|
|
14-10-2008, 05:51 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ chín
Người thực sự tài không lộ mặt
Con người bé nhỏ méo mó vẹo vọ đó đội mũ quả dưa hai lần vải có hai tai may bằng lông thỏ đã cũ, trông chẳng khác nào hai con chuột chết đeo hai bên má, nách kẹp một bọc dài dài bằng vải. Rét căm căm làm hắn so vai rụt cổ, co ro tay chân, chốc chốc lạt lấy tay áo quệt nước mũi. Chân hắn líu ríu nhưng đi rất nhanh, cứ như có con chó dữ đuổi đằng sau. Hắn quay người chạy tọt vào đám nhà bên con sông đào ở trong cửa Nam môn, ngoặt ba lán về phía tay trái, ngoặt hai lấn về tay phải rồi đi xuyên chéo vào một ngõ nhỏ. Người vẹo vọ đi đường đường ngay thì thành vẹo, đường vẹo lại thành ngay, cho nên con người vẹo vọ đó vào đến cái ngõ xiên xẹo này thấy thẳng thớm hẳn lên. Hắn dừng lại trước một cảnh cửa gỗ đã hư nát gõ ba tiếng gấp, một tiếng khoan, ba lần như thế, cửa liền mở ra. Người mở cửa là Ngưu Phượng Chương. Thấy hắn, lão nói:
- Ô, Hoạt Thụ đấy à! Sao bây giờ mày mới đến, tao tưởng mày lộn cổ xuống sông đào rồi kia! Cụ Ba Đằng chờ mày đến nửa ngày rồi đấy!
Hoạt Thụ thở hào hển, cổ họng khẽ rít lên, miệng mở ra mà chẳng thốt nên lời. Ngưu Phượng Chương bảo:
- Đừng đứng đây mà thở mãi thế, cẩn thận kẻo người ta lại trông thấy.
Nói rồi lão dẫn Hoạt Thụ vào nhà. Trong nhà, trên bếp lò đặt một chảo gang lớn đang hấp tranh. Hơi nước bốc lên khiến Ngưu Phượng Chương mặt mũi đỏ bừng, cứ y như món sỏ bò ở hàng lão Trương Quan Nhi dưới lầu treo trống vậy. Bên chiếc bàn bát tiên có một người beo béo đang ngồi, thoạt trông biết ngay là được ăn uống tốt. Mắt, miệng, ngón tay, móng tay, chỗ nào cũng vừa múp míp vừa bóng nhẫy. ăn mặc cũng lịch sự, giải dây tơ buộc túi đựng điếu hít thêu hoa ở thắt lưng bỏ thõng, trên bàn đặt cải điếu hít chạm hoa màu lam to tướng, nắp ngọc viền vàng, lại một cái đĩa đựng thuốc lá bằng sứ, trên đã có nhúm thuốc lá để ngửi. Hoạt Thụ hé mắt nhìn thấy ngay cái đã ấy làm bằng mảnh sứ đời Tống, không phải đồ tốt.
Ông Ba Đằng thấy Hoạt Thụ, tỏ vẻ không bằng lòng. Hoạt Thụ mồm miệng ngọng nghịu nhưng nói cứ liến thoắng:
- Cửa hên (hiệu) có quây (quy) định, thớ (thật) giả không được nó (nói). Bi (bây) giờ mí nó thớ (mới nói thật), mí (mấy) lần mua trước đều là đồ giả... - Nói đến đây hắn nổi hen, vừa thở vừa nói tiếp. - ông chẳng oán ấy (ai) được, thớ (thật) giả phải do mớ (mắt) mình, hễ giao tiền đem hàng ra khỏi cớ (cửa), dù có mất đầu cũng đành phải chịu. Hôm nay nể mí (mặt) ông Năm Ngưu, ông bỏ hây (hai) trăm lạng nữa ra đây, cầm cuộn tranh này về, bảo đảm hàng loại một...
Nói rồi hắn mở bọc vải, lại giở cuộn tranh ra, chính là bức tranh của Trương Thạch Đào vẽ mà hiệu Dưỡng Cổ Trai mua vào cách đây hai năm.
Hai con mắt ông Ba Đằng cứ ngó xuôi ngó ngược mãi trên bức tranh, chỉ sợ lại mua phải của giả. Ông ta bèn liếc Ngưu Phượng Chương, ra ý nài lão đoán định giúp thật giả. Ngưu Phượng Chương chỉ thạo làm tranh giả, không hiểu biết mấy về tranh thật nên hỏi lại Hoạt Thụ:
- Bức này quả cụ Đồng bảo là thật à? Thôi đừng hại ông Ba Đằng nữa đi! Ông Ba có tiền nhưng không thể cứ làm kẻ bị bịp mãi. Từ khi ông khách Sơn Tây Lã Hiển Khanh giới thiệu ông Ba đến cửa hiệu nhà mày mua đồ cổ đem về đưa cho người trong nghề xem, ai thoạt thấy cũng lắc đầu. Như thế chẳng phải cố ý làm người ta khuynh gia bại sản là gì? Hoạt Thụ này, tục ngữ có câu "hại người một lần, hao mười tuổi thọ" đấy!
- Coi ông nó (nói) kìa... Nếu là giả, đã, chẳng bá (bán) từ lâu rồi sao? Bức này cất ở trong co (kho), tôi coi dứ (giữ) nó vừa đúng hây (hai) năm rưỡi rồi...
- Mày lấy trộm bức tranh ấy đem đến đây, không sợ cụ Đồng nhà mày biết à? - ông Ba Đằng hỏi.
- Việc ấy thu xếp dế (dễ) lắm... Tôi nghĩ kĩ rồi, nhờ ông Năm làm bí (bức) tranh giả, thay vào chỗ tranh thớ (thật) này...
Ngưu Phượng Chương cười nhạt:
- Tính toán dễ nghe nhỉ! Tiền hai ông con nhà mày đút túi, vạ thì vạ mình tao. Đã ai thoát khỏi hai con mắt cụ Đồng? Ông ấy không những thấy ngay là giả mà còn biết do tao làm giả nữa kia! - Lão xua tay. - Lớn bé ba đời nhà tao đều sống nhờ cậy vào tao, mày chớ có hại xong ông Ba Đằng quay lại hại tao nữa!
- Việc ấy dế (dễ) lắm! Tôi có... cá (cách)... - Mặt Hoạt Thụ ánh lên vẻ tươi cười.
- Cách gì? - Ngưu Phượng Chương vội hỏi. Lão nhìn chằm chằm vào mắt Hoạt Thụ, nhưng không cách nào thấy được hai con ngươi của hắn.
Hoạt Thụ không đáp. Ngưu Phượng Chương chỉ vào Ba Đằng bảo hắn:
- Người ta mất tiền, mày phải cho người ta biết rõ ràng, ví dù có chết cũng khỏi chết oan chứ!
Hoạt Thụ ngẩn ra giây lát, vẫn chỉ đáp:
- Công việc của nghề đồ cổ, có nói (nói) chưa chắc ông ấy đã hiểu. Chẳng biết cửa hiệu nhà họ Đồng có hại khách hàng hay không, còn Hoạt Thụ này bảo đảm không hại ông Ba Đằng là được rồi...
Nghe nói Ngưu Phượng Chương biết hắn muốn giấu Ba Đằng điều gì đó, bèn chuyển câu chuyện:
- Bức tranh này muốn làm giả, ít nhất cũng phải để ở chỗ tôi cả tháng, nếu cậu chủ tìm không thấy ở nhà, lại chẳng hỏng việc hay sao?
Hoại Thụ lại cười, đôi mắt nhỏ không còn trông thấy đâu nữa:
- Cậu chủ đâu cò lò (còn lòng) dạ nào trông nom đến tranh nữa.
- Làm sao? - Ba Đằng là người ngoài, không biết chuyện.
- Cụ cứ hỏi ông Năm Ngưu, ông ấy biết hế (hết) chuyện nhà họ Đồng. Từ cái bữa thi chân ngày hội hoa đăng ấy, mợ Cả được nước, mợ Hai hế thờ (hết thời). Nhà họ Đồng bi (bây) giờ là thiên hạ của mợ Cả. Chẳng những bọn hầu gái đổ xô về phòng mợ Cả mà cả cụ Đồng cũng chạy đến phòng mớ Cả nữa cơ, hì hì... Cậu Hai không được thơm lây, chân bế (bết) những cứ (cứt). Vợ chồng cậu Hai mợ Hai ngày nào cũng cá (cãi) nhau, nắm tó (tóc) nhau, đánh gỡ (gấy) cả răng nhau...
- Nghe cư sĩ họ Lã nói, mợ Cả nhà ấy vốn là con gái nhà nghèo, vậy mà đảm đương được một nhà đại gia như vậy sao? - Ba Đằng hỏi.
Ngưu Phượng Chương đáp:
- Ông Ba nói như thế e chưa ổn. Tài năng con người có chia theo giàu nghèo đâu? Theo tôi, cái cô nàng ấy nếu là nam giới; có thể làm tới quan đại thần Bắc dương ấy chứ! Vả lại... còn có cụ Đồng nâng đỡ cho nữa chứ, ai dám không vâng lời, không phục?
- Chuyện nhà họ Đồng kì quặc thật, chỉ nhờ đôi chân mà cũng xưng vương được! Ba Đằng nghe đang say sưa, luôn tay đưa thuốc lá lên mũi ngửi.
Ngưu Phượng Chương cười:
- Ông đã biết gì về chuyện đôi chân bó? Nếu ông muốn mở rộng tầm mắt, hôm nào đó tôi sẽ dẫn ông đi xem sự đời. Đôi chân bó ấy thật là tuyệt thế vô song, cứ nhọn như mũi thương của Thường Sơn Triệu Tử Long ấy chứ lị! À mà này, cái hôm cư sĩ họ Lã lần đầu tiên đưa ông đến Thiên Tân, câu chuyện bọn chúng nói với nhau ở nhà hàng Nghĩa Hợp Thăng, ông chẳng đã nghe cả rồi còn gì? Cư sĩ họ Lã cũng phục lăn, thừa nhận chân bó nhà họ Đồng là Thiên Tân nhất tuyệt đấy!
Ai ngờ Ba Đằng vừa nghe đã giẩu mồm ra, lé mắt nói:
- Ông cư sĩ họ Lã phục từ trong lòng ra tới ngoài miệng, chứ tôi không khi nào như thế cả. Nói thật với ông nhá, cư sĩ họ Lã mà bàn về đôi chân bó với tôi ấy à, tôi như ở trong nhà, còn ông ấy ở ngoài cửa. Nếu không thế thì dù cái hôm thi chân ấy, các ông có mời, tôi cũng chẳng đi. Tôi dám nói, tôi đánh đổ được mợ Cả nhà các ông đấy!
- Sao! ông á? Chân của ông to bằng hòn gạch, bằng cả con vịt, cả cái thuyền! Thôi đừng đem thân ra làm trò cười nửa.- Ngưu Phượng Chương ngoác miệng cười lớn.
- Ai đùa với ông? Tôi nói thật đấy! Hôm nay ông hẹn trước với nhà họ Đồng, ngày mai tôi đưa con gái tôi đến! - Ba Đằng nghiêm mặt nói.
- Sao, sao, con gái ông à? ở đâu đấy? Sao tôi chẳng nghe nói?
- Cháu ở nhà trọ, tôi đưa cháu đến Thiên Tân chơi mà! Ông cứ lên Kinh hỏi thăm xem, hai tấc hai nhé! Ở Kinh, con gái tôi đứng thứ nhất đấy!
- Hai tấc hai, là kích thước của bàn chân? Bằng chứng nào? - Ngưu Phượng Chương tròn xoe mắt.
Ba Đằng lấy ngón tay chọc đổ cái điếu hít, đáp:
- Bằng chừng này này? Chân mợ Cả nhà các ông đọ được chăng?
- Ái chà chà! Trong thiên hạ lại còn có bàn chân bằng chừng ấy? Chưa từng nghe nói bao giờ. Lát nữa tôi phải xin xem trước mới được. Hay dở gì tôi cũng kể được là dân nghiền gót sen. Ông muốn tôi mở rộng tầm rnắt, tôi cũng muốn ông được như vậy. Tôi có trữ được một vài đồ cổ thật đây!
Ngưu Phượng Chương nói xong đứng dậy mở tủ, lấy ra một tấm gương bằng đồng có chạm thú biển, chim lành và nho, một lò hương bằng gốm đen, một cái nghiên mực Hấp Khê hình quả bầu, nửa bộ tượng bát tiên bằng ngọc, chỉ còn lại có bốn vị tiên là Lã Động Tân, Lâm Thái Hòa, Hán Chung Li và Tào Quốc Cữu, cùng một kiểu chân trổ, người nào cũng mặt mày tay chân quần áo sinh động như thật. Ông Ba Đằng vừa trông thấy đã hoa cả mắt, mừng rỡ cứ xát hai lòng bàn tay vào với nhau. Hoạt Thụ đứng bên cạnh không lên tiếng nhưng thấy ngay trong mấy thứ đó chỉ có tấm gương đồng là gương đời Đường, còn lò với nghiên đều là của dỏm. Bốn vị tiên bằng ngọc kia cũng chỉ là thứ đồ chơi, không gọi được là cổ. Rồi hắn nói:
- Ông Ba ạ, nếu thớ (thật) ông đưa ra được đôi chân hây (hai) tấc hây (hai), chèn được mợ Cả nhà chúng tôi xớ (xuống), tôi đảm bảo cậu chủ tôi thế nào cũng biếu ông cái đỉ (đỉnh) nhà Chu để tạ ơn.
- Việc ấy dễ ợt. Mày về nói trước đi, ngày mai tao sẽ đến tận nhà bái kiến. - Ba Đằng nói.
Hoạt Thụ mừng rỡ đứng dậy cáo từ. Ngưu Phượng Chương đưa chân hắn ra ngoài cửa, khép cửa lại, hỏi:
- Vừa nãy chú em bảo có cách gì? Làm tranh giả loại ấy tớ ngán lắm, sợ không giống, cố lắm cũng chỉ giống được năm phần... Mà chớ có nói năm phần, chỉ ba phần thôi cũng khá lắm rồi!
Hoạt Thụ đến sát bên, nhón gót đứng bằng mấy đầu ngón chân, miệng chõ vào cái tai to như tai voi của Ngưu Phượng Chương thì thào một hồi, khiến miệng lão chành ra như muốn rách, kinh ngạc thốt lên:
Tay nghề của chú em còn giỏi hơn cả tớ!
Lão ngơ ngẩn ngắm Hoạt Thụ, bộ dạng lão chẳng biết giống người gặp ma hay gặp thần. Lão không hiểu cái thằng dở sống dở chết này làm sao lại biết được tuyệt kĩ làm tranh giả. Thế mới gọi là người thực sự tài không lộ mặt. Quả là người tài thực sự không lộ mặt. Hoạt Thụ nói:
- Sau này chá (cháu) với ông cùng cộ (cộng) tác, ông chỉ biết làm giả thôi hay sao? Kiểu cháu làm là nửa giả nửa thớ (thật), có thớ (thật) có giả, muốn nhợ (nhận) cũng nhợ (nhận) chẳng ra.
- Tuyệt thì tuyệt thật đấy, nhưng trống ngực tớ cứ đánh thình thình, tớ sợ cụ Đồng lắm!
- Sợ gì cụ ấy! Cụ Đồng đặt hết tâm trí vào chân bó, chẳng còn ai ngó ngà (ngàng) đến cửa hêu (hiệu). ông thử gẩy bàn tí (tính) mà xem, chỉ một tờ tranh kiểu này ăn đứt tra (trăm) tờ của ông trước kia chứ chẳng chơi...
Đôi mắt như mắt trâu của Ngưu Phượng Chương lóe sáng. Lão đã có gan làm, chỉ dặn:
- Đến lúc ấy chú mày chớ có cắn lại tao đấy nhé! - Lão lại thỉ thào. - Chú em phải để ý, cái tranh to như thế này mang ra mang vào dễ gây chú ý lắm đấy!
Khuôn mặt nhỏ vừa bệch vừa méo vừa bóng vừa lạnh của Hoạt Thụ nở một nụ cười khinh thường. Hắn không tiếp lời, chỉ nói:
- Ông để mắt đến ông Ba Đằng nhé! Ngày mai thế nà (nào) cũng bảo ông ấy đưa con gái đến. Chỉ cần đôi chân hây tấc ấy đè bẹ (bẹp) được mợ Cả, thì nhà họ Đồng lại lộn tùng phèo lần nửa, ông có dọn cả cửa hếu (hiệu) về đây cũng chẳng ai ngó ngà (ngàng) đến đâu...
Ngưu Phượng Chương dựng đứng hai mắt lên, thì thào:
- Còn cái việc làm tranh giả để tráo tranh thật ấy, tớ vẫn chưa nắm thật vững đâu đấy!
Nhưng Hoạt Thụ đã quay lưng đi rồi.
|
14-10-2008, 05:53 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ mười
Bạch Kim Bảo tam chiến Qua Hương Liên
Mấy mợ nàng dâu sửa soạn từ đầu đến chân xong xuôi, đang đợi ông Ba Đằng dẫn con gái đến chơi. Nói đến chơi là nói cho dễ nghe thực ra là đến đấu với nhau.
Bạch Kim Bảo hôm nay rất phấn khởi, người nhẹ nhõm hẳn. Cô ta biết tiểu thư nhà họ Đằng đến không có hại gì cho mình, ngược lại là giúp cho mình. Cô ta thấy mình chẳng cần gắng hết sức, chỉ coi như một màn trò hay mà thôi. Cô ngoảnh mật ghé vào mợ ba Nhĩ Nhã Quyên đang ngồi bên cạnh bảo:
- Nghe nói bàn chân cô bé ấy nhiều nhất mới có hai tấc hai. Mình chẳng tin. Nếu quả thật như thế thì chân nhà họ Đồng chúng ta vứt đi đâu? Có đúng không?
Tiếng cô ta không to cũng chẳng nhỏ, vừa đủ để cho Qua Hương Liên ngồi phía bên kia nghe thấy. Nhĩ Nhã Quyên cụp mắt xuống ngó Qua Hương Liên, không dám lên tiếng. Hương Liên mặt cứ tỉnh khô khiến người khác không có cách gì biết được cô có vững vàng trước cuộc chiến hôm nay hay không, thắng bại như thế nào.
Nhĩ Nhã Quyên hôm kia mới từ miền Nam trở về. Vốn định cùng cậu Ba Triệu Phú về sớm rồi ăn Tết, nào ngờ lúc sắp lên đường, cậu Ba bị con rùa đồng từ trên giá rơi xuống đập gẫy xương mu bàn chân nên không chuyển dịch được lấy một bước. Nhĩ Nhã Quyên đành nhờ một bà thím họ xa làm bạn cùng về Thiên Tân thăm nhà chồng, thăm người quen, vả cũng muốn thăm người chị dâu chồng chưa hề gặp mặt là Qua Hương Liên. Lâu nay có nghe nói đôi chân chị dâu đẹp hơn cả đôi chân bà mẹ chồng khi trước. Tai nghe không bằng mắt thấy, thâm tâm cô còn muốn thử so đọ xem thế nào. Về đến nhà, Bạch Kim Bảo liền kéo luôn cô vào phòng mình kể lể nọ kia, trước hết kể Qua Hương Liên ở nhà một tay che kín trời như thế nào, sau đó xúi Nhĩ Nhã Quyên thi chân cùng Hương Liên.
Gót sen Dương Châu cũng nổi tiếng trong thiên hạ, Nhĩ Nhã Quyên lại là người vừa mắt Đồng Nhan An khi ông đến Dương Châu mua thiếp viết chữ, cho nên càng là "vạn người chọn được một". Lệ cũ ở Dương Châu cũng rất nổi tiếng, người tài giỏi đều kiêu ngạo, lại thêrn bị Bạch Kim Bạo nói khích, nỗi kiêu ngầm trong lòng nhĩ Nhã Quyên lộ hẳn ra mặt. Cô lập tức xỏ chân vào đôi giầy bằng đồng trắng để đi gặp bà chị dâu chồng. Bạch Kim Bảo theo sát đằng sau. Cô ta tính kĩ rồi, chỉ cần Nhĩ Nhã Quyên lần này thắng, cô ta sẽ cho Hương Liên nếm mùi "trống thủng mặc người đánh loạn xạ" là thế nào.
Hương Liên thấy Nhĩ Nhã Quyên đến thì hỏi hết chuyện này sang chuyện khác, như cười mà chẳng cười, không lạnh lùng cũng chẳng vồn vã, không nhạt nhẽo cũng chẳng mặn mà. Đôi mắt cô chỉ ngắm khuôn mặt xinh xinh như một đóa hoa nguyệt quý của Nhã Quyên mà chẳng hể nhìn đôi chân của cô ta. Còn cô, váy trùm kín chân để Nhã Quyên không có cách nào so đọ được với cô. Rồi Hương Liên đang nói cười, bỗng chỉ tay vào chân Nhã Quyên hỏi:
- Đôi giầy bằng đồng trắng này, thím nhờ người đánh cho đấy à?
Nhĩ Nhã Quyên chộp được cơ hội, lập tức trả lời:
- Đôi này do một khách buôn ở Hồ Nam tặng em. ông ấy thấy một người con gái làm xiếc ở Sương Tây đì dôi hài này làm trò leo dây và đá ván. Tấm ván dầy một tấc thế mà mỗi chân đá thủng một lỗ. ông khách buôn ấy bỏ ra mấy trăm lạng để mua đôi này rồi cứ đòi tặng cho em. Giầy thường không so với giầy này được vì mặt giầy, đế giầy, má giầy đều cứng không một chỗ nào mềm. Chân mập một chút, vẹo một chút, dai một chút thôi cũng không đi vừa. Giầy không nể nang chủ, mà chủ có muốn chiều ý nó cũng không được. Nào ngờ em vừa xỏ thử đã vừa như in.
Nói đến đây, Nhĩ Nhã Quyên nhoẻn một nụ cười tươi như hoa nở, lại liếc mắt nhìn Bạch Kim Bảo. Bạch Kim Bảo nhân đó nói:
- Cũng tùy loại chân, thật đấy! Móng lừa, chân gà đương nhiên đâu có đi được?
Hương Liên làm như không nghe tiếng, mỉm cười bảo Nhĩ Nhã Quyên:
- Thím cho chị mượn đi thử được không?
Nhĩ Nhã Quyên ngẩn ra. Cô đang muốn cho Hương Liên đi thử để bà chị bẽ mặt. Đôi giầy đồng này cứng ngắc, mười đôi chân có đến chín đôi rưỡi đi không vừa. Chắc bà chị không rõ mưu kế của mình nên chưa cân nhắc đã đâm đầu vào. Càng hay! Nhĩ Nhã Quyên không chút do dự, tháo ngay giầy ra đưa cho Hương Liên. Nào ngờ Hương Liên vừa xỏ chân vào đã lọt thỏm như bỏ một vật vào trong túi. Cô ngoảnh mặt bảo cô hầu Đào Nhi đứng sau lưng:
- Đi lấy ít bông đem lại đây, đôi giầy này to quá!
Câu nói ấy khác nào một nhát búa bổ xuống Nhĩ Nhã Quyên. Cô ta chưa từng thấy đôi chân nào vừa xinh, vừa mềm, vừa thon, vừa đẹp như thế. Giầy bằng đồng dù có cứng hơn nữa cũng kềm không chặt đôi chân ấy. Hương Liên chúm chím cười, lại bảo với Bạch Kim Bảo:
- Thím Hai, thím cũng thử chơi một cái xem nào!
Câu này lại là một nhát búa nữa bổ xuống Bạch Kim Bảo. Bạch Kim Bảo tự biết có xỏ thử cũng xỏ không vừa nên lắc đầu, mặt bẽn lẽn. Hương Liên đứng lên, không nói một lời, dẫn Đào Nhi trở về phòng. Từ lúc ấy trở đi, Nhĩ Nhã Quyên sợ cô. Bạch Kim Bảo lại càng sợ cô, mấy ngày sau cũng không dám nhìn thẳng vào mắt Hương Liên, còn cảm thấy Hương Liên coi chừng cô để trả thù. Thật ra Hương Liên nào có để ý, chỉ coi như chẳng có việc gì xảy ra.
Hôm nay Bạch Kim Bảo lại hoạt bát hẳn lên. Chân có hai tấc hai, riêng kích thước nhỏ ấy đã đủ làm Hương Liên hoảng rồi. Trống ngực có ta không đánh thình thình thì mới lạ!
Trong khi bốn mợ nàng dâu chờ cô tiểu thư nhà họ Đằng thì Kiều Lục Kiều, Lục Đạt Phu và mấy người nữa đến mời Đồng Nhẫn An tới hí viện Khánh Lai Khôn đường Hải Đại xem vở Chiếc vòng ngọc đánh rơi. Đồng Nhẫn An định ở nhà chờ xem đôi chân hai tấc hai. Kiều Lục Kiều bảo:
- Ở đằng ấy cũng có một đôi chân nữa, còn hơn mười lần đôi hai tấc hai kia? Tôi nói sai, cụ cứ xẻo mũi!
Đồng Nhẫn An nghi hoặc nhẩm tính:
- Hơn mười lần đôi hai tấc hai thì là hai phân hai, chỉ lớn bằng con kiến hay sao?
Rồi lão ra cửa lên xe, suốt dọc đường nói cười hỉ hả. Thực ra, vé xem diễn trò do Đồng Thiệu Hoa bỏ tiền mua để Kiều Lục Kiều đến mời, nhằm dụ Đồng Nhẫn An ra khỏi nhà, không còn ai che đỡ cho Hương Liên nữa. Ở nhà, chỉ cần tiểu thư nhà họ Đằng thắng là Bạch Kim Bảo chọc trời khuấy đất. Thật là một bên xem trò, một bên diễn trò. Diễn trò, xem trò, náo trò, phỉnh trò, dỗ trò, làm trò, chỉ trừ không có trò mà thôi, còn lại đều là trò cả. Nhưng nói cho sâu sắc thì không có trò càng mới là trò.
Ở bên ấy, khi Đồng Nhẫn An bước vào bãi diễn thì trò đã bắt đầu. Tôn Ngọc Giảo đang ngồi trên ghế giữa sàn diễn, chân trái gác lên chân phải, uốn éo nói:
- Tiểu nữ Tôn Ngọc Giảo này, mẫu thân đi dâng hương cúng Phật, tôi ở nhà nhàn rỗi chẳng có việc gì, đành thêu thùa khâu vá giải bớt muộn phiền vậy à!
Nói đến đây, tiếng thanh la khua vang, bàn chân trái diễn viên dang giơ lên bỗng ruỗi ra, phô rõ đế hài hai mầu xanh trắng nõn nà chẳng khác gì mầm măng thon nhọn. Động tác này suýt nữa khiến Đồng Nhẫn An nhìn đến phát ngất. Lão rối rít hỏi tên cô đào, Thiệu Hoa vội bảo cô ta tên Nguyệt Trung Tiên. Thế là lão cứ luôn mồm lẩm nhẩm: "Nguyệt Trung Tiên ơi tiên trong vầng nguyệt...", thành thử màn trò đệm "Bờ nước trắng" sau đó, lão có nhìn mà như không xem. Đợi đến vở sau "Bắt sống Tam Lang" Nguyệt Trung Tiên lại ra diễn; diễn đến cho hồn Diêm Tích Giao hiện lên, đôi chân nhỏ chạy khắp sàn diễn nhanh như một làn khói xanh. Đồng Nhẫn An bất chấp người ngồi cạnh, cứ không ngớt kêu ầm lên: "Hay! Hay a?... Giỏi, giỏi lắm?", khiến cả đám mê trò nhắc lão, khuyên lão, mắng lão, ném hạt táo vào lão cũng không sao làm lão ngừng kêu.
Ở bên này, Ngưu Phượng Chương một tay vén vạt áo bào, chạy thình thịch vào nhà Đồng Nhan An. Bốn mợ nàng dâu trông thấy, Bạch Kim Bảo hỏi độp ngay:
- Khách đâu? Tiểu thư họ Đằng đâu?
Ngưu Phuợng Chương chưa kịp uốn lưỡi, họ đã thấy một ông mập bế một cô bé xinh xắn rảo bước tiến vào. Cô gái dù nhẹ mấy đi nữa cũng ba lăm, bốn chục kí, thảo nào ông mập thở hổn hà hổn hển. Xem ra đây chính là ông Ba Đằng và tiểu thư họ Đằng rồi. Mấy mợ chủ đều tưởng cô tiểu thư nửa đường bị ốm, vội gọi các cô hầu đến chăm sóc. Ngờ đâu ông mập đặt cô tiểu thư xuống, rút chiếc khân tay trắng ra lau mồ hôi rồi cười hà hà:
- Không sao, không sao! Cháu vẫn mạnh!
Tiểu thư họ Đằng ngay sau đó cũng mỉm cười. Mọi người không hiểu vì sao một người khỏe mạnh lại phải có người bế đến?
Nhưng chẳng ai để ý xem vì sao, cứ xúm xít bâu lại ngắm đôi chân hai tấc hai của cô tiểu thư họ Đằng. Ai chợt nhìn cũng phải kinh ngạc. Bàn chân ấy nhọn như một cái mầm mọc ra từ cổ chân, lại cong cong to chỉ bằng mút quýt, ngoài mang đôi giầy nhỏ đỏ tươi ánh bạc, thêu đầy những cánh hoa ngũ sắc rất tinh xảo. Giây hoa quanh cổ giầy chỉ nhỏ bằng răng lược. Đôi giầy như không phải để đi mà như làm riêng để ngắm, nhưng vẫn có đủ dáng, đu thế, không sứt chẳng mẻ, ngón chân cái thỉnh thoảng còn ngọ ngoạy ở bên trong.
- Chân người mà bó được nhỏ đến thế, thực sự kể được là kì tích trên thế gian, chưa nhìn thấy hẳn chẳng ai tin.
Không cần đọ nữa, những đôi chân nhà họ Đồng chẳng dám phô ra.
Hương Liên mặt nhợt hẳn đi, liếc mắt thấy Ngưu Phượng Chương đứng bên cạnh liền bảo nhỏ:
- Giỏi lắm, ông Năm! Thì ra ông thấy tôi chưa chết nên chưa thỏa chứ gì?
Ngưu Phượng Chương nghe nói thế rùng mình một cái, vội thanh minh:
- Không dám dấu mợ Cả, đây là do cậu Hai mời họ đến, chẳng qua sai tôi chạy vặt nên chẳng tiện từ chối mà thôi. Tôi là người của cụ Đồng, đâu dám làm quấy với mợ. Cũng định bụng để mợ thấy một kiểu mới. Mợ chớ chỉ nhìn thấy nhỏ, mà vì nhỏ quá mức nên đứng không vững, đi lại phải có người đỡ, ra ngoài phải có người bế, đứng cũng đứng không vững nữa! Ở Kinh, người ta đều gọi là "tiểu thư bế". Nhưng người khác bế không được, cứ phải là ông bố cô ta, vì chiều mà! Ông Ba Đằng là người xài sang, sao lại chẳng hiểu?
Hương Liên bất giác "a" một tiếng, mắt lóe sáng, lòng cũng lóe sáng, dường như bất ngờ nắm được chiêu số để giành phần thắng.
Bạch Kim Bảo đứng giữa đám người trong nhà nói to:
- Chẳng kể người khác có phục hay không, chứ tôi thì tôi phục đấy! Ai không phục cứ đi mà so, so cho mà rồi đời! Đôi chân người ta bày ra đó, có đúng không? Nhã Quyên, Thu Dung, Đào Nhi, Hạnh Nhi này... - Cô ta hỏi từng người, càng nói càng cao giọng chỉ riêng không hỏi Hương Liên, song câu nào cũng nhằm vào Hương Liên.
Chẳng ai ngửng đầu nhìn Hương Liên vì ai cũng nể sợ cô.
Hương Liên đứng đó, chẳng nói chẳng rằng. Bạch Kim Bảo chưa gây sự đến cùng thì cô cũng chưa xuất chiêu. Bạch Kim Bảo lại tưởng cô sợ, bèn càng làm ầm lên:
- Đã có đôi chân này thì chân ai như thế nào tôi cũng chẳng coi ra gì! Đợi lát nữa cụ chủ về để cụ cũng mở rộng tầm mắt!
Cô ta lại ngoảnh mặt nói với ông Ba Đằng:
- Cụ để tiểu thư ở chơi nhà chúng tôi vài hôm có được không ạ? Cô em ở chung phòng với tôi, tôi sẽ bảo Đào Nhi thêu cho cô đôi giầy chim sẻ đỏ...
Ông Ba Đằng đáp:
- Mợ Hai có lòng hậu ái như thế, tất nhiên xin vâng. Có điều con em nó nhà chúng tôi...
Hương Liên thấy đã đúng lúc liền đi đến trước mặt "tiểu thư bế", cười tủm tỉm:
- Cô em theo chị ra sân xem hoa đào được không? Hai hôm trước trời chợt ấm, cây đương đầy nụ mà nở vô khối hoa, lại còn dụ ong mật đến nữa, trông đẹp lắm!
"Tiểu thư bế" đáp:
- Em chả quen đi! - Giọng cô ta nũng nịu cứ như đứa trẻ bảy tám tuổi uốn lưỡi nói vậy.
- Không sao, chị đỡ em mà! Mấy bước là tới sân thôi!
Hương Liên nói xong, đỡ cô ta đứng lên. Không ai hiểu dụng ý của Hương Liên, chỉ thấy cô vừa đỡ vừa nâng "tiểu thư bế" ra tiền sảnh, bước xuống thềm. Mấy bước đi đó đủ cho thấy khuyết tật của cô bé. Đôi chân "tiểu thư bế" như nhủn nát, không sao bám được đất. Còn Hương Liên mỗi một bước đi, vai uốn theo lưng, lưng lượn theo gót, không bước nào không đẹp. Đến giữa sân, Hương Liên ngẩng đầu ngắm hoa, chợt như bất giác buông cánh tay cô "tiểu thư bế", bước lên hai bước reo to.
- Tiểu thư xem này, xem này? Cả một đám hoa nở rộ chẳng khác nào một đám mây hồng, thích quá! Ngẩng đầu lên mà nhìn kìa, ngay ở trên đầu em đấy!
Hương Liên chỉ tay lên phía trên. Cô tiểu thư bế vừa ngẩng đầu, chân đứng không vững, chưa kịp kêu đã "huỵch" một cái, ngã bệt xuống đất. Da đã non, thịt lại ít, đốt xương cùng của tiểu thư đập xuống gạch đánh "cốp" khiến ai nghe thấy cũng buốt cả ruột.
Hương Liên hốt hoảng kêu lên!
- Đang đứng yên lành, chẳng gạch đá nào vướng vào chân, sao lại ngã được nhỉ? Mau lên, Đào Nhi, Châu Nhi đâu? Không mau đỡ tiểu thư dậy à?
Ông Ba Đằng cùng mọi người chạy đến đỡ cô ta. Tiểu thư bị bẽ mặt, cứ ngồi bệt dưới đất che mặt khóc, không ai nâng dậy được.
- Để cô em ngã, tôi thật đáng tội chết. Thế nào, cô em đứng cũng không vừng hả cụ? - Hương Liên hỏi ông Ba Đằng.
- Mợ Cả chẳng có gì đáng trách. Không có người đỡ, em nó đứng không vững đâu.
- Thế thì lạ đấy! Chân có tật sao? - Hoàng Liên hỏi, không rõ cô giả vờ hay có ý châm biếm.
- Không có tật gì cả, chỉ vì bó nhỏ quá nên đứng không vững đó thôi. - ông Ba Đằng nói xong, cúi xuống bảo con gái. - Không mau đứng lên, ngồi đấy ra thể thống gì nữa?
Câu này càng làm mếch lòng tiểu thư, cô ta ra sức nguẩy vai không cho ai đỡ, ai đụng đến liền đánh, hai chân đạp lung tung văng cả giầy, xổ cả vải bó chân. Hương Liên thấy thế, chỉ mong cô ta tuột hẳn chân ra, song ngoài miệng vẫn nói:
- Đào Nhi, mau giúp tiểu thư đi giầy vào kẻo lạnh!
Ông Ba Đằng thấy con gái làm rộn lên như thế, tỏ vẻ khó xử, luôn miệng xin lỗi Hương Liên. Cô đáp:
- Cụ nói như thế là xem tôi như người ngoài rồi. Tôi quả thực lòng thương cô nhà. Chân cô ấy mà không đứng được, không đi được, chả hóa ra hỏng ư? Bó thế là giỏi nhưng đến đứng cũng không đứng được, hỏi còn hay nỗi gì? Xem ra đôi chân này không cứu được nữa, cụ nên nghĩ cách gì đó về đôi giầy cho tiểu thư. Như vậy chăng?
Mấy câu này bóng gió chửi khéo cô tiểu thư. Ông Ba Đằng luôn miệng "vâng, vâng", gò lưng bế con gái lên ra về luôn, cẳng xoạc dài hơn so với lúc đi vào. Ngưu Phượng Chương cũng vội vàng cáo lui. Cảm thấy một luồng khí lạnh toát ra từ vẻ mặt tươi cười của Hương Liên, lão sợ hãi chẳng kịp quay người, cứ đi giật lùi, ba bước đã ra khỏi cửa.
Sau khi cô “tiểu thư bế" đã đi khỏi, trước mặt mọi người, Hương Liên cười bảo Đào Nhi:
- Nực cười thật! Mắt ông Năm Ngưu không phải mắt trâu mà là mắt chó, có vậy mới ngớ ngẩn để mắt đến đôi móng giò thối nát ấy chứ!
Đào Nhi không cười cũng chẳng đáp, cô biết mấy câu ấy cốt nói cho Bạch Kim Bảo nghe. Từ nãy Bạch Kim Bảo đã sượng mặt. Hương Liên ăn nói nhẹ nhàng, sắc mặt bĩnh thản như không, chỉ đến khi về tới phòng mình, trái tim treo lơ lửng của cô mới tọt một cái trở về vị trí cũ.
Nhưng ba hôm sau, tim Hương Liên thót lên một lần nữa. Bạch Kim Bảo đứng giữa sân rêu rao cụ Đồng mới mời được một đôi chân biết bay, sau bữa cơm sẽ tới, còn nói đó là một cô đào đang lúc vận đỏ ở huyện Bảo Để, tên là Nguyệt Trung Tiên. Chẳng những chân nhỏ đẹp mà còn lượn như bay trên sàn diễn chẳng khác nào hạt ngọc lăn trên mâm. Hiển nhiên cô ấy khác hẳn "tiểu thư bế" không biết đứng trước đây ba hôm. Một đằng đứng không đứng nổi, đi chẳng biết đi, dựng cũng không vững, một đằng như ruổi, như bay, như cá lội nước, như chim xuyên trời. Bạch Kim Bảo giọng giòn như củ cải non, chữ nhả ra mỗi chữ là một hạt đậu mẩy, Hương Liên còn nghe được một câu như sau: "Nghe nói lúc chân bay, có bắt cũng chẳng bắt kịp nữa kìa!"
Hương Liên tuy thắng cô "tiểu thư bế" nhưng chẳng dám chắc thắng được cô đào Nguyệt Trung Tiên này. Thiên hạ rộng lớn lăm, chẳng điều kì lạ nào mà không có, Hương Liên đâu dám nghi ngờ? Nếu chẳng có thật, khi nào Bạch Kim Bảo lại dám đe như thế? Từ lâu, Hương Liên đã thầm hiểu rằng con người ta bao giờ cũng muốn ngoi lên, cứng đụng với cứng, không xô tan kẻ khác thì mình bị tan, cho nên bao giờ cũng phải đề phòng những đối thủ cứng cựa. Cô đóng cửa phòng, nghĩ cách. Nhưng không hiểu tí gì về nội tình của Nguyệt Trung Tiên, cô biết sử dụng chiêu nào đây? Thật là khó. Cách tốt nhất là cứ ngồi trong phòng mà quan sát, chờ thời cơ.
Sau bữa trưa, tiếng cười nói ồn ào ùa vào tiền sảnh. Chợt nghe một người nói:
- Bề trên có cụ Đồng, kẻ mọn Nguyệt Trung Tiện này xin bái kiến!
Giọng nói vừa điệu, vừa trong, vừa thanh, vừa vang, chẳng khác nào chim hoàng oanh hót, kiểu cách như lời bạch trong tuồng. Tiếng nói ấy vừa dứt, tiếng cười nói huyên náo lại nổi lên. Rồi tiếng cụ Đồng nói:
- Chư vị ở nhà tôi đây đều là người say gót sen cả. Nghe nói Nguyệt Trung Tiên có tuyệt kĩ về gót sen, ai nấy đều muốn có phúc được nhìn no con mắt. Vậy xin mời ra trước sân biểu diễn một phen!
Ngay sau đó, tiếng cười nói chuyển ra sân. Lại nghe Nguyệt Trung Tiên nói: "Xin hiến tài mọn". Không nghe tiếng chân bước, chạy, mà chỉ nghe tiếng chắt lưỡi khen ngợi và tiếng vỗ tay. Tiếng Nhĩ Nhã Quyên kinh ngạc kêu lên:
- Ô nhanh đến mức tôi chỉ thấy bóng người thôi!
Tiếng Đồng Thiệu Hoa:
- Kim Bảo, mình không chạy theo lấy vài vòng à?
Tiếng Bạch Kim Bảo:
- Tôi sao có được đôi chân như vậy? Hãi quá, chỉ muốn về phòng đóng tịt các cửa lại mà trốn cho rồi!
Lại nhưng tiếng nói cười, kêu to, bỡn cợt. Tiếng Đồng Nhẫn An:
- Ừ nhỉ, sao không thấy Hương Liên ra nhỉ?
Tiếng Bạch Kim Bảo:
- Mèo đã đến, chuột nào còn dám ra?
Hương Liên đang nín thở ở trong phòng. Trong lòng cô như có ngọn lửa bừng bừng bốc lên. Thế nào cũng phải đọ một phen mới biết thắng hay bại. Cô lách cách mở toang cửa, bước ra ngoài xem. Sân chật ních những người, mắt hoa lên, trong chốc lát cô không nhìn rõ ai với ai. Đào Nhi chạy tới trước mặt, nháy mắt nói:
- Mợ nhìn Nguyệt Trung Tiên kia, đàn ông đấy!
Hương Liên nhìn theo ngón tay trỏ xinh xẻo của Đào Nhi, thấy giữa đám đông quả có một người đàn ông gày gò đang đứng, bên dưới lại là đôi chân nhỏ nhắn xinh đẹp như của đàn bà. Dáng chừng là một vai nam chuyên đóng nữ, nhưng ở đâu ra đôi gót sen đó? Trong thiên hạ, việc chưa biết quả nhiều hơn việc biết rất nhiều. Lúc này, người đàn ông nhỏ nhắn kia đang nhìn cô.
Chợt anh ta kêu lên:
- Ái chà, phải chăng đây là mợ Cả nhà họ Đồng, cô Qua Hương Liền nổi tiếng khắp Thiên Tân?
Nói xong, anh ta chạy như một làn gió, hai chân dường như không chạm đất, trong nháy mắt tới trước mặt Hương Liên, hai tay chắp trước bụng vái chào, giọng nói vẫn là giọng đóng tuồng:
- Nguyệt Trung Tiên xin bái kiến mợ Cả!
Hương Liên hơi ngây người, chưa hiểu rõ ra làm sao. ở đằng kia, Bạch Kim Bảo và Đồng Thiệu Hoa bật cười ha hả, như cô là trò cười của họ.
Nguyệt Trung Tiên bỗng làm một chiêu "đồng tử công", vắt một chân lên vai, bàn chân cao hơn đầu, nói với Hương Liên:
- Mợ Cả nhìn chân của Nguyệt Trung Tiên tôi đây xem có sánh được với chân mợ không nào?
Hương Liên nhìn bàn chân nhỏ để ngửa cao hơn chỏm đầu, mới hay đó chỉ là bàn chân giả làm bằng gỗ, chót mũi có túi vải lồng vào với chân thật, dùng giây tơ cuốn chặt như người đi cà kheo, áo quần che đi, chẳng khác gì chân thật. Đấy chính là một kiểu cà kheo các diễn viên nam đóng giả nữ thường dùng. Trước đây từng nghe nói, nay mới thấy tận mắt! Hương Liên như vừa tỉnh cơn mộng, thở phào. Mọi người cùng cười khanh khách coi như câu chuyện thú vị. Duy Bạch Kim Bảo và Đồng Thiệu Hoa cười dữ quá, Bạch Kim Bảo cười đứt cả hơi, gò cả lưng ôm lấy bụng. Hương Liên tức thì hiểu ra. Chẳng qua cô ta đẩy Nhĩ Nhã Quyên và tiểu thư họ Đằng ra đấu nhưng không thắng được Hương Liên, mới moi óc nghĩ ra trò Nguyệt Trung Tiên để hù doạ cô, biến cô thành trò cười rồi chế nhạo cô trước mặt mọi người. Nhưng cô lại nghĩ, chính vì Bạch Kim Bảo không làm gì được cô mới sử dụng chiêu này. Chiêu này vụng về quá vì rốt cuộc chỉ là trò giả, chẳng qua bõ tức trong chốc lát, nhưng càng làm nổi bật đôi chân cô, không ai đánh đổ được. Nghĩ đây Hương Liên vui lên, nét cười trên mặt không còn ngơ ngác nữa. Cô nói với Nguyệt Trung Tiên:
- Đôi chân giả của anh hù tôi không hề gì, nhưng cũng dọa nổi cha chồng tôi ư? Cha tôi có đôi mắt lửa con ngươi vàng, không khi nào để anh qua mặt đâu!
Đồng Nhẫn An nghe giọng nói có ý châm chọc, bèn lên tiếng:
- Ta thoạt nhìn cũng bị nhầm. Lâu nay cứ tưởng đồ cổ mới có thật giả, ngờ đâu người sống cũng có thật
giả. Nhưng mà giả có tuyệt vời mấy đi nữa cũng không bằng cái thật bình thường.
Hương Liên đã buộc Đồng Nhẫn An lên tiếng nói thay cho mình. Đợi Đồng Nhan An nói xong, cô nhếch mép mỉm cười với vợ chồng Bạch Kim Bảo, nhưng lại quay qua nói với Đồng Nhẫn An:
- Cha nói thế làm phật ý Nguyệt Trung Tiên rồi! Trên đài diễn không bàn thật giả. Người trong vở đều là giả, bất kể chân họ giả hay không, cứ doạ được người là thắng rồi!
- Có lí đấy nói có lí đấy! - Đồng Nhẫn An vội vàng nói theo rồi bảo mọi người lên trên sảnh nói chuyện.
Nguyệt Trung Tiên nói với Qua Hương Liên:
- Xin có lời mời mợ Cả...
Anh ta tuy không nói như trong vở diễn nữa nhưng âm điệu vẫn là giọng nữ, cả phong thái, động tác giơ tay, đưa chân cũng rụt rè e lệ, mềm mại dịu dàng y như phụ nữ thật.
Hương Liên thấy anh ta không phải đối thủ của mình thì vui mừng phấn khởi, cùng Nguyệt Trung Tiên sóng bước lên trên sảnh. Mấy bước đó, Nguyệt Trung Tiên như đạp mây cưỡi gió, Qua Hương Liên như nước chảy mây trôi, thoăn thoắt vững vàng mà vai không đưa, eo không rung, chân chẳng bước, chẳng thấy động ở chỗ nào, chỉ thấy vạt xiêm bay, giải thắt lưng phấp phới như đứng trước gió, chớp mắt cùng lên tới trên sảnh.
Nguyệt Trung Tiên vỗ tay khen:
- Mợ Cả thật là danh bất hư truyền, mấy bước đó đã hơn tôi đến mười lần rồi!
Lúc vỗ tay, anh ta cong mấy ngón trắng thon lên, chỉ vỗ bằng lòng bàn tay; bé gái thế nào, anh ta y như thế. Sau đó anh ta cứ xin xem cho được đôi chân của Hương Liên. Trước con người ái nam ái nữ, chẳng ra nam chẳng ra nữ này, Hương Liên không cảm thấy xấu hổ. Cô giơ chân cho anh ta thấy, Nguyệt Trung Tiên lại vỗ tay:
- Tôi đi khắp Giang Nam, Giang Bắc, dám nói đôi chân như thế này tuyệt nhất trong thiên hạ. Cậu chủ cứ bảo tôi đến dọa mợ, hóa ra mợ lại làm tôi phục lăn.
Hương Liên nghe nói chỉ cười, không thèm liếc nhìn Đồng Thiệu Hoa nữa. Cô đòi xem đôi chân cà kheo của Nguyệt Trung Tiên. Nguyệt Trung Tiên là đàn ông, tuổi đã lớn, vậy mà ngồi trên ghế cũng vặn người, xây lưng, nghẹo đầu, cụp mắt ra vẻ thẹn thò. Sau đó, anh ta cong mười ngón tay theo kiểu những búp hoa lan, cởi dây buộc ở chân:
- Nếu mợ Cả ưng ý, tôi xin biếu mợ!
Hương Liên thuận miệng bảo:
- Thôi, anh tặng cho mợ Hai nhà chúng tôi đi, mợ ấy vừa mắt với cái trò này lắm!
Nói xong, cô nghe phía sau lưng có tiếng gì đó đổ rồi tiếng kêu gọi ầm ĩ, trong đó tiếng Nhĩ Nhã Quyên rõ hơn cả. Cô ngoảnh lại nhìn, thì ra Bạch Kim Bảo uất quá, ngã bật ngửa trên đất. Mấy cô hầu vừa kéo chân kéo tay, vừa lắc cổ đấm lưng cho cô ta, Thiệu Hoa thì ra sức ấn ngón tay cái vào huyệt nhân trung dưới mũi Bạch Kim Bảo, ấn đến chảy máu cô ta mới tỉnh lại.
Riêng Hương Liên cứ ngồi nguyên chỗ không động đậy, thong thả nhấp trà, nhìn vơ vẩn mấy con côn trùng bay qua bay lại đuổi nhau ngoài cửa sổ.
|
14-10-2008, 05:54 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ mười một
Giả đến mức thật, thật hóa ra giả
Trời chưa mở mắt, đất chưa mở mắt, nhưng trong chợ âm phủ ai nấy mở mắt thật to, thật sáng. Từ lò gốm nhà họ Triệu đến ven sông có bức tường, giữa đám lúp xúp lều tranh, tiệm đất, đèn treo bờ rào và trên những con đường ngoằn ngoèo quẹo qua quẹo lại, ngày nào cũng vậy, chợ âm phủ họp trước khi trời sáng. Đầu tiên chỉ gồm những người mua bán đồng nát, mang những đồ dùng thường ngày tạp nham rao mua được như áo cũ, quần rách, bình cổ, chuông xưa, giầy vẹt, mũ bấn, sách nát, tranh mòn, thiếu chỗ này, khuyết chỗ kia, chất từng sọt gánh đến bán. Nhờ lúc trời tối nhập nhoạng nhìn không rõ, xem xét vội vàng, biến tốt thành xấu, người có tiền chẳng ai đến mua những đồ cũ nát đó. Nhưng sự việc không thể chỉ có một kiểu, lời nói không thể chỉ có một cách, dần dần có người mang đồ tốt, đồ thật, đồ mới đến bán, nhưng vẫn là tay này cầm tiền, tay kia giao hàng. Mua bán vừa xong quay đầu đi luôn, dù có trở lại tìm cũng không ai nhận là vừa mua bán. Người ta gọi thế là "làm ăn với đất". Vì sao? Vì người làm ăn với nghề này phần lớn là đồ trộm cắp, thó được vật gì đem đến đây phi tang. Ai to gan mới dám bán, ai lớn mật mới dám mua. Cũng có con cái hư hỏng nhà có của, không mặt dạn mày dầy lộ mặt ở cửa hiệu cầm đồ, hiệu đổ cổ hoặc hiệu đồ tầm tầm được, bèn mang đồ đến đây tìm xó tối đứng đấy đợi người mua. Ai có con mắt hiểu biết, chỉ bỏ vài ba đồng là mua được bức hoạ chữ, đồ châu báu, ngọc đá, đồ sứ, đồ đeo tay, đồ bày biện cực tốt hoặc sách quí, thiếp viết chữ còn duy nhất một bản. Cơ hội đó, một nhờ tài nghệ, hai nhờ vận may, hai điều ấy chập lại thì phát tài to.
Hôm nay, trong đám người chen qua lách lại có một lão già còm nhom, rụt đầu giấu mặt, không xách đèn lồng, hai con mắt láo liên xoi mói khi lách qua đám người. Bỗng như mèo nhìn thấy chuột, lão gạt mấy người đâm đầu chồm tới. Sát tường, bên một cái tủ nát, một người đàn ông gập chân ngồi xổm, trên đất trước mặt trải một mảnh vải, bầy một cái điếu ống bằng đồng bạch, một hộp trang điểm sơn khảm vàng, một cuộn giây lưng thêu hoa, ba đôi giầy nhỏ đều bằng vải đỏ vài xanh, ghép hai mặt, cực hẹp cực mỏng, mũi giầy vừa ngắn vừa nhọn như mỏ quạ, ở vệ Thiên Tân không thấy kiểu giầy này. Lão già còm vơ ngay lấy, lật đi lật lại xem qua rồi kêu lên:
- Chà, giầy mỏ quạ, kiểu "Tô Bắc khôn hài" đây!
Người đàn ông bán hàng trán lép mắt lồi, hình thù tựa con cóc. Gã ngước mắt ngắm lão già, bảo:
- Gặp được người trong nghề, chẳng mấy khi! Cụ muốn mua à?
Lão già còm cũng gập đầu gối đánh soạt ngồi xổm xuống, nói khẽ:
- Mua tất! ở đây không thể thấy loại giầy này.
Lão già còm rất kì quặc. Đi mua đồ ở chợ âm phủ này, dù gặp được thứ vừa ý cũng phải giả vờ không hiểu biết, không mặn mà, không vừa ý, đâu có kiểu vừa trông thấy đã vồ vập như gặp của quý? Càng kì quặc hơn là người đàn ông mặt cóc bán hàng, gã cũng không lên mặt người bán, cũng như gặp của quý, cất tiếng hỏi:
- Cụ thích những món này lắm nhỉ!
- Đúng vậy! Nói cho tôi biết bác kiếm những đôi giầy này ở đâu ra? Bác là người miền Nam?
- Cụ không phải hỏi, cứ biết tôi không phải người miền Bắc là được rồi. Nói thực với cụ, tôi cũng thích những của này, nhưng bây giờ mấy tỉnh ở Giang Nam đều hè nhau không bó chân nữa. Giầy nhỏ vứt khắp nơi, ở trong miếu cũng có, lại còn trôi trên sông...
- Oan nghiệt! Oan nghiệt! - Lão già còm nói xong, cảm thấy chưa hết ý, nói thêm.- Chi bằng chặt chân đi cho rồi!
Lão nín lặng dẹp cơn giận xuống, nói:
- Bác nên nhân cơ hội này thu nhặt ngay các kiểu giầy nhỏ đó, mai ngày không chừng là của quý đấy!
- Cụ nói phải, cụ hiểu biết thật! Nghe nói miền Bắc chưa nô nức cởi chân bó, phải không ạ?
- Có hô hào đấy nhưng không mấy người cởi chân, chỉ kêu gào dữ thôi. Theo ý tôi, ngọn gió này dập không nổi, chỉ biết hôm nay, không có ngày mai. - Lão già còm luôn miệng thở dài.
- Đúng vậy. Tôi nghe nói nên mới vội vàng làm mấy bao tải giầy nhỏ miền Nam, đi quanh miền Bắc, liệu chừng thế nào cũng gặp những người có tấm lòng như cụ chịu bỏ tiền mua một ít cất đi. Tôi định bán một ít giầy miền Nam, mua ít giầy miền Bắc, không chừng góp đủ loại giầy nhỏ trong thiên hạ cũng nên. - Người đàng ông mặt cóc nói. - Tôi đã cất giữ được đầy một nhà!
- Một nhà! - Lão già còm mắt loé sáng.- Hay lắm! Quý lắm! Lần này bác mang đến những loại nào?
Người đàng ông mặt cóc nhếch miệng cười, từ bao tải để sau lưng rút ra hai đôi giầy nhỏ lẳng lặng đưa cho lão già còm, như muốn thử kiểm tra kiến thức của lão. Lão già đón lấy, thấy là giầy cũ, đế đã đi mòn nhưng kiểu cách cực lạ. Má giầy cao, cao như giầy ống, phía trước dựng đứng, toàn bằng đoạn bóng màu đen, đường viền sát đế bằng đoạn thêu hoa. Một đôi thêu mẫu đơn và quả đào dâng thọ, giữa hao và quả đào thêu mấy đồng tiền cổ bằng chỉ đỏ, kiểu ấy gọi là Ỏphú quý song toànÕ. Đôi kia thêu lá thông hoa mai và cành trúc. Thông đỡ mai, mai ánh trúc, trúc làm nổi thông, kiểu ấy gọi là Ỏtuế hàn tam hữuÕ. Giữa đế gỗ và đế lót mềm có một mảnh đồng thau, dài từ gót đếm mũi, lại từ mũi ló ra ngoài, uốn cong lên nữa vòng rồi chĩa ra trước như dáng rắn ra khỏi hang. Lão già gầy nói:
- Đây là giầy đời Tấn kiểu cổ.
Người đàn ông mặt cóc hơi sững người, sau đó cười:
- Cụ tài thật! Người biết được kiểu giầy này không có mấy đâu.
- Mấy đôi này cũng bán à?
- Hàng bán cho người biết của. Không nói giá nữa, cụ trả bao nhiêu tôi cũng nhận.
Lão già gầy trước sau mua cả năm đôi, móc ra năm lạng trả. Phải nói rằng só tiền này mua năm đôi giầy
bằng bạc cũng còn thừa. Người bán hàng mặt cóc vội vàng giắt bạc vào bụng, mặt mày tươi tỉnh:
- Nói thực với cụ, bây giờ thứ giầy này đúng là ba đồng chẳng bán được hai. Tôi chẳng hám tiền cụ đâu, chỉ định đem chúng đi mua kha khá giầy nhỏ miền Bắc đem về. Nếu cụ còn giữ được các kiểu giầy miền Bắc, ông con mình đem đổi cho nhau là xong, đỡ phải đụng đến tiền bạc.
- Thế càng hay! Bác còn loại giầy nào nữa?
- Này cụ, cụ tuy biết nhiều thấy rộng, nhưng giầy nhỏ của tám phủ miền Đông Chiết Giang e cụ chưa thấy đâu nhỉ?
- Trước đây có nghe nói tám phủ miền Đông Chiết Giang nổi tiếng kì lạ về kích thước nhỏ. Hai chục năm trước, tôi có thấy một đôi chân nhỏ ở Ninh Ba, hai tấc tư. Nhưng hai năm mới rồi lại thấy một cô gái ở Kinh chân nhỏ có hai tấc hai. Thật là nhỏ đến cùng đến cực!
- Thế cũng chưa sánh được với chân nhỏ ở Đông Hoãn thuộc Quảng Châu. Chân nhỏ ở Diên Thành miền Bắc Giang Tô cũng còn phải nhường. Chân ở Đông Hoãn vừa tròn hai tấc. Một đôi giầy nhấc lên để lọt lòng bàn tay. Lại còn một loại giầy "nhà văn" ở Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, do một văn nhân nghĩ ra, kì tuyệt?
- Tuyệt thế nào?
- Có hơi hướng một quyển sách, cứ như một quyển sách con con vậy!
- Hay lắm! Bác có cả à? Đã mang đến chưa?
- Tôi để ở nhà trọ. Cụ muốn đổi, ta hẹn ngày giờ trước.
Ai cũng muốn gấp, hai người hẹn ngày mai vào giờ này, gặp nhau dưới gốc cây liễu già vẹo cổ bên bờ sông có bức tường đàng trước mặt. Hôm sau cả hai đến đúng giờ, đổi cho nhau rất vừa ý, tựa như tặng lễ vật cho nhau vậy. Lại hẹn nhau ngày thứ ba. Sau khi trao đổi cho nhau xong, lão già gầy còm xách hơn chục đôi gầy nhỏ đi xuyên qua chợ âm phủ, vui vẻ mãn nguyện trở về nhà. Đi tới một chỗ ngoặt, toàn là bia, thiếp chữ, tranh, đồ cổ, đồ bầy chơi, chợt lão thấy một người thấp bé đứng ở góc tường, chiếc mũ có vành trên đầu sụp xuống tận mí mắt trên, nách kẹp một cuộn tranh, bên trên chỉ thò cái đầu trục cuốn tranh bằng sứ hoa xanh.
Lão già gầy vừa thấy cái trục bằng sứ biết ngay tranh không tầm thường, liền bước tới hỏi giá. Người kia giơ bàn tay phải, chồng ngón trỏ với ngón giữa vào làm một rồi lập úp xuống, chỉ bật ra một chữ:
- Thanh!
Quy định của chợ âm phủ là nói giá, đưa giá, cho giá, đòi giá, tranh giá, ghìm giá đều không nói số tiền mà ra hiệu bằng tay và nói tiếng lóng, tục gọi là "ám xuân". Một là tiếu, hai là đạo, ba là đào, bốn là phúc, năm là lạc, sáu là tôn, bảy là hiền, tám là thê, chín là vạn, mười là thanh. Tay lật một cái là gấp đôi. Tiếng "thanh" của người kia thêm dấu hiệu tay lật một cái nghĩa là đòi hai chục lạng. Lão còm nói:
- Tranh gì mà giá ấy, xem tí nào!
Lão đặt cái túi đựng đến một nửa là giầy xuống, cầm lấy cuộn tranh. Mở ra xem một đoạn, vừa tới chỗ lộ ra lạc khoản trên bức tranh, lão bỗng giật mình hỏi:
- Mày là đứa nào?
Người thấp bé kia sững người, đâm đầu bỏ chạy. Lão già chỉ cần chạy mấy bước là đuổi kịp, song sợ mất nửa túi giầy. Trong lúc ngừng lạ đó, người thấp bé kia chui vào một ngõ hẻm rồi mất hút. Lão còm la lên:
- Ấy, ấy, bắt lấy...
Một kẻ cao lớn đứng bên lão, tối om om chẳng nhìn rõ mặt, cái bóng gã đã to bằng quả chuông lớn. Gã ngoảnh bảo lão còm với giọng ồm ồm cố nén xuống:
- Gào cái gì, có đuổi kịp cũng chịu thua thôi. Mau xách đồ biến đi, cẩn thận chọc giận kẻ khác, bị trấn mà còn bị tẩn nữa đấy!
Lão già còm nghe mà như không nghe thấy gì hết
Sáng sớm hôm ấy, Đồng Nhẫn An từ ngoài lỏn về nhà rất sớm rồi đòi ra cửa hàng ngay, mặt tỏ vẻ gấp gáp lắm, chẳng ai biết vì sao. Ngựa đã sẵn sàng ngoài cửa, lão vừa ra khỏi cửa liền trượt chân, ngồi bệt xuống thềm, chỉ kêu thấy trời chuyển, đất chuyển, người chuyển, ngựa chuyển, cây quay, ống khói quay, kì thực là đầu óc lão quay cuồng. Đám người hầu vội vàng đỡ lão vào nhà, đặt ngồi trên ghế xích đu. Hương Liên thấy mặt lão nhợt nhạt, thần sắc cũng nhợt nhạt, liền mời lão vào phòng trong nằm nghỉ. Lão không chịu, cứ bắt người nhà đi ngay đến cửa hiệu gọi Đồng Thiệu Hoa và Hoạt Thụ về nhà ngay, lại điểm một số bức tranh, bảo Hoạt Thụ mở kho lấy đem về. Mãi một lúc lâu mới thấy có người về, nhưng lại là cậu giúp việc ngoài cửa hiệu họ Ô. Cậu này nói cậu chủ không có mặt ở cửa hiệu, Hoạt Thụ lên cơn hen, không đến được, bảo cậu ta mang tranh về. Đồng Nhẫn An không dậy được, đành nửa nằm nửa ngồi, gọi người giở một bức tranh ra coi. Trước hết xem bức Lan thảo của Lí Phục Đường. Lão xem mà cứ chớp mắt hoài:
- Mắt ta có dử à?
Hương Liên nhìn rồi đáp:
- Không thấy có, cha váng đầu hoa mắt đấy, lát nữa xem thì hơn.
Đồng Nhẫn An xua tay đòi xem tiếp. Tiểu Ô lại giở một bức khác, chính là bức tranh sơn thủy đời Tống.
Thường ngày Đồng Nhẫn An xem tranh, nhiều nhất chỉ nhìn nửa bức, thật giả có thể đoán định được ngay. Nửa dưới không cần nhìn đã bảo người cuộn lại. Lão làm thế một vì giỏi, hai để tỏ điệu nghệ. Hoạt Thụ biết thói quen này của lão nên giở tranh chỉ giở một nửa, thấy lão gật đầu hay lắc đầu là cuộn lại ngay. Hôm nay nếu là Hoạt Thụ giở tranh cho lão xem thì tiếp theo đã chẳng có chuyện. Lại đúng cu cậu họ Ô soạt một cái giở tung từ đầu chí cuối bức tranh, Đồng Nhẫn An lập tức ngẩn người ra, con ngươi như chực rớt xuống đất. Lão nhô người về phía trước la lên:
- Nửa dưới là của giả rồi!
- Sao có thể nửa bức là giả được? Hay là mắt cha làm sao rồi? - Hương Liên nói.
- Mắt có sao đâu! Bức tranh này chữ viết là thật, tranh là giả. - Đồng Nhẫn An chỉ vào bức tranh mà la, tiếng la nghe như đâm vào tai.
Hương Liên bước tới xem. Nửa trên che khuất bằng nhiều đoạn lạc khoản với lời đề, lời bạt, bài thơ, nửa dưới bức tranh vẽ sơn thủy. Cô hỏi:
- Thế này không lạ à? Lẽ nào tráo nửa dưới mà khúc giữa lại không thấy vết nối?
- Chị thì biết cái gì? Cách này gọi là "chuyển đỉnh núi”, là tuyệt chiêu trong cách làm tranh giả. Bỏ tranh vào nước ngâm, xé rời đĩnh núi theo đường vẽ núi; trước đó vẽ một bức tranh giả, cũng ngâm nước rồi xé như thế. Sau đó lấy phần có chữ của tranh thật ghép với phần vẽ của tranh giả thành một bức; lại lấy phần có chữ của tranh giả ghép với phần vẽ của tranh thật thành một bức thứ hai. Một thành hai, bức nào cũng có thật có giả, nếu bị phát hiện là giả thì cũng không thể nói toàn là giả, trong đó cũng có thật, người thạo nghề chẳng nói gì được nó. Nhưng... cách làm này chưa ai biết, cả ông Năm Ngưu cũng không biết. Lẽ nào lúc mới mua tranh ta nhìn lầm?
- Cha xem tranh chỉ nhìn có một nửa, nửa dưới có xem đâu!
- Quả có thế... - Đồng Nhẫn An vừa gật gù chợt kêu lên - Không phải! Bức này mấy năm trước treo trên tường ngoài cửa hiệu để xem mãi mà!
Nói đến đây, nghĩ đến đây, ánh mắt lão như bắn tên ra. Lão bảo Tiểu Ô:
- Đem tranh ra cửa, giơ lên cho ánh sáng lọt qua, ta xem lần nữa!
Tiểu Ô mang tranh ra cửa giơ lên, ánh sáng bên ngoài chiếu qua bức tranh, trông rõ ràng rành mạch có một đường nối lượn theo đầu núi trong tranh, quả nhiên tranh đã bị người khác làm giả! Đồng Nhẫn An đỏ tía cả đỉnh đầu liền đó kêu lên:
- Ta hiểu rồi, bức tranh Lí Phục Đường vừa nãy cũng là giả!
Không đợi Hương Liên hỏi, lão già đã nói tiếp.
- Kiểu ấy gọi là "bóc hai lớp". Bóc từng lớp giấy Tuyên trên tranh ra, lớp một lớp ba bồi với nhau thành một bức, lớp hai lớp bốn bồi với nhau thành một bức nữa, cũng là phép một thành hai! Tuy vẫn là tranh vốn có nhưng thần sắc không còn nữa. Nếu không, sao ta lại thấy bức tranh ấy nét bút không hồn, mực không láng bóng? Lại cứ ngờ mắt mình có dử!
Hương Liên nghe đến ngẩn ngơ. Không ngờ trên đời làm của giả cũng có công phu tuyệt đỉnh đến thế! Nhìn đến Đồng Nhẫn An, cô thấy ông ta khác thường, hai tay run bần bật những móng tay dài cạo kín kít vào tay vịn ghế, ánh mắt như ngưng trệ. Sợ ông ta bực bội đâm ốm, cô vội khuyên:
- Cha tức giận làm gì, một vài bức có đáng gì đâu!
Đồng Nhẫn An càng run rẩy hơn nửa. Tay run, chân run, cằm run, tiếng nói cũng run:
- Chị mà còn mơ hồ thế à? Ngoài cửa hiệu chẳng có bức nào là tranh thật! Đồng Nhẫn An này cả đời bán của giả, rút cục đến mình cũng thành giả nốt. Cả một ổ trộm cắp!
Nói đến đây, đường gân xanh trên trán giật một cái, mắt lão đờ ra. Hương Liên thấy nguy, hoảng lên, không biết nói gì để khuyên giải. Lại thấy lão ngoẹo đầu, méo miệng, lệch vai, nằm thượt trên ghế.
Lập tức cả nhà nhốn nháo, người này kêu người kia, người kia gọi người nọ, mãi một lúc sau mới nhớ ra phải đi mời thấy thuốc.
Hương Liên lau nước mắt nói:
- Ai bảo cụ ông hiểu biết lắm vào! Không biết thật với giả thì đã chẳng đến nỗi uất lên như thế!
Lát sau, thầy thuốc đến, bảo ngoài sảnh có gió, kêu người nhà khiêng Đồng Nhẫn An vào nhà trong chạy chữa.
Hương Liên bình tĩnh lại. Cô lập tức sai Tiểu Ô đi mời cậu chủ về, lại gọi cả Hoạt Thụ đến. Tiểu Ô đi một lúc về báo Hoạt Thụ đã gói ghém bỏ trốn, Đồng Thiệu Hoa vẫn chẳng thấy đâu. Hương Liên nghe như sét đánh ban ngày, biết trong nhà xảy ra chuyện lớn. Bạch Kim Bảo hỏi có chuyện gì, Hương Liên chỉ đáp:
- Thím biết rồi còn hỏi làm gì?
Rồi cô mang theo Đào Nhi lên kiệu cấp tốc đi đến cửa hiệu.
Cửa hiệu lộn xộn tung tóe như vừa bị khám nhà. Hai cậu giúp việc vừa khóc vừa nói:
- Mợ Cả cứ mắng, cứ đánh, cứ phạt chúng cháu cũng được, chỉ đừng trách chúng cháu không nói thực. Chúng cháu có biết gì đâu kia chứ!
Hương Liên nghĩ bụng ở nhà cũng còn đang loạn lên, liền bảo họ chọn lấy những đồ thật để kháo lại. Hai cậu người làm lại mếu máo:
- Chúng cháu chẳng biết thứ nào thật, thứ nào giả. Cụ chủ, cậu chủ dặn chúng cháu nói với khách hàng toàn là đồ thật thôi!
Hương Liên đành bảo chúng chẳng kể thật giả cứ nhặt lên chất thành một đống, niêm phong lại, sau hẵng hay.
Về đến nhà, Bạch Kim Bảo không biết nghe tin ở đâu nói Đồng Thiệu Hoa lấy đồ vật trong nhà trốn đi, đang ở trong phòng vừa khóc vừa kêu, vừa kêu vừa khóc, khóc rồi lại kể lể:
- Đồ chết băm chết vằm, làm như thế có khác gì chôn sống cha, chôn sống cả ba mẹ con nhà này... Chắc là lại theo con đĩ nào làm bậy làm bạ rồi, ới chồng ơi là chồng...
Hương Liên nghiêm mặt, bảo Đào Nhi truyền cho Hạnh Nhi, Thảo Nhi phải coi chừng phòng của Bạch Kim Bảo, không được cho cô ta đi đâu, cũng không cho người khác vào phòng, càng không được cho bất cứ ai mang đồ vật ra vào.
Bạch Kim Bảo thấy phòng mình bị canh giữ, khóc càng to nhưng không dám gây chuyện với Hương Liên. Cô ta đâu có ngốc? Đồng Thiệu Hoa bỏ trốn, chẳng còn ai bênh cô. Cô mà gây chuyện, có thể Hương Liên sẽ cho người trói lại.
Lúc này, được thầy thuốc chạy chữa, Đồng Nhẫn An đã đỡ, liền cho gọi Hương Liên. Tuy lão chưa biết rõ trong nhà, ngoài hiệu xảy ra những việc gì nhưng hình như đã biết tất cả. Hai mắt lão sáng quắc, cái miệng mấp máy bật ra ba tiếng khô khốc:
- Đóng, cổng, lớn!
Hương Liên gật đầu:
- Vâng, đóng ngay bây giờ!
Cô vội vàng truyền bảo người nhà. Lập tức hai cánh cổng lớn kin kít chuyển động rồi "ình" một tiếng, đóng sập lại.
|
14-10-2008, 05:55 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ mười hai
Thế là nhắm mắt xuôi tay
Đồng Nhẫn An nằm thượt trên giường như một vắt đất nhão, đầu cũng không ngóc lên được, lưng dán chặt xuống mặt giường, thức không ra thức, ngủ chẳng ra ngủ, mắt như nằm mộng. Nói lúc thì tỉnh, lúc lú lẫn. Khi tỉnh, không thấy Thiệu Hoa, lão cứ hỏi mãi, mọi người phải bịa ra bao lí do để dỗ lão; lúc lẫn, lão kể thôi là kể tên đủ loại chân bó. Các bậc danh y trong thành từ danh y Tô kim Tản, thần y Vương Thập Nhị, cao thủ họ Hạ, thiết trượng họ Lí, Trại Hoa Đà, thần tiên họ Lưu ở phía bắc thành, cụ Hai Hồ không cần hỏi bệnh và bắt mạch, cụ Chín Hoàng không có bệnh cũng tìm ra được bệnh... đều lần lượt được mời đến nhưng ai cũng nói bọn tiểu quỷ dưới âm ti đã túm chặt một cẳng của cụ Đồng rồi, thuốc đến mấy cũng không giành lại được.
Hôm đó, Đào Nhi dẫn con gái Hương Liên là Liên Tâm đến thăm ông. Liên Tâm vào đến phòng là leo lên giường ông chơi. Bỗng con bé kêu thét, khóc thét lên. Đào Nhi tưởng Liên Tâm hết hồn vì bộ dạng chết dở của ông nội, ngờ đâu vì ông nội nắm lấy chân con bé. Không biết sức lực Đồng Nhẫn An ở đâu ra mà lão nắm cứng lấy không buông. Khuôn mặt như chết lại có khí sắc, mắt sáng long lanh, cơ thịt cứng ngắc ở miệng đã rung rung động đậy, hai lỗ mũi lúc nhỏ lúc to thở phì phò. Đào Nhi không biết cụ chủ muốn chết đi hay muốn sống lại, sợ đến nỗi kêu toáng lên. Hương Liên nghe tiếng vội đến, thấy tình cảnh đó, mặt bợt ra như tờ giấy trắng, vội túm lấy Liên Tâm kéo xuống rồi mắng Đào Nhi.
- Ở đâu chơi chẳng được mà phải vào đây? Mau đưa ra!
Đào Nhi vội vàng bế Liên Tâm ra ngoài. Mắt Đồng Nhẫn An vẫn lóe sáng, người như tỉnh ra, đến chiều đã nói được, tuy chưa thành câu song nghe rõ ràng từng chữ một. Lão bảo Hương Liên:
- Đến-lúc-bó-chân-cho-các-cháu-rồi!
Hương Liên lặng giây lát, mặt không tỏ vẻ gì, chỉ gật đầu khẽ đáp:
- Con hiểu!
Trước ngày ốm nặng, ngày nào Đồng Nhẫn An cũng không quên việc này. Bên ngoài có kẻ nói phải cởi chân bó ra, có kẻ nói cấm bó chân rồi, làm lão nao núng không yên. Lứa cháu trong nhà lại đều là con gái, Liên Tâm bốn tuổi, hai con gái Bạch Kim Bảo, đứa lên năm, đứa lên sáu. Con gái Đổng Thu Dung cũng sáu tuổi, đều đến lúc bó chân cả rồi. Chỉ vì Hương Liên bảo Liên Tâm còn nhỏ quá, nên trùng trình để đấy. Đồng Nhẫn An bề ngoài không tiện thúc Hương Liên, song vẫn canh cánh bên lòng. Lúc này lão không thể đợi được nữa, tâm sự sắp trở thành hậu sự rồi. Lão kêu lên:
- Gọi -u -Phan, gọi -u -Phan!
Việc bó chân, không có u Phan không xong.
Nhưng từ ngày thi chân lần thứ hai, u Phan thấy Hương Liên đi đôi giầy đỏ năm xưa của vợ Đồng Nhẫn An thì đi thẳng về phòng, rất ít khi ló mặt. Ngoài mấy cô hầu tìm mụ nhờ vẽ kiểu giầy, khâu má giầy, lắp đế giầy, dán mặt giầy, rồi nữa là mở cửa cho mèo ra ngoài, đóng cửa sau khi đón mèo vào, không ai biết mụ làm những gì trong buồng. Bất chợt mụ có gặp Hương Liên giữa sân thì chẳng ai ngó ngàng đến ai. Bây giờ ờ nhà họ Đồng, Hương Liên là chúa, duy có nể u Phan vài phần. Có đồ ăn thức uống gì ngon lành mà không dễ kiếm, cô đều sai cô hầu mang đến biếu mụ. Riêng cô không vào phòng mụ, mà cũng có thể nói, cô chưa hề bước chân vào phòng mụ bao giờ.
Lúc này, bất kể Đồng Nhẫn An nói đi nói lại cho gọi u Phan, Hương Liên cũng không nhúc nhích, vẫn cứ ngồi bên cạnh canh chừng. Khuya lắm, chừng nửa đêm, Đồng Nhẫn An không giục nữa, mắt mở to chớp liền liền, như lắng nghe, rồi chuyển dịch bàn tay từng chút một về phía vách gỗ sát liền giường. Lão cố sức cào vách ván gỗ, không biết định làm gì. Bỗng phía đầu tủ cạch cạch liền mấy tiếng. Có người? Hương Liên sợ quá đứng bật dậy, mắt nhìn thấy vách gỗ đằng ấy chuyển động, từ từ mở ra như một cánh cửa rồi một bóng đàn bà đen kịt bước vào. Hương Liên suýt kêu thành tiếng, người đàn bà kia cũng giật mình, rõ ràng không ngờ cô cũng có mặt trong phòng này. Người đàn bà đen kịt ấy chính là u Phan. Mụ ta vào bằng cách nào? Chẳng lẽ đi xuyên tường mà vào? Hương Liên chợt tỉnh ngộ! Thì ra bức vách ấy là một cánh cửa ngầm, phòng mụ ta ở ngay sau bức vách ấy. Ngay tức khắc, Hương Liên nhìn thấu đến đáy mọi việc ở nhà họ Đổng. Cả phần dưới cái đáy ấy cô cũng thấy rõ mồn một.
Bất kể việc gì, một khi thấy rõ thì lập tức lòng bình tĩnh lại. Mấy năm qua, Hương Liên chưa nhìn thẳng u Phan lần nào, lần này vừa liếc mắt, cô thấy mụ thay đổi dữ quá. Tóc mụ một màu trắng xóa không thấy màu đen, thịt trên mặt đi đâu hết chỉ còn da bọc xương. Da chùng xuống nếp nhăn càng nhiều, mặt càng nhăn nheo, chỉ có đôi con ngươi phát ra ánh sáng lạnh lẽo từ hai hốc mắt đen ngòm. U Phan và Hương Liên đứng đối mặt nhau, ngó sững nhau, ngơ ngẩn nhìn nhau, trừng mắt nhìn nhau một lúc lâu. Rốt cuộc Hương Liên vẫn có bản lĩnh hơn. Cô chỉ vào Đồng Nhẫn An, lên tiếng trước với u Phan:
- Ông cụ có chuyện muốn nói với bà.
U Phan bước tới trước giường, đứng đợi. Đồng Nhẫn An nói:
- Chuẩn-bị-sẵn-ngày-mai-bó-bó tất!
Hai chữ cuối cùng lão nói liền được một hơi. U Phan gật đầu sau đó ngước mắt lên nhìn Hương Liên một cái. Cái nhìn này như nhát dao đâm trúng tim Hương Liên. Cô hiểu ánh mắt ấy là tất cả những gì mụ ta để bụng mấy năm nay muốn nói mà chưa có dịp nói với cô. Sau đó mụ quay người đi luôn, nhưng không đi theo lối cửa bí mật mà mở cửa chính bước ra. Thân hình mặc toàn đồ đen lập tức tan biến trong đêm tối.
Sáng sớm hôm sau, Hương Liên cho gọi mọi người ra sân báo tin:
- Cụ ông ra lệnh, chiều hôm nay, trẻ con các phòng nhất loạt bó chân, ai nấy chuẩn bị sẵn đi!
Nói xong cô trở về phòng mình. Các phòng, phòng thì im lặng, phòng thì có tiếng khóc, phòng thì nói chuyện, nhưng đều hạ giọng nói khe khẽ thôi. Đến giữa trưa, Đào Nhi bỗng cất cao giọng ngay giữa sân gọi Liên Tâm. Hương Liên chạy ra cửa hỏi, thì ra Liên Tâm không thấy đâu nữa. Cả mấy cô hầu và người làm trong nhà sục tìm nhà trước phòng sau, cả ngách hòn non bộ, nhà bếp, thống nuôi cá, nhà xí, nóc nhà, ống khói đều tìm cả nhưng đều không thấy. Hương Liên mặt biến sắc, hai tay giang ra, vả cho Đào Nhi mười tám cái vào hai bên má đến nỗi vả gấy một cái răng nanh bên trái, máu chảy cả ra mép. Đào Nhi không kêu, không van xin, chỉ rớt nước mắt nghe Hương Liên quát the thé:
- Cổng đóng sao lại mất con bé? Mày ăn nó rồi ăn thịt nó rồi, mày nhả nó ra cho tao!
Rồi khóc, rồi ầm ĩ, rồi kêu gào, rồi bới lộn cả lên, chẳng còn ai ra người nữa.
Liên Tâm mất tích, hôm ấy việc bó chân không thành. Đồng Nhẫn An sau khi biết tin, bảo:
- Đợi-đợi-bó-một-thể!
Thế là đằng thì đợi, đằng thì đi tìm. Trong nhà tìm không thấy thì ra ngoài tìm. Hàng xóm láng giềng, nhà trước cửa sau, đầu ngõ cuối ngõ, trong thành ngoài thành, sông đàng đông ngòi đàng tây, cả chợ buôn người ở mé ngoài thành phía tây cũng đến, nhưng nào thấy tăm hơi? Lần chạy đi tìm này mới thấy thành Thiên Tân quả là rộng vô bờ, người đông không đếm xuể, khiến hai bàn chân Đào Nhi sưng lên mà vẫn phải chạy khắp nơi. Người bảo bị đại tiên chộp mất, kẻ bảo bị mẹ mìn bỏ bùa mê đem bán cho cha cố nhà thờ moi tim gan, khoét mắt, cắt lưỡi, lộn mề, căng tai làm thuốc tây rồi. Từ khi người nước ngoài xây nhà thờ ở Thiên Tân, dân chúng ngày đêm lo lắng chỉ sợ con trẻ bị bắt cóc để chế biến thuốc tây.
Đào Nhi quỳ thưa với Hương Liên trước mặt mọi người, hai mắt khóc đỏ mọng như hai quả nhót:
- Liên Tâm e mất tích thật rồi, cháu cũng chẳng thiết sống nữa, mợ muốn bắt chết như thế nào cũng xin vâng.
Hương Liên không nói nên lời. Nước mắt lúc ướt lúc khô trên má. Ở chỗ u Phan đã chuẩn bị xong. Mấy chục cuộn vải bó chân, nhuộm đủ màu phơi trẽn cành mai giữa sân như đón tết. Mấy cô hầu thấy thế đều khóc thầm:
- Thương cho Liên Tâm quá...
Hương Liên thấy thế bèn lên nhà nói với Đồng Nhẫn An: .
- Cháu Liên Tâm chưa tìm được, thôi đừng chờ nữa, cha cho bó đi thôi!
Khuôn mặt đã chết một nửa của Đồng Nhẫn An giật một cái, lão giận giữ thốt lên:
- Đợi!
Bảy ngày trôi quá. Đồng Nhẫn An không vượt qua, không chống chọi được, chỉ còn chút hơi thoi thóp ở cổ. Lúc nói, miệng như ngậm đậu phụ nóng, lúng ba lúng búng chẳng ai nghe ra: Sau chỉ thấy mồm mấp máy không thành tiếng nữa. Buổi sáng cả nhà ăn cơm ở sảnh trước, cơm xong Đổng Thu Dung ở lại bàn với Hương Liên:
- Chị Cả ạ, xem chừng ông cụ qua được mồng một chứ khó qua nổi hôm rằm. Mấy ngày hôm nay, nói dại nói dột, cháu Liên Tâm mất tích, ruột em cũng như đứt thành hai khúc. Nhưng bây giờ chị làm chủ nhà này, chị phải gượng lấy lại tinh thần lọ liệu hậu sự cho ông cụ. Lại nhân lúc ông cụ không còn tỉnh táo mà làm cho xong cái việc bó chân đi.
Hương Liên lúc này mới gật đầu, bảo ban người nhà dọn sạch bàn, ghế, tủ, giá ở sảnh trước đi, quét dọn sạch sẽ để bày linh sàng. Các thứ dùng cho đám táng, thuê mượn về đầy đủ, lại sai người đến cũng Thiên Hậu, điện thần tài và đền Lã Tổ mời sẵn hòa thượng, đạo sĩ, ni cô, thày chùa đọc kinh cho bốn rạp, sau đó mời nhà đám chuyên dựng rạp, rồi xe lừa, xe ngựa, xe bò, xe đẩy chở tre nứa, gỗ lạt, chiếu lau. ván sàn, vải vàng, vải trắng, vải xanh, giây thừng to nhỏ... đến. Nhưng đến lúc ấy người đi tìm Liên Tâm vẫn chưa thấy bóng dáng cô bé đâu, Đổng Nhẫn An lại cố gắng gượng ba ngày nữa, da đã xạm đen, bảo chết thì cũng là chết rồi. Khi khiêng đặt lên linh sàng, lão như không thở nữa nhưng vẫn mở to mắt, con ngươi long lanh như hai hạt thủy tinh. Hạnh Nhi nói:
- Các mợ nhìn mắt cụ ông kìa, không chừng sắp hoàn dương cũng nên!
Hương Liên vội đến nhìn. Mắt Đồng Nhẫn An sáng đến phát sợ. Cô hiểu ý, ghé sát xuống nói khẽ với lão:
- Cháu Liên Tâm tìm thấy rồi, ngay bây giờ bó chân cho các cháu!
Cô nói xong, mắt Đồng Nhẫn An lập tức không còn ánh sáng phát sợ ấy nữa nhưng vẫn mở.
Hương Liên ghé vào tai Đào Nhi nới thầm mấy câu, bảo Đào Nhi làm ngay lập tức lại gọi Hạnh Nhi mời u Phan chuẩn bị gấp mấy thứ đồ bó chân, sai Hoa Nhi, Thảo Nhi chia nhau đến phòng Bạch Kim Bảo và Đổng Thu Dung đưa mấy đứa nhỏ ra sân để bó chân.
Lát sau, nơi bó chân đã bày biện xong. Hai con gái Bạch Kim Bảo là Nguyệt Lan, Nguyệt Quế, con gái Đổng Thu Dung là Mĩ Tử đều được dẫn ra sân, sắp một hàng ngang. Ba cô hầu gái Hạnh Nhi, Hoa Nhi, Thảo Nhi chia nhau coi ba đứa trẻ, mọi việc có u Phan sai phái. Các cô hầu vừa mới bầy các thử chậu, bình, kéo, vải, chai thuốc, hũ thuốc lên, mấy đứa trẻ đã sợ phát khóc, cừ y như có người vừa chết vậy.
Cảnh này bày ra ngay trước mặt sảnh trên mà cửa sảnh lại mở toang, thành thử cũng là bày ngay trước mặt Đồng Nhẫn An đang mở mắt nằm ngay đơ trên linh sàng đặt trong sảnh. Hương Liên ngồi trên đôn sứ đặt bên cạnh, Đào Nhi đứng hầu đằng sau.
U Phan vẫn mặc toàn đồ đen nhưng lần này từ đầu đến chân không hề có màu sắc nào khác. Mụ ta đến trước mặt từng đứa trẻ, lột giầy ra vất đi, cầm lấy ban chân ngắm nghía trước sau, phải trái, trên dưới, trong ngoài rồi bỏ vào chậu nước ấm ngâm, cứ như sắp sửa mổ thịt. Một mặt mụ dặn Hạnh Nhi, Hoa Nhi, Thảo Nhi các cách bó khác nhau, một mặt mụ phân phát mấy dôi giầy nhọn, thon, ngắn, hẹp khác nhau. Xong, mụ bước ra giữa sân, chân vừa đứng, mắt liền trừng, tay liền vẫy, giọng khàn khàn ra lệnh.
- Bó!
Mấy cô hầu gái ra tay cùng một lúc. Họ kéo chân bọn trẻ ra khỏi chậu để bó. Bọn trẻ khóc ầm lên. Nguyệt Quế túm ngay lấy tay áo Bạch Kim Bảo:
- Mẹ ơi, con không nghịch hộp son của mẹ nữa đâu, mẹ tha cho con!
Bạch Kim Bảo tát cho cô bé một cái, nói:
- Phúc nhà mày đấy con chết dẫm ạ. Người ta muốn bó còn không được bó, để chân to cho tuyệt nòi nhà mày đi!
Người ở ngoài sân ai cũng biết câu đó cốt nói cho Hương Liên nghe. Hương Liên ung dung ngồi, không lộ vẻ tức hay giận, nét mặt cứ điềm nhiên như không, dáng dấp lúc nào cũng như bà chúa trong cũng Thiên Hậu. Chỉ thấy trẻ con khóc, người lớn la và mấy dải vải bó chân trong tay mấy cô hâu kêu sột soạt, ngoài ra là giọng khàn khàn của u Phan ra sức hô: "Chặt, chặt, chặt vào!". Đổng Thu Dung khóc thảm thiết hơn con gái nhưng không thành tiếng, người cứ nấc giật lên, nước mắt thấm ướt cả vạt áo trước như áo bị hắt nửa chậu nước. Bạch Kim Bảo thì không cú lấy một giọt nước mắt, khuôn mặt xinh như hoa tươi cười, thỉnh thoảng lại giật lấy dải vải bó chân trong tay Hạnh Nhi, Hoa Nhi ra sức néo chặt, chừng như muốn để thế hệ sau trả mối thù kiếp này cho mình vậy.
U Phan quát Thảo Nhi:
- Làm gì mà để con bé khác gào lên thế?
Thảo Nhi đáp:
- Ngón chân cứng quá, gập được ngón này, ngón khác lại bật lên.
U Phan mắng:
- Đồ chết toi! Mày gập ngón thứ hai với ngón út, ngón giữa với ngón thứ tư không cần gập cũng cong xuống đấy!
Thảo Nhi đổi cách bó, Mĩ Tử cũng thôi không gào nữa.
Hương Liên thầm nghĩ, u Phan thật là nhà nghề chính cống. Hồi ấy nếu bà ta không cứu mình thì sao mình có ngày nay? Cho dù sau này thành thù oán thì vẫn phải ghi nhớ ơn đức trước kia của người ta mới phải. Cô bèn bảo Đào Nhi bê cái đôn sứ ra ngoài sân.
Đào Nhi mang cái đôn sứ đặt cạnh u Phan, nói:
- Mợ Cả nói với bà ngồi xuống đây nghỉ chốc lát!
Ngờ đâu u Phan không thèm để ý, chỉ ngó sững đôi chân từng đứa trẻ một. Khi đã bó xong, mụ bước tới kiểm tra từng bàn chân. Chỗ vuốt cho ngay, chỗ nắn lại cho khỏi vẹo, tay ấn ấn vào gan bàn chân, bàn chân nào cũng phải trọn vẹn từ mé trong cho tới ngón mới được. Cuối cùng mụ rút chiếc lược bí giắt trên đầu, một nửa là răng lược để chải tóc, một nửa là thước đo vừa ba tấc Mụ đo từng bàn chân một, đo dọc đo ngang, đo xiên, đo thẳng, đo cả bàn, đo trung đoạn. Đo xong, mụ lạnh lùng bảo:
- Được rồi!
Rồi không để mắt tới Hương Liên, mụ quay đầu trở về phòng mình.
Hương Liên bảo khẽ Đào Nhi một câu gì đó, Đào Nhi vào phòng Hương Liên dắt ra một bé gái. Ai nấy giật mình tưởng đã tìm được Liên Tâm, đã bó xong chân, đi đôi giầy nhỏ cho em. Khi lại gần, nhìn mặt không phải Liên Tâm, chỉ cách ăn mặc là giống. Thì ra Hương Liên tìm một bé gái thay cho Liên Tâm, lám Bạch Kim Bảo giật mình một lát.
Hương Liên dẫn hai người đàn ông giúp việc vào linh đường. Ba người, một đứng bên phải, một đứng bên trái, một đứng phía trên, đỡ cho đầu Đồng Nhẫn An ngẩng lên. Hương Liên nói:
- Cha nhìn kìa, đứng giữa là cháu Liên Tâm, bên trái là Nguyệt Quế, Nguyệt Lan, bên phải là Mĩ Tử, các cháu đều bó chân cả rồi.
Đồng Nhẫn An vốn như đã tắt thở, lúc này lại sống lại! Hai con ngươi đưa đẩy liếc một cái, nhìn khắp lượt những đôi chân bó thành góc bánh, thành ngạnh ấu, thành búp măng của mấy đứa cháu gái đứng thành hàng ngang bên dưới, lập tức ánh mắt càng trở nên rạng rỡ, chẳng khác nào hai viên ngọc trân châu thật to. Hương Liên biết đó là "hồi quang phản chiếu", nhưng chưa kịp dặn hai anh người làm ở hai bên cẩn thận thì Đồng Nhẫn An đã thở hắt ra, hơi thở thối dựng cả râu hàm trên, mắt trợn ngược, ngực dô lên, chân duỗi ra, thế là ngoẻo. Chớ nói Hương Liên, cả hai anh người làm cũng sợ, tay đỡ không vững, đầu Đồng Nhẫn An rơi bịch xuống giường như trái dưa rơi xuống đất. Chẳng cần người vuốt, mắt đã nhắm tịt lại rồi. Da mặt không xạm đen đáng sợ như trước mà trắng dần ra, tĩnh lặng như mặt hồ ngày xuân.
Hương Liên khóc to:
- Ới ông ơi, ông đừng bỏ chúng con một lũ mẹ góa con côi mà đi ông ơi!
Cô dậm chân, tay đập vào vách giường. Khắp nhà, người lớn trẻ con vừa gọi, vừa kêu khóc, ầm ĩ cả lên. Trẻ con khóc càng dữ, chẳng biết khóc ông chết hay khóc chân đau.
Hương Liên vừa khóc vừa gào:
- Ông nhẫn tâm thế, ông nhẫn tâm quá ông ơi?... Con biết làm sao bây giờ ông ơi!...
Tiếng gào khóc chói tai người khác chứ nào có lọt tai người chết!
Chỉ riêng phía phòng u Phan không thấy động tĩnh gì. Con mèo đen to bự vẫn nằm trên đầu tường, cằm gác lên chân, đưa mắt lười biếng nhìn về phía bên này.
Theo phép tắc của tổ tông truyền lại, người chết được đặt tại linh đường, bày đạo tràng, mời hòa thượng và đạo sĩ đọc kinh, siêu độ vong hổn, gọi là lễ cúng chay "lũy thất". Cúng chay bao nhiêu ngày tùy mình định, tuần đầu là bảy ngày, tuần hai là mười bốn ngày, tuần ba là hai mốt ngày, cử bảy ngày một mà tăng lên. Người lắm tiền thì cố tăng lên mãi. Tục này nghe nói bắt đầu từ năm thứ năm niên hiệu Đạo Quang (1825), ông già nhà họ Lưu ở Thổ Thành chết, kinh đọc đến ngày thứ ba thì đến lượt một đám ni cô đọc kinh tì khưu ni? Nhè nhẹ tiếng chiêng tiếng mõ. ông già bỗng trở mình ngồi dậy, làm người coi linh sàng hết hồn bỏ chạy, đám sư nữ nhảy ào từ trên rạp xuống, sái cả chân, tưởng xác ông già biết trỗi dậy. Ông già giơ hai tay ra nháp, rồi dụi mắt, gắt lên với mọi người:
- Chúng mày làm gì thế? Diễn tuồng à? Tao đói quá!
Người táo gan bước đến coi, thì ra ông già sống lại thật. Cái năm ấy, người giả chết cũng có nhiều. Từ hôm đó, nhà có của ở Thiên Tân cúng chay đến bốn chín ngày, để người nằm đó bốc mùi lên mới khâm liệm, hạ huyệt an táng.
Nhà họ Đồng cúng chay đã đến tuần thứ bảy. Những thứ dùng cho ngày đưa ma như xe loan, lọng vàng, kiệu đưa hồn, phướn, minh tinh, đình để lư, để hương, để ảnh, để hoa, người giấy, ngựa giấy, móng vàng, cối ngọc, ghế triều thiên, thanh la mở đường, cờ dẹp đường, trống kèn, huyết lễ cán đỏ, tuyết liễu cán trắng v.v.. đứng kín hai hàng từ cổng ra tới ngoài đường, chẳng khác nào cảnh mở cửa hàng của cả một dẫy phố. Thần ngăn đường, quỷ mở lối đặt dựa vào tường phía ngoài, cao đến ba trượng, nhô lên khỏi đầu tường đến nửa người, đầu đột mũ, tóc buông xõa, thè cái lưỡi đỏ dài tám thước, khiến cho lũ bé gái vừa mới bó chân còn ở trên giường sợ hết hồn, không dám bám vào cửa sổ ngó ra ngoài. Ba mợ chủ Qua Hương Liên, Bạch Kim Bảo, Đổng Thu Dung mặc áo sô ngày đêm thay nhau túc trực trước linh cừu. Có điều lạ là Đồng Thiệu Hoa vẫn chưa thấy mặt mũi đâu, có phần chắc đi xa không biết tin tức, nếu không lúc này đúng là dịp tốt để hắn trở về độc quyền cai quản nhà họ Đồng. Bạch Kim Bảo mong hắn trở về, Qua Hương Liên lại mong Đồng Nhẫn An sống lại. Dù ai được như nguyện thì tình thế nhà họ Đồng cũng biến đổi hẳn. Nhưng hơn bốn mươi ngày đã trôi qua vẫn chẳng thấy tăm hơi Thiệu Hoa đâu, mặt Đồng Nhẫn An đã teo tóp, dù có sống lại cũng là quỷ sống.
Người được cử đem tin báo cho Đồng Thiệu Phú, Nhĩ Nhã Quyên mới đi được nửa đường, trở về nói nước sông Hoàng Hà, Hoài Hà đều to, không vượt qua được; nếu từ Bạch Hà ra biển rồi quành trở lại thì cũng muộn mất rồi, bởi vậy chỉ có mấy nàng dâu trực quan tài. Việc đó khiến cho rất nhiều người chẳng phải bạn bè, thân thích, thậm chí bắn súng cũng không tới, chẳng có thiếp báo tang cũng kéo đến, mượn cớ điếu phúng người chết mà xem chân ba mợ nàng dâu, nhất là mợ Qua Hương Liên danh nổi như cồn. Ngược lại, bạn bè ngày thường vẫn đến, lại chẳng thấy ló mặt. Thật đúng như tục ngữ nói "bạn trên ngựa hết tình khi xuống ngựa, bạn sinh thời lúc chết cũng thôi luôn". Lòng dạ Hương Liên thật u ám, buồn thảm.
Nhưng nói gì thì nói, cô cũng không thể nói đến chữ chết. Trước ngày đưa ma một hôm, chiếc chuông nhỏ ở cổng vừa reo, chiêng trống của nhà sư vang lên, thì có một người đàn ông vừa vào đến cửa đã thụp xuống trước linh cữu, rập đầu liền năm cái. "Người sống ba, người chết bốn", lệ xưa nay rập đầu lễ người chết chỉ có bốn cái, sao người này lại rập đầu thừa ra một cái? Tim Hương Liên như nẩy bật lên cổ, tưởng đâu Đồng Thiệu Hoa hổ thẹn về chịu tang. Đợi người kia ngẩng cái mặt bị thịt lên, thì ra là Ngưu Phượng Chương. Bộ mặt đưa ma ấy nhếch mồm kể lể:
- Cụ Đồng ơi, cụ suốt đời đối xử hậu với tơi, vậy mà tôi có hai việc làm không phải với cụ. Việc thứ nhất khiến cụ bỏ mạng, việc thứ hai nếu cụ biết, cụ ắt không tha thứ cho tôi. Tôi thật chẳng ra gì! Còn cụ...
Nói đến đây, lão thấy mắt Hương Liên bắn ra một tia sáng nhọn hơn đầu mũi tên khiến lão sợ hãi nuốt câu định nói đó đi. Ngừng một lát, lão lại khấn:
- Cụ có thành quỷ cũng đừng về tóm tôi đấy nhé! Cự hẳn thấy tôi hơn hai chục năm trời nay, việc gì cũng làm theo lời cụ. Tôi còn có đấy nhà vợ con, kẻ trên người dưới nhờ cậy tôi nuôi sống mà cụ ơi! - Nói xong lão hu hu khóc ầm lên.
Lẽ ra Hương Liên phải đáp lại cái lễ rập đầu đó, xong phải mời người ta vào rạp uống nước ăn bánh trái. Nhưng cô lại nói:
- Đừng để ông Năm Ngưu thương tâm quá!
Rồi sai người nhà đưa ông ta ra khỏi cổng.
Sau khi Ngưu Phượng Chương đi khỏi, trời đã tối, trong ngoài đèn lồng, nến, hương thắp sáng trưng. Ngày mai đưa ma, một đống việc đang chờ Hương Liên lo liệu. Bỗng Đào Nhi chạy xộc vào kêu:
- Hỏng rồi, hỏng rồi...
Hương Liên thấy Đào Nhi mặt đỏ bửng, tay chỉ phía sau lưng cô, miệng không nói nên lời; trong phút chốc Hương Liên ngẩn ngơ hoảng hốt tưởng Đồng Nhẫn An trỗi xác hay đã sống lại. Cô quay đấu lại nhìn, thấy sân trong rần rật ánh sáng đỏ, chiếu loang loáng mọi vật và mọi khuôn mặt ở xung quanh. Là thần, là phật, là tiên hay quỷ quái yêu ma đây? Rồi người này tiếp theo người khác kêu ầm lên:
- Cháy, cháy, cháy rồi!
Hương Liên theo mọi người ùa vào sân trong, thấy lửa từ cửa sổ một gian nhà phía tây bắc phụt ra. Những lưỡi lửa dài bò ra bên ngoài như con rắn vặn mình, khói đen cùng với nhũng đốm lửa cuồn cuộn bốc lên. Hương Liên giật bắn người: đó là phòng u Phan!
May sao lửa chưa bốc lên mái nhà, lửa không mạnh vì không có gió. Thanh la hội cứu hỏa gần dấy chừa nổi lên thì người nhà và cả hòa thượng, đạo sĩ đang đọc kinh đã ba chân bốn cẳng bưng chậu, xách thùng dập tắt được lửa. Hương Liên bị khói xông chảy cả nước mắt nhưng vẫn gọi:
- Cứu người đi! Đưa u Phan ra ngoài!
Mấy người đàn ông đầu trùm chăn thấm nước chui vào trong phòng, lát sau đã chui ra, không thấy đưa u Phan ra, hỏi cũng không đáp, luôn mồm ho vì sặc khói. Con mèo đen to bự đứng trên đầu tường ra sức gào về phía căn phòng cháy, tiếng gào xuyên qua lỗ tai mọi người vào đến tận tim. Hương Liên không cần biết mặt đất là lửa hay là than, là than hay là lửa, cứ bước qua, nhờ ánh đèn lồng nhìn vào trong. U Phan ôm một cuộn vải dầu, đã chết cháy, người co rúm lại. Trên mặt đất khắp phòng là những chiếc giầy xinh thêu hoa cháy bết vào nhau, có đến mấy trăm đôi. Mùi khét dễ khiến người ói mửa. Hương Liên buồn nôn, vội vàng bước ra khỏi phòng.
Hôm sau, Đồng Nhẫn An được sáu mươi tư cây đòn khiêng đi. Suốt dọc đường, người đông đúc rung trời chuyển đất đưa lão đến chôn ở phần mộ Đại Tiểu Viên ngoài cửa Tây. U Phan cũng được thuê bốn người đi cổng sau đưa chôn lặng lẽ âm thầm ở nghĩa địa ngoải cửa Nam. Khu nghĩa địa này do hội đồng hương Chiết Giang bỏ tiền mua, dành chôn những cô hồn không người thân thích. Thật ra, làm rùm beng hay mai táng lặng lẽ, cách nào cũng đều do người sống bày đặt ra cả.
Người chết rốt cuộc đều trở về nằm dưới đất đen.
|
14-10-2008, 05:57 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ mười ba
Hỗn chiến loạn xà ngầu
Bây giờ là niên hiệu Tuyên Thống năm thứ mấy nhỉ? Ô, còn Tuyên Thống gì nữa! Tuyên Thống chỉ ngồi trên ngai rồng có ba năm là bị lật đổ, niên hiệu Đại Thanh cũng thôi rồi. Bây giờ là năm dân quốc!
Cô cao hơn trong hai cô lên tiếng trước:
- Nghe nói ông dấy chuyện cởi chân bó, lại diễn thuyết đòi phủ quan hạ lệnh không cho con gái bó chân được ra vào, đi chơi trong ngoài thành?
- Đúng vậy, thì đã sao? Sợ à? Tôi chẳng qua chỉ muốn khuyên các cô cởi đám giẻ quấn chân hôi thối ấy vất đi, có gì là khó?
Đám thanh niên ngỗ ngược đứng vây quanh, nghe nói thế liền cười phá ra, tìm cách trêu hai cô cho vui. Giám đốc Lục thấy có người cười cũng đắc ý cười theo. Đầu tiên cười ruồi, sau cười mỉm rồi cười ầm lên cười đến nỗi ngất cả đầu ra đàng sau.
Cô gái thấp hơn đưa hai cái bánh quấn thừng rán dầu cho giám đốc họ Lục.
- Cái này để làm gì? - Giám đốc Lục hỏi.
- Cô gái thấp cười hì hì:
- Nhờ ông gỡ ra và nắn thẳng hộ.
- Kì quá, xoắn ngược lại làm gì? Vả chăng bột đã xoắn thành hình thế này nắn sao cho thẳng? Cô ăn ngán rồi tìm tôi để đùa chăng?
- Ông thì có gì đáng để đùa? Đã không nắn thẳng được thì dù cởi chân bó, chân có thẳng lại được không?
Giám đốc Lục mắt trợn lên, không trả lời được. Đám thanh niên thấy hay hay bu lại xem kia đều là những cậu nhàn rỗi, thấy bên nào cứng cựa thì ủng hộ bên ấy, nay vừa thấy cô gái thấp đối đáp rất tuyệt, liền ngó cả về ông giám đốc Lục mà cười ha hả. Cô gái cao thấy đối phương lúng túng liền dồn thêm mấy câu nữa:
- Về nhà hỏi kĩ mẹ ông đã rồi hãy liến láu cái mồm! Chân bó có đẹp hay không, tạm chưa bàn đến, nhưng ông cũng do người đàn bà bó chân đẻ ra. Ông có dám nói ông là con bà chân to không nào?
Mấy câu này đúng là đóng đinh ông giám đốc Lục ngay tại chỗ. Bộ râu chữ bát trên miệng giống như đôi cánh con bướm đen lúc cụp lúc xòe. Đám thanh niên càn quấy nói góp vào càng dữ, những từ khó nghe nhất đều nói vung cả ra. Hai người con gái ném toẹt mấy cái bánh cuốn thừng rán xuống đất, quay đầu bỏ đi, từ đường Hải Đại men theo chân tường thành rồi vào thành về nhà. Vào đến sảnh trước, hai cô kể lại chuyện vừa rồi với Qua Hương Liên, tưởng Qua Hương Liên thế nào cũng vui lòng. Ngờ đâu cô không hề mỉm cười như thể trong nhà lại vừa xảy ra việc gì khác, chỉ xua tay bảo Hạnh Nhi, Hoa Nhi về buồng.
Đào Nhi bước vào, Hương Liên hỏi ngay:
- Đã hỏi dò được rõ ràng chưa?
Đào Nhi khép cửa lại, hạ thấp giọng thưa:
- Rõ cả rồi ạ. Mĩ Tử bảo rằng tối hôm qua, mợ Hai vào phòng mợ Tư, hẹn mợ Tư đi nghe diễn thuyết ở Sở nghiên cứu văn minh, nhưng chưa thấy nói vào ngày nào nên chưa đi.
- Họ có đi không nhỉ? - Đôi lông mày thanh tú của Hương Liền phướn lên. Đấy là điều cô thầm sợ nhất.
- Theo cháu thi..? - Đào Nhi dồn hai con ngươi lại suy nghĩ một lát, nói tiếp. - Họ có thể đi lắm. Chân mợ Tư không ăn nhằm gì. Chân có không ra gì mới toan tính cởi. Mĩ Tử bảo, ngay mấy tháng trước đây, ban đêm mợ Tư đã không bó chân cho cô ấy nữa, mà mợ Tư cũng không bó chân mình, thả chân ra mà ngủ. Đều do mợ Hai xui nên cả.
- Còn gì nữa không? - Hương Liên hỏi, khuôn mặt trắng trẻo đỏ bừng.
- Sáng hôm nay...
- Thôi không cần nói nữa! Phải mợ Hai không bó chân, kéo lê đôi dép ngủ đi đi lại lại ngoài hành lang không? Ta trông thấy cả rồi. Mợ ấy cốt làm cho ta thấy đấy!
Đào Nhi thấy miệng Hương Liên đã như quả hồng khô, không dám nói thêm nữa. Hương Liên vẫn hỏi tiếp:
- Nguyệt Lan, Nguyệt Quế thì thế nào?
Đào Nhi ấp úng trong miệng.
- Nói! Đừng sợ! Ta không nói là em mách đâu!
Hạnh Nhi bảo hai chị em cô ấy mấy hôm rồi đều ra khỏi nhà, rồi mang về mấy tờ yết thị khuyên cởi chân. Bọn Hạnh Nhi, Hoa Nhi, Thảo Nhi cũng thấy cả rồi. Nghe nói Nguyệt Lan còn định đi dạo, không biết kiếm ở đâu về một quyển kinh.
Qua Hương Liên mặt trắng bệch ra, giận giữ nói:
- Tất cả nhũng chuyện ấy đều nhằm vào ta đấy!
Bà đứng bật dậy, tay áo suýt nữa gạt đổ cái cốc trên bàn trà, làm Đào Nhi giật nảy mình. Rồi chỉ tay ra ngoài cửa, bà bảo Đào Nhi:
- Em truyền đạt lời ta: cả nhà đều phải có mặt ở trước sân này.
Đào Nhi đi báo. Lát sau cả nhà đã đủ mặt ở trước sân. Lúc này, Nguyệt Lan, Nguyệt Quế, Mĩ Tử đã là thiếu nữ, thêm a hoàn và người làm, đứng đặc một khoảng sân. Hương Liên nghiêm mặt nói:
- Mấy ngày gần đây, bên ngoài không yên ổn, mà nhà ta cũng không yên ổn .
Nói xong bà nhìn vào Nguyệt Lan:
- Cháu cầm hết những tờ yết thị khuyên cởi chân mang ở ngoài về đem ra đây, một tờ cũng không được thiếu. Thiếu tờ nào ta cũng biết.
Hương Liên sợ nói nhiều, người khác có thời giờ ngầm phòng bị nên nói huỵch toẹt ngay, không để người kia rảnh tay đỡ đòn.
Bạch Kim Bảo thấy tình hình bất lợi, toan chống đỡ cho con gái. Song Nguyệt Lan vốn nhút nhát, lại bị bác mắng phủ đầu, liền ngoan ngoãn trở về phòng đem ra, tất cả có mấy tờ và một quyển sách nhỏ. Một tờ là Bài ca khuyên cởi chân, tờ thứ hai cũng là Bài ca cởi chân, do Nghiêm Tu biên soạn cho trường nữ thục của gia đình từ mấy năm trước, ngoài phố lớn đã có nhiều người biết hát. Một tờ nữa là Lời dụ về việc khuyên ngăn bó chân do Tổng đốc Tứ Xuyên phát cho dân từ năm Quang Tự thứ hai mươi bảy triều Thanh, đã thấy từ lâu. Còn quyển sách nhỏ kia mới là thứ mới mẻ, thiết thực lợi hại chết người, tên gọi là Tranh khuyên cởi chân. Tờ nào cũng có chứ có tranh, nào là "Nguồn gốc tục bó chân", "Kiểu chân các nước", "Nỗi khổ vì bó chân", "Cái hại của bó chân", "Nghiệp chướng của bó chân", "Nguyên do nên cởi chân", "Cái lợi của cởi chân", "Các cách cởi chân", "Niềm vui khi cởi chân", v.v… có đến mấy chục trang. Hương Liên giở xem soạn soạt, xem đến nỗi trống ngực Nguyệt Lan cứ đánh thùng thùng, chỉ đợi bác Cả gái nổi giận. Ngờ đâu Hương Liên giữ được bình tĩnh, chỉ dồn thêm một câu:
- Còn cái quyển kinh thánh lôi từ nhà thờ về đâu?
Nguyệt Lan sững người. Cô tưởng đâu như bác Cả luôn luôn có mặt sau lưng mình, nếu không, làm sao biết được? Nguyệt Quế tinh nhanh hơn cô chị nhiều, liền đỡ lời:
- Quyển ấy có người qua đường cho không, không mất tiền, chúng cháu tiện tay cầm một quyển về để kẹp mẫu giầy.
Hương Liên không thèm nhìn Nguyệt Quế chỉ nhằm vào Nguyệt Lan:
- Đem ra đây!
Nguyệt Lan đem ra. Một quyển sách của nước ngoài thật dầy, bìa da, phết sơn nhũ; giở ra xem, bên trong quả có kẹp mấy trang mẫu giầy. Hương Liên rút mấy tờ mẫu giầy ra, giao sách cho Đào Nhi, không hề nổi nóng, nói năng điềm tĩnh nhưng nghe ra thì câu chứ nào cũng vang như sấm nổ:
- Ngọn gió cởi chân đang nổi lên dữ dội ngoài phố chợ, nhưng nhà họ Đồng chúng ta có quy củ của nhà mình. Tục ngữ có câu, nước có quy củ của nước, nhà có phép tắc của nhà, không được sai một li. Người nào nếu không có chủ kiến ắt sẽ bị cuốn theo chiều gió. Quy củ của nhà họ Đồng như thế nào, tôi đã nói đến rách mép ra rồi, không để tâm ghi nhớ mà chỉ để lọt lỗ tai thôi cũng đủ thuộc lòng. Hôm nay, tôi nói lại lần nữa, mà cũng chỉ một lần này thôi, phải ghi nhớ lấy. Ai làm sai quy củ, tôi sẽ hỏi người đó, đừng có trách. Tất cả có bốn điều. Điều thứ nhất, ai muốn cởi chân hãy đi khỏi nhà này! Điều thứ hai, ai thích nói chuyện cởi chân, cũng ra khỏi nhà này. Điều thứ ba, ai toan cầm, xem, giấu. truyền những dâm thư, dâm họa như thế hãy ra khỏi cửa! Điều thứ tư, ai vụng trộm cởi chân, bất kể ngày hay đêm, nếu biết được tôi cũng tống cổ ngay lập tức ra khỏi cửa! Những người ấy làm như vậy không phải chống tôi đâu mà là cố ý hủy hoại nhà họ Đồng của chúng ta!
Mấy câu nói sau cùng làm cho Đổng Thu Dung và Mỹ Tử mặt nóng bừng, gáy lạnh buốt, đùi mỏi nhừ, chân tê dại, toan rụt chân vào sau vạt váy mà không nhấc nổi chân. Hương Liên bảo mấy cô hầu Đào Nhì, Hạnh Nhi gom mấy tờ giấy, tờ tranh, quyển sách thành đống đặt trên nền gạch châm lửa đốt. Không ai được bỏ đi, đều phải chứng kiến việc đốt bỏ. Quyển kinh thánh có bìa cứng như cục gạch không bắt lửa. Đào Nhi nghĩ ra cách, cô đứng lên giở sách như xòe quạt. Giấy có khoảng trống, bắt lửa bùng bùng, trong giây lát đã thành tro. Đúng lúc đó bỗng nổi lên một luồng gió. Vút một cái thổi tung tro bời bời bốc lên ngọn cây, nóc nhà, trong nháy mắt đã tản hết, trên mặt đất chẳng còn một vết tích nào. Trời đang yên lành, ở đâu ra luống gió này? Thổi một cái là tan ngay, sau đó chẳng còn chút gió gì nữa. Hạnh Nhi lè lưỡi nói:
- Hay là hồn cụ ông về thu hết cả đi rồi chăng?
Ai nấy há mồm, trợn mắt, khắp người nổi da gà, chân tóc dựng lên, đứng ngây ra tại chỗ như cọc gỗ.
Từ hôm ấy, người trong nhà sợ im thin thít, nhưng ngoài đường không chịu yên. Phía trong tường không náo nhiệt thì phía ngoài tường thật náo nhiệt. Mấy mợ chủ không ra khỏi cửa, các cô và đám người hầu cũng ít khi ra ngoài. Nguyệt Lan, Nguyệt Quế, Mĩ Tử, Hạnh Nhi, Hoa Nhi, Thảo Nhi đã thành thói quen, nghe thấy gì ở ngoài, khi về miệng cứ câm như hến, gì cũng chẳng nói, hễ hỏi đến là lắc đầu. Miệng càng im thít thì trong lòng càng có chuyện. Trước mặt người khác không nói thì nói sau lưng, không nói công khai thì nói vụng trộm. Mọi loại tin đều ngấm ngầm từ Đào Nhi truyền đến tai Hương Liên. Hương Liên vốn toan nổi nóng, song nghĩ lại thấy rằng trong nhà này ngoài Đào Nhi ra, chẳng ai còn nói thật với bà, bà không ra khỏi cửa, việc bên ngoài không hề hay biết, nếu nổi nóng thì đường dây Đào Nhi sẽ bị đứt, chẳng những việc trong nhà không nắm được mà việc bên ngoài càng chẳng biết gì. Bà ắt phải đổi cách khác, làm như chẳng biết một tí gì, để bí mật giỏng tai lắng nghe. Nhưng càng ngừng thì càng loạn, càng làm dữ thì càng náo nhiệt, càng mù mờ thì càng đau lòng, càng bất lực hoặc càng biết chắc thì càng mất hướng. Phát
điên lên được!
Nghe bên ngoài truyền đi tin quan phủ sắp bắt bỏ tục bó chân, lập ra "thuế chân bó". Bắt đầu từ mồng một tháng sáu, người nào chân ba tấc mỗi ngày phải nộp ba mươi tiền, dài thêm một tấc được giảm mười tiền, dài sáu tấc, miễn nộp. Làm như thế chẳng những cấm được bó chân mà quốc gia còn được không một khoản tiền nộp lớn, nhất cử lưỡng tiện, một mũi tên trúng hai con chim. Nghe nói sắp tới sẽ đi từng nhà tra xét người bó chân để lập sổ đóng thuế. Tin này nếu đúng, chẳng khác gì xua đuổi tiêu diệt hết người bó chân.
Lập tức những ai bó chân đều núp ở nhà, lo lắng sợ hãi. Có người đem chôn vàng chôn bạc, chôn vòng nhẫn, chôn tiền đồng, toan trốn đi xa. Nhưng sau đó lại nghe nói, lập ra việc quyên tiền những ai bó chân là ý định của một viên quan vô lại. Hắn quá nhàn rỗi chẳng có việc gì làm, buổi tối lúc rỡn chơi với chân bó, hắn bỗng nghĩ ra cách này để kiếm tiền cho dễ. Kì thực phủ quan xưa nay không cho chân để tự nhiên, đã từng bắt những người đàn bà nào bị quỷ ám không chịu bó chân giao cho đồn cảnh sát xử lí. Quy định gồm có ba điều. Điều một, hễ phụ nữ nào để chân tự nhiên ra phối lập tức bắt vào đồn. Điều hai, trong đồn đặt phòng bó chân, sẵn có những dụng cụ gọt chân của tây và vải bó chân, ai tự nguyện bó chân sẽ được sử dụng vải bó không mất tiền, ai ngoan cố không chịu bó, dùng dụng cụ gọt chân của tây xén luôn mấy ngón chân đi. Điều thứ ba, phàm những ai vừa kêu khóc, vùa làm ồn, dây dưa kiếm chuyện không chịu bó, ngoài việc cưỡng chế bó chân ra, nếu là con gái, trong một đến ba năm không được lấy chồng; nếu là đàn bà, từ hai đến năm năm không được chung chăn gối với chồng, ai trái lệnh bị bắt giam vào nhà lao, theo kì hạn xử phạt mà cắt cử người chuyên canh gác. Tin này truyền ra, ngoài phố như nồi nước đang sôi bị giội một chậu nước lạnh im ắng ngay xuống.
Hương Liên nghe được tin này liền an tâm. Nhưng chưa tan hết nỗi bực mình thì lại có chuyện. Hôm ấy có hai người đàn ông mặc áo sa, đập cổng rất mạnh, vào khỏi cổng tự xưng là nhân viên kiểm tra do phòng cảnh sát cử đến kiểm tra người bó chân đã cởi chân hay chưa. Nguyệt Lan đúng lúc đó đang đứng dưới vòm cổng, hai người đàn ông này giắt cái quạt đang cầm trong tay vào sau cổ áo, moi thước ra ngồi xổm xuống đo chân Nguyệt Lan, đo đi đo lại thừa cơ nắm lấy rỡn chơi, khiến Nguyệt Lan sợ quá kêu thét lên nhưng không dám bỏ chạy. Nguyệt Quế thấy thế, núp sau vách, bụm miệng giả giọng đàn ông ồm ồm quát tướng lên:
- Bắt lấy hai thằng này đưa lên quan!
Hai gã vội buông chân Nguyệt Lan ra bỏ chạy. Chúng đi rồi, Nguyệt Lan còn đứng đấy khóc mãi, người trong nhà kéo ra vừa an ủi Nguyệt Lan vừa bàn luận chuyện này. Ai nấy bảo chắc chắn bọn này là nhân viên kiểm tra dởm, không chừng là bọn "nghiền gót sen" mượn cớ kiểm tra giở trò rỡn chân nhỏ. Chân nhỏ nhà họ Đồng nổi tiếng quá, gây chú ý quá, nếu không, chúng đã chẳng dám tìm đến tận cửa.
Hương Liên sai người đóng cổng lớn thật kĩ, ra vào chỉ đi cổng sau. Thế là trước cổng lớn, càng ngày càng náo nhiệt. Người của Sở nghiên cứu phong tục đem đến nào ván, nào chiếu, nào cọc, dựng một cái rạp diễn thuyết ngay trước cổng lớn, mấy người luân phiên nhau lên đài diễn giảng; tốn sức nhất, to mồm nhất là ông giám đốc họ Lục. Ông ta gân cổ lên gào trước cổng lớn, tiếng ông ta dường như không phải vượt qua tường mà là xuyên qua tường vào trong nhà. Hương Liên ngồi trong sảnh, nghe rõ từng câu từng chữ một:
- Các vị phụ lão, bà con đồng bào và chị em hãy nghe đây! Mọi vật trên đời này đều có thiên tính, sinh trưởng tự nhiên. Nếu cây nào đang lớn bỗng nhiên không lớn nữa, ai cũng lấy làm tiếc. Nếu có kẻ lấy thừng thít chặt cây lại không cho lớn, tất ai cũng mắng chửi người ấy. Thế mà tại sao chân mình thì bó lại, không cho lớn, cho là chuyện bình thường? Cha mẹ nào mà chẳng thương yêu con gái? Con gái hơi ốm, hơi đau, bố mẹ đã hoảng lên, vậy tại sao bó chặt chân lại là ngoại lệ? Phải nói rằng bó chân khổ hơn đau ốm rất nhiều. Các bà, các thím, các mợ, các cô ai chẳng từng nếm qua? Tôi không cần hình dung, cũng không nỡ hình dung ra cảnh khổ ấy. Chẳng trách người nước ngoài bảo các bậc làm cha làm mẹ người Trung Quốc có trái tim gấu, tim hổ, tim beo, tim sắt! Có người bảo chân to không dễ kiếm chồng, bó chân cốt làm thỏa mãn ý thích của các ông. Đàn ông là người, đàn bà cũng là người. Vì chiều ý thích rỡn chơi của đàn ông, chị em chúng ta ngay từ lúc bốn, năm tuổi đã sáng bó chân, tối bó chân, ngày nào cũng bó, cho đến lúc chết cũng vẫn phải bó. Bó nên chạy không nổi, đi không nhanh, con chim con vịt cũng đuổi không kịp. Mùa hè hấp hơi thối inh, mùa đông lạnh đến phát cước! Rồi gọt chai chân, khêu chai nhọn, khổ đến cùng cực rồi! Từ ngày hôm nay, người nào còn cứ chân nhỏ mới lấy làm vợ thì hãy để cho người ấy suốt đời phòng không, tuyệt tự!
Sau hai tiếng "tuyệt tự", một tràng những lời khen, tiếng gào, tiếng cười, tiếng chửi vượt qua tường bay vào, trong đó có nhiều tiếng phụ nữ. Tay họ Lục kia càng hứng, cổ càng gân, nói càng hăng:
- Các vị phụ lão, bà con đồng bào và chị em? Ngày nào ta cũng nghe bọn Tây dương bảo Trung Quốc chúng ta nhu nhược, chửi Trung Quốc chúng ta hồ đồ, hoang đường, chỉ là đồ bỏ đi, người đông mà vô dụng, nên ngày càng lấn lướt chúng ta. Nghĩ cho kĩ hơn chút thì việc đó có quan hệ rất lớn với chuyện bó chân. Trên đời này ngoài nam giới ra là nữ giới, phụ nữ bó chân ngồi ở nhà, khi cần xuất đầu lộ diện chỉ biết dựa vào nam giới. Trong xã hội có biết bao nhiêu việc cần tỉ mỉ, chẳng hạn nghề nông, nghề làm thuốc, phụ nữ mà làm ắt hơn đứt nam giới. Còn ở nước ngoài, phụ nữ và nam giới cùng ra ngoài làm việc như nhau. Phụ nữ nước ta bị buộc ở nhà, người làm việc nước ít đi một nửa. Lại thêm phụ nữ đã bó chân thì thể lực cũng bị tổn thương, con cái sinh ra không được khỏe mạnh. Quốc gia như ngôi nhà lớn, dân chúng như những viên gạch, cây kèo. Thổ mộc không vững chắc, ngôi nhà lớn có kiên cố được chăng? Ngày nay ai cũng kêu gào nước nhà phải mạnh, vậy dân chúng trước hết hãy mạnh đi, do đó không trừ bỏ bó chân thì không xong! Có người bảo cởi chân bó, để chân tự nhiên là học thói Tây dương, phản tổ tông. Có biết đâu rằng thời các vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương, rồi Chu công, Khổng Tử, làm gì có bó chân? Các vị chắc đã đọc Hiếu kinh, ngay đầu sách có một câu chắc ai cũng nhớ, đó là "thân thể da tóc nhận từ cha mẹ, chẳng dám làm tổn thương", vậy mà bó chân lại, hỏi hủy hoại thành ra cái giống gì? Bó chân mới là phản tổ tông!
Bài diễn thuyết của ông giám đốc họ Lục thật sự tấn công và thủ thế cả ở tám phía, nói đến nỗi Hương Liên lạnh toát cả hai tay, ngẩn ngơ như mất hồn vía, chân không vững, bụng hoang mang. Đúng lúc đó chợt bên cạnh có người nói:
- Bác ơi, ông ấy nói hay nhỉ, có phải thế không ạ?
Hương Liên giật mình, nhìn lại thì ra con gái Bạch Kim Bảo là Nguyệt Quế đang nhìn mình mà cười hì hì. Nhìn lại mình, bà càng giật mình, thì ra mình đang đứng ngay dưới chân tường nghiêng người lắng nghe phía bên ngoài. Từ lúc nào bà đi từ sảnh trước ra đây, bà cũng chẳng hề hay biết, cứ như người mộng du. Bà vừa nhận ra liền mắng ngay Nguyệt Quế:
- Về phòng ngay. Những lời lẽ bẩn thỉu ấy, không thấy rác tai à?
Nguyệt Quế sợ quá vội vàng trở vào phòng.
Bà mắng khiến Nguyệt Quế phải bỏ đi nhưng không mắng rã được đám người của Sở nghiên cứu phong tục. Đám người này ngày ngày làm rộn, nói không dứt, không hết, cả sớm lẫn tối, chẳng nghỉ ngơi, chẳng cần biết nông sâu. Dần dà người diễn thuyết không chỉ riêng bọn giám đốc họ Lục mà có nhiều giọng khác, có cả nữ lên bục kể nỗi khổ phải bó chân. Nghe nói còn có một đội "nữ tử ám sát đoàn", người nào người nấy chít khăn đỏ, thắt lưng đỏ, tay cầm dao găm có tua đỏ, chân đều to đi giầy vải dỏ, lượn đi lượn lại trước cổng nhà họ Đồng. Họ lại còn cầm dao găm vạch một chừ thập trên mặt đất rồi nhổ nước bọt vào đấy, chẳng biết yểm chú cái gì. Hương Liên bảo người nhà không được tin những lời nhảm nhí đó, nhưng có người dám công nhiên giơ tay đập vào cửa thình thình, ngày một to, ngày một hung tợn, rồi ném gạch ném đất qua tường vào bên trong rào rào, làm cho chậu hoa, bàn sứ, cửa kính, thống cá vàng bày trước sân không nứt cũng vỡ tan. Những con cá vàng to bự dài hơn một thước ta nhảy ra ngoài qua lỗ thủng, vật mình lăn lộn trên đất, người nhà đành thả vào chậu rửa mặt, chum đựng gạo mà nuôi. Nhưng chúng sống ở cái thống lớn đã quen, đổi chỗ khác không hợp, chưa được mấy ngày, những con cá chúa sắp thành tinh này, phơi cái bụng trắng hếu to tướng trên mặt nước, thế là tong!
Hương Liên tức lắm, hận lắm. Họ làm loạn cả nước cờ, nên bà dù đã ra một chiêu, song mới tính được bước đầu mà chưa tính đến hậu quả. Bà sai mấy người làm đi cổng sau, thừa lúc đêm khuya người vắng châm lửa đốt béng ngay cái rạp của Sở nghiên cứu phong tục. Nhưng lửa vừa bén, thì thanh la của hội cứu hỏa cũng vang lên, Hương Liên chợt cảm thấy đã làm to chuyện. Xưa nay bà thường nén được giận, lần này làm sao lại sơ suất đến thế? Bà lo người của Sở sẽ xông qua cửa vào đập phá nhà mình nên gọi mọi người cài tất cả cửa ngõ, tắt đèn, giụi lửa, lên giường, không được nói chuyện. Khi ngoài cổng lửa đã tắt, người đã tan, cũng không thấy có ai đến gây sự. Song vừa mới thầm cho là may mắn thì Tiểu Ô đi tuần đêm bỗng kêu to lên là có trộm. Đào Nhi đưa Hương Liên ra xem. Thì ra cổng sau mở toang, then cửa vất ngay bên cạnh, nhất định có trộm rồi. Hai người sợ quá cũng kêu ầm lên, người trong nhà tất cả đều trở dậy, ánh đèn lấp loáng, bóng người cũng lấp loáng, người này đụng phải người kia. Chưa tìm ra trộm thì Bạch Kim Bảo bỗng gào khóc ầm lên, thì ra chẳng thấy Nguyệt Quế đâu nữa. Nếu Nguyệt Quế mất tích thật thì Bạch Kim Bảo không sống nổi.
Năm trước, Dưỡng Cổ Trai bị kẻ trộm là người nhà khoắng sạch, Đồng Thiệu Hoa và Hoạt Thụ bỏ trốn, từ đấy không có tin tức gì. Hương Liên vẫn lo lắng chỉ sợ Đồng Thiệu Hoa trở về lật đổ. May nhờ đức Phật chở che, Đồng Thiệu Hoa từ đấy không thấy lộ mặt. Kể cũng lạ, lẽ nào hắn đã chết nơi đất khách? Kiều Lục Kiều bảo có phần chắc hắn xuống Thượng Hải chơi bời rồi. Hắn lấy của nhà đi bao nhiêu thứ, bao nhiêu tiền, chơi cả đời, vung vãi cả đời không hết. Nhà này bây giờ chỉ còn cái khung, hắn mà trở về thế nào Bạch Kim Bảo cũng lúm lấy. Nói như vậy cũng có lí. Một năm sau, có người nói ở Tây Cô, trong cái chòi nát bỏ đã lâu của người săn chim nhạn tìm thấy một xác đàn ông. Hương Liên sinh nghi, cho người đến xem. Cái xác ấy mặt đã quắt queo nhưng quần áo vẫn nhận ra được là của Đồng Thiệu Hoa. Hương Liên đi báo quan, quan cho khám nghiệm phát hiện trên sọ có hai vết nứt do bị vật gì cứng đập vào. Mọi người bàn tán cho có đến tám phần, thậm chí mười phần do Hoạt Thụ hạ thủ; giết xong, hắn cuỗm tất cả tiền của bỏ trốn. Người tài giỏi như trời cũng không thể ngờ rằng cơ nghiệp mấy đời của nhà họ Đồng cuối cùng lại rơi vào tay một kẻ tàn phế lỏi con không đáng để ý này. Thì ra trên đời phần mở đầu và đoạn kết thường không phải của cùng một vở kịch.
Bạch Kim Bảo cũng thành goá phụ, còn chút hơi nào lập tức xì ra hết. Suốt ngày bà ta chán chường, ngơ ngác, già đi trông thấy. Sau khi con gái lớn lên, dần dần bà nghe lời con gái. Lúc trẻ, người trẻ theo lời người già; về già, người già nghe lời người trẻ, đó là quy luật thường tình. Nguyệt Lan mềm yếu, Nguyệt Quế mạnh mẽ nên Nguyệt Quế trở thành trụ cột của gia đình ấy. Bất cứ việc gì, kể cả việc chẳng ra việc đều phải nhìn xem Nguyệt Quế gật hay lắc đầu Nguyệt Quế mất tích, Bạch Kim Bảo đừng không nổi, cứ bò ra đất mà khóc. Lần đầu tiên Hương Liên ăn nói mềm mỏng với bà ta:
- Tôi cũng mất một đứa con như thím. Thím mất một, hãy còn một, đỡ hơn tôi nhiều. Vả lại nhà còn bao nhiêu người, có việc gì thím cứ nhờ mọi người giúp!
Nói xong Hương Liên quay người đi luôn. Mấy người hầu nhìn thấy mắt mợ Cả long lanh như hai giọt nước sóng sánh, biết chắc bà lại nhớ đến Liên Tâm.
Cả nhà bàn nhau, trời vừa rạng, sai người đi hai ngả, một tìm Nguyệt Quế, một đi báo quan. Nhưng lúc trời vừa sáng, một trận mưa gạch củ đậu từ bên ngoài ập vào, rơi xuống sân và trên mái nhà, có hòn như mưa đá, đập vào ngói chan chát rồi ào ào rơi xuống. Thì ra người của Sở nghiên cứu thấy rạp bị đốt, đoán chắc người nhà họ Đồng gây ra, nên la ó đòi cùng đốt nhà họ Đồng, trừ hết lũ bó chân đi. Bó đuốc từ bên ngoài kéo theo một luồng khói đen rơi xuống giữa sân, rồi họ đập cửa ầm ầm, tiếng to hơn tiếng sấm, làm cho cả nhà toàn đàn bà bó chân sợ hãi run lẩy bẩy từ đầu đến chân. Đến trưa, không thấy ai xông vào nhưng bên ngoài vẫn tụ tập cả đống người vừa kêu gào vừa chửi rủa. Lại còn bọn trẻ con cứ hát mãi không thôi:
Chân bó cởi, chân bó cởi
Đàn bà bó chân chạy không nổi!
Hương Liên mím chặt môi, không nói nửa lời, lẳng lặng ngồi ở sảnh trước cả một buổi sáng. Sau bữa trưa, chợt tươi tỉnh nét mặt, bà triệu tập cả nhà lại:
- Con người ta sống, một là vì nắm được lí, hai là vì để mở mặt mở mày. Nhà họ Đồng mình nắm được lí thì không được nhụt chí, phải cố mà mở mày. Không mở mày được thì chết đi cho yên chuyện. Chúng nó bảo chân bó không đẹp có phải không? Chúng ta hãy cho chúng thấy. Ta nghĩ ra được kế này. Này, Đào Nhi, em với Hạnh Nhi đem hết các thứ để khâu giầy và dụng cụ đến đây ta đổi kiểu đi, cho chúng nó thấy lạ, thấy mới, gây khí thế cho chị em bó chân trong thiên hạ.
Mấy người hầu chuẩn bị đầy đủ vật dụng khâu giầy. Hương Liên trải giấy ra, cầm bút vẽ mấy mẫu giầy, bảo mọi người cứ thế làm theo. Tài khâu giầy của người trong nhà này đều được u Phan truyền cho, toàn đạt đến trình độ của nghề chuyên môn cả. Bất cứ kiểu cách mới nào, chỉ thoáng qua là nắm được. Kiểu giầy của Hương Liên lần này đổi cửa giầy là cốt yếu. Lâu nay cửa giầy thường nhọn, lần này bà đổi thành tròn. Tủ mũi giầy đến hai má và mu giầy khoét tròn rộng ra vài ba phân, phía trước đính con chim, mỏ chim ngậm một hạt đậu vàng hoặc rủ xuống một xâu hạt ngọc. Một điều cốt yếu nữa là những dây ngũ sắc trang điểm hai bên má giầy thêu vòng ra tận gót. Ai nấy bận bịu gần hết ngày, tự làm cho mình rồi đi thử, ngó xuống đều thấy chưa bao giờ đôi chân mình đáng yêu đến thế. Đổi mới một chút, động viên một chút, ai nấy vui vẻ ríu rít cả lên.
Đào Nhi cầm một đôi chim sẻ thêu đưa cho Hương Liên, bảo bà đính lên mũi giầy. Hương Liên gọi:
- Ai nấy lại mà xem này!
Rồi đưa cho mọi người xem. Thoạt trông như chim thật. Nhìn kĩ, mỗi chiếc lông là một sợi chỉ, ít nhất cũng có đến mấy nghìn cái lông, cần đến mấy nghìn sợi chỉ tơ, mấy nghìn đường kim. Màu sắc càng thiên biến vạn hóa, xem đến nỗi mắt lồi ra mà vẫn thấy chưa xem được kĩ.
- Em thêu từ bao giờ thế? - Hương Liên hỏi.
Đào Nhi cười đáp
- Đây là thứ cháu cất dưới đáy hòm từ lâu, phải thêu mất đúng một trăm ngày. Năm ấy cụ ông nhìn thấy đôi chim này mới cho gọi cháu vào làm trong nhà đấy.
Hương Liên lẳng lặng gật đầu, thầm phục con mắt tinh đời của Đồng Nhẫn An.
- Chị Đào, mai chị dạy em thêu hai con như thế này nhé - Mĩ Tử nói.
Đào Nhi không nói gí, tủm tỉm liếc cô ta rồi cầm một sợi chỉ tơ trắng, đặt giữa ngón cái và ngón trỏ, vê một cái lập tức tở ra thành mười sợi, mỗi sợi mảnh hơn tơ nhện. Đào Nhi chỉ lấy một sợi trong mười sợi đó, những sợi còn lại bỏ đi, lại rút trong túi đeo lủng lẳng trước ngực một cây kim nhỏ như lông bò, chẳng nhìn thấy lỗ kim đâu. Đào Nhi cong mấy ngón tay như búp lan cầm chặt cây kim, cổ tay hơi xoay một chút, sợi tơ đã xâu vào lỗ kim, đưa cho Mĩ Tử bảo:
- Cầm chắc lấy nhé!
Mĩ Tử cảm thấy hai bàn tay mình vừa to vừa thó, vữa cứng lại vừa ngượng nghịu, kêu lên:
- Chả thấy kim, chỉ đâu cả!
Mĩ Tử cầm nhưng cầm không trúng, kim rơi xuống đất. Đào Nhi nhặt lên đưa lần nữa nhưng Mĩ Tử vẫn chưa cầm chắc, kim lại rơi xuống. Lần này chẳng những Mĩ Tử mà ai cũng chẳng nhìn thấy kim đâu. Đào Nhi giơ hai ngón tay nhón một cái trên váy của Mĩ Tử. Lần này chẳng thấy chỉ đâu, lại thấy cây kim mảnh như sợi lông bò lấp lánh dưới đất, cách ngón tay Đào Nhi chừng nửa thước.
- Hôm nay mới biết chi Đào tài tình đến bậc này! Em cả đời chưa chắc đã học được - Mĩ Tử nói. Cô vừa phục vừa khen, vừa thẹn lại vừa nản, cứ mím môi, lắc đầu khiến ai nấy cười ầm cả lên.
Lúc này Hương Liên đã đính xong đôi chim sẻ lên mũi giầy của mình. Mũi giầy vừa nhúc nhích, đầu chim đã vươn lên, mầu sắc lóng lánh lấp loáng. Bạch Kim Bảo đang buồn vì mất con cũng phả nói:
- Lần này chắc chắn bọn chúng phải nhìn lác cả mắt!
Đổng Thu Dung nói:.
- Có điều cửa giầy tròn này... trông kì kì thế nào ấy! - Vừa nói đến đây Thu Dung vội nín bặt; sợ Hương Liên không bằng lòng, lại giả vờ cười ngó Hương Liên.
Đào Nhi bảo:
- Mợ Tư nói sai rồi! Bây giờ nếu dùng kiểu cũ ắt chẳng xong, đổi kiểu mới cũng chưa chắc đã ăn ai. Vả chăng, dù đổi kiểu, vẫn cứ là chân nhỏ chứ đã phải là chân to đâu!
Đào Nhi tuy là người hầu nhưng địa vị hiện nay không kém cạnh gì Đổng Thu Dung. Ai cũng biết năm Hương Liên thi chân đoạt giải nhất, Đào Nhi có công lớn lắm. Mấy bộ quần áo thêu Hương Liên mặc hôm ấy đểu do Đào Nhi tỉ mỉ thêu cho cả, bây giờ lại là người tâm phúc của Hương Liên, Bạch Kim Bảo cũng còn phải sợ cô ta. Khẩu khí của cô ta vừa rồi thẳng quá nhưng cô ta có lí, mọi người đều thấy đúng, Hương Liên cũng gật đầu tỏ ý câu ấy hợp với ý mình.
Sáng hôm sau, bên ngoài đang huyên náo, người nhà họ Đồng liền diện kiểu giầy mới, chuẩn bị ra cổng thị uy. Đổng Thu Dung nói:
- Tim tôi đập dữ quá đi mất!
Nói rồi cầm tay Mĩ Tử đặt lên ngực. Tay bên kia Mĩ Tử cầm lấy tay Hạnh Nhi, cũng đặt lên ngực mình. Hạnh Nhi le lưỡi nói:
- Sắp sửa nhẩy bật ra rồi này?
Mĩ Tử chợt kêu:
- Ô! Tim mẹ sao không đập thế này?
Tiếng kêu làm Đổng Thu Dung nhợt nhạt cả mặt mày, tưởng mình sắp chết.
Hương Liên nghiêm mặt nói:
- Ngày xưa mười hai người gái góa còn dám chinh Tây. Nay chúng ta tuy chỉ có ba người nhưng ngoài cửa đâu có phải rợ Hồ mười vạn? Tiểu ô, mở cổng ra!
Nói cứ y như sắp sửa liều mạng đến nơi! Mọi người được câu đó thúc đẩy hăng lên thật. Mấy ngày vừa qua, ai nấy như gà sợ chồn cáo phải nhốt trong lồng, lặng tiếng im hơi chẳng dám động cựa, bí bách quá lắm. Liều mạng, ừ thì liều mạng! Nghĩ đến đây, thế là chẳng ai sợ nữa.
Bên ngoài, một đám người đang ném bùn đất lên cánh cổng, đất bám từng cục. Chẳng ai tin người nhà họ Đồng dám ra ngoài. Nhưng cánh cổng chợt cọt kẹt rồi mở toang ra, người bên ngoài hết hồn lùi cả lại, kẻ non gan đã toan bỏ chạy. Chỉ thấy Hương Liên dẫn đầu một đoàn phụ nữ ăn mặc chải chuốt, khí thế đàng hoàng bước ra. Việc này thật bất ngờ, chẳng ai dám làm ồn, trái lại có người kêu lên:
- Nhìn chân bó, mau nhìn chân bó kìa! Đẹp quá! Đẹp thật đấy!
Tất cả mọi người không dừng được, đều dán mắt vào chân đoàn phụ nữ ấy. Hương Liên đã căn dặn từ trước, hôm nay ra đường ra phố, hai chân không được giấu mãi trong ống quần, thỉnh thoảng phải phô ra một cái. Mỗi khi phô chân ra phải để lộ đến cổ giầy để người ta nhìn thấy hết sự tân kì. Còn khi bước phải vận sức vào cổ chân, ngoắt bên này ngoắt bên kia, để chùm tua rua đính trên má giầy vung vẩy. Đàn bà con gái nhà họ Đồng giở hết kĩ năng, bản lĩnh và công phu tu dưỡng bấy lâu nay, một bước ngoắt ba lần, ngoắt vai, ngoái lưng, ngoắt mông, sau đó ngoắt cổ chân, chùm tua rua ngũ sắc trên má giầy loạt xoạt tung lên chẳng khác nào những con cá vàng đủ mầu bơi lội dưới gấu váy. Mỗi khi họ phô chân, một loạt tiếng xuýt xoa ngạc nhiên lại rộ lên. Chẳng ai còn dám la ó hoặc nghĩ đến la ó nữa. Đám con gái còn đi theo ngay bên cạnh để vừa đi vừa ngắm nhìn vì lúc nhìn rõ lúc nhìn chưa rõ. Lúc ấy các cô chỉ muốn bốc con ngươi bỏ xuống dưới gấu mấy cái váy kia để nhìn cho gần.
Hương Liên thấy đã đủ làm mọi người thòm thèm liền quay đầu trở về nhà, bước khỏi bậc cổng bèn đóng sầm ngay cổng lại, tiếng đóng cổng rất to như dập một gậy vào đầu những người đứng ngoài. Điều bất ngờ ấy khiến ai nấy ngớ ra, có người ngây tán tàn, mắt không chớp, mũi không thở, sống mà như chết rồi.
Chiêu này khiến người họ Đồng vùng được lên, làm cho người trong toàn thành lại mến mộ chân bó như xưa. Đám đàn bà con gái sáng ý khéo tay theo mẫu nhìn thấy hôm ấy mà khâu giầy, xỏ vào khoe với hàng phố. Rồi có người bắt chước tiếp, lập tức kiểu giầy ấy thành ra mốt. Người cẩn thận thì đến nhà họ Đồng gọi cổng hỏi thăm kiểu giầy. Hương Liên đã tính đến nước cờ này, bảo mọi người trong nhà vẽ rất nhiều kiểu giầy để sẵn, ai hỏi đến thì cho. Có người hỏi:
- Kiểu giầy này tên là gì?
Giầy vốn không có tên. Đào Nhi nhìn thấy cổ giầy tròn tròn, thuận miệng đáp:
- Kiểu này gọi là kiểu cửa trăng!
- Thế còn tua rua trên má giầy?
- Gọi là tua trăng?
Chỉ một loáng, kiểu cửa trăng và tua trăng đã lan khắp thành. Theo lời đám đàn bà đến xin kiểu giầy, vợ trùm côn đồ Tiểu Tôn Vương Ngũ cũng bó chân, mấy hôm trước bị người của Sở nghiên cứu phong tục ngăn lại ở ngoài cửa đông nhục mạ một trận, khiến Vương Ngũ tức giận bốc cả Sở nghiên cứu đi. Không biết việc đó đúng hay sai, có điều Giám đốc họ Lục không thấy đến ngoài cổng diễn thuyết nữa, cũng không có ai đến kiếm chuyện, gây rối nữa. Hương Liên giành được lợi thế nhưng không hề lơi tay. Trong việc phối mầu, dùng nguyên liệu, ra kiểu, lắp má giầy, dán đế, đính giây, lắp mũi giầy, từ trong đến ngoài, từ mũi đến gót, khoét miệng giầy, dựng vách giầy, không chỗ nào bà không dốc hết tâm can, tốn bao tâm huyết. Đủ kiểu giầy, kiểu này thay thế kiểu khác, đè bẹp kiểu khác, nào giầy có đế, giầy lưới, giầy mỏ quạ, giầy mỏ phượng, nào giầy cánh cổng, giầy trăng non..., sau đó lại chế ra một kiểu giầy tân kì hơn nữa làm chấn động cả thành. Kiểu giấy này đổi miệng tròn trở lại miệng nhọn, nhưng bỏ miếng vải che mu bàn chân đi, toàn bộ mu giầy dùng chỉ trắng đan thành lưới, đan xen các kiểu hoa, thật là tốn bao tâm sức. Kết hoa có kiểu mắt voi, kiểu đan ngang, rồi chữ vạn, đuôi phượng, quả trám, tiền cổ, kiểu tết liên hoàn, kiểu mây lành vô biên v.v.. thật là đẹp. Khéo hơn nữa là đế giấy không dùng gỗ mà dùng vải cát bá, ghép hơn chục lượt vải thành một miếng làm để, rồi dùng nhĩ trà bôi phía trong, lấy miếng sắt hơ nóng ủi qua thành màu nâu, tựa như đế da nhưng nhẹ, mỏng, mềm, dễ chịu hơn nhiều, khiến cho các cô gái lớn, nàng dâu nhỏ thích đến mê muội, thích như điên. Hương Liên bảo người trong nhà làm gấp, hàng ngày đặt ngay tại cổng cho mọi người xem, học theo mà làm, còn tên thì vì kết hoa kiểu mắt voi nên đặt là "giầy vạn tượng canh tân". Do hợp với trào lưu một thời nên danh tiếng lan tràn khắp vệ Thiên Tân. Kể cả người mốt nhất, văn minh nhất cũng muốn nhắc đến tên "vạn tượng canh tân". Yêu giầy tất yêu chân, giọng điệu phản đối chân bó vô hình trung dịu đi, rồi lặng hẳn.
Hôm ấy Kiều Lục Kiểu cũng đến thăm nhà họ Đồng. Mười năm trôi qua, lão già đi nhiều, răng hàm trên hàm dưới đều rụng, mở miệng ra là thấy cái hốc miệng đen ngòm. Da mặt khô đến nỗi cứng đơ, mặt không có sắc, cái bím tóc bé tí tẹo như cái đuôi lợn bột. Sau khi Đống Nhẫn An chết, lão ta ít khi đến. Kì vừa qua nhộn nhạo, càng không thấy lão đâu. Hôm nay lão ngồi xuống nói luôn:
- Thì ra mợ vẫn chưa biết à? Cái ông giám đốc Sở nghiên cứu họ Lục ấy chính là ông Tư Lục, Lục Đạt Phu ấy mà!
Hương Liên "a" lên một tiếng, kinh ngạc đến nỗi mãi mới thốt nên lời:
- Tôi không sao nhận ra được. Hồi ông cụ tôi còn sống, ông ta có theo các ông đến đây mấy lần. Nhưng nay đã cắt bím tóc, để râu, đeo kính, càng khó nhận ra. Được ông bảo cho biết, thấy giống thật, tiếng nói cũng giống... Có điều tôi không oán không thù gì với ông ấy, sao ông ấy lại nhằm vào tôi?
- Cây to đón gió mà lị! Vệ Thiên Tân này ai chẳng biết tiếng chân nhỏ nhà họ Đồng, ai chẳng biết tiếng chân nhỏ của mợ Cả nhà họ Đồng? Nhưng người ta thuộc phái văn minh, chống chân bó không chống mợ thì chống ai? Sức mấy chống cái mụ chẳng có tên tuổi gì? - Kiều Lục Kiều nhệch miệng ra cười, khi cười vẫn cái vẻ khinh cuồng như trước.
- Thế thì lạ đấy! ông ta chẳng từng mê chân bó đó sao? Sao bây giờ lại chống? Người ta không biết cái bản mặt của ông ta chăng? Lần sau tôi mà gặp ấy à, tôi vạch trần bộ mặt lão cho người ta biết! - Hương Liên tức giận nói.
- Chẳng cần phải thế, lão đã bị người trong Sở nghiên cứu phong tục đuổi ra rồi!
- Vì sao? Ông đừng để cho tôi phải đoán mò mãi, có được không?
- Mợ nghe đây! Hôm nay tôi đã nói ắt là nói hết với mợ. Đồn rằng ông Tư Lục mỗi tối đến Sở soạn bài diễn thuyết, người của Sở thấy ông ta lần nào cũng xách theo cái va li da nhỏ. Trước khi soạn bài, ông ta đóng chặt cửa lại, mở va li ra, mũi như mũi chó ngửi khắp một lượt. Người ta nhòm qua khe cửa thấy thế. Một hôm thừa lúc ông ta ra ngoài, họ nậy cửa vào mở va li, tưởng có thuốc lá ngửi, son phấn, nước hoa thượng hạng hay của lạ nước ngoài gì đó, chợt nhìn thì... Mợ thử đoán là gì nào?
- Là cái gì?
Kiều Lục Kiều cười ha hả khiến khuôn mặt càng nhiều nếp nhăn:
- Là một va li giầy thêu nhỏ xíu! Thì ra trước khi đặt bút, ông ta phải ngửi hương gót sen. Có lên giây cót tinh thần thì tử văn mới đến. Mợ bảo ông Tư Lục có kì không? Ngửi gót sen để chống gót sen, cũng là một việc kì lạ trong thiên hạ. Người của Sở tức quá, lại vừa đúng lúc cái kiểu giầy cửa trăng của mợ gây náo động, Sở nghiên cứu không chống đỡ nổi, nội bộ tranh cãi, thế là tống cổ cả ông ta với cái va li đầy giầy nhỏ của ông ta.
Hương Liên nghe xong, vẻ kinh ngạc lộ trên nét mặt trước đây không còn nữa:
- Việc này thì tôi tin đấy!
- Tại sao mợ tin được?
- Nếu ông là tôi, ông cũng tin như tôi.
Kiều Lục Kiều nghe Hương Liên nói tựa như hiểu mà lại như chưa hiểu, hay mới hiểu được một nửa. Lão vốn là người hiếu sự. Đã là người hiếu sự thường hay hiếu kì. Nhưng bây giờ tuổi tác lão đã khác trước, bụng tuy muốn biết mà miệng lại ngại hỏi. Hương Liên bảo lão:
- Ông thường hay đi đây đi đó, tôi xin gửi gắm ông việc này. Ông dò hỏi dùm xem Nguyệt Quế có tin tức gì không?
Bốn ngày sau Kiều Lục Kiều đến báo: .
- Không cần đi tìm nửa!
- Chết rồi à? - Hương Liền giật nảy mình.
- Chết là thế nào, sống sờ sờ ấy chứ! Có điều mợ nhất định không còn nhận ra cô cháu gái này nữa đâu.
- Lấy vụng người nước ngoài rồi à?
- Không, không, chỉ tham gia hội Thiên Túc thôi
- Sao? Hội Thiên Túc? Ở đâu nảy nòi ra cái hội này?
Tim bà thắt lại, sợ từ nay về sau không còn có ngày được yên tĩnh nữa.
|
|
|
| |