Giận Hoài Vương, Hạng Vũ tự lập
Nuôi chí lớn Bái Công giữ mình
Phạm Tăng thấy Hạng Vũ mỗi ngày mỗi nóng tính, đem lời bàn :
- Trước kia Lưu Bang vào Hàm Dương không lấy của dân một mảy, đem lời hiểu dụ, bỏ hết các hình luật nghiêm nhặt, khiến dân một lòng cảm mến. Nay Minh công nóng tính, xem thường sinh mệnh của dân, tôi e lại sa vào vết xe của nhà Tần thuở nọ.
Hạng Vũ nói :
- Ta đem quân đánh Tần, Tử Anh là vua Tần sao lại chẳng giết ? Còn như dân Hàm Dương phản nghịch, tỏ ý oán hận ta , nếu không giết ngày sau di lụy.
Phạm Tăng nói :
- Ông Lỗ Công ngày xưa giết một cung nữ vô tội mà mắc chín năm đại loạn. Vua Cảnh Công giận giết một cung phi mà địa chấn ba dặm. Ấy vậy, sự hàm oan của con người có ảnh hưởng đến vũ trụ chẳng nhỏ. Nay mây sầu phủ đầy trời, khí oan kín đất, chính là vì Minh công đã giết oan Tử Anh đó. Nếu giờ lại giết nhân dân nữa e tổn thương hòa khí, xin Minh công xét lại.
Trong lúc Phạm Tăng đang tìm lời khuyên Hạng Vũ thì dân chúng Hàm Dương vì uất ức, mỗi lúc một xôn xao tiếng nguyền rủa, tiếng than oán không dứt.
Hạng Vũ không thể nén giận được, truyền Anh Bố đem quân vào thành bắt tôn tộc nhà Tần giết hơn 800 người, và họ hàng quần thần giết hơn 4.600 người.
Thành Hàm Dương trong phút chốc máu loang ngập đất, thây chất thành gò, đường sá vắng tanh, cửa nhà bỏ trống, thật là một thảm họa đau thương !
Hạng Vũ chưa nguôi giận, còn muốn giết một số nhân dân ngoại thành nữa. Phạm Tăng rơi lệ, can :
- Ðời vua Thang trời làm đại hạn, vua Thang đem thân mình chiu khổ cực cầu đạo ở Tam Lâm, lại kiểm điểm hành động để tự trách mình. Lòng thành thấu đến trời, mỗi được mưa nhuần gió thuận. Ấy, vua Thang biết bỏ mình cứu dân như thế nên sự nghiệp vững bền. Nay dân Tần trải bao nhiêu cay đắng, nhưng mong Minh công đến giải phóng đem lại an vui, thế mà Minh công lại giết hại, thì có ai phục ?
Hạng Vũ thấy Phạm Tăng hết sức khổ gián lòng cũng nguôi ngoại, truyền thôi chém giết.
Ðoạn kéo quân đến Tần cung, thấy cung điện nguy nga , lâu đài tráng lệ, bất giác thở dài than :
- Nhà Tần phú quí đến thế này, mà không giữ được đáng tiếc !
Phạm Tăng nhân lời nói ấy tỏ ra vẻ chau buồn nói :
- Ấy bởi nhà Tần vô đạo, chém giết lương dân, không nghe lời khổ gián nên mới mất cơ nghiệp.
Hạng Vũ nín lặng không nói gì cả. Tối hôm ấy, sai người cầm đèn đến mời Phạm Tăng vào tư dinh bàn việc.
Phạm Tăng đến Hạng Vũ nói :
- Nay ta đã vào Hàm Dương lấy được ngọc tỷ , giết được Từ Anh trừ được nhà Tần thế là mọi việc đã xong,
bây giờ cần có một minh quân đứng ra trị dân, nếu để nước không vua lâu ngày bất tiện. Ta muốn lên ngôi vua
đất Quan Trung này, tiên sinh nghĩ có nên chăng ?
Phạm Tăng nói :
- Chư hầu sở dĩ theo Minh công là họ cũng muốn được phong quan, thưởng tước, để vui cảnh giàu sang. Minh công nghĩ như vậy rất hợp lòng người. Nhưng trước hết phải bẩm lệnh Hoài Vương , xin một chiếu thư rồi sẽ tức vị , như thế thiên hạ mới phục.
Hạng Vũ y lời sai Hạng Bá vào Bành Thành thỉnh mệnh Hoài Vương.
Hạng Bá vào yết kiến, Hoài Vương phán :
- Ta đã có lời ước rồi, cần gì phải thỉnh mệnh .
Hạng Bá tâu :
- Tuy Bái Công vào được Hàm Dương trước, song Bái Công sức yếu thế cô, còn Lỗ Công uy quyền rất trọng, xin bệ hạ cứ cho Lỗ Công làm vua thì đất Quan Trung mới trấn an được
Hoài Vương nói .
- Không được ! Nhân vô tín bất lập. Một lời nói của kẻ tầm thường mà còn phải tôn trọng thay huống hồ một ông vua. Ta không thể thất tín với thiên hạ . Nhà ngươi về nói với Lỗ Công phải theo lời ước cũ.
Hạng Bá trở về nói với Lỗ Công :
- Hoài Vương bắt phải theo lời ước , nhất định không hạ chiếu . Tôi cầu khẩn hai ba lần vẫn không được .
Hạng Vũ nổi giận nói :
- Hoài vương do ta lập nên , nghiêẽm nhiên được ngôi thiên tử. Ðã không xét công trạng ta, cố chấp như vậy thật là kẻ bất nghĩa. Công bình định thiên hạ do tay ta , cần gì phải cầu khẩn với ai .
Liền chọn ngày tự lập làm vua.
Phạm Tăng nói :
- Việc tức vị phải hợp với cổ kim, không phải việc dễ. Trương Lương là người học rộng, am hiểu lễ nghi có thể biết được, xin Minh công cho đòi Trương Lương đến, nếu hắn nói đúng theo lẽ phải tức là hắn trung thành , bằng sai tức là giả dối, gạt Minh công mang tiếng với thiên hạ đó . Minh công nên giết đi để trừ hậu hoạn.
Hạng Vũ toan sai người sang đòi Trương Lương thì vừa lúc Trương Lương ở Bái Thượng về, xin vào yết kiến.
Hạng Vũ nói :
- Nay ta muốn làm vua Quan Trung nhưng chẳng biết lập tôn hiệu thế nào cho phải . Nhà ngươi là người học rộng, dòng họ làm tướng năm đời nước Hàn , vậy ngươi thử nói ta nghe.
Trương Lương nghĩ thầm :
- Ðây là mưu Phạm Tăng định gieo vạ cho ta. Nếu ta nói thẳng tất Lỗ Công ghét, chi bằng đưa những tôn hiệu của các đời Vua trước, để Lỗ Công muốn chọn thế nào tùy ý .
Nghĩ rồi ôn tồn đáp :
- Tôn hiệu rất nhiều, tôi xin kễ qua để Minh công chọn. Xưa, sau đời Tam Hoàng thì có Ngũ Ðế , đó là Thiếu Hiệu, Xuyên Húc, Ðế Cốc, Ðế Nghiêu, Ðế Thuẫn.
Thiếu Hiệu tên là Chiết tự là Thanh Dương đóng đô ở Khúc Phụ, làm vua được 100 năm . Xuyên Húc, cháu vua
Hoàng Ðế, họ Cơ giúp vua Thiếu Hiệu trị thiên hạ, hai mươi tuổi mới lên ngôi, làm vua được 78 năm. Ðế Cốc, cũng họ Cơ, lên ngôi ở đất Bạc, làm vua 70 năm - Ðế Nghiêu họ Y Kỳ, mẹ là Khánh Ðô, hoài thai 14 tháng, sinh ra ông Nghiêu ở đất Ðan Lăng, hiệu là Phong Huân, 14 tuổi giúp vua Ðế Chi, phong làm vua ở đất Ðường, 20 tuổi mới lên ngôi hoàng đế làm vua được 50 năm - Ðế Thuẫn, dòng dõi vua Xuyên Húc, bà mẹ cảm cái hình cầu vồng mà sinh ra nơi đất Diêu, nên lấy họ Diêu, tự là Ðô Quân giúp vua Nghiêu trị thiên hạ. Sau nối ngôi xưng Ðế vị, thọ 100 tuổi. Ðó là tôn hiệu của 5 đời đế, gọi là Ngũ Ðế . Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng ?
Hạng Vũ tự nghĩ :
- Ngũ đế là bậc nhân đức, dùng tình thương trang trải giữa hoàn vũ, ta khó sánh kịp. Vả lại, ta vừa giết Tử Anh, dùng bạo lực trấn áp nhân dân, đế hiệu e không hợp .
Liền hỏi lại Trương Lương :
- Còn tôn hiệu nào khác chăng ?
Trương Lương đáp :
- Sau năm đời đế thì có tam vương, tức là : nhà Hạ, nhà Thương , nhà Châu - vua Hạ Vũ họ Tự tên Cao Mật sinh trưởng ở Tây Thương, vua Nghiêu dùng làm Tư Không, nối cha là ông Cổn, giữ việc trị thủy. Ðóng đô ở An ấp, thọ 100 tuổi truyền được 19 đời, cộng 432 năm.
Nhà Ân là dòng dõi vua Ðế Cốc, họ Cơ tên Lý, tức là vua Thành Thang, đuổi vua Kiệt ra Nam Sào lên ngôi thiên tử, thọ 100 tuổi , truyền 31 đời cộng 629 năm - vua Văn Vương (nhà Châu) nhân vua Trụ (nhà Thương) vô đạo sửa chính đức, thu nhân tâm, sau vua Vũ nối nghiệp, bốn năm chinh phạt, giết vua Trụ , làm thiên tử, thọ 93 tuổi, cộng 867 năm. Ðó là đời tam vương, tu nhân tích đức Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng ?
Hạng Vũ nói :
- Hiệu vương thì ta có thể xưng được. Song dưới hiệu vương còn có tôn hiệu nào khác chăng ?
Trương Lương nói :
- Dưới tam vương thì có ngũ Bá, tức là : Tề Hoàn công , Tống Trương Công, Tần Mục Công, Tấn Văn Công,
Sở Trang Vương. Năm đời Bá đều vì thiên hạ trừ tàn bạo, gây một uy lực to lớn , bá tánh đều tùng phục. Minh công
dụng tôn hiệu ấy được chăng ?
Hạng Vũ suy nghĩ một lúc rồi nói :
- Vương hiệu tuy hợp với cổ mà không hợp với kim, Bá hiệu thì hợp với kim lại không hợp với cổ. Muốn cho cổ kim hợp nhất ta lấy cả hai tôn hiệu, xưng là "Bá Vương".
Ta vốn sinh ở đất Sở, từ sông Hoài sang phía Bắc, là địa phận Tây Sở, vậy từ nay ta xưng là Tây Sở Bá Vương.
Phạm Tăng vội can :
- Mình công nên xưng Vương hiệu và bỏ Bá hiệu đi. Bá hiệu các đời vua không đời nào được vững bền . Ðại Bá chỉ được năm đời, còn Tiểu Bá chỉ được ba đời. Xin chớ nghe lời Trương Vương sàm tấu.
Hạng Vũ nói :
- Năm đời Bá làm vua như thế kể cũng lâu dài. Công việc làm của ta chẳng những hợp với Tam Vương, mà còn đúng ý với Ngũ Bá nữa Thế thì xưng Bá Vương là phải . Tôn hiệu ấy do ta lựa chọn, Trương Lương chỉ là kẻ trình bày cho ta biết đó thôi .
Nói xong, trọng thưởng Trương Lương, Chọn ngày lành tháng tốt lên ngôi, xưng hiệu Tây Sở Bá Vương cai trị 9 quận nước Sở, đóng đô ở Bành Thành, tôn Hoài Vương lên làm Nghĩa Ðế, thiên sang Giang Nam.
Công việc xong, Bá Vương muốn xuất kho nhà Tần để ban thưởng quân sĩ , nhưng khi quân Bái Công vào Hàm Dương đã chuyển đi hết sạch, nay kho tàng đều trống rỗng, liền hỏi Phạm Tăng :
- Tướng sĩ theo ta đã lâu nay muốn thù lao lấy đâu làm việc ấy ?
Phạm Tăng nói :
- Việc ấy không khó , Bái Công vào Hàm Dương trước của cải ở đâu tất biết . Xin hỏi Bái Công thì rõ.
Bá Vương theo lời, sai người đi vời Bái Công.
Trương Lương hay tin , cấp tốc biên thư mật gởi cho Bái Công nói :
- Minh công nên vào yết kiến Bá Vương, hễ Bá Vương có hỏi đến lương tiên, xin cứ chỉ cho Lương này .
Bái Công vào yết kiến, Bá Vương hỏi :
- Nhà Tần giàu có bội phần, tướng công vào Hàm Dương trước có biết của cải để đâu chăng ?
Bái Công nói :
- Tôi mới đến, công việc bộn bề ,chưa hề xét đến kho tàng xin đại vương hỏi Trương Lương mới biết được.
Bá Vương tức giận cho đòi Trương Lương đến trách :
- Nhà ngươi biết kho tàng nhà Tần, cớ sao không nói cho ta biết ?
Trương Lương nói :
- Tâu đại vương, đại vương chưa hỏi đến, tôi đâu dám thưa. Cứ như nhà Tần , của cải tích trữ từ đời Hiếu vương đến nay kễ trong thiên hạ không đâu bằng. Tuy nhiên, đến đời Tần Thủy Hoàng, lấy ngân quỹ ra sửa sang cung điện ở Ly Sơn, của cải ấy hao quá nửa. Sau đó, lại để vào trong mộ Tần Thủy hoàng rất nhiều, vì vậy mà hiện nay kho tàng trống rỗng.
Bá Vương ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi Phạm Tăng :
- Của cải để trong mộ Tần Thủy Hoàng thì ta cứ đào lên lấy, để ban thưởng quân sĩ.
Phạm Tăng nói :
- Mộ Tần Thủy Hoàng chẳng qua bài trí những đồ chơi thường nhật, làm gì có của cải.
Trương Lương mỉm cười nói :
- Quân sư lầm rồi ! Mộ Tần Thủy Hoàng chu vi chín dậm , cao đến năm mươi thước, lấy châu ngọc kế làm ngôi sao , lấy thủy ngân giả làm sông nước, lấy vàng bạc xây thành quách, lấy bách bảo làm đồ ngự thiện, bắt hơn vài trăm cung nữ chôn sống theo. Bao nhiêu của báu trong nước như san hô mã não phỉ thúy, lưu ly đều chất thành núi giả , ban đêm bảo khí trong mộ bốc lên như ánh trăng .
Bá vương truyền quân sĩ đến quật mộ Thủy Hoàng ngay , Phạm Tăng can :
- Thủy Hoàng tuy vô đạo , nhưng đó cũng là ngôi mộ của một vị đế vương , nay vô cớ quật lên , khác chi là lối cưóp mả , chớ nên làm thế .
Bá vương nói :
- Thủy Hoàng tàn bạo , gồm thâu sáu nước , vơ vét của thiên hạ đến tận xương tủy , ác hơn Kiệt , Trụ , đốt sách vỡ , chôn học trò , tội chất đầy trời . Ta đào mả Thủy Hoàng cốt vì dân trả oán , cần gì phải có của cải .
Ngày hôm sau, Bá Vương dẫn quân lên núi Ly Sơn . Cảnh vật trang nghiêm, muôn màu rực rỡ. Rừng tùng bách trải màu xanh mơn mởn , cung điện nguy nga lỏng bóng đài gương. Thềm lan quì ngựa đá, đường ngự uốn cầu vòng, thật là một cảnh bồng lai trong cõi thế .
Bá Vương tấm tắc khen thầm :
- Công trình kiến trúc tinh vi, bàn tay nhân tạo đúc nên cảnh vật . Thế này thì hết cả kho tàng, kiệt sức nhân dân là phải lắm.
Một lời ban lệnh , ngàn nhát búa vang động, cát bụi bay mịt mù , chim chóc giật mình tua tủa lượn vòng trong không gian như luyến tiếc nơi tổ ấm . Quân sĩ đào đến ba ngày mà chưa thấy chính huyệt.
Bá Vương treo bảng truyền lệnh ai biết được chính huyệt sẽ được ban thưởng.
Bỗng có một người đến tâu :
- Chính huyệt của Thủy Hoàng chỉ riêng hạ thần dược biết mà thôi.
Bá Vương quay lại, thấy người ấy là Anh Bố, mừng rỡ hỏi :
- Sao nhà ngươi lại biết được ?
Anh Bố tâu :
- Khi trước tôi đem phu đi làm đốc công, coi ngôi mộ này , sau đó các dân phu đều bị Thủy Hoàng bắt giết hết , tôi may trốn thoát mới biết được .
Bá Vương truyền Anh Bố đem quân đi đào .
Ðào từ đường chính Bắc cho đến đường chính Nam dài hơn một trượng mới thấy một tiền phòng chu vi rộng tám thước. Trong tiền phòng lót bằng đá hoa, trần kết gấm, chính giữa một con đường chạy thẳng vào một khung cửa bằng
cẩm thạch, hai bên đứng la liệt các lão thần, chạm bằng mã não, mặc triêu phục, cầm hốt , mang hia đứng chầu .
Anh Bố dàn quân tiến đến phá tấm cửa đá. Tiếng dội thấu đến hai dặm .
Cảnh cửa đá tung ra để lo một căn phòng rộng, chính giữa một tấm bia rất lớn chạm chín con rồng, đang giương nanh múa vuốt . Sau tấm bia là một cái lầu, cũng xây bằng đá , bốn phía vách tường kín mít tuyệt nhiên không có cửa vào.
Quân sĩ ngơ ngác, không biết đi vào đâu nữa nữa .
Bố nói :
- Các người hãy quật cái bia ấy xuống tất nhiên sẽ có đường đi .
Thật vậy qua một lúc hì hục, quân sĩ đập vỡ bia đá , tức thì tám cánh cửa của thạch lâu mở ra, để lộ bên trong thành quách ngổn ngang , cung vàng điện ngọc, chẳng khác nào một đền vua trên mặt đất.
Cứ theo con đường nơi chánh điện đi thẳng vào, thì hai bên là tam cung lục viện, chính giữa là nhà để linh cữu, đâu đâu cũng chạm trổ toàn là trân châu, ngọc bích, sáng rực như ban ngày. Tuy ở dưới đường hầm nhưng ánh sáng không thiếu.
Anh Bố truyền đập các bờ thành lấy vàng bạc rồi khuân những bảo vật lên.
Bá Vương muốn đập linh cửu của Thủy Hoàng ra, Anh Bố nói :
- Thủy Hoàng bình sanh làm điều ác, sợ sau này có người quật mồ, phá xác nên đề phòng rất kỹ. Linh cữu làm bằng đá, trong có chứa rất nhiều tên sắt, thuốc nổ, nếu đập vỡ , cả đám quân sĩ vào đây đều phải chết hết. Chi bằng cứ để yên như thế lấp lại là hơn.
Bá Vương y lời, truyền khuân hết kim ngân châu báu lên mặt đất , đoạn sai đốt cung A Phòng. Lửa cháy ba tháng chưa tắt , bao nhiêu cung đài mỹ lê nguy nga thảy đều ra tro hết .
Ôi ! Công trình dân chúng bao nhiêu năm trời xương máu , dưới tay bạo chúa , chỉ trong phút chốc tan tành .
Người sau có thơ rằng :
Chén ngọc vỡ tan xem tợ tuyết !
Quân Hàn nghìn vạn đều lưu huyết
Hàm Dương lửa cháy mấy tuần trăng
Bá nghiệp đang theo lan khói biếc
Cung điện nhà Tần ra tro, lòng dân Tần cũng lạnh lẻo, họ chán ngán hành động hung tàn của Hạng Vũ.
Các chư hầu đóng quân nơi Hàm Dương lâu ngày, muốn rút về, rủ nhau đến nói với Phạm Tăng :
- Chúng tôi đến đây đã lâu, chưa được phong thưởng tước lộc sợ rằng trong nước có biếng nên muốn xin lui về .
Phạm Tăng nói :
- Xin các ngài chờ đợi ít hôm, tôi sẽ bảo tấu với đại vương .
Nói xong vào yết kiến Bá Vương nói :
- Các vua chư hầu theo đại vương đánh Tần đều có công lao mà chưa được phong thưởng. Xin đại vương luận công hành thưởng rồi cho đâu về đấy để họ được an tâm.
Bá Vương nói :
- Ý ta muốn phong tước cho họ đã lâu song có một điều khó khăn nên còn do dự.
Phạm Tăng hỏi :
- Tâu Ðại vương, có thể cho tôi biết điều khó khăn chăng ?
Bá Vương nói :
- Vua Hoài Vương có ước : Ai vào Quan Trung thì làm vua . Lấy lẽ công bình thì Bái Công được làm . Nay ta tiếm vị còn biết phong Bái Công làm sao !
Phạm Tăng nói :
- Nếu muốn thiên hạ khỏi cho Ðại vương là kẻ cướp công thì nên phong Bái Công vương chức. Ba Thục, cũng thuộc đất Quan Trung, nhưng non sông hiểm trở, nhà Tần trước đây thường đầy kẻ có tội vào đấy. Vậy cứ phong cho Bái Công làm Hán vương, rồi phong cho Chương Hàm, Tư Mã Lân, Ðổng Ể làm vua Tam Tần để chẹn đường hiểm yếu, không cho Bái Công thoát ra khỏi đất Ba Thục. phái chết già trong hung địa. Tuy tiếng là phong vương song kễ như là đày biệt xứ .
Sở Bá vương nói :
- Kế ấy rất hay.
Liền sai quan Quân Chính Tư đem sổ bộ để luận công phong thưởng .
Bá vương phong thưởng như sau :
- Bái công làm Hán vương, đóng đô ở Nam Trịnh, cai trị 41 huyện.
- Chương Hàm làm Ung vương, đóng đô ở Phế Khẩu, cai trị đất Thượng Tần, gồm 38 huyện.
- Tư Mã Hân làm Tắc vương, đóng đô ở Lịch Dương, cai trị đất Hạ Tần, gồm 18 huyện.
- Ðổng Ể, làm Ðịch vương, đóng đô ở Cao Nô, cai trị đất Trung Tần , gồm 30 huyện.
- Thần Dương làm Hà Nam vương, đóng đô ở Lạc Dương , cai trị Hà Nam gồm 20 huyện.
- Anh Bố, làm Cứu Giang vương, đóng đô ở Lục Hợp cai tn 45 huyện.
Và , những người sau đây cũng đều được lần lượt phong thưởng trấn những nơi không quan trọng lắm, như :
- Cung Ngao làm Lâm Giang vương.
- Ngô Nhuế làm Hoành Sơn vương.
- Ðiền An làm Tế Bắc vương.
- Ngụy Bái làm Tây Ngụy vương.
- Trương Nhĩ làm Thương Sơn vương.
- Tang Ðồ làm Yến vương.
- Triệu Yết làm Ðại vương.
- Ðiền Hoành làm Thượng Tề vương.
- Ðiền Úc làm Trung Tề vương.
- Trịnh Lã làm Hàn vương.
- Trần Thắng làm Lương vương.
- Ðiền Vinh làm Tiền Tề vương.
- Ðiền Khánh làm Triệu vương.
- Trần Dư làm Bắc Triệu vương.
- Hạng Trang làm Ðông Giáo vương.
- Hạng Chính làm Xuân Thắng vương.
- Phạm Tăng làm Thừa Tướng
- Hạng Bá làm Thượng Thư lệnh.
- Chung Ly Muội làm hữu Tư Mã.
- Ðinh Công làm tả Tướng quân.
- Long Thư làm Ðại Tư Mã.
- Quý Bố làm tả Tư Mã.
- Ung Tôn làm hữu Tướng quân.
- Lưu Tần làm hậu Tướng quân.
- Trần Bình làm Ðô Úy.
- Tàn Sinh làm tả Giám Nghị.
- Vũ Anh làm Giầu Chiên Ðại tướng quân
- Hoàn Sở làm Ðại tướng quân.
- Tử Kỳ làm Ðại tướng quân.
- Hàn Tín làm Chấp kích lang.
Văn vũ bá quan sau khi được phong tước quyền mỡ tiệc ăn mừng trong ngoài rộn rịp.
Riêng Bái Công lòng bối rối không an. Chư tướng thấy vậy hậm hực nói :
- Hán Trung là chỗ nhà Tần dùng để đày tội nhân, nay Bá vương phong Chúa công vào trấn nơi đó, chẳng khác nào muốn giam lỏng , ấy là mưu của Phạm Tăng muốn hại Chúa công đó.
Phàn Khoái nỗi giận nói :
- Phạm Tăng khi chúng ta thái quá. Tôi xin liều chết đem thân chống lại quyết không nghe lời Bá vương.
Bái Công cũng tỏ ý hằn học :
- Công ta rất lớn, diệt nhà Tần, thâu đất Quan Trung, lẽ ra phải được làm vua nước Tần, đóng đô ở Hàm Dương mới đáng, sao lại đày vào nới lâm sơn chướng khí , bốn bề núi non rừng rậm, chịu sao được.
Tiêu Hà vội can :
- Làm vua ở Hán Trung tuy xấu, nhưng còn hơn mất cả sự nghiệp . Chịu khuất một người mà thu phục được thiên hạ đó là gương vua Thang, vua Vũ đời xưa vậy . Xin Ðại vương cứ vào Hán Trung, tích thảo dồn lương chiêu hiền đãi sĩ lấy Ba Thục làm căn cứ, mộ thêm quân , ngày kia kéo ra đánh Tam Tần, thì làm gì chẳng thu phục được thiên hạ.
Trương Lương cũng nói :
- Thục tuy là tội địa nhưng trong có núi non hiểm trở, ngoài có sông ngòi bao quanh, tiến thì có thể chiếm được thiên hạ, thoái thì có thể giữ được biên cương. Ðó thực là chỗ đất dụng võ . Ðại vương nên vui lòng nhận lấy .Nếu tỏ ý bất mãn tất Bá vương tìm cách ám hại. Hơn nữa, Phạm Tăng là kẻ mưu sâu, ta không nên chống đối.
Hán vương bùi ngùi nghe theo, và nói :
- Nếu không có Tiên sinh giải bày, ta đã lầm việc lớn .
Lịch Tư Cơ nói :
- Chúng ta vào Hán Trung có ba điều lợi. Thứ nhất, đất Thục hiểm trở, xa cách Trung nguyên, không ai rõ được thực hư. Thứ nhì, trong lúc Ðại vương có công, bị Bá vương bạc đãi, tất lòng dân mến chuộng. Thứ ba, chúng ta có đủ thời giờ, hoàn cảnh để tạo lấy thời thế. Có ba điều lợi như vậy lo gì không gồm thâu được thiên hạ sau này.
Hán vương mừng rỡ liền chọn ngày khởi hành.
Giữa lúc đó, Phạm Tăng, sau khi đề nghị phong Bái công làm Hán vương, trấn thủ Hán Trung , bỗng nghĩ lại rằng :
- Bái Công mạng hỏa , tất cả đồ dùng hoàn màu đỏ thuộc hỏa , nay đến Hán Trung, đất phương Tây thuộc kim . Kim mà gặp hỏa tất thành đại khí .
Nghĩ như vậy liền vào tâu với Bá vương :
- Bệ hạ phong Bái công làm Hán vương , Bái công có ý bất bình . Vả lại chư tướngg của Bái công phần nhiều là người Sơn Ðông, đều có ý oán Bệ hạ. Nếu không dùng uy lực trừ đi, sau này khó tính.
Bá vương nói :
- Ta đã phong tước rồi nay còn tranh cải nữa sao được
Phạm Tăng suy nghĩ một lúc rồi tâu :
- Ngày mai Bệ hạ đòi Hán vương vào chầu, nếu Hán vương tỏ ý bất mãn, xin Bệ hạ chém quách là xong.
Bá vương nhận lời. Hôm sau, Hán vương vào chầu .
Bá vương hỏi :
- Ta phong ngươi vào Hán Trung ngươi có thuận đi hay không ?
Hán vương khúm núm tâu :
- Ðã làm tôi ăn lộc vua, thì sinh mệnh ở trong tay vua, có lẽ nào còn dám nói thuận hay không thuận . Tôi cũng như con ngựa của Bệ hạ , giật cương thì đi , gò cương thì đứng lại, thế thôi.
Bá vương cười khúc khích, nói :
- Nhà ngươi thật khéo ví dụ ! Thôi, ta cho về thu xếp để lên đường, không còn gì hỏi han nữa cả .
Hán vương vội vàng trở về dinh.
Trương Lương mừng rỡ nói :
- Ðại vương có biết việc nguy hiểm ngày hôm nay chăng ?
Hán vương ngạc nhiên không hiểu . Trương Lương nói tiếp :
- Ðại vương hồng phúc lớn lắm . Ban nãy nếu Ðại vương nói là "bằng lòng hay không bằng lòng" thì nguy rồi.
Hán vương bấy giờ mới biết đó là kế của Phạm Tăng, liền hỏi Trương Lương :
- Nếu cứ ở đây mãi e có điều nguy hiểm. Tiên sinh liệu sao ?
Trương Lương nói :
- Ðể tôi bàn với Hạng Bá và Trần Bình rồi sẽ liệu. Bây giờ xin Ðại vương cứ thu xếp hành trang sẵn sàng để chờ dịp lên đường.
Rồi đó, Trương Lương đến nói với Hạng Bá và Trần Bình :
- Phạm Tăng có ý hại Hán vương. Hán vương muốn đi ngay cho thoát nạn . Hai ông có kế gì xin giúp đỡ. Tôi quyết chẳng quên ơn.
Trần Bình ngồi nghĩ một lúc rồi ghé vào tai Trương Lương nói mấy câu.
Trương Lương vỗ tay khen :
- Kế ấy hay lắm .
Cứu Hán vương , Trần Bình lập kế
Ðốt Sạn đạo, Trương Lương chủ mưu
Bá vương phong tước chư hầu xong, ý muốn về đóng đô nơi Bành Thành, nhưng hay tin vua Nghĩa Ðế chưa thiên đô sang Giang Nam, lòng nóng như đốt.
Một hôm, Bá vương triệu quần thần đến hỏi :
- Nay vua Nghĩa Ðế không chịu thiên đô qua Giang Nam, nhường Bành Thành cho ta, các khanh nghĩ thế nào ?
Trần Bình bước ra tâu :
- Trời không hai mặt, nước chẳng hai vua. Nay Bệ hạ đã lên ngôi Thiên tử, lấy quyền hạn phong chư hầu, mà lại còn thỉnh mệnh Hoài vương, tránh sao khỏi thiên hạ chê cười. Cứ như ngu ý, Bệ hạ nên sai quân sư đem vài viên Ðại tướng đến Bành Thành bắt Hoài vương phải thiên đô đến một nơi cùng tịch, coi như bỏ đi vậy. Như thế tôn hiệu Bệ hạ mới chính đáng.
Bá vương chuẩn tấu, liền gọi Phạm Tăng đến, phán :
- Quân sư vì trẫm dẫn hai tướng Hoàn Sở, Vũ Anh thẳng đến Bành Thành, bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô ngay không được trì hoãn. Ðoạn, sửa sang cung thết trẫm ngự về đóng đô. Vì Bành Thành là nơi quê hương của trẫm.
Phạm Tăng tâu :
- Bệ hạ truyền chỉ tôi chẳng dám trái lời, song tôi chỉ sợ trong lúc vắng mặt tôi, có kẻ lừa dối Bệ hạ. Vì vậy, tôi xin ba điều.
Bá vương nói :
- Ðược, quân sư cứ nói.
Phạm Tăng tâu :
- Thứ nhất, Bệ hạ chớ nên rời khỏi Hàm Dương, vì Hàm Dương xưa nay là nơi trù mật, đất rộng, dân giàu, thiên hạ không đâu bằng. Thứ hai, nên trọng dụng Hàn Tín, vì Hàn Tín là kẻ có tài Nguyên Nhung. Nếu đắc dụng Hàn Tín sẽ là kẻ phi thường trong thiên hạ, không ai dám tranh phong. Nhược bằng không dùng thì phải giết đi, chớ nên dể lọt vào tay người khác. Thứ ba, chớ nên cho Hán vương vào Hán Trung vội. Hãy tạm giữ đến lúc tôi về sẽ tính. Ba điều ấy rất khẩn yếu, xin Bệ hạ chớ quên.
Bá vương nói :
- Quân sư cứ an tâm làm nhiệm vụ. Trẫm xin ghi nhớ .
Phạm Tăng liền dẫn bọn Vũ Anh, Hoàn Sở thẳng đến Bành Thành.
Ðêm hôm ấy, Trần Bình dâng biểu tâu với Bá vương :
Quốc gia lấy sự giàu mạnh làm gốc . Thánh vương lấy nhân nghĩa làm đầu. Bê hạ nay mới lên ngôi hai điều căn bản là giữ gìn kho tàng cho sung túc, ban bố điều ân cho dân lành . Thế mà chư hầu đều tụ họp ca nơi Hàm Dương này , mỗi ngày ít ra cũng phải cung cấp thực phẩm cho lơn 3, 4 vạn quân. Phải tính, mỗi ngày dùng hơn 300 gánh rượu, 200 con dê, 400 lợn, 100 trâu, 4000 cân gạo 3000 hộc đậu , 2000 bó củi v. v. . như thế thì chẳng bao lâu kho tàng hết sạch, dân chúng nghèo nàn đó là chưa nói những sự nhiễu hại của quân sĩ đối với nhân dân làm cho nhân dân, oán trách Bệ hạ. Xin Bệ hạ xét lại ?
Bá vương xem biểu xong, truyền cho các nước chư hầu , hạn trong ba ngày phải lui quân về nước . Duy có Hán vương hãy tạm ở lại Hàm Dương, đợi phạm Tăng về sẽ liệu .
Hán vương được tin kinh sợ than :
- Ôi ! Nếu chờ Phạm Tăng về, Phạm Tăng bày kế hại ta, còn vào Hán Trung sao được ?
Liền đòi Trương Lương vào hỏi :
- Bây giờ Bá vương cho chư hầu đâu về đấy, chỉ riêng ta bị bắt ở lại đây, thật nguy lắm. Tiên sinh có kế gì giải cứu chăng ?
Trương Lương nói :
- Nay gia quyến Ðại vương còn ở cả nơi Phong Bái, Ðại vương nên dâng biểu xin về thăm gia quyến và mang gia quyến đến đây . Thế rồi tôi sẽ có kế cứu thoát.
Hán vương theo lời, lập tức sai Lịch Tư Cơ dâng biểu.
Tờ biểu viết như sau :
Ðức Thánh vương lấy hiếu trì dân, làm cho dân theo về đạo hiếu, gia đình thỏa thuận nhà cửa sum vầy . Bang tôi vốn người Phong Bái , một kẽ thường dân , ngữa đội ơn trên , được phong vương tước. Tấm thân vinh quy đã đủ mười phần . Duy chỉ cha mẹ, vợ con còn ở nơi cố quán tấm lòng tấc cỏ chưa chút báo đền. Nay xin để hết binh mã lại đây một mình về thăm quê quán, trong hạn ba tháng sẽ cùng gia quyến đến Hàm Dương phục mệnh . Chút tình khuyển mã, cúi đầu trần tấu, xin Bệ hạ đoái hoài .
Bá vương xem biểu xong, phán :
- Hán vương xin về thăm cha mẹ, thật phải đạo làm con . Tuy nhiên, trẫm lại nghĩ rằng Hán vương xin đi đây không phải là chân ý, mà có lẽ vì bất mãn việc trẫm giữ lại Hàm Dương chăng ?
Hán vương thất kinh, khúm núm tâu :
- Muôn tâu Bệ hạ, kẻ hèn này được phong vương tước cũng đã đũ lắm rồi còn gì bất mãn nữa. Phụ thân tôi mình già, tuổi yếu, dưới gối không kẻ chăm nom, đạo làm con nghĩ không đành lòng. Xin Ðại vương thương tình rộng xét.
Nói xong, Hán vương gục xuống đất khóc nức nở.
Trương Lương bước ra tâu :
- Không nên để Hán vương về Phong Bái, nên bắt Hán vương vào ngay Hán Trung, rồi Bệ hạ sai người bắt Thái công và gia quyến đến đây làm con tin. Như vậy chẳng bao giờ Hán vương dám gian trá điều gì nữa.
Bá vương ngẫm nghĩ một lúc rồi nói :
- Lúc đi, quân sư có dặn phải giữ Hán vương lại đây đừng để vào Hán Trung, e sanh dị ý.
Trân Bình bước ra tâu :
- Bệ hạ đã phong Lưu Bang làm Hán vương mà giữ lại đây mãi e thất tín với thiên hạ. Chi bằng cứ nghe theo lời Tử Phòng, bắt Thái công làm con tin, Hán vương đâu dám trái mệnh.
Bá vương nói :
- Nếu các ngươi thấy việc cho Hán vương vào Hán Trung là cần thiết cho uy tín, thì trẫm cũng y lời. Thế thì trẫm truyền cho Hán vương vào ngay Hán Trung, mà không được về Phong Bái.
Hán vương giả khóc lóc van xin mãi.
Bá vương lấy lời phủ dụ :
- Thôi, nhà ngươi cứ an lòng đi trấn nhậm. Ðợi lúc nào trẫm dời đô đến Bành Thành sẽ sai người rước Thái công về nuôi dưỡng thay cho nhà ngươi.
Hán vương tâu :
- Ðội ơn Bệ hạ ! Kẻ hèn này dẫu đến chết cũng không quên ơn ấy.
Nói xong bái tạ lui ra. Chung Ly Muội thấy Bá vương cho Hán vương về Hán Trung, vội vã can :
- Lúc quân sư lâm hành có ân cần xin Bệ hạ đừng cho Hán vương vào Hán Trung, Bệ hạ đã quên rồi sao ?
Bá vương nói :
- Ðã bắt gia quyến người ta quản thúc nơi đây, còn giữ người ta làm gì nữa. Vả lại lời ta đã phán, không thể làm khác hơn được. Nhà ngươi không cần nhắc đến chuyện ấy nữa.
Hàn Tín thấy vậy than thầm :
-Ðã cho vào Hán Trung mà còn giữ gia quyến ở đây mai sau họ vì gia quyến cố đánh để giải thoát thì chúng ta tất phải chết. Tiếc thay ! Lời nói của quân sư không được xem trọng .
Hán vương về đến đại trại, lập tức chỉnh đốn binh mã, lên đường. Trăm họ kéo nhau tiễn biệt, đứng chật hai bên đường , ai nấy đều tỏ lòng ái mộ.
Các bậc bô lão đến trước ngựa, nói :
- Chúng tôi cầu mong Ðại vương được làm vua nơi Quan Trung này, nay Ðại vương lại vào Hán Trung, chúng tôi biết bao giờ còn trông thấy ánh mặt trời nữa.
Hán vương nói :
- Chúng dân cứ thủ phận làm ăn, có ngày sẽ tương kiến.
Tiêu Hà nói với các bô lão :
- Các cụ nên trở lại kẻo Bá vương hay được , chẳng những hại cho các cụ mà còn nguy hiểm đến Ðại vương nữa.
Nói xong, giục quân lên đường. Ði được một quãng dài, mà tiếng khóc than của dân chúng vẫn còn vang đến.
Trương Lương dẫn đường, vào mạn núi Thiểm Sơn.
Ði được 90 dặm thì tới huyện Phượng Tường rồi đến cửa ải Mê Bồn. Lại đi 30 dặm nữa đến huyện Bảo Kê rồi đến
cửa quan Ðại Tân và đến Sạn đạo .
Quân Hán vương toàn là người Sơn Ðông, không quen trèo non, lặn suối, nay tới đường Sạn đạo chỗ thì cao vút mây xanh, chỗ thì xuống tận suối thẳm, một cái trợt chán có thể bỏ mạng được, lấy làm kinh sợ, nói với nhau :
- Chúng ta vào đây, bốn bề hoang vu, rừng thâm nước độc, nếu không liều chết giải thoát cho mình, thì trọn đời làm ma dại nơi hoang địa này.
Phàn Khoái nghe nói nổi giận hét lớn :
- Các ngươi nói rất phải, dẫu chết với bọn chúng cũng còn mát lòng hơn sống trong đất này. Tôi xin nguyện làm tiên phuông, cử binh chinh phạt cho.
Hán vương bùi ngùi nói :
- Ta thà chết còn hơn đem thân đến đây cầu sống. Một mai bọn Chương Hàm đóng quân chận lối này, dầu ta có cánh cũng không thoát ra được
Trương Lương, Tiêu Hà, Lịch Tự Cơ đều can :
- Nếu Ðai vương chán nản như thế e hỏng việc lớn.
Hán Trung càng hiểm trở bao nhiêu càng giúp cho Ðại vương dễ định thiên hạ bấy nhiêu. Ở đây Ðại vương tha hồ chiêu binh mai mã, dẫu cho Bá vương có tám tai bốn mắt cũng không thể nào biết được. Khi quân ta có đủ sức mạnh thì còn sợ gì gian nguy hiểm trở, trước địch Tam Tần, sau bình thiên ha có khó chi.
Hán vương nghe lời khuyên giải lòng cũng nguôi ngoai nên truyền Phàn Khoái đốc binh thẳng vào Bao Trung.
Khi đến núi Kim Ngưu , ba quân dừng lại nghỉ ngơi.
Hán vương hỏi :
- Sao lại gọi là Kim Ngưu ?
Lịch Tự Cơ nói :
- Trước kia đường Hán Tung ra Trung Nguyên còn hiểm trở bằng vạn lần ngày nay, tuyệt không có lối nào đi lại .Vua Huệ vương nhà Tần muốn kiêm tính sáu nước, nhưng không có cách nào kéo quân vào đánh Thục đặng . Nghe nước Thục có năm người lực sĩ sức mạnh xẻ núi lấp sông , liền bày ra một kế đúc năm con trâu bằng sắt phao đồn rằng : nhà Tần có năm con trâu vàng mỗi ngày tiêu ra năm đấu vàng! Vua thục tưởng thật, sai năm người lực sĩ, khai sơn phá thạch, lấy lối ra Tần, cướp năm con trâu ấy. Nhưng khi mở lối xong , cướp được trâu té ra là trâu sắt . Vua Huệ vương mượn con đường ấy đem quân vào đánh lấy đất Thục, làm ra con đường Sạn đạo, và đặt tên núi là Kim Ngưu.
Hán vương nói :
- Chỉ vì vua Thục tham vàng mà mở đường cho quân Tần vào cướp đất !
Quân sĩ nghĩ ngơi xong toan lên đường, Trương Lương bước đến nói với Hán vương :
- Tôi tiễn chân Ðại vương đến đây rồi, xin cho phép tôi được trở về cố quốc.
Hán vương kinh ngạc nói :
- Từ khi ta gặp được Tiên sinh, đã bao lần gian nguy khổ cực nhờ Tiên sinh giúp đỡ, mới mong được toàn mạng, nay Tiên sinh bỗng nhiên bỏ ta trong lúc sự nghiệp chưa thành ta còn biết nương cậy vào ai ?
Trương Lương nói :
- Trước đây vì phải luôn luôn tranh đấu trước gian nguy, nên tôi không dám rời Ðại vương nữa bước. Nay Ðại vương vào Hán Trung, đâu còn gì nguy hiểm nữa ? Giữ tôi bên cạnh, Ðại vương chẳng ích gì ! Tôi xin từ giã Ðại vương trở về thăm cố chúa, nhân tiện tính giúp cho Ðại vương ba việc, xin Ðại vương cứ an tâm.
Hán vương hỏi :
- Ba việc ấy là ba việc gì xin Tiên sinh chỉ giáo.
Trương Lương nói :
- Một là : về du thuyết Bá vương, bày Bá vương thiên đô sang Bành Thành, dành Hàm Dương cho Ðại vương sau này, trở về lên ngôi thiên tử.
Hai là : đi du thuyết chư hầu bỏ Sở phò Hán, và tìm cách làm cho Bá vương không đế ý đến lực lượng Ðại vương nữa. Ba là : tìm cho Ðại vương một người Ðại nguyên soái, đủ tài diệt Sở hưng Lưu Hàm , xong ba việc ấy tôi sẽ trở về Hàm Dương chờ đón Ðại vương .
Nay chỉ khuyên Ðại vương một điều là cố gắng nhẫn nhục, vì Hán Trung chỉ là nơi ở tạm, không quá ba năm Ðại vương sẽ vào Trung Nguyên làm chủ thiên hạ.
Hán vương nói :
- Nếu thực được như lời Tiên sinh thì Bang này dẫu khổ nhục đến đâu quyết chẳng dám sờn lòng. Nhưng Tiên sinh định tìm một vị Nguyên soái, mà Tiên sinh không trở về đây, làm thế nào được ?
Trương Lương nói :
- Người ấy sẽ là một anh tài trong thiên hạ. Khi tìm được tôi sẽ chỉ tỏ đường lối để người ấy tìm đến đây. Ðại vương phải thu dụng, chớ thất tín.
Hán vương hỏi :
- Tiên sinh phải lấy gì làm tin, ta mới biết là người của Tiên sinh giới thiệu chứ ?
Trương Lương nói :
- Tôi xin giao cho người ấy một giốc thư . Trong thư tôi sẽ viết những lời bí mật của Ðại vương nói với tôi lúc bình nhật.
Trương Lương nói xong, cúi đầu giã biệt.
Hán vương nắm tay rơi lệ nói :
- Xin Tiên sinh đừng sai ước. Tiên sinh về có gặp thân phụ tôi xin nói giúp một lời rằng : Bang này ngày đêm mong nhớ cội thung, nhưng hoàn cảnh không thể nào phụng dưỡng được. Xin người cứ giữ gìn thân thể, và trông nom các cháu. Còn trời còn đất, tất còn có ngày đoàn tụ .
Trương Lương nói :
- Vâng, tôi xin tuân mệnh.
Nói xong, lại dắt Tiêu Hà ra dặn dò mọi việc và nói :
- Lúc nào tôi tìm được vị Nguyên soái thì tướng quân phải hết lòng tiến cử nhé. Bức thư có rọc mất một chéo góc .
Tiêu Hà nói :
- Tiên sinh cứ yên lòng, nếu tôi thấy người cầm giốc thư đến đây quyết không để lỡ việc .
Trương Lương bái biệt Hán vương , giã từ tướng sĩ rồi lên ngựa trở lại.
Hán vương tiễn đưa mấy dặm đường .
Bỗng phía sau có tiếng kêu la ầm ĩ , và ngọn lửa cháy ngất trời, lan ra hơn ba mươi dặm. Hỏi ra mới biết Trương Lương đốt Sạn đạo rồi.
Hán vương thất kinh, ngước mặt lên trời than :
- Ôi chao ! Trương Lương đã trở về còn nhẫn tâm đốt Sạn đạo là cố ý giam lỏng chúng ta nơi đây trọn đời bỏ xương trong núi thẳm rồi.
Quân sĩ cũng dều nhao nhao chửi rủa Trương Lương và nói :
- Trời ơi ! Thế là chúng ta đành sống làm mọi nơi xứ Hán Trung, để rồi chết làm quỉ nơi hoang vu này, chứ còn đường sá nào mong trở về nửa.
Ðang lúc ba quân huyên náo, Tiêu Hà chạy lại nói nhỏ với Hán vương :
- Xin Ðại vương chớ oán Trương Lương. Sở dĩ Trương Lương đốt Sạn đạo là để cho Bá vương không còn để ý đến ta nữa, quân tướng Tam Tần ăn no ngủ kỹ không đề phòng xin Ðại vương lượng xét .
Hán vương như sực tỉnh, thở hào hển nói :
- Nếu không có nhà ngươi, ta đã hiểu lầm oán trách người hiền.
Nói xong, truyền ba quân tiếp tục lên đường.
Khi đến Bao Dung, Hán vương tìm lời phủ dụ quân sĩ, rồi chọn ngày lên ngôi, thi ân bố đức, dân chúng đem lòng cảm phục.
Năm ấy được mùa, dân chúng ấm no, trăm họ an vui, non sông tươi thắm.
Hán vương phong Tiêu Hà làm Tướng quốc, Tào Tham, Phàn Khoái, Chu Bội, Quán Anh đều làm tướng .
Từ đó, chiêu hiền đãi sĩ, tích thảo dồn lương, chỉ hơn vài tháng dân Hán Trung, đường không nhặt của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa, tuyệt nhiên không có một kẻ gian manh trộm cướp, thật là một cảnh thái bình.
Sau khi đốt Sạn đạo, Trương Lương đến Phương Linh nghỉ một hôm, ngày hôm sau qua Phượng Châu, Ích Môn, đi gần tới đia phận Bảo Kê, bỗng có một tướng kéo một đoàn quân ra đón đường hét lớn :
- Trương Lương ! Ta vâng lệnh quân sư Phạm Tăng đến đây đón ngươi đã lâu.
Trương Lương kinh ngạc, xem lại thì thấy đó là nha tướng của Hạng Bá.
Vì vua Hán , Trương Lương quyết chí
Can vua Sở , Hàn Sinh bỏ mình
Viên tướng ấy thấy Trương Lương sợ hãi, vội xuống ngựa, và cười lớn nói :
- Tiên sinh không nhận ra tôi sao ? Hạng công biết tiên sinh vào nơi hiểm trở, nên sai tôi đến đây bảo vệ .
Trương Lương mừng rỡ nói :
- Hạng công thật là người chu đáo.
Rồi cùng theo tướng ấy vào thành đến nhà Hạng Bá.
Hai người gặp nhau trong bầu hoan hỉ.
Hạng Bá sai lấy quần áo cho Trương Lương thay, trao đổi niềm tâm sự, và mở tiệc đãi đằng cho đến tối mới đi nghỉ .
Ðêm ấy, Trương Lương lòng bàng hoàng không ngủ được, bỏ ra ngoài hiên dạo cảnh ngắm trăng, nhân hỏi thăm chuyện các nước chư hầu đối với Bá vương như thế nào.
Bọn quân canh nói :
- Chư hầu đều đến bái yết Bá vương , duy có vua nước Hàn là Cơ Thành vì đến chậm lại để Trương Lương theo phò Hán vương vào Bao Trung, nên Bá vương truyền chém đầu, đưa linh cữu về nước cách đây vài hôm.
Trương Lương hay tin như sét đánh bên tai, tay chân bủn rủn, vội vàng chạy vào phòng, suốt đêm khóc sướt mướt, nước mắt ướt đầm cả gối.
Sáng hôm sau, Trương Lương cáo từ Hạng Bá, trở về Hàn quốc.
Hạng Bá nóí :
- Lâu nay bận rộn viẹc nước, tuy gặp nhau nhưng chưa bao giờ được cùng nhau tâm sự. Vừa rồi, tôi sai người đón Tiên sinh đến dây cốt để thỏa tình hoài mộ, sao Tiên sinh vừa đến lại đã giả biệt ?
Trương Lương đáp :
- Vừa rồi tôi nghe Hàn Vương bị Bá vương giết chết, chỉ vì tôi theo Hán vuơng vào Bao Trung. Tình vua tôi rất nặng xin hiền huynh cho tôi về nước, khóc cho Hàn vương rồi sẽ trở lại đây bái yết.
Nói dứt lời , hai dòng nước mắt chảy xuống đọng trên má .
Hạng Bá cảm động không dám ngăn, chỉ hẹn sau một tháng sẽ cho người đến đón.
Trương Lương ra đi... buồn bã về đến nước Hàn vào tiếp kiến cac vị công tử, rồi ra trước mộ Hàn vương làm lễ,
rồi khóc và than rằng :
- Chúa công ôi ? Ðể cho Hạng Vũ hại Chúa công thật là tội của Lương này. Nếu Lương này không báo thù được cho Chúa công xin muôn kiếp không làm người.
Than rồi lại khóc. Các công tử xúm lại khuyên giải mãi, Trương Lương mới chịu gạt lệ trở về thăm gia quyến.
Ðược vài hôm, Trương Lương lại thu xếp hành trang ra đi. Quê người cảnh lạ, non nước đìu hiu, lòng buồn bả khôn khuây.
Vừa đi được mấy ngày , bỗng gặp người nhà của Hạng Bá sai đến đón .
Trương Lương nghĩ tình bạn, không nỡ từ chối, trở lại nhà Hạng Bá.
Hạng Bá thấy Trương Lương buồn rầu, ân cần hỏi :
- Tiên sinh định đi đâu mà có vẻ buồn bả như thế?
Trương Lương thản nhiên đáp :
- Bấy lâu vì nước quên nhà, tuyết sương chẳng quản. Nay cố chủ đã mất, thân hèn lại nhiều tật, chẳng mong gì ở cõi đời này nữa ; vì vậy muốn học thuật huyền vi của Lão Tử , theo lối phóng đãng của Trang Chu, hái rau vi theo Bá Di . Thúc Tề, rửa tai trâu học đòi Hứa Do, Sào Phủ chán vòng danh lợi, tìm thú sơm lâm, phú quý vinh hoa không dám nghĩ tới , hiền huynh đã là bạn , tôi chẳng dám giấu.
Hạng Bá biết không thể đem giàu sang làm vui Trương Lương được, nên chỉ xin lưu lại vài tháng để thỏa tình ngưỡng vọng.
Môt hôm , Hạng Bá vào chầu , Trương Lương ở nhà một mình đi bách bộ , đến một vườn hoa thấy có một tòa lâu đài tường cao, cửa rộng, cỏ hoa man mác trên có đề bốn chữ "Vạn quyển thư lâu " .
Trương Lương lần vào. Trong thư lâu có nhiều phòng, nhưng đặc biệt nơi phòng chính trang hoàng đồ sộ , án thư ở giữ muôn vẻ trang nghiêm. Cách tường, một giá sách dể toàn trúc giản đời cổ . Một bên có để những văn thư rất nhiều. Trương Lương mở ra xem thì thấy đó là những tờ sớ tấu của sáu nước, những lời biểu của bá quan, vì Hạng Bá làm Thượng Thư lệnh nên các văn thư đều phải kiểm duyệt trước rồi mới đệ trình lên Bá vương.
Bản chính đem vào triều bản sao để ở nhà.
Trương Lương đọc qua mọt loạt thấy những tờ biểu ấy có tờ cũng hay, có tờ cũng dở có tờ lại toàn là lời sàm nịnh, nói chung là không có gì xuất sác. Bỗng Trương Lương rút đến tờ biểu sau cùng, xem qua , trát mồ hôi ướt áo .
Tờ biểu ấy như vầy :
" Tôi nghe nói trị thiên hạ tối thiểu phải có hai điểm . Thế và Cơ . Thế là xét điểm thực hư lượng sức mạnh, yếu. Biết mình, hiễu người, ấy là nét cần bàn để trị thiên hạ . Nếu chỉ lấy sức mạnh hoành hành chẳng qua là một cơn gió lốc, cây cỏ tuy ngã rạp xuống, nhưng chẳng bao lâu sau sẽ đứng dậy chơm chởm như muôn ngàn mũi giáo chống lại uy vũ.
Cơ là hiễu rõ sự hưng vong , xét cơ trị loạn , nếu không biết đến cơ , chẳng qua là nhóm giặc cỏ nổi lên , bạo phát bạo tàn , lâu dài sao được ?
Nay Bệ hạ tuy làm vua Quan Trung nhưng lòng người chưa phục . Dân chỉ sợ uy mà không mến đức. Trong vũ trụ , không có gì mạnh mà không đến lúc suy yếu . Cơn bão tố khủng khiếp kia , có thể xô tường, trốc đá nhưng rồi cũng phải dứt. Cái gì biểu lộ ra ngoài, cái ấy chói v vong . Ngược lại cái gì i v , cái ấy lâu mất. Tỷ như lòng oán vọng của dân chúng, tuy không phát lộ , nhưng tồn tại mải trong lòng, khó mà tẩy sạch . Ðã uy rồi đến lúc phải khuất , đã mạnh rồi tất có lúc phải yếu . Nếu không thấu nghĩa chữ "cơ" làm sao có thể trị thiên hạ ? Tôi thấy vậy mà lo cho Bệ hạ đó .
Như Hán vương khi ở Sơn Ðông tham tài hiếu sắc mà lúc đến Quan Trung thấy của không màng thấy sắc không lụy , thi ân bố đức, khiến cho dân Tần cảm mến , đó chẳng phải là kẻ hiểu được chữ "cơ" và chữ "thế" trong thiên hạ ư ?
Nếu Hán vươngg thừa cơ xướng khởi , lấy lòng dân làm sức mạnh , lợi dụng cái yếu của Bệ hạ để làm cái mạnh của mình , có phải là lập được cái "thế" trong thiên hạ không ?
Cứ xem như việc đốt Sạn Ðạo để Bệ hạ khỏi ngó về phương Ðông . Tam Tần không có ý phòng bị về đất Hán , rồi đem quân Ba Thục về lấy Quan Trung là hiễu "thế" và biết "cơ" trong thiên hạ lắm !
Hán vương là kẻ đối thủ của Bệ hạ mà Bệ hạ không thấy cái nguy hiểm ấy , tướng sĩ chỉ biết thừa thuận ý vua , tưởng chỉ dùng cái Vũ của Bệ hạ sẽ trở thành người vô địch trong thiên hạ !
Tôi , dẫu là một kẽ hèn ,nhưng đã ăn lộc vua lẽ nào không có lòng lo lắng , mạo muội đôi lời, không ngại trăm quan chê cười , hiền dâng vài kế : nay phải thêm quân phòng bị biên cương, rút bọn Chương Hàm về dùng vào việc khác, chọn người trí dũng chận lấp cửa quan, bắt gia thuộc Lưu Bang đến làm con tin, trong thì lo điều nghĩa, chọn sĩ cầu hiền, tuân theo chính lệnh nhà Châu, lấy dân làm gốc, ngoài thì trấn an chư hầu, sửa việc binh nhung, chọn người tài dùng làm Nguyên soái lo việc tảo trừ những mầm phản loạn, như thế, Lưu Bang nhất định không dám dòm ngó về phương Ðông, xã tắc vững bền như bàn thạch .
Vài lời trung trực giải bày xin Bệ hạ rộng xét ".
Ðọc xong tờ hiểu, Trương Lương rất kính phục, khen thầm :
- Người nầy đáng sánh với Y Doãn ở Nội Sằn, Thái Công ở sông Vị, nếu Bá vương dùng người này là nhà Hán phải nguy vong. Còn nếu Hán vương dùng được người này nước Sở phải mất. Chẳng biết hiện nay người này đang làm gì ? Và có ở đây chăng ?
Nghĩ rồi, đem văn thư xếp lại như cũ, dạo gót xuống lầu về thư phòng nằm nghỉ.
Một lúc sau , Hạng Bá đi chầu về, truyền mở tiệc khoản đãi, và nói :
- Tiên sinh với tôi chẳng khác nào anh em ruột, xin chớ khách tính nhé !
Trương Lương nói :
- Hiện nay tôi đã đặt mình ngoài vòng thế sự còn khách tính gì nữa .
Hạng Bá và Trương Lương cùng ngồi uống rượu .
Rượu được nửa chừng, Trương Lương hỏi :
- Nghe hiền huynh có vườn hoa đẹp, xin cho tiện đệ tiêu khiển một chốc có được chăng ?
Hạng Bá đứng dậy mời Trương Lương.
- Vâng, xin Tiên sinh cùng tôi dạo mát.
Hai người dắt tay đến vườn hoa, đi đến thư lâu, Hạng Bá mời Trương Lương vào chơi, Trương Lương giở tập văn thư ra xem, giả vờ hỏi :
- Văn thư ở đâu nhiều thế này ?
Hạng Bá đáp :
- Văn thư của sáu nước chưa tiến lãm, còn bỏ cả nơi đây . Trương Lương lục lạo một hồi rồi cầm tờ biểu ban sáng đưa cho Hạng Bá xem, và hỏi :
- Tờ biểu này của kẻ nào mà viết dài như thế ?
Hạng Bá đáp :
- Người ấy chỉ là môt tên quân hầu. Tuy nhiên tài có thể sánh với Lã Vọng nhà Chu, tiếc rằng chưa gặp thời.
Trương Lương vồn vã hỏi .
- Tàì như thế mà chỉ làm môt tên quân hầu ư ?
Hiền huynh có thể cho biết lai lịch người ấy chăng ?
Hạng Bá chậm rãi nói :
- Người ở Hoài âm, tên Hàn Tín, nhà nghèo, thuở trước làm nghề câu cá. Phạm Tăng đã hai ba lần tiến cử, nhưng Bá vương không dùng , chỉ cho làm chức Chấp Kích thôi . Thật đáng tiếc , vừa rồi Hàn Tín dâng biểu này lên Bá vương. Bá vương toan bắt tội , may có tôi xin giúp mới toàn mạng .
Trương Lương nghĩ thầm :
- Chính là người mà ta đã gặp nơi Hồng Môn trước đây . Nếu Hán vương dùng được người này , lo gì không phá được Sở, mà thù nước Hàn ta cũng trả được .
Trương Lương lưu lại nhà Hạng Bá vài hôm, dò xét quân tình, xong, nói với Hạng Bá :
- Tôi muốn tìm cảnh núi non thanh vắng để an thân, vậy từ đây xin giã biệt hiền huynh.
Hạng Bá quyến luyến nói :
- Tiên sinh cứ ở đây , sớm cuộc cờ, tối chén rượu, như thế cũng thanh thoảng rồi , cần gì phải tìm nơi thanh vắng ?
Trương Lương đáp .
- Tôi đã là người nhàn tản thì không thích chốn phồn hoa . Ở đây là trướng phủ , trước mắt rực cảnh vàng son , bên tai vang mùi thế sự, làm thế nào tâm hồn thoải mái được .
Hạng Bá dùng hết lời , gợi hết tình cảm nhưng không thể nào giữ Trương Lương lại được , liền tiễn chân ra khỏi Hàm Dương mặc cho Trương Lương vui phong nguyệt !
Trương Lương giã biệt Hạng Bá xong , thay áo quần , giả làm một đao sĩ, lẽn vào thành , lúc thì dừng chân nơi cây cao bóng mát , lúc thì vào ngõ hẻm hang sâu , lúc vào đình chùa , làng mac , lúc đến nơi chợ búa, phố phường , lưng đeo mấy đồng tiền , tay cầm năm quả táo , hát nghêu ngao , nói vơ nói vẩn . Bọn trẽ thấy lạ xúm nhau xem suốt ngày .
Một hôm , Trương Lương gặp một đứa trẻ mặt mày sáng sủa đỉnh ngộ, bèn gọi đứa trẻ ấy vào một ngôi chùa vắng , cho mấy đồng tiền , mấy cái bánh rồi dạy mấy câu như sau :
Hổ trong nước lặng
Cá lội thảnh thơi
Dầu ai phú quí trong dời,
Quê hương chẳng biết , lẽ trời chưa thông
Bóng tối mông lung
Người mang áo gấm.
Áo kia dầu đẹp
Chẳng được tiếng khen
Chỉ dạy vài lượt , đứa bé đã thuộc lòng.
Trương Lương dặn :
- Nếu có ai hỏi, em cứ nói rằng : " Em nằm mơ thấy thần dến dạy hát " , đừng nói ta dạy nhé ! Nếu em nói như vậy , em sẽ được sống lâu, giàu có còn ta dạy thì lúc chết xuống âm phủ sẽ bị nấu vào vạc dầu sôi , em nghe rõ chưa ?
Ðứa bé đáp :
- Thưa sư cụ, cháu xin vâng . Nhưng ngoài ra sư cụ còn dặn gì thêm nữa chăng ?
Trương Lương nói .
- Em đem lời nói ấy dạy cho các đứa trẻ khác, càng nhiều càng tốt.
Nói xong Trương Lương cho thêm đứa bé mấy đồng tiền nữa rồi tìm chổ vắng vẻ tạm trú để dò thêm tin tức.
Từ khi Bá vương cho chư hầu về nước, đêm ngày vẫn áy náy lo sợ dân Tần không phục, tìm cách gây rối nên thường cho người ra ngoài thám thính.
Một hôm, quân thám thính nghe đứa trẻ hát, vội về báo lại với Bá vương .
Bá vương không tin. Chiều hôm ấy cải trang một thường dân ra ngoài chợ, Bá vương trong thấy mấy đứa trẻ đang vừa đi vừa hát liền gọi lại hỏi :
- Ai dạy chúng bay hát thế ?
Một đưa trẻ trả đáp :
- Trời dạy chúng tôi hát đấy .
Bá vương kinh ngạc nghĩ thầm :
- Ðất Hàm Dương bị tàn phá, ta muốn thiên đô về Bành Thành . Nay câu đồng dao này ứng đúng theo ý định của ta, thế thì lòng trời hợp với lòng ta vậy .
Hôm sau , Bá vương hội quần thần, phán :
- Hiện nay có một câu đồng dao lưu truyền khắp chợ búa, tại sao các người không tâu cho ta biết. Câu hát ấy chính là trời muốn cho ta thiên đô về Bành Thành.
Bành Thành thuộc nước Sở , từ sông Hoàng sông Hà trở về phía Bắc , đất vuông nghìn dậm , chính là chổ nên đóng đô
đó . Nước cũ làng xưa còn đâu hơn được.
Quan Gián nghị Hàn Sinh bước ra can :
- Tâu Bệ hạ , những lời đồng dao chẳng qua lời người đặt ra , tuyên đồn nhảm nhí , xin Bệ hạ chớ tin . Quan Trung là nơi kiên cố, bốn mặt núi rừng , chỉ hở có một mặt phía Ðông mà thôi, nhưng phía Ðông lại có sông Hoàng Hà .Ðịa thế như vậy quả là nơi Thiện phủ . Nhà Châu dùng làm đất Hưng vương , nhà Tần lấy chổ này làm nơi đồ Bá . Xin Bệ hạ chớ nghe lời đồng dao mà bỏ nơi thắng địa .
Bá vương lắc đầu nói :
- Lòng trời đã ưng theo ý muốn của ta, ngươi chớ đem lời ngăn cản. Ta thiên đô về Bành Thành có ba điều cần thiết : Một là đã ba năm nay, ta lo chinh Ðông phạt Bắc chưa về quê hương. Hai là xứ Quan Trung đất ít núi nhiều, tầm con mắt trông không được quang đãng. Ba là điềm trời đã ứng, trái lại không hay .
Hàn Sinh nói :
- Bệ hạ gồm thâu bốn bể như mặt trời soi trên quả đất , dẫu ở đâu nhân dân cũng ngưỡng vọng, hà tất phải trở về cố hương mới vinh hạnh ?
Bá vương nói :
- Thôi , ngươi không cần nói nữa, đành rằng : " Bốn phương đâu cũng là trời , người trong bốn bể là tôi một nhà " . Nhưng ta thích ở dâu thì đóng đô ở đó, hề chi ?
Hàn Sinh nói :
- Trước khi Quân sư đi có dặn Bệ hạ không nên rời Hàm Dương kia mà .
Bá vương cười lớn nói :
- Ta là vua , đem chí dọc ngang , tung hoành bốn bể , há lệ thuộc theo ý muốn của một kẻ nào sao ?
Hàn Sinh không còn lời nào can ngăn nữa, tức giận bước xuống thềm , ngửa mặt lên trời thở phào ra một cái, rồi nói :
- Thường nghe người ta nói :
- Người nước Sở như con khỉ tắm mà đội mũ . Lời nói ấy nay xét thấy không sai .
Bá vương thoáng nghe câu nói ấy, hỏi Trần Bình :
- Hàn Sinh muốn nói gì vậy ?
Tràn Bình không dám giấu ,tâu :
- Tâu Bệ hạ, Hàn Sinh oán Bệ hạ, lấy con khỉ mà ví người nước Sở .
Bá vương vỗ hét :
- Thế là ý gì ?
Trần Binh nói : :
- Tâu Bệ hạ , câu nói có nhiều ý . Con khỉ mà cho mặc áo đội mủ vào , tuy bề ngoài giống loài người, song bên trong vẫn là khỉ. Ðó là ý thứ nhất. Con khỉ không quen mặc áo đội mũ, thế nào nó cũng bỏ quần áo đi. Ðó là ý thứ hai .
Bá vương nghe xong nổi giận mắng lớn :
- Súc sanh ! Dám buông lời sỉ nhục ta như thế sao ?
Liền truyền Chấp Kích Lang trói Hàn Sinh lại, dẫn ra chợ. Dân chúng đến xem chật cả trong ngoài.
Trương Lương lúc bấy giờ cũng đang lẩn mặt trong đám dân chúng ấy.
Hàn Sinh thấy quân nấu vạc dầu, tức giận, nói :
- Hởi người xứ Hàm Dương a ơi ! Ta vì trung với nước mà phải nấu dầu, chứ xét chẳng có tội chi. Ta chắc không quá một trăm ngày nữa, quân Hán vương sẽ ra đánh Tam Tần, lấy Hàm Dương, chừng ấy các ngươi mới thấy loài khỉ đội mũ .
Hàn Tín nghe nói, bảo Hàn Sinh :
- Thôi, xin quan Gián nghị chớ nói nữa ! Ông bảo là ông chết oan , nhưng theo tôi , tôi cho là ông chết đáng lắm .
Hàn Sinh trợn mắt cải lại :
- Tại sao ngươi dám nói thế ?
Hàn Tín nói :
- Ông làm chức Gián nghị, sao lúc giết tướng Tống Nghĩa , ông không can ; lúc chôn hai mươi vạn hàng tốt , ông không can ; lúc giết Tử Anh , đào mả Thủy Hoàng , đốt cung A Phòng , ông không can ? Nay bệnh trạng đã quá trầm trọng dầu trời cũng chẳng cứu được thì ông lại nhảy vào can gián . Như thế chết là đáng lắm . Chỉ có được một điều, nếu hồn thiêng có oán hận thì nên oán hận kẻ đã tạo ra câu đồng dao kia , chớ có oán hận kẻ hành hình này .
Nói xong ném Hàn Sinh vào vạc dầu . Dân chúng đều nhắm mắt thở dài . Trương Lương đứng bên cạnh , nghe Hàn Tín nói , kinh sợ, biết không phải không phải là người thường , liền theo dõi về đến tận nhà để biết chổ ở của Hàn Tín .
Sáng hôm sau, Hàn Tín vào phục mệnh , tâu lại việc hành hình Hàn Sinh. Bá vương liền sai Quý Bố đem quân đến Bành Thành, đốc thúc công việc sửa sang cung . Các quan thấy Hàn Sinh chết , không ai dám ngăn nữa .
Hàn Tín về nhà, nằm vắt tay lên trán ngẫm nghĩ :
- Con chim làm tổ ở cây còi , chẳng bao giờ được êm ấm .
Tiếng chuông thu không vừa điểm , bóng tối nhá nhem , Trương Lương giắt thanh bảo kiếm vào mình chui qua thành đến trước nhà Hàn Tín, nói với quân giữ cửa :
- Tôi là người đồng hương với Hàn tướng quân, xin vào yết kiến.
Quân vào báo. Hàn Tín ngẫm nghĩ :
- Mình là kẻ bần tiện nơi Hoài Âm , chẳng dám chơi bời với ai, tại sao nay có người đồng hương đến viếng ?
Ðiều này thực cũng lạ.
Hàn Tín còn đang suy nghĩ thì Trương Lương đã vào đến nơi.
Trông qua ánh trăng, Hàn Tín thấy Trương Lương mặt mày tuấn tú, dáng điệu thanh cao, xem chừng hơi quen, nhưng không dám hỏi, liền mời vào trong nhà thi lễ, và nói :
- Hiền công ở chốn nào lại chơi ? Quý hiệu là chi ? Có điều gì chỉ giáo ?
Trương Lương đáp .
- Tôi là người đồng hương với tướng quân, nhưng lưu lạc giang hồ từ thuở bé, nên tướng quân không rõ đặng. Nay nhân dịp qua đây, biết được tướng quân, nên xin vào thăm viếng.
Hàn Tín hỏi .
- Chẳng hay hiền công làm nghề gì mà dạo khắp giang hồ . Hẳn có một chí hướng ?
Trương Lương đáp :
- Tôi vốn có nghề xem tướng. Tiền nhân tôi có để lại cho tôi ba thanh bảo kiếm rất quý, vì vậy bấy lâu nay tôi đi tìm bậc anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, kẽ nào đáng mặt thì dâng hiến. Hiện hai thanh bảo kiếm kia tôi đã dâng hai người xứng đáng rồi, còn một thanh này chưa gặp chủ . Nay nghe tướng quân là bậc hào kiệt, lại là kẻ đồng hương, nên mang lại đây kính biếu.
Hàn Tín thấy Trương Lương ca tụng thanh bảo kiếm liền hỏi :
- Thanh kiếm ấy có gì quý ?
Trương Lương ngâm lên một bài thơ ca tụng thanh kiếm , đại khái như sau :
Ðê ngầm dưới nước, giao long khóc
Ðem bõ trên không, quỉ mị kinh
Lưu truyền thiên cổ
Gíá trị thiên kim
Kiếm báu không đem bán
Chỉ hiến kẽ hùng anh !
Giang sơn mặc sức tung hoành
Giúp người dựng nước, lưu danh muôn đời.
Lập kế , Trương Lương dụ Hàn Tín
Ðòi ấn , Anh Bố bức Hoài Vương
Hàn Tín thấy Trương Lương tán tụng thanh kiếm mãi , và biết mình là hào kiệt, lòng hoan hỉ , vội đứng dậy nói :
- Tín tôi từ đến nước Sở, chẳng qua là một kẻ hư danh , nay Tiên sinh có lòng hạ cố đem thanh bảo kiếm đến đây, ơn ấy không sao nói hết. Vậy xin Tiên sinh cho tôi xem qua kiếm ấy.
Trương Lương rút kiếm trao cho Hàn Tín.
Kiếm vừa rút ra khỏi vỏ, hào quang chói sáng ngời.
Trên bao có đề một thơ như sau :
Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ
Non sông môt dãi chí hiên ngang.
Máu hồng men rượu say băng tuyết
Muôn dặm sơn hà một tấc gang.
Hàn Tín bình nhật rất thích kiếm, nay thấy thanh bảo kiếm này bằng lòng lắm, chỉ vì trong túi không có tiền, nên không dám hỏi giá.
Sau một lúc lăm le thanh kiếm, Hàn Tín hỏi :
- Ngài có ba thanh kiếm, thế thì hai thanh kia ngài đã bán được bao nhiêu ?
Trương Lương nói :
- Tôi đã nói với tướng quân là kiếm tôi không phải bán. Nếu gặp người xứng đáng làm chủ, xin đem dâng không mà thôi , vì nghe tướng quân là bậc hào kiệt, mới đem kiếm đến đây.
Hàn Tín nói :
- Ða tạ Tlên sinh có lòng chiếu cố. Chỉ sợ Tín tôi chưa chắc phải là hào kiệt hay không ?
Trương Lương nói :
- Nếu không phải là hào kiệt thì đến vạn nén vàng tôi cũng không thèm bán .
Hàn Tín mừng rỡ, sai gia nhân dọn tiệc rượu khoản đãi. Trong lúc nâng chén, Hàn Tín hỏi :
- Thưa Tiên sinh, ba thanh bảo kiếm đều có tên cả chứ ?
Tnrơng Lương nói :
- Dĩ nhiên . Một thanh gọi là Thiên Tử kiếm , một thanh gọi là Tể Tướng kiếm, còn thanh này gọi là Nguyên Nhung kiếm. Thanh Thiên Tử kiếm còn gọi là Bạch Hồng Từ Ðiện, nguyên của Ngô vương đúc ra treo trên vách , giống tà ma quỉ mị phải xa lánh. Tể Tướng kiếm biệt danh là Long Tuyền Thái A , thanh kiếm này của Lôi Hoán đào được .
Lôi Hoán giỏi vốn về thiên văn xem thấy có một tia sáng vọt lên sao Ngưu, sao Ðẩu, liền sai người đào nơi nền nhà sâu hơn mười trượng , được một cái hòm , mở ra thấy trong đó có thanh kiếm . Từ đó ánh hào quang không còn chiếu sáng nữa. Sau Lôi Hoá đeo kiếm lội qua sông , bỗng nhiên thấy mất . Trông xuống sông thì thấy kiếm ấy hóa thành con Giao Long đang vẩy vùng trong nước .
Nguyên Nhung kiếm có tên là Can Tương, Mạc Tà.
Nguyên vua nước Ngô là Hạp Lư đúc ra hai thanh , một thanh "Thư" và một thanh "Hùng" . Tuy là của nhân tạo, song chọn ngày giờ, ứng theo các vì tinh tú, hợp khí âm dương , rèn vào lửa hơn mười năm mới thành, cho nên quý báu lắm.
Vì sự quý báu ấy nên tôi đi bán kiếm phải dùng người tài đức mà trao.
Hàn Tín hỏi :
- Người tài đức thế nào mới dùng được kiếm báu của Tiên sinh ?
Trương Lương đáp :
- Người muốn dùng Thiên tử kiếm phải có đủ tám đức : Nhân, hiếu, thông, minh, kính , tắc, kiếm, học.
Hàn Tín hỏi tiếp :
- Còn dùng Tể Tướng kiếm phải có những đức nào ?
Trương Lương đáp :
- Cũng phải có đủ tám đức mới đeo được.
Thế nào là tám đức tể tướng ?
- Ðó là : Trung, chính, minh, biện, thứ, dong, khoan, hậu .
Hàn Tín hỏi :
- Còn như kiếm Nguyên Nhung cần phải có những đức gì ?
Trương Lương đáp :
- Cũng phải đủ tám đức : Liêm , quả, trí, tín , nhân, dũng , n ghiêm, minh.
Hàn Tín lại hỏi :
- Tiên sinh đi bán kiếm mà hiểu thấu lẽ trời, quả là bậc anh tài. Song hai thanh kiếm kia Tiên sinh đã bán cho ai ?
Trương Lương nói :
- Thanh Thiên Tử kiếm thì tôi đã bán cho ông Lưu Bang, người Phong Bái.
Hàn Tín kinh ngạc, hỏi :
- Tiên sinh xem tướng Lưu Bang như thế nào mà bán Thiên Tử kiếm ?
Trương Lương thản nhiên đáp :
- Ông ấy là người khoan nhân đại độ, biết trọng dụng lương thần, biết nghe lời trung gián, không tham tài , không hiếu sắc, không bội nghĩa, không vong ân, thật là một người có đức, đáng làm Thiên tử . Trước đây, người ấy vì dân, chém bạch xà khởi nghĩa nơi núi Mang Ðãng, trừ nhà Tần tàn bạo, khiến thiên hạ mến phục. Ngay khi đó tôi đã hiến thanh kiếm cho ông ấy.
Hàn Tín hỏi :
- Còn thanh Tể tướng ngài đã trao cho ai ?
- Tôi đã trao cho ông Tiêu Hà.
Hàn Tín ngạc nhiên hỏi :
- Người ấy có tài gì vậy ?
Trương Lương gật gù nói :
- Thế , Tướng quân cũng chưa biết cả ông Tiêu Hà nữa ư ? Ông ta là người có tài thao lược, gồm đủ kinh luân, lại đầy đức khoan hồng , nhân nhượng , không lấy vũ lực làm trọng, chỉ lấy nhân nhu làm gốc, xem lúc ông ta theo Bái Công vào Hàm Dương , đem ba điều ước pháp truyền trong nhân dân, thì thật là tài Tể Tướng đă biểu lộ ra đó . Tôi dâng kiếm cho Tiêu Hà từ lúc ấy .
Hàn Tín nghe xong, mừng rỡ nóì :
- Tiên sinh bán kiếm cho Hán vương và Tiêu Hà thật xứng đáng. Nay thanh kiếm này Tiên sinh đem đến cho Tiểu tử, chỉ sợ rằng Tiểu tử không đủ tài đức Nguyên Nhung, phụ với lòng tin của Tiên sinh chăng ?
Trương Lương nói :
- Cứ như tài đức và cái học vấn của tướng quân dấu Tôn Ngô đời xưa cũng không hơn được. Chỉ vì chưa gặp được minh quân. Tỷ như con Thiên lý mã ngày xưa, lúc chưa gặp được Bá Nhạc thì Thiên lý mã phải nhốt chung vào chuồng trâu, chịu nhục với đứa ăn, đứa ở. Khi Bá Nhạc biết được, đem về nuôi dưỡng, Thiên lý mã vó câu dong ruổi, nghìn dặm một giờ, ai nấy đều khen ngợi. Ấy vậy, Tướng quân bây giờ chẳng khác con Thiên lý mã chưa gặp Bá Nhạc. Nếu tướng quân gặp đặng minh quân, tài đức ấy sẽ làm khuynh thành, nghiêng quốc có khó chi.
Hàn Tín nghe Trương Lương động đến hào khí, bất giác thở dài, đứng dậy nói :
- Ða tạ Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh như soi vào buồng gan của kẻ thất thời này, khiến Tín tôi không thể cầm lòng được. Ðã lâu, tôi không thi thố được tài năng nào, mang danh là người tiểu tốt, mấy lần dâng biểu lên Bá vương, nhưng Bá vương không dùng. Nay Bá vương lại thiên đô về Bành Thành thì việc đời còn trông mong gì nữa ? Chẳng bao lâu Tín tôi cũng trở về cố hương , tiêu dao ngày tháng cho nhàn thân.
Trương Lương nói :
- Ấy chết ? Tướng quân nghĩ lầm rồi ! Ðấng anh hùng nuôi chí, thua cuộc này bày cuộc khác, cớ sao lại tủi phận hờn duyên ? Lấy cái học của tướng quân trong thiên hạ, thì thiếu gì nơi cá nước duyên ưa , có lẽ nào quay về làm một gã câu cá nơi xứ Hoài Âm nữa ?
Hàn Tín nói :
- Thưa Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh chẳng khác nào liều thuốc chữa cho người ốm ! Tiên sinh lại đây cốt không phải bán gươm, mà e ý riêng gì đây. Thoạt trông dưới ánh trăng mờ, tôi đã hiểu, nhưng chưa dám nói. Tiên sinh có phải là Trương Tử Phòng, đang khuông phò Hán vương chăng ?
Trương Lương vội vàng đứng dậy thủ lễ, và đáp :
- Tướng quân đã biết , Lương này đâu dám giấu .
Lâu nay nghe danh tướng quân, đem lòng ngưỡng vọng, nay mới hân hạnh được yết kiến !
Hàn Tín mừng rỡ, nắm tay Trương Lương nói :
- Thế thì trời xui Tiên sinh đến đây để giúp Tín tôi tìm nơi vin rồng cưỡi phụng, xin Tiên sinh vì Tín tôi chỉ bảo cho .
Trương Lương nói :
- Tôi xem các vua chư hầu, không ai bằng Hán vương, người ấy là bậc siêu nhân, có thế làm nên đại sự.
Nếu tướng quân muốn về Hán, tôi xin đưa cho một vật làm tin, vật này còn quý hơn viên ngọc Biện Hòa, và lạ hơn chén Ngọc đẩu nữa.
Hàn Tín hoan hỉ, tuân lời. Trương Lương thò vào túi rút ra bức thư đã viết sẵn, nói :
- Thư này, lúc đưa cho Hán vương vào Bao Trung, tôi có hứa sẽ đi cầu giúp người về làm Phá Sở Ðại nguyên soái lấy cái giốc thư này làm bằng. Nếu ai cầm giốc thư này đến tất được trọng dụng ngay. Xin tướng quân cẩn thận chớ để thất lạc.
Hàn Tín tiếp lấy, và nói :
- Cám ơn Tiên sinh tiến cử. Song Sạn đạo đã bị đốt, còn lối nào vào Bao Trung được nữa ?
Trương Lương lại móc túi lấy ra bức họa đồ, giao cho Hàn Tín, và nói :
- Họa đồ này chỉ rõ đường ngang lối tắt, khe núi, chân đeo. Không cần đến Sạn đạo, muốn vào Bao Trung thì theo con đường nhỏ này đến ngã ba, rẽ vầo Trần Thươg qua chân núi Cô Vân, vòng sang núi Kê Ðầu rồi cứ băng theo lối ấy đi độ hai trăm dặm nữa là tới nơi. Sau này tướng quân kéo binh ra bình định Tam Tần tất cũng phải dùng nẻo ấy . Con đường này bí mật lắm , ngay người Hán Trung cũng không ai biết . Thôi, tôi xin giã biệt tướng quân .
Hàn Tín ngạc nhiên hỏi :
- Tiên sinh định đâu ? Không trở lo việc nước sao ?
Trương Lương nói :
- Tôi còn đi dò xét tình hình xem nếu Bá vương dời đô về Bành Thành thì nhiệm vụ tôi còn phải đi du thuyết các chư hầu, khuyên họ bỏ Sở, phò Hán. Hễ chặt bớt được vây cánh của Sở, thì sau này tướng quân phá Sở mới dễ dàng .
Hàn Tín quyến luyến nói :
- Vậy thì mời Tiên sinh ở nán lại đây chơi với Tiểu tử ít hôm để xem cơ sự thế nào. Nay mai Tiểu tử cũng xin cử bộ .
Nhắc lại, Phạm Tăng từ lúc đến Bành Thành, vào yết kiến vua Nghĩa Ðế, và bắt buộc phải thiên đô.
Vua Nghĩa Ðế nói :
- Xưa nay vua ra lệnh cho bề tôi, có lẽ nào bề tôi lại bắt buộc vua. Ta lấy điều nghĩa, chiêu dụ chư hầu, bốn bề ngưỡng vọng , do đó, họ Hạng mới ìập được công lớn. Trước khi vào Hàm Dương, ta có lời ước :
- Ai vào Quan Trung trước thì làm vua . Thế mà Hạng Vũ bội ước xưng vương, tự tiện phong chức cho chưa hầu. Ðó là hành động khi quân, dẫm chân lên vết xe nhà Tần đã gãy đổ, cớ sao không biết thẹn ?
Phạm Tăng tâu :
- Tâu Bệ hạ, thần khổ tâm can gián, nhưng Hạng vương nhất định không nghe. Nay lại sai Quý Bá đến Bành Thành kiến đô, thần vì mệnh chủ không thể không tuân.
Nghĩa Ðế nói :
- Ngươi là quân sư của Hạng Vũ, Hạng Vũ làm sai, lẽ ra phải liều chết can ngăn, sao lại phải tòng mệnh ?
Ngươi chí là đứa tiểu nhân, dua nịnh , không phải là kẻ đại thần lấy đạo thờ vua.
Phạm Tăng hổ thẹn, không dám nói nữa, bái lạy lui ra , rồi viết thư về báo cho Bá vương biết.
Bá vương tiếp được thư, nổi giận, hét :
- Hoài vương chẳng qua là đứa chăn dê, cắt cỏ nơi thôn dã, được ta đem về lập lên làm vua, tôn làm Nghĩa Ðế . Nay đã không biết ơn ta lại còn lên mạt vênh váo, ta phải trừ đi mới được.
Bèn đòi Cửu giang vương là Anh Bố, Hoành sơn vương là Ngô Nhuế, Lâm giang vương là Cung Ngao đến nói :
- Các ngươi đem mấy chiến thuyền vào sông Ðại Giang mai phục, cho người đến bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô. Rồi đợi khi thuyền đến giữa sông, các ngươi giả cách làm nghiêng thuyền, nhận vua Nghĩa Ðế xuống sông và giết quách đi. Nếu có ai hỏi các ngươi nói : "Vua đi đến giữa sông gặp cơn phong ba chìm thuyền chết đuối".
Ba người lãnh mệnh, thu xếp ra đi. Bá vương viết một phong thư dâng vua Nghĩa Ðế .
Thư như sau :
" Sở Bá vương Hạng Vũ cúi đầu dâng biểu : Tôi, trước phụng mệnh vào đánh nhà Tần, đến Hàm Dưong . Tử Anh chịu trói, giao cả sơn hà xã tắc. Chiến thắng của tôi đã đưa Bệ hạ lên địa vị Nghĩa Ðế, làm chủ thiên hạ . Nay nhận thấy đất Bành Thành chật hẹp, không phải chổ Ðế đô, còn Mân Châu (thuộc tỉnh Hồ Nam) bên tả có hồ Ðộng Ðình , bên hữu có hồ Bành Lãi, non xanh nước biếc, đáng làm chỗ để cho chư hầu tập trung đến chầu , vì vậy muốn thiên đô về đấy. Chẳng ngờ Bệ hạ lại nghe lời tiểu nhân không chìu theo ý . Thiết tưởng cơ nghiệp của Bệ hạ nhờ ai mà có , sao bệ hạ không nghĩ . Tiếp được biểu này xin Bệ hạ ngự giá đi ngay, chớ nên chậm trễ " .
Vua Hoài vương xem biểu xong, nói với bá quan :
- Hạng Vũ không giữ ước tất lòng đã phản phúc, không kể tôi thần gì nữa. Nay viết biểu gởi lên,! dùng lời bức bách nếu ta không liệu trước ắt mang tai vạ. Chi bằng chiều ý thiên đô cho xong.
Liền hạ lệnh cho bá quan chọn ngày khởi giá . Xa giá lên đường, dân chúng Bành Thành lũ lượt kéo đến bày hương án lạy đưa, tỏ lòng quyến luyến.
Vua Nghĩa Ðế thấy lòng dân như vậy cũng sa nước mắt, thở dài.
Một hôm, xa giá đến bờ sông, thuyền rồng đã sắp sẳn, vua bỏ đường bộ qua đường thủy, vưa đi đến giữa sông , bỗng có một con bạch ngư rất lớn, cản lại, sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền không vượt lên được thủy thủ phải neo thuyền. Ðược một lúc, gió càng mạnh, thổi đứt phăng dây neo, thuyền dạt vào bãi.
Ðêm ấy, vua vừa chợp mắt, thấy năm sắc tường vân sa xuống măt nước, hương thơm ngào ngạt, tiếng nhạc vang rền, có hai vị Kim Ðồng, Ngọc Nữ từ trên không sa xuống, bước vào thuyền quỳ tâu :
- Chúng tôi vâng mệnh Ngọc Hoàng xuống rước Bệ hạ về Long cung tức vị. Hiện giờ bá quan đang chờ sẵn.
Hoài vương ngạc nhiên đáp :
- Không. Hôm nay trẫm thiên đô sang Mân Châu mà .
Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu :
Tâu Bệ hạ , vua Long cung phụng sắc mệnh Thượng đế , sửa sang cung điện, chờ đợi xe loan, xin Bệ hạ đi ngay cho .
Vua đáp :
- Long cung của Thủy Tề đâu phải côi trần gian ? Ta làm sao ngự trị được ?
Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu :
Thượng Ðế thương Bệ hạ là người có đức, lẽ ra cho làm Chúa trần gian, song vì hồng phúc của ông Xích Ðế lớn lắm, nên bắt Bệ hạ phải nhường ngôi ấy, xuống Long Cung giữ việc thủy phủ.
Hoài vương toan bước theo hai vị Thiên sứ, sực thấy nước lẫn với trời sóng gió ầm ầm, quang cảnh hỗn loạn , sợ hãi, giật mình thức dậy mới biết chiêm bao, liền gọi các quan hầu đến đoán mộng.
Có viên cận thần tâu :
- Ðã gặp cá đón đường, gió bạt thuyền trôi, bây giờ Bệ hạ lại chiêm bao như thế này thì không phải là điềm tốt .
Ngày mai xin Bệ hạ hồi loan rồi sẽ thương nghị.
Hoài vương nói :
- Xa giá đã khởi hành, đại tín đă truyền bá mà còn trở lại sao được ! Vả lại số trời đã định, không thể tránh !
Hôm sau, Hoài vương thức dậy truyền tiến hành.
Long thuyền đến giữa dòng thấy ba chiếc thuyền của Anh Bố, Ngô Nhuế, Cung Ngao vùn vụt kéo đến, chiêng trống vang trời. Anh Bố đứng trước mũi thuyền nói lớn :
- Chúng tôi phụng mệnh Hạng vương đến đây nghênh giá. Bệ hạ có đồ kim phù, ngọc sách xin để lại đây .
Hoài vương nổi giận mắng :
- Ðồ bất nghĩa ! Bây lại hùa theo Hạng Vũ làm phản à ?
Bọn Anh Bố cầm gươm nhảy qua Long thuyền, chém chết vài thủy thủ. Người trong thuyền khiếp vía .
Hoài vương cả tiếng mắng :
- Thằng giặc Hạng Vũ kia. Mày bất nghĩa như thế còn trời nào dung tha mày.
Nói xong, trầm mình xuống Tràng giang tự vận.
Bao nhiêu người nấp sau thuyền đều bị bọn Anh Bố giết hết.
Sau Hồ Tăng có thơ rằng :
Ngọn cờ lơ láo glữa Tràng giang
Nước mất, thân chìm cảnh thảm thương
Chín suối khôn tan màu lửa hận
Vầng trăng lả tả ánh thê lương
Giết xong Hoài vương, bọn Anh Bố quay thuyền trở lại thấy nơi bờ sông dân chúng kéo đến đông như kiến, trỏ vào mặt mắng :
- Thằng Anh Bố kia ? Mày nghe lời Hạng Vũ giết vua của thiên hạ, còn trời nào dung tha mày ? Chúng ta vì vua Nghĩa Ðế nhất định báo thù.
Anh Bố tức giận truyền quân áp thuyền vào bờ, nhưng gặp gió ngược, nên thuyền đi chậm. Khi đến nơi dân chúng đã di tản hết rồi .
Tìm chân chúa, anh hùng cất bước
Giết tiều phu, tráng sĩ đau lòng
Trong số dân chúng ấy, có một ông lão tuổi ngoài tám mươi, tóc bạc da mồi, nhưng còn có vẻ quắc thước lắm. ông lão ấy tên Ðổng Công, học rộng, chuộng đạo đức, cả vùng ai cũng kính mến.
Ðổng Công bàn với dân chúng :
- Chúng ta chờ bọn Anh Bố đi rồi, tìm lấy xác vua làm lễ mai táng, rồi kéo sang Lạc Dương rước Hán vương về làm chủ để trả thù cho Chúa thượng.
Dân chúng đồng thanh hưởng ứng, và nói :
- Chúng tội xin theo lời lão công.
Nói xong, tụ họp hơn vài mươi chiếc thuyền, nhắm dòng hạ lưu tìm vớt xác của Hoài vơng đem lên, lập đàn ma chay cúng tế, mà mai táng Hoài vương nơi Mân Châu.
Giữa lúc đó, bọn Anh Bố đã trở về Bành Thành, gặp Phạm Tăng thuật lại đầu đuôi.
Phạm Tăng thở dài, nói :
- Thôi thế thì còn ra gì nữa ! Vua Nghĩa Ðế do tôi và Vũ Tín Quân lập lên để trấn an nhân tâm, nay giết đi mang tiếng trong thiên hạ, nếu còn dời đô về Bành Thành nữa sao khỏi thiên hạ chê cười. Chúng ta phải trở về Hàm Dương can ngăn việc thiên đô mới xong.
Quý Bá nói :
- Khi trước Hàn Sinh can gián, bị Bá vương giận bỏ vào vạc dầu, bây giờ ai còn dám ngăn cản nữa ?
Phạm Tăng nói :
- Không liều chết ngăn cản thì rồi đây chúng ta sẽ bị chết cả bọn.
Nói xong, lưu Quý Bá ở lại Bành Thành, còn bao nhiêu thảy đều về Hàm Dương, vào yết kiến Bá vương.
Bá vượng đang thu xếp hành trang, thôi thúc bá quan hạn trong bốn hôm nữa sẽ đăng trình, xảy được tin Phạm Tăng và Anh Bố trở về tâu việc giết vua Nghĩa Ðế .
Bá vương thích chí nói :
- Thế là ta đã trừ được cái bệnh trong gan phổi rồi.
Phạm Tăng tâu :
- Bệnh gan phổi của Bệ hạ không phải ở vua Nghĩa Ðế mà là ở Hán vương. Bệ hạ trừ được Hán vương mới gọi là chữa được bệnh. Ngày nay Bệ hạ dời đô về Bành Thành ngày mai Hán vương dời đô ra Hàm Dương đó.
Bá vương lắc đầu nói :
- Quân sư chớ lo. Ðường Sạn đạo đã đốt rồi, quân Tam Tần ráo riết phòng bị, dẫu Hán vương có cánh cũng không thoát ra khỏi đất Ba Thục được.
Phạm Tăng tâu :
- Nếu Bệ hạ dời đô về Bành Thành tất Tam Tần trễ biếng, Hán vương thừa cơ hội ấy tấn binh. Ðường Sạn đạo đã đốt nhưng lòng người đã quyết, việc sửa chữa chẳng mấy chốc.
Bá vương tỏ vẻ bất bình nói :
- Hiệu lệnh đã ban, văn vũ đã chuẩn bị chỉnh tề, không thể sửa đổi được nữa. Quân sư chớ nói nhiều lời.
Phạm Tăng thấy Bá vương không nghe lời mình, hổ thẹn bước ra buồn bã sắp sửa hành trang để cùng các quan theo hộ giá.
Nhắc lại Hàn Tín từ khi tiễn chân Trương Lương đi rồi lòng hồi hộp, mấy đêm không ngủ được, lo chuẩn bị hành trang lên đường.
Trước khi ra đi, Hàm Tín ghé nhà Trần Bình thăm viếng.
Trần Bình thảy Hàn Tín đến, mừng rỡ đón chào và hỏi :
- Chấp kích lang sang chơi chắc có chuyện lạ ! Hay là cá sắp hóa rồng, rồng toan vượt bể ?
Hàn Tín biết Trần Bình không ưa gì Bá vơng, tìm lời nói thử :
- Bá vương dời đô về Bành Thành tất Hán vương thôn tính Tam Tần. Ðất Hàm Dương nầy e không giữ được . Ðô úy nghĩ sao ?
Trần Bình đáp :
- Bá vương lấy uy vũ hàm gốc, nấu Hàn Sinh, giết Nghĩa Ðế, lại thiên đô về Bành Thành, tôi tưởng cơ nghiệp không thể nào yên được. Trong chư hầu, chỉ có Hán vương là người đại lượng, có thể mưu đồ việc lớn.
Chấp kích lang ở đây không ra gì, sao không tìm nơi khác tiến thân, tội gì sống trong khổ cực ?
Hàn Tín đưa mắt nhìn quanh rồi nói nhỏ :
- Tôi có ý đó đã lâu, không dám giấu Ðô úy, ngặt vì quan san cách trở, đồn ải canh phòng rất nghiêm, không có giấy thông hành không thể nào đi lọt.
Trần Bình thở dài nói :
- Việc ấy không khó . Trong dinh tôi có văn thư ấn tín tôi sẽ cấp cho một đạo thông hành, có thể tự do đi lại. Nếu đồn ải nào hỏi thì cứ nói rằng : "Bá vương sai vào Bao Trung thám thính".
Hàn Tín đứng dậy nói :
- Ða tạ Ðô úy. Ngài cho Tín tôi mảnh giấy nầy thực quý hơn ngàn vàng. Nếu Tín tôi gặp thời, đạt danh vọng, nguyện không quên ơn tri ngộ.
Trần Bình nói :
- Ngài cứ an tâm, lập chí. Sau nầy tôi cũng phải tìm chỗ dung thân, chừng ấy ngài ra ơn tiến cử tôi thì còn gì quý hơn.
Hàn Tín lãnh giấy thông hành, từ giã về dinh. Tối hôm ấy dặn bọn gia nhân :
- Ta bận việc đi thăm người bạn, chúng bây ở nhà phải canh phòng cẩn mật. Nói xong, lên ngựa ra đi. Vó câu khấp khểnh vầng trăng chênh chếch mái đầu. Anh hùng yên ngựa đâu quản gió sương, bóng Hàm Dương khuất dần sau những rặng núi đen sì, giữa những màn sương lạnh.
Hàn Tín ra đi đã hai hôm thế mà tuyệt nhiên không ai hay biết.
Bọn gia nhân thấy Hàn Tín không về, bàn với nhau :
- Quan Chấp kích lang đi đâu không về, chúng ta phái vào báo cho quân sư kẻo mang vạ.
Chúng kéo đến dinh Phạm Tăng, bẩm :
- Chúng con là gia nhân ở dinh quan Chấp kích lang. Cách đây vài hôm có người khách lạ đến chơi, cùng với quan Chấp kích lang đàm đạo, cách đó mấy hôm, quan Chấp kích lang lại đi biệt không về. Vì vậy, chúng con đến đây cấp báo.
Phạm Tăng thất kinh, dậm chân, thở dài than :
- Thôi ! Cọp đã vào rừng rồi ! Ta còn mong gì mưu việc thiên hạ. Trước đây ta đã tâu xin Bá vương một là dùng, hai là giết, thế mà Bá vương không nghe, nay còn hối sao kịp.
Nói xong, vội vã vào triều, tâu với Bá vương :
- Hàn Tín trốn rồi, bệ hạ phải cho người đuổi theo bắt lại, nếu không, nghiệp cả khó bền.
Bá vương giận dữ, vỗ án hét :
- Ðứa thất phu ấy lại dám bỏ ta mà đi ư ?
Phạm Tăng nói :
- Hàn Tín là kẻ kiến thức, có thể giúp Bệ hạ làm nên đại sự, thế mà Bệ hạ đã không dùng, còn để cho hắn trốn, thất là bất lợi.
Bá vương nói :
- Nó không có thông hành thì làm thế nào ra khỏi Quan Trung được ?
Liền gọi Chung Ly Muội đến bảo :
- Ngươi dẫn hai trăm quân khinh kỵ , đuổi theo bắt Hàn Tín về đây, bầm thây làm gương cho kẻ khác.
Chung Ly Muội lĩnh lệnh dẫn quân đến cửa quan An Bình thì được tin Hàn Tín đã qua khỏi cửa quan hai hôm rồi.
Chung Ly Muội trách cứ quan Tổng Trấn. Quan Tổng trấn nói :
Hàn Tín hiện có văn thư , ấn tín rõ ràng, nói là Bá vương sai đi hội Tam Tần bàn việc khẩn cấp. Tôi làm sao dám ngăn cản ?
Chung ly Muội nói :
- Bây giờ quan Tổng trấn liệu có cách gì bắt Hàn Tín lại chăng ?
Quan Tổng trấn lắc đầu, đáp :
- Tướng quân khó mà theo kịp. Bây giờ chỉ có cách phi báo cho Tam Tần mang quân truy mã, may ra mới bắt được
Chung Ly Muội nghe lời, phi hịch cho Tam Tần, khiến truy nã rất gấp, rồi trở về Hàm Dương tâu lại với Bá vương.
Bá vương , nói :
- Ðứa thất phu ấy, dẫu có đi đâu lại làm nên trò trống gì mà ta phải bận tâm .
Tức truyền lệnh cho bá quan văn võ sắp sửa xe ngựa thiên đô đến Bành Thành. Chỉ để Tnmg Công ở lại giữ Hàm Dương mà thôi.
Nhắc lại Hàn Tín từ khi thoát ra khỏi cửa An Bình, thẳng tới Tản Quan, đến một ngã ba kia đường chật hẹp, ngoằn ngoèo, liền giở bản đồ ra xem, tìm lối tắt vào Bao Tnmg.
Bỗng có một viên tiểu tướng tay cầm hỏa bài, xông ngựa tới hỏi :
- Người kia ! Ði đâu ? Có giấy thông hành chăng ?
Hàn Tín xem qua, biết là người của Tam Tần, sai đi lùng bắt mình, liền giả cách nói :
- Tôi họ Lý, hiện có việc sang Bao trung, giấy thông hành có ghi rõ.
Nói xong, rút giấy thông hành trao cho viên tiểu tướng.
Viên tiểu tướng khúm núm giở ra xem, Hàn Tín thừa cơ rút thanh bảo kiếm đeo trong lưng, chém phăng một nhát, tiểu tướng rơi đầu.
Hàn Tín vội vã. buồng cương thượng lộ: Ði chưa bao xa, lại có bốn tráng sĩ đuổi theo bắt. Hàn Tín cũng theo cách ấy, cho mỗi người một nhát gươm đưa hồn về địa phủ. Ðoạn, quay ngựa nhắm hướng Tây mà chạy. Chay được một lúc Hàn Tín nghĩ thầm :
- Ta vừa giết mấy tên hỏa bài của Tam Tần, nếu cứ đường này thẳng tiến, e họ đuổi theo bắt gặp.
Liền rẽ cương sang một con đường hẻm về hướng Tây Nam.
Con đường này chung quanh núi rừng mù mịt, suối reo, đá dựng, không làm sao cưỡi ngựa được, con đường bị nghẽn, không còn lối nào sang đò Trần Thương được Hàn Tín buồn bã, lơ láo đứng nhìn bốn mặt, đâu đâu cũng rừng núi chập chùng.
Tình cờ gặp một tên phu, đang kẽo kẹt trên vai một gánh củi nặng, mò mẫm qua triền núi. Hàn Tín mừng rỡ, hỏi vội :
- Thưa lão trượng làm ơn chỉ dúm cho tiểu tử đường ra Trần Thương.
Lão tiều nghe hỏi, để gánh củi xuống, chỉ tay về phía trước, nói :
- Cứ dắt ngựa băng rừng đi tới sang rặng núi đá bên kia đến rừng Tiểu Tùng. Ði hết rừng ấy là đến khe Loan Thạch, trên khe có cầu đá, đi khỏi cầu đá thì có núi Nga Mi, phải trèo qua núi ấy mới có lối đi, nhưng phải khó khăn lắm. Ði một quãng nữa đến núi Thái Bạch, dưới chân núi có hàng cơm phải trọ lại đấy dùng cơm tối, sáng sớm mới lên đường. Hỏi lối sang núi Cô Vân đến núi Lưỡng Cước, sang đò Bắc Thủy, tới bến Hàng Khê. Ðấy là địa phận Nam Chính rồi. Nhưng nhớ phải đi đến nơi trọ trước trời tối, vì vùng núi ấy có con mãng xà rất nguy hiểm, ông phải cẩn thận lắm mới tránh được tai nạn.
Hàn Tín giở bản đồ ra xem, thấy không sai một nét nào cả. Hàn Tín cảm ơn lão tiều lên đường cất bước, giữa lúc ấy lão tiều cũng ì ạch gánh củi tên vai, xuống núi.
Hàn Tín vừa đi vừa nghĩ :
- Nếu Chương Hàm cho người truy nã, theo chân mình đến ngã ba gặp lão tiều này, và lão tiều lại chỉ đường như vậy thì mạng ta khó thoát. Vả chăng, mấy hôm nay ta lặn suối, trèo non người mỏi.ngựa mệt, vô phúc mà gặp truy binh, đành phải bó tay chịu chết, chứ chống cự sao nổi ! Thôi, thà ta chịu tiếng vong ân giết lão tiều phu này đi, để tuyệt lộ truy binh.
Nghĩ rồi liền quay ngựa lại gọi :
- Hời lão tiều, xin lão dừng chân cho tôi hỏi thêm điều này nữa.
Tiều phu nghe gọi, quay gánh lại. Hàn Tín bước đến chém một gươm đứt làm đôi, rồi mang xác đem vùi nơi sườn núi.
Nhìn nấm mồ oan, Hàn Tín rơi lệ, than :
- Lão tiều hỡi ! Tín không phải là phường bất nhân, bạc nghĩa, chỉ vì sợ lỡ việc lớn, đành Phải hy sinh mạng lão . Mai sau Tín này được thành thân, xin đến đây làm lễ hộ tang, lập đền thờ cúng. Hồn lão có linh thiêng xin phò hộ bước bôn đào của Tín này.
Xác tiều phu đã vùi kín, Hàn Tín lên nglra, gạt lệ bôn hành.
Người sau có thơ rằng :
Kiếm báu trao tay chửa giết thù
Giết người.ân nghĩa : lão tiều phu
Hàn quân vì muốn mưu thiên hạ
Sao nỡ đem ân đáp nghĩa thù
Hàn Tín theo lời dặn của lão tiều, băng qua núi đá, sang rừng Tiểu tùng, đến khe Loan Thạch, và vất vả mấy ngày mới tới núi Thái Bạch. Dưới núi có hàng cơm, Hàn Tín xuống ngựa bước vào, gọi chủ quán đem rượu thịt ra ăn.
Rượu nồng hơi ấm, rừng núi u buồn, xa xa lơ thơ vài vầng mấy bạc lồng bóng xuống khe sâu, bơ vơ như bước chân dũng sĩ chưa định hướng, Hàn Tín thở dài, chợt nghĩ đến cái chết của tiều phu vừa rồi, bất giác ngâm một bài thơ, rồi sẵn dịp mượn bút mực để lên vách đá. Thơ rằng :
Dần bước đỉnh non cao
Gặp ghềnh theo lối nhỏ
Mây nghiêng mái trời xanh
Suối tuôn ghềnh sỏi đỏ
Ngoắt ngoéo đến muôn trùng
Gớm thay ! Thật hiểm trở !
Rừng thẳm càng đi sâu
Càng đến nơi tuyệt lộ !
Trời xui gặp lão tiều
Chỉ đường đi rất rõ
Ân đức biết chừng nào ?
Nghìn vàng chưa báo bổ !
Ta vì lòng lo riêng
Sợ quân theo truy nã
Sức yếu và thế cô
Vào lưới không thể gỡ !
Cắn răng rút gươm thiêng
Giết Tiều, vùi xuống hố!
Hỡi ơi Lão tiều phu
Linh thiêng xin phù hộ
Ta há bạc tình chi
Chỉ lo, về hậu lộ
Lão sống chỉ vào rừng
Suốt đời thêm cực khổ !
Ta sống để mai này
Ðem thân đi diệt Sở
Sở diệt, thiên hạ yên
Muôn dân khỏi thống khổ
Ấy vậy kẻ vong tình
Xin lão chớ oán nộ !
Mai sau được thành công
Quyệt lòng đền báo bổ
Con lão ta xin nuôi
Phú quý chung hưởng thọ
Vành trăng lả lướt soi
Chập chùng mây mờ tỏ
Hồn lão đến đây chăng ?
Chứng minh lòng ta đó !
Hàn Tín đề thơ xong, ngồi gật gù đánh chén, ngâm đi ngâm lại bài thơ mãi không thôi. Thình linh, bên ngoài có một tráng sĩ, vung kiếm xông vào, xem qua bài thơ một lượt rồi quay lại hỏi Hàn Tín.
- Anh này muốn chết sao ? Ðã bỏ Sở bôn đào vào đây thế mà còn dám giết người dọc đường, đề thơ lên vách ! Nếu tôi bắt anh đem nạp cho Bá vương thì anh liệu làm sao ?
Hàn Tín thất kinh, đẩy ly rượu sang một bên, đứng dậy nói :
- Nếu tôi không lầm, tráng sĩ là người Bao Trung, làm dân nước Hán, cớ sao lại có ý ấy ?
Tráng sĩ cười lớn, kéo Hàn Tín ngồi xuống ghế, nói :
- Tôi nói đùa đấy, xin Tướng quân hỷ xả cho. Tôi vốn họ Tân tên Kỳ, người Phú Phong, mấy năm nay vì lánh nạn nhà Tần nên theo cha tôi là Tân Kim, đến đây mở hàng cơm độ nhật. Từ thuở bé, tánh ưa cung kiếm, nên mải ham mê săn bắn, chưa nghĩ đến việc tiến thân, lập nghiệp. Ðêm vừa rồi, tôi nằm chiêm bao, thấy một con hổ từ đỉnh núi cao nơi phương Ðông chạy đến, nằm trên đám cỏ. Với giấc mộng ấy, tôi đoán chắc hôm nay thế nào cũng gặp được quý nhân. Vì vậy suốt ngày tôi ở nhà chờ tiếp đón.
Hàn Tín nghe nói mừng rỡ đứng dậy cầm tay Tân Kỳ, cùng ngồi chung bàn đấu chén. .
Rượu ngà ngà say, Hàn Tín nói :
- Tôi xem tráng sĩ không phải là kẻ giá áo, túi cơm. Nay thiên hạ đang loạn lạc, Hán vương chiêu hiền đãi sĩ, sao tráng sĩ không bái yết, đoạt ấn phong hầu, để thỏa lòng hào kiệt ?
Tân Kỳ nói :
- Tôi có ý ấy đã ìâu, song nghĩ rằng Hán vương muốn thâu thiên hạ tất phải đem quân dẹp Tam Tần. Mà dẹp Tam Tần không có con đường nào khác hơn là đường ra núi Thái Bạch này. Vậy xin Tướng quân vào trước, lúc nào Tướng quân đem binh ra đây tôi sẽ vin tháp tùng vậy.
Hàn Tín ngạc nhiên hỏi .
- Ðường ra Tam Tần không còn đường nào khác hơn sao ?
Tân Kỳ nói :
- Xưa nay chỉ theo đường Sạn đạo. Bây giờ Sạn đạo đã bị đốt rồi, người Sở cũng như người Tần, không ai biết con đường này cả. Nếu quân Hán theo con đường này kéo ra, xuất kỳ bất ý đánh một trận, tất Tam Tần phải mất.
Hàn Tín nói :
- Tráng sĩ quả là kẻ kiến thức. Nhưng, xin chớ lộ việc này với ai. Lúc tôi đem binh diệt Tần sẽ nhờ tráng sĩ làm hướng đạo .
Tân Kỳ mời Hàn Tin vào nhà trong, gọi mẹ và vợ ra giới thiệu. Cả nhà vui vẻ.
Hàn Tín và Tân Kỳ kết, làm anh em. Ðêm ấy cả hai ngủ chung giường, và mờ sáng, Hàn Tín giã biệt.
Tân Kỳ nói :
- Phía trước là núi Cô Vân, núi Lưỡng Cước, đường sá hiểm trở, lại có con mãng xà rất lớn. Khách đi đường không khéo sẽ nguy đến tính mệnh. Vậy tôi xin đưa Tướng quân đến bến Hàn Khê rồi sẽ trở về.
Hàn Tín từ chối, nói :
- Thôi xin cám ơn hiền đệ, làm như thế quá phiền phức.
Tân Kỳ nhất định không nghe, gọi gia nhân đến dặn :
- Chúng bây ở nhà trông nom quán hàng, khoản đãi khách khứa. Ta đi tiễn Hàn tướng quân vài hôm sẽ về.
Dứt lời, cầm một ngọn giáo, đeo một túi cung, theo Hàn Tín ra đi.
Không có gì vui vẻ hơn khi đường xa được người tri ngộ . Hai người trao đổi tâm tình, quên cả đường xa mệt nhọc Chẳng bao lâu đã đến bến Hàn Khê.
Tân Kỳ chỉ tay ra phía trước nói :
- Ở đây chỉ còn cách Bao Trung chừng vài dặm. Vậy tiểu đệ xin trở bước.
Hàn Tín bùi ngùi cầm tay nói :
- Chúng ta hẹn ngày tái ngộ, và ngày ấy sẽ là ngày thanh gươm yên ngựa, đem sức tài thị thố giữa ba quân.
Xưa nay, những cảnh tương biệt bao giờ cũng đeo sầu, và có bịn rịn đến đâu cũng phải đến phút giây dứt bỏ.
Hàn Tín lên ngựa ra roi, vó câu khấp khểnh. Tân Kỳ đứng nhìn theo một lúc, rồi quay lại đường cũ trở về chân núi
Thái Bạch.