàng không như họ, chàng quên rồi ư?”.
Cô nắm ống tay áo chàng: “Xúc xắc thiếp tặng, chẳng phải ngày đêm chàng vẫn mang bên người đó sao, chàng…”.
Dung Viên ngắt lời cô, rút trong ống tay ra con xúc xắc, khẽ bóp, lớp bột trắng rơi xuống như cát: “Cô nói vật này?”.
Cô kinh ngạc nhìn chàng, ánh nước trong mắt càng dâng, nhưng trước khi tụ thành giọt đã bị ép tan đi, môi run run rất lâu, mới phát ra tiếng: “Kỳ thực chàng đã sớm biết thiếp không phải là Cẩm Tước đúng không? Cố tìm lý do để giam cầm thiếp”. Đột nhiên cô bật cười, “Chàng đã chán thiếp rồi chăng?”.
Cô giơ tay bịt mắt mình, giọng thấm buồn như nói với mình, hai má lại ngấn nước: “Sao thiếp có thể tin chàng như vậy, những người trong vương thất đâu có hiểu sự quý giá của nhân tâm”.
Xung quanh tĩnh lặng, cô từ từ buông tay, khóe mắt vẫn còn ánh nước, hai mắt lại mở to kiên cường, “Nghe nói Hồng Châu phu nhân đã hoài thai, chúc mừng chàng”. Những mạt bụi từ mảnh ngà bị bóp vụn bay theo gió, trong bóng đêm như dệt ra một dải sa mỏng, tay Dung Viên chợt cứng đờ, ngẩng đầu nhìn cô, đôi mắt sâu hoang vắng, xa xăm như ánh sao cuối trời ngày xuân.
Ngày xưa khi tình vẫn nồng, Dung Viên thường dạy đao pháp cho Oanh Ca, chị đã từng là hộ vệ của Dung Tầm, em biết đao thuật cũng chẳng có gì lạ, nhưng dạy thì dạy, chưa bao giờ thực sự đấu với cô một lần. Trận duy nhất này lại là đêm nay sau khi đã chia lìa. Ngàn vạn đóa anh đào tan tác dưới ánh đao như bóng chớp của chàng, theo gió bay xa, chàng chộp tay cô giao cho thị vệ: “Không đưa được phu nhân về núi, hãy mang đầu đến gặp quả nhân”.
Đó là lần cuối cùng họ gặp nhau.
Núi Đình Hoa quanh năm hưu quạnh, mặc dù nhân gian khắp nơi khói tỏa, duy chỉ nơi này bị lãng quên, xuân về oanh ca lảnh lót, hạ đến cây xanh ngút ngàn, thu sang lá đỏ xao xác, đông tới tuyết trắng mênh mang. Oanh Ca không nhắc tới Dung Viên nữa, cũng không tìm cách trốn khỏi núi Đình Hoa. Trong ba năm Trịnh quốc đã xảy ra bao biến cố, nhưng không một tin tức nào lọt tới núi này.
Ba năm sau, vú già được lệnh chăm sóc Oanh Ca ốm nặng, lúc lâm chung bà nắm chặt tay cô, đôi mắt đục rơi lệ: “Bệ hạ lệnh cho lão nô hầu hạ phu nhân mười năm, hôm nay lão nô đành phụ ủy thác của bệ hạ, phu nhân oán giận bệ hạ, nhưng hai năm trước bệ hạ đã lâm bệnh quy thiên, người đã chết, mọi oán hận cũng nên hóa thành cát bụi, bệ hạ mong phu nhân được sống bình yên, câu này lẽ ra mười năm sau mới được nói với phu nhân, nhưng lão nô mệnh bạc, không được hầu hạ phu nhân thêm nữa, phu nhân đã suy ngẫm tội lỗi ba năm, thực ra chẳng có lỗi gì, nhưng ba năm, ba ngàn ngày, thế gian dâu bể, có lẽ phu nhân đã nghĩ thông rồi?”.
Gió thổi qua cửa làm tắt ngọn nến, một lúc sau giọng Oanh Ca vang vọng, tan trong gió: “Vừa rồi vú nói gì? Dung Viên, chàng, chàng làm sao?”.
Sự thực cho thấy Oanh Ca vẫn chưa nghĩ thông, nếu nghĩ thông thì đã suốt đời làm bạn với ngọn đèn xanh trong núi, chứ không bôn ba vượt núi truy tìm kết cục năm xưa. Có thể thấy vú già không hiểu cô, cả đời cô luôn sống rất tỉnh táo, đã quen như vậy, không biết rằng hồ đồ một chút chính là phúc, người ta không nên làm khó chính mình.
Nhưng xuống núi cũng không có tiền, chưa bao giờ nghe có chuyện người bị giam lỏng còn mang một đống tài sản vàng bạc, cho dù xiêm y lụa là ngọc bội kim thoa do Dung Viên tặng cũng không thể tùy tiện đem cầm, đành quay lại nghề cũ, vừa giết người kiếm tiền vừa đi tìm Dung Viên.
Trên thế gian có bao nhiêu kẻ muốn giết người nhưng không có bản lĩnh ra tay, may họ có nhiều tiền, lần đầu tiên gặp Oanh Ca, cô nói cô không tin Dung Viên đã chết, xem ra cô không tin thật.
Đó chính là giấc mơ của cô, mơ đến chỗ này lại ngoảnh đầu, nghiền ngẫm lại những hồi ức đẹp đẽ của quá khứ, chìm đắm trong đó không thể thoát ra. Cuối cùng tôi đã hiểu cô muốn gì, cô muốn Dung Viên, cho dù Dung Viên đã nhốt cô trong núi, cô vẫn muốn chàng ta.
Nếu Dung Viên chưa chết, đối với cô chàng chỉ là người phụ bạc, ba năm, năm năm, bảy năm, nhất định có ngày cô sẽ quên, nhưng mọi người đều nói chàng đã chết, để lại bao mối hoài nghi, mà khi người đã chết, sự chia ly cuối cùng lại biến thành hoài niệm, ngay cả những lời độc ác ngày xưa cố tình nói ra để làm đau lòng cả hai dường như cũng không làm người ta đau lòng nữa, giống như hồi ức về một cây xanh bị chặt, người ta chỉ còn nhớ hình ảnh huy hoàng cành lá sum suê, mà quên đi vẻ khô héo điêu tàn của nó khi đông về.
Nhưng càng sợ hãi càng không thể sợ hãi, bởi vì không có ai ở bên mình, cô nói không tin Dung Viên đã chết, nói chắc như đinh đóng cột nhưng trong lòng lại vô cùng sợ hãi, vậy là ngày nghĩ đêm mơ. Giấc mơ phản ánh mong muốn trong lòng, người ta trong lúc yếu đuối điều khó nhất là chống lại dục vọng trong lòng, Oanh Ca mãi không tỉnh lại, bởi vì bản thân cô không muốn.
Mộ Ngôn đập cái quạt: “Làm thế nào đưa cô ta ra, đã nghĩ ra cách chưa?”.
Chàng hỏi rất đúng lúc, tôi đang định nói ra ý nghĩ đó, không trung đột nhiên bùng nổ những tiếng sấm ầm ầm, giống như sông ngân hà trên trời nổi sóng, chớp mắt đã mưa như trút nước, nước mưa theo tiếng sấm xé tầng mây dày xối xả trút xuống, màn mưa chọc thủng bầu trời lớp lớp bao vây thành Tứ Phương trong đêm.
Từ xa một âm thanh kinh hoàng truyền đến, cổng thành đóng chặt đột nhiên bật tung, một con sóng khổng lồ cao mấy trượng ồ ạt tràn vào thành, như con mãnh thú tham lam há mồm đầy máu. Đã tưởng giấc mơ này tương đối bình yên, không ngờ nguy hiểm ập tới trong chớp mắt. Nước lụt không ảnh hưởng đến tôi, tôi không cần hít thở, chỉ cần viên giao châu không bị tổn hại là không sao. Mộ Ngôn lại khác, chàng là người sống. Đầu tôi đột nhiên trống rỗng, tại sao tôi lại đưa chàng vào giấc mơ của Oanh Ca, để chàng gặp nguy hiểm. Nước lũ đục ngầu chớp mắt đã dâng lên tới cổ, viên giao châu trong ngực đập thình thình, như một trái tim thực sự, một trái tim sống, tôi nghĩ nhất định là do Mộ Ngôn, không còn khả năng nào khác, giơ tay túm lấy Mộ Ngôn, tay vừa giơ lại bị chàng túm lấy, má chạm vật gì ấm áp, giơ cánh tay còn lại sờ soạng xung quanh, sờ đúng gò mũi thẳng và đôi môi mềm mềm âm ấm của chàng. Đúng là Mộ Ngôn, chàng đang ở bên tôi.
Mộ Ngôn biết bơi, cho dù phải kéo tôi cũng bơi rất tốt, nhưng sóng từng trận lớn ập tới, dù bơi giỏi đến mấy cũng khó khăn.
Trong thế giới câm lặng trùng trùng sóng nước, mắt dần thích nghi ánh sáng, nhưng không có phản ứng gì nhất định sẽ khiến Mộ Ngôn lo lắng, tôi liền giơ tay ôm mặt chàng, cách làn nước cũng có thể nhìn thấy vẻ mặt ngạc nhiên của chàng, đây là ánh mắt tôi luôn muốn nhìn, là đôi môi tôi luôn muốn hôn.
Khi tôi hôn Mộ Ngôn, không biết vẻ mặt chàng thế nào, khoảng cách quá gần đương nhiên không thể nhìn thấy. Tôi đang tiếp khí cho chàng trong nước, nhưng không biết làm thế nào để mở hàm răng, chuyện này sư phụ đã dạy tôi, Quân Vỹ cũng từng viết trong tiểu thuyết, dụng cụ cần sử dụng chỉ có thể là đầu lưỡi, nhưng phải vừa dán môi vào môi chàng để nước khỏi tràn vào, vừa phải dùng đầu lưỡi cậy răng chàng nên hơi khó khăn.
Chúng tôi duy trì tư thế môi dán môi, sóng nước cuộn dềnh rùng lắc từng cơn, một tay Mộ Ngôn quắp eo tôi, cơ thể càng ép sát, tôi nắm chắc vai Mộ Ngôn, dán môi càng chặt, đẩy khí trong ngực vào miệng chàng. Hai mắt Mộ Ngôn bất chợt mở to, không khí nhiều như vậy, thực ra đã đủ, nhưng tôi vẫn không muốn rời môi khỏi môi chàng, sau này có lẽ không còn cơ hội như thế nữa.
Trong nước thực ra cũng có cái hay, ai cũng nín thở, hôn nhau trong khoảng cách gần như vậy, Mộ Ngôn cũng sẽ không phát hiện ra tôi không có hơi thở. Mặc dù cơ bản không giống nụ hôn, nhưng tôi có thể giả vờ coi là thế.
Con người mà tôi yêu này thực sự rất mạnh mẽ, nhưng trong thời khắc này cũng cần tôi bảo vệ, tôi sẽ bảo vệ chàng thật tốt, không để chàng bị một vết thương nào, mặc dù nguy hiểm chàng lâm vào là do tôi gây ra…
Khi thế nước nhỏ dần, chúng tôi tóm được một khúc gỗ, Mộ Ngôn bế tôi lên đó, phóng mắt nhìn quanh, đúng là một vùng quê trong mơ, nhưng không nhìn thấy Oanh Ca ở đâu, cho dù muốn đưa cô ra khỏi giấc mơ cũng không biết làm sao.
Nhưng lại nghĩ, đây là giấc mơ của Oanh Ca, mộng cảnh đều do tiềm ý thức của cô tạo ra, cô là tất cả trong giấc mơ đó, giống như Hoa Tư mộng tôi dệt cho khách, mặc dù không nhìn thấy họ, nhưng đâu đâu cũng có ý thức của họ…
Tôi thầm nghĩ, cuối cùng hiểu, cúi đầu nhìn dòng nước lũ cuồn cuộn bên dưới khúc gỗ, tôi nói ra một câu lẽ ra nên nói sớm hơn: “Dung Viên chưa chết, chàng đang đợi cô, tôi biết chàng ở đâu, cô có muốn đi cùng tôi?”.
Cơn lũ đột nhiên dừng lại. Tôi chỉ tia sáng phía trước, chính là mộng kiều để ra khỏi giấc mơ, nói tiếp: “Đi ra từ chỗ kia, cô sẽ tìm thấy chàng”.
Trong y quán, Oanh Ca cuối cùng mơ màng tỉnh lại, mắt mơ hồ nhìn chúng tôi, không nói một câu. Trong mơ cô sẽ chỉ nghe thấy tiếng tôi mà không nhìn thấy tôi. Do toàn thân ướt sũng tôi và Mộ Ngôn phải về phòng thay quần áo, đành gọi lão đại phu dậy chăm sóc Oanh Ca. Vầng đông đã hơi rạng, qua hàng giậu thấp bao quanh đình viện, có thể nhìn thấy cánh đồng lúa bát ngát phía xa. Mộ Ngôn cười: “Đi ra từ chỗ kia cô sẽ tìm thấy chàng là thế nào? Tôi cứ tưởng cô chưa bao giờ nói dối, chưa bao giờ đánh lừa người khác”.
Tôi khẽ thanh minh: “Không phải là đánh lừa, nếu trong mộng, suốt đời cô ấy cũng không thể tìm thấy Dung Viên, trong hiện thực, bất luận Dung Viên sống hay chết, nhất định có ngày cô ấy có thể tìm ra sự thật. Oanh Ca đầu óc luôn tỉnh táo, không tự dối mình, cũng không muốn dùng thứ khác đánh lừa bản thân, cho dù trong mơ”.
Chàng ngắt lời tôi: “Thế còn cô?”.
Tôi lắc đầu đi nhanh về phía trước: “Tôi chưa bao giờ nằm mơ”. Người chết không nằm mơ, ngủ tôi còn không cần, huống hồ là mơ.
Chàng dừng lại, thay đổi chủ đề khác hóc búa hơn: “Vậy vừa rồi trong nước lũ, cô làm gì vậy?”.
Tôi choáng váng, quay đầu giả bộ trấn tĩnh nhìn chàng: “Tôi tiếp khí cho huynh, huynh xem, mặc dù tôi biết Hoa Tư dẫn, nhưng vẫn cần có một số dị năng khác”.
Chàng mỉm cười nhìn tôi, nhưng không nói gì chỉ gật đầu: “Đi thay quần áo thôi”.
Oanh Ca ra đi không cáo biệt. Mặc dù lão đại phu của y quán vô cùng kinh ngạc, nhưng chuyện này thực ra cũng nằm trong dự liệu của tôi, hai ngày trước, vừa mới xuống giường được cô đã nóng ruột muốn đi, chỉ là cơ thể còn quá yếu, mới ra đến cổng gặp gió đã ngã gục.
Nhìn Oanh Ca lảo đảo khụy xuống, tôi nghĩ, chỉ cần có sức để bước, cô ấy sẽ lập tức rời y quán, không đợi thêm một ngày. Cô nôn nóng muốn tìm câu trả lời, không thể chờ thêm một khắc. Quả nhiên, chưa đến hai ngày, cô để lại tiền thuốc, lẳng lặng ra đi.
Tôi không biết có nên tiếp tục đuổi theo Oanh Ca, bởi vì thân phận Thập Tam Nguyệt phu nhân thật giả thế nào hầu như đã biết, ngoài Dung Viên rốt cuộc đã chết hay chưa, thực ra không còn nghi vấn nào nữa, nhưng nếu chuyện này kết thúc ở đây, có nghĩa là ngày chia tay giữa tôi và Mộ Ngôn sắp đến.
Tôi không biết nên làm gì để cứu vãn, tôi muốn ở bên chàng thêm ít nữa, có thể do chàng không yên tâm để tôi đi một mình, ít nhất sẽ cùng tôi đi tìm Quân Vỹ và Tiểu Hoàng? Nếu thế, liệu có nên viết thư cho Quân Vỹ bảo anh ta hãy trốn thật xa, cả đời này đừng để cho chúng tôi tìm thấy?
Cho dù thế nào cũng nên thăm dò ý tứ Mộ Ngôn.
Đi thật nhanh đến tìm chàng, nhưng Mộ Ngôn không có trong phòng, mới sực nhớ nửa canh giờ trước nhìn thấy một con chim bồ câu đưa thư đậu vào cửa sổ phòng chàng, có lẽ Mộ Ngôn ra ngoài gặp khách. Tôi vừa quay ra vừa suy nghĩ chuyện về Thập Tam Nguyệt, nếu Dung Viên quả thật đã chết, vậy lời đồn chàng ta bị bệnh qua đời liệu có đáng tin?
Trong lịch sử cũng có không ít những truyền thuyết như vậy, nhưng vương cung là nơi quy tụ những danh y giỏi nhất nước, một bậc quân vương khó có thể chết vì bệnh. Nếu đúng như Mộ Ngôn nói, Bình hầu vương Dung Tầm lên ngôi là do bức cung chứ không phải Cảnh hầu chủ động nhường ngôi, như vậy tin đồn cái chết vì bệnh của Cảnh hầu nửa năm sau rất đáng nghi ngờ.
Tôi nghĩ lại, tiền triều tông thất bạc nhược, xã tắc suy yếu, có nhiều chư hầu, công tử Tương Tuyên Mộc của Tây Tấn giết phụ thân và huynh đệ cướp ngôi, bị Tề hầu vương lên án, mới liên kết với chư hầu trong thiên hạ cùng thảo phạt Tây Tấn, không đầy hai tháng, Tây Tấn đại bại, quốc thổ chia năm xẻ bảy, phần lãnh thổ lớn nhất bị nhập vào nước Tề.
Nếu tôi là phận nam nhi, biết Hoa Tư dẫn có thể thăm dò bí ẩn riêng tư của người khác, biết đâu nước Vệ sẽ không bị diệt.
Trí tưởng tượng của tôi từng bay bổng cho rằng mình không gặp thời. Ý nghĩ không thể nào gạt đi đó khiến tôi không khỏi bàng hoàng tiếc nuối, cuối cùng tôi hiểu tại sao các bậc tiền bối tu luyện Hoa Tư dẫn bằng cách lấy mạng sống của người khác không ai có kết cục tốt đẹp, bởi vì bản thân bí thuật đó đã là một tham vọng, dễ mê hoặc lòng người nhất, khi gieo mầm tham vọng, nếu không tự kiềm chế, cuối cùng sẽ có ngày sẽ bị chính bông hoa lớn nở ra từ mầm tham vọng đó đè chết.
Ngay bản thân tôi dù chỉ là người chết cũng không kìm nổi ảo tưởng có Hoa Tư dẫn tôi sẽ được những gì, nhưng chung quy, nếu nhìn nhận lại biến cố của Trịnh cung, ngoài có giá trị đối với các nước chư hầu trên mảnh đất đại lục sóng gió này thì chẳng liên quan gì đến tôi.
Ra khỏi y quán, nhìn núi non trùng điệp phía xa, không biết nên đi đâu tìm Mộ Ngôn, băn khoăn một hồi, quyết định đi dạo men theo con phố. Không có Tiểu Hoàng đi cùng, cảm thấy hơi buồn, nhưng lại nghĩ, nếu có Tiểu Hoàng, tìm thấy Mộ Ngôn, chẳng phải nó sẽ cản trở hai chúng tôi hay sao, vậy là lại không muốn có nó nữa.
Ngày đã tàn, nền trời xanh màu ngọc bích, mặt trời lặn hắt lên chùm hào quang sáng rực, gió vẳng đến tiếng hát từ những thuyền cá trên sông, thành trì nhỏ lúc hoàng hôn thực êm ả. Thong thả, lúc đi lúc dừng, ngẫu nhiên bước vào một cửa hiệu bán đồ cổ, thực ra tôi không mấy hứng thú với đồ cổ, nhưng lúc này mắt vừa liếc đến một nơi, hai chân đã không thể nhúc nhích, đó là một chiếc trâm bạch ngọc chạm khắc tinh xảo lóng lánh trong ánh chiều muộn.
Đứng ngây trước quầy hồi lâu, cảm thấy chưa đã, lay ông chủ đang ngủ gật bên cạnh lấy ra cho xem, cầm lên ngắm nghía, lại ngơ ngẩn một hồi.
Lão chủ quán nheo nheo hai mắt: “Chiếc trâm này có đến hai trăm năm tuổi, là ngọc thượng hạng, chế tác thượng hạng, vừa mới nhập hôm qua, cô nương vừa nhìn đã thích vậy là rất có duyên với nó, nếu cô nương thích, lão xin để lại cho cô ba với giá trăm thù vàng”.
Tôi lại thở dài, thẫn thờ hồi lâu, đừng nói ba trăm thù vàng, ngay một đồng tôi cũng không có. Nhưng chiếc trâm này quả thực rất hợp với Mộ Ngôn, khiến tôi không thể bỏ đi.
Chia tay với Mộ Ngôn là tất yếu, mà ngày tái ngộ lại xa vời vô định, hai mươi năm nay chàng gặp gỡ bao nhiêu cô gái, hai mươi năm sau, và hai mươi năm sau nữa chàng còn gặp bao nhiêu cô gái nữa, tôi chỉ là một trong những cô gái chàng đã gặp mà thôi, nhất định có ngày chàng sẽ quên.
Tôi vùi đầu vào lòng bàn tay, hồi lâu, ngẩng đầu buồn bã nhìn ông chủ: “Tôi có thể dùng vật gì để đổi lấy cái này?”.
Ông ta băn khoăn, lại hỏi sang chuyện khác: “Chiếc trâm này có can hệ gì với cô nương ư?”.
Tôi lắc đầu: “Không có can hệ gì, chỉ là tôi muốn có nó để tặng một người nhưng không có tiền, tôi nghĩ có lẽ người ấy sẽ thích vật này, sẽ suốt đời…”. Nói đến đây lại ngẩn ra, cảm thấy Mộ Ngôn sẽ không suốt đời dùng chiếc trâm này, lại miễn cưỡng nói chữa: “Đằng nào khi người ta giữ nó, có lẽ sẽ nhớ đến tôi”.
Chủ quán nhìn tôi hồi lâu: “Vậy cô nương định dùng vật gì để đổi?”.
Tôi ngẫm nghĩ: “Ở đây ông có nhận nuôi hổ không, bốn chân, vẫn còn sống”.
“…”.
Cuối cùng tôi dùng một bức họa để đổi lấy chiếc trâm bạch ngọc đó, lão chủ quán còn trả lại tôi một trăm thù vàng, khi nhận bức họa còn cười nói: “Nếu không biết rõ lai lịch, lão cơ hồ còn tưởng bức họa này của cô nương là bút tích của Văn Xương công chúa”.
Tôi sửng sốt: “Bác thật uyên thâm, nếu là bút tích thật, bác bảo nó đáng giá bao nhiêu?”. Ông ta vuốt râu cười: “Không dưới một vạn đồng vàng”. Tôi kìm chế để khỏi xông vào lấy thêm vài món đồ cổ nữa. Lại thầm nghĩ, trên đời này ngoài tôi ra, còn ai biết bức sơn thủy vẽ thành Tùy Viễn này trị giá một vạn đồng tiền vàng, mà nếu như quả thật tôi còn sống, bức họa đó sao có thể có giá như vậy. Diệp Trăn đã chết, bút họa của Diệp Trăn cũng chết, cho dù tôi có vẽ tiếp, những gì vẽ ra cũng chỉ là phế phẩm mà thôi.
Khi ra khỏi hiệu đồ cổ, các nhà trên phố đã lên đèn, gặp lão đại phu của y quán đi mua rượu, qua ông ta được biết, Mộ Ngôn đến Trích Tiên lầu. Tôi tưởng đó là tửu lầu, đang định vào ăn tối, cầm cái trâm trong tay phấn khởi hỏi đường đến đó, vào đến cửa lầu mới biết đó là lầu xanh.
Nhất thời không biết cảm giác thế nào, chưa bao giờ nghĩ Mộ Ngôn có thể vào lầu xanh, nhưng coi như vẫn giữ được bình tĩnh, lót tay ít tiền cho một người làm công trong đó mới đến trước một cái đình hóng mát trên đài cao, nhìn thấy một cô gái tư dung xinh đẹp ngồi trước cây đàn thập huyền, còn Mộ Ngôn dáng ung dung nhàn nhã đang ngồi pha trà bên bộ ấm chén bằng đá mộc ngư.
Trong đình có một chiếc lò sưởi nhỏ rất xinh xắn, trong lò than củi cháy đượm bốc ngọn lửa xanh, chắc là đốt bằng than gỗ trám, tôi nghĩ đến một cái tên, đã cảm thấy mặt mình trắng bệch, Tần Tử Yên. Nghĩ đến đây, sự phẫn nộ của người đến hỏi tội bỗng chốc tiêu tan, nếu cô gái kia là Tử Yên thật, lúc này tôi đến có thể làm được gì? Thử hình dung khi tôi đến Mộ Ngôn sẽ giới thiệu thế này: “Đây là Tử Yên, sang năm chúng tôi sẽ thành hôn, nhân tiện mời cô đến dự tiệc rượu”. Phản ứng kìm chế nhất mà tôi có thể nghĩ ra là xông đến bóp cổ chàng rồi cùng chết với chàng. Trở gót định quay ra, ngẩn đầu phát hiện ánh mắt hai người ngồi trong đình đã cùng lúc dừng trên người tôi, đây là một cái đài cao đơn độc ở hậu viên Trích Tiên lầu, có nghĩa xung quanh không có bất kỳ chỗ nào để trốn.
Tôi ngẩng đầu trợn mắt nhìn Mộ Ngôn, lát sau, đủng đỉnh đi đến, ngồi xuống một chỗ cách họ khá xa, Mộ Ngôn nhìn lướt tôi một cái, lại cúi đầu pha trà, chàng làm gì trông cũng rất duyên dáng.
Lúc này màn đêm đang lan tràn, bốn góc mái hiên cong của đình hóng mát đã treo đèn lồng, trong ngôi lầu chính phía trước vẳng ra tiếng hát, có ngân lượng hậu hĩnh thì sẽ có hưởng thụ âm nhạc đích thực, đây là nơi đơn giản nhất thế gian.
Nhưng vẫn còn một vấn đề cần giải quyết, tôi ghé đầu hỏi cô gái ngồi sau cây đàn: “Cô là Liên Tinh thật sao?”.
Cô gái không trả lời, người tiếp lời là Mộ Ngôn: “Liên Tinh cô nương hôm trước từ Kim thành kinh đô nước Triệu đến thành Tùy Viễn, sẽ lưu lại đây hai tháng, bái vũ sư ở Trích Tiên lầu học múa”.
Tôi liếc chàng: “Hai người quen nhau?”.
Chàng đang rót nước nóng tráng ấm chén, rót lên cả nắp ấm, cử chỉ rất duyên dáng đẹp mắt, như lưu thủy hành vân, “Không quen, sao?”.
Tôi nghiêm mặt: “Nói dối!”.
Cuối cùng chàng ngẩng đầu: “Ồ? Sao tôi lại nói dối?”.
Tôi nhìn mặt chàng, cảm thấy khuôn mặt đó quả thực rất đẹp, sao có thể lừa dối: “Huynh nói cô ấy mới đến hai ngày, huynh cũng lần đầu đến thành Tùy Viễn, sao có thể ngồi với nhau?”.
Liên Tinh nét mặt như cười như không, lên tiếng: “Nô gia trước đây quả thực chưa gặp Mộ công tử, hôm nay có thể cùng công tử hàn huyên, chẳng qua là cơ duyên, vả lại có những điều…”. Nói đoạn mỉm cười, liếc Mộ Ngôn “… khá hòa hợp với công tử mà thôi”.
Mộ Ngôn gật đầu tán đồng: “Chính là thế”. Nói xong vẫn tiếp tục tráng cốc chén, rồi như chợt nhớ ra: “Ăn tối chưa?”.
Cảm giác của tôi lúc này là tức muốn chết.
Chàng cười, quay đầu nói với Liên Tinh: “Bảo mang ít đồ ăn, xem ra cô ấy đói rồi”.
Tôi nghiến răng, đứng dậy bỏ đi: “Huynh mới đói, cả nhà huynh đói”.
Kết quả đứng lên quá vội, chân giẫm vào gấu váy, suýt ngã vào lò sưởi, bị chàng kéo lại: “Định đi đâu?”.
Tôi mím môi, ép nước mắt không cho chảy ra: “Đi dạo!”.
Chàng để tôi ngồi xuống: “Ăn xong hãy đi”.
Tôi hất tay chàng: “Không ăn, tôi quen đi dạo trước bữa tối”.
Chàng cau mày: “Có thói quen đó từ lúc nào? Sao tôi không biết?”.
Tôi nghiến răng: “Bắt đầu từ hôm nay”.
Đi khá xa, sau lưng truyền đến tiếng cười nhẹ của Liên Tinh: “Xem ra tiểu cô nương giận lắm”. Chỉ trách thính giác tôi quá tốt, nhưng đồng thời lại muốn nghe phản ứng của Mộ Ngôn, dỏng tai nghe, chỉ có một câu, “Kệ cô ấy”.
Nước mắt lập tức trào ra, thầm nghĩ, đáng ghét, con người đó thật đáng ghét.
Trên trời sao dần dần mọc dầy, giống như lẵng hoa nở trong đêm, tôi ngồi trong cái lều tranh phía sau y quán suy nghĩ sự đời, gió hồ thổi qua, cảm thấy hơi lạnh, rụt tay vào ống tay áo.
Cái gọi là nghĩ thì dễ làm thì khó, đúng là một đạo lý bất biến từ cổ chí kim, giống như tôi luôn mong mình suy nghĩ thông thoáng, cũng luôn cho là thực ra mình đã nghĩ thông, khi xảy ra sự việc mới thấy, nghĩ thông hay không chỉ là trong ý niệm, mà ý niệm này quả là đa biến. Ngửa nhìn bầu trời có những vệt sao rơi, tôi thở dài.
Chưa thở hết, sau lưng có tiếng chân bước, không cần ngoái đầu cũng biết là Mộ Ngôn, tôi vội ngậm miệng, giả bộ không phát hiện ra chàng, cũng tuyệt nhiên không mở miệng hỏi chàng. Mộ Ngôn mỉm cười, tự ý đến ngồi bên cạnh: “Vừa rồi biết được một tin rất thú vị, có muốn nghe không?”.
Tôi ngoảnh mặt đi: “Không!”.
Chàng để hộp thức ăn xuống: “Tôi lại tưởng cô sẽ vui”. Chàng dừng lại, “Là tin về Cảnh hầu vương Dung Viên”.
Tôi ngoảnh lại: “Sao? Vậy thì nghe tạm”.
Tôi tưởng sẽ được tin về tung tích của Dung Viên, nhưng chỉ thấy hơi ngạc nhiên khi được tin, sau khi Dung Viên thoái vị, luôn có thánh dược Bách Lý Việt bí mật ở bên, Mộ Ngôn tay cầm cái quạt vẻ phấn khởi: “Bách Lý Việt là người cuối cùng ở bên Cảnh hầu vương, Dung Viên sống hay chết, vụ hỏa hoạn ở hành cung Đông Sơn là thế nào, chỉ cần hỏi ông ta là biết”.
Ý nghĩ nào đó lóe lên trong đầu, tôi vội hỏi: “Có phải Oanh Ca đến thành Tùy Viễn là để tìm Bách Lý Việt? Ông ta bây giờ ở đâu?”. Mặc dù biết Quân sư phụ có qua lại với Bách Lý Việt, nhưng nghe nói, hành tung của thánh dược luôn bất định, chắc là ẩn cư ở một nơi hoang vắng nào đó.
Mộ Ngôn mỉm cười gật đầu: “Đoán rất đúng, không chỉ có thế, Bình hầu vương Dung Tầm sở dĩ xuất hiện trên chiếc thuyền bình dân kia, có lẽ cũng là đến thành Tùy Viễn tìm Bách Lý Việt”.
Tôi hơi ngạc nhiên: “Chàng ta tìm Bách Lý Việt làm gì? Lẽ nào Cảnh hầu vương thực sự chưa chết, ngay chàng ta cũng không biết tông tích Dung Viên?”.
Mộ Ngôn đăm chiêu nhìn tôi: “Chuyện đó không nghe nói, theo tin tôi hỏi được, Nguyệt phu nhân được Bình hầu vương sủng ái trong cung không hiểu sao tự nhiên chết, lúc sắp an táng, một thầy bói thân tín nói Nguyệt phu nhân số chưa tận, còn có thể cứu, vậy là đi khắp nơi tìm danh y, mười mấy ngày trước đã hỏi thăm biết được Bách Lý Việt đang ẩn cư ở thành Tùy Viễn”.
Tôi không nén nổi, bật cười: “Chàng ta đúng là rất có lòng, thân là quân vương tôn quý lại thân chinh đi thỉnh cầu lang y, tình với Cẩm Tước quả là sâu nặng”. Vừa nói như vậy bỗng dưng nhớ ra, như thế này hóa ra đang nói chuyện tâm tình với Mộ Ngôn, vội vàng mím môi, làm bộ giận dữ, từ giờ bất luận chàng nói gì, nhất định không chịu tiếp lời.
Chàng cau mày: “Vừa rồi còn tốt thế, lại sao rồi?”. Nhưng tôi vẫn làm thinh.
Lát sau, chàng thở dài: “Đói bụng nên phá quấy phải không? Ăn tối chưa?”. Hóa ra từ đầu chí cuối chàng đều tưởng tôi đói nên giận dỗi, tôi thở một hơi dài, ngoái đầu lườm chàng: “Đây không đói! Không ăn!”.
Bàn tay đang mở nắp hộp cơm dừng lại: “Cái gì?”.
Tôi đang định hùng hồn nhắc lại lần nữa, miệng đã bị chàng nhét một viên bánh chẻo to đùng, nheo mắt nhìn tôi: “Vừa rồi nói gì, nói lại xem”.
Miệng tôi bị nghẹn bởi cái bánh, lòng có dư, sức không đủ, cố sức định nhè cái bánh ra. Chàng lại tiếp: “Dám nhè ra thử xem”. Tôi vốn định thử nhè ra, nhưng sau lưng bỗng nhiên có con gì kêu “choác” một tiếng, giật nảy người, nuốt vội cái bánh, đang định mở miệng nói, đôi đũa gắp chiếc bánh khác đã đưa sát miệng tôi: “Vừa rồi đã mua cho cô bánh chẻo nhân tôm phỉ thúy trên phố, nào, ăn cái nữa”.
Mặc dù vừa rồi coi như bị thua, nhưng nhất quyết không chịu lép vế, tôi tức giận ngoảnh đầu sang bên: “Không ăn, đã nói là không ăn, huynh lắm chuyện quá”.
Đôi đũa dừng trên không, chàng thu đũa về, giọng thản nhiên: “Được, không ăn thì đem cho người khác”.
Tôi còn tưởng vừa rồi mình nói quá, nghe thấy chàng nói vậy, lại tức sôi người, vốn định kiềm chế, nhưng không kiềm được, cảm thấy mắt sắp đỏ lên, giả bộ tỏ ra lạnh lùng, chẳng biết làm gì nữa, đành cố nén khóc: “Mang đi thì mang đi, mang cho cái cô Liên Tinh kia ăn, cô ta nhất định cảm kích, ăn xong sẽ đánh đàn cho huynh nghe, đằng nào tôi cũng chẳng biết gì, miễn cưỡng đánh một khúc là lấy tính mạng người ta”.
Tôi như bị nghẹn, không nói được nữa, trong ống tay áo là chiếc trâm mua định tặng chàng, chiếc trâm bỏ bao nhiêu công sức mới có được, vậy mà chàng lại đầu mày cuối mắt với cô gái khác. Lại còn cho là tôi giận dỗi vì đói bụng. Chàng không biết cả đời này tôi không biết đói là thế nào.
Mộ Ngôn nhìn tôi, ánh mắt lạ lùng, như có gì suy nghĩ, lại mông lung như mặt đầm sâu dưới trăng, lúc sau bỗng hạ giọng nói: “A Phất, cô…”.
Tôi ngắt lời chàng: “Tôi xấu xí, lại luôn quấy rầy huynh, đằng nào chuyện của Thập Tam Nguyệt cũng làm rõ rồi, ngày mai huynh đi đi, đi tìm cô Liên Tinh kia đi, đừng theo tôi nữa”.
Nói xong ngay tôi cũng giật mình, bất giác run run. Sao tôi lại muốn đuổi chàng, hơn nữa tôi cũng đâu thấy phiền phức gì, nhưng lời tiếp lời cứ thế nói ra, khiến lòng tôi đau nhói từng cơn, hình như Mộ Ngôn cũng buồn.
Chàng lại mỉm cười, thong thả phe phẩy cái quạt: “Đã đuổi tôi đi, vậy thanh toán hết tiền công cho tôi”.
Tôi cảm thấy lạ: “Tôi nợ huynh tiền công bao giờ?”.
Chàng chống đầu nhìn tôi: “Sau khi gặp lại ở Bích sơn tôi đã làm hộ vệ cho cô mười ngày, không nhanh quên như vậy chứ?”.
Tôi tức giận: “Tôi không nói thuê huynh làm hộ vệ, là huynh tự làm!”.
Chàng không nói, chỉ phe phẩy quạt.
Tôi cảm thấy bực mình, chủ yếu là không ngờ chàng đáng ghét như vậy, còn nhớ hôm nay dùng bức tranh đổi chiếc trâm, sau khi hối lộ lão bộc ở Trích Tiên lầu còn lại hơn chín mươi thù vàng, vừa lần túi tiền trong ống tay vừa bực mình hơn, tôi còn chưa kịp móc tiền ra, chàng đã gập quạt lại, lạnh lùng nói: “Một ngày một trăm thù vàng, chỉ tính nửa tháng thôi, vậy là một nghìn năm trăm thù, trả xong tiền công, sáng mai tôi lên đường, không làm phiền cô nữa”.
Bàn tay tôi dừng lại trong ống tay áo, kinh ngạc nhìn chàng: “Sao lại đắt thế?”.
Chàng dửng dưng nhìn tôi, dửng dưng phe phẩy quạt, dửng dưng mở miệng: “Con người tôi, so với những hộ vệ khác cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ khác một chữ thôi, đó là: đắt”.
Tôi bị chàng chọc tức muốn chết.
Buổi tối hôm đó kết thúc bằng việc tôi ném túi tiền vào đầu Mộ Ngôn.
Nhưng ngày hôm sau đã cảm thấy nên đi xin lỗi Mộ Ngôn. Nghĩ lại, nếu chàng cho tôi là người thất thường cũng chẳng có gì lạ, chàng không hề biết tôi thích chàng, giống như một lính hầu đi công cán với quan phủ, khi cần đi bộ lại nhất định cưỡi ngựa, còn đòi cưỡi chung ngựa với quan phủ, mà lại ấp úng không nói ra được nguyên do, quan phủ đó ngoài cảm thấy anh ta bị thần kinh cũng chẳng có ý nghĩ nào khác.
Từ trước tới giờ tôi chẳng qua chỉ mong một cái ngoái đầu của Mộ Ngôn, ôm hy vọng mong manh như vậy để quên thời gian, cuối cùng ngày chàng xa tôi càng tới gần, mỗi ngày càng gần, nhưng không hề khiến tôi thỏa mãn, trái lại càng muốn được nhiều hơn.
Luôn không muốn nghĩ, nhưng cuối cùng đã có thể bình tĩnh, suy nghĩ kỹ, mới nhận ra tình trạng như vậy thật đáng sợ. Tình cảm của tôi đối với Mộ Ngôn thực ra không thuần túy như tôi tưởng, cứ thế này nhất định không ổn, có lẽ thực sự cần suy nghĩ lại, chủ động rời xa chàng.
Chưa sắp xếp xong ý nghĩ trong đầu, chợt cửa phòng bị đẩy ra, tôi ngẩn người nhìn Mộ Ngôn nét mặt thản nhiên đứng ở cửa, nói theo phản xạ: “Chào…”. Chưa nói xong, không biết có phải do căng thẳng, đột nhiên cắn vào lưỡi.
Trong ấn tượng của tôi, tư thái Mộ Ngôn luôn phong nhã nhàn tản, rất ít khi thấy chàng nghiêm túc, lại còn có một cử chỉ thất lễ, tự đẩy cửa vào khi chưa được người ta cho phép. Một bức họa được mở ra trên bàn, tôi ghé lại nhìn, lại cắn vào lưỡi lần nữa, chính là bức họa tôi bán cho ông chủ hiệu đồ cổ hôm qua.
Ngẩng nhìn qua cửa sổ, trên bờ giậu tre, dây tơ hồng bò tràn lan, xen lẫn những bông hoa màu tím rất đẹp. Mộ Ngôn ngồi bên bàn, cánh tay nhàn tản chống mép bàn, ánh mắt lạ lùng hướng vào tôi vẻ thăm dò, lát sau mỉm cười, cúi đầu nhìn bức tranh sơn thủy mở rộng trên bàn, khẽ nói: “Vẽ khá lắm, nhưng từ nay đừng vẽ nữa”.
Tôi thấy lạ, hỏi: “Sao huynh có bức họa này?”.
Chàng không phủ nhận: “Cô kiếm được rất nhiều tiền, thành Tùy Viễn bé tí, đột nhiên cô có nhiều tiền như vậy, hỏi loanh quanh là biết ngay”.
Tôi không nói gì, bụng nghĩ mình vẫn giận chàng, không nên tỏ ra thân mật, nhưng vừa rồi đã quyết định xin lỗi chàng, vậy là bỗng dưng không biết nên tỏ thái độ thế nào.
Chàng lại như chưa yên tâm, ngón tay gõ xuống bàn, vẻ mặt nghiêm túc, nhắc lại lần nữa: “A Phất, nhớ đấy, từ nay không được vẽ nữa”.
Tôi không hiểu: “Tại sao?”.
Chàng không trả lời, tiếp tục ngắm bức tranh: “Nghe ông chủ hiệu nói, bức tranh này đáng giá bốn trăm thù vàng, vậy cô gán nợ cho tôi, tính ra cô vẫn còn nợ tôi một ngàn thù vàng, ồ, nên tiếp tục cố gắng”.
Tôi bất lực, phản đối: “Huynh không thể vô lý như vậy”.
Chàng cười giễu tôi: “Với trẻ con lý lẽ làm gì, trước giờ lúc nào cô chẳng vô lý!”. Không đợi tôi phản ứng, chàng đã mang nghiên mực đến: “Tranh đẹp đấy, nhưng tiếc là chưa có đề từ, muốn một đề từ thế nào?”.
Ánh nắng chiếu xiên, tôi nhìn chàng trong ánh sáng vàng như mật đó, bỗng nghĩ tới cái đêm sao đầy trời năm xưa, tôi bị rắn độc cắn ngất xỉu, chàng bế tôi, xiêm áo thoảng mùi hương mai, đêm trường mênh mang.
Mộ Ngôn lại giục: “A Phất?”.
Tôi lặng lẽ nhìn chàng: “Đối hoa đối tửu, lạc mai thành sầu, thập lý trường đình thủy du du”(*).
Vốn tưởng như vậy coi như hòa giải, hòa giải như vậy thực ra rất tốt, kết quả khi Mộ Ngôn vừa viết xong đề từ, thì đại phu đến tìm, sau lưng có một cô gái đi theo, tự xưng là nha đầu ở Trích Tiên lầu hầu hạ Liên Tinh cô nương, phụng mệnh cô nương đến mời Mộ công tử lại phủ hàn huyên.
Mộ Ngôn cuộn bức tranh, theo cô gái đi ra, đến cửa ngoái lại nói: “Tôi đi một lát về ngay”.
Tôi vốn đã nghĩ, cứ nhịn cho xong, bèn cố nhịn, nhưng một lần nữa không nhịn được: “Huynh đi luôn đi không cần quay lại nữa!”.
Cô gái đứng bên che miệng cười. Chàng dường như cảm thấy nực cười: “Lại giận gì thế, tôi đi làm chính sự, từ trước đến giờ chẳng phải rất…”, chàng nghĩ một lát, dùng từ “ngoan”, “… sao mấy ngày nay động tý là nổi cáu?”.
Tôi nghĩ, thì ra chàng đã bắt đầu chê bai tôi, quả nhiên vừa rồi quyết định chủ động rời xa chàng là đúng, nhưng trong lòng lại thấy tủi thân, buồn bã ngoảnh đầu đi.
Còn chàng dừng ở cửa một lát, không nói gì nữa, quả quyết đi theo cô gái. Người tôi thích thực ra chẳng hề quan tâm đến tôi, trước đây tôi nghĩ chỉ cần được ở bên chàng, chỉ cần được nhìn thấy chàng là vui rồi, bởi vì chàng không thích tôi, cũng không thích người khác ngay trước mặt tôi, nhưng bây giờ sự thể đã thế này, tôi ngắm nhìn bàn tay mình, mọi chuyện chẳng có ý nghĩa gì hết.
Tôi gục đầu xuống bàn, mặc cho nỗi buồn xâm lấn, lát sau cố nghĩ lại những chuyện vui để thay đổi tâm trạng, nửa canh giờ sau cảm thấy dễ chịu hơn.
Mộ Ngôn có cuộc sống riêng của chàng, tôi có cuộc sống riêng của tôi, còn tôi nên cùng với Quân Vỹ, thầm nghĩ, có nên đi tìm Quân Vỹ, vừa ngẩng đầu, đã giật nảy người, ôm ngực rất lâu, mãi mới cất tiếng chào người vừa đi đến: “Oanh Ca cô nương, cô không sao chứ?”.
Từ sau khi cô bỏ đi, tôi đã nghĩ sau này sẽ khó gặp lại, không biết hôm nay cô chủ động đến đây là có việc gì, chỉ cảm thấy trông cô có gì rất khác so với cô gái áo tím gặp ban đầu, lúc đó trong mắt cô có ánh sáng, lúc này hoàn toàn trống rỗng.
Cô nhìn tôi như thể không nghe thấy lời tôi, không biết bao lâu sau nới chậm rãi nói: “Tôi nghe nói thánh nhân không nói chơi, tôi đã gặp một thánh nhân, ông ta kể với tôi một số chuyện, nhưng tôi lại không tin những chuyện đó là thật. Ông ta nói cô là người duy nhất có thể giúp tôi, dùng ảo thuật của cô có thể nhìn thấy những gì người đời không nhìn thấy, những gì tôi muốn biết cô đều có thể giúp tôi nhìn thấy hết, ông ta bảo tôi đến tìm cô”.
Ánh mặt trời rọi qua cửa sổ, tôi đoán được điều cô muốn, nhưng không biết mình có đoán đúng, dừng lại một lát, tôi chống tay lên trán hỏi cô: “Cô muốn biết điều gì?”.
Môi cô động đậy: “Tôi muốn biết về phu quân của tôi”, lời chưa dứt đã nghẹn ngào, nhưng lập tức kiềm chế, “… muốn biết tại sao chàng bỏ tôi, bây giờ, chàng ở đâu?”.
Ngoài dệt mộng cảnh, Hoa Tư dẫn còn có công năng đó, có thể nhìn thấy quá khứ của người khác khi người đó không có mặt, nhưng nhất định phải có một vật mà người đó rất yêu thích làm vật dẫn cùng với máu của tôi, như vậy đánh bất cứ khúc đàn nào cũng không quan trọng.
Có điều dẫu phải dụng công như vậy, quá khứ nhìn thấy cũng chỉ là một ý nghĩ, một quá khứ của người đó liên quan tới vật dẫn. Giống như tôi muốn nhìn thấy quá khứ của Mộ Ngôn, lựa chọn dùng cây đàn của chàng làm vật dẫn, ngâm trong máu của tôi hai canh giờ, trong một không gian khép kín, dùng cây đàn đó đánh bất cứ khúc nào, trong không gian sẽ hiện ra cảnh tương tri, tương ngộ, và mọi cảnh liên quan của chàng với cây đàn kia, nhưng ngoài cái đó cũng không thể biết gì hơn.
Hơn nữa làm vậy rất hao tổn nguyên khí, lại không giống Hoa Tư mộng có thể giúp tu luyện viên giao châu, trái lại chỉ tiêu hao pháp lực của viên giao châu mà thôi, một lần tiêu hao pháp lực của viên giao châu tôi phải đổi hai năm sinh mạng của mình .
Chuyện này khiến tôi không thể không cân nhắc, thâm tâm tôi cũng thông cảm với cô, nhưng bản thân tôi cũng có nỗi khổ riêng, tôi đắn đo đưa ra đề nghị: “Cô muốn tôi dùng pháp thuật giúp cô, tôi không biết như thế có thể gọi là giúp hay không, bởi vì pháp thuật mà tôi làm được chỉ có thể là cô phải hiến thân mình cho tôi, tôi sẽ dùng xương cốt của cô làm thành cây cổ cầm, dùng cây cổ cầm đó đánh ra mộng cảnh, tái hiện quá khứ của cô và phu quân. Trong mộng cảnh đó cô sẽ nhìn thấy tất cả quá khứ của cô và phu quân liên quan tới cây cổ cầm, nếu phu quân cô hiện còn sống, tôi sẽ tặng chàng cổ cầm đó, nếu chàng đã chết, tôi sẽ táng cô cùng với chàng, để hai người mãi mãi bên nhau, nếu cô bằng lòng, tôi sẽ giúp”.
Khuôn mặt Oanh Ca vốn trắng bợt, lại càng trắng bợt hơn, đôi mắt đen đã hoàn toàn thất thần. Phải, có ai bằng lòng dùng tính mạng đi đổi lấy một kết cục chưa biết. Tôi đứng lên: “Oanh Ca cô nương, xin lỗi tôi không tiễn…”.
Lời chưa dứt, cô đã cắt ngang: “Tôi bằng lòng”.
Tôi ngẩng lên: “Cô nói gì?”.
Hai tay cô ôm trán, giọng lạnh lùng cố trấn tĩnh nhưng vẫn run run: “Gần đây, tôi thường nghĩ mình giống một mầm cây cố bật lên khỏi đất, muốn tìm một cây khác leo bám, nhưng không sao tìm được, lại không biết làm thế nào trồng lại mầm cây đó. Chỉ có thể cảm thấy rễ mình đang bắt đầu khô héo, dần dần khô héo từ thân tới lá, có lẽ sắp chết. Cô không biết cảm giác chết khô dần dần như thế nào đâu. Trước đây tôi cũng không biết”.
Cô dừng một lát, bình tĩnh lại, “Nếu quả thực có thể dùng thân tôi làm thành cây đàn thì quá tốt, sẽ tốt hơn chết khô dần dần, lại còn được ở bên chàng, cũng không cần chạy khắp nơi, chạy khắp nơi tìm chàng nữa”.
Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy Oanh Ca nói dài như thế, nhẹ nhàng hơn, nặng nề hơn bất cứ câu nào cô từng nói trước đây. Tôi lặng lẽ nhìn cô, lát sau, nói: “Tôi đùa cô đấy, tóc cô rất dài, rất đẹp, tôi không cần xương cốt của cô, chỉ cần đưa tôi mái tóc, tôi sẽ dùng nó làm dây đàn cũng có thể làm được cây đàn tôi muốn”.
Sau đó cần một gian mật thất, một chiếc đàn không dây, một cái bát, một con dao.
Hai canh giờ sau, tôi vớt tóc Oanh Ca khỏi bát máu, tẽ ra trên lòng bàn tay giống như dải lụa đỏ dùng để may áo cưới.
Những giọt máu li ti đậu chắc trên sợi tóc, dù đem giũ cũng không rơi, tôi se chúng thành bảy sợi dây đàn, lắp vào cây đàn gỗ phong, những dây đàn màu đỏ óng ánh dưới ánh nến.
Sở dĩ cần một gian mật thất là bởi vì nếu đang làm có người quấy rầy tất cả sẽ uổng công, làm lại từ đầu cũng không dễ bởi vì tôi vẫn còn máu, nhưng tóc Oanh Ca không thể mọc nhanh như vậy.
Đang lúng túng thì cửa phòng bị gõ nhẹ hai tiếng, từ cách gõ cửa có thể đoán khách là ai, tôi lững thững ra mở cửa, đột nhiên sực nhớ vấn đề có thể giải quyết, vội bước nhanh ra mở then cửa, Mộ Ngôn đứng ngoài, ánh mắt dừng lại sau lưng tôi, nhìn một lượt rồi lại nhìn tôi: “Đang làm gì vậy?”. Tôi liếc chàng, cắn môi ngoảnh mặt sang bên: “Cho chàng cơ hội lập công chuộc tội, được không?”.
Mộ Ngôn lắc đầu, “Không cần!”. Tôi chặc lưỡi, lườm chàng: “Người ta chủ động giảng hòa còn làm bộ!”. Chàng thở dài: “Thôi được!”.
Có Mộ Ngôn đứng canh, căn phòng tối đã thăng lên thành mật thất, tôi hoàn toàn yên tâm.
Vừa bấm phím đàn, đã thấy Oanh Ca chấn động, dây đàn dệt bằng tóc Oanh Ca gửi gắm tất cả thần thức của Dung Viên về cô, những mảnh quá vãng cô không chỉ có thể nhìn thấy, còn hiểu được Dung Viên nghĩ gì, tôi là người đánh đàn đương nhiên cũng biết.
Trên tầng không dần xuất hiện cảnh trong điện Chiêu Ninh đêm tân hôn, bên ngoài điện những cánh hoa lê mỏng manh bay trong tuyết, anh đào y hẹn cũng ra hoa. Lần trước chúng tôi cũng nhìn thấy cảnh này nhưng không biết Dung Viên nghĩ gì, lần này có thể hiểu ý nghĩ của Dung Viên từ ánh mắt đầu tiên nhìn thấy Oanh Ca.
Lần đầu nhìn thấy Oanh Ca, Dung Viên không biết cô gái xiêm y màu tím ngồi bên mép giường cúi đầu vuốt ve con báo gấm không phải là người chàng muốn cưới. Chuyện đó cũng không có gì lạ, ấn tượng của chàng về Cẩm Tước thực ra rất mờ nhạt, trên bãi săn cũng không nhìn kỹ, chỉ nhớ khi đưa con báo gấm bị thương cho chàng tay cô run run. Bàn tay thon thả trắng ngần không có dấu vết đao kiếm, không phải thích khách.
Cho dù Oanh Ca và Cẩm Tước không giống nhau, chàng cũng chưa hẳn nhận ra, sở dĩ lấy Cẩm Tước là chẳng qua là do Vương thái hậu nghe một thầy bói thân tín nói, trong buổi đi săn hôm đó chàng sẽ gặp một người con gái trong định mệnh của chàng.
Còn mãi đến đêm tân hôn, từ khoảng cách nửa điện Chiêu Ninh chàng mới lần đầu nhìn kỹ cô gái sẽ trở thành phu nhân của mình. Cô có hàng lông mày thanh dài, đôi mắt đen thẳm, dưới ánh nến đầy vẻ ấm áp dịu hiền, nhưng lại ngấm ngầm tỏa ra hàn khí, giống như món bánh tráng miệng bằng kem trong yến tiệc, lớp nước mai chua hoa quế rưới bên ngoài khiến món bánh trông như bốc hơi nghi ngút, nhưng bên trong lại là lớp lớp kem lạnh.
Chàng nắm tay cô, nhìn thấy vẻ hoảng loạn vừa lóe lại tắt trong mắt cô, đoán là cô sợ, nhưng đó là vẻ sợ hãi có bản lĩnh, cơ thể cứng đờ là phản kháng, nhưng tay lại không có ý vùng ra, cố tỏ ra nhu mì phục tùng nhưng lại không biết nhu mì phục tùng thật sự không phải là trấn tĩnh chấp nhận, mà là hoàn toàn tự nhiên bộc lộ nỗi bất an trong lòng.
Thân là quân vương, chàng chưa gặp một cô gái nào mà vẻ ngoài và nội tâm lại mâu thuẫn như vậy. Khi chàng hôn, cô cũng vẫn mở to mắt, đó là một đôi mắt rất đẹp, đen thẳm khi chăm chú nhìn chàng. Sau đó chàng nhìn thấy ánh nước hiện ra trong đôi mắt đó, ngón tay chàng vuốt ve đuôi mắt cô, bỗng như vừa chạm vào nguồn nước, cô bật khóc.
Cô khóc cũng tốt, trong khoảnh khắc đó chàng cảm thấy thích bộ dạng này của cô hơn, giống như khuôn mặt mất đi lớp phấn son che phủ, mọi bi hoan lộ ra chân xác nhất.
Mắt cô đỏ hoe, như có nỗi tủi rất lớn, lòng căng thẳng lại cố làm ra vẻ ung dung, nhìn thật đáng thương. Chàng an ủi cô, “Nếu sợ thì ngủ đi”, lời vừa dứt, cô đã xiêm áo lộ nửa người ngồi lên người chàng.
Trong chuyện này, chàng chưa bao giờ ở thế hạ phong, bản năng muốn nhổm dậy lấy lại quyền chủ động, vì nghĩ cô gái trên người trói gà không chặt, lực khí đã giảm đi nhiều, nhưng cũng đủ đảo vị trí lật cô xuống dưới. Nhưng sự thực là chàng không dậy nổi, nhưng vẫn cảm nhận được tấm thân áp vào mình đang run rẩy thế nào. Chàng nghĩ cô nhất định rất căng thẳng, căng thẳng đến mức không nhận ra một nữ nhi yếu ớt sao có thể bạo phát lực khí lớn như vậy.
Tóc cô rất dài, bàn tay nuột nà, óng mịn không có bất kỳ dấu vết nào, ngay bảy vị phu nhân xuất thân quý tộc chính thống trong hậu cung cũng không bằng. Nhưng trừ hài nhi mới sinh, ai có thể có đôi bàn tay không dấu vết như vậy, huống hồ nghe nói ở Dung phủ cô rất thích làm việc nhà.
Tóc cô quệt vào tai chàng nhồn nhột, chàng nghe thấy giọng cô: “Nhất định có ngày như thế này với bệ hạ, chi bằng ngay đêm nay, bệ hạ thấy có đúng không?”. Chàng thầm nghĩ cô gái này thật yếu đuối cũng thật kiên cường, vừa âm thầm nhẫn nhịn vừa gan góc đương đầu.
Đội quân ngầm không phải nuôi chơi, chuyện này rốt cuộc thế nào lập tức được làm rõ. Kết quả như dự đoán, thì ra Cẩm Tước không phải là Cẩm Tước mà là Oanh Ca, sát thủ Thập Tam Nguyệt, chàng nghĩ đến người cháu của mình, xưa nay vốn hành xử tỉ mỉ cẩn trọng nhất lại có thể không hiểu một điều, giấy sao bọc được lửa. Thà mắc tội khi quân cũng không chịu đưa Cẩm Tước thật vào cung, tất là yêu quý vô chừng. Từ cổ chí kim, các bậc minh quân, thánh chủ tối kỵ tranh giành với hạ thần hai thứ, một là tài sản, hai là đàn bà.
Chàng chậm rãi ngẩng đầu khỏi trang sách, liếc thị vệ đang quỳ dưới đất: “Hôm nay quả nhân không nghe thấy gì”. Thị vệ trẻ thật thà cúi đầu: “Bệ hạ nói phải, hôm nay thuôc hạ cũng không bẩm báo gì”. Chàng gật đầu, ý bảo lui ra, khi thị vệ ra đến cửa chàng lại gọi: “Vừa rồi ngươi nói, Dung Tầm làm thế nào xóa hết mọi vết sẹo trên người khi cô ta làm sát thủ?”.
Thị vệ ngập ngừng, mặt lộ vẻ xót xa: “Tâu bệ hạ, thay da”, nước trà trong cốc sánh ra rơi trên sách, chàng cúi đầu nhìn những dòng phê chú bằng mực đỏ ngấm nước trà lan ra, thầm nghĩ lúc đó nhất định cô ấy rất đau.
Đêm đó, phê xong chồng tấu chương trước án đã gần canh ba. Chàng không buồn ngủ, thong thả men theo Dụ Cảnh viên đi dạo, bất giác đi tới điện Chiêu Ninh lúc nào không hay, cả ngôi điện lớn phía đông hầu như không có bóng người, vắng vẻ cô quạnh, trước cửa điện có hai cây anh đào, một tiểu thái giám ngủ gật dưới gốc cây.
Trong điện có ánh đèn, chàng thong thả đến gần, cách năm bước liền dừng lại, tiểu thái giám thức giấc định hô báo, chàng ngăn lại. Từ chỗ đứng có thể nhìn qua ô cửa sổ chạm hoa văn quên chưa đóng, thấy cảnh trong phòng, Oanh Ca vẫn xiêm áo màu tím co gối ngồi trước ngọn đèn nhỏ, tay cầm quả cầu bằng lông khổng tước xoay xoay ngắm nghía dưới ánh đèn.
Một quả cầu như thế đứa trẻ nào hồi nhỏ chẳng được chơi, cho dù không phải làm bằng lông chim khổng tước nhưng niềm vui cũng như nhau. Chẳng có gì lạ, nhưng cô cầm quả cầu như cầm một vật quý, lặng lẽ nhìn hồi lâu, sau đó tung lên cao, ống tay áo phất lên làm ngọn đèn chao đảo, khi quả cầu rơi xuống cô đã đứng lên, khẽ nâng đùi dưới chiếc váy sát đất, quả cầu ngũ sắc bay vọt từ dưới lên theo đường cánh cung, vút thẳng lên sà ngang, cô nghiêng đầu ngắm nghía, đột nhiên bật cười, trông rất đỗi thơ ngây.
Quả cầu lại từ từ rơi xuống trúng đầu gối, cô hất nhẹ, lại bay lên không, cô xoay người muốn đón bằng gót chân, nhưng “bốp” một tiếng, quả cầu đã rơi xuống đất. Chàng lặng lẽ nhìn, lúc này cô đang ngạc nhiên ngoái đầu, mắt mở to nhìn quả cầu trên nền đất, vẻ mặt nghiêm túc đến buồn cười, nhìn một lát mới mấp máy môi gọi hầu nữ, đứng dưới bóng cây bên ngoài chàng nghe thấy cô nói với người hầu: “Đem vứt cái này đi”.
Cô hầu ngạc nhiên: “Vứt đi, phu nhân nói không cần nữa sao?”. Cô trở gót đi vào trong: “Vứt đi, nó không thích ta, ta cũng không thích nó”.
Đèn trong cung đã tắt, bên tai lại vẳng lên những lời thuộc hạ bẩm báo về quá khứ của Oanh Ca, cô được nuôi lớn, học giết người, sống đến hai mươi tuổi trong ánh đao ánh kiếm, bị thương, bị Dung Tầm vứt bỏ, cuối cùng bị coi là vật thế thân vào cung thay cô em thế nào, từng đoạn trường thuộc hạ đều nói rõ.
Chàng không sành đánh giá vẻ đẹp của phụ nữ, nhưng cảm thấy khi Oanh Ca đá cầu dưới ánh đèn vừa rồi nhẹ nhàng như con bướm tím chao lượn, duyên dáng như tiên nữ du xuân. Dặn dò tiểu thái giám mấy câu, chàng trở bước, theo đường cũ quay về, gió thu hiu nhẹ, hải đường chớm trổ hoa. Chàng thầm nghĩ Dung Tầm đã ngốc khi vứt bỏ cô, nhưng đưa cô vào cung hóa ra lại tác thành cho mình, đây quả là duyên phận.
Không phải vừa gặp đã yêu, từ thương xót đến yêu chỉ vẻn vẹn ba ngày, có thể người đời sẽ nghĩ ba ngày quá ngắn, nhưng có thể người ta chưa hẳn biết, đối với mối tình định mệnh, một cái nhìn cũng là dài, huống hồ ba ngày, huống hồ nhiều cái nhìn như vậy, chàng xót xa yêu.
Chuyện sau đó như đã nhìn thấy trong giấc mơ của Oanh Ca. Dung Viên hỏi cô có biết tình yêu của bậc quân vương là gì, cô trả lời, tình yêu của quân vương rộng lớn như hải hà, ân trạch ban khắp nơi, chàng không tán thành, như vậy sao có thể gọi là yêu, đó chỉ là bổn phận của quân vương đối với muôn dân.
Chàng không giống những bậc quân vương chỉ ban ơn mưa móc. Ở ngôi cao thường lạnh, hiểu cô, chàng muốn có cô bên mình, vị trí đó ba người quá chật, một người quá cô đơn, chàng chỉ muốn con người duy nhất đó, con người vừa yếu đuối vừa kiên cường, vừa âm thầm nhẫn nhịn, vừa gan góc đương đầu, từng là sát thủ, nhầm lẫn vấp váp thế nào cuối cùng trở thành người của chàng.
Chàng biết cô muốn bỏ đi, tìm mọi cách giữ cô lại, ngoài tự do những gì cô muốn chàng đều có thể cho cô. Chàng cũng biết, con người cô đã phủ lớp băng dày, cho dù được tự do, cô cũng không thể sung sướng, quá khứ đớn đau khiến cô ngay cả khi khóc cũng không biết khóc thật lòng.
Chàng muốn trân trọng cô, muốn cô sung sướng vô lo, giống mọi cô gái nhỏ thơ ngây không bận tâm thế sự, để chàng nâng niu trong lòng bàn tay.
Chàng đã tính xong tất cả, nhưng lại sơ suất quên một điều, đó là số mệnh. Trong kế hoạch của chàng, cô sẽ chung sống lâu dài bên chàng, chàng sẽ bảo vệ cô, giống như bảo vệ mỗi tấc đất của lục địa dưới chân, khi trăm tuổi họ sẽ nằm trong một chiếc quan tài, dẫu trong lăng tẩm lạnh lẽo, hai người cũng không cô đơn.
Nhưng khi số mệnh đến chàng mới thấy cuộc đời mình không dài như đã nghĩ, nói chi đến trăm năm.
Dung Viên sinh thiếu tháng, lúc nhỏ nhiều bệnh tật, phụ thân chàng đã mời danh y khắp nơi, đa phần dự đoán tiểu công tử nếu được chăm sóc chu đáo có thể sống qua tuổi mười tám, nếu muốn sống lâu hơn, chỉ có cầu xin ông trời.
Lão Trịnh hầu vương không còn cách nào khác, dứt khoát đưa chàng đi học đao thuật, mong qua đó có thể bồi dưỡng tăng cường sức khỏe. Không biết cơ duyên thế nào, ở chỗ sư phụ dạy đao thuật, chàng lại gặp thánh dược Bách Lý Việt người vốn thoắt ẩn thoắt hiện, không biết bằng cách nào vị thánh dược đó đã chữa khỏi mọi bệnh tật hồi nhỏ của chàng, từ đó cả Trịnh vương thất tôn Bách Lý Việt là thượng khách.
Từ khi lãoTrịnh hầu qua đời, tám năm chàng không gặp lại Bách Lý Việt, lần gặp lại chính là vào dịp cuối năm khi Oanh Ca được phong Tử Nguyệt phu nhân. Bạn vong niên tái ngộ, câu đầu tiên Bách Lý Việt sắc mặt nghiêm trọng, hỏi: “Một năm trở lại đây bệ hạ có bị trúng độc gì không?”.
Đến nước này chàng mới hiểu, chất độc chàng bị ngấm từ móng vuốt con báo gấm khi chàng chế ngự nó trong đêm trừ tịch năm trước mặc dù không phải là chất kịch độc, nhưng với riêng chàng lại là đòn chí mạng. Thì ra, năm xưa Bách Lý Việt trị bệnh cho chàng dùng rất nhiều độc vật để luyện thuốc, vạn vật tương sinh tương khắc, một khi đã dùng những thuốc đó, cả đời tuyệt đối không thể chạm đến ba cây thuốc là, tử quỳ vân anh, tương mộ cúc, đông hoặc thảo. Nghe đồn trên đất Cửu Châu này đông hoặc thảo đã tuyệt diệt, người thiên hạ không biết hình dạng thế nào, tính chất ra sao, nhưng chất độc bôi vào vuốt con báo lại chứa không ít đông hoặc thảo.
Ngự Cẩm viên lạnh giá, mái hiên cong của Dung Nguyệt cung thấp thoáng dưới tán cổ thụ, chàng nhìn đăm đăm về hướng đó hồi lâu, thong thả hỏi Bách Lý Việt: “Quả nhân còn sống được bao lâu?”.
“Khoảng ba tháng nữa bệ hạ bắt đầu thổ huyết, một năm sau…”.
“Một năm sau?”.
“… sẽ thổ huyết mà qua đời”.
Mặt chàng tái nhợt, giọng vẫn bình thản: “Ngay cả tiên sinh cũng bó tay sao?”.
Bách Lý Việt là thánh dược, không phải là thần. Đông hoặc thảo vào cơ thể chàng đã gần một năm, không thể hóa giải. Lần đầu tiên chàng tự dối mình, hy vọng thánh dược Bách Lý Việt chưa bao giờ nhầm lần này sẽ nhầm, chàng chẳng trúng độc đông hoặc thảo, hạ hoặc thảo nào hết, chỉ là cơ thể hư yếu sau chấn động mà thôi.
Mãi đến ba tháng sau, trong khi chàng đang phê duyệt tấu chương, bất ngờ thổ ra huyết, chàng mới tin cái gọi là số mệnh, tính chàng vốn lạnh, xưa nay hỷ nộ không thể hiện ra ngoài, đêm hôm đó chàng đã nổi cơn thịnh nộ, đập nát mọi thứ trong ngự thư phòng. Nhưng sự đã thế, đành thu xếp hậu sự.
Mười ngày sau, chàng hạ lệnh giam Oanh Ca ở núi Đình Hoa với tội khi quân để ăn năn sám hối, ngày hôm sau ra chiếu bố cáo với thiên hạ Tử Nguyệt phu nhân lâm bệnh qua đời. Bách Lý Việt chơi cờ với chàng, cầm lên một quân trắng, nói: “Đến ngày cuối, nhớ lại hôm nay, nhất định bệ hạ sẽ hối hận”.
Nhưng không còn cách nào tốt hơn, chàng nghĩ, sau khi chàng quy thiên, Oanh Ca chỉ có hai con đường, một là tuẫn táng theo chàng, hai là cô quả một mình trong thâm cung. Nếu để cô lựa chọn, với tính cách của cô nhất định Oanh Ca sẽ tự đâm vào ngực mình trước long sàng của chàng. Con người cô tưởng chừng phức tạp nhưng thực ra rất đơn giản, yêu một người là sống chết cùng nhau, còn giả sử đêm đó khi nhìn thấy cô chàng không thích cô, liệu Oanh Ca có thể sống tốt hơn?
Chàng giam cô mười năm, Đình Hoa sơn cách biệt thế gian, mười năm sau cô sẽ quên chàng, mặc dù tuổi xuân không còn, cô vẫn có thể tự do sống cuộc sống ngày xưa cô muốn. Còn việc giao giang sơn này vào tay ai, bằng cách nào, chàng sẽ tự cân nhắc.
Mấy ngày sau trong cung có tin truyền ra, Hồng Châu phu nhân có tin vui, nói là Bách Lý Việt đích thân xem mạch, chẩn đoán là con trai.
Hồng Châu phu nhân có tin vui là thật, nhưng không phải cốt nhục của chàng, đã hơn hai năm chàng không gặp Hồng Châu phu nhân, đứa trẻ đó là của phu nhân với một thị vệ thân tín của cô ta. Bách Lý Việt xem mạch chẩn đoán là đúng, chàng đích thân đưa thánh dược đến am Phương Trúc, Hồng Châu phu nhân quỳ dưới đất run lẩy bẩy, thị vệ dan díu với phu nhân bị xử tử ngay trước mặt cô ta.
Hai tin đầu trong lời đồn là thật, nhưng chẩn đoán hài nhi là trai lại đầy hồ nghi, đương nhiên cho dù Bách Lý Việt y thuật cao siêu, cũng tuyệt đối khó có thể biết đích xác hài nhi chưa thành hình rốt cuộc là trai hay gái, nhưng do chính miệng Bách Lý Việt nói ra mọi người ai cũng tin, mà như vậy là đủ. Chàng chỉ muốn quần thần đều hiểu, chàng sắp có một người nối dõi, sau khi chàng băng hà người thừa kế ngôi Trịnh hầu vương sẽ không phải là Dung Tầm, nhất là để cho Dung Tầm hiểu.
Bách Lý Việt đắn đo: “Đây vốn là đại sự của Trịnh quốc không liên quan đến hạ thần, nhưng bệ hạ đã định nhường ngôi cho Dung Tầm sao lại sắp đặt như vậy để ép ông ta soán vị cướp ngôi?”. Chàng nhấc chén trà lên, dung sắc lạnh lùng: “Nếu quả nhân có thể thọ trăm tuổi, nếu Tử Nguyệt phu nhân có thể sinh cho quả nhân người nối dõi, ông cho là Dung Tầm sẽ nhẫn nhịn đến lúc nào mới chống lại quả nhân? Dung Tầm có tài trị quốc, nhưng quá dã tâm, nuôi hắn như nuôi mãnh hổ, quả nhân từng nghĩ có đủ thời gian mài bớt móng vuốt của hắn, hôm nay…”. Chàng cau mày, hừ một tiếng, đặt chiếc chén trà trở lại bàn, “Quả nhân đã nhường ngôi cho hắn, lẽ nào lại tặng hắn cả Tử Nguyệt?”.
Đây là thâm ý của chàng. Chàng biết Dung Tầm có tình với Oanh Ca, chuyện của mười năm sau chàng đã không thể nhìn thấy, nhưng chàng biết chỉ cần hôm nay Dung Tầm bức cung chống lại chàng, sau này Dung Tầm không thể có Oanh Ca.
Bách Lý Việt ngạc nhiên: “Bệ hạ đã không muốn Tử Nguyệt phu nhân tuẫn táng, muốn phu nhân được sống, cũng nên lường trước có ngày phu nhân lấy người khác”.
Chàng nhìn phía chân trời: “Lấy ai cũng được, Dung Tầm không được”.
Lần cuối cùng gặp Oanh Ca là trên đường trường hoang vắng vào một đêm có sao. Nghe tin cô trốn khỏi Đình Hoa sơn, chàng vô cùng lo lắng, không biết cô có bị thương, lấy cớ bị bệnh, chàng hủy bỏ mấy buổi thiết triều, mang theo thị vệ vội vã rời cung. Không biết đi bao nhiêu dặm, cuối cùng nhìn thấy Oanh Ca mình đầy thương tích đứng trước mặt chàng, tay cầm đao, mặt tái nhợt, gấu váy loang lổ máu.
Chàng nghĩ, chàng nên bất chấp tất cả kéo cô vào lòng, nhưng sao có thể. Cô đau đớn hỏi chàng: “Sao thiếp có thể tin chàng như vậy, những người trong vương thất đâu có hiểu sự quý giá của nhân tâm”.
Chàng nhìn mái tóc rối tung của cô, nước mắt tràn ra từ những ngón tay đè trên mắt, từng giọt lớn lăn xuống, răng cắn chặt vào môi, chàng muốn nói câu gì, nhưng máu đã ứ trong miệng, nỗi đau của cô là vũ khí lợi hại nhất có thể đối phó với chàng. Nhưng chàng vẫn đưa cô về núi.
Nhìn bóng cô đi xa dần dưới ánh trăng, chàng muốn gọi tên cô, Oanh Ca, Oanh Ca, cái tên đó đã vang trong lòng chàng cả trăm, cả ngàn lần, nhưng chưa một lần thốt ra trước mặt cô.
“Oanh Ca”. Chàng khẽ gọi. Nhưng cô đã đi xa.
Không lâu sau, Dung Tầm quả nhiên bức cung. Trận cung biến diễn ra lặng lẽ và mau lẹ, bởi vì chàng không định kháng cự. Như lời đồn, Dung Tầm hùng hổ áp trường kiếm vào cổ chàng, khàn giọng hỏi: “Tôi trao nàng nguyên vẹn cho thúc, tại sao thúc lại giày vò nàng tan nát?”.
Còn chàng hơi ngẩng đầu, lạnh lùng: “Dù có nát, Tử Nguyệt cũng nên nát trong lòng ta”. Kiếm của Dung Tầm rung rung, ép vào cổ chàng lộ ra vệt máu nhỏ, chàng lại không để ý: “Bao nhiêu năm qua, những việc ngươi làm có hai việc khiến ta hài lòng nhất, một là trao Tử Nguyệt cho ta hai năm trước, hai là bức cung hôm nay”.
Dung Tầm nhìn chàng rất lâu, toàn thân như rã rời, lát sau cay đắng nói: “Nàng ra đi thế nào, có phải chịu đau đớn không?”.
Chàng cười nhạt: “Cho dù đau đớn, cuộc đời này còn đau đớn nào nàng không chịu được”.
Sau đó Dung Viên nhường ngôi, Dung Tầm lên ngôi. Sau khi nhường ngôi, Dung Viên lánh về dưỡng bệnh ở hành cung Đông Sơn, đó là vào tháng năm khi mùa hoa anh đào đã tàn. Tất cả đều được chép vào sử, thời đại thuộc về Trịnh Cảnh hầu đã trôi qua, để lại cho hậu thế hai trang giấy mỏng.
Năm sau, khi hoa anh đào nở tràn trên núi, cái ngày cuối cùng mà Bách Lý Việt nói cuối cùng đã đến, tôi có thể biết bởi vì máu trên dây đàn từng giọt nhỏ xuống theo ngón tay tôi, chứng tỏ cảnh đã kết thúc.
Trước mắt là suối nước nóng màu ngọc bích bốc hơi ngùn ngụt, phía sau là một rừng hoa anh đào. Đông hoặc thảo cơ hồ không giày vò Dung Viên bao nhiêu, ít nhất thần sắc vị quân vương xem ra khá tốt, chỉ có thân hình hơi tiều tụy, nhưng đây là ngày cuối cùng, khí sắc khác thường đó có lẽ là hồi quang phản chiếu.
Ánh nắng cuối cùng của ngày tàn hắt ra dệt thành dải lụa đỏ ối ở chân trời, cả rừng anh đào sau suối nước nóng sáng rực như tuyết đỏ.
Chàng lơ đãng sai tiểu đồng đằng sau: “Hôm nay ta khỏe ra nhiều, đi lấy cho ta cuốn sách, ta muốn tắm suối nước nóng”.
Tiểu đồng nhanh nhẹn chạy về phía thư phòng. Chàng khép tà áo bước xuống hồ nước, tựa vào bờ, lấy trong ống tay áo ướt một con xúc xắc xinh xắn. Con xúc xắc Oanh Ca tặng chàng vốn đã bị bóp vụn, lẫn vào gió đêm trên đường trường hoang vắng, giờ đây trong buổi hoàng hôn đỏ ối này lại lặng lẽ nằm trong bàn tay chàng.
Chàng chăm chú nhìn nó, đôi mắt đen dường như lấp lánh xuân tình, ngọt ngào êm lắng, một lúc lâu sau, chàng nắm chặt tay, nhắm mắt mỉm cười. Một con chim đâu đó bỗng kêu một tiếng, rừng anh đào phía sau đột nhiên bốc cháy, thế lửa rùng rùng như mãnh hổ nhanh chóng lan ra, rừng cây cháy nổ lép bép, hoa anh đào màu đỏ nhảy múa trong biển lửa, giống như vô vàn con bướm hồng, lửa chiếu sáng khuôn mặt tuấn lãm khác thường của Dung Viên, nhưng trong làn hơi nóng cuồn cuộn, đôi mắt chàng không mở ra nữa.
Khi Oanh Ca lao đến, cơ thể Dung Viên tựa bờ hồ trượt dần xuống nước, toàn thân run rẩy, cô muốn ôm chàng, không để chàng trượt xuống, nhưng lại quên rằng núi này, lửa này, hoa anh đào này, hồ nước này, bao gồm cả Dung Viên đều đã là quá khứ được tôi tái hiện bằng cây thất huyền cầm làm bằng tóc của cô.
Hàng lông mày đen như mực, đôi mắt nhắm nghiền, sống mũi cao, đôi môi mỏng, tất cả từ từ chìm xuống nước, mặt nước dềnh lên một chút rồi trở lại phẳng lặng, tịch mịch chỉ còn lại rừng anh đào trên núi cháy ngợp trời, còn Oanh Ca đứng lặng nhìn mặt hồ yên ả trước mắt, lát sau, vai rung rung, bật khóc đau đớn như một con thú nhỏ cô đơn.
Khung cảnh dần biến mất, Dung Viên quả thực đã chết.
Đó là toàn bộ câu chuyện, Oanh Ca ít nhiều đoán được nhưng vẫn không muốn tin.
Nhìn lại, mối thâm tình này tựa như một làn pháo hoa, nở bừng sáng rực rồi lập tức phai tàn, cuộc đời Dung Viên quá ngắn ngủi, chàng quyết dùng cách riêng của mình để bảo vệ cô, đó chính là tình yêu của bậc quân vương như chàng nói.
Trong thời loạn thế, trên đại lục rộng lớn này có bao nhiêu vương cung, trong đó âm thầm chôn vùi bao nắm xương khô của những bậc hồng nhan, vậy mà lại chứng kiến một mối thâm tình như vậy, giống một đóa hoa duy nhất nở trong đêm tối mênh mông đột nhiên bị gót sắt của số mệnh giẫm đạp, vẫn kiên cường nảy mầm đâm rễ.
Oanh Ca ngất đi trong cảnh đêm tối tiêu tan, Mộ Ngôn đỡ cô lên chiếc giường nhỏ bên cạnh, cúi đầu nhìn tôi.
Những giọt máu từ phím đàn nhỏ xuống nhuộm đỏ cây đàn gỗ phong, tôi trở tay nhìn ngón tay mình, mới phát hiện ngón tay tôi cũng loang lổ máu. Giống như năm xưa nhảy từ trên tường thành xuống, cảm giác từng tấc từng tấc sinh mệnh mình mất đi, muốn đứng lên nhưng không còn sức lực. Đây là lần đầu tiên tôi nhận thức rõ không có tính mệnh viên giao châu ban cho, tôi chỉ là một cái xác tàn.
Giọng Mộ Ngôn từ trên vọng xuống: “Một vũng máu lớn thế này, làm sao đây?”.
Ngẩng đầu như vậy nhìn chàng hơi khó khăn, tôi mấp máy môi, ý bảo chàng ngồi xuống.
Chàng ngồi xuống bên tôi, sắc mặt đột nhiên rất khó coi: “Là máu của cô hay của Oanh Ca?”.
Tôi lắc đầu, nói nghiêm túc: “Là tiết gà”. Thấy chàng không nói gì, lại bổ sung: “Bắt đầu nghi thức này cần tế trời, cho nên chúng tôi giết một con gà”.
Mộ Ngôn cau mày: “Đừng nói bừa, nói thật đi. Hay là cô muốn tôi nhốt cả hai người vào y quán”.
Tôi vùng ra: “Tiết gà thật mà…”.
Chàng lườm tôi: “Thử nói dối nữa xem”.
Tôi cúi đầu: “Bởi vì trông huynh có vẻ lo lắng, muốn nói thực ra huynh không cần lo lắng, không có gì đâu, tôi có nhiều máu, hơn nữa vết thương cũng không đau, tôi không muốn đến y quán, tự băng bó cũng được”.
Chàng chống tay lên trán nhìn tôi hồi lâu, thở dài: “Cô đúng là luôn khiến tôi đau đầu”.
Tôi dè dặt nhìn chàng, đặt tay lên hai bên Thái Dương chàng, chàng ngẩn ra: “Làm gì vậy?”.
“Đừng giận nữa, tức giận dễ già đi đấy, nào để tôi xoa cho, còn đau đầu nữa không?”.
“…”.
Không biết sau này Oanh Ca sẽ đi đâu làm gì, nhưng bất luận cô lựa chọn thế nào, chúng tôi cũng không thể can thiệp.
Nhớ lại khi cô đến tìm tôi, ánh mắt ảm đạm và những lời quyết tuyệt lại thấy mủi lòng. May lúc đó một con bồ câu nhỏ màu nâu vừa đậu vào cửa sổ bay thẳng vào tay tôi.
Đây là bồ câu đưa thư của Quân sư phụ. Tôi ngây ra, không ngờ nhanh như vậy lại có một vụ khác.
Mở thư xem, không kìm nổi, giơ bức thư nói với Mộ Ngôn: “Huynh nói Dung Tầm đi khắp nơi trong thiên hạ tìm danh y có thể cứu sống Cẩm Tước quả nhiên không sai, lần này đã tìm đến sư phụ tôi”.
Chàng đang lau cây đàn, nghe vậy ngẩng đầu: “Sao? Hoa Tư dẫn lại còn có cả công năng đó nữa sao, có thể làm người chết sống lại?”.
Tôi do dự: “Không hẳn làm người chết sống lại, chỉ là mạng đổi mạng”.
Nghĩ một lát bổ sung: “Đối với những người bình thường thì không cứu được, chỉ có thể cứu sống người đã mất tính mạng trong cuộc sống hiện thực do lựa chọn Hoa Tư mộng, nhưng với điều kiện có một người cùng huyết thống bằng lòng đổi mạng”.
Chàng trầm ngâm: “Cho nên, sư phụ cô gửi thư bảo cô dùng tính mạng của Oanh Ca cô nương đổi lấy tính mạng của Cẩm Tước cô nương?”.
Tôi gấp lá thư, lắc đầu: “Sư phụ hoàn toàn không biết Cẩm Tước còn một người chị gái đang sống trên đời, chỉ bảo tôi thử đi một chuyến, bởi vì Trịnh vương đích thân đến tìm, sư phụ quả thật khó chối từ”.
Nói xong đi tìm bút mực: “Phải hồi âm cho sư phụ, ngày mai lên đường tìm Quân Vỹ và Tiểu Hoàng, làm gì có thời gian. Cẩm Tước đã một lòng muốn chết, hà tất phải khổ công tìm cách cứu sống như vậy, người được cứu chắc gì đã cảm kích chàng ta”.
Lúc đó đang đến gần chiếc giường thấp, khi chạm vào người Oanh Ca, đột nhiên bị một bàn tay nắm chặt. Tôi ngạc nhiên cúi đầu: “Cô tỉnh rồi sao?”.
Oanh Ca nhắm mắt, vẫn nắm tay tôi, lát sau nói, “Quân cô nương, nếu có thể cứu được em tôi, xin hãy cố cứu”.
Tôi nhìn cô: “Sao cô ngốc nghếch thế? Trừ phi dùng tính mạng của cô đem đổi. Nếu quả thật vừa nhìn thấy phu quân cô đã sung sướng muốn từ bỏ tính mạng, thà cho tôi tính mạng đó, tôi sẽ dệt giấc mộng cho cô để cô và Dung Viên mãi mãi bên nhau”.
Cuối cùng Oanh Ca cũng mở mắt, đôi mắt đen thẳm nhưng hoàn toàn trống rỗng, có lẽ là tim cô đã chết vì đau khổ, thoạt nhìn còn giống người chết hơn tôi.
Một lúc lâu sau hình như mới hiểu lời tôi nói, cô nghiêng đầu nghi hoặc nhìn tôi, trong mắt vẫn một màu trống rỗng: “Điều đó phỏng có ích gì, là mộng đâu phải là thật”.
Tôi mới nghĩ ra xưa nay cô luôn là người sống thật, thà đau khổ rõ ràng còn hơn hạnh phúc lơ mơ, trong toàn bộ câu chuyện này, người tỉnh táo nhất là cô.
Còn tôi không biết nói sao.
Cô xoay người nhìn lên xà nhà, giọng bình thản: “Năm nay tôi hai mươi sáu tuổi, cảm thấy cuộc đời mình rất tốt, rất dài, không còn gì lưu luyến nữa”. Ngừng một lát, lại tiếp: “Chỉ có một nguyện vọng, sau khi tôi chết, hãy chôn tôi cùng với phu quân tôi”.
Tháng bảy, vài cánh hoa đỏ thưa thớt, trên cành cây, lá đã mọc sum suê.
Vội vàng trở về Trịnh quốc.
Nơi làm phép thuật được chọn là một gò đất cao phía đông thành Tứ Phương chuyên dùng để tế lễ. Tôi nghĩ có lẽ Oanh Ca không muốn gặp Dung Tầm, lấy cớ không thể bị quấy rầy khi thực hiện nghi thức, không cho ai đến gần trong vòng năm dặm, chỉ để lại Mộ Ngôn uống trà dưới chân đài.
Giờ Dậu, quan tài của Cẩm Tước được đưa đến tế đàn. Đã gần một tháng, nhưng cơ thể vẫn nguyên vẹn như xưa, chỉ có sắc mặt hơi nhợt nhạt, có thể thấy Dung Tầm đã bỏ không ít công sức.
Cuối giờ Dậu, Oanh Ca là người đến cuối cùng, tấm rèm sa vén lên, nhìn thấy mái tóc dài chấm thắt lưng, một gương mặt không thần sắc. Tôi đưa nước trà pha huyết cho cô: “Bây giờ hối hận vẫn kịp”. Cô liền uống ngay. Tôi nhìn cốc trà đã uống cạn, vẫn muốn thuyết phục cô: “Chuyện này quả thật tôi cũng không chắc chắn”.
Tôi chỉ cho cô thấy hai cây đàn trên bàn: “Tôi phải đồng thời tấu Hoa Tư điệu của cả hai chị em cô, không được sai một nốt, còn phải khởi động viên giao châu dẫn dụ tinh thần cô…”. Cô ngắt lời tôi: “Nếu thất bại, liệu có gây hậu quả xấu gì đối với Quân cô nương?”. Tôi lắc đầu: “Không, chỉ là cho dù có thể cô không sống được, cũng không cứu được em cô”. Oanh Ca liếc Cẩm Tước trong quan tài, ánh mắt mơ màng: “Như vậy cũng không sao, Quân cô nương bắt đầu đi”.
Đứng trên đài cao, toàn bộ thành Tứ Phương đều thu vào tầm mắt, ánh nắng cuối ngày trải vàng trên những mái ngói nhấp nhô như vảy cá, đây đó đã có khỏi bếp bốc lên từ những mái nhà đó, hạnh phúc bình thường trong những ngôi nhà bình thường.
Tiếng đàn lành lạnh, gió lồng lộng trên đài cao, Oanh Ca nằm trên một tảng đá, từ từ nhắm mắt, mảnh sa tím trên chiếc váy dài bay phấp phới, giống như thân cây lớn dần, cuối cùng trùm lên người cô. Tạm biệt, Thập Tam Nguyệt.
Tôi nhắm mắt, đang tập trung tinh lực khởi động viên giao châu, khi mở mắt, một thanh kiếm đã cắm trên cây đàn thất huyền trước mặt, dây tơ đứt tung, gió lớn ù ù lập tức dừng lại. Tôi sững người, ngẩng đầu nhìn tế đài bằng đá phía trước, thấy thân hình rất thẳng của một người đàn ông vận áo chùng tím, hoa liễu phất phơ bay lả tả như ai cắt lông ngỗng tung lên trời. Tôi ôm cây đàn đứt dây vội đi đến, người đàn ông cúi người mở tấm rèm sa trùm trên mặt Oanh Ca, những ngón tay dài run run vuốt ve mắt cô, giọng nói lại vô cùng bình tĩnh: “Nàng ngủ rồi sao?”.
Tôi thi lễ, lại trùm tấm sa lên mặt cô, chèn chắc các góc, kéo ống tay phủ hết bàn tay lạnh của cô: “Hai vị phu nhân chỉ có thể một người sống, bệ hạ muốn cứu Nguyệt phu nhân, tôi đã tìm Tử Nguyệt phu nhân để đổi mạng. Tử Nguyệt phu nhân không chết, Nguyệt phu nhân không thể sống. Hai vị phu nhân chỉ có thể giữ lại một, xin bệ hạ suy xét”.
Tôi chờ Dung Tầm trả lời, nhưng chưa được bao lâu, tấm rèm khẽ lay, Oanh Ca dần dần tỉnh lại, vốn tưởng cô sẽ hôn mê, nhưng đôi mắt đen như nhân hạnh đào lại từ từ mở ra. Lúc sau, đôi mắt đó đột nhiên ánh lên ngàn tia sáng, cô nhìn người đàn ông áo tím nét mặt trầm tư đó, đột nhiên lao vào lòng chàng ta, giọng thơ ngây như trẻ nhỏ: “Cuối cùng chúng ta đã được bên nhau”. Chàng ta sững người, giơ tay ôm cô, cô vùi đầu vào lòng chàng ta: “Cuối cùng chúng ta lại được bên nhau, Dung Viên”. Sắc mặt chàng ta đột nhiên trắng bệch.
Từ từ kéo cô ra, giữ cô trong tay, chàng ta mở to mắt nhìn cô: “Ta là ai?”.
Mắt cô đỏ hoe, long lanh nước, đăm đăm nhìn mặt chàng ta, rồi lại vòng tay ôm cổ chàng ta, gục đầu vào vai chàng ta nghẹn ngào: “Họ nói chàng đã chết, thiếp không tin, nếu chàng chết, thiếp sẽ ra sao?”.
Tôi thong thả xen lời: “Bệ hạ đừng ngại, chắc là cô ấy bị điên, thuật huán mệnh tối kỵ gián đoạn, e là sẽ… nếu bệ hạ vẫn muốn cứu Nguyệt phu nhân, Tử Nguyệt phu nhân như thế này cũng không sao, chỉ phiền bệ hạ cho tôi một cây đàn khác”.
Dung Tầm như không nghe thấy lời tôi, trên dung sắc trắng bệch hiện ra nụ cười đau khổ: “Cho dù nàng bị điên, cuối cùng ta cũng có được nàng”.
Tôi nhìn chàng ta: “Nếu cô ấy tỉnh lại, việc đầu tiên cô ấy làm sẽ là tuẫn tiết cùng Cảnh hầu vương”.
Bông liễu rơi lả tả đầy trời như những bông hoa tuyết rơi trên tế đài, Dung Tầm ôm cô vào lòng, bước từng bậc đi xuống: “Vậy cứ để nàng mãi mãi không tỉnh lại”. Mũ sa của cô rơi xuống đất, gió cuốn bay đi, như một con bướm gãy cánh.
Tôi đứng mãi trên tế đài, băn khoăn không biết nên thế nào, bây giờ xem ra tất cả đều tốt, mọi người cầu được ước thấy, Dung Viên muốn Oanh Ca sống, cô ấy đã sống. Dung Tầm muốn có Oanh Ca, bây giờ họ đã ở bên nhau, Oanh Ca muốn có Dung Viên, trong ý thức của mình quả thực cô đã có được chàng. Giống như một giấc mộng Hoa Tư viên mãn hư ảo.
Đi xuống tế đài, nhìn thấy Mộ Ngôn đang ung dung đun trà, tôi bực mình nói: “Vừa rồi sao huynh không ngăn Dung Tầm?”.
Chàng ung dung nhìn tôi: “Tôi đã gọi chàng ta đến, sao lại ngăn chàng ta?”.
Tôi trợn mắt.
Mộ Ngôn đưa cốc trà nóng cho tôi: “Nên để mỗi người có cơ hội lựa chọn, cô thấy đúng không, A Phất”.
Tôi không biết có đúng hay không, chỉ biết bao nhiêu người chìm đắm trong Hoa Tư mộng hư ảo, đắm đuối trong tình yêu, muốn giữ mãi cho mình tình yêu đó, kỳ thực đều là những người yếu đuối.
Con người ta điều quý nhất là gì? Không phải là tình yêu, mà là lòng can đảm tiếp tục sống vì tình yêu. Nhưng những người tôi gặp không ai hiểu đạo lý này.
Ít lâu sau, chúng tôi rời khỏi thành Tứ Phương, nghe nói Cẩm Tước được hậu táng, vào giờ tốt ngày lành tháng này Oanh Ca sẽ thành hôn cùng Dung Tầm, khi nghe được những tin đó tôi lại không có cảm giác gì đặc biệt. Nhưng sáng ngày thứ chín, lại nghe nói Oanh Ca mất tích đúng đêm hôn lễ, Dung Tầm đi tìm khắp thành Tứ Phương không thấy. Mộ Ngôn hỏi tôi: “Theo cô, Oanh Ca sẽ đi đâu?”.
Lúc này tôi đang viết thư cho Quân Vỹ, hẹn rõ địa điểm gặp nhau, nghe Mộ Ngôn hỏi, lơ đãng trả lời: “Có lẽ đã tỉnh lại, đi hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của mình thôi”.
“Sau khi tôi chết, hãy chôn tôi cùng với phu quân tôi”. Tôi còn nhớ lúc đó Oanh Ca đã nói vậy, đó là ý nguyện cuối cùng của cô.
Mộ Ngôn trầm ngâm hồi lâu, đi đến tiện tay mài mực giúp tôi.
Đêm đó, Mộ Ngôn xưa nay vốn phong độ ngời ngời lại xuất hiện trong phòng tôi với bộ dạng hơi nhếch nhác. Gió đêm đập vào cánh cửa lạch cạch. Tôi vừa giơ tay đóng cửa vừa kinh ngạc hỏi chàng: “Ăn vận thế này, huynh vừa ở đâu về?”.
Chàng rút trong ống tay áo một mảnh sa tím, mỉm cười, thong thả nói: “Nhặt được ở lăng mộ Dung Viên”.
Tôi ngẩn người, dừng tay rót trà, lát sau hỏi: “Oanh Ca ở trong lăng mộ Dung Viên sao?”.
Chàng cầm ấm trà trong tay tôi, tự rót cho mình: “Chính xác hơn là trong quan tài của Dung Viên”.
Tôi sững người hồi lâu: “Chẳng trách bọn họ không tìm thấy cô ấy”.
Mộ Ngôn cười: “Không ai dám động đến lăng mộ của Cảnh hầu vương, bọn họ mãi mãi không thể tìm thấy cô ấy”. Ngừng một lát, lại thêm một câu, “… trừ tôi”.
Tôi gật đầu tán đồng: “Đúng, trừ huynh”. Rồi chỉ ống tay áo chàng, “Hình như huynh bị thương”.
Chàng thản nhiên rụt tay lại: “Không sao”.
Tôi kéo tay Mộ Ngôn, vén ống tay áo bôi thuốc vào vết trầy xước, phát hiện người chàng chợt cứng lại, tôi ngẩng đầu nhìn chàng, ngượng nghịu: “Có những lúc tôi quá bướng phải không?”.
Chàng một tay chống lên trán nhìn tôi, mủm mỉm cười: “Không, như thế là được”.
a mong nàng sống, có thể cười với ta, khóc với ta, giận dữ với ta,
ta chỉ có một nguyện vọng như thế này mà thôi – Tô Dự
Phần 3: Tuyết ở Bối Trung
Bấy lâu, bấy lâu nay, tôi vẫn nghĩ, nếu tôi có một người trong lòng, tôi sẽ đem tất cả mọi sung sướng khổ đau của mình phổ thành khúc nhạc gảy cho chàng nghe, người của lòng tôi, lúc này, đang ở đây.
ೋ Chương 1 ೋ
Vẫn không nhận được thư hồi âm của Quân Vỹ khiến tôi lo lắng. Mộ Ngôn cho rằng có Tiểu Hoàng bảo vệ, không có gì phải lo, thấy chàng lạc quan như vậy, tôi cũng không tiện nói ra, Tiểu Hoàng đã bị đem cầm cho vườn thú đến giờ cũng không biết đã chuộc về chưa. Theo hiểu biết của tôi về Quân Vỹ, chuyện này khó có hy vọng gì, rồi lại nghĩ tại sao trên đời có nhiều đàn ông thích nhau đến thế, tại sao Quân Vỹ có hình thể đẹp như vậy để lắm kẻ mê, tâm trạng cứ ngổn ngang bấn loạn. Xem ra nhà họ Quân có cơ tuyện hậu thật rồi.
Năm trước anh ta còn hứa hẹn, nếu không có ai lấy tôi, anh ta sẽ lấy, số phận đã an bài như thế, thật ngao ngán. Nhưng biết làm sao, rút cục nước xa không cứu được lửa gần, hơn nữa bây giờ chúng tôi cũng không biết anh ta đang ở đâu, đành chờ xem sao.
Ý Mộ Ngôn là Quân Vỹ mãi không có hồi âm, vậy nhân chuyến đến Tiều đô, tiện thể chàng sẽ đưa tôi về núi Quân Vu. Mộ Ngôn phải đi một chuyến đến kinh đô của Thiên tử ở phía bắc Trung Châu(1), một việc dự định từ lâu cuối cùng mới có cơ hội thực hiện.
Trước giờ tôi vẫn nghĩ, Mộ Ngôn không rỗi việc đến mức đưa tôi đi du sơn ngoạn thủy, tìm hiểu phong tục nơi này nơi kia, tôi vẫn đợi chàng nói lời từ biệt, cuối cùng ngày đó đã tới, lòng vừa buồn vừa thở phào nhẹ nhõm.
Đi qua vùng rừng núi hoang vu, qua bình nguyên rậm rạp, qua những con sông nước xiết, qua những làng bản hiu quạnh, tôi cảm nhận rất rõ thời gian trôi qua, mỗi khi mặt trời lặn tôi lại đếm đốt ngón tay, tính thời gian chia tay với chàng, nhưng lại không thể chần chừ trì hoãn cuộc hành trình như lần trước. Mộ Ngôn cảm thấy buồn cười, hỏi: “Sao cô cứ luôn nhìn tôi như vậy, trên mặt tôi có vết gì chăng?”.
Tôi mạnh dạn ghé lại gần: “Đúng, có vết, nào, lại đây tôi chỉ cho xem”.
Chàng hơi ghé lại, ánh mắt cười cười: “Vậy nhìn kỹ đi”. Tôi nghĩ chàng đang giễu tôi, nhưng không sao, đằng nào cũng chia tay, mặt dày một chút cũng chẳng hề chi.
Tôi gật đầu: “Huynh nhắm mắt lại”. Chàng lại ngoan ngoãn làm theo. Củi trám trong lò đang cháy đượm, bốc lên ngọn lửa xanh, bên ngoài tiếng côn trùng nhặt thưa từng hồi, chàng ung dung ngồi đó, dáng vẻ như muốn nói thích làm gì tôi thì làm, khiến tôi bất giác muốn vuốt ve khuôn mặt gần trong gang tấc, đôi mắt gần trong gang tấc đó nhưng lại không dám.
Lòng bàn tay toát mồ hôi, từ từ giơ ngón tay đến gần đuôi mắt chàng, lấy hết can đảm chạm vào vầng trán trắng xanh, cảm giác và độ ấm truyền đến ngón tay lúc đó tôi sẽ nhớ mãi. Tất cả chỉ do không thể tự rời xa chàng, bất luận thế nào, cũng không thể. Đôi mắt, hàng lông mày, sống mũi, bờ môi, khuôn mặt đẹp, biểu cảm trên mặt, tất cả đều khắc vào lòng tôi, dù chia ly nhưng tôi sẽ nhớ suốt đời.
Tay tôi hơi run, vội rụt về, củi cháy lép bép trong lò, lát sau, tôi chìa tay trước mặt chàng: “Nhìn này, trên trán có vật gì, lấy xuống cho huynh rồi”.
Ánh mắt chàng nhìn bàn tay trống không của tôi: “Đâu?”.
Tôi giả bộ ngạc nhiên, “Sao, không nhìn thấy à?”. Mắt chàng như cười, vẫn nhìn tôi, tay chống cằm không nói gì. Rất nhiều lúc, tôi không biết chàng nghĩ gì, lòng thấy hoang mang nhưng cũng chẳng sao, chỉ cần tôi biết mình nghĩ gì là được.
Quân Vỹ nói thích một người là sẽ trở nên ưu tư, bởi vì luôn phải suy tính được mất. Anh ta nói có lý, ở bên Mộ Ngôn, tôi luôn suy tính được mất, nhưng mất Mộ Ngôn thực ra tôi cũng chẳng có gì gọi là được, là mất, cái còn lại chỉ là bóng dáng phong nhã tuyệt vời của chàng trong ký ức, lòng như nở một đóa hoa lớn quý báu, quý báu nhất.
Chim yến không về, hoa tử vi tắm ánh trăng, phía bắc hoa nở, phía nam hoa tàn. Suốt dọc đường đi gấp, đến biên giới Khương – Trần lại xảy ra một chuyện vốn tưởng sẽ xảy ra ngay từ khi câu chuyện bắt đầu, nhưng mãi chẳng thấy gì, đã tưởng tất cả đều suôn sẻ, cuối cùng lại bất ngờ xảy ra.
Một chuyện lớn.
Tôi bị bắt cóc.
Khi xuống núi, Quân sư phụ đã dặn dò Quân Vỹ bảo vệ tôi cẩn thận, ông lo nhất là chuyện đó. Sự huyền diệu của Hoa Tư dẫn tuy thiên hạ không mấy người biết, nhưng không phải hoàn toàn không ai biết, nó được lưu truyền một cách ly kỳ, rằng đó là phép thuật có thể làm người chết sống lại, đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ nên tu luyện như thế nào để đạt được công năng huyền diệu đó khiến ai được nghe đều không khỏi xiêu lòng .
Khi một thứ được nhiều người ngưỡng mộ, người sở hữu thứ đó đương nhiên dễ gặp nguy hiểm. Ghi chép thật sự về Hoa Tư dẫn lại vô cùng ít ỏi, do vậy mặc dù tồn tại mấy trăm năm nhưng đến nay vẫn huyền bí khôn lường. Vốn tưởng nó chỉ tồn tại mơ hồ trong dân gian, chưa chắc có ai tin, nên lúc đầu khi Quân sư phụ cho Quân Vỹ đi theo bảo vệ tôi, thâm tâm tôi ngấm ngầm phản đối, giờ mới thấy sự chu đáo của sư phụ quả không thừa.
Trời tối dần, do bị bắt cóc, chân tay đương nhiên bị trói, nhưng tôi vốn có tài cởi trói, nhanh chóng cởi nút dây thừng thoát ra, nhìn rõ ràng mình bị quấn trong một tấm chăn, ngẩng đầu, thấy ánh vàng lóng lánh trên đỉnh trướng, trước mắt, là bức bình phong sáu cánh.
Bức bình phong chắn trước giường có sáu cánh, trên mỗi cánh là một bức tranh kỳ lạ, có sông có núi và một cặp uyên ương, lúc sánh vai du ngoạn, lúc họa thơ đối ẩm dưới trăng, còn hai bức vẽ một chàng công tử ung dung ôm đàn bên cạnh bộ đồ uống trà, nhìn rất quen. Trong đầu thoáng nghĩ tới một chuyện nhưng lại lập tức gạt đi, bởi vì cảm thấy bút pháp của người đó không thể kém đến vậy.
Tôi nghĩ mặc dù kẻ bắt cóc tôi ra tay nhân lúc Mộ Ngôn đi ra ngoài, nhưng như trên đã nói, chắc chắn kẻ đó không biết cái gọi là bí thuật thượng cổ thần kỳ đó thực ra được phong ấn vào một hạt giao châu, đưa vào cơ thể tôi, hơn nữa nhất định không biết tôi là một người chết, cho dù tìm ra bí mật này, thiết nghĩ họ cũng không thể tin, dùng thân thể người chết tu luyện Hoa Tư dẫn, từ thời khai sơn lập địa, trên đất Cửu châu này chỉ có tôi là duy nhất.
Tôi còn chưa kịp suy nghĩ kỹ hơn về tình hình trước mắt, bức bình phong đóng chặt “xoạch” một tiếng bị đẩy ra. Tôi vội vàng thu người vào trong chăn, hé mắt nhìn ra, thấy một ngọn đèn yếu ớt phía xa.
Người đẩy bức bình phong là một cô hầu, sau khi bước vào, cô cuốn cao bức rèm trướng rồi đứng sang một bên, cả người như lẫn vào màn đêm. Nhìn tương đối rõ là cô gái đối diện, không phải là dung mạo mà là hai ống tay áo rộng thùng của cô ta chiếm nhiều không gian như vậy, đập ngay vào mắt. Ánh nến nhỏ như hạt đậu chỉ chiếu sáng một khoảng nhỏ, quả thật không thể nhìn rõ mặt cô ta, chỉ cảm thấy ánh mắt lạnh lẽo của cô ta như xuyên thấu tận xương.
Ánh nến sáng dần, tôi nhìn thấy trên bàn trà có một chung rượu bằng đồng đen trong đựng đầy rượu màu ngọc bích. Cuối cùng nhìn rõ thân hình cô gái có ánh mắt tỏa ra hơi lạnh đó, một nửa khuôn mặt lộ ra dưới ánh nến, một nửa bị bóng cột nhà che khuất, khí chất lạnh lùng nhưng lại là một mỹ nhân hiếm thấy.
Miệng bị nhét khăn mùi xoa, không nói được. Tôi làm bộ vùng vẫy, cô gái hơi nhấc tay ra hiệu cho cô hầu, vừa giơ lên lại đột nhiên buông xuống, cười khẩy một mình: “Đúng là hồ đồ, cởi trói cho cô làm gì, hôm nay cô chỉ cần có hai cái tai là được”.
Nói đoạn, cầm chung rượu trên bàn uống cạn, loạng choạng bước tới trước giường, né tránh bàn tay đỡ của cô hầu, một tay tóm lấy cằm tôi, sau khi lột chiếc mặt nạ của tôi, cô ta ngẩng phắt đầu, tôi không biết phản ứng thế nào, thầm nghĩ, chắc cô ta không đến nỗi cho là tôi giấu Hoa Tư dẫn trong mặt nạ này chứ?
Lúc sau, ngón tay thanh mảnh trắng ngần của cô ta lần trên vết sẹo ngoằn ngoèo trên trán tôi, ánh mắt lạnh lùng sa sầm, “Thì ra là một mỹ nhân, lẽ nào cô không biết, không được tự tiện động vào đồ của người khác?”.
Trong phòng rất yên tĩnh, tôi ngẩng đầu nhìn vào mắt cô ta, không biết cô ta nói gì, nhưng không thể tỏ ra yếu thế, nhìn nhau rất lâu, cô ta cười khẩy một tiếng, giọng lạnh lùng: “Lại còn giả bộ thờ ơ, việc mới làm đã nhanh quên thế sao?”.
Tôi vẫn không hiểu cô ta nói gì, nhưng có cảm giác cô ta không phải bắt cóc tôi để đòi Hoa Tư dẫn, chẳng lẽ bắt nhầm người? Nhưng tôi vẫn ưỡn thẳng lưng, lúc này đầu cô ta đang ghé sát mặt tôi, mấy sợi tóc mai chạm vào trán tôi, hơi thở phả bên tai, giọng rất nhẹ: “Cô thích chàng, nhân lúc không có tôi, mon men đến bên chàng, cố tình gặp mặt, cố tình để chàng chú ý, múa may như một con rối. Thật nực cười, lẽ nào cô không biết chàng đã có ý trung nhân, đã có hẹn ước?”.
Tôi sững ra một lát, như có một tia sáng lóe lên, đầu như vỡ tung, không thể tin nổi. Một cách bản năng, tôi lục tìm trong trí nhớ hình ảnh cô gái hành thích Mộ Ngôn ở Bích sơn, nhưng chỉ nhớ ra một biển hoa tường vi, đó là dịp cuối xuân tháng tư.
Cô gái nghiêng đầu nhìn bộ dạng ngây ngô của tôi, những ngón tay thanh mảnh của cô ta đặt lên tóc tôi. Lúc này tôi mới chú ý, giữa mái tóc đen mướt của cô ta cài một bông hoa tường vi kết bằng dải lụa tối màu.
Nếu cô ta chính là Tử Yên, nhất định cô ta chưa quên Mộ Ngôn.
Nhưng cô ta đã hành thích Mộ Ngôn.
Tôi không biết nên tỏ thái độ thế nào, cũng không biết tâm trạng mình bây giờ ra sao. Chỉ nghĩ nếu mình có thể sớm tìm thấy Mộ Ngôn, tìm thấy chàng trước khi chàng gặp cô ta, hôm nay sẽ thế nào?
Nhưng ba năm, bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm tôi không tìm thấy chàng, lúc sắp chết cũng không được gặp chàng một lần, ý trời là vậy.
Cô ta ngồi gần lại, ngón tay rê trên trán, cau mày, có lẽ đã chếnh choáng, khuôn mặt say rượu dưới ánh nến hồng toát ra một vẻ đẹp tuy hơi lạnh lùng nhưng thực sự say lòng, như nhìn tôi, lại như nhìn vào một điểm hư không nào đó, thoáng mím môi, lại tiếp: “Lúc đó tôi là nhạc sư trong Triệu cung, gặp chàng trong một đại yến, chiến công lừng lẫy của chàng ai không biết, cả Triệu vương cung, bao gồm mấy vị công chúa, không ai không ngưỡng mộ chàng”.
Ánh mắt cô ta dừng trên mặt tôi, miệng lại hơi nhếch: “Nhưng chàng chỉ đưa mình tôi về nước”. Ngừng một lát, mắt vẫn hướng vào tôi như cười, “Cô chỉ nhìn thấy tư phong nho nhã, trác việt của chàng, nhưng đã bao giờ nhìn thấy chàng nhẫn nại, ôn tồn dịu dàng âu yếm chưa?”.
Tôi lắc đầu. Cô khẽ cười: “Những gì chúng tôi có với nhau, cô không thể tưởng tượng được đâu”.
Lòng tôi nổi từng cơn sóng, lớp lớp dềnh lên, ép tới, nặng như đá tảng, nhưng lại không thể tỏ ra yếu thế, giống như gặp chó sói trên đồng hoang, dù sợ hãi đến mấy cũng phải ngẩng đầu nhìn nó, kẻ cúi đầu xuống trước là thua.
Cả cuộc đời, phụ vương không dạy được tôi điều gì hữu ích, ngoài một điều khi lòng càng hoảng loạn càng phải tỏ ra bình tĩnh. Thực ra tôi muốn hỏi cô ta, đã thích chàng như vậy, sao nỡ hại chàng, làm chàng bị thương nặng như thế, cũng không ngoái nhìn một lần. Chung quy chỉ tại tôi không hiểu, làm tổn thương người yêu cũng là một cách thể hiện tình yêu.
Ở đời người ta thường hay suy nghĩ không thông, trong tình cảm lại càng như thế, tất cả những suy nghĩ của tôi đều chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân mà về mặt này rõ ràng tôi chưa từng trải.
Bên ngoài có tiếng bước chân, mặt cô ta biến sắc, đứng bật dậy, kéo xoạch bức bình phong, ánh sáng trước mắt lập tức mờ hẳn, chỉ lưu lại một ám ảnh nặng nề lan dần trong đầu mà trước đó tôi còn chưa biết là gì, bây giờ xem ra chính là những tưởng tượng mơ hồ về cảnh cô ta và Mộ Ngôn âu yếm bên nhau, lại thêm chiếc khăn mùi xoa nhét trong miệng, khiến tôi không thể cất lời.
Vẫn còn ôm một hy vọng mong manh, cố nhướn lưng, mong được thấy cảnh tượng khác, có thể an ủi bản thân, lại nghe thấy ba tiếng gõ cửa quen thuộc, cánh cửa phòng từ từ mở ra. Một giọng nói vang lên, nhẹ mềm như một nhành tơ liễu ngày xuân, cùng với tiếng cười: “Tôi tìm em đã lâu, Tử Yên”. Đó là Mộ Ngôn. Cô gái nghẹn ngào: “Em vẫn đợi chàng, vẫn luôn đợi chàng đến tìm em”.
Vai và lưng đột nhiên như rũ xuống, không thể chịu đựng hơn nữa, bải hoải tựa vào tường, cái lạnh như khi sắp chết từ sống lưng lan ra, chỗ viên giao châu trong lồng ngực đột nhiên thấy đau. Quả rất kỳ lạ.
Đúng lúc đó, ván giường như bị lật nghiêng, khi trấn tĩnh được đã thấy bị ném vào chỗ nào đó, một tia sáng lờ mờ không biết từ đâu lọt ra, tôi đoán đây là một cái hang núi dài. May trước đó tôi đã cởi được dây trói, dù bị ném xuống hố sâu cũng không bị thương.
Ngồi tựa vách hang nhìn lên, không biết lúc này cảnh tượng trong phòng thế nào.
Có thể hình dung bên ngoài nhất định là một bầu trời sao sáng, chàng giẫm lên ánh trăng đẩy cửa đi vào, vẫn phong nhã du nhàn như vốn dĩ. Có câu nói thế nào nhỉ, hình như là, “Bóng trăng lay động đầu cành, tường hoa in bóng văn nhân lại gần”. Nhưng không phải đến vì tôi.
Logic của tôi rất đơn giản, cho rằng Tử Yên đã đâm chàng, nhất định không còn là người của chàng, chàng sẽ không thích cô ta, tôi là một người chết, thực ra không có tư cách gì, nhưng mong chàng có thể tìm được người tốt hơn.
Thực ra, tôi đang nói dối, tôi không hề mong chàng tìm được cô gái tốt hơn. Nói trắng ra tôi ích kỷ, nhưng nếu nhất định phải lựa chọn, tôi thà thấy chàng yêu cô gái khác, nhất định không thể là Tử Yên, giống như suy nghĩ của Dung Viên. Nhưng họ vẫn gặp nhau, xem ra cả hai vẫn còn nhiều lưu luyến.
Tử Yên nói rất phải, tôi giống một con rối nực cười. Nhưng nếu đó chính là tình yêu của tuổi trưởng thành thì quả thực tôi không hiểu. Nhìn bàn tay mình, bàn tay phải đã mất đường sinh mệnh, càng nghĩ càng không hiểu, lòng buồn thấm thía nhưng không biết tự an ủi ra sao.
Tôi cầm lên chiếc mặt nạ dưới đất, lấy tay áo lau sạch, đeo vào mặt, còn có thể như thế nào nữa, vậy là chia tay. Tôi nhớ chàng, nghĩ tới sau này không bao giờ gặp lại, cuộc đời tôi kết thúc quá sớm, gặp chàng lúc còn nhỏ, không biết yêu là gì, khi hiểu được, chàng đã yêu người khác. Trong hang dài tịch mịch như vô tận, tôi từ từ khụy xuống, gục mặt vào hai đầu gối, bật khóc.
Khóc một lúc cũng thấy dễ chịu hơn, thực tế cho thấy, nỗi buồn có thể giải tỏa bằng nước mắt đều không phải là nỗi buồn. Những tiếng nức nở vang lên trong động, đập vào vách hang, vọng lại như có người đứng bên an ủi, lại cảm thấy có một chút can đảm.
Bám vách hang đứng lên, men theo vách đá tập tễnh đi ra, trên đường đụng phải rất nhiều xương khô, tôi bỗng thấy sợ hãi, trước kia không nhận ra, bây giờ rời xa Mộ Ngôn tôi mới hiểu chàng bảo vệ tôi quá kỹ, khiến tôi có cảm giác mình là cô gái bình thường, quên đi mình là người chết. Suy cho cùng không nên sợ hãi, bởi họ thực ra cũng như tôi, chỉ là bộ xương mục đen sì trong hang núi.
Vất vả lần ra đến cửa hang, bên ngoài là đêm đen, không phải bầu trời sao như tưởng tượng, một trận mưa lớn trút xuống đầu.
Tôi đội mưa đi trong đêm. Lúc Tử Yên nhốt tôi trong hang núi, chắc không ngờ tôi có thể thoát ra, nhưng Mộ Ngôn thích cô ta, chàng không biết chính cô ta bắt cóc tôi, nghĩ đến những bộ xương vừa vấp phải trong hang, cô ta chủ tâm vứt tôi vào đó nghĩ là tôi sẽ chết vì trúng độc chướng khí, đâu có biết tôi vốn là một người chết.
Ngọn núi như con thú nằm ngang trước mặt, há cái mồm khổng lồ đầy máu, bóng cây cao vút nhảy múa trong đêm tối, trong màn mưa tạo ra những hình thù kỳ dị. Gió réo bên tai, thổi bạt những sợi mưa, quất vào người, cái lạnh từng lớp thấm qua da thịt, thấm vào lòng, lạnh như băng.
Trời vẫn mưa như trút nước. Phía xa đình viện thấp thoáng lọt ra ánh sáng nhưng lại chính là nơi nguy hiểm nhất với tôi. Tôi không biết đường đến núi Quân Vu, chỉ biết chạy thục mạng ngược hướng ánh sáng nguy hiểm đó. Đường núi trơn, dù đã quen nhìn trong bóng tối, cũng có lúc không nhìn kỹ, tôi vấp ngã liên tục, người lấm đất.
Cảm thấy đã chạy được khá xa, không sợ bị đuổi kịp tôi mới yên tâm, nhìn thấy một bụi cây thấp ven đường, tôi chạy vào định tránh mưa.
Viên giao châu khiến tôi lạnh hơn người thường, không cần phải vội, tôi trấn tĩnh tinh thần, cảm thấy nước mưa và đất nhão bám vào từng tấc cơ thể, lạnh rúm người. Mưa tạnh thì sẽ ổn thôi, tôi nghiến răng, ôm gối tự an ủi. Mưa tạnh sẽ ổn thôi.
Trận mưa lớn nơi núi sâu đủ dài để xảy ra mọi chuyện, tôi đã nghĩ đến rất nhiều nguy hiểm, chỉ duy nhất quên một điều, có những loài mãnh thú quen tìm mồi trong mưa.
Khi phát hiện ra, con báo đó đã đứng cách tôi mười trượng, hình như nó chưa trưởng thành, đôi mắt xanh lét như hai đốm lửa quái dị trong đêm, ánh lên lớp lông ướt đẫm nước mưa, lộ những đường vằn hoa. Con báo hình như vừa thôi bú chưa lâu, dè dặt nhìn tôi, có lẽ đang suy nghĩ cái thân hình lấm đất trong bụi cây là vật gì, liệu có thể cho vào bụng. Còn tôi trong người chỉ có một vật duy nhất có thể tự vệ là con dao găm nhặt được trong hang núi.
Lúc này không nghĩ gì hết, cũng không ngây thơ tưởng tượng Quân Vỹ, Tiểu Hoàng từ trên trời rơi xuống, hoặc thần kỳ hơn, Mộ Ngôn từ trên trời rơi xuống. Nếu nghĩ vậy thì chết chắc.
Nhìn nhau một lát, con báo cuối cùng nhún hai chi sau lấy đà lao đến, còn tôi không biết lấy đâu ra can đảm, không né tránh, tay nắm chặt chuôi dao găm nhằm cổ con báo đón đợi.
Đương nhiên là không đâm trúng. Cho dù móng vuốt con báo cào lên người tôi cũng không đau, không hề gì. Không thể giương mắt nhìn nó ngoạm mình từng miếng, vẫn kiên trì dùng dao đâm vào cổ họng nó, dốc sức toàn thân, chỉ nghe thấy tiếng gầm đau đớn của con thú, lòng thấp thỏm ý nghĩ phải giết nó thật nhanh, không để tiếng gầm của nó lôi kéo mãnh thú khác đến.
Khi dao găm đâm trúng họng con báo như ý muốn, máu đỏ vọt ra như mưa, phun vào ngực tôi, nhanh chóng lan ra, đỏ ngầu một mảng. Bầu trời cao, mưa đêm vô tận, con dao trong tay cầm không chắc, suýt rơi, máu con báo lẫn nước mưa và đất nhão. Chỉ thấy tiếng gió mưa, không có tiếng thở của tôi, xung quanh không một vật sống.
Nỗi sợ cuối cùng cũng xâm chiếm từ chân lên đầu. Quân Vỹ luôn cho là tôi bạo gan, chẳng sợ gì, đó là lúc còn nhỏ, sau này lớn lên cảm thấy rất nhiều thứ không thể bị mất, càng ngày gan càng bé đi, thái độ gan góc không sợ hãi chỉ là giả bộ trước mặt Quân Vỹ mà thôi.
Lấy tay che mắt, nghĩ đến cảnh tượng một tháng trước, trong đêm trăng gặp con sói, đêm đó ánh sao mênh mông như dát bạc lên triền núi, có một người đứng trước mặt tôi mỉm cười: “Không nhận ra con sói đi theo hay sao?”, rồi vỗ lưng tôi an ủi: “Đừng sợ, con sói bị giết rồi, còn sợ gì nữa?”.
Rõ ràng biết nước mắt cũng chẳng ích gì, nhưng lại không kìm được, trong màn mưa lạnh cô đơn, một lần nữa tôi bật khóc, nước mắt chảy dài theo kẽ ngón tay, tôi nhớ chàng: “Mộ Ngôn, chàng ở đâu, em sợ lắm”.
Em sợ lắm.
Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, mưa vẫn không có dấu hiệu ngớt, vẫn ầm ầm trút nước.
Thấp thoáng nghe thấy tiếng gầm gào, hình như là tiếng hổ gầm.
Tôi khó nhọc đứng lên, thầm nghĩ, dùng đá ném liệu có được, kết quả là không được. Sức lực yếu ớt đâm chết một con báo chưa trưởng thành là do ông trời ngủ gật, lại còn muốn giết một con hổ trưởng thành có lẽ phải chờ ông trời ngủ mãi không tỉnh.
Tôi không hy vọng lại gặp may lần nữa. Không biết viên giao châu bị con hổ nuốt chửng sẽ thế nào. Quân sư phụ nói viên giao châu được phong ấn Hoa Tư dẫn huyền bí, với công lực tự thân đã có thể làm cho người chết sống lại trong ba năm.
Tôi không biết nó sẽ khiến cho con hổ sống thêm bao nhiêu năm. Tình huống xấu nhất sẽ là sau tối nay trên đời sẽ xuất hiện một con hổ trường sinh bất lão, lại không phải là Tiểu Hoàng, không biết sẽ tác động thế nào đến cân bằng sinh thái. Tôi chạy thục mạng ngược hướng con hổ, thực ra thế nào cũng được, tôi chẳng có tài cán gì, có lẽ không thể sống qua đêm nay, nhưng dù không thể sống mà ra khỏi khu rừng này cũng không thể gây hại cho người khác.
Mặc dù hơi sợ, tôi vẫn nắm chặt con dao găm đã bị nước mưa xối rửa sạch sẽ, run run thử ướm vào ngực mình. Nếu bị con hổ phát hiện, phải đâm dao vào ngực, nhất định phải hủy viên giao châu.
Tôi căng thẳng chờ đợi, không nghe thấy tiếng hổ gầm nữa, chỉ có tiếng bước chân loạng choạng vang lên sau lưng. Trời mưa to như vậy nhưng tôi vẫn nghe thấy hơi thở gấp gáp của người đó.
“A Phất”. Tiếng gọi khàn đến mức không giống giọng của chàng. Tôi đang ngây người đứng đó, chờ đợi cả nghìn vạn năm nhưng không có can đảm ngoái đầu. Khóe mắt liếc thấy thanh kiếm trong tay chàng, miếng thạch ngọc khảm trên chuôi kiếm phát ra ánh sáng màu lam lóng lánh, ánh lên một góc tay áo đỏ như đóa yên chi, trông tuyệt vời nho nhã.
Đó chính là chàng. Có thể cảm thấy bàn tay chàng chầm chậm đặt lên vai tôi, hơi ngừng lại rồi kéo tôi vào lòng. Mưa trút xối xả nhưng tôi không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào, chỉ cảm thấy thiên hoang địa lão, bể dâu cũng hóa thành tro bụi. Môi chàng áp sát vành tai tôi, tôi nghe thấy hơi thở dần bình ổn của chàng, một lúc lâu sau chàng khẽ nói: “Cô làm tôi sợ chết đi được”.
Đó chính là chàng, rõ ràng không ngửi được nhưng tôi lại cảm thấy hương hoa mai thoang thoảng quanh mình, hai tay run run ôm lấy cánh tay chàng tựa như nhìn thấy một vạn bông mai nở trên núi tuyết.
Đó chính là chàng, tôi nghe thấy giọng mình run rẩy: “Tôi tưởng không bao giờ được gặp huynh nữa”. Chàng ôm chặt hơn nhưng vẫn thận trọng né tránh vết thương ở bả vai do vuốt con báo gây ra, ngón tay lạnh lẽo vuốt ve mắt tôi.
Một khắc trước còn cảm thấy không thể sống qua đêm nay, còn lúc này Mộ Ngôn đã ở đây, tất cả mọi bất an đã hóa thành tro bụi bay đi, nhưng nỗi buồn lại ứ dâng, vốn định tỏ vẻ bất cần, không muốn để chàng nhìn thấy sự yếu đuối bi lụy của mình nhưng không thể, nước mắt đã trào ra, tôi khóc nức nở, càng khóc càng không kìm được, Mộ Ngôn lặng lẽ ôm tôi, ngón tay dán vào mặt nạ, lau nước mưa và nước mắt. Nhưng chỉ uổng công, lát sau chàng áp má vào trán tôi, thở dài.
Bấy lâu nay, tôi luôn nghĩ nếu tôi có một người trong lòng, nhất định sẽ đem mọi sung sướng khổ đau của mình phổ thành khúc nhạc gảy cho chàng nghe. Người của lòng tôi, lúc này, đang ở đây.
Không nhìn rõ bóng chàng, chỉ cảm thấy người mình từ từ quay lại. Những ngón tay lành lạnh lướt qua mái tóc, dừng lại trên đuôi mắt tôi: “Có tự đi được không?”.
Tôi gật đầu, ngừng một lát, lại lắc. Người bị nhấc bổng lên, giọng ai sát bên tai: “Không biết bị đau chỗ nào, nếu đau thì nói”.
Tôi lắc đầu, ngừng một lát, lại gật. Nhất định chàng thấy tôi rất đáng thương, sự xót thương một con chim sẻ bị bắn gẫy cánh, rất hy vọng sẽ là tình yêu, ước gì được như thế. Tôi biết mình mù quáng, nhưng cho dù mù quáng, tôi cũng muốn mù quáng thêm lát nữa.
Tôi được Mộ Ngôn bế về quán trọ, suốt chặng đường không ai nói gì, mưa vẫn không ngớt. Trước cửa quán trọ, Chấp Túc xa cách đã lâu tay cầm chiếc ô đứng đợi. Không biết tại sao cô ấy đột nhiên xuất hiện, có lẽ hộ vệ của Mộ Ngôn vẫn bí mật bám theo suốt dọc đường, tuy không lộ diện nhưng vẫn theo dõi hành tung của chủ, khi chủ gặp nguy hiểm lập tức ra tay.
Chấp Túc thu cái ô lại, định đón tôi từ tay Mộ Ngôn, tôi đang do dự không biết có nên đứng xuống, lại cảm thấy bàn tay ôm khoeo chân và eo mình xiết chặt. Nhờ ánh sáng của ngọn đèn lồng, tôi ngẩng đầu nhìn rõ bờ môi mím chặt, mái tóc ngấm mưa ướt đẫm, sắc mặt trắng xanh của Mộ Ngôn.
Chưa bao giờ thấy chàng tỏ ra lạnh lùng như vậy, như lớp lớp băng đóng trên mặt sông mùa đông. Tôi giơ tay định bám vai chàng, tay vừa chạm vào cổ áo, bàn chân chàng trên sàn nhà trọ đã dừng lại: “Đau à?”.
Nước mưa nhỏ từ tóc xuống, từng trận gió lớn làm ngọn đèn lồng trong tay Chấp Túc chao đảo, cuối cùng tắt phụt. Trong bóng tối, tôi len lén ôm cổ chàng, không thấy có phản kháng, khẽ trả lời: “Không đau”, nghĩ một lát, lại hỏi chàng: “Tôi nặng lắm phải không, huynh vất vả quá!”.
Tôi biết chàng sẽ trả lời thế nào, nhất định là nửa cười nửa không châm biếm tôi: “Cũng nghĩ đến sự vất vả của tôi cơ đấy?”. Nhưng lần này chàng không nói như vậy. Có vật gì khẽ chạm vào đầu, phả hơi âm ấm. Tôi nghĩ ra đó là gì, mặt chợt nóng bừng.
Hành lang ván gỗ của quán trọ kêu cót két dưới chân. Cửa phòng mở ra, tôi thấy sau bức bình phong vẽ khóm hoa tử oanh thấp thoáng cái chậu gỗ to nước bốc hơi nghi ngút, khiến ba chiếc đèn lồng treo trên giá đồng đen loang loáng nhập nhòe.
Mộ Ngôn để tôi xuống, kiểm tra vết thương trên người tôi, phát hiện chỉ có mấy vết xước trên vai do vuốt con báo cào rách, gọi Chấp Túc lại dặn dò. Sau đó như muốn đi ra, tôi vội túm ống tay áo: “Huynh định đi đâu?”. Mặt chàng cuối cùng lộ ra nụ cười: “Đi thay quần áo, cô tắm đi, lát nữa tôi quay lại”.
Mặc dù nghe nói Chấp Túc rất giỏi băng bó vết thương cũng phải uyển chuyển từ chối, đành bịa ra một lý do, cô ấy bán tín bán nghi, nhưng có lẽ cảm thấy con người tôi đầy bí hiểm, nên vẫn đi ra để mặc tôi tự lo liệu.
May vẫn còn giữ được một lọ thuốc trị thương Quân sư phụ đưa cho lúc lên đường, tuy bị ngấm chút nước mưa nhưng vẫn dùng tốt. Bôi thuốc lên vết thương, thay quần áo sạch xong, tiếng gõ cửa của Mộ Ngôn vang lên, vẫn là kiểu gõ thong thả ba tiếng.
Cửa mở, Mộ Ngôn hiện ra trước ngưỡng cửa, toàn thân áo chùng đen, tay và cổ áo nổi những hoa văn thêu chỉ bạc, tay bê bát nước gừng kháng hàn. Tôi chờ chàng đến, lúc tắm đã nghĩ chàng đến làm gì, nghĩ mãi rồi cảm thấy chàng đến làm gì không quan trọng, chỉ cần được ở bên chàng thêm một khắc, cho dù chàng đến chỉ để đưa bát nước gừng uống cho ấm bụng.
Kết quả chàng quả nhiên đến đưa bát nước gừng, ý nghĩ đầu tiên của tôi là mình thật ngốc, sao vừa rồi không giả thiết chàng đến thổ lộ tình yêu với mình.
Sì sụp uống hết bát nước gừng vẫn không thấy chàng có ý đi ra, ngồi bên giường ngây ngây nhìn tôi uống cạn giọt nước gừng cuối cùng, lát sau nói: “Khi tôi mười hai tuổi lần đầu tiên theo phụ thân xuất chinh”.
Đây là câu chuyện kể tuyệt vời trước khi ngủ, tôi để cái bát không lên chiếc bàn nhỏ cạnh đầu giường, kéo cao chăn, tựa đầu giường nghe chàng kể.
“Lúc đó tuổi nhỏ khí hăng, trúng kế dụ binh của địch, bị kẹt ở giữa vùng núi sâu vắng vẻ. Cũng là một đêm mưa, một trăm tinh binh dưới tay bị thiệt mạng, xác ngổn ngang trên núi, khó khăn lắm họ mới bảo vệ được tôi, giấu vào một hang núi, trong hang tôi nghe thấy phía xa có tiếng mãnh thú gầm gừ tranh mồi, biết là chúng đang tranh nhau xác chết của binh sỹ mình. Lúc đó tôi cũng bị trúng tên, dù im lặng nằm một góc, mùi máu tanh cũng sẽ dụ chúng đến, biến thành bữa tiệc cho chúng. Nhưng nếu đốt đuốc đuổi thú dữ, sẽ bị địch phát hiện, cả hai đều là đường chết.
Chàng chống tay lên trán, tựa như suy nghĩ, dáng tư lự khác hẳn bộ dạng tôi thường thấy.
Xem ra chàng cũng không thường xuyên kể chuyện cho em gái nghe, bởi vì câu chuyện kể trước khi ngủ nên là những chuyện tình cảm nhẹ nhàng, không nên hồi hộp thót tim như vậy, tôi nắm chặt ống tay áo chàng, sốt ruột giục: “Sau đó thế nào?”.
Mộ Ngôn ngước nhìn tôi, dưới ánh đèn, mắt chàng đen thẳm như biển sâu: “Tôi sống đến bây giờ, tình huống gay go nhất đã gặp chỉ có lần đó, nhưng lúc đó tôi không hề thấy sợ”.
Tôi gật đầu: “Ờ, huynh rất dũng cảm, nhưng, nhưng, về sau thế nào, huynh làm sao thoát ra được?”.
Chàng cầm cốc trà lên, không trả lời câu hỏi của tôi, xoay xoay trong tay: “Vốn đã tưởng ngay tình huống đó cũng không thấy sợ, có lẽ trong cuộc đời này sẽ chẳng sợ gì nữa”.
Ngừng một lát, chàng ngước mắt nói: “Bao gồm cả lần tôi bị Tử Yên đâm trúng mà cô nhìn thấy”.
Thấy tôi ngạc nhiên, chàng cười rất nhẹ, vẫn xoay cốc trà bằng gốm thô trong tay: “Tôi đã tính rồi, dùng tư thế đó, cô ấy sẽ đâm trúng chỗ nào trên người tôi, tôi sẽ bị thương như thế nào, cần dưỡng thương bao lâu, có bao nhiêu thời gian để cho tiểu đệ của tôi thừa cơ phản loạn”.
Chiếc cốc trong tay chàng đã xoay một vòng, “Chuyện này rất nguy hiểm, chỉ cần sai sót một chút là có thể mất mạng, nhưng đến khi con dao đâm xuống theo dự đoán, tôi điều chỉnh tư thế cho dễ chịu hơn, cũng không cảm thấy sợ hãi bao nhiêu”.
Chiếc cốc gốm chuyển sang tay trái, chàng thản nhiên nói: “Hình như tôi sinh ra đã không biết sợ, bẩm sinh đã thiếu cảm giác đó”.
Tôi kinh ngạc không nói ra lời, một lát sau chỉ có thể nói một câu: “Ngộ nhỡ bị đâm chết thì sao?”. Nghĩ đến Tử Yên cô nương, nghĩ đến chàng, đến kế hoạch chu toàn đó của chàng, quan hệ giữa chàng và Tử Yên cô nương là thật hay giả, nhưng cũng không mấy bận tâm, điều bận tâm nhất vẫn là ngộ nhỡ thì sao? Ngộ nhỡ lúc đó chàng bị Tử Yên cô nương đâm chết, chết trước mặt tôi, tôi tìm chàng cả đời, cuối cùng chứng kiến chàng thân mình đẫm máu nằm trước mặt, lại không biết chàng là ai. Tôi thở phào, may ông trời không để chuyện đó xảy ra.
Cốc trà được để lên bàn, ánh nến chao đảo, chàng khe khẽ lặp lại “ngộ nhỡ” nhưng lại khẽ cười: “Sẽ không có ngộ nhỡ nào hết. Giống như giải một đề toán, có một vạn bước, mỗi bước đều chính xác, nghĩa là một vạn trên một vạn. Sẽ không xảy ra sai sót một phần vạn nào hết, nếu có, chỉ là do khi giải, tính toán không cẩn thận…”.
Tôi ngắt lời chàng: “Nhưng sự đời không phải mọi chuyện đều như giải đề toán, con người có tình sẽ thấy sợ hãi, khi sợ hãi nhất định lo lắng đến tình huống ngộ nhỡ”.
Chàng chống tay lên trán: “Sao? Vậy cô nói xem, A Phất, tại sao người ta sợ?”.
Vấn đề này hoàn toàn không cần suy nghĩ, “Bởi vì có những thứ muốn giữ gìn bảo vệ”.
Chàng nhìn tôi rất lâu, chậm rãi nói: “Cô nói đúng, đó là nguyên nhân tối nay lần đầu tiên tôi đã thấy sợ”.
Không biết thế nào, câu chuyện lại đột nhiên chuyển hướng như vậy, đầu óc phản ứng không kịp, lúc sau, tôi ngây ngây nhìn chàng: “Nhưng huynh nói chưa bao giờ huynh sợ…”.
Chàng giơ tay nắm tay tôi: “Tối nay tôi rất sợ”.
Tôi sững người, khi hiểu được chàng đang nói gì, toàn thân bỗng cứng đờ, tay hơi rụt lại một cách bản năng lại bị chàng nắm chặt: “Là tôi đã sai, không nên để em một mình trong quán trọ”.
Tôi bối rối: “Cũng không thể trách huynh…”.
Chàng bổ sung: “Biết rõ em ngốc như vậy, thân thủ không tốt, lại dễ tin người”.
“ … Đủ rồi”, tôi bực mình nhìn chàng, “Thực ra là huynh…”.
Lại bị chàng ngắt lời: “Tôi thích em”.
Sự chuyển hướng quá đột ngột khiến người tôi bủn nhủn.
Tay run run.
Những lời hay như vậy, chuyện tốt như vậy, đây nhất định là đang nằm mơ. Cơ hồ nhắm mắt theo bản năng, bốn bề yên tĩnh, chỉ nghe tiếng mưa nhỏ dần bên ngoài.
Quả nhiên là mơ, chẳng phải thường nghe thấy những chuyện như thế sao, làm gì có bánh nướng từ trên trời rơi xuống.
Cánh cửa sổ “cạch” một tiếng, tôi giật nảy mình, mở mắt, nhìn thấy một con chim sẻ ướt đẫm bay vào, loạng choạng trong phòng. Căng thẳng nhìn lướt phía trước giường, vật đầu tiên lọt vào mắt là một đôi giày, nhích lên một chút, Mộ Ngôn nhăn nhó nhìn tôi: “Tôi đang chờ em trả lời, em nhắm mắt giả bộ ngủ là ý gì?”.
Chàng cầm bàn tay tôi để bên ngoài chăn, nắm chặt trong tay mình, mỉm cười chăm chú nhìn vào mắt tôi: “Tôi thích em, A Phất, có phải em cũng thích tôi?”.
Tôi hoang mang nhìn chàng, đầu óc đột nhiên trống rỗng, nghe thấy giọng nói bình tĩnh của mình: “Thích mà huynh nói là như thích em gái sao? Nếu là thích như vậy, tôi cũng thích huynh như thích anh trai…”. Chẳng biết mình đang nói gì.
Chàng khẽ kéo tôi lại, hơi cúi đầu, như vậy có thể bốn mắt nhìn nhau. Chàng nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm túc xa lạ, nói từng tiếng: “Em nghĩ tình cảm của tôi với em là thế nào? Trước đây tôi đã nói, lấy tôi có nhiều cái hời. Nếu cả đời tôi chỉ lấy một mình em, em có đồng ý lấy tôi?”.
Tôi nhìn thấy biển hoa mai trắng dâng lên, dệt thành một tấm thảm trắng, dâng dần dâng dần trong màn mưa đêm, lạnh buốt, trải khắp phòng. Thực ra đều là hoang tưởng, như cái đêm sao sáng lần đầu tôi gặp chàng đó, cảm tưởng như nhìn thấy hoa mai trắng tháng hai nở đầy triền núi. Trên môi chàng nở nụ cười, lặng lẽ, lặng lẽ nhìn tôi, gió lạnh lùa qua cửa sổ, hoa tử vi bên ngoài chi chít đầy cành, rung rung trong gió, cánh hoa tím lặng lẽ khoe sắc trong đêm.
Ông trời để chúng tôi tái ngộ đã là phúc lớn, trong lòng tôi cũng thầm mơ ước chàng thích tôi, nhưng chưa bao nghĩ điều đó sẽ thành hiện thực, chưa bao giờ, chàng hỏi tôi có bằng lòng không, sao có thể không bằng lòng. Nhưng tôi đâu có thể được gọi là con người.
Tôi như vậy, muốn ôm chàng cũng không dám.
Sống và chết là hai cõi khác nhau, chỉ là tôi quá quyến luyến. Đây là người tôi thích nhất, lòng âm thầm trân trọng chàng, muốn bảo vệ chàng, không bao giờ muốn hại chàng.
Gật đầu là chuyện dễ nhất, nhưng nếu có một ngày, chàng biết người chàng yêu thương là một người chết, chàng sẽ ra sao? Tôi sẽ ra sao?
Như qua cả một cuộc đời, tôi lấy hết can đảm nắm tay chàng, run run đặt lên mũi mình. Sắc mặt chàng có chút lạ lùng, tôi không dám nhìn biểu hiện tiếp theo của chàng, cố kìm nỗi cay đắng trong lòng: “Có cảm thấy gì không…? Mộ Ngôn, tôi không có hơi thở”.
Ngón tay chàng hơi dừng lại, đã nói ra được câu đó, dường như tôi có thể thẳng thắn nói ra tất cả: “Có phải rất nhiều lúc huynh ngạc nhiên tại sao tôi không thấy đau”. Tôi cắn môi, khó nhọc đẩy cái vật chắn trong họng, “Bởi vì tôi hoàn toàn không cảm thấy đau, cũng không ngửi thấy mùi hương hoa nồng nàn, cũng không ngửi thấy mùi cao lương mỹ vị của tửu lầu mà huynh ca ngợi. Tôi tỏ ra rất thích bánh chẻo nhân tôm, thực ra ăn nó không có vị gì, chỉ là trước đây, trước đây tôi từng thích món đó”.
Ngẩng đầu, hai tay che mắt, nước mắt bắt đầu tuôn, tất cả đã hết. Ép chặt vào đầu giường như bám vào khúc gỗ nổi giữa biển nước mênh mông: “Huynh nói huynh muốn lấy tôi, tôi cầu mong không được, nhưng tôi thế này, huynh còn dám lấy không?”. Tất cả đã hết.
Hồi lâu sau, ngón tay lành lạnh của chàng dừng trên tai tôi, men theo lớp mặt nạ bạc từ từ trượt lên trán. Với tâm trạng bát nước đã đổ, không thể cứu vãn, tôi đợi chàng lột mặt nạ của mình.
Khi mặt nạ được nhấc ra, tôi không dám mở mắt nhìn, chàng nhất định hoảng sợ khi thấy khuôn mặt trắng nhợt của tôi, nhất định nhìn thấy vết sẹo dài trên trán tôi, một khuôn mặt xấu xí chấp chới giữa sống và chết, cảm giác của chàng sẽ thế nào?
Tôi từng nghe một câu chuyện, một con rối bằng gỗ đem lòng yêu chủ nhân của mình, do nhân duyên ngẫu hợp thế nào bị một thuật sĩ làm bùa phép biến thành một cô gái, cuối cùng lấy được người mình yêu, nhưng đến ngày bùa phép hết công lực, chủ nhân đã sợ hãi ngất xỉu khi con rối hiện nguyên hình, con rối với trái tim thiếu nữ gục ngã bên cạnh chủ, cuối cùng dùng thanh kiếm tự kết liễu đời mình.
Tôi lúc này giống như con rối đó, chủ nhân của cô hoảng sợ khi nhìn thấy cô, nhưng không biết cô còn sợ hơn anh ta vạn lần.
Ngón tay từ giữa hai hàng lông mày từ từ vòng qua trán, di chuyển về tai trái, chính là chỗ vết sẹo đó, là nơi tôi không muốn chàng chú ý nhất, nhưng ngón tay chàng thậm chí đã dừng ở đó, người run lên, tôi chờ câu nói của chàng, “Duyên phận đã hết, chúng ta đoạn tuyệt từ đây”, câu Quân Vỹ thường viết trong tiểu thuyết.
Tóc mai bị vén lên. Trong tiếng cánh cửa sổ bị gió thổi va lạch cạch, giọng chàng rất nhẹ: “A Phất, mở mắt nhìn tôi”.
Tôi căng thẳng nắm chặt ống tay áo, vừa cảm thấy không thể từ chối đề nghị đó vừa sợ mở mắt nhìn thấy cái không muốn nhìn. Cuối cùng tình cảm chiến thắng lý trí, tôi mở mắt ngước nhìn, thần sắc trên mặt Mộ Ngôn quả nhiên lạ lùng chưa từng thấy, nhưng không phải là vẻ kinh hoàng, khiếp sợ hay ghét bỏ, giống như đứng trước một trận chiến không biết thắng hay thua, điềm tĩnh đến mức tựa như trang nghiêm.
Tôi ngây ngây nhìn chàng.
Cặp mày hơi cau của chàng cuối cùng giãn ra, kéo tôi lại gần hơn: “Chuyện đó em có thể tự nói ra với tôi, tôi rất vui”.
Tôi giơ tay che vết sẹo trên trán: “Huynh, huynh không sợ sao?”.
Chàng lắc đầu, như nghe thấy chuyện buồn cười: “Tại sao lại sợ?”.
Sao có thể không sợ, có lúc ngủ mơ, nghĩ đến bản thân sống như chết, chính mình cũng thấy sợ, sao chàng lại bình tĩnh chấp nhận như vậy.
Đối diện với gương mặt bối rối phản chiếu trong chiếc gương đồng, tôi lùi vào bóng tối, cười đau khổ, “Tôi không giống một người sống thực sự, hơn nữa, huynh nhìn thấy rồi, tôi là một quái vật xấu xí”.
Chàng kéo tôi ra khỏi bóng tối, nhìn kỹ tôi, nơi ánh mắt chàng quét qua, da thịt tôi như bị lửa thiêu, rồi lại bị dìm trong băng lạnh. Tôi ngoảnh mặt sang bên, trong cái nhìn hai tầng băng hỏa tương khắc đó, chàng nghiêng người gỡ bàn tay tôi đang ôm trán, nắm trong tay mình: “Tại sao lại cho rằng mình xấu xí, nếu như ngay… danh chấn thiên hạ…”.
Nói đến đó, chàng cúi đầu cười, như tự nói với mình: “Tôi vốn nghĩ đó chỉ là… nhưng không ngờ lại đúng như vậy”. Khi ngẩng đầu chàng lại giơ tay vuốt ve vết sẹo trên trán tôi, “Nếu hồi đó tôi có thể đoán ra, chúng ta…”. Nhưng cuối cùng lại không nói hết. Tôi không biết chàng định nói gì, chỉ lờ mờ hiểu, đó là điều tôi không thể, cũng không cần tìm hiểu.
Bàn tay chàng dừng trên má tôi: “Vui lên đi, vết sẹo nhỏ đó không ảnh hưởng đến nhan sắc của em, em là cô gái đẹp nhất tôi từng gặp”. Ngón tay chàng lau nước mắt cho tôi, chăm chú nhìn mắt tôi, “Những chuyện đó đã có tôi, em chỉ cần cố sống đến khi tôi tìm ra cách, có làm được không?”. Ngoài gật đầu tôi không thể làm gì khác. Nếu đây là mộng, cả đời này tốt nhất tôi không nên tỉnh lại.
Chính trong lúc tôi gật đầu lia lịa, một miếng ngọc bội vân mây xâu chỉ đỏ đã tròng vào cổ tôi. Bạch ngọc Dương Chi trước ngực sáng lóng lánh, chàng ngắm nghía kiệt tác trước ngực tôi, môi cười rất đẹp: “Đây là tín vật của tôi, tôi đưa cho em vật quan trọng nhất thân mẫu để lại cho tôi, em trao tôi vật gì?”.
Tôi không biết nên trao chàng vật gì, tìm khắp người, lục tung mọi thứ, gia tài của tôi gồm có lọ thuốc trị thương đã dùng hết nửa, con hổ ngọc của chàng đưa lần trước, một bức họa nhỏ vẽ trộm chân dung chàng, chiếc trâm bạch ngọc vân hoa mua cho chàng nhưng vẫn chưa đưa.
Chàng hiếu kỳ nhìn tôi: “Đây là…”.
Tôi đẩy những vật đó đến trước mặt chàng: “Tùy chàng chọn”. Tôi không có tiền, không mua được những thứ quý hiếm, chỉ mong những thứ lặt vặt đó có thể chàng sẽ thích.
Chàng nhìn tôi một lát, nhặt lên chiếc trâm bạch ngọc: “Em vẽ bức họa đó là để đổi lấy chiếc trâm này tặng tôi?”.
Tôi bối rối gật đầu, ngượng nghịu giải thích: “Nghe nói đó là loại ngọc cổ, đã có hai trăm tuổi, chế tác cũng khéo, do một thợ nổi tiếng nào đó làm ra, ông chủ nhất định đòi ba trăm thù vàng…”.
Lời chưa dứt bỗng thấy ánh nến hơi tối, chàng đã nghiêng người, bất ngờ hôn vào môi tôi. Có thể cảm thấy hơi thở âm ấm bên má. Tôi sững người nhìn chàng, không biết rằng, trong tình huống như thế này hầu hết các cô gái sẽ nhắm mắt. Khuôn mặt đẹp kề sát, hàng mi dài, ánh mắt như cười. Tôi thật vô dụng, ngay hôn cũng không biết, chàng bèn nhẫn nại chà xát, dụ dỗ, dùng môi tách môi tôi, để chàng ngọt ngào mút mát. Nghĩ đến con đường gập ghềnh đã qua, mắt cay cay, nước mắt bỗng trào ra.
Chàng áp trán vào trán tôi, lấy tay lau nước mắt không ngừng trào ra của tôi, mỉm cười chế giễu: “Đồ mau nước mắt”.
Tôi bám lấy chàng, ôm chặt cổ chàng nức nở: “Em không mau nước mắt”.
Tay chàng vò rối tóc tôi: “Sao? Có lý lẽ hay ho gì nói nghe nào?”.
Tôi nhích ra một chút: “Được, em mau nước mắt. Nhưng mau nước mắt không phải là xấu. Em cảm thấy nước mắt là thứ không cần kìm nén nhất trên đời, có lúc em cũng muốn kìm nén, để mọi người thấy em rất kiên cường, bởi vì về sau em hiểu rằng kiên cường chỉ là một phẩm chất của lý trí, mau nước mắt không phải không kiên cường, sau khi khóc xong vẫn có thể đứng dậy, có thể nhìn rõ nên đi con đường nào, làm việc gì, em muốn là một người như thế. Chàng nghĩ coi, nếu như ngay nước mắt em cũng phải nén vào trong, những nỗi lo lắng, sợ hãi và cả hạnh phúc của em nên lấy gì để chứng minh, lấy gì chứng minh em vẫn còn sống”.
Ánh lửa chiếu lên đôi mắt sáng, sâu như biển của Mộ Ngôn, như có vì sao ở bên trong, ngoài cửa sổ mưa gió đã yên.
Lúc sau, chàng kéo tôi vào lòng: “A Phất, từ nay em có thể cứ khóc thoải mái cho tôi nghe”.
Tôi gục vào vai chàng, giống như một giấc mộng lớn, đây là điều lòng tôi hằng khao khát, là Hoa Tư mộng của tôi, tóc chàng chà vào mặt tôi, có một cái cây nhỏ đang lớn dần trong lòng tôi, nở đầy một tán hoa, bóng hai người ôm nhau in lên bức rèm màu tím ngập tràn trong mắt tôi.
Chú thích:
(1) Trung Quốc cổ đại có chín châu, Dự Châu ở giữa gọi là Trung Châu. Ngày nay chỉ khu vực tỉnh Hà Nam, thuộc vùng trung du sông Hoàng Hà.