Mọi người rầm rập chạy lên boong. Tôi vội chui ra khỏi thùng lê, lẩn sau cột buồm rồi đi vòng lại.
Một dải sương mù đã lên cao. Vừa lúc ấy vầng trăng cũng nhô lên. Xa xa về phía tây nam, hai cái gò thấp cách nhau chừng hai dặm; đằng sau một cái nữa cao hơn, đỉnh gò còn khuất trong sương mù. Cả ba đều nhọn như hình chóp nón.
Tôi nhìn cảnh ấy như trong một giấc chiêm bao. Tiếng ông thuyền trưởng hỏi :
- Có anh nào biết đảo này không?
Gã Silver lên tiếng ngay :
- Có, tôi đã đến đó khi tôi còn làm bếp cho một chiếc tàu buôn.
- Chỗ bỏ neo ở phía nam, sau cái đảo con phải không?
- Thưa ông phải. Người ta vẫn gọi đảo ấy là đảo Hình Người. Cái gò phía bắc gọi là gò Cột Cái. Còn cái gò lớn có mây phủ kia là gò Vọng Viễn. Người ta gọi thế, vì ở trên ấy có thể trông xa trong khi thả neo để rửa tàu.
- Có bản đồ đây, anh xem thử có đúng không?
Khi cầm bản đồ, mắt Silver long lanh, nhưng kịp trông màu giấy còn mới, gã phải thất vọng vì đó chỉ là bản sao lại. Tuy thất vọng, nhưng gã tinh khôn, không để lộ ra mặt. Gã bảo :
- Thưa ông! Chính phải! Vẽ khéo lắm!
Tôi rất lấy làm lạ về cử chỉ bình tĩnh của gã khi gã nhận có biết khu đảo. Thú thật lúc thấy gã lại gần tôi, tôi hơi rợn.
Dĩ nhiên là gã không biết tôi ngồi nấp trong thùng lê, nhưng tôi ghê sợ cái tính ác độc và cái sức mạnh đen tối của gã. Vì thế khi gã chạm đến tay tôi, tôi rùng mình như chạm phải miệng rắn độc. Gã nói với tôi :
- Chà! Cái đảo này tuyệt đẹp! Trẻ tuổi như cậu mà lên chơi đó thì thật sướng. Tha hồ mà trèo nhảy, thung thăng như con thỏ rừng. Tôi được đến những chỗ này cũng thấy mình như trẻ ra. Khi nào có lên chơi thì bảo tôi, tôi có ít đồ ăn lót dạ cho cậu dùng.
Nói xong, hắn vỗ vai tôi rồi chống nạng đi xuống. Tôi thấy ông thuyền trưởng đứng nói chuyện với bác sĩ và ông Trelawney ở đằng lái. Tôi không dám cắt đứt câu chuyện của ba ông. May sao bác sĩ vừa thấy tôi đã vẫy lại, bảo tôi đi lấy cái tẩu thuốc. Đến gần, tôi nói ngay :
- Tôi có nhiều chuyện cấp bách muốn báo với ba ông.
Nét mặt bác sĩ hơi khác, sau trở lại như thường. Ông nói to lên một cách tự nhiên :
- Cám ơn cậu Jim! Chỉ có thế!
Xong ông quay lại, chuyện trò với hai ông kia. Một chốc sau thuyền trưởng cho thổi còi tập hợp. Ông nói :
- Hỡi các bạn, chúng ta đã tới đích. Tất cả anh em đều làm tròn việc. Ông Trelawney có lòng tốt đem rượu cho anh em uống để mừng. Chúng tôi cũng sắp xuống phòng dưới uống với nhau vài cốc. Nếu các anh đồng ý, chúng ta nên hoan hô cảm ơn ông Trelawney.
Mọi người đều hò reo vui vẻ. Ba ông xuống phòng.
Lúc tôi bước vào thì ba người đương ngồi quanh bàn, trên có chai rượu và vài chùm nho. Trông thấy tôi, ông Trelawney bảo ngay :
- Cậu Jim muốn nói gì, nói đi!
Tôi vội vàng thụât lại những lời của Silver. Trong khi tôi nói, mọi người ngồi im phăng phắc, mắt dán vào tôi. Tôi nói xong, bác sĩ rót cho tôi một cốc rượu và giúi vào tay tôi rất nhiều nho. Cả ba cùng nâng cốc uống mừng về sự quả cảm và nhanh trí của tôi.
Uống xong, ông Trelawney nói trước :
- Ông thuyền trưởng, trước nay tôi đối với ông rất không phải. Bây giờ tôi mới biết tôi lầm. Tôi quả là đồ ngốc.
- Tôi đây mới ngốc chứ! Cả một vụ âm mưu cướp tàu ở ngay dưới mắt tôi mà tôi không hề biết! Bây giờ thì tôi có mấy ý kiến xin phép tỏ bày...
- Vâng, ông cứ nói.
- Điều thứ nhất là chúng ta phải tiếp tục đi, vì nếu quay về là lập tức chúng sẽ khởi loạn! Điều thứ hai là từ nay cho đến khi tìm thấy của, ta còn có thời giờ chuẩn bị. Điều thứ ba là ta còn có những người trung thành. Bây giờ ta sẽ đợi cơ hội bất ngờ là hành động. Nếu ông thuận, tôi cứ việc cho tàu chạy nhưng sẽ bố trí đề phòng!
Bác sĩ Livesey nói :
- Cậu Jim có thể giúp ta được nhiều việc. Chúng không nghi cậu mà cậu lại có óc nhận xét. Từ nay trở đi cậu nhớ luôn luôn theo sát lão Silver.
Ông Trelawney nói thêm :
- Cậu Jim, cậu là một cậu bé rất gan dạ, chúng tôi hy vọng ở cậu nhiều.
Tôi nghe nói thế cũng thấy tự hào. Tôi mong có cơ hội là cố gắng làm theo lời dặn của bác sĩ Livesey. Nhưng tự xét tôi cũng chẳng tài cán gì, mà hiện nay, trong số bảy người của chúng tôi thì tôi lại là một đứa trẻ! Như thế là chỉ có sáu người mà phải chống chọi với mười chín tên lực lưỡng trong bọn chúng.
Sáng hôm sau, đứng trên boong nhìn ra, tôi thấy cảnh tượng khu đảo khác hẳn. Những dãy núi phơn phớt màu xám chiếm gần hết khu đảo. Lác đác có những dải cát vàng và những khóm thông cao. Tất cả một màu ảm đạm. Núi gò nhô hẳn lên phơi những tảng đá trơ trụi. Cái nào cũng hình thù cổ quái. Gò Vọng Viễn là gò cao nhất trong đảo. Hình dáng nó cũng kỳ khôi, bốn bề dốc ngược, trên đỉnh như bị tiện ngang, trông giống cái đế một pho tượng.
Tàu phải đi ngoắt ngoéo men theo đảo để đến cái lạch sau đảo Hình Người. Neo vừa bỏ, một đàn chim đã bay vù lên, rồi cảnh vật trở lại yên tĩnh. Chung quanh, rừng cây mọc um tùm. Bờ biển thấp, những gò cao đằng xa trông từng bậc như bậc thang. Hai con sông vẩn bùn chảy vào vũng ấy.
Không một rẻo gió. Ngoài tiếng sóng vỗ bờ cách xa nửa dặm, chẳng nghe tiếng gì khác nữa. Mùi thân cây ruỗng thối và lá cây mục xông lên nồng nặc. Tôi thấy bác sĩ Livesey cứ khìn khịt mũi như người ngửi phải trứng thối...
Lúc ấy mặt trời nóng bức. Không khí trên tàu cũng bừng bừng. Trong đám thủy thủ đã có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại. Họ túm tụm với nhau từng đám, thầm thì to nhỏ. Mắt họ gườm gườm, mặt họ đầy sát khí. Việc nổi loạn đã rõ rệt. Nó bao phủ chúng tôi như cơn dông sắp đến.
Tên Silver có lẽ cũng nhận thấy thế nên hắn chạy lăng xăng cố lấy lời phải chăng khuyên nhủ mọi người. Lệnh vừa truyền, hắn đã xung phong làm trước. Có lúc hắn cố hát to và bông đùa để làm khuây lãng nỗi uất ức của đồng bọn. Ông thuyền trưởng gặp riêng chúng tôi và bảo :
- Chúng ta bây giờ như ở vào cái thế của người cưỡi hổ. Nếu tôi bắt họ tuân lệnh thì họ nổi xung ngay. Nếu im lặng, thì Silver tất sinh nghi. Bây giờ tôi định cho họ lên bờ nghỉ. Nếu họ đi, ta giữ lấy tàu. Nhược bằng không đi, ta giữ lấy mấy gian phòng mà chống cự. Nhưng muốn cho công việc được ổn thỏa, ta có thể trông cậy vào một người.
Ông Trelawney hỏi ngay :
- Ai?
Thuyền trưởng đáp :
- Thưa ông, Silver! Chính hắn cũng muốn êm chuyện. Như lời cậu Jim, hắn muốn đợi khi ta tìm xong của mới ra tay, nên hắn có thể dàn xếp yên được.
Thế là kế hoạch bắt đầu được thực hiện. Những súng lục nạp đạn đều phân phối trong bọn chúng tôi. Những người thân tín như Hunter, Joyce, lão Redruth đều được biết chuyện. Họ chẳng hề ngạc nhiên hay sợ sệt. Trái lại, họ tỏ ra rất bình tĩnh và gan dạ. Thật là một sự khích lệ.
Ông thuyền trưởng lên boong tuyên bố cho phép thủy thủ lên bộ chơi. Trước khi mặt trời lặn sẽ bắn đại bác báo hiệu về. Nói xong, ông bỏ đi xuống để cho Silver tự nhiên trở thành người đứng ra chỉ huy công việc. Kết quả là có người ở lại và mười sáu người xuống thuyền đi chơi, trong đó có Silver.
Nhớ lời bác sĩ Livesey căn dặn là luôn luôn phải theo sát Silver, tôi bỗng nảy ra ý định xuống thuyền đi theo dõi Silver. Tôi nghĩ rằng Silver chỉ để lại sáu người thì không thể chiếm tàu mà đi được. Tôi ở lại tàu cũng bằng thừa. Cứ đi theo chúng xem sao. Thế là trong nháy mắt tôi lần xuống thuyền, ngồi thụp xuống. Kịp khi Silver biết thì thuyền tôi đi trước đã cập bờ. Tôi nhảy tót lên lẩn vào bụi rậm, còn nghe tiếng Silver gọi với đằng sau: “Jim, Jim!”
Lánh được Silver, tôi khoan khoái lạ lùng. Cảnh lạ làm tôi vui mắt. Rừng ở đây liễu mọc chen chúc, lau sậy um tùm. Có những cây sên lùn tịt thấp lè tè như bụi rậm, cành xoắn lại, lá rậm sin sít như mạ xanh. Rắn bò lúc nhúc. Lần đầu trong đời, tôi được nếm cái thú vị của người thám hiểm khi đặt bước lên miếng đất hoang vu chưa có dấu chân người. Thốt nhiên, có tiếng động trong khóm lau. Một con le, rồi cả đàn le bỗng bay vù lên, tiếng kêu inh ỏi. Tiếp đó, tôi nghe rõ tiếng người. Tiếng ấy làm tôi hoảng sợ vì tôi biết ngay là tiếng nói của gã Silver. Tôi đã định bỏ chạy, nhưng sau tôi nghĩ lại. Mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Đã có gan đi theo chúng, sao lại không có gan lại gần chúng để xem chúng làm gì? Thế là tôi bò lại chỗ có tiếng người, bò thật cẩn thận. Tôi thấy rõ Silver và một người nữa trong bọn đang ngồi đối diện trên bãi cỏ xanh. Ánh nắng chiếu thẳng vào mặt hai người. Tiếng Silver đương nói :
- Có tin cậy anh lắm thì tôi mới cất công đến đây bảo với anh. Giá phải người khác... anh thử nghĩ đối với họ tôi sẽ xử trí như thế nào?
Người kia đáp lại, mặt đỏ gay, giọng khàn khàn, run run :
- Anh Silver! Tôi không ngờ anh lại đi theo bọn khốn nạn kia! Chẳng thà tôi chịu chặt tay còn hơn phải làm chuyện ấy.
Silver bỗng chống nạng vụt đứng lên, đôi mắt ti hí sáng chói như mắt rắn độc rình mồi, hỏi gặng :
- Thế là anh nhất quyết không nhập bọn với tôi phải không?
Người kia bỗng tức giận quát to :
- Silver! Khi xưa anh là bạn của tôi. Từ nay tôi xin từ mặt anh ra. Nếu có giỏi, anh cứ giết tôi. Tôi thách anh đấy!
Nói xong, người kia bỏ đi. Silver hét to một tiếng, nhấc cái nạng ở nách, nhặt một cành cây lao theo. Đầu cành cây trúng ngay giữa lưng người kia. Ông ta giơ hai tay lên, lảo đảo rồi ngã gục. Người đó chưa kịp nhỏm lên thì Silver đã chạy lại, cưỡi lên, rút dao hạ thủ. Xong, con quỷ dữ ấy lại bình tĩnh đội mũ lên, chống nạng đi lững thững. Cảnh tượng xung quanh vẫn không thay đổi. Mặt trời vẫn thản nhiên chiếu xuống mặt hồ đương bốc hơi. Nhìn phong cảnh ấy, khó lòng mà tin rằng có một việc giết người rất tàn ác vừa xảy ra. Tôi đưa tay xoa mắt, bàng hoàng cả người. Tôi bỗng muốn rời ngay, rời tức khắc cái nơi giết người gớm ghiếc này. Tôi bò nhanh ra rừng rồi cắm đầu cắm cổ chạy.
Đến gần một cái đầm, tôi đứng dừng lại. Tôi bỗng thoáng thấy sau một gốc thông, có một vật gì nhảy nhanh lạ thường. Tôi chỉ biết hình thù nó đen và lông lá. Sợ quá, tôi quay gót lui về phía tàu đỗ. Thoáng cái, cái bóng lúc nãy lại hiện ra, nó đi một vòng dài rồi đến chặn ngang trước mặt tôi. Con quái vật ấy nhảy từ gốc cây nọ qua gốc kia như một con nai. Hắn chạy hai chân như người. Mà quả là người thật. Tôi chợt nhớ có lần tôi đã nghe nói đến giống người ăn thịt người. Tôi định kêu cứu. Nhưng đã là người, thì chắc cũng không đến nỗi như tên Silver gớm ghiếc kia. Nghĩ thế tôi trở lại bình tĩnh. Vụt nhớ đến khẩu súng lục trong mình, tôi đâm vững dạ. Tôi quay về hắn, mạnh bạo tiến lại. Hắn cũng nhô ra, bước lại phía tôi. Nhưng hắn hơi ngần ngại, lùi lại một lúc mới tiến lên. Rồi hắn bỗng quỳ xuống, giơ hai tay ra như van xin, làm tôi vừa lạ lùng vừa bối rối. Tôi hỏi :
- Anh là ai?
- Tôi là Ben Gunn. Tôi là kẻ khốn nạn đã ba năm nay chưa được gặp một người.
Tiếng hắn rè đặc như tiếng khóa gỉ. Mặt hắn trông cũng dễ coi. Da hắn phơi nắng nên chỗ nào cũng cháy sém. Đôi mắt xanh trên khuôn mặt đen mò. Hắn ăn mặc rách rưới lổ đổ như tổ ong. Hắn đính vào người đủ các thứ mảnh buồm cũ, vải sơn, khuy đồng, dây rợ. Hắn đeo quanh mình một chiếc thắt lưng bằng da đã cũ. Xem ra, trong bộ quần áo của hắn, thứ này còn lành lặn hơn cả.
Tôi hỏi hắn :
- Anh ở đây đã ba năm rồi ư? Anh bị đắm tàu giạt vào đây phỏng?
- Không! Tôi bị đày. Người ta đày đọa tôi ở đây, tôi phải săn dê, tìm quả, mò ốc hến để ăn. Này ông bạn ơi! Ông có miếng phó-mát nào đấy không? Chắc không rồi! Lâu nay tôi chỉ mơ tưởng được ăn miếng phó-mát. À quên! Tên anh là gì nhỉ?
- Jim!
- Jim, Jim! - Hắn nhắc lại, ra vẻ bằng lòng lắm - Anh Jim ạ! Nói ra thật xấu hổ. Anh trông tôi thế này, tất không đoán được tôi còn có mẹ già. Mẹ tôi là người ngoan đạo. Mà trước kia tôi cũng là đứa trẻ rất ngoan đạo. Tôi đọc kinh làu làu. Vậy mà bây giờ ra thế này. Thôi! Chính Chúa Trời đã phạt tôi ở đây. Ở trên hoang đảo này, tôi có thì giờ nghĩ kỹ rồi. Tôi sẽ tu tỉnh làm ăn...
Bỗng mặt hắn sa sầm, rồi hắn chỉ vào tôi và hỏi :
- Anh phải nói thật cho tôi biết, anh có phải là người của Flint không?
Tôi bỗng nảy ra một ý hay. Tôi chắc hắn có thể là một tay cộng tác tốt với chúng tôi. Tôi đáp :
- Tôi nói thật cho anh rõ: Flint chết rồi. Hiện chỉ còn mấy tên thủ hạ khốn nạn của lão ấy trên tàu chúng tôi thôi.
Hắn ấp úng hỏi :
- Thế có đứa nào cụt chân không?
Tôi bảo :
- Silver phải không?
Hắn nói như đuối hơi :
- Nếu Silver sai anh lại đây thì tôi nguy mất. Tôi thuật lại tất cả chuyện của chúng tôi cho hắn nghe. Mặt hắn tươi dần, rồi sau cùng hắn niềm nở vỗ vào vai tôi :
- Các anh đừng sợ. Xin các anh cứ tin cậy ở Ben này. Ben này có thể giúp các anh gỡ chỗ bí. Nhưng không biết cái ông quý tộc nhà anh có rộng lượng với kẻ này không?
Tôi bảo ông Trelawney là người rất hào hiệp và tôi cam đoan đảm bảo cho hắn.
Hắn lại hỏi một cách láu lỉnh :
- Thế còn chuyến về?
Tôi đáp :
- Anh nên nhớ ông ta là người lớn. Vả lại nếu trừ xong bọn kia, chúng tôi cũng phải cần đến anh để cho tàu vào bến.
- À ra thế!
Nói xong, hắn có vẻ yên tâm hơn trước. Câu chuyện giữa Ben và tôi dần dà làm tôi vỡ lẽ vì sao Ben lại sống ngoài đảo hoang vu này. Chuyện đó như sau: Xưa kia Ben làm việc dưới tàu của lão Flint. Một hôm Flint cho tàu chạy đến đảo này. Khi cập bến, lão bắt sáu tên thủ hạ đi chôn kho vàng của lão. Khi chôn xong lão sợ bị tiết lộ, bèn giết hết sáu tên thủ hạ đó. Lúc đó Ben ở dưới tàu với Pew và Silver. Pew lúc đó làm phó thuyền và Silver làm đội trưởng. Ba năm sau, nhớ đến kho vàng, Ben cùng một số thủ hạ thuê tàu vượt đến đảo này. Họ mưu cùng nhau tìm kho vàng của lão Flint để về làm giàu, nhưng tìm không ra. Bọn thủ hạ tức giận bỏ Ben lại đảo với một khẩu súng tay và một cái thuổng.
Ben nói :
- Anh cứ nói với nhà quý tộc rằng ba năm tôi ở đảo... cũng làm... ra trò đấy.
Nói đến đây, hắn béo tôi một cái ra ý thân mật. Tôi sốt ruột bảo :
- Bây giờ làm thế nào anh giúp tôi xuống được tàu đây!
Hắn nói :
- Kể cũng khó! à, tôi có một chiếc xuồng do tay tôi đóng lấy. Tôi giấu nó dưới hốc đá trắng đầu kia... Kìa! Cái gì thế?
Thốt nhiên hắn kêu to lên, vì lúc ấy mặt trời còn cao mà tiếng đại bác dưới tàu đã nổ vang làm rung động cả khu đảo.
- Đánh nhau rồi!
Tôi cũng kêu to lên, rồi hấp tấp chạy về phía tàu đỗ. Bên cạnh tôi, Ben Gunn khoác áo da dê bước nhanh thoăn thoắt.
Một tiếng đại bác nữa. Một lúc lâu, có tiếng súng tay nổ liên hồi. Trước mặt tôi, lá quốc kỳ phất phới trên một khu rừng.
Ben Gunn bỗng ngồi thụp xuống :
- Kìa! Bọn anh đã thắng rồi. Họ đã lên bờ chiếm cái khu đồn cũ của lão Flint kìa!
Tôi bảo :
- Thế thì phải đến ngay đấy mới được!
Hắn nói :
- Không! Anh Jim ạ, anh tốt bụng nhưng anh còn ít tuổi. Trước khi chưa gặp nhà quý tộc, tôi chưa đi với anh đến đó đâu. Anh về nhớ nói cho người đến, mà phải mang theo cái gì làm tin.
Tôi hỏi :
- Nhưng gặp anh ở chỗ nào và vào lúc nào mới được chứ?
Hắn đáp :
- Cứ đến chỗ cũ anh vừa gặp tôi, từ lúc mặt trời đứng bóng cho đến khi lặn, mà nhớ phải có cái gì làm tin đấy.
Hắn lại tiếp :
- Nếu bọn chúng mà lên đóng trên đảo thì thế nào tôi cũng tìm cách giết một vài tên để giúp bọn các anh và để các anh biết lòng dạ ngay thật của tôi.
Hắn vừa nói đến đấy thì có một tiếng nổ dữ dội, rồi một viên đạn đại bác nổ oàng gần chỗ chúng tôi đứng. Hai chúng tôi mỗi người chạy một ngả.
Kể từ lúc tôi đặt chân lên đảo, ở dưới tàu đã xảy ra nhiều chuyện. Sau đây là lời bác sĩ Livesey thuật lại cho tôi nghe...
Được tin tôi đi lên đảo, bác sĩ Livesey và đồng đội rất lo ngại cho số phận của tôi. Bác sĩ liền rủ Hunter xuống một chiếc xuồng rồi vào bờ để dò la tình hình bọn cướp. Trong bờ có một dãy thuyền đỗ; có hai đứa ngồi trên hai chiếc thuyền hình như để canh giữ. Khi vào bờ, bác sĩ chạy rón rén lại gần chỗ chúng buộc thuyền. Vừa đi chưa được trăm mét đã gặp ngay chiếc lô cốt sừng sững trên một đỉnh gò. Một dòng suối trong xanh chảy từ trên đỉnh xuống. Chiếc lô cốt này làm bằng gỗ rất kiên cố, có thể chứa được bốn mươi người. Bốn mặt đều có nhiều lỗ châu mai. Chung quanh lô cốt đã phát quang một khu rộng. Ngoài ra lại có một hàng rào cao ngót hai mét. Nếu đóng cố thủ trong lô cốt thì rất yên trí: có thể bắn tỉa vào kẻ địch đến vây hãm như bắn gà rừng. Bác sĩ rất chú ý đến con suối, vì ở trên tàu nước ngọt cũng đang thiếu. Thế là chỉ cần có đủ lương thực, khí giới là có thể cố thủ ở đây lâu được. Nghĩ thế, bác sĩ lập tức trở về tàu.
Ông Trelawney đương ngồi ủ rũ trong phòng, tự trách vì sự sơ suất của bản thân mà để cả bọn phải gặp bước nguy nan. Nhưng sau khi nghe bác sĩ trình bày kế hoạch, ông phấn chấn hẳn lên. Theo nhận định của bác sĩ thì cần lên lô-cốt để cố thủ vì ở dưới tàu cũng đã hết nước uống. Nếu ở dưới tàu mà ta ra mặt chống lại thì thật không lợi vì bọn chúng có đặt hai tên canh giữ trên bờ. Chúng có thể ra hiệu tập hợp nhanh chóng để bắn xuống tàu. Hơn nữa nếu chiếc tàu này bị bọn giặc chiếm thì trong một thời gian nữa sẽ có một chiếc tàu khác đến đón về theo như kế hoạch đã dự định. Kế hoạch này bác sĩ đã giao cho một người thân tín ở nhà. Trước khi ra đi, bác sĩ bảo lão Redruth nấp trong đường hầm đằng mũi, cấp cho lão ba bốn khẩu súng để đứng trấn thủ. Hunter thì kéo chiếc xuồng con đến dưới cửa sổ tàu. Còn Joyce và bác sĩ thì khuân đạn, súng, mấy túi bánh quy, dăm thùng thịt lợn ướp, một thùng rượu và hòm thuốc quý của bác sĩ xuống thuyền. Thuyền trưởng và ông Trelawney trấn trên boong tàu.
Thuyền trưởng gọi lão Hands, tên cầm đầu sáu đứa còn lại, bảo :
- Này anh Hands! Hai chúng tôi đây đều có súng nạp sẵn đạn. Nếu trong bọn anh, người nào xông lại đây, lập tức tôi bắn vỡ óc.
Cả bọn có vẻ hoang mang, một đứa trong bọn có vẻ ủ dột hẳn. Cuối cùng bọn chúng bàn bạc rồi nhảy lên sàn tàu, định bọc lối sau đánh úp lại. Nhưng khi thấy lão Redruth đứng trấn ở đường hầm, chúng vội vã rút lui. Trong lúc ấy, khuân xong mọi vật xuống thuyền, bác sĩ cùng Joyce chui qua cửa sổ trèo xuống.
Lần đi này làm cho hai tên giặc canh trên bờ chú ý. Một đứa nhảy lên và biến mất.
Tải xong các thứ vào lô-cốt, bác sĩ để Joyce ở lại canh giữ. Trước khi đi về tải chuyến cuối cùng, bác sĩ để thêm Hunter ở lại giữ lô-cốt.
Bác sĩ vẫn đi bừa vì nghĩ rằng bọn chúng tuy đông nhưng ở trên tàu không một đứa nào có súng trường cả. Trước khi chúng tiến đến gần để dùng súng lục, thì người của ông có thể đã bắn chết hàng tá.
Trước khi xuống thuyền để đi chuyến cuối cùng, mỗi người chỉ giữ một khẩu súng trường và một con dao. Còn lại khí giới và thuốc súng đều ném cả xuống biển.
Trong lúc ở trên tàu, ông thuyền trưởng đã thấy rõ một đứa trong bọn hình như còn bỡ ngỡ và miễn cưỡng đi theo chúng. Khi sắp xuống thuyền, thuyền trưởng gọi to :
- Anh Gray, tôi bỏ tàu đây, tôi ra lệnh cho anh phải theo tôi ngay. Tôi biết anh vốn là người lương thiện. Đừng để lỡ cơ hội, tôi hạn cho anh trong nửa phút nữa.
Bên kia vẫn im lặng. Nhưng lời kêu gọi cuối cùng ấy đã có kết quả. Vì bên kia bỗng có tiếng đấm đá, rồi Gray chạy ra, về với bọn ông Livesey.
Nhưng chuyến đi cuối cùng này thật gian truân. Đồ nhiều, người đông mà xuồng thì nhỏ. Về phía lái, mép thuyền đã mấp mé mặt nước. Nước thủy triều lại đang dâng lên. Dòng nước chảy rất mạnh cứ kéo phăng con thuyền ra khỏi con đường đã định và trôi về phía dãy thuyền đỗ trên bờ của bọn giặc. Thuyền trưởng bảo cứ cho xuôi theo dòng rồi đi ngược lại. Thốt nhiên thuyền trưởng kêu lên :
- Khẩu đại bác!
Lúc này mấy ông mới chợt nhớ đã quên khuấy khẩu đại bác đặt bên hông chiếc tàu. Khi nhìn lại sau thì thấy năm thằng giặc kia đang xúm xít quanh khẩu súng lớn. Chúng đã cởi áo súng ra. Gray bảo, giọng lo ngại :
- Thằng Hands trước kia là tay bắn đại bác cho Flint.
Lúc này thuyền đã đi ngược men bờ nên quay mình về phía sau và trở thành một tấm bia rất tốt cho bọn chúng. Thằng Hands đứng lắp đạn.
Thuyền trưởng hỏi :
- Đây ai bắn giỏi?
Bác sĩ đáp :
- Ông Trelawney đây chứ còn ai.
Thuyền trưởng bảo :
- Ông Trelawney! ông hạ cho một đứa. Nếu hạ được thằng Hands thì tốt nhất. Nhưng bắn cho khéo, kẻo thuyền tròng trành, đắm bây giờ. Ai nấy ngồi cho cân đi.
Ông Trelawney lạnh lùng nhìn cái bùi nhùi rồi giương súng bắn. Nhưng thật không may. Khi ông Trelawney bắn thằng Hands vừa cúi xuống. Viên đạn bay qua đầu hắn, trúng vào một đứa đứng sau.
Một tiếng kêu rống lên rồi tiếp theo trên bờ cũng có nhiều tiếng kêu khác. Nhìn về phía bờ, bác sĩ thấy bọn giặc đã nhảy cả từ trong bụi ra.
Trong khi ấy thuyền đã gần đến doi cát dài trên bờ. Nhưng đại bác của chúng lại sắp bắn. Thuyền trưởng chỉ kịp ra lệnh: “Ngồi cho vững!” là tiếng súng nổ. Đó là tiếng đại bác tôi nghe nổ lần đầu khi tôi ở trên đảo.
Quả đại bác không trúng thuyền, nhưng hơi gió tạt đã làm thuyền chìm xuống. Thuyền đắm đằng lái nhưng may chỗ này ở gần bờ nên nước đã cạn. Mọi người không ai can gì. Chỉ tai hại là lương thực chìm cả với ba khẩu súng bị ướt. Chỉ còn hai khẩu súng của bác sĩ và của thuyền trưởng là còn dùng được.
Cả bọn lóp ngóp lội vào bờ, bỏ lại chiếc thuyền cùng với một nửa số lương thực và thuốc súng.
Đi được một lúc, đã nghe rõ tiếng nói của bọn giặc và tiếng chân chúng giẫm gãy cành khô khi chúng lách qua bụi rậm. Bác sĩ liền nghĩ đến chuyện sắp phải đánh nhau nên vội bảo ông thuyền trưởng :
- Trong bọn ta, ông Trelawney bắn cừ nhất. Ông đưa súng của ông cho ông ấy. Súng ông ấy không dùng được nữa rồi.
Hai người trao súng cho nhau.
Từ lúc bắt đầu giao chiến, ông Trelawney vẫn lạnh lùng như băng. Thấy Gray tay không, bác sĩ liền rút dao đưa cho hắn. Hắn nhổ nước bọt vào tay, cau mày, múa con dao vù vù làm mọi người thêm yên bụng. Đi thêm vài chục bước, đã thấy khu vực lô-cốt ở ngay trước mặt. Tốp của bác sĩ vừa đến hàng rào thì đã thấy bảy tên giặc, đi đầu là Anderson, hò reo ầm ầm, kéo lại. Không ai bảo ai, súng ở ngoài và súng ở trong lô-cốt cùng một lúc nổ vào bọn giặc. Tuy bốn phát súng bắn rời rạc nhưng cũng có một phát trúng, làm một tên giặc ngã quay lơ. Số còn lại quay đầu chạy lẩn vào bụi. Cả tốp đi vòng hàng rào, đến xem tên giặc bị ngã. Hắn đã chết thẳng cẳng, viên đạn trúng ngay vào tim.
Đương vui mừng thắng lợi, thì bỗng nghe tiếng đạn súng lục nổ trong lùm cây. Viên đạn bay vèo qua tai bác sĩ rồi thấy lão Redruth lảo đảo ngã xoài trên đất. Ông Trelawney và bác sĩ nhanh nhẹn bắn trả ngay nhưng bọn chúng đã chạy mất. Bác sĩ đi lại nhìn vết thương thì biết ngay là khó lòng cứu chữa. Khi khiêng được lão Redruth vào lô-cốt thì lão đã tắt thở. Từ lúc xảy ra chuyện biến trên tàu cho đến khi chết, lão vẫn tỏ ra điềm tĩnh, gan lì. Lão đã đứng trấn ở đường hầm trên tàu, hăng hái và dũng cảm như một người lính cảm tử. Lão đã lặng lẽ tuân lệnh một cách trung thành, không do dự. Trong bọn, lão là người lớn tuổi nhất và cũng lại là người hy sinh trước nhất.
Ông Trelawney quỳ ôm xác lão, khóc nức nở như một đứa trẻ. Trong khi ấy, ông thuyền trưởng người cứ dày cộm lên, đương lôi trong ngực và túi ra những đồ vật lủng củng: một lá quốc kỳ, một quyển kinh thánh, một cuộn thừng, một cái bút lông, một lọ mực, một quyển sổ và mấy gói thuốc lá.
Ông đã tìm thấy ở quanh lô-cốt một cây thông dài bị trốc gốc. Ông cùng Hunter dựng gốc thông trụi ấy lên ở góc lô-cốt để làm thang. Ông trèo lên cắm cao lá cờ tổ quốc trên nóc lô-cốt.
Hình như làm xong việc ấy, ông thấy trong người thoải mái và yên tâm hơn; ông bước vào nhà, bình tĩnh soát lại lương thực. Ông bảo :
- Đây là mối lo nhất của chúng ta. Chúng ta mất mọi thứ trong chuyến sau, thật đáng tiếc! Khí giới, vật dụng thì đủ. Nhưng lương thực thì ít ỏi quá!
Giữa lúc ấy, một viên đạn đại bác bay vù qua nóc lô-cốt rồi nổ ở trong rừng. Phát sau, chúng chỉnh lại trúng vào khu vực lô-cốt, làm cát bụi bay mù, nhưng không thiệt hại gì cả. Ông Trelawney nói :
- Ông thuyền trưởng! Dưới tàu, chúng không thể thấy nóc lô-cốt này. Có lẽ chỉ vì lá cờ đấy! Vậy ta nên hạ lá cờ đi thì hơn.
Ông thuyền trưởng kêu to :
- Hạ lá cờ đi à? Không! Thưa ông, không thể được!
Ông thuyền trưởng nói xong, mọi người xem ra đều đồng ý. Vì lá cờ ấy không chỉ tiêu biểu cho chính nghĩa mà còn tỏ rõ cho bọn cướp biết thái độ cương quyết của những người cố thủ trong lô-cốt là xem thường những phát đại bác của chúng...
Cả buổi chiều, chúng cứ bắn đì đụp vào khu vực lô-cốt nhưng không đâu vào đâu cả.
Thuyền trưởng bảo Gray và Hunter đi lấy lương thực ở trên chiếc thuyền chìm, vì lúc bấy giờ nước triều đã xuống từ lâu. Nhưng vô ích. Bọn giặc liều lĩnh đã xuống lấy trước. Tên Silver đương đứng sau chỉ bảo, mỗi đứa có một súng trường. Chắc hẳn bọn chúng đã cất giấu đâu từ trước.
Ông thuyền trưởng thì đương ngồi ghi vào một quyển sổ. Bác sĩ Livesey nhìn vào, thấy ở trang đầu mấy dòng chữ sau đây :
“Tôi, thuyền trưởng; Livesey, thầy thuốc trên tàu; Gray, lính thủy đóng đồ mộc trên tàu, Trelawney, chủ tàu; Hunter và Joyce, thủ hạ thân tín của chủ tàu... Những người này đều đã tận tâm giữ tàu; lương thực chỉ còn dè xẻn được mười ngày; đã cắm quốc kỳ trên nóc lô-cốt; Redruth, người ở của ông chủ tàu, không phải thủy thủ, đã bị giặc giết; Jim, cậu bé thủy thủ tập sự...”
Đọc đến đây, bác sĩ sực nhớ đến tôi, và nỗi lo âu lại kéo đến.
Thốt nhiên có tiếng người gọi trong rừng. Hunter đang đứng cạnh nói :
- Có người gọi kìa!
Cả bọn ùa ra, nhìn thấy tôi đang leo qua rào. Mọi người đều đứng im cảm động không nói nên lời.
Không nói thì chắc các bạn cũng biết nỗi vui sướng của tôi khi gặp lại bác sĩ Livesey và đồng đội. Tôi thuật lại những việc đã xảy ra cho tôi rồi nhìn quanh nhà.
Chiếc lô-cốt này làm toàn bằng thân cây thông ngòng ngoèo; cả mái nhà và tường vách đều bằng thân cây cả. Lối đi vào có một cái cổng; dưới cổng, một dòng suối con chảy vào một cái bể, trông cũng hơi lạ mắt. Ngoài cái sườn nhà ra chẳng còn một thứ gì khác. Ở một góc nhà còn một tảng đá dùng làm bếp và một cái rổ sắt đã han gỉ để đựng than hồng.
Hai bên sườn đồi và phía trong đồn, người ta đã phát quang các cây cối để lấy gỗ làm nhà. Cứ nhìn những gốc cây bị chặt còn lại cũng đủ biết những thân cây ấy to lớn dường nào. Mưa gió đã cạo sạch lớp đất trên. Chỉ chỗ dòng suối là còn thấy rêu và những bụi cây cằn cỗi mọc.
Gió đêm thổi qua các khe vách và phả bụi cát rắc đầy cả sàn nhà. Cát bay vào mắt mũi, mồm miệng và thức ăn. Một cái lỗ vuông khoét trên mái nhà là cái ống thông khói duy nhất của chúng tôi. Chỉ có một ít khói thoát ra lối ấy. Còn phần lớn khói bay cuộn trong nhà làm người nào cũng ho sù sụ và mắt mũi cay sè.
Đã thế lại thêm anh chàng Gray mặt mũi quấn băng vì bị thương trong lúc giao chiến; lại xác lão Redruth vẫn chưa chôn còn nằm bên góc tường.
Nếu cứ ngồi khoanh tay thì có lẽ chúng tôi sinh quẩn mất. Nhưng ông thuyền trưởng là người giàu kinh nghiệm. Ông gọi mọi người đến trước mặt, rồi ông phân đôi ra để canh gác. Bác sĩ, Gray và tôi vào một tốp; ông Trelawney, Hunter và Joyce vào một tốp khác. Tuy mọi người mệt lử nhưng chúng tôi phải chia nhau kẻ đi kiếm củi, người đi đào hố chôn lão Redruth.
Bác sĩ được phân công nấu bếp. Còn tôi thì đứng canh ở cửa. Riêng ông thuyền trưởng là đi xem xét đó đây, động viên tinh thần mọi người. Thỉnh thoảng ông làm giúp cho chúng tôi nữa.
Tôi thấy bác sĩ chốc chốc lại chạy ra ngoài cửa hít ít khí trời và cho mắt mũi đỡ khói hun. Mỗi bận ra đứng nghỉ, ông lại chuyện trò với tôi dăm ba câu. Ông nói :
- Thuyền trưởng quả là một tay có tài. Khi tôi nói như thế không phải chỉ là một câu khen suông đâu, cậu Jim ạ!
Một lần khác, ông ra đứng tựa cửa, không nói gì, như mải suy nghĩ. Một chốc ông nghiêng đầu nhìn tôi như đắn đo rồi hỏi :
- Cậu Jim, thằng Ben Gunn ấy là người thế nào?
- Thưa ông, tôi không rõ, nhưng trông nó cũng không được bình thường lắm.
Bác sĩ đáp :
- Điều ấy thì chẳng cần phải nói. Cậu tính ba năm ở trên đảo này, tất không loạn óc cũng đâm ra ngớ ngẩn. Cậu bảo nó thèm ăn phó-mát phải không?
- Vâng. Nó bảo nó chỉ thèm có phó-mát.
Bác sĩ lại nói :
- Chắc cậu đã trông thấy cái túi đựng thuốc lá của tôi. Lâu nay tôi không ăn thuốc chỉ vì trong túi, tôi có để một miếng phó-mát làm tại Ý, ăn rất bổ. Tôi để dành cho Ben Gunn đấy!
Trước lúc ăn cơm tối, chúng tôi đi chôn cất lão Redruth. Khi hạ huyệt, chúng tôi đứng đầu trần trước gió, quanh thi hài của lão để vĩnh biệt.
Chúng tôi đem được nhiều củi về nhưng ông thuyền trưởng lắc đầu, vẫn chưa cho là đủ. Ông bảo ngày mai phải làm một chuyến cật lực hơn nữa. Khi chúng tôi ăn xong và mỗi người đã uống một cốc lớn rượu mạnh pha loãng, ba vị chỉ huy ngồi vào một góc, thảo luận kế hoạch sắp đến.
Cuộc thảo luận hình như đi đến chỗ bế tắc. Lương thực ít ỏi quá, nếu cầm cự lâu thì có lẽ phải đầu hàng. Nhưng chúng tôi quyết tâm tiêu diệt cho kỳ hết bọn chúng, làm cho chúng phải hạ gối quy hàng, hoặc chúng phải rút chạy xuống dưới tàu. Trước kia tất cả chúng nó là mười chín tên, nhưng bây giờ chúng chỉ còn mười lăm thôi. Hai đứa bị thương. Thằng đứng gần khẩu đại bác đã bị ông Trelawney bắn, nếu nó không chết tất bị thương nặng... Bây giờ chỉ cần lợi dụng mọi cơ hội thuận tiện để tiêu hao dần chúng và bảo vệ mình. Chúng tôi lại được hai bạn đồng minh quý viện trợ. Một là rượu “rum”, hai là khí hậu.
Về rượu “rum” thì tuy chúng tôi ở xa chỗ giặc đóng non nửa dặm, ban đêm chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng chúng say lè nhè, gào thét hát hỏng đến khuya. Còn về khí hậu thì bác sĩ Livesey cam đoan rằng ở vào chỗ bùn lầy ấy, thiếu thuốc men, chỉ trong vòng một tuần là phần nửa bọn chúng sẽ ốm bẹp.
Tôi bị mệt lả nhưng vơ vẩn mãi vẫn chưa ngủ được. Đến lúc ngủ thì ngủ say như chết.
Sáng ra khi nghe thấy tiếng nhộn nhịp ồn ào, tôi mới bừng tỉnh dậy. Lúc ấy mọi người đều đã ăn sáng cả rồi và đã vác được đến nửa đống củi. Tôi nghe có tiếng người nói to :
- Kìa, lá cờ trắng!
Rồi tiếp theo là những tiếng ngạc nhiên :
- Lạ kìa! Chính Silver đích thân đến!
Nghe câu này, tôi nhảy choàng xuống đất, giụi mắt và chạy lại dòm vào lỗ châu mai.