"Chúng tôi ra khỏi tòa lâu đài khi mặt trời chưa lặn hẳn. Tôi đã nhất định đến tòa sư tử trắng sáng hôm sau, và bất kể trời tối, tôi sẽ vượt qua khu rừng đã cản bước tôi trong chuyến đi trước. Kế hoạch của tôi là cố đi thật xa trong đêm, và khi mệt thì dừng lại, đốt một ngọn lửa, ngủ với sự bảo vệ của nó. Đã định như vậy, tôi nhặt những khúc cây và cỏ khô trên đường, kẹp vào người, tay giữ chân đi. Nhưng chính vì thế mà chúng tôi đi chậm hơn dự tính; hơn nữa Weena tỏ ý thấm mệt, và tôi thì buồn ngủ. Khi chúng tôi tới khu rừng, đêm đã hoàn toàn buông xuống. Weena dừng lại ngay vùng cỏ rậm ở bìa rừng vì sợ vùng tối trước mặt; nhưng một cảm giác báo trước hiểm nguy - mà lẽ ra tôi phải coi là một điềm cảnh cáo - thúc đẩy tôi đi tới. Hai ngày một đêm chưa ngủ khiến tôi hâm hấp như bị cảm và phản ứng nóng nảy. Tôi cảm thấy mình sắp sửa bị tấn công bởi cơn buồn ngủ, và bởi những người Morlock.
"Trong khi chúng tôi còn phân vân, giữa những bụi cỏ đen phía sau, tôi thấy ba chiếc bóng nhạt đang bò. Vì quanh chúng tôi có nhiều bụi và cỏ cao, tôi không cảm thấy an toàn. Tôi ước lượng chỉ cần đi chưa tới một dặm là qua khỏi khu rừng đến sườn đồi trọc. Đó là chỗ nghỉ ngơi an toàn hơn nhiều. Tôi nghĩ với những que diêm và miếng băng phiến, tôi sẽ có đủ ánh sáng trong khi đi qua khu rừng. Nhưng hiển nhiên là muốn đốt que diêm thì phải dùng cả hai tay và nếu vậy lại không mang củi theo được. Không có cách gì khác hơn, tôi tần ngần bỏ những thanh củi xuống đất. Và rồi tôi nghĩ tại sao không đốt chúng lên để gây sự ngạc nhiên cho những "người bạn" ở phía sau lưng? Tôi cho rằng đây là một sáng kiến hay để bảo vệ đường rút lui; không ngờ nó trở thành một sự dại dột đầy khốc hại.
"Không hiểu quý vị có bao giờ nghĩ đến sự hiếm hoi của lửa ở những nơi nhiệt độ Ôn hòa không có người sống hay chưa? Sức nóng mặt trời ít khi đủ sức đốt cháy, ngay cả khi được hội tụ bởi những giọt sương như thỉnh thoảng xảy ra ở những vùng khí hậu có nhiều tính nhiệt đới hơn. Sét có thể làm cho cây gẫy và cháy xém, nhưng ít khi nào tạo thành những ngọn lửa lan rộng. Loài thảo mộc khi tàn tạ thỉnh thoảng âm ỉ nóng vì nhiệt độ gây ra bởi sự lên men nhưng hiện tượng này gần như chẳng bao giờ gây ra lửa. Trong thời đại suy đồi đó, nghệ thuật tạo lửa đã bị hoàn toàn lãng quên trên mặt đất. Chiếc lưỡi đỏ liếm dần lên đống củi là một hình ảnh hoàn toàn mới lạ đối với Weenạ Nàng muốn nhào tới chơi đùa với ngọn lửa. Tôi chụp nàng kéo lại mặc cho nàng chống cự. May mà tôi cản kịp, nếu không chắc nàng đã cháy bỏng rồi. Hình như không còn thấy sợ, nàng phóng vào khu rừng ngay trước mặt tôi. Nhờ đống lửa, khoảng đường ngắn đầu tiên được soi khá rõ. Nhìn lại phía sau xuyên qua cành lá, tôi thấy ngọn lửa từ đống củi đã lan qua một số bụi gần đó, và một hàng rào lửa cong đang tiến dần lên ngọn đồi. Tôi cười, và quay đầu lại đối diện những bóng cây tối tăm phía trước. Màu đen bắt đầu bao quanh chúng tôi khiến Weena sợ hãi, nàng ôm tôi thật chặt.
"Một lát sau, mắt đã quen dần với bóng đêm và nhờ những đốm lửa từ xa còn hắt tới, tôi lại nhìn thấy cảnh vật lờ mờ, đủ để tránh những cành cây. Riêng trên đầu thì chỉ đơn giản một màu đen, ngoại trừ thỉnh thoảng có một ánh xanh xa xôi từ bầu trời hắt xuống chúng tôi. Tôi không đốt diêm được vì cả hai tay đều bị kẹt: tay trái bế Weena, tay phải cầm thanh sắt. Trong một khoảng thời gian tôi chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng lá lào xào dưới chân, tiếng gió kêu nhẹ trên cao, tiếng thở của chính tôi và tiếng đập của mạch máu trong tai. Rồi bất ngờ lẫn trong những âm thanh đó có một thứ tiếng rì rào. Tôi thận trọng đi tới, tiếng rì rào rõ ràng hơn, chính là những tiếng lạ lùng tôi đã nghe ở thế giới dưới lòng đất. Hiển nhiên là có vài người Morlock ở đâu đó, và họ đang tiến về phía tôi. Quả nhiên, chưa đầy một phút đồng hồ sau đã có những bàn tay níu vạt áo và nắm vào người tôi. Weena run bần bật một lát rồi bất động.
"Tôi biết đã đến lúc phải đốt diêm lên. Nhưng muốn vậy tôi phải bỏ Weena xuống. Trong khi tôi cuống quýt lục túi áo, một cuộc giằng co xảy ra dưới chân tôi, Weena hoàn toàn im lặng trong khi những người Morlock kêu gừ gừ nghe như tiếng bồ câu. Những bàn tay nhỏ và mềm cũng chạm khắp áo và lưng tôi, ngay cả cổ tôi nữa. Tôi đốt que diêm, cầm trên tay, nhìn thấy những cái lưng trắng của người Morlock bỏ chạy giữa những hàng cây. Vội vàng, tôi lấy một miếng băng phiến từ túi áo, chuẩn bị sẵn sàng cho lúc que diêm sắp tắt. Rồi tôi nhìn xuống Weenạ Hai tay nàng còn ôm chặt chân tôi, nhưng người nàng hoàn toàn bất động, và mặt nàng úp xuống đất. Tôi hoảng hốt cúi người xuống xem xét tình trạng của nàng. Hơi thở của nàng yếu ớt và đứt quãng. Tôi đốt miếng băng phiến vất xuống đất. Trong khi ánh lửa đẩy lùi bóng tối và đám người Morlock ra xa, tôi quỳ xuống ôm Weena lên. Khu rừng phía sau đầy những âm thanh rì rào như có một đám người vô cùng đông đảo.
"Hình như Weena đã ngất. Tôi thận trọng đặt nàng lên vai, đứng dậy tiếp tục đi. Nhưng rồi cơn hoang mang xảy tới. Trong lúc cuống quýt lúc nãy với que diêm và với Weena, tôi xoay người nhiều lần, và bây giờ tôi không còn nhớ hướng đi nữa. Rất có thể tôi đang đi trở lại phía tòa lâu đài sứ màu xanh. Tôi toát mồ hôi, cố nghĩ thật nhanh, cuối cùng quyết định dừng lại đốt một ngọn lửa, không đi tiếp nữa. Weena vẫn chưa tỉnh. Tôi đặt nàng dựa vào một thân cây và cấp bách, trong khi miếng băng phiến cháy hết dần, nhặt củi và lá khộ Đâu đó trong bóng tối xung quanh tôi, những cặp mắt Morlock hiện rõ như đám mụn nhọt trên mảng da người.
"Miếng băng phiến lung linh rồi tắt. Tôi đốt một que diêm. Hai bóng trắng trờ tới phía Weena thấy vậy lại vội vàng bỏ chạy. Một gã quá chói mắt vì ánh sáng chạy lầm về phía tôi. Tôi đấm vào gã, và nghe rõ tiếng xương vỡ dập. Gã kêu lên đau đớn, loạng choạng một quãng ngắn, rồi ngã vật xuống. Tôi đốt một miếng băng phiến khác rồi gầy cho ngọn lửa lớn lên. Ngoại trừ ngày tôi tới bằng chiếc máy thời gian, trời không hề có mưa, nắng ban ngày lại luôn luôn gay gắt nên ngay phía trên tôi có nhiều cành rất khộ Nhận ra điều đó, thay vì tìm xung quanh các thân cây, tôi nhảy lên chụp bẻ cành làm củi. Chỉ phút chốc tôi đã có một ngọn lửa đầy khói đến nghẹt thở được nuôi bằng củi khô và những cành mới bẻ. Tôi quay qua phía Weenạ Nàng đang nằm cạnh thanh sắt hộ thân của tôi. Tôi dùng mọi phương pháp hồi sinh mà tôi biết, nhưng nàng vẫn im lìm như chết. Tôi cũng không dám chắc là nàng còn thở hay không.
"Khói từ ngọn lửa bay về phía tôi, lại thêm mùi băng phiến, khiến đầu tôi đột nhiên nặng chình chịch. Ngọn lửa còn cháy được khoảng một giờ nữa mới cần thêm củi. Mệt mỏi vì đã cố gắng quá sức, tôi ngồi xuống. Khu rừng vẫn đầy những tiếng thì thào mà tôi không hiểu phát xuất từ đâu. Tôi nhớ là mình gật đầu xuống và mở mắt. Nhưng xung quanh hoàn toàn là bóng tối, và người tôi đầy những bàn tay Morlock. Tôi gạt chúng ra và vội vàng lục tìm hộp diêm. Nhưng nó đã biến đâu mất! Những bàn tay Morlock lại sờ, nắm vào tôi. Trong một thoáng giây, tôi hiểu ngay mọi sự. Tôi đã ngủ quên và ngọn lửa đã tắt. Tôi chết điếng người. Khu rừng đầy mùi củi cháy. Bọn Morlock nắm cổ, tóc, tay, cố kéo tôi xuống. Thật là khủng khiếp đến mức không thể diễn tả nổi cái cảm giác trong bóng tối bị những khối thịt mềm nhão đó ghì vào người. Không gượng nổi, tôi ngã xuống. Cổ tôi bị một hàm răng cắn nhẹ vào. Tôi lăn ngang, chạm tay vào một vật, chính là thanh sắt. Nó giúp tôi tăng sức mạnh. Tôi vùng vẫy ngồi dậy, đẩy văng bọn chuột ra, và - tay nắm ở giữa - thúc mạnh thanh sắt vào những chỗ tôi đoán là mặt của chúng. Tôi cảm và nghe tiếng thịt, xương lõm dập vì những cú đánh của tôi. Trong nháy mắt, không còn một bàn tay nào trên người tôi nữa.
"Tôi trở thành say máu, như tâm lý thường xảy ra trong những trận đánh quyết tử. Tôi biết tôi và Weena đã bại trận, nhưng tôi nhất định bắt bọn Morlock phải trả giá thật đắt cho bữa tiệc thịt người. Tôi dựa vào một thân cây, quật thanh sắt vào không gian phía trước. Khu rừng đầy những tiếng chân và tiếng kêu lạ Một phút trôi quạ Tiếng kêu của bọn Morlock chói tai hơn chứng tỏ một tình trạng cấp bách hơn, và tiếng chân của chúng cũng nhanh hơn. Nhưng không có tên nào đến gần tôi cả. Tôi đứng nhìn trừng trừng vào bóng tối. Rồi một hy vọng nảy ra trong đầu tôi. Biết đâu bọn Morlock đang sợ hãi? Ngay lúc ấy, một hiện tượng bất ngờ xảy tới. Bóng đêm nhạt dần, trở thành lung linh. Tôi bắt đầu lờ mờ thấy bọn Morlock xung quanh - ba tên ngã dưới chân tôi - và rồi tôi chợt nhận ra, với sự ngạc nhiên cùng tột, rằng những tên còn lại đang chạy thục mạng thành một đoàn dài, từ sau lưng tôi trực chỉ khoảng rừng phía trước. Lưng của chúng không còn trắng mà có ánh đỏ. Trong khi còn há hốc miệng, tôi thấy một vệt đỏ vọt lên khoảng trời có ánh sao giữa các cành cây rồi biến mất. Tức thì tôi hiểu nguyên nhân của mùi củi cháy, của tiếng thì thào nay đã trở thành tiếng gầm dữ dội, của màu đỏ trên lưng bọn Morlock đột nhiên bỏ trốn.
"Bước vài bước khỏi thân cây và nhìn về phía sau, xuyên qua bóng tối sẫm của những thân cây ở gần, tôi thấy ngọn lửa của khu rừng đang cháy. Đây là kết quả của đống lửa tôi đốt lúc đầu. Tôi tìm kiếm Weena, nhưng không thấy nàng đâu nữa. Tiếng rì rào, lách tách sau lưng tôi, tiếng kêu như nổ của những thân cây bắt lửa không cho tôi thời gian để suy nghĩ. Tay vẫn nắm thanh sắt, tôi chạy theo lối rút lui của bọn Morlock. Tình trạng thật cấp bách. Có một lúc ngọn lửa tiến quá nhanh ở phía bên phải tôi, tôi phải chuyển hướng chạy sang bên trái. Nhưng rồi cuối cùng tôi thoát đến một vùng trống nhỏ. Vừa đến đó, tôi thấy một tên Morlock loạng choạng đi về phía tôi, ngang qua tôi, rồi thẳng vào đám lửa.
"Những phút giây sau đó có lẽ là cảnh quái đản và khủng khiếp nhất mà tôi được biết ở thế giới tương lai. Cả một không gian rộng lớn trở thành sáng rực như ban ngày vì ánh phản chiếu của ngọn lửa rừng. Ở trung tâm là một ngọn đồi hoặc gò đất nhân tạo, chỗ cao nhất có một cây sơn trà cháy đỏ. Bên ngoài là một nhánh khác của ngọn lửa rừng, như một chiếc lưỡi đã rụt lại, tạo thành một hàng rào lửa bao quanh ngọn đồi. Trên lưng đồi có khoảng ba mươi hoặc bốn mươi tên Morlock bị ánh sáng và sức nóng làm cho chới với, nhào ngã vào nhau trong cơn hoảng hốt. Thoạt đầu, không biết chúng chẳng nhìn thấy gì nữa, với phản ứng của một kẻ sợ hãi tôi quật cây sắt một cách hung bạo vào những tên đến gần tôi, khiến một tên chết và vài tên khác bị thương. Nhưng khi nhìn thấy một tên sờ soạng khoảng không trước mặt dưới cây sơn trà giữa khung trời đỏ, và nghe những tiếng rên rỉ, tôi biết chắc chúng chỉ còn là những nạn nhân bất lực. Tôi không đánh đập một tên nào nữa.
"Nhưng thỉnh thoảng vẫn có một tên chạy thẳng về phía tôi, khiến tôi ghê rợn phải tránh né vội vàng. Có một lúc ngọn lửa yếu đi chút ít, khiến tôi sợ bọn dơ bẩn kia sẽ nhìn thấy tôi. Tôi đã định bắt đầu lại cuộc chiến bằng cách giết vài tên trước, nhưng rồi ngọn lửa lại bừng lên chói bỏng, thế là tôi bỏ ý định. Tôi đi giữa đám Morlock, tránh né chúng, và cố tìm dấu vết Weena, nhưng không thấy nàng đâu cả.
"Cuối cùng tôi ngồi xuống trên đỉnh một ngọn đồi, nhìn đám đông quái dị gồm những kẻ mù loạng choạng, kêu gào nhau bằng những âm thanh ma quái, tiếp tục bị hành hạ bởi ánh lửa chói ngời. Những cụm khói xoắn lên phủ kín bầu trời, và giữa những lỗ hổng hiếm hoi của chiếc dù đỏ ấy lại vẫn có những ngôi sao nhỏ, lấp lánh lạ kỳ như thuộc về một vũ trụ khác. Hai hoặc ba tên Morlock vấp ngã và tôi, tôi đấm bạt chúng ra. Vừa đấm, tôi vừa thấy mình run rẩy.
"Gần như suốt đêm ấy, tôi cố tin mình đang ở trong một cơn ác mộng. Tôi tự cắn vào môi và kêu rú lên để mong tỉnh giấc. Tôi đấm tay xuống mặt đất, đứng lên ngồi xuống, đi qua đi lại một cách vô định, và rồi lại ngồi xuống. Rồi tôi dụi mắt và nài nỉ thượng đế xin cho tôi tỉnh ngủ. Ba lần tôi thấy những tên Morlock cúi gầm đầu trong cơn đau đớn chạy thẳng vào đám lửa. Nhưng cuối cùng, trên màu đỏ yếu dần của lửa, trên những luồng khói đen vĩ đại, trên những thân cây cháy sáng rồi biến thành đen kịt, và số Morlock càng lúc càng giảm, ánh trắng của ban ngày xuất hiện.
"Tôi lại tìm dấu vết của Weena, nhưng vô ích. Hẳn nhiên bọn Morlock đã bỏ lại cái thân thể đáng tội nghiệp của nàng trong rừng. Tôi không biết diễn tả thế nào về cái cảm giác nhẹ nhõm của tôi khi biết nó được thoát khỏi cái số phận tưởng đã an bài. Nghĩ đến chuyện ấy, tôi suýt nổi cơn muốn giết sạch bọn khốn nạn đang kêu gào tuyệt vọng chung quanh. Nhưng tôi dằn lòng xuống. Ngọn đồi, như tôi đã kể, giống một hòn đảo nhô lên giữa rừng. Từ đỉnh, qua lớp khói mờ, tôi bắt đầu nhìn ra tòa lâu đài sứ xanh ở phía xa, và từ đó định hướng tòa sư tử trắng. Để mặc những tên Morlock còn sống sót loạng quạng kêu la, khi trời đã sáng hơn, tôi bó một mớ cỏ vào hai chân, khập khiễng đi giữa những tro bụi và những thân cây đen vẫn còn âm ỉ cháy bên trong, về nơi dấu chiếc máy thời gian. Tôi đi rất chậm, vì đã kiệt sức, chân lại đau nhức như què, và vì bị ám ảnh ghê gớm bởi cái chết rùng rợn của Weenạ Cái chết của nàng lúc ấy là một bất hạnh không chịu đựng nổi, giờ trong căn phòng quen thuộc này chỉ còn như nỗi buồn vương vấn sau giấc mơ khuya hơn là một mất mát đã thực sự xảy ra. Nhưng buổi sáng đó, nó đẩy tôi trở về với cảm giác của một kẻ cô độc - cô độc ghê người. Tôi bắt đầu nhớ đến căn nhà này, đến lò sưởi ấm, đến một số người trong quý vị, và những nỗi nhớ đó kèm theo một ao ước xót xa.
"Nhưng, trong khi đi trên những lớp tro còn nhả khói dưới bầu trời ban mai rực rỡ, tôi khám phá rằng trong túi tôi vẫn còn vài que diêm lẻ. Chắc hộp diêm trước khi mất đã bị hở để những que diêm này rớt ra.
"Vào khoảng tám hoặc chín giờ sáng, tôi đến chỗ để chiếc ghế vàng nơi tôi đã ngồi nhìn trái đất buổi chiều hôm mới đến. Nhớ lại những kết luận vội vàng chiều hôm ấy, tôi không khỏi cười chua chát cho sự tự tin vô lý của mình. Vẫn cảnh đẹp đẽ này, vẫn tàng cây nhiều lá, vẫn những lâu đài nguy nga và những tàn tích của một thời tráng lệ, vẫn dòng sông bạc chảy giữa hai dải bờ phì nhiêu. Những y phục tươi mát của những con người đẹp đẽ thấp thoáng giữa những thân cây. Vài người tắm ở đúng ngay nơi tôi đã cứu Weenạ Nhìn họ, đột nhiên tim tôi nhói lên đau đớn. Và như những vết nhơ trong bức tranh sơn thủy, những mái che mưa nắng hình vòng cung nhô cao, dẫn đường đi xuống thế giới dưới lòng đất. Giờ tôi đã hiểu ý nghĩa của sự đẹp đẽ của những con người trên mặt đất. Ngày của họ là ngày vui sướng, vui sướng như ngày của loài bò trên đồng cỏ. Như loài bò, họ không căm thù ai và không chống lại ý muốn của bất cứ ai. Và họ có kết cuộc tương tự.
"Tôi xót xa khi nghĩ đến giấc mơ quá ngắn ngủi của trí thông minh loài người. Trí thông minh đó đã tự sát. Nó tự đi bằng những bước vững vàng đến tình trạng dễ dàng và thoải mái, đến một xã hội quân bình mà an toàn và vĩnh cửu là hai mục đích chính yếu. Nó đã đạt mục đích - để rồi cuối cùng đến tình trạng này. Một thời xưa nào đó, đời sống và tài sản hẳn đã đạt mức an toàn tuyệt đối. Người giàu bảo đảm có tài sản và phương tiện hưởng thụ, người lao động bảo đảm được sống và có việc làm. Hẳn trong thế giới hoàn hảo đó một thời đã không còn nạn thất nghiệp, không còn vấn đề xã hội nào cần giải quyết. Và một giai đoạn yên lặng lâu dài đã đi tiếp theo sau.
"Chúng ta đã quên một định luật thiên nhiên, rằng trí thông minh là sự đền bù của bất ổn, hiểm nguy, và phiền lụy. Một con vật hoàn toàn hòa hợp với khung cảnh sống sẽ chỉ còn là một bộ máy hoàn hảo. Thiên nhiên chỉ đòi hỏi trí thông minh khi thói quen và bản năng đã trở thành vô dụng. Sẽ không có trí thông minh khi không có đổi thay và không có nhu cầu đổi thaỵ Trí thông minh chỉ có khi loài vật phải thỏa mãn thật nhiều nhu cầu và đối phó với thật nhiều nguy hiểm.
"Nên, như tôi thấy, con người trên mặt đất đã đi theo chiều của cái đẹp yếu đuối, và con người dưới lòng đất theo chiều của kỹ nghệ cơ khí. Nhưng trạng thái hoàn hảo đó thiếu một điều kiện quan trọng - tính vĩnh cửu tuyệt đối. Có lẽ với thời gian kéo dài, vì một lý do nào đó, nguồn thực phẩm của con người dưới mặt đất đến một lúc bị gián đoạn. Nữ thần của nhu cầu, từng bị đày đi xa suốt mấy ngàn năm, đã trở lại, và bắt đầu làm việc từ dưới lòng đất. Người dưới lòng đất quen thuộc với máy móc. Dù những máy móc này hoàn hảo bao nhiêu, vẫn đòi hỏi một chút suy nghĩ thêm vào với thói quen. Có thể vì vậy mà họ còn giữ được nhiều tính tích cực hơn, mặc dù kém nhân bản hơn về mọi phương diện khác, so với người trên mặt đất. Và khi những nguồn thịt khác không còn, họ trở về với một thói quen cũ bị cấm đoán từ lâu. Đó là quan điểm cuối cùng của tôi về thế giới ở năm tám trăm lẻ hai ngàn bảy trăm lẻ một. Nó có thể sai lầm như tất cả mọi lời giải thích khác sinh ra từ đầu óc bất toàn vẹn của con người. Nhưng đó là điều tôi cho là đúng, và đó là điều tôi xin trình bày với quý vị.
"Sau những mệt mỏi, những cảm giác mạnh, và những diễn biến khủng khiếp trải qua trong suốt một tuần, dù trong lòng mang nhiều nỗi xót xa, chỗ ngồi này cộng với khung cảnh yên tĩnh và ánh mặt trời ấm áp khiến tôi thấy hết sức thoải mái. Vô cùng mệt mỏi và buồn ngủ, tôi chuyển từ suy nghĩ sang mắt nhắm mắt mở, gật gà lúc nào không biết. Thấy thế , tôi bèn chiều theo nhu cầu của cơ thể, nằm thẳng ra trên thảm cỏ và ngủ một giấc dài lấy sức.
"Tôi tỉnh dậy khi mặt trời sắp lặn. Giờ tôi không còn sợ bị người Morlock bắt trong khi ngủ gật. Duỗi người lấy sức, tôi đi xuống đồi về phía tòa sư tử trắng, một tay cầm thanh sắt, tay kia trong túi nắm vào những que diêm.
"Một cảnh bất ngờ không thể tưởng tượng hiện ra trước mắt khi tôi đến gần cái bệ dưới tòa sư tử. Những cánh cửa mở rộng, đúng hơn là đã bị đẩy xuống dọc theo những bản lề. Thấy thế tôi dừng lại phân vân.
"Bên trong tôi thấy một căn phòng nhỏ, và ở trong một góc cao là chiếc máy thời gian. Những chiếc cần số còn nằm yên trong túi. Tôi đã chuẩn bị kỹ lưỡng để mở cuộc tấn công tòa sư tử trắng, đâu ngờ kẻ địch lại đầu hàng quá đễ dàng. Tôi vất thanh sắt trong tay đi, gần như tiếc rẻ vì không có cơ hội dùng đến nó.
"Một ý nghĩ bất ngờ nảy ra trong đầu khi tôi cúi người đi vào. Tối thiểu lần này tôi hiểu mưu toan của bọn Morlock. Cố nhịn cười, tôi đi qua khung cửa bằng đồng tới chỗ để chiếc máy thời gian. Tôi ngạc nhiên khi thấy rằng nó đã được châm dầu và lau chùi kỹ lưỡng. Sau, tôi nghi bọn Morlock có thể đã tháo ráp vài bộ phận để cố tìm hiểu mục đích của chiếc máy bằng khối óc thô sơ của chúng.
"Trog khi tôi đứng xem xét và thấy một niềm hạnh phúc chỉ vì được sờ vào chiếc máy, việc tôi biết trước sẽ xảy ra đã xảy ra. Những cánh cửa đồng đột ngột chạy vụt lên, chạm vào thành trên, đóng chặt lại, tạo thành một tiếng "keng". Tôi ở trong bóng tối - mắc bẫy. Bọn Morlock hẳn chắc chắn như thế. Ý nghĩ của chúng khiến tôi không khỏi tức cười.
"Tôi nghe tiếng cười xì xào của chúng tiến lại gần. Một cách bình tĩnh, tôi bật que diêm. Tôi chỉ cần gắn cần số vào máy rồi biến mất như một bóng mạ Nhưng tôi quên mất một điều. Những que diêm này thuộc loại chỉ cháy khi được quẹt vào hộp mà thôi.
"Qúy vị có thể hiểu mọi sự bình tĩnh của tôi đều biến mất. Những con thú nhỏ bé nhào tới, một tên đụng vào tôi. Tôi cầm những chiếc cần số quạt ngang vào bóng tối, trong khi leo vội lên chỗ ngồi trên chiếc máy. Thêm một bàn tay chạm vào tôi, rồi một bàn tay nữa. Kế đó, tôi vừa phải cản không cho chúng giật những chiếc cần từ tay tôi, vừa phải lần ra chỗ để gắn cần vào. Một chiếc cần suýt nữa bị chúng kéo mất. Trong khi nó đang trượt ra khỏi tay tôi, tôi phải húc đầu tới - và nghe thấy tiếng cụng vào sọ tên Morlock - để giữ nó lại. Nghĩ lại, cuộc đụng độ cuối cùng này còn nguy hiểm hơn cả lần đánh nhau trong khu rừng cháy.
"Nhưng cuối cùng những chiếc cần số được lắp vào đúng chỗ và đẩy sang vị trí khác. Những bàn tay đang nắm vào tôi vuột ra. Bóng tối trước mặt rơi mất, nhường chỗ cho màu xám và những chấn động mà tôi đã diễn tả trước đây.
"Tôi đã kể cho quý vị nghe về cảm giác dật dờ như mắc bệnh và nỗi hoang mang đi kèm với việc vượt thời gian. Lần này tôi lại không ngồi đúng chỗ trên yên, mà ở một góc xéo không đứng vững chút nào cả. Trong một khoảng thời gian tưởng chừng vô tận, tôi bấu vào cái máy trong khi nó vừa rung vừa lắc mà không biết mình sẽ đến đâu. Khi đủ bình tĩnh để nhìn đồng hồ, tôi không khỏi sửng sốt. Một đồng hồ chỉ ngày, một đồng hồ chia đơn vị là một ngàn ngày, một đồng hồ triệu ngày, một đồng hồ tỉ ngày. Thay vì kéo ngược cần số, tôi đã đẩy chúng đi tới. Và tôi thấy kim chỉ ngàn đang quay nhanh như kim chỉ giây của một chiếc đồng hồ đeo tay - đến tương lai xa tít.
"Tiếp tục đi tới, một đổi thay kỳ lạ phủ trùm lên vạn vật. Màu xám thấp thoáng trở thành đậm hơn; rồi - mặc dù tôi vẫn đi tới với thời tốc thật nhanh - những thay đổi nhấp nháy giữa ngày đêm, dấu hiệu của một thời tốc thấp hơn, trở lại càng lúc càng rõ rệt. Thoạt đầu hiện tượng này khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Sự đổi thay giữa ngày đêm xảy ra chậm hơn, cùng với sự di chuyển của ánh mặt trời, đến một lúc như mỗi chu kỳ kéo dài đến mấy trăm năm. Cuối cùng, trái đất chỉ còn một ánh mờ liên tục, gián đoạn thỉnh thoảng bởi sự xuất hiện của những ngôi sao chổi soi sáng khoảng trời đen. Luồng sáng, dấu vết của mặt trời đã biến mất hẳn, vì mặt trời không còn lặn nữa - nó chỉ nhô lên hụp xuống ở phía tây, đồng thời trở thành lớn hơn và đỏ hơn. Tất cả mọi dấu vết của mặt trăng cũng đã biến mất. Những chuyển động xoay tròn càng lúc càng chậm của các vì sao bị thay thế bởi vô vàn điểm sáng.
"Một khoảng thời gian trước khi tôi dừng lại, mặt trời - đỏ và rất lớn - nằm bất động ở chân trời, như một cái vòm vĩ đại lung linh với một sức nóng yếu ớt, và thỉnh thoảng tắt ngấm hoàn toàn. Có một lúc nó chiếu ra ánh sáng mạnh hơn, nhưng rồi thật nhanh chóng lại trở về với ánh nóng đỏ muộn sầu. Dựa theo sự lên xuống chậm lại của mặt trời, tôi đoán là hiện tượng thủy triều không còn nữa. Trái đất đã thôi quay, với một mặt hướng về mặt trời, có thể y hệt như mặt trăng đối với trái đất trong thời của chúng tạ Hết sức thận trọng - vì nhớ lại lần bị té trước - tôi bắt đầu kéo cần số ngược lại. Những kim đồng hồ chạy chậm dần, cho đến khi kim chỉ ngàn ngày gần như đứng yên và kim chỉ ngày không chỉ còn là một ánh sương mù trên mặt đồng hồ. Chậm hơn nữa, cho đến khi những đường nét của một bãi biển hoang vu trở thành rõ rệt.
"Tôi nhẹ nhàng dừng lại và ngồi trên chiếc máy thời gian nhìn ra xung quanh. Bầu trời không còn xanh. Phía đông bắc tối đen như mực, và giữa màu đen đó nổi bật những ngôi sao trắng nhạt tỏa ánh sáng đều đặn. Trên đầu tôi là một vùng đỏ không sao, đến phía đông nam thì sáng hơn thành một màu đỏ chói. Ở đó, bị cắt ngang bởi đường chân trời, là cái thân vĩ đại của mặt trời, đỏ và bất động. Những tảng đá gần tôi có một màu đỏ gay gắt, và tất cả dấu hiệu của sự sống tôi thấy được là những loài thảo mộc xanh hết sức đậm phủ đầy những mặt đá hướng về phía đông nam. Màu xanh đậm này y hệt như của các loài rêu trong rừng hoặc trong hang động: những loại thực vật mọc ở nơi vĩnh viễn chỉ có ánh sáng lờ mờ.
"Chiếc máy đứng trên một bờ biển thoai thoải. Mặt biển kéo xa về phía tây nam, trở thành một lằn ngang sắc bén rực rỡ nổi bật dưới bầu trời xám ngắt. Không có sóng bạc đầu, không có ngay cả những đợt sóng nhỏ, vì trời hoàn toàn không có gió. Chỉ riêng một chỗ như có ánh dầu loang nhô lên hụp xuống giống bụng người đang thở nhẹ, chứng tỏ rằng lòng biển muôn đời vẫn sống. Ở ngoài bìa, chỗ nước thỉnh thoảng vỡ ra, là một lớp muối dày - hồng dưới bầu trời tái nhợt. Tôi có cảm giác đầu mình bị đè ép, và tôi khám phá rằng mình đang thở thật nhanh. Cảm giác ấy tôi chỉ từng có trong lần leo núi duy nhất. Từ đó tôi suy rằng không khí đã trở thành loãng hơn thời của chúng ta.
"Thật xa phía trên sườn bờ biển tôi nghe một tiếng kêu, và thấy một con vật như bướm khổng lồ bước xéo xẹo, đập cánh bổng người lên bầu trời, bay vòng quanh, rồi biến mất sau những chiếc gò ở xa hơn. Tiếng kêu của nó thê thảm đến nỗi tôi run người, bám chặt vào chỗ ngồi của mình trên chiếc máy thời gian. Nhìn quanh, tôi khám phá rằng, ở khá gần, cái mà tôi tưởng là một cục đá đang chuyển động về phía tôi. Thì ra đó là một con quái vật hình giống như con cuạ Hãy tưởng tượng một con cua lớn như cái bàn ở chỗ kia, với một mớ chân bò chậm chạp vô định, hai càng đưa qua đưa lại, những chiếc râu dài như cây roi của gã chở đồ quờ quạng tìm phương hướng, và đôi mắt gắn vào hai bên cái áo giáp như kim loại nhìn chăm chăm vào quý vị. Lưng nó xếp khúc điểm những đốm lồi lên kỳ cục, lại có lớp màu xanh bám chỗ này chỗ khác. Tôi thấy những vi tu trong cái miệng phức tạp của nó rụt ra rụt vào dò xét trong khi nó chuyển người trên mặt đất.
"Đang nhìn con quái vật rùng rợn này bò tới, trên má tôi bỗng có cảm giác nhồn nhột như vừa bị một con ruồi chạm vào. Tôi lấy tay gạt ra, nhưng nó trở lại liền, và rồi thêm một con khác ở tai tôi. Tôi vội chụp lấy, nhằm một vật dài như chỉ, nhưng bị vuột mất ngaỵ Với một sự ghê tởm và sợ hãi, tôi quay lại nhìn và khám phá rằng mình đã chụp nhằm sợi râu của một con quái vật hình cua khác ở ngay sau lưng. Đôi mắt tàn ác của nó rung trên hai cái cuống, miệng nó đầy vẻ đói khát, và đôi càng vĩ đại vụng về bám đầy bùn rêu đang chụp xuống tôi. Trong chớp mắt tay tôi ấn vào cần số, và tức thì cách xa những con vật ấy khoảng một tháng trời. Nhưng tôi vẫn ở trên bờ biển cũ, và tôi thấy chúng thật rõ khi dừng lại. Hơn mười con bò chỗ này chỗ kia, dưới ánh mờ sầu thảm, giữa những mảng thảo mộc màu xanh thẫm.
"Tôi không thể diễn tả nỗi hoang vu ghê rợn chế ngự mặt địa cầu. Bầu trời đỏ phía đông, màu đen phía bắc, vùng biển chết, bờ đá đầy những con quái vật dơ bẩn bò run rẩy chậm chạp, màu xanh trải đều như thuốc độc của những loại rong rêu, bầu không khí loãng làm phổi người ta đau nhức: tất cả tạo thành một cảm giác rùng rợn. Tôi đi tới một trăm năm nữa. Mặt trời vẫn đỏ - lớn hơn, và mờ hơn một chút. Vẫn vùng biển chết, vẫn bầu không khí lạnh lẽo, vẫn đám quái vật có vỏ cứng bò đó đây giữa rêu xanh đá đỏ. Ở bầu trời phía tây, tôi thấy một đường cong nhạt, có lẽ của một vầng trăng thượng tuần khổng lồ.
"Tôi cứ đi như thế, thỉnh thoảng dừng lại, cách khoảng cả ngàn năm hoặc hơn, bởi sự tò mò về số phận trái đất, chăm chú nhìn với một niềm say sưa kỳ lạ. Mặt trời mỗi lúc một lớn hơn và mờ nhạt hơn ở bầu trời phía tây, và cuộc sống của trái đất cũ úa tàn đi. Cuối cùng, sau hơn 30 triệu năm, cái vòm khổng lồ của mặt trời đã chiếm khoảng mười phần trăm của bầu trời đen. Tôi dừng lại lần nữa vì thấy đám cua bò lổn ngổn đã biến mất. Bãi biển đỏ, ngoại trừ những mảng rong rêu xanh mét, không còn một dấu hiệu nào của sự sống. Đó đây lấm chấm những vùng màu trắng. Cái lạnh ghê người xâm lấn tôi. Những mảnh trắng thỉnh thoảng rơi lảo đảo xuống. Về phía đông bắc, ánh sáng phản chiếu của băng tuyết nổi bật dưới bầu trời sao, hiện thành những gò nhấp nhô màu trắng hồng. Một vành băng chạy dọc theo nơi tiếp giáp giữa nước với đất liền, thêm những mảng băng trôi ở ngoài xa, nhưng nói chung cái mặt biển ấy, đỏ như máu dưới ánh hoàng hôn vĩnh cửu, vẫn chưa đông thành đá.
"Tôi nhìn quanh tìm dấu vết của đời sống động vật. Một sự sợ hãi không thể giải thích vẫn giữ tôi trên chỗ ngồi của chiếc máy thời gian. Nhưng không có một hình thù nào chuyển động dưới đất, trên trời, cũng như ngoài biển. Dấu hiệu duy nhất chứng minh rằng sự sống vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt chỉ là đám rêu xanh. Một bãi cát nông lộ ra khi nước biển rút khỏi bờ. Tôi tưởng đã thấy một vật màu đen xoay trở trên bãi cát ấy, nhưng khi tôi chú ý nhìn, nó trở thành bất động. Tôi kết luận mình đã nhìn lầm, và vật đen ấy chỉ là một khối đá. Những ngôi sao trên bầu trời sáng ngoài sức tưởng tượng, và hình như nhấp nháy rất ít so với những ngôi sao của thời đại chúng ta.
"Đột nhiên tôi nhận ra một sự biến đổi trong đường nét của vòng cung mặt trời ở phía tây. Một khoảng đen cũng hình cung đang lấn vào vị trí của nó. Tôi thấy khoảng đen lớn dần. Có lẽ đến cả phút đồng hồ tôi sửng sốt nhìn khoảng đen này lấn át mặt trời, rồi chợt hiểu một cuộc nhật thực đang bắt đầu. Hoặc mặt trăng, hoặc Thủy Tinh đang đi ngang vùng ảnh hưởng của mặt trời. Theo lẽ bình thường, lúc đầu tôi cho đó là mặt trăng, nhưng rồi tôi phải đoán mình đã thấy một hành tinh đang di chuyển rất gần trái đất.
"Bóng tối tăng dần. Một luồng gió lạnh thổi từng đợt từ phía đông, và những mảnh tuyết trên không rơi càng lúc càng nhiều. Từ mé biển vọng về tiếng thì thầm của sóng. Ngoại trừ những tiếng động chết này, vũ trụ hoàn toàn im lặng. Im lặng? Thật khó mà diễn tả sự im lặng ấy. Âm thanh của loài người, tiếng kêu của đàn cừu, tiếng gọi của loài chim, lời rên của côn trùng, những gì tạo thành căn bản của đời sống chúng ta - tất cả đều không còn nữa. Khi bóng tối dày thêm, những mảnh tuyết lảo đảo rơi càng nhiều, nhảy múa trước mắt tôi, và cái lạnh của không khí quanh tôi càng ghê gớm. Cuối cùng, lần lượt và nhanh chóng, từng đỉnh trắng của những ngọn đồi xa biến vào đen tối. Gió bắt đầu nổi lên những tiếng kêu gào. Cái bóng tối tăm của nhật thực chạy vụt về phía tôi. Phút chốc sau đó ngoại trừ ánh sáng của những ngôi sao, bầu trời chỉ còn là một vùng đen thẳm.
"Màu đen tuyệt đối của vũ trụ làm tôi ghê sợ. Cái lạnh thấu xương, và cái đau đớn của từng hơi thở lấn át tôi. Tôi rùng mình, thấy buồn nôn không chịu nổi. Rồi cạnh của mặt trời lại xuất hiện như một cây cung nóng đỏ. Tôi bước ra khỏi chiếc máy thời gian để phục hồi sức lực. Cơn chóng mặt khiến tôi không dám đối diện với chuyến trở về. Trong khi đứng đó như một người bệnh hoạn và hoang mang, tôi lại thấy cái khối đen lúc nãy di chuyển trên bãi cát nông - không nghi ngờ gì nữa, nó đúng là một sinh vật - ngay mé nước của vùng biển đỏ. Nó hình tròn, cỡ một trái banh, cũng có thể lớn hơn, với những sợi dài xuôi về một phía. Màu nó đen bên cạnh vùng biển đỏ, và nó đang nhảy qua nhảy lại một cách vô định. Tôi biết mình đang ngất xỉu. Nhưng nỗi sợ hãi rằng mình sẽ nằm xuống tuyệt vọng giữa chốn xa xôi mờ ảo rùng rợn đó đã cho tôi đủ sức mạnh để leo trở lại lên chỗ ngồi của chiếc máy thời gian.
"Thế là tôi trở lại. Chắc tôi đã ngất đi trên chỗ ngồi một thời gian dài. Những nhấp nháy thay đổi giữa ngày đêm lại bắt đầu, mặt trời lại trở về màu vàng chói, và bầu trời lại trở thành xanh. Tôi thở dễ dàng hơn. Những thay đổi đường nét của mặt đất khi nhanh khi chậm. Kim đồng hồ chạy ngược. Rồi tôi thấy bóng mờ của những ngôi nhà, dấu hiệu của loài người suy thoái. Những hình ảnh ấy cũng đổi thay, biến mất và bị thay thế. Khi kim đồng hồ chỉ triệu năm về số không, tôi giảm tốc lực. Tôi bắt đầu nhận ra những công trình kiến trúc tầm thường và quen thuộc của thời đại chúng tạ Kim chỉ ngàn năm trở về vị trí ban đầu, sự xoay chuyển giữa ngày đêm càng lúc càng chậm. Rồi những bức tường cũ của căn phòng thí nghiệm lại bao quanh tôi. Một cách nhẹ nhàng, tôi giảm vận tốc của chiếc máy thời gian.
"Tôi thấy một hiện tượng khá kỳ dị. Tôi đã kể cho quý vị nghe rằng ở lúc đầu của chuyến ra đi, trước khi đạt vận tốc cao, tôi thấy bà Watchett đi ngang căn phòng, xẹt nhanh như một chiếc hỏa tiễn. Khi trở về, tôi lại đi ngang phút giây khi bà bước qua phòng thí nghiệm. Nhưng lần này mọi hành động của bà như hoàn toàn ngược lại. Cánh cửa góc thấp của phòng thí nghiệm mở ra, bà lướt lên trên, lưng hướng về phía trước, và biến mất ở cánh cửa mà lần trước bà đi vào. Hình như tôi cũng thấy Hillyer trong thoáng giây, nhưng hắn vụt đi như một lằn chớp.
"Tôi ngừng máy, thấy chung quanh căn phòng thí nghiệm quen thuộc, những dụng cụ máy móc vẫn ở chỗ cũ. Tôi loạng choạng bước ra khỏi máy đến chiếc ghế dài, ngồi đó run bần bật mấy phút rồi mới bình tĩnh lại. Xung quanh là nơi làm việc, vẫn y hệt như cũ. Có thể tôi đã ngủ ở đó, và tất cả chỉ là một giấc mơ.
"Nhưng không hẳn như thế! Chiếc máy bắt đầu ở góc đông nam phòng thí nghiệm như quý vị đã thấy và trở về ở góc tây bắc, cạnh bức tường.* Đó chính là khoảng cách giữa thảm cỏ và cái bệ của tòa sư tử trắng, nơi bọn Morlock đã dấu chiếc máy của tôi.
"Đầu óc tôi ngưng động một lúc lâu. Rồi tôi đứng dậy đi theo hành lang về phía này, khập khiễng vì gót chân vẫn còn đau, và cảm thấy người mình quá dơ bẩn. Tôi thấy tờ Pall Mall Gazette trên bàn cạnh cửa, ngày tháng đúng là hôm nay, và nhìn lên đồng hồ thấy gần đúng tám giờ tối. Tôi nghe tiếng nói chuyện của quý vị và tiếng chén dĩa. Tôi lưỡng lự - cảm thấy thật bệnh hoạn và yếu ớt. Rồi ngửi thấy mùi thịt đầy hấp dẫn, tôi mở cửa gặp quý vị. Qúy vị đã biết những gì xảy ra sau đó. Tôi tắm rửa, ăn tối, và kể lại câu chuyện cho quý vị nghe.
"Tôi biết," hắn ngừng lại một lát, rồi tiếp, "tất cả đều quá khó tin đối với quý vị. Với tôi, điều khó tin nhất là tôi có mặt ở đây đêm nay trong căn phòng quen thuộc này, nhìn thấy những nét mặt thân quen của quý vị và kể cho quý vị nghe những chuyến thám hiểm lạ lùng kiạ"
Hắn nhìn ông bác sĩ. "Không. Tôi không dám mong quý vị tin câu chuyện của tôi. Cứ việc cho đây là một chuyện nói dối hoặc một lời tiên trị Cứ việc nói là tôi đã mơ thấy nó trong phòng làm việc. Bởi tôi đã từng suy nghĩ về số phận của loài người chúng ta trước khi đặt ra câu chuyện giả tưởng này. Cứ coi việc tôi khăng khăng nói đó là một câu chuyện thật chỉ là một phương pháp nghệ thuật để người ta chú ý hơn. Và quý vị nghĩ thế nào, nếu chỉ coi nó là một câu chuyện kể?"
Hắn cầm ống píp lên và bắt đầu, do thói quen, gõ gõ nó lên những thanh ngang của chiếc lưới sắt. Một thoáng im lặng trôi qua, rồi có tiếng ghế, tiếng chân đi trên tấm thảm. Mắt tôi rời khỏi khuôn mặt của kẻ vượt thời gian, nhìn sang đám người nghe kể chuyện. Họ Ở trong bóng tối, và trước mặt họ tôi thấy những đốm sáng nhảy múa. Ông bác sĩ có vẻ bị thu hút bởi thái độ trầm tư của chủ nhà. Anh chủ báo nhìn chăm chăm vào điếu xì gà đang hút - điếu thứ sáu. Anh phóng viên đang vụng về lần kiếm đồng hồ. Những người khác, tôi nhớ lại, đều bất động.
Anh chủ báo đứng dậy, thở dài. "Thật tiếc anh không phải là một nhà văn!" Vừa nói anh vừa đặt tay lên vai kẻ vượt thời gian.
"Anh không tin những điều tôi kể?"
"Ư... "
"Tôi cũng đã nghĩ thế."
Kẻ vượt thời gian quay về phía chúng tôi. "Que diêm đâu?" hắn hỏi. Hắn đốt một que diêm và nói trong khi vừa hút píp. "Nói thật... chính tôi cũng không dám tin tôi... vậy mà... "
Với vẻ đầy thắc mắc, đôi mắt hắn chuyển xuống những bông hoa tàn nằm trên chiếc bàn nhỏ. Rồi hắn xoay bàn tay đang cầm ống píp. Tôi nhận ra là hắn đang nhìn những vết thương chưa lành hẳn trên các ngón tay.
Ông bác sĩ đứng dậy, đi tới trước cái đèn, xem xét những bông hoa. "Cái nụ hoa thật lạ", ông nói. Nhà tâm lý học chồm tới trước để nhìn cho rõ, đưa tay ra nắm vào một bông hoa.
"Chết! Chắc phải gần một giờ sáng rồi", anh phóng viên hốt hoảng. "Làm sao mình về nhà đây?"
"Còn rất nhiều taxi ở bến", nhà tâm lý học trả lời.
"Thật lạ lùng", ông bác sĩ nói, "tôi không hề biết những loại hoa này. Anh đưa chúng cho tôi được không?"
Kẻ vượt thời gian phân vân. Rồi đột ngột trả lời: "Chắc chắn là không."
"Nói thật đi, anh tìm thấy những hoa này ở đâu?" ông bác sĩ nài.
Kẻ vượt thời gian đặt tay lên đầu. Hắn nói như cố giữ lại những suy nghĩ đang tìm cách bỏ hắn ra đi. "Weena bỏ chúng vào túi tôi, khi tôi vượt thời gian." Hắn nhìn quanh. "Tôi không hiểu nữa. Căn phòng này và không khí bình thường hàng ngày ảnh hưởng đến trí nhớ của tôi. Tôi đã từng bao giờ làm ra một chiếc máy vượt thời gian, hay một mẫu nhỏ của nó chưa? Hay tất cả chỉ là một giấc mộng? Người ta nói đời là một giấc mộng, đôi khi là một giấc mộng quý giá đáng tội nghiệp - nhưng tôi không thể nào chịu đựng một giấc mộng khó giải thích. Quả là điên rồ. Và giấc mộng ấy từ đâu tới?... Tôi phải nhìn lại cái máy đó. Nếu quả thực nó hiện hữu!"
Kẻ vượt thời gian chụp vội cây đèn sáng đỏ, cầm nó đi qua cửa đến hành lang. Chúng tôi theo sau hắn. Quả nhiên, trước ánh lung linh của ngọn đèn, chiếc máy thời gian hiện rõ, to thấp, xấu xí, và quái đản; làm bằng đồng, gỗ mun, ngà, và thạch anh sáng đục. Nó cứng cáp - tôi nắm vào một cái lườn của nó nên biết thế - với những bệt màu nâu trên các chỗ ngà, những đốm cỏ và rêu ở phần dưới, và một lườn đã bị cong vẹo.
Kẻ vượt thời gian đặt cây đèn xuống chiếc ghế dài, và đưa tay vuốt dọc theo cái lườn bị cong. "Vậy là được rồi", hắn nói. "Câu chuyện tôi kể cho quý vị nghe hoàn toàn có thật. Xin lỗi vì đã bắt quý vị đến chỗ lạnh lẽo này." Hắn cầm cây đèn lên và chúng tôi trở về phòng hút thuốc trong sự im lặng hoàn toàn.
Hắn đi theo chúng tôi đến phòng khách và giúp anh chủ báo mặc áo choàng. Ông bác sĩ nhìn vào mặt hắn, rồi sau một chút phân vân, bảo hắn rằng hắn đã làm việc quá sức. Nghe thế hắn cười ha hả. Tôi còn nhớ hắn đứng ở cánh cửa mở tiễn chân chúng tôi.
Tôi đi chung taxi với anh chủ báo. Anh ta nghĩ câu chuyện chỉ là "những lời dối trá hoa mỹ." Riêng tôi thì không dám có kết luận nào. Câu chuyện quá khó tin, nhưng lời kể lại quá tỉnh táo và thành thật. Tôi trằn trọc suy nghĩ gần cả đêm, và quyết định hôm sau đến gặp kẻ vượt thời gian. Đến nơi, tôi được biết hắn đang ở trong phòng thí nghiệm. Nhờ là một người khách được tin tưởng, tôi vào tận nơi tìm hắn. Nhưng hắn khôgn có mặt ở đó. Tôi nhìn chiếc máy thời gian đến cả phút đồng hồ rồi đưa tay đụng nhẹ vào chiếc cần số. Tức thì cái khối nặng nề to thấp đó lung lay như một cành cây trong cơn gió mạnh. Sư thiếu thăng bằng của nó làm tôi giật mình, và tôi có sự hồi tưởng lạ kỳ như trở về thuở ấu thơ bị cấm đoán mỗi khi nghịch phá.
Tôi đi theo hành lang trở lại, và được kẻ vượt thời gian tiếp ở phòng hút thuốc. Hắn mới từ trong nhà ra, một tay kẹp máy ảnh, một tay kẹp một túi đựng đồ. Hắn cười khi gặp tôi, và đưa khuỷu tay ra cho tôi bắt. "Tôi vô cùng bận bịu", hắn nói, "với chiếc máy trong kiạ"
"Nhưng bộ không phải đây là một trò lừa sao?" Tôi hỏi. "Anh vượt thời gian thật à?"
"Đương nhiên và hiển nhiên." Và hắn nhìn vào mắt tôi một cách thành thật. Hắn lưỡng lự, đảo mắt nhìn vô định khắp căn phòng. "Tôi chỉ cần nửa tiếng", hắn nói. "Tôi biết tại sao anh đến. Anh thật tốt. Có báo và tạp chí ở đây. Nếu anh ở lại ăn trưa, tôi sẽ chứng minh chuyện vượt thời gian, lần này tới nơi tới chốn, bằng những vật mang về, và mọi thứ khác nữa. Nếu anh không phiền vì tôi phải tạm rời anh bây giờ."
Tôi đồng ý, mặc dù không thấu hiểu những gì hắn muốn nói. Thế là hắn gật đầu và đi ra hành lang. Tôi nghe cánh cửa phòng thí nghiệm đóng sầm lại. Tôi ngồi xuống, cầm một tờ nhật báo lên. Hắn sẽ làm gì trước giờ ăn trưa? Rồi đột ngột mẩu quảng cáo nhắc tôi là tôi hứa gặp Richardson của nhà xuất bản lúc hai giờ. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, phải đi ngay mới kịp. Tôi đứng dậy đi theo hành lang định báo cho kẻ vượt thời gian biết.
Đúng lúc chạm tay vào nắm đấm cửa, tôi nghe một tiếng động bất thần, bị ngắt cụt một cách kỳ lạ, rồi một tiếng "tách" và một tiếng "ầm". Một luồng không khí bao quanh tôi khi tôi mở cửa, và từ bên trong vang tiếng kính rơi vỡ trên sàn. Tôi không thấy kẻ vượt thời gian; chỉ có một bóng mờ ảo như ma ngồi trên một khối xoay tròn có màu đen và màu đồng - chiếc bóng trong suốt đến nỗi tôi nhìn thấy rõ chiếc ghế dài và những tấm họa đồ phía sau nó. Nhưng tôi vừa đưa tay dụi mắt, hình ảnh ma quái đã biến mất. Chiếc máy thời gian không còn nữa. Ngoại trừ lớp đất bụi đang dần lắng xuống, góc cuối của phòng thí nghiệm trống rỗng hoàn toàn. Hình như một khung kính soi nắng đã bị hút vào, bể vỡ.
Tôi ngạc nhiên không thể tưởng tượng. Tôi biết một chuyện lạ đã xảy ra, nhưng ngay lúc ấy tôi không thể xác định chuyện lạ ấy là gì. Trong lúc tôi đang đứng trố mắt, cánh cửa phía vườn mở ra, và người đầy tớ trai xuất hiện.
Chúng tôi nhìn nhau. Rồi sự suy nghĩ trở lại với tôi. "Ông... có đi về phía đó không?" Tôi hỏi.
"Không. Thưa ông. Không có ai đi về phía đó. Tôi tưởng sẽ gặp ông chủ trong này."
Nghe vậy tôi hiểu ngaỵ Bất chấp sự thất vọng của Richardson, tôi ở lại chờ kẻ vượt thời gian; mong đợi câu chuyện thứ hai, có lẽ còn lạ lùng hơn câu chuyện cũ, những vật thu thập được, và những hình ảnh hắn mang về. Nhưng bây giờ tôi e là tôi phải chờ suốt đời. Kẻ vượt thời gian mất tích ba năm trước. Và, như mọi người đều biết, hắn chưa trở về một lần nào.
Người ta không thể nào không thắc mắc. Kẻ vượt thời gian có bao giờ trở về không? Có thể hắn đã bị cuốn lôi về quá khứ, rơi vào thời đồ đá của những kẻ lông lá, uống máu man rợ; hoặc chìm vào vùng biển sâu của thời Cretaceous; hoặc lạc vào giữa những con khủng long kỳ quái, những loài bò sát kinh dị của thời Jurassic. Cũng có thể ngay bây giờ - nếu tôi được phép tạm nói như vậy - hắn đang lẩn quẩn trên những vùng san hô đầy loài hải thú bò sát, hoặc ở cạnh những hồ muối của thời Triassic. Có thể hắn đi tới tương lai về một thời đại không xa lắm, khi mà người vẫn còn là người, với những vấn nạn của thời đại chúng ta đã được giải quyết? Đi tới bản tính của nhân loại. Vì, đối với riêng tôi, thật khó mà tin những thời đại gần đây với thí nghiệm thiếu sót, lý thuyết rời rạc và quan điểm bất đồng đã là cao điểm của loài người! Đó là phần tôi. Phần hắn, tôi biết - vì vấn đề đã được đặt ra giữa chúng tôi từ rất lâu trước khi chiếc máy thời gian được chế tạo - hắn chẳng thích thú gì mỗi lần nghĩ đến những tiến bộ của nhân loại. Và hắn nhìn thấy trong cái khối lượng tăng dần của văn minh nhân loại một sự thu thập ngu dại không sớm thì muộn thế nào cũng đổ ngược lại, tiêu diệt kẻ tạo thành ra nó. Nếu đó là sự thật, chúng ta vẫn phải sống làm như sự thật không phải như thế.
Tôi vẫn thấy tương lai là một vùng tối đen và trống rỗng, một khoảng mênh mông không thể biết, chỉ được soi sáng vài chỗ bởi câu chuyện kể của kẻ vượt thời gian. Nhưng tôi có ở bên cạnh, như một niềm an ủi, hai đóa hoa trắng lạ lùng - hai đóa hoa đã tàn, chuyển sang màu nâu héo, rũ bẹp xuống, mong manh hơn bao giờ hết - như một chứng minh rằng ngay cả khi lý trí và sức mạnh đã ra đi, lòng biết ơn và tính dịu dàng vẫn còn sống mãi trong trái tim con người.
dịch xong tại Bắc California, Hoa Kỳ
ngày 1 tháng 11, 1992