Tất cả mọi người đều muốn giữ tôi lại Varses.
- Chú sẽ tìm cho cháu một thợ cuốc, - chú Gaspard nói, - và chúng tôi sẽ không bao giờ xa nhau nữa.
- Nếu cháu muốn làm việc trong văn phòng, - ông kỹ sư bảo tôi, - tôi sẽ dành cho cháu một chỗ. Chú Gaspard cứ tưởng lẽ tự nhiên là tôi sẽ quay lại mỏ nơi mà bản thân chú sắp trở lại với cái vô tư của những người đã hàng ngày quen thách thức với cái chết. Nhưng tôi đâu có sẵn lòng trở lại nghề đẩy goòng! Biết được thế nào là mỏ tôi rất sung sướng, nhưng tôi không hề cảm thấy một chút thèm muốn nào được xuống lại đó. Chỉ nghĩ đến mỏ tôi đã cảm thấy ngột ngạt, cuộc sống ngoài trời phù hợp với tôi hơn..Tôi giải thích như vậy với tất cả những người đem lại cho tôi việc làm.
- Nếu cháu thích phiêu lưu và tự do, - cụ giáo nói, - cháu cứ việc theo con đường của cháu. Trong khi mọi người muốn giữ tôi lại Varses, Mattia có vẻ bận tâm lo lắng cái gì đó; tôi hỏi thì lúc nào nó cũng bảo là nó vẫn như mọi khi, chỉ đến lúc tôi bảo là ba ngày nữa lên đường nó mới thú thật với tôi vì sao nó buồn. Nó nhảy lên ôm cổ tôi.
- Thế là cậu không bỏ tớ à?
- Nó kêu lên.
Tôi huých cho nó một cái thật đau để dạy nó đừng có nghi ngờ tôi và đồng thời cũng để giấu niềm xúc động trong siết chặt lấy tôi khi nghe tiếng kêu của tình bạn đó. Vì tình bạn mà nó thốt lên tiếng kêu đó chứ không phải vì lợi lộc. Mattia không cần phải nhờ tôi mới kiếm sống được.
Chỉ riêng cái cười mỉm của nó, đôi mắt dịu dàng của nó, vẻ cởi mở của nó đã đủ làm xúc động lòng người ngay cả những người vô cảm với những tình cảm cao thượng nhất. Chính vì vậy mà trong chuyến du hành ngắn ngày với Capi, nó đã kiếm được mười tám phrăng, một món tiền đáng kể. Một trăm hai mươi tám phrăng trong túi với mười tám phrăng Mattia kiếm được tổng cộng là một trăm bốn mươi sáu phrăng, chỉ cần bốn phrăng nữa là mua được con bò cái.
Mặc dầu không muốn làm việc ở mỏ nhưng rời Varses tôi cũng buồn lắm vì phải xa Alexis, chú Gaspard và cụ giáo, nhưng số phận tôi là phải xa cách những người tôi yêu dấu mà lại! Cây đàn hác-pơ trên vai, lưng đeo túi, chúng tôi lại đi trên những con đường lớn cùng với Capi đang vui mừng lăn mình trong cát bụi.
Trước khi lên đường, Mattia và tôi đã thỏa thuận rất lâu về hành trình, vì tôi đã dạy nó cách xem bản đồ. Sau khi cân nhắc lợi hại, chúng tôi quyết định lẽ ra đi thẳng tới Ussel rồi từ đó đi Chavanon thì chúng tôi qua Clermont trước đã, không xa hơn bao nhiêu mà lại có lợi vì qua vùng suối nước nóng lúc này đang đông người đến chữa bệnh. Trong thời gian tôi làm việc trong mỏ, Mattia đã gặp một người làm trò gấu đang đi tới những thành phố có suối nước nóng mà theo như ông ta nói có thể kiếm được tiền. Mat-tia muốn kiếm tiền vì cho rằng một trăm năm mươi phrăng không đủ mua một con bò cái. Càng có nhiều tiền càng mua được bò đẹp, má Barberin.càng hài lòng. Vậy là chúng tôi phải đi Clermont đã. Dọc đường từ Paris đến Varses tôi đã bắt đầu dạy Mattia học, dạy nó đọc và cả những yếu lĩnh đầu tiên của âm nhạc nữa; từ Varses đến Clermont tôi lại dạy nó tiếp.
Có thể vì tôi không phải một giáo sư giỏi (có thể lắm) mà cũng có thể vì Mattia không phải học trò giỏi lắm (điều này cũng có khả năng) nên dạy nó đọc rất khó, nó tiến bộ rất chậm. Mattia rất chuyên cần, tha hồ dán mắt vào sách, nó chỉ đọc lên được những điều phóng túng bông lông do trí tưởng tượng đem lại chứ không phải do tự chú tâm mà có. Những lúc như vậy đôi khi tôi mất bình tĩnh, tôi đập vào quyển sách và giận dữ kêu lên: thằng này cứng đầu quá!
Nó chẳng giận tôi tí nào chỉ nhìn tôi với đôi mắt dịu dàng, cười nói:
- úng đấy, đầu tớ chỉ mềm ra khi có ai nện vào nó thôi, thằng cha Garifoli thấy ngay điều đó đấy. Trả lời như thế thì thử hỏi ai mà giận được?
Tôi cũng cười và chúng tôi lại học tiếp.
Nhưng trong âm nhạc thì không gặp những khó khăn như vậy. Ngay từ đầu Mattia đã tiến bộ rất kỳ lạ và rất đáng chú ý; rất nhanh chóng nó tiến tới chỗ hỏi tôi những câu hỏi làm tôi ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên đi đến lúng túng, cuối cùng nhiều lần tôi bối rối tịt ngắc.
Phải thú thật là chuyện này làm tôi phật ý và lấy làm nhục, tôi giữ vai trò một giáo sư nghiêm túc ấy thế mà khi học trò hỏi lại không trả lời được, thế có nhục không cơ chứ?
Mà nó vẫn không tha tôi:
- Tại sao nhịp đầu và nhịp cuối của một bản nhạc lại không phải lúc nào cũng bao gồm số phách đều nhau? Tại sao người ta không viết nhạc với cùng một khóa? Tại sao đối với đàn vĩ cầm người ta chỉ hợp âm một số nốt nhạc này mà không phải những nốt nhạc khác? Đến câu hỏi cuối cùng này thì tôi trang trọng trả lời là vĩ cầm không phải lĩnh vực của tôi, tôi chưa bao giờ quan tâm đến việc vì sao người ta phải hợp âm hay không hợp âm vĩ cầm và thế là Mattia cũng không đối đáp lại được nữa.
Đối với những câu hỏi khác thì không thể gỡ khó hiểu này được.
Thầy dạy, ông thầy thực thụ mà chúng tôi cần, phải là một nghệ sĩ cơ, một nghệ sĩ lớn thường hay ở những thành phố quan trọng. Bản.đồ cho tôi biết trước khi tới Clermont, thành phố quan trọng nhất chúng tôi gặp trên đường sẽ là Mende.
Cuối cùng chúng tôi tới Mende. Lúc này trời đã tối từ mấy tiếng đồng hồ trước nên đêm đó không thể đi học nhạc được vả lại chúng tôi đã mệt nhoài cả người.
Tuy nhiên Mattia rất sốt ruột không hiểu ở Mende, thành phố trông chẳng có gì quan trọng như tôi bảo, liệu có được một ông thầy dạy nhạc hay không, thế là vừa ăn súp tôi vừa hỏi bà chủ quán xem trong thành phố có ông thầy dạy nhạc nào không?
Bà trả lời là câu hỏi của chúng tôi làm bà ngạc nhiên: chẳng lẽ chúng tôi không biết ông Espinassous sao?
- Chúng cháu từ xa tới.
- Tôi nói.
- Từ xa lắm không?
- Từ bên ý ạ.
- Mattia trả lời.
Bà ta không còn ngạc nhiên nữa và thừa nhận từ tận xa như thế tới thì không biết ông Espi-nassous là phải.
- Tớ hy vọng chúng ta rơi vào đúng chỗ rồi.
- Tôi nói với Mattia bằng tiếng ý.
Đôi mắt bạn tôi sáng lên. Chắc chắn ông ta sẽ giải đáp được tất cả những câu hỏi của nó, ông ta không thể lúng túng khi phải giải thích lý do khiến người ta dùng dấu giáng khi xuống thấp và dấu thăng khi lên cao nữa.
Nhưng tôi chợt sợ: một nghệ sĩ nổi tiếng đến thế liệu có lên lớp cho những đứa trẻ khốn khổ như chúng tôi một bài học nhạc được chăng?
- Thưa, ông Espinassous có bận lắm không ạ?
- ồ! Tôi cho là ông ấy bận lắm.
- Bà có cho rằng sáng mai ông ấy tiếp chúng cháu không ạ?
- Hẳn chứ lại, ai ông ấy cũng tiếp miễn là trong túi có tiền.
Nghe thấy như vậy chúng tôi yên tâm hẳn lên, trước khi đi ngủ tuy mệt vẫn còn thảo luận với nhau mãi về những câu hỏi mà chúng tôi sẽ đặt ra cho vị giáo sư lỗi lạc ấy. Khi tới trước cửa căn nhà vị giáo sư mà người ta chỉ cho chúng tôi, chúng tôi cứ tưởng mình nhầm nhà, bởi vì trước cửa treo lủng lẳng hai cái đĩa cạo râu bằng đồng: nó không thể là biểu hiện của một thầy dạy nhạc được..Đứng mãi nhìn cái mặt hàng có vẻ như một cửa hàng thợ cạo đó thì có một người đi qua, chúng tôi bèn ngăn lại hỏi ông Espinassous ở đâu?
- ở đấy chứ còn ở đâu nữa.
- Bà ta chỉ vào cửa hàng thợ cạo đó.
Cuối cùng thì một giáo sư dạy nhạc cũng có thể ở trong nhà một người thợ cắt tóc được chứ sao! Chúng tôi bước vào. Cửa hàng được ngăn thành hai phần đều nhau: bên phải trên các giá bày nào lược nào bàn chải nào các lọ pom-mat, nào xà phòng; bên trái trên một cái bàn thợ kê sát vào tường có đặt hoặc treo các dụng cụ âm nhạc, đàn vĩ cầm, kèn đẩy coóc-nê, kèn tơ-rông-pét có rãnh.
- Xin hỏi ông Espinassous ạ?
- Mattia hỏi.
Một người đàn ông nhỏ bé linh hoạt và năng động như một con chùn đang cạo râu cho một bác nông dân ngồi trên ghế cắt tóc, trả lời:
- Tôi đây.
Tôi đưa mắt nhìn Mattia có ý nói ông thợ cạo - nhạc sĩ này có lẽ không phải người mà chúng tôi cần và hỏi ông này thì bằng ném tiền đi, nhưng Mattia đến ngồi ngay vào một chiếc ghế dựa, nói thoải mái:
- ông cắt tóc cho cháu có được không ạ?
- Được chứ, chàng trai trẻ.
Tôi sửng sốt trước thái độ tự tin của Mattia, nó nhìn trộm tôi một cái. Chẳng mấy chốc ông Espinassous cạo râu cho khách hàng của mình xong, tay cầm chiếc khăn mặt, bước tới cắt tóc cho bạn tôi.
- Thưa ông, - Mattia nói khi ông này buộc khăn vào cổ nó, - cháu và bạn cháu vừa có một cuộc tranh luận, và biết ông là một nhạc sĩ danh tiếng, chúng cháu nghĩ ông có thể cho chúng cháu một lời khuyên về vấn đề đang làm chúng cháu băn khoăn.
- Các cậu cứ nói thử xem đang bận tâm về cái gì nào.
Tôi hiểu ngay Mattia muốn đi tới đâu: trước hết nó muốn biết ông nhạc sĩ kiêm thợ cắt tóc này có trả lời được những câu hỏi của nó không đã, rồi trong trường hợp những câu trả lời làm nó thỏa mãn thì nó chỉ cần trả tiền bài học âm nhạc bằng giá tiền cắt tóc mà thôi, thằng này láu thật. Mattia hỏi:.
- Tại sao người ta lại chỉ hợp âm đàn vĩ cầm trên một số nốt nhạc này chứ không trên các nốt khác?
Tôi cứ tưởng ông thợ cắt tóc, đúng vào lúc đưa cái lược vào mái tóc dài của Mattia, sắp trả lời bằng một câu đại loại như câu trả lời của tôi, tôi đã cười thầm thì ông ta bắt đầu nói:
- Dây thứ hai bên trái của nhạc cụ phải cho nốt la theo thanh âm mẫu, các dây khác phải hợp âm làm sao cho các nốt mẫu từ quãng năm sang quãng năm, có nghĩa sol ở dây thứ tư; rê, dây thứ ba; la, dây thứ hai; mi, dây thứ nhất còn gọi là dây tiếu.
Hóa ra không phải tôi cười mà Mattia cười, nó cười bộ mặt ngây ra của tôi ư? Hay chỉ đơn giản vui mừng đã biết được điều muốn học? Nó cứ cười to giòn giã. Suốt trong thời gian cắt tóc Mattia không ngừng hỏi hết câu này đến câu khác, và câu hỏi nào ông thợ cắt tóc cũng trả lời một cách dễ dàng và chắc chắn như trả lời về vĩ cầm vậy. Nhưng sau khi trả lời xong, đến lượt ông ta tự hỏi mình và chẳng mấy chốc hiểu ngay chúng tôi đến ông với ý định gì.
Thế là ông cười phá lên:
- Bọn trẻ ranh này hay thật, - ông nói, - đến là nhộn! Rồi ông muốn Mattia, người mà rõ ràng nhộn hơn là tôi, chơi cho ông nghe một đoạn nhạc. Mattia dũng cảm cầm lấy cây đàn vĩ cầm, chơi một điệu van-xơ.
- Thế mà mày không hề biết một nốt nhạc nào!
- ông thợ cắt tóc vỗ tay kêu lên và xưng hô mày tao với Mattia ngay như thể quen nó từ đã lâu. Mattia chơi một bài bằng vĩ cầm xong, cầm lấy cây kèn cla-ri-nét treo trên tường.
- Cháu chơi được cả kèn cla-ri-nét và kèn đẩy coóc-nê nữa.
- Vậy mày chơi đi xem.
- Espinassous kêu lên.
Và Mattia chơi mỗi nhạc cụ một bài.
- Thằng bé này là thần đồng chứ chẳng chơi!
- Espinassous kêu.
- Nếu mày ở lại đây với bác, bác sẽ đào tạo mày thành một nhạc sĩ lớn, nghe chưa cháu! Buổi sáng cháu cắt tóc cạo mặt, còn bao nhiêu thì giờ trong ngày bác sẽ cho cháu học nhạc; đừng tưởng bác là thầy xoàng không dạy nổi cháu vì bác là thợ cắt tóc đâu nhé; người ta phải sống chứ, thế cho nên cạo mặt là việc tốt.
Không phải vì làm nghề cạo mặt mà Jasmin.không là nhà thơ giỏi nhất nước Pháp. Agen có Jasmin, Mende có Espinassous. Nghe xong bài diễn văn này tôi nhìn Mattia.
Nó sẽ trả lời thế nào đây? Tôi sắp mất bạn tôi, em ruột tôi chăng, cũng như đã liên tục mất tất cả những người tôi yêu quý? Tim tôi thắt lại. Tuy nhiên tôi không để mình bị chi phối vì tình cảm này.
- Hãy nghĩ đến cậu, Mattia ạ.
- Tôi ngậm ngùi bảo.
Nhưng nó nhanh nhẹn đến chỗ tôi, cầm lấy tay tôi:
- Phải rời bỏ bạn cháu ấy à? Cháu không thể. Cháu xin cảm ơn bác, bác ạ.
Espinassous nhấn mạnh rằng sau khi Mattia học xong nhạc lý cơ bản, ông sẽ tìm cách gửi nó đến Toulouse, rồi đến nhạc viện Paris; nhưng Mattia đáp:
- Bỏ Rémi ấy à! Không bao giờ!
- Thôi được, thằng bé này, bác muốn làm một cái gì đó cho mày quá, - Espinassous nói, -thôi để bác cho mày một cuốn sách có thể học trong đó những gì mày không biết.
Và ông bắt đầu lục tìm các ngăn kéo. Sau một lúc khá lâu, ông tìm thấy quyển sách có nhan đề Lý thuyết âm nhạc. Quyển sách đã cũ lắm, nhàu nát cả, nhưng quan trọng gì. Ông lấy cây bút, viết trên trang đầu như sau:
"Tặng cậu bé mà sau này khi trở thành nghệ sĩ sẽ không quên ông thợ cắt tóc thành Mende". Khi tới Mende tôi đã yêu Mattia lắm rồi nhưng ra khỏi thành phố Mende tôi càng yêu nó hơn nhiều. Còn gì tốt đẹp hơn, dịu lòng hơn là cảm nhận được một cách chắc chắn tình yêu bởi người mà mình yêu?
Và còn biểu hiện tình yêu thương nào lớn hơn khi mà Mattia từ chối lời đề nghị của Espi-nassous, có nghĩa từ chối sự yên ổn, sự an toàn, cuộc sống thoải mái, hiện tại thì được học hành, tương lai thì được giàu sang, để mà cùng tôi chia sẻ đời phiêu lưu gian khổ không có tương lai thậm chí có lẽ không còn có cả ngày mai nữa.
Trước mặt Espinassous tôi không thể nói được với nó rằng lời nó kêu lên "Bỏ Rémi ấy à!’ đã làm tôi xúc động đến thế nào, nhưng khi ra ngoài rồi, tôi cầm lấy tay nó, siết chặt mà nói:
- Cậu biết đấy, tình bạn giữa chúng ta, trung thành với nhau đến trọn đời đấy nhé! Nó mỉm cười nhìn tôi với đôi mắt mở to..
- Tớ đã biết điều đó từ trước ngày hôm nay rồi.
Mattia xưa nay vốn không say mê đọc sách lắm thế mà nay đọc vô cùng tiến bộ kể từ ngày đọc cuốn Lý thuyết âm nhạc của Kuhn. Không may là tôi không thể để nó đọc bao nhiêu tùy thích theo ý tôi và theo cả ý nó được vì chúng tôi buộc phải đi bộ suốt từ sáng đến chiều, phải đi từng đoạn đường dài sao cho mau chóng qua vùng Lozère và Auvergne này đi, vì nơi đây họ chẳng ưa gì ca sĩ, nhạc sĩ. Trên vùng đất đai khô cằn này người nông dân thu nhập ít, không mấy sẵn sàng sờ tay vào túi tiền, anh muốn chơi nhạc ư? Họ bình thản nghe nhưng sắp đến lúc quyên tiền thì họ lỉnh hoặc đóng cửa lại.
Trong những lối đi dạo chơi ở vùng suối nước nóng có những chỗ người ta gọi là phòng khách, đó là những lùm cây cao mà những người đến chữa bệnh ngồi bên dưới vài tiếng đồng hồ để được ở ngoài trời. Mattia nghiên cứu công chúng ngồi ở những phòng khách này, chúng tôi cứ theo những nhận xét đó mà tổ chức trình diễn.
Nếu thấy một người bệnh buồn rầu ngồi trên một chiếc ghế tựa mặt xanh xao, má trũng xuống, chúng tôi tránh đến ngay trước mặt họ một cách thô bạo mong lôi họ khỏi những ý nghĩ não nuột. Chúng tôi bắt đầu chơi đàn từ xa như thể chơi cho chính mình, tuy thế vẫn có ý thức chú ý xem sao. Chúng tôi liếc mắt quan sát: nếu họ giận dữ nhìn chúng tôi, chúng tôi đi chỗ khác, nếu họ có vẻ thích thú được nghe thì chúng tôi lại gần, Capi có thể mạnh dạn đưa cái bát gỗ ra mà không sợ bị đuổi.
Nhưng chủ yếu là nhờ đám trẻ con mà Mat-tia thu được những kết quả thắng lợi: nhờ cái vĩ kéo đàn mà chúng đâm ra muốn nhảy, chúng đang buồn thì Mattia làm cho chúng cười lên. Làm sao nó làm được như vậy tôi không biết.
Chỉ biết là như thế: nó làm cho người ta vui, người ta yêu nó. Kết quả của chiến dịch này thật là tuyệt vời:
Chúng tôi thu được sáu mươi tám phrăng. Cộng với một trăm bốn mươi sáu phrăng đã có là hai trăm mười bốn phrăng. Đã đến giờ tiến về Chavanon không chậm trễ, trước đó qua Ussel nơi người ta nói đang có chợ phiên gia súc rất quan trọng.
Chợ phiên, trúng việc của chúng tôi rồi! Cuối cùng chúng tôi có thể mua con bò cái ra bò cái.mà chúng tôi lúc nào cũng nói đến, con bò mà vì nó chúng tôi đã dành dụm rất quyết liệt. Cửa hàng quần áo cũ trước kia cụ Vitalis đưa tôi đến để sắm cho tôi bộ đồ nghệ sĩ vẫn như cũ khi tôi tìm thấy nó. Ngoài cửa vẫn đung đưa những bộ quần áo có khâu đính các giải trang sức đã khiến tôi khâm phục đến say mê, tôi cũng thấy vẫn những khẩu súng cũ, những cây đèn cũ ấy. Tôi cũng muốn chỉ cho Mattia thấy cái nơi tôi đã khởi đầu sự nghiệp của mình bằng vai trò người đày tớ của ngài Joli - Coeur, Capi cũng nhận ra chỗ đó.
Sau khi để túi và nhạc cụ ở quán trọ mà trước đây tôi đã ở cùng cụ Vitalis, theo mọi người chỉ dẫn chúng tôi đến tìm ông thú y.
- Chúng cháu muốn mua một con bò cái cho nhiều sữa. Thưa ông thú y, chúng cháu đến nhờ ông giúp, kiến thức khoa học của ông sẽ khiến bọn lái bò không thể ăn cắp của chúng cháu được. Tôi vừa nói vừa bắt chước điệu bộ quý phái mà cụ Vitalis vẫn dùng khi muốn chinh phục lòng người.
- Các cháu mua bò cái làm gì mới được chứ?
Tôi giải thích ngắn gọn cho ông hiểu ý định của tôi.
- Các cháu là những cậu bé tốt quá, - ông nói, - ngày mai tôi sẽ cùng các cháu ra chợ phiên, hứa với các cháu tôi sẽ chọn cho các cháu một con bò vừa tốt vừa đẹp, nhưng muốn mua được phải có tiền đấy.
Tôi không trả lời, mở chiếc mù-xoa bọc tài sản của chúng tôi ra.
- Thế thì được rồi, bảy giờ sáng mai các cháu đến đây đi với tôi.
- Thưa ông thú y, chúng cháu phải trả ông bao nhiêu tiền ạ?
- Không phải trả gì: đời nào tôi lại lấy tiền của những đứa trẻ ngoan như các cháu! Tôi không biết làm thế nào để cảm ơn ông, nhưng Mattia có một ý hay.
- Thưa ông, ông có yêu âm nhạc không?
- Rất yêu thích, cháu ạ.
- ông có đi ngủ sớm không ạ?
Hai câu chuyện chẳng ăn khớp gì với nhau, tuy nhiên ông thú y vẫn trả lời:
- Vào lúc chín giờ vừa điểm.
- Cảm ơn ông. Xin hẹn mai gặp ông ạ..Tôi đã hiểu ý Mattia.
- Cậu định biểu diễn hòa nhạc cho ông thú y chứ gì?
- Tôi nói.
- Đúng thế đấy: một khúc nhạc chiều vào lúc ông ấy sắp đi ngủ; đó chính là thứ ta làm cho những người mà ta yêu.
- Cậu có ý đó hay thật, thôi ta về quán chuẩn bị những bài nhạc sẽ chơi tối nay. Chín giờ kém hai, ba phút gì đó chúng tôi đã ở trước nhà ông thú y, Mattia với cây vĩ cầm, tôi với cây đàn hác-pơ. Phố rất tối, vì chín giờ trăng lên nên người ta chẳng cần thắp đèn đường làm gì, các cửa hàng đóng cả, người qua lại thưa thớt.
Tiếng đầu tiên của chín giờ vừa điểm, chúng tôi vào nhịp ngay, và trong con phố hẹp tĩnh lặng này tiếng đàn của chúng tôi cất lên không khác gì trong một phòng hòa nhạc thật vang. Các cửa sổ mở ra, chúng tôi trông thấy những cái đầu đội mũ ngủ, buộc mù-xoa, buộc khăn quàng dài; từ cửa sổ nhà nọ sang nhà kia người ta gọi nhau ngạc nhiên.
Ông bạn thú y của chúng tôi ở một ngôi nhà mà phía góc có một cái tháp con rất duyên dáng, một trong những cửa sổ của cái tháp mở ra, và ông ta cúi xuống để xem ai chơi nhạc như vậy. Có lẽ ông nhận ra chúng tôi và hiểu ý định của chúng tôi nên ông ta lấy tay ra hiệu bảo chúng tôi im.
- Tôi sẽ mở cửa cho các cháu vào chơi nhạc trong vườn.
- ông nói.
Và gần như ngay lập tức cửa ra vào mở ra.
- Các cháu thật tuyệt vời, - ông vừa nói vừa bắt tay mỗi chúng tôi thật chặt, - nhưng làm như vậy là quấy rầy mọi người: chẳng lẽ các cháu không nghĩ rằng cảnh sát có thể bắt các cháu vì tội ban đêm làm ầm trên đường phố công cộng ư? Buổi hòa nhạc của chúng tôi diễn ra trong vườn, tuy vườn không lớn nhưng xinh xắn có vòm cây leo bao phủ.
Vì ông thú y có vợ và rất nhiều con nên chúng tôi có số khán giả đông đúc vây quanh trong phút chốc; người ta thắp nến dưới giàn dây leo, chúng tôi chơi nhạc cho tới tận quá mười giờ đêm; cứ mỗi lần chơi xong một bài mọi người lại vỗ tay đề nghị chơi tiếp..Nếu ông thú y không đuổi chúng tôi về thì theo yêu cầu của bọn trẻ con hẳn chúng tôi phải chơi cho tới đêm khuya.
- Thôi để các chú bé đi ngủ, - ông nói, -ngà y mai họ phải đến đây từ bảy giờ sáng rồi. Nhưng ông còn mời chúng tôi một bữa ăn nhẹ trước khi ra về làm chúng tôi rất dễ chịu, lúc đó để cảm ơn, Capi bèn làm vài trò vui nhộn đặc sắc nhất làm trẻ con thú quá. Đến tận gần nửa đêm chúng tôi mới ra về.
Sáng hôm sau, khi chúng tôi xuống sân quán trọ đã thấy đầy xe bò, cái nọ ngoắc vào cái kia, rồi những chiếc xe tới, từ trên xe những bác nông dân mặc quần áo ngày chủ nhật đang lấy hai tay đỡ vợ xuống đất; người nào người ấy rất phấn chấn, phụ nữ thì vuốt lại váy cho phẳng. Trong phố một làn sóng di động chuyển về nơi chợ phiên; vì lúc ấy mới sáu giờ nên chúng tôi đi xem một lượt những con bò cái đã tới chợ để chọn trước đã. ái chà! Những con bò cái mới đẹp làm sao!
Đủ màu, đủ cỡ, con thì béo con thì gầy, có những con đứng với bò con, có những con kéo lê dưới đất những cặp vú đầy sữa. Trong chợ phiên có cả ngựa đang hí, những con ngựa cái đang liếm cho ngựa non, những con lợn béo đang rúc vào đất đào lỗ, những con lợn sữa đang rú lên như bị người ta lột sống da chúng, rồi gà mái, rồi ngỗng... Nhưng chúng tôi cần gì! Chúng tôi chỉ để mắt nhìn vào những con bò cái, chúng vừa chịu đựng sự thẩm xét của chúng tôi vừa nhấp nháy mi, hàm hơi động đậy, bình thản nhai lại bữa ăn tối qua, không hề ngờ từ nay sẽ không còn được ăn cỏ trên đồng cỏ nơi chúng đã lớn lên nữa.
Sau nửa giờ đồng hồ đi dạo như thế chúng tôi đã tìm được mười bảy con bò cái hoàn toàn thích hợp với chúng tôi.
Bảy giờ ông thú y đã đợi chúng tôi, chúng tôi cùng ông trở lại chợ phiên, vừa đi chúng tôi vừa giải thích một lần nữa những đức tính đòi hỏi ở con bò muốn mua, tóm tắt trong hai chữ: ăn ít nhưng cho sữa nhiều.
Mattia trỏ một con bò trắng:
- Con này tốt này. Tôi trỏ một con bò nâu:
- Theo tôi thì con này khá hơn. Ông thú y không đồng ý rồi đi tới một con bò thứ ba: một con bò cái nhỏ nhắn bốn chân.mảnh khảnh, lông đỏ, tai và má nâu, đôi mắt viền đen, quanh mõm có một vòng trắng.
- Đây là một con bò vùng Rouergue đúng ý các cháu đây.
- ông nói.
Một người nông dân có vẻ gầy còm dắt dây buộc nó, ông thú y hỏi người đó định bán con bò bao nhiêu.
- Ba trăm phrăng.
Con bò cái nhỏ vừa đẹp vừa nhanh nhẹn có vẻ láu lỉnh này đã chinh phục chúng tôi rồi; chúng tôi đành buông hai tay xuống. Tôi làm hiệu cho ông thú y là phải sang con khác thôi, nhưng ông cũng ra dấu lại là hãy kiên trì.
Thế là một cuộc mặc cả diễn ra giữa ông và người nông dân. ông trả một trăm năm mươi phrăng; người nông dân bớt mười phrăng. ông thú y trả lên đến một trăm bảy mươi người nông dân bớt xuống còn hai trăm tám mươi.
Nhưng đến đây thì sự việc không tiếp diễn theo chiều hướng đó nữa. Đáng lẽ cứ trả giá thì ông thú y bắt đầu xem xét chi tiết con bò: chân nó quá yếu, cổ quá ngắn, sừng lại quá dài; phổi hẹp, hình dáng vú nó không đẹp.
Người nông dân trả lời là vì chúng tôi đã hiểu rõ về nó đến thế thì sẽ bớt còn hai trăm năm mươi phrăng để nó được ở trong những bàn tay lọc lõi. Đến đây chúng tôi đâm sợ, cả hai chúng tôi hình dung đây là một con bò chẳng ra gì. Tôi nói:
- Thôi ta đi xem con khác.
Thấy nói thế người nông dân làm một động tác cố gắng, bớt thêm mười phrăng nữa. Và rồi cứ bớt thêm bớt thêm, giá xuống tới hai trăm mười phrăng, và dừng tại đó. Ông thú y bằng một cú huých tay, ra hiệu để chúng tôi hiểu là ông chê không thật đâu, con bò vẫn là tuyệt hảo; nhưng hai trăm mười phrăng đối với chúng tôi là một món tiền quá lớn. Tôi quyết định.
- Thì hai trăm mười phrăng, - tôi nói, - tưởng là xong.
Tôi giơ tay ra nắm lấy cái dây buộc bò nhưng người nông dân không chịu đưa.
- Thế còn tiền cặp tóc cho vợ tôi?
- ông ta nói.
Lại tranh luận, cuối cùng chúng tôi đồng ý thêm hai mươi xu cho cặp tóc. Chúng tôi còn lại ba phrăng..Tôi lại giơ tay ra: người nông dân nắm lấy và siết chặt tay tôi như một người bạn. Chính vì là bạn nên tôi không quên chút rượu cho con gái ông ta. Rượu cho con gái mất mười xu. Lần thứ ba, tôi muốn nắm lấy dây buộc bò, nhưng ông bạn nông dân của tôi ngăn tôi lại:
- Thế cậu có mang theo cái vòng cổ bò không đấy?
- ông ta nói.
- Tôi bán bò chứ có bán cái vòng cổ của nó đâu.
Tuy nhiên vì tôi là bạn, ông ta sẵn sàng nhượng cho tôi cái vòng cổ với ba mươi xu là giá rẻ. Phải có vòng cổ mới dắt được bò chứ, tôi đành bỏ ba mươi xu, tính ra tôi chỉ còn có hai mươi xu trong người. Tôi đếm hai trăm mười ba phrăng rồi lần thứ tư đưa tay ra.
- Thế dây dắt bò của cậu đâu?
- Người nông dân hỏi.
- Tôi bán cái vòng cổ chứ có bán cái dây buộc đâu. Dây buộc làm chúng tôi mất thêm hai mươi xu cuối cùng. Sau khi trả nốt, cuối cùng con bò được giao cho chúng tôi, nhưng chúng tôi không có lấy một xu để mua thức ăn cho bò và cho cả chúng tôi nữa.
- Ta sẽ làm việc, - Mattia nói, - các quán cà-phê đang đông, ta chia đôi ra, chơi ở tất cả các quán, tối về sẽ thu được khối tiền.
Sau khi đưa con bò vào buộc trong chuồng ngựa của quán trọ, chúng tôi mỗi người đi làm việc ở một phía, tối về tính tiền thu được của Mattia là bốn phrăng năm mươi xăng-tim còn tôi ba phrăng. Với bảy phrăng năm mươi xăng-tim, chúng tôi lại giàu rồi. Nhưng niềm vui kiếm được món tiền này thật quá nhỏ so với việc tiêu mất hai trăm mười bốn phrăng.
Chúng tôi yêu cầu người tớ gái trong bếp đi vắt sữa con bò để chúng tôi ăn tối bằng sữa của nó: chưa bao giờ chúng tôi được uống sữa ngon như thế. Sáng hôm sau, dậy cùng một lúc với mặt trời mọc chúng tôi lên đường đi Chavanon.
Để cho con bò đỡ mệt và đến Chavanon không muộn quá, ý tôi là ngủ lại trong ngôi làng mà tôi đã qua đêm đầu tiên của đời du hành cùng cụ Vitalis. Sáng hôm sau, từ đó ra đi chúng tôi sẽ đến má Barberin được sớm sủa.
Nhưng số phận, bấy lâu nay vẫn thuận buồm xuôi gió, bỗng trở mặt lại chúng tôi. Chúng tôi quyết định chia ngày đi đường hôm đó làm hai phần cắt đôi ra bằng bữa trưa, chủ yếu là bữa trưa của con bò cái..Khoảng mười giờ, tìm được một nơi cỏ dày xanh mướt, chúng tôi bèn hạ túi xuống, cho con bò xuống đám cỏ đó mà ăn.
Lúc đầu tôi định cứ nắm lấy dây dắt nhưng nó tỏ ra rất yên lặng chỉ chuyên chú vào ăn, tôi bèn quấn cái dây dắt vào hai sừng nó rồi ngồi bên cạnh nó ăn bánh mì. Dĩ nhiên chúng tôi ăn xong rồi nó vẫn chưa ăn xong.
Trong khi chờ nó chúng tôi mở túi, lấy nhạc cụ.
- Này để tớ chơi cho nó nghe một điệu kèn đẩy nhé.
- Mattia nói, thằng bé vốn khó lòng ngồi được yên. Vừa nghe mấy nốt nhạc đầu tiên, con bò cái của chúng tôi ngẩng đầu lên rồi bỗng nhiên nó phi nước đại chạy mất.
Chúng tôi lập tức đuổi theo gọi nó, tôi gọi cả Capi ngăn nó lại, Capi vội nhảy vào chân nó. Nhưng tất nhiên là không ngăn nó lại được.
Cách độ hai cây số là một ngôi làng lớn, chúng tôi dừng lại vì con bò của chúng tôi phi vào đó. Nó vào làng trước chúng tôi, do con đường thẳng tắp nên chúng tôi trông thấy được người ta ngăn nó lại và đã tóm lấy nó.
Tôi nghĩ chỉ việc đòi lại con bò, thế nhưng mọi người vây ngay lấy chúng tôi hỏi hết câu này đến câu khác: chúng tôi từ đâu tới? Lấy con bò này ở đâu? Những câu trả lời của chúng tôi không thuyết phục nổi họ, vài giọng nói cất lên rằng chúng tôi đã ăn cắp con bò và phải cho chúng tôi vào nhà tù.
Nỗi sợ hãi đến kinh hoàng mà chữ nhà tù gây ra làm cho tôi cuống lên và vì thế làm hại tôi: tôi tái mặt, ấp a ấp úng. Vừa chạy xong lại đang thở hổn hển, tôi chịu không sao bảo vệ được mình. Lúc đó một viên cảnh sát đi tới, mọi người bèn kể tóm tắt chuyện chúng tôi và vì thấy chưa rõ đầu đuôi nên ông ta tuyên bố hãy đưa con bò vào kho giữ đồ của cảnh sát và đưa chúng tôi vào tù đã rồi liệu sau.
Tôi muốn phản kháng, Mattia muốn nói, nhưng viên cảnh sát bắt chúng tôi phải im, nhớ lại cảnh diễn ra giữa cụ Vitalis và viên sen đầm ở Toulouse, tôi bảo Mattia hãy im và đi theo ông ta đã. Tới nhà tù tôi hy vọng được một chút: người gác nơi làm việc của xã trưởng đồng thời là cai.ngục và là người gác đồng lúc đầu không chịu nhận chúng tôi. Viên cảnh sát ép ông ta phải mở một cánh cửa. Hóa ra lý do ông ta làm khó không muốn nhận chúng tôi là vì ông ta đang dùng nhà tù làm nơi phơi hành, hành giải đầy trên ván sàn. Người ta lục túi chúng tôi, có bao nhiêu tiền thu lấy, lấy cả những con dao, diêm của chúng tôi, trong lúc đó người cai ngục nhanh nhẹn thu gom chỗ hành lại. Sau đó họ bỏ chúng tôi đấy, cửa khóa lại với tiếng sắt thép loảng xoảng thực sự bi thảm. Thế là chúng tôi vào tù. Trong bao lâu đây?
Cuối cùng cửa mở ra, chúng tôi thấy một ông già tóc bạc đi vào, vẻ mặt cởi mở tốt bụng làm chúng tôi thấy hy vọng ngay.
- Mấy thằng nhãi này, đứng lên chứ!
- Cai ngục nói.
- Hãy trả lời ngài quan tòa xét xử ngay tại chỗ đi nào.
- Được rồi, được rồi, - vị quan tòa ra hiệu cho cai ngục để ông lại một mình, - để tôi hỏi thằng bé này trước (ông lấy ngón tay chỉ tôi), đem thằng bé kia đi, giữ lấy nó tôi sẽ hỏi sau.
- Người ta buộc tội cháu lấy cắp một con bò cái đúng không?
- Vị quan tòa nhìn thẳng vào mắt tôi hỏi. Tôi trả lời chúng tôi mua con bò ở chợ phiên Ussel, tôi nói tên ông thú y đã giúp chúng tôi mua bò.
- Các cháu mua con bò này làm gì?
- Để đưa nó đến Chavanon cho bà mẹ trước đây là vú nuôi của cháu để tỏ lòng biết ơn bà đã săn sóc cháu, coi đó là một kỷ niệm về tình thương của cháu đối với bà.
- Bà tên là gì?
- Là má Barberin ạ.
- Có phải bà là vợ ông công nhân nề cách đây mấy năm bị què ở Paris không?
- úng đấy ạ, thưa ngài quan tòa.
Quan tòa liên tiếp hỏi tôi nhiều câu khác nữa nhưng tôi phải trả lời là nếu ông hỏi má Barberin thì mục đích của chúng tôi thế là hỏng, không còn gây cho má sự ngạc nhiên nào nữa. Tuy nhiên, có lúng túng thật nhưng tôi lại vô cùng hài lòng: nếu như quan tòa có ý muốn hỏi má Barberin có nghĩa má vẫn còn sống.
Giữa những câu hỏi, quan tòa nói với tôi là gần đây ông Barberin đã trở lại Paris. Điều này làm tôi vui sướng quá đến nỗi tôi tìm được những câu trả lời đầy sức thuyết phục.để làm quan tòa tin rằng chỉ cần lời khai của ông thú y là đủ.
- Thế các cháu lấy tiền ở đâu mà mua bò?
- Chúng cháu kiếm được.
Tôi giải thích làm sao mà từ Paris đi Varses, rồi từ Varses tới những suối nước nóng, chúng tôi đã dành dụm từng xu một.
- Các cháu làm gì ở Varses?
Câu hỏi này buộc tôi lại phải thuật lại câu chuyện. Khi quan tòa nghe nói tôi đã từng bị chôn vùi trong mỏ Truyère ông bảo tôi ngừng lời, rồi bằng một giọng dịu hẳn gần như bạn bè, ông hỏi tôi:
- Thế ra cháu là Rémi?
- ông nhìn tôi với đôi mắt dịu dàng âu yếm.
- Vâng.
Tôi cứ tưởng ông thả chúng tôi ra nhưng ông chẳng làm gì cả, ông để tôi lại một mình, không nói gì hết. Có lẽ ông thẩm vấn sang Mattia để xem lời chúng tôi khai có phù hợp với nhau không? Tôi cứ ngồi mà suy nghĩ khá lâu, cuối cùng ngài quan tòa trở lại với Mattia.
- Tôi sẽ cho đi hỏi tình hình ở Ussel và nếu ở đó họ khẳng định lời nói của các cháu là thực như tôi hy vọng thì mai các cháu sẽ được thả.
- Còn con bò của chúng cháu thì sao ạ? -Mattia hỏi.
- Có ai vắt sữa cho nó không?
- Yên tâm các chú nhóc ạ, người ta sẽ mang cho các cháu một bát sữa to để ăn tối. Quan tòa vừa đi khỏi, tôi thông báo cho Mattia hai tin tức làm tôi quên cả cảnh tù đày: Má Barberin còn sống còn lão Barberin đang ở Paris. Mattia nói:
- Con bò sẽ tha hồ mà tiến vào đại thắng.
Và vui quá nó vừa nhảy vừa hát, tôi nắm lấy hai tay nó, bị niềm vui của nó lôi kéo, cả Capi, cho đến lúc đó vẫn ngồi ủ rũ lo âu trong một xó nhà, cũng tới xen vào giữa hai chúng tôi, đứng trên hai chân sau. Thế là chúng tôi cùng nhau nhảy một điệu tuyệt hay làm cho người cai ngục sợ quá, có lẽ sợ cho hành của ông ta thì đúng hơn, phải chạy vào xem có phải chúng tôi nổi loạn hay không? Cai ngục bảo chúng tôi im nhưng không phải bằng giọng thô lỗ như trước, lúc cùng vào với ngài quan tòa..Qua đó chúng tôi thấy tình thế mình không đến nỗi xấu, và chẳng bao lâu sau cai ngục mang vào một liễn sữa (sữa con bò của chúng tôi) nhưng chưa phải đã hết: còn một cái bánh mì to, một miếng thịt bê lạnh mà theo ông ta nói, là của quan tòa gửi cho.
Chưa bao giờ tù nhân lại được đối xử tử tế như thế, vừa ăn thịt bê và vừa uống sữa tôi đã thay đổi những ý nghĩ của mình về nhà tù; rõ ràng là nó khá hơn tôi hình dung nhiều!
Tám giờ sáng cửa mở ra chúng tôi nhìn thấy ngài quan tòa đi vào cùng với ông bạn thú y của chúng tôi muốn đích thân đến giải phóng cho chúng tôi. Quan tòa bắt tay chúng tôi còn ông thú y ôm hôn chúng tôi.
- Thôi các bạn nhỏ lên đường mạnh giỏi nhé!
Chúng tôi vào làng này thảm hại thế nào thì ra đi oai hùng như thế, đầu ngẩng cao tay dắt bò. Những người nông dân đứng trước cửa nhìn chúng tôi với ánh mắt thân thiện. Chẳng bao lâu chúng tôi tới ngôi làng mà trước đây tôi đã dừng lại cùng cụ Vitalis vào cái đêm đầu tiên của cuộc sống chung.
Từ đây chỉ còn phải qua một khoảng đất truông nữa thôi là tới cái dốc xuống Chavanon. Qua con phố chạy qua làng một ý nghĩ bỗng nảy ra làm tôi phải bảo cho Mattia ngay..
- Cậu biết đấy tớ đã hứa cho cậu ăn bánh xèo ở nhà má Barberin, nhưng muốn làm bánh xèo phải có bơ, bột và trứng.
- Ngon quá nhỉ.
- Ngon hẳn đi ấy chứ, rồi cậu sẽ thấy; cuộn lại ăn ngập miệng luôn. Nhưng ở nhà má Bar-berin chắc gì đã có bột và bơ vì má không giàu đâu, hay là ta đem tới?
- Phải đấy, ý hay đấy.
Tôi vào cửa hàng thực phẩm khô mua nửa ki-lô bơ, hai ki-lô bột, rồi chúng tôi tiếp tục đi. Còn mười cây số, rồi còn tám, còn sáu; có điều lạ là càng đến gần má Barberin con đường càng dài ra chứ không như ngày tôi xa má.
Nhưng tôi vô cùng xúc động và bồn chồn, chốc chốc tôi lại xem đồng hồ.
- Nơi này đẹp đấy chứ?
- Tôi bảo Mattia.
Chúng tôi đã tới đỉnh đồi nơi bắt đầu con đường dốc với nhiều đoạn chữ chi dẫn xuống Chavanon, con đường đi qua nhà má Barberin. Chỉ vài bước nữa là chúng tôi tới nơi tôi đã xin phép cụ Vitalis được ngồi lên cái ụ đất nhìn về cái nhà mà tôi tưởng không bao giờ còn trông thấy nữa.
- Cầm dây dắt bò này.
- Tôi bảo Mattia.
Tôi nhảy phắt một cái lên ụ đất: chẳng thấy gì thay đổi trong thung lũng của chúng tôi cả.
- Gì thế?
- Mattia hỏi.
Nó đến gần tôi.
- Theo tay tớ chỉ này, - tôi bảo nó, - đấy là nhà má đấy.
Đúng lúc này một đám khói màu vàng bốc lên từ ống khói và vì không có gió nó bốc thẳng lên không trung theo dọc sườn đồi.
- Má Barberin thế là có nhà.
- Tôi nói. Một ngọn gió nhẹ thổi qua cây lá làm cột khói vỡ ra tỏa vào mặt chúng tôi: làn khói có mùi lá dẻ. Bỗng nhiên nước mắt tôi ứa ra.
- Thôi đi xuống mau lên.
- Tôi nói.
- Nếu má Barberin ở nhà thì ta làm sao thu xếp để má ngạc nhiên được nhỉ?
- Mattia hỏi.
- Cậu sẽ vào trước: cậu nói là ông hoàng gửi tới cho má con bò, khi má hỏi ông hoàng nào, tớ sẽ xuất hiện.
Vừa tới chỗ ngoặt ngay trên căn nhà, chúng tôi nhìn thấy một chiếc khăn quàng trắng hiện.ra trong sân: đó là má Barberin, má mở cửa rào ra rồi đi về phía làng.
Tôi biết theo thói quen của má Barberin cửa chỉ cài then mà thôi, chúng tôi có thể vào trong nhà được; nhưng trước hết phải cho con bò vào chuồng đã. Tôi bèn đi vào chuồng bò xem sự tình ra sao thì thấy chất đầy những bó củi. Tôi gọi Mattia, hai đứa buộc con bò vào trước máng cỏ xong, mau lẹ chất tất cả các bó củi vào một góc, làm việc này cũng nhanh thôi.
- Bây giờ, - tôi bảo Mattia, - chúng ta vào trong nhà; tớ sẽ ngồi bên góc lò sưởi cho má Barberin thấy tớ ở đó. Thanh chắn khi má đẩy bao giờ cũng kêu lên ken két, cậu sẽ kịp trốn vào sau giường cùng với Capi, má chỉ nhìn thấy mình tớ, cậu thử tưởng tượng xem má sẽ ngạc nhiên đến thế nào? Sự việc xảy ra đúng như thế. Chúng tôi vào nhà, tôi ngồi ở lò sưởi y như ngày xưa tôi vẫn ngồi trong bao buổi tối mùa đông. Tóc tôi dài chưa cắt, tôi giấu chúng vào trong cổ áo vét, tôi thu mình lại thật nhỏ cố giống bé Rémi chừng nào hay chừng ấy.
Yên vị xong tôi nhìn chung quanh. Hình như tôi chỉ mới rời căn nhà này từ tối hôm qua, chẳng có gì thay đổi cả, mọi thứ vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Nếu tôi dám bỏ chỗ ngồi này hẳn tôi đã vui mừng tới nhìn gần từng đồ vật một; nhưng vì má Barberin có thể hiện ra bất kỳ lúc nào cho nên tôi đành ngồi im mà nhìn ngắm vậy thôi. Bỗng nhiên tôi thấy một chiếc khăn quàng trắng, đồng thời thanh chắn kêu kèn kẹt.
- Trốn nhanh đi Mattia.
- Tôi bảo Mattia.
Tôi càng thu mình nhỏ hơn. Cửa mở ra: từ ngưỡng cửa má Barberin đã nhìn thấy tôi.
- Ai đấy?
- Má hỏi.
Tôi chỉ nhìn má không trả lời, còn má, má cũng nhìn tôi. Bỗng nhiên hai tay má run lên.
- Trời ơi!
- Má thì thầm.
- Có thể thế được không, Rémi ư con?
Tôi đứng dậy, chạy về phía má, tôi ôm ghì má trong hai cánh tay.
- Má ơi!
- Con trai tôi, đây là con trai tôi!
Nhiều phút sau chúng tôi mới định thần lại được và lau xong nước mắt..
- Đúng rồi, - má nói, - giá má không lúc nào cũng nghĩ đến con thì má đã không nhận ra con, con thay đổi nhiều quá, trông khỏe mạnh lên nhiều!
Một tiếng hít hít nghẹn ngào làm tôi nhớ ra Mattia, tôi gọi nó, nó đứng lên.
- Đây là Mattia, em trai con.
- A! Thế ra con tìm được cha mẹ rồi à? -Má Barberin kêu lên.
- Không, con muốn nói đây là bạn con, bạn thân của con, còn đây là Capi, cũng là bạn con, bạn thân của con; chào má của chủ mày đi nào Capi!
Capi đứng thẳng lên trên hai chân sau, một chân trước để lên chỗ trái tim, nó cúi chào rất trân trọng làm cho má Barberin phải phì cười và khô nước mắt. Mattia ra hiệu cho tôi nhớ lại điều bất ngờ chúng tôi muốn dành cho má.
- Má ơi, - tôi bảo má Barberin, - ta ra sân chơi một chút đi.
- Ta cũng có thể ra xem cái vườn của con nữa, má vẫn giữ y nguyên như con sắp xếp trước kia để khi về nhà con vẫn thấy nó như thế vì má vẫn tin thể nào con cũng trở về. Đã đến lúc rồi.
- Thế còn chuồng bò, - tôi nói, - nó vẫn không có gì thay đổi từ khi Roussette đi hả má?
- Dĩ nhiên là không rồi, má chất củi vào đó.
Vừa vặn chúng tôi đứng trước chuồng bò, má Barberin đẩy cửa, ngay lúc đó con bò của chúng tôi, đang đói tưởng có người đến cho ăn, bắt đầu rống lên.
- Một con bò cái!
- Má Barberin kêu lên.
Lúc đó không còn nhịn được nữa, tôi và Mattia cười phá lên. Má Barberin ngạc nhiên nhìn chúng tôi.
- Đó là một điều bất ngờ phải không má? -Tôi nói.
- ôi! Con trai yêu quý!
- Má Barberin vừa kêu lên vừa ôm hôn tôi.
Rồi chúng tôi đi vào trong chuồng bò để cho má Barberin có thể xem kỹ con bò của mình. Mỗi một phát hiện lại làm má reo lên:
- Con bò đẹp biết chừng nào! Bỗng nhiên má dừng lại nhìn tôi:
- ái chà! Thế ra con đã giàu rồi ư?
- úng thế đấy má ạ, - Mattia cười nói, -chúng con còn năm mươi tám xu..Má Barberin lại có dịp nhắc lại điệp khúc chỉ có điều hơi khác đi một chút:
- Những đứa con trai ngoan thật là ngoan! Điều này làm tôi có một niềm vui êm dịu trong lòng: má đã nghĩ đến Mattia và trong tim má, má đã gắn bó chúng tôi lại với nhau.
Trong lúc này con bò tiếp tục rống. Mattia nói:
- Nó đòi vắt sữa đấy ạ!
Không cần nghe thêm nữa tôi chạy vào lấy cái xô bằng sắt tây đã cọ rửa kỹ. Má Barberin hài lòng không biết thế nào mà kể khi thấy sữa đầy đến hai phần ba xô.
- Má nghĩ con bò này cho nhiều sữa hơn Roussette.
- Má nói.
Sữa vắt xong con bò được thả ra sân ăn cỏ, chúng tôi vào nhà, mang theo xô sữa rồi, tôi đem bơ và bột đặt lên bàn, vào chỗ dễ nhìn thấy nhất.
Thấy thế má Barberin lại reo lên nhưng tôi đành thật thà ngắt lời má:
- Má ơi, - tôi nói, - nỗi bất ngờ này không những dành cho má mà cho cả chúng con, chúng con đói đến chết được và chỉ mong được ăn bánh xèo. Má còn nhớ vào ngày thứ ba béo cuối cùng của má con ta, ta bị ngắt quãng như thế nào không? Và chỗ bơ má đi vay để làm bánh xèo cho con đã bị sài phí phạm như thế nào vào việc nấu với hành trong nồi không? Lần này ta sẽ không bị ai làm phiền nữa.
- Con biết là Barberin đi Paris rồi à?
- Vâng.
- Thế con có biết ông ấy đi Paris làm gì không?
- Không ạ.
- Đi vì việc có lợi cho con đấy.
- Cho con?
- Tôi sợ hãi nói. Nhưng trước khi trả lời má nhìn Mattia như thể không muốn nói trước mặt nó.
- ồ, má cứ nói trước mặt Mattia.
- Tôi bảo.
- Nhưng giải thích ra thì dài lắm.
- Má nói.
- ông ta liệu có về ngay không?
- ồ! Không đâu. Chắc chắn là khác.
- Thế thì có gì mà vội. Má hãy làm bánh xèo cho chúng con trước đã.
- ở nhà không có gà mái...
- Chúng con không mang trứng sợ vỡ. Má có đi vay được ở đâu đây không?.Má có vẻ lúng túng, tôi hiểu ngay chắc má đã đi vay thường xuyên.
- Thôi để con đi mua thì hơn. Con chạy đi ngay đây.
- Tôi nói.
Tôi mua một tá trứng và một miếng mỡ. Khi tôi trở lại chỉ còn việc nhào trứng vào bột.
- ái chà!
- Má Barberin vừa đánh trứng thật mạnh vừa hỏi tôi, - tại sao mà bấy lâu nay tôi không cho má biết tin tức gì cả là thế nào?
- Má ơi, con biết má không phải chỉ có một mình, má lại không tự đọc được thư con nữa. Ông Barberin làm con run lên vì sợ, ông ấy mới là chủ nhà, là người đã bán con cho một nhạc sĩ già lấy bốn mươi phrăng.
- Bé Rémi ơi, con đừng nói đến chuyện ấy nữa.
- Không phải con nói để phàn nàn gì đâu mà để cắt nghĩa cho má nghe vì sao con không dám viết thư.
Vừa nói chuyện má Barberin vừa nhào bột để làm bánh, Mattia lo nhóm lửa, tôi thì xếp đĩa, dĩa và cốc tách lên bàn, tôi đi ra chỗ vòi nước lấy một bình đầy.
Bây giờ một ngọn lửa thật đẹp đã bốc lên dưới ống khói, má Barberin bắc xoong lên. Mùi bánh xèo tỏa khắp gian phòng và chẳng bao lâu chúng tôi đã được cắn ngập răng thứ bánh ngon lành ấy.
- ôi! Bánh mới ngon làm sao!
- Mattia còn đầy miệng, nói.
Khi cái liễn đã hết sạch, Mattia, biết má Bar-berin không muốn nói chuyện trước mặt nó, bèn bảo là nó muốn xem con bò ra sao, để hai người chúng tôi lại với nhau.
Nếu tôi có ý đợi đến tận lúc này không phải vì tôi không sốt ruột, chẳng qua chỉ vì tôi tập trung tất cả mọi chú ý vào bánh xèo để quên nỗi bận tâm đó đi mà thôi. Barberin làm gì ở Paris?
Khi Mattia đã ra ngoài, tôi hỏi má Barberin như vậy.
- Con trai ơi, hình như gia đình con tìm con.
- Má nói.
- Ai tìm cơ ạ? ồ, con xin má, má hãy nói mau đi!
Rồi cảm thấy hình như mình điên, tôi liền kêu lên:.
- Chính là Barberin đi tìm con chứ ai, để rồi lại bán con đi một lần nữa; nhưng đừng hòng lấy lại được con!
- Con ơi, chúng ta hãy biết điều, hãy nghe lời má nói đây và đừng có sợ nữa. Đây là những điều tận tai má nghe thấy. Thứ hai tới là đầy một tháng, má đang làm việc trong phòng làm bánh mì bỗng có một ông đi vào nhà, Barberin lúc đó đang ở trong nhà. "Có phải ông là Bar-berin không?" ông ta hỏi. "Vâng", Jérôme đáp.
"Có phải ông là người đã tìm thấy một đứa bé ở Paris chỗ đại lộ Breteuil không, và chịu trách nhiệm trông nom nó không?" "Vâng." "Thế thằng bé đó đâu?" "Bận gì đến ông cơ chứ?" Jérôme trả lời.
Nếu như tôi nghi ngờ sự thành thực của má Barberin thì tôi cũng phải thừa nhận câu trả lời này thật tử tế, câu trả lời mà má đã nghe được cũng như đã thuật lại với tôi.
- Con biết đấy, - má nói, - ở chỗ làm bánh mì nghe rõ lắm, hơn nữa nó lại là việc về con, nên má rất muốn nghe. Để nghe rõ hơn má lại gần, nhưng má lại giẫm vào một cành cây gãy rắc một cái. "Không phải chỉ có mình chúng ta thôi ư? " ông kia hỏi. "Đó là vợ tôi", Jérôme bảo. "ở đây nóng quá ta ra ngoài nói chuyện hơn", ông kia nói. Thế là cả hai đi ra. Ba bốn giờ sau Jérôme mới trở về một mình.
Con thử tưởng tượng xem má sốt ruột đến thế nào muốn biết Jérôme và ông kia, có thể là cha con, đã nói với nhau những gì, nhưng Jérôme không trả lời tất cả những gì má hỏi. Jérôme chỉ nói là ông ấy không phải cha con nhưng thay mặt gia đình con đi tìm con.
- Thế gia đình con ở đâu hả má? Gia đình đó thế nào? Con có cha, có mẹ chứ?
- ấy má cũng hỏi Jérôme như con ấy, nhưng ông bảo là không biết. Rồi Jérôme bảo là ông đi Paris tìm người nhạc sĩ đã thuê con và đã cho địa chỉ ở phố Lourcine. Từ hôm ấy đến nay má chẳng được tin tức gì của Jérôme cả. ông kia cho Jérôme một trăm phrăng và có lẽ sau đó còn cho tiền tiếp nữa. Cái đó cộng với những tã lót xưa bọc con khi người ta tìm thấy con chứng tỏ cha mẹ con là người giàu có.
Đúng lúc này Mattia đi qua cửa, tôi gọi nó:
- Mattia này, tớ có một gia đình. Nhưng lạ một cái là nó không chia sẻ niềm vui này cùng tôi..Chúng tôi đi ngủ sớm, Mattia ngủ ngay. Còn tôi không sao ngủ được, hoang mang vì những ý nghĩ tối tăm.
Gia đình tôi tìm tôi, nhưng để tìm được gia đình, tôi phải tìm hỏi lão Barberin. Điều này làm cho niềm vui của tôi tối sầm lại, tôi những muốn lão Barberin đừng xen vào hạnh phúc của tôi làm gì. Tôi không quên những lời lão nói với cụ Vitalis: "Ai nuôi đứa trẻ này sẽ có lợi, nếu không tính thế thì tôi nuôi nó làm gì." Chính vì vậy mà tôi có những tình cảm xấu đối với lão. ấy thế mà tôi lại phải tìm cho được lão để lão dẫn tôi về gia đình tôi.
Rõ ràng đối với tôi có một gia đình là niềm vui quá lớn không ngờ tới rồi; tuy nhiên niềm vui này đến với tôi trong những điều kiện không khỏi pha lẫn buồn bã. Tôi vẫn hy vọng có thể sống nhiều ngày hạnh phúc bên má Barberin, thế nhưng ngay ngày mai chúng tôi đã lại phải lên đường rồi. Rời khỏi nhà má Barberin tôi còn phải đi đến bờ biển ở Esnandes để gặp chị étiennette, thăm Benjamin ở Saint-Quentin rồi sau đó còn phải đi Dreuzy ở Nièvre, đem cho em Lise tin tức của anh chị em; thế mà tôi phải từ bỏ các chuyến đi này!
Suốt đêm tôi cứ xoay đi xoay lại cái ý nghĩ này, lúc thì tự bảo không thể bỏ chị étiennette cũng như Lise, lúc thì ngược lại cho rằng phải chạy về Paris càng nhanh càng hay để gặp lại gia đình tôi. Cuối cùng tôi ngủ thiếp đi mà chưa đi đến một kết luận nào.
Buổi sáng khi cả ba chúng tôi đều có mặt đông đủ, cả má Barberin, tôi và Mattia bên lò sưởi nơi sữa con bò của chúng tôi đang được hâm nóng, chúng tôi bàn bạc với nhau để đi đến quyết định. Thảo luận khá lâu, ai cũng tham gia ý kiến, cuối cùng quyết định là tôi sẽ viết thư cho chị étiennette và cho Benjamin, nhưng chúng tôi sẽ đi thăm Lise vì em không biết đọc nhất là tôi lao vào cuộc hành trình này chính là vì em.
Chúng tôi nhất trí hôm sau sẽ ra đi.
Một lần nữa tôi lại buồn vì chia ly; nhưng ít nhất lần này tôi rời Chavanon không như lúc đi theo cụ Vitalis. Tôi có thể ôm hôn má Barberin và hứa với má sẽ cùng cha mẹ tôi về thăm má..Một lần nữa chúng tôi lại đi trên những con đường lớn, túi trên vai, Capi chạy trước; chúng tôi bước những bước dài. Nếu không buộc phải kiếm cơm hàng ngày có lẽ tôi đã rảo bước thật nhanh, nhưng có Mattia ở bên để đưa tôi trở về với thực tại.
Hơn nữa ngoài miếng bánh mì hàng ngày ra, còn có một lý do nữa buộc chúng tôi phải thu nhập càng nhiều càng tốt. Tôi muốn em Lise của tôi cũng sung sướng như má Barberin: tôi muốn tặng em một món quà. Đó là một con búp bê.
Để tới nhà bà cô của Lise chỉ việc đi theo con sông đào bởi vì chồng cô Catherine làm người coi cống nên gia đình họ ở trong một cái nhà xây ngay bên cạnh cái cống mà ông phải coi. Chúng tôi nhanh chóng tìm ra cái nhà đó, nó nằm ngay rìa làng, trên một bãi cỏ có trồng nhiều cây to.
Tim tôi đập liên hồi khi tới gần. Ra hiệu cho Mattia, tôi cầm lấy đàn hác-pơ và chơi những nốt nhạc đầu tiên của bài ca Na-pô-li nhưng không hát lên sợ tiếng tôi làm lộ tẩy...
Chỉ một chút xíu sau cửa mở và Lise đã ở trong tay tôi. Mọi người đưa chúng tôi vào nhà, sau khi cô Catherine ôm hôn tôi bà bày ra hai bộ đồ ăn. Nhưng tôi xin bà sửa soạn ba bộ.
- Nếu cô cho phép, - tôi nói, - cháu có một người bạn nhỏ đi cùng. Và tôi rút con búp bê trong chiếc túi đeo lưng ra, tôi đặt nó ngồi trên chiếc ghế dựa bên cạnh chiếc ghế của Lise.
Cái nhìn của cô bé nhìn tôi, suốt đời tôi không quên. Tôi mà không vội đi Paris hẳn tôi phải ở lại thật lâu với Lise, chúng tôi có biết bao chuyện để nói mà chỉ có thể nói được quá ít với thứ ngôn ngữ của chúng tôi mà thôi! Phải từ biệt Lise, quá vội, để lại lên đường.
Hết chặng đường này tới chặng đường khác, cuối cùng trở lại cái trại mà chúng tôi đã tổ chức buổi hòa nhạc đầu tiên cho đám cưới nhảy. Hai vợ chồng mới cưới nhận ra chúng tôi. Người ta cho chúng tôi ăn tối và ngủ nhờ.
Từ đó, sáng hôm sau chúng tôi vào Paris, vừa vặn đúng sáu tháng mười bốn ngày kể từ khi rời Paris. Mattia và tôi thỏa thuận với nhau để một mình tôi đi tìm Barberin sau đó chúng tôi sẽ gặp nhau trước gian giữa nhà thờ Đức Bà..Tôi đã ghi trên giấy địa chỉ người chủ cho Barberin thuê nhà; nhưng cẩn thận như vậy cũng chẳng cần vì tôi nhớ rõ chẳng khó khăn gì: khách sạn Cantal, ngõ Austerlitz.
Không chậm trễ tôi đến ngay khách sạn Can-tal, một nơi chỉ có cái tên là khách sạn mà thôi, chủ nó là một người đàn bà dở điếc.
- Tôi muốn tìm ông Barberin từ Chavanon, ông ấy trọ ở đây có phải không ạ? Bà ta không trả lời chỉ giơ hai tay lên trời một cách đột ngột đến nỗi con mèo đang ngồi trong lòng bà hốt hoảng nhảy vọt xuống đất.
- ôi chao!
- Bà ta nói.
Rồi nhìn tôi trong khi đầu bà càng rung lên mạnh hơn:
- Cậu là thằng bé ông ấy tìm chứ gì?
- Bà ta hỏi. Tim tôi thắt lại.
- Barberin!
- Chết rồi!
Tôi phải tựa mình vào cây đàn hác-pơ.
- ông ấy chết rồi ư?
- Tôi gào to lên để cho người đàn bà nghe thấy nhưng giọng tôi khàn đặc đi vì quá xúc động.
- Chết tám ngày nay ở nhà thương Saint-An-toine rồi.
Tôi sững sờ cả người; Barberin mà chết thì làm sao tìm được gia đình tôi bây giờ?
- Thế ra cậu chính là thằng bé ấy đấy à? -Bà già tiếp tục nói.
- Thằng bé mà ông ta đi tìm để trả lại cho gia đình giàu có của nó đấy à? Tôi lại hy vọng, tôi bấu lấy câu hỏi ấy.
- Bà biết ư?...
- Tôi hỏi.
- Không biết gì hơn ngoài những điều tôi vừa nói với cậu, cậu con trai, tôi muốn nói quý ông trẻ trung ạ. Barberin bí mật ghê lắm, chỉ muốn tiền thưởng dành riêng cho mình thôi. Trời hỡi, Barberin chết mang theo cái bí mật về sự ra đời của tôi rồi.
Hai tay ôm đầu, tôi tìm hết cách cũng không thấy ý tưởng nào cho dù chỉ để hướng dẫn tôi hành động. Hơn nữa tôi quá hoang mang, quá xúc động đến nỗi không thể nào suy nghĩ ra đầu ra đuôi được.
- Có một lần ông ta nhận được một bức thư, một bức thư nặng lắm.
- Bà ta nghĩ một lúc lâu rồi nói.
- Thư từ đâu đến ạ?.
- Tôi không biết. Người đưa thư đưa cho ông ta, tôi không nhìn con tem.
- Liệu bây giờ còn tìm thấy bức thư đó không?
- Chúng tôi đã lục khắp trong đồ đạc của ông ta, không phải vì tò mò đâu, tất nhiên, mà để báo cho vợ ông ta, nhưng không tìm thấy.
Đồ đạc trong bệnh viện cũng vậy. Nếu ông ta không nói từ Chavanon đến thì cũng chịu không báo được cho vợ ông ta. Tôi đứng im khá lâu không nói nên lời. Biết hỏi gì nữa bây giờ? Bà ta đã nói ra tất cả những điều mình biết.
Tôi cảm ơn và đi ra cửa.
- Nếu cậu không có chỗ trọ, - bà già bảo tôi, - thì cậu cứ đến đây, không phải nói khoe đâu, ở đây rất tốt, chúng tôi là một nhà lương thiện. Nên nhớ rằng nếu gia đình cậu tìm cậu vì không thấy tin tức gì của Barberin họ phải tìm hỏi ở đây chứ ở đâu, cậu sẽ có sẵn ở đây mà đón họ. Thế có phải lợi không, cậu đi chỗ khác thì ai biết ở đâu mà tìm? Cậu thử nghĩ mà xem, hai thanh niên trẻ tuổi trên hè phố Paris, có thể gặp nhiều chuyện rắc rối lắm chứ! Nhiều khách sạn chẳng ra sao chứ không như ở đây, yên tĩnh lắm, khu này là thế.
Tôi không tin là khu này có lợi thế về mặt yên tĩnh; kiểu gì thì khách sạn Cantal cũng thuộc loại bẩn thỉu khốn khổ nhất chỉ nhìn đã thấy, và trong cuộc đời du mục của tôi, tôi đã trông thấy khối khách sạn khốn khổ như thế này.
Nhưng lời đề nghị của bà chủ cần phải xem xét. Hơn nữa lúc này không nên tỏ ra khó tính, cần phải tiết kiệm. ái chà! Mattia thật có lý khi nghĩ rằng phải kiếm tiền! Giả sử không có mười bảy phrăng trong túi thì chúng tôi biết làm sao đây?
- Thuê một phòng cho tôi và bạn tôi thì hết bao nhiêu?
- Tôi hỏi.
- Một ngày mười xu.
- Được, thế thì tối chúng tôi quay lại.
- Các cậu nên về sớm, ban đêm Paris chẳng hay ho gì đâu. Tôi chỉ còn việc đến gặp Mattia ở nơi đã hẹn. Hãy còn sớm, tôi ngồi vào một góc đợi nó. Chẳng bao lâu tôi nghe thấy một tiếng sủa vui mừng, trước khi kịp đứng lên Capi đã lao vào lòng tôi liếm tay tôi. Tôi ôm nó trong tay. Mattia ngay sau đó hiện ra.
- Thế nào?
- Từ xa nó đã kêu lên.
- Barberin chết mất rồi.
Nó chạy để đến với tôi cho nhanh, tôi vội kể tóm tắt cho nó nghe những gì mình biết. Bằng những lời thật âu yếm nó cố tìm cách thuyết phục tôi đừng tuyệt vọng.
- Nếu cha mẹ cậu đã tìm thấy Barberin nay không nghe tin tức gì của lão nữa hẳn họ phải tìm xem lão ra sao chứ, dĩ nhiên họ sẽ đến khách sạn Cantal. Ta đi đến đấy đi, coi như chỉ chậm có vài ngày thôi, thế thôi.
Nếu như khách sạn Cantal là một căn nhà lương thiện thì nó chẳng đẹp đẽ gì. Chúng tôi ở trong một buồng nhỏ xíu áp mái, đèn thì tỏa khói mù. Buồng chật đến nỗi một trong hai chúng tôi buộc phải ngồi xuống giường khi người kia đứng lên. Cái bánh mì tròn phết đầy phó-mát trong bữa tối của chúng tôi chẳng phải tiệc tùng gì nhưng cuối cùng thì tất cả đều chưa phải đã hết.
Tôi bắt đầu ngày hôm sau bằng việc viết thư cho má Barberin kể về những gì mình biết, việc này không phải nhỏ. Chẳng nhẽ khô khan bảo má là chồng má đã chết? Cuối cùng tốt xấu gì chăng nữa thì tôi cũng viết xong bức thư nhắc đi nhắc lại niềm yêu thương không gì thay đổi của tôi đối với má.
Tôi đề nghị má cho tôi hay nếu như gia đình tôi có viết thư hỏi tin tức ông Barberin, nếu người ta cho địa chỉ thì má chuyển cho tôi.
Bốn ngày sau tôi nhận được thư má Barberin nhờ người viết cho tôi. Má cho tôi biết má đã được báo trước về cái chết của ông chồng, trước đây ít lâu má có nhận được một bức thư của ông ta. Má nghĩ bức thư này có ích cho tôi nên gửi cho tôi, thư có những chỉ dẫn về gia đình tôi.
- Nhanh lên, Mattia, ta cùng đọc nào..Tay tôi run lên, tim tôi thắt lại khi đọc bức thư đó. Nhà nó yêu quý của tôi, Tôi đang nằm bệnh viện, ốm lắm khó lòng còn dậy được. Tôi muốn nói rằng nếu như tôi không qua khỏi thì nhà viết cho Hãng Greth và Galley, Quảng trường Green, Lincohn’s lnn, Londres, đó là những người của Hãng Luật có nhiệm vụ đi tìm Rémi. Nhà nó bảo họ là chỉ có nhà mới có thể cho được tin tức đứa bé và cẩn thận bắt họ phải trả tiền vì những tin tức này.
Tiền này phải được dùng để làm nhà nó sung sướng trong tuổi già. Nhà nó sẽ biết Rémi ra sao khi viết thư cho ông Acquyn, vốn làm nghề làm vườn nay bị giam trong nhà tù Clichy ở Paris. Tôi đã gặp ông này. Hãy nhờ ông mục sư viết tất cả mọi thư từ vì trường hợp này không thể tin ai được. Đừng làm gì cả trước khi biết tôi không còn sống nữa. ạm hôn nhà nó lần cuối cùng. Barberin Tôi chưa kịp đọc đến chữ cuối của bức thư thì Mattia đã nhảy dựng lên:
- Tiến về Londres!
Tôi vẫn đang còn ngạc nhiên vì những gì đã đọc thành ra cứ nhìn Mattia chẳng hiểu gì cả.
- Bởi vì thư của má Barberin bảo là những người hành nghề luật Anh chịu trách nhiệm đi tìm cậu, điều đó có nghĩa cha mẹ cậu là người Anh. Phải đi sang Anh, đó là cách tốt nhất để gần lại cha mẹ cậu. Ta có đủ tiền làm cuộc hành trình. Ta sẽ xuống tàu ở Boulogne, tàu đưa ta tới Londres. Không tốn kém lắm đâu.
- Thế thì ta đi.
- Tôi bảo.
Chỉ trong hai phút chúng tôi gài xong túi, xuống nhà chuẩn bị đi. Tôi không muốn đi khỏi Paris mà không thăm cha Acquyn và cho ông biết những tin tức trên. Ông rất mừng biết tôi sắp tìm lại được gia đình.
- Mong sớm gặp lại con, con trai ạ, may mắn nhé! Nhớ viết thư cho cha. Chúng tôi mất tám ngày để đi từ Paris đến Boulogne vì dọc đường còn dừng lại đôi chút ở những thành phố chính làm vài cuộc biểu diễn.
Tới Boulogne trong túi chúng tôi có hơn ba mươi phrăng, có nghĩa nhiều hơn số tiền cần chi cho đi tàu.
Tàu đi Londres khởi hành bốn giờ sáng hôm sau, ba giờ rưỡi chúng tôi đã lên tàu và cố gắng.ngồi sao cho thật ổn sau một đống thùng che chúng tôi khỏi làn gió bấc lạnh lẽo và ẩm thấp. Dưới ánh sáng của mấy cái đèn tỏa khói, chúng tôi nhìn thấy người ta chất hàng lên tàu: Ròng rọc nghiến lên ken két, những chiếc thùng thả xuống hầm tàu kêu răng rắc, các thủy thủ thỉnh thoảng lại văng ra mấy tiếng khàn khàn; nhưng bao trùm lên hết thảy mọi ồn ào là tiếng lạo xạo của hơi nước thoát ra từ đầu máy từng đám trắng nho nhỏ một. Một hồi chuông gióng lên từng tiếng một, thừng chão rơi xuống nước, chúng tôi lên đường.
Sau một cuộc hành trình trên biển với sóng cả chưa từng thấy, qua đó Mattia đã hiểu thế nào là say sóng, chúng tôi vào tới những làn nước êm ả của sông Tamise và đến Londres.
Chúng tôi lên khỏi tàu. Thành phố chìm ngập trong một làn sương mù dày đặc, phố xá tối tăm lầy lội đầy những xe cộ. Chúng tôi cứ đi tới, chốc chốc lại hỏi đường những người qua lại mà mình gặp. Chúng tôi lạc vào một đám phố xá chằng chịt toàn những phố nhỏ yên tĩnh. Trong khi Mattia hỏi đường một cái bóng đi qua thì tôi dừng lại, tôi không thở được nữa và tôi run lên.
Rồi chúng tôi lại tiếp tục đi, cuối cùng dừng lại trước một cái biển đồng trên đó đọc được những chữ sau đây: Greth và Galley.
Mattia tiến lên giật chuông, nhưng tôi ngăn tay nó lại:
- Từ từ đã, để tớ lấy lại can đảm đã. Một lúc sau, nó giật chuông, chúng tôi bước vào một căn phòng có hai ba người đang ngồi viết dưới ánh sáng của nhiều cây đèn ga. Mattia ngỏ lời với một trong mấy người này. Tên Barberin gây được tác dụng nhanh chóng:
Người ta đưa chúng tôi vào một gian phòng đầy sách và giấy tờ, có một ông ngồi trước cái bàn giấy, một ông khác mặc áo dài và đeo tóc giả đang nói chuyện với ông ta. Người đưa chúng tôi vào giải thích vài lời ngắn gọn cho ông ta biết chúng tôi là ai.
- Ai là người trong hai cậu đã được Barberin nuôi?
- ông ngồi trước bàn giấy hỏi bằng tiếng Pháp. Tôi tiến lên một bước:
- Thưa ông, tôi ạ.
- Barberin đâu?
- ông ấy chết rồi ạ..Tôi kể lại tóm tắt vì sao tìm đến các ông đây. Tôi rất sốt ruột đến lượt mình đặt ra các câu hỏi nhất là một câu đang cháy bỏng trên môi tôi, nhưng không sao có thì giờ. Đầu tiên phải kể lại tôi đã được Barberin nuôi như thế nào, bị bán cho cụ Vitalis ra sao, rồi được gia đình Acquyn đón nhận ra sao, sau đó lại bị vứt ra đường trôi nổi trong cuộc đời như thế nào. Ông ta ghi chép lại hết và nhìn tôi với vẻ mặt khiến tôi đâm lúng túng; phải nói khuôn mặt ông ta rắn đanh lại, cái cười nom có cái gì bẩn thỉu bên trong.
- Thưa ông gia đình tôi sống ở Anh ạ?
- Nhất định rồi, ở Anh, ít nhất là trong lúc này. Tôi sẽ cho người dẫn cậu đi. Ông ta bấm chuông. Cửa mở ra.
- à! Tôi quên, ông kia nói, họ của cậu là Dricsoll, tên họ cha cậu là như thế. Mặc dầu khuôn mặt ông ta trông rất khó chịu tôi những muốn nhảy lên bá cổ ông ta nếu ông ta để tôi có thì giờ; nhưnh ông ta đã lấy tay chỉ chúng tôi ra cửa.
Người thư ký đưa chúng tôi đến nhà cha mẹ tôi là một gã đàn ông bé nhỏ đã già trông quắt queo, mặt mũi nhăn nheo, mặc bộ quần áo đen đã sờn và lên nước bóng loáng, thắt cà-vạt trắng. Lão ta nhìn chúng tôi và cứ "sịt, sịt" với chúng tôi như sịt chó vậy, có ý bảo chúng tôi đi theo lão. Không mấy chốc chúng tôi đi sang một phố lớn xe cộ chen chúc nhau, lão dừng một chiếc xe lại và cho chúng tôi lên xe. Lão bắt chuyện với người đánh xe. Rất nhiều lần từ Bethnal Green được nhắc tới, tôi cho rằng đó là tên khu cha mẹ tôi ở. Tôi biết green tiếng Anh có nghĩa là màu xanh lá cây, tôi hình dung khu này hẳn phải trồng nhiều cây to đẹp, tôi thấy dễ chịu quá. Chắc nó không giống những phố xá bẩn thỉu ở Londres mà chúng tôi vừa đi qua để tới nơi này.
Xe lăn bánh khá nhanh trong các phố rộng, sau đó vào các phố hẹp, rồi lại tới các phố rộng, nhưng không trông thấy gì ở chung quanh cả do sương mù bao phủ chúng tôi một màu mờ đục.
Trời bắt đầu lạnh, tuy thế chúng tôi cảm thấy khó thở. Tôi nói chúng tôi có nghĩa Mattia và tôi, vì lão dẫn đường ngược lại tỏ ra rất thoải mái, lão thở mạnh, miệng há ra rồi hít vào thật mạnh, như thể vội vã tích lấy một lượng không khí lớn trong phổi lão..Tuy tôi phát sốt lên vì xúc động khi nghĩ tới chỉ chốc nữa đây sắp được ôm hôn cha mẹ, anh chị tôi, tôi rất muốn trông thấy cái thành phố mình đang đi qua. Chẳng phải nó là thành phố của tôi, tổ quốc của tôi hay sao?
Nhưng cho dù có mở to mắt đến mấy tôi cũng chẳng nhìn thấy gì hoặc hầu như không nhìn thấy gì ngoài làn ánh sáng đỏ cạch của ga cháy trong sương mù như một đám mây khói dày đặc; chỉ mờ mờ thấy được những chiếc đèn của xe ngựa đi ngược lại phía chúng tôi, thỉnh thoảng xe chúng tôi phải đứng sững lại sợ đâm vào người đi đường.
Chúng tôi đi khỏi Greth và Galley đã lâu, điều này khẳng định cha mẹ tôi sống ở miền quê. Nhưng đáng lẽ đi vào vùng nông thôn thì chúng tôi lại đi vào những con phố càng hẹp hơn, chúng tôi nghe thấy tiếng còi đầu máy xe lửa. Bùn trong phố tràn cả vào trong xe, bắn từng mảng đen lên tận chúng tôi; một mùi nhạt nhạt bao trùm lấy chúng tôi từ đã khá lâu chứng tỏ chúng tôi đang ở trong một khu tồi tàn, có lẽ khu cuối cùng trước khi ra tới đồng cỏ của Bethnal Green. Tôi có cảm giác chúng tôi quay trở lại, thỉnh thoảng người đánh xe lại cho xe đi chậm lại tựa như không rõ mình ở chỗ nào. Bỗng nhiên ông ta dừng xe hẳn lại và lỗ nhìn ra ngoài xe mở ra.
Lúc này chúng tôi tranh luận với nhau. Mat-tia bảo tôi nó hiểu rằng lão dẫn đường không muốn đi xa hơn vào khu trộm cắp này nữa.
Cuối cùng lão thư ký cho tiền người đánh xe, lão xuống xe và một lần nữa lại "sịt, sịt" chúng tôi, rõ ràng là đến lượt chúng tôi cũng phải xuống. Chúng tôi ở trong một con phố đầy bùn giữa sương mù. Lão dẫn đường gọi một người qua đường lại hỏi: chẳng khó khăn gì chúng tôi hiểu là lão hỏi đường.
Tôi quá bối rối đến nỗi không hiểu làm thế nào mà chúng tôi lại đứng trong một căn buồng rộng được chiếu sáng bởi một cái đèn và một ngọn lửa bằng than đốt.
Trước ngọn lửa là một ông cụ già ngồi im như một pho tượng, râu bạc trắng, đầu đội một chiếc mũ trùm đầu màu đen. Một người đàn ông và một người đàn bà ngồi đối diện với nhau qua một cái bàn, người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi mặc bộ đồ nhung màu xám mặt mũi thông.minh nhưng đanh lại; người đàn bà kém độ năm sáu tuổi tóc vàng rủ xuống một chiếc khăn san kẻ ô đen trắng buộc chéo trước ngực, mắt không có tí thần nào, khuôn mặt chỉ lộ ra vẻ lãnh đạm và vô cảm. Trong phòng còn có bốn đứa trẻ, hai đứa con trai hai đứa con gái tóc đều vàng như mẹ; đứa lớn nhất khoảng mười một mười hai tuổi; đứa bé nhất chưa đến ba tuổi.
Chỉ một cái liếc mắt tôi nhìn thấy toàn bộ quang cảnh, trong khi lão thư ký già dẫn đường cho chúng tôi lên tiếng nói chuyện. Mọi con mắt liền đổ dồn về phía Mattia và tôi, kể cả cụ già bất động, riêng đứa con gái bé tí thì chú ý đến Capi.
- Ai trong hai người là Rémi?
- Người đàn ông mặc bộ đồ nhung xám hỏi bằng tiếng Pháp. Tôi tiến lên một bước:
- Tôi ạ.
- Vậy thì ôm hôn cha con đi, con trai của cha.
- Còn bây giờ thì, - ông ta nói, - đây là ông con, mẹ con, các anh các chị em con. Tôi bước tới chỗ mẹ tôi trước tiên, ôm bà trong hai tay, bà để mặc cho tôi hôn nhưng bà không hề ôm hôn tôi, chỉ nói với tôi vài ba lời mà tôi không hiểu gì cả.
- Đưa tay bắt tay ông đi, nhẹ nhàng thôi, ông bị liệt đấy. Tôi cũng bắt tay các anh tôi và chị tôi, tôi muốn bế con bé con nhưng nó đẩy tôi ra vì đang bận chơi với con Capi.
Vừa đi từ người nọ sang người kia, tôi vừa tự giận mình. Sao nhỉ? Tôi không cảm thấy vui một chút nào khi cuối cùng được ở trong gia đình mình. Tôi đã chờ đợi giờ phút này với sự nóng lòng đến cháy bỏng thế mà tôi lại lúng túng, lại tò mò nhìn họ và không tìm được lời nào để nói cả. Nhưng người ta không để tôi có thì giờ miệt mài với những cảm tưởng này lâu hơn.
- Thế còn thằng bé này là ai?
- Cha tôi chỉ Mattia. Tôi giải thích mối dây ràng buộc tôi với Mattia, tôi cố gắng đặt tất cả tình bạn vào trong những lời nói của mình.
- Được, - cha tôi nói.
- Thế tại sao Barberin không tới?
- ông ấy chết rồi ạ.
Thế là cha tôi dịch cho mẹ tôi nghe những điều tôi vừa nói, tôi tưởng như mình hiểu được.là bà trả lời thế thì tốt vì bà nhiều lần nhắc đi nhắc lại hai chữ well và good mà tôi biết.
- Con không biết tiếng Anh à?
- Cha tôi hỏi.
- Không ạ. Con chỉ biết tiếng Pháp và tiếng ý con học với một ông thầy mà Barberin đã cho ông ta thuê con.
- Vitalis ấy à? Tên ông này Barberin có nói với cha cách đây ít lâu khi cha sang Pháp tìm con. Chắc con lấy làm lạ tại sao suốt mười ba năm cha mẹ không đi tìm con và tại sao đột nhiên cha mẹ lại có ý định tìm Barberin. Con lại đây, gần ngọn lửa này, cha sẽ kể cho con nghe.
Nhưng, khi tôi vừa duỗi đôi chân ẩm ướt vấy bùn trước ngọn lửa thì ông tôi khạc ngay đờm về phía tôi mà chẳng nói gì cả; không cần giải thích tôi cũng hiểu được là tôi đã làm vướng ông, tôi rụt chân lại.
- Đừng để ý làm gì, ông cụ không thích ai ở trước ngọn lửa của ông cụ; nhưng nếu con lạnh con cứ sưởi, không việc gì phải bận tâm vì ông ấy. Thấy người ta nói về ông cụ như vậy tôi choáng váng cả người.
- Con là con trai cả của cha mẹ, - cha tôi nói với tôi.
- Cha mẹ lấy nhau được một năm thì sinh ra con. Khi cha lấy mẹ con, có một cô gái cứ tưởng rằng cha sẽ lấy cô ấy, đám cưới cha mẹ làm cô ta căm ghét người đàn bà mà cô ấy coi là tình địch. Để trả thù, lúc con được sáu tháng, cô ấy ăn cắp con đem sang Pháp, sang Paris bỏ con ở ngoài phố. Cha mẹ đã tìm khắp mọi nơi, nhưng không sang đến Pháp vì không thể ngờ họ đem con đi xa thế. Cha mẹ cứ tưởng con đã chết, nhưng cách đây ba tháng người đàn bà đó chết, khi hấp hối mới lộ bí mật này ra.
Cha đi sang Pháp ngay, cha đến cảnh sát quận nơi con được tìm thấy. Họ cho biết con được một người thợ nề ở Creuse nhận làm con nuôi, lập tức cha đi Chavanon. Barberin cho cha biết tất cả những gì ông ta biết. Cha không ở Pháp lâu để theo tìm cụ Vitalis được nên giao cho Barberin đi tìm giúp, cho ông ta tiền đi Paris.
Cha bảo ông ta thông báo cho những người lo việc này cho cha, tức là các ông ở hãng luật Greth và Galley, nếu như tìm thấy con. Sở dĩ cha không cho địa chỉ cha ở đây là vì cha mẹ chỉ ở Londres vào mùa đông; tới mùa ấm áp đẹp trời, cha mẹ đi khắp Anh và écosse để bán hàng lưu động. Đó, con trai ạ, đó là tại sao cha mẹ lại tìm được con sau mười ba năm, tại sao con lại trở về được chỗ của mình trong gia đình. Cha hiểu con có.đôi chút hoảng sợ, đó là vì con không biết cha mẹ, không hiểu cha mẹ nói gì nhưng cha hy vọng con sẽ mau chóng quen thôi. Trong khi tôi lắng nghe câu chuyện kể của cha tôi người ta bày xong bàn ăn.
- Ngồi vào bàn, hai cậu.
- Cha tôi bảo.
Trước khi ngồi xuống, ông kéo chiếc ghế bành của ông tôi lại cạnh bàn ăn, rồi bản thân ông ngồi quay lưng lại ngọn lửa, ông bắt đầu cắt một khoanh thịt bò rán và tiếp cho chúng tôi hai lát to kèm theo khoai tay.
Tôi nhận thấy các anh chị tôi toàn thò tay vào ăn mà cha mẹ tôi chẳng tỏ ra bực bội gì cả. Cơm tối xong, cha tôi nói bận chờ khách rồi ông cầm đèn đưa chúng tôi sang nhà để xe cạnh gian phòng vừa ăn: ở đó có hai cái xe to thường vẫn dùng để đi bán hàng lưu động. ông mở cửa một cái xe, chúng tôi nhìn thấy trong đó có một chiếc giường hai tầng.
- Giường của các con đây, ngủ ngon nhé!
Tôi được đón nhận vào gia đình tôi như vậy đó.
Cha tôi để cây nến lại cho chúng tôi nhưng đóng bên ngoài cửa xe lại. Chúng tôi chỉ còn có việc là đi ngủ không chuyện trò gì cả như thói quen của chúng tôi vào mỗi buổi tối. Nhưng nến cháy hết rồi mà tôi vẫn không sao ngủ được. Tôi cứ liên tiếp trở mình trong cái giường hẹp. Tôi cũng nghe tiếng Mattia cựa quậy như thế ở trên đầu tôi.
Giấc ngủ không đến. Giờ nọ nối tiếp giờ kia, tôi không biết đêm đã khuya đến đâu nữa. Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gõ cửa nhà để xe rất mạnh, cửa này mở ra một phố ngang nhỏ, sau nhiều tiếng gõ cách quãng đều đặn, một ánh sáng tiến vào trong nhà để xe. Cha tôi mở cửa rất nhanh không tiếng động và đóng lại cũng như thế sau khi có hai người đàn ông vác những bọc rất nặng đi vào bên trong..Cha tôi để một ngón tay trên môi và dùng tay kia lúc ấy đang cầm một cái đèn chỉ cái xe trong đó chúng tôi đang nằm có ý nói đừng gây tiếng động sợ làm chúng tôi thức giấc. Sự lưu tâm này làm tôi cảm động lắm.
Cha tôi biến đi đâu một lúc rồi trở lại cùng với mẹ tôi. Trong lúc vắng cha tôi, hai người đàn ông đã mở các bọc ra, bọc thì đầy các xấp vải, bọc thì có nào mũ nào áo dệt kim, quần đùi, tất, găng. Hai người này chắc là hai tay buôn hàng.
Cha tôi nhấc từng món hàng lên soi vào chiếc đèn đang cầm rồi đưa cho mẹ tôi, bà cầm kéo cắt đi những cái nhãn dán trên đó rồi cho các nhãn hàng vào túi áo. Tôi thấy lạ, ngay cả giờ bán hàng cũng lạ.
Vừa xem vải vóc cha tôi vừa nói gì đó khe khẽ với hai tay kia. Tôi chỉ hiểu được hai từ bob và policemen được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Khi hàng hóa trong hai cái bọc đã được chia ra từng loại kỹ càng, hai người đàn ông rút khỏi nhà để xe đi vào trong nhà, chung quanh chúng tôi lại tối mịt mù như cũ.
Tôi cố hết sức tự thuyết phục mình những gì vừa trông thấy là hoàn toàn tự nhiên nhưng không sao làm nổi, những ý nghĩ đầy lo ngại làm tôi không yên, vừa lúc đó ánh đèn lại tràn ngập nhà để xe như lúc nãy.
Lúc này chỉ còn lại cha mẹ tôi. Trong khi mẹ tôi nhanh chóng bọc tất cả những thứ người ta mang đến thành hai gói, cha tôi quét một góc nhà để xe. ông lấy chổi quét rất mạnh lớp cát khô, lộ ra một cánh cửa sập, nhấc cánh cửa đó lên ông đưa hai cái gói xuống đó. Sau đó ông trèo lên, đóng cửa sập lại, lấy chổi phủ cát lên.
Công việc đó làm xong thì không ai có thể nhìn thấy đâu là cửa sập nữa, cả cha lẫn mẹ tôi lấy những mẩu rơm rạ rắc lên trên cát vì toàn bộ nền nhà để xe đều phủ đầy rơm. Họ đi ra.
Lúc họ nhẹ nhàng khép cánh cửa vào nhà tôi thấy hình như Mattia cựa quậy trong giường tựa như nó lại đặt đầu trên gối. Nó có nhìn thấy những gì vừa diễn ra không? Tôi không dám hỏi. Tôi sợ. Người tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh toát.
Tôi cứ nằm như thế suốt đêm tới gần sáng mới thiếp đi trong một giấc ngủ nặng nề và bồn chồn khắc khoải..Tiếng chốt cửa mở làm tôi thức giấc, cửa xe của chúng tôi mở ra, tưởng đó là cha tôi, tôi nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy ông.
- Em cậu đấy.
- Mattia bảo tôi.
- Nó đi rồi.
Chúng tôi dậy. Chẳng ai nói với ai lời nào. Tôi vào bếp nhưng không thấy cha mẹ tôi.
Ông tôi vẫn ngồi trước ngọn lửa trong ghế bành tựa như suốt từ tối qua không hề chuyển dịch, cô em gái lớn của tôi, Annie đang lau bàn trong khi cậu em lớn nhất của tôi, Alan, đang quét dưới đất. Tôi đi tới gần bắt tay họ nhưng họ vẫn cứ tiếp tục công việc của mình. Tới chỗ ông tôi thì lại bị ông nhổ về phía tôi như tối qua, tôi lập tức thôi ngay.
Chúng tôi quyết định dạo chơi chung quanh một chút. Không dám đi xa lắm sợ lạc, Bethnal Green còn có vẻ ghê tởm hơn cả hôm qua trong đêm tối. Chỗ nào cũng thấy nghèo khổ ngự trị với tất cả những gì là đáng buồn nhất. Chúng tôi trở về. Mẹ tôi ngồi đó, đầu tựa vào bàn.
Tưởng bà ốm tôi chạy lại hôn bà. Bà ngẩng đầu lên, cái đầu đung đưa, rồi bà nhìn tôi nhưng không trông thấy tôi; ngửi thấy mùi rượu bách xù trong hơi thở của bà, tôi lùi lại. Bà lại gục đầu xuống giữa hai cánh tay duỗi dài trên bàn.
- Rượu gin đấy.
- ông tôi nói. Rồi ông nhìn tôi cười khẩy.
Lúc đầu tôi đứng yên; rồi mấy giây sau tôi nhìn Mattia, nó cũng nhìn tôi, nước mắt lưng tròng. Tôi ra hiệu cho nó và chúng tôi lại đi ra ngoài. Chúng tôi đi khá lâu, cứ thẳng trước mặt mà đi không biết là đi về đâu.
- Đến chỗ nào để ta có thể nói chuyện một chút đi.
- Mattia bảo tôi.
Lúc đó chúng tôi vừa tới một công viên mênh mông có cây có cỏ xanh. Ngồi xuống một cái tôi òa khóc sà vào tay Mattia.
Sau một cơn thổn thức tôi cố hết sức trấn tĩnh lại.
- Mattia, đêm qua cậu có ngủ không? Có trông thấy...
- Trông thấy tất.
- Cậu có hiểu là thế nào không?.
- Những tay bán hàng cho cha mẹ cậu không phải bán những hàng hóa mua về đâu. Cha cậu mắng họ sao không gõ cửa vào nhà mà lại gõ cửa nhà để xe, họ bảo là họ bị các bob rình, tức là cảnh sát ấy.
- Mattia, ta phải chia tay nhau thôi.
- Không bao giờ! Ta cùng đi với nhau.
- Không được! Cha mẹ tớ không là cái gì đối với cậu, nhưng đó là cha mẹ của tớ, tớ phải ở lại với họ.
- Cha mẹ gì mà lại thế! Lão già liệt kia là ông cậu ấy ư? Người đàn bà say rượu kia là mẹ cậu ấy ư?
- Mattia, đừng nói thế! Đó là cha mẹ của tớ, tớ phải tôn trọng, phải yêu họ.
- Đúng vậy nhưng nếu như họ là cha mẹ thực của cậu cơ. Nhưng họ có phải cha mẹ thực của cậu không? Cậu không giống cha cũng chẳng giống mẹ, tóc cậu đâu có vàng như tóc các anh chị cậu? Hơn nữa họ đâu có giàu để mà tiêu biết bao nhiêu tiền đi tìm con? Rémi ạ, cậu không phải con nhà Driscoll. Cậu hãy viết thư cho má Barberin hỏi má về quần áo của cậu khi người ta tìm thấy cậu. Có thư má rồi cậu sẽ hỏi cái người mà cậu gọi là cha ấy. Từ đây đến lúc đó, tớ sẽ ở với cậu. Chúng ta cùng làm việc với nhau.
Cha tôi về. ông không nhận xét gì về chuyến đi chơi khá lâu của chúng tôi cả. Mãi tới sau bữa cơm tối ông mới bảo chúng tôi đến trước lò sưởi; việc này làm ông tôi càu nhàu, để có chuyện muốn nói với chúng tôi.
- Cho cha biết các con làm gì để sống ở bên Pháp. Tôi kể ông nghe tất mọi chuyện.
- Tốt lắm, cho cha xem các cậu có khả năng gì nào.
Tôi cầm lấy cây đàn hác-pơ chơi một điệu nhạc, Mattia cũng làm như vậy với cây vĩ cầm và một trong những chiếc kèn đẩy của mình. Nó làm cho trẻ con vỗ tay ầm lên, bọn chúng tụ tập thành vòng tròn quanh chúng tôi.
- Còn Capi?
- Cha tôi hỏi.
Tôi rất tự hào về tài năng của Capi, tôi muốn nó thực hiện mấy trò trong danh mục biểu diễn của nó, thế là nó thu được thắng lợi thường thấy bên bọn trẻ con.
- Con chó này là cả một tài sản chứ chẳng chơi.
- Cha tôi bảo..Cha tôi dịch câu này sang tiếng Anh và hình như còn thêm vào đó vài chữ mà tôi chẳng hiểu gì cả nhưng làm cả nhà cười ồ lên.
- Cha đề nghị với các con thế này nhé, - cha tôi tiếp tục nói, - nhưng mà trước hết phải hỏi xem Mattia có bằng lòng ở lại với chúng ta không đã.
- Cháu muốn ở lại với Rémi, nó đi đâu cháu đi đấy.
- Mattia trả lời.
Cha tôi không hiểu ý tứ ẩn dưới câu trả lời đó nên hài lòng lắm.
- Tốt quá, - ông nói, - cha trở lại với đề nghị của cha. Chúng ta không giàu, ai cũng phải làm việc để mà sống. Mùa hè cả nhà đi khắp nước Anh, trẻ con phải đem hàng mời những người không muốn tới tận chỗ chúng ta mua.
Nhưng mùa đông chẳng có việc làm gì mấy.
Chừng nào ta còn ở Londres thì Rémi và Mattia có thể chơi nhạc trong các phố, cha tin là chẳng mấy chốc sẽ có nhiều ngày kiếm khá đấy nhất là sắp đến lễ Giáng sinh. Nhưng vì ở đời này không nên để lãng phí một cái gì cả, Capi sẽ đi biểu diễn cùng Alan và Ned.
- Capi chỉ làm việc với con thì mới biểu diễn khá được.
- Tôi nói ngay.
- Nó sẽ học làm việc với Alan và Ned. Cha nói điều gì, - Cha tôi nói.
- cha muốn người ta thực hiện điều đó. Đó là quy luật của nhà này.
Còn cãi sao được. Buồn thay! Chúng tôi sắp phải xa nhau. Chúng tôi về cái xe của chúng tôi, nhưng tối hôm đó cha tôi không khóa chúng tôi ở trong. Khi tôi đi ngủ, Mattia nói với tôi bằng giọng nghẹn ngào:
- Cậu xem đấy, cái người mà cậu gọi là cha ấy không những cần những đứa trẻ làm việc cho ông ta mà cần cả những con chó nữa; cái đó chẳng làm cho cậu mở mắt ra hay sao? Mai ta sẽ viết thư cho má Barberin.
Ngày hôm sau phải lên lớp cho Capi, giải thích cho nó là nó phải làm việc với các em tôi. Tôi hôn nó trên mũi và nó đi với Alan và Ned, vẻ buồn rầu nhưng không chống đối. Còn Mattia và tôi thì cha tôi dẫn sang khu Tây, khu giàu có của Londres, ở đầu kia thành phố. Chúng tôi về nhà khá muộn vì từ khu Tây về đến Bethnal Green rất xa. Tôi mừng gặp lại Capi, lấm bùn be bét nhưng có vẻ vui lắm. Tôi.lấy rơm khô chải lông cho nó và cho nó ngủ trong giường tôi. Tôi và nó, ai sung sướng hơn?
Khó mà nói được.
Mọi việc cứ tiếp diễn như vậy trong nhiều ngày, một buổi tối cha tôi bảo tôi là hôm sau có thể mang Capi đi theo vì cha tôi cần giữ Alan và Ned ở nhà.
Chúng tôi tới Holborn, một trong những phố buôn bán đông đúc nhất của Londres. Bỗng nhiên tôi thấy Capi không đi theo chúng tôi nữa. Nó ra sao rồi? Tôi dừng lại chờ nó và khe khẽ huýt sáo. Tôi đã bắt đầu thấy lo ngại sợ người ta ăn cắp mất nó chăng thì nó phóng tới miệng ngậm một đôi tất len, đuôi vẫy tít lên. Trông nó đầy tự hào, y như những lúc vừa diễn thành công những trò khó nhất. Tôi ngớ cả người thấy Mattia đột ngột kéo tôi vào một phố nhỏ.
- Đi nhanh lên, - nó bảo, - nhưng đừng có chạy.
Chỉ rất nhiều phút sau nó mới dừng lại và giải thích:
- Tớ nghe thấy một người đàn ông nói: "Kẻ cắp đâu? " Kẻ cắp, chính là Capi đấy. Nếu không có sương mù hẳn chúng ta đã bị tóm rồi. Tôi sửng sốt. Họ đã biến Capi thành một tên ăn cắp!
- Về nhà đi.
- Tôi bảo Mattia.
Mattia không nói gì. Chúng tôi vội vã về nhà. Cả nhà đang ngồi quanh bàn, bận gấp vải. Tôi ném đôi tất lên bàn, Alan và Ned cười to lên.
- Đây là thứ Capi đã ăn cắp được, bởi vì người ta đã biến nó thành một tên ăn cắp. Tôi cho rằng nó chỉ đùa thôi.
Tôi vừa nói vừa run tuy nhiên chưa bao giờ thấy mình kiên quyết đến như thế.
- Thế ngộ nhỡ không phải chuyện đùa thì sao?
- Cha tôi hỏi.
- Thì con sẽ buộc một cái dây vào cổ Capi và dù có yêu nó con cũng sẽ dìm nó xuống sông Tamise. Con không muốn Capi trở thành một kẻ cắp cũng như con đây con cũng không muốn trở thành kẻ cắp. Nếu biết rằng rồi đây con cũng phải trở thành kẻ cắp thì con sẽ cùng với nó trẫm mình luôn. Cha tôi nhìn tôi, làm một cử chỉ giận dữ, đôi mắt nhìn tôi như thiêu như đốt, tuy nhiên tôi không hề cụp mắt xuống, dần dần bộ mặt căng thẳng của ông dịu lại..
- Con nói đúng khi nghĩ rằng đó chỉ là trò đùa, - ông nói, - từ nay Capi chỉ đi theo con mà thôi. Sau chuyện này, quan hệ giữa gia đình tôi và tôi được hình thành rõ rệt như sau: tất cả mọi người đều muốn cà khịa với tôi chẳng úp mở gì, cha tôi chỉ quan tâm đến tôi vào buổi tối để hỏi tiền kiếm được; mẹ tôi thì thường xuyên trong tình trạng lơ mơ như không sống trên đời này. Nếu tôi quả là người của gia đình này thì tình cảm mọi người đối với tôi phải khác chứ. Chúng tôi chờ má Barberin trả lời qua hòm thư lưu. Cuối cùng chúng tôi nhận được bức thư trả lời đầy mong đợi.
Chúng tôi đi vào một con hẻm ở phố gần đó để đọc lá thư má Barberin nhờ ông mục sư ở Chavanon viết.
Má Barberin bày tỏ với tôi tình cảm yêu thương, âu yếm, đồng thời cũng tỏ ra ngạc nhiên và thất vọng thấy cha mẹ tôi không phải là người giàu có; cuối cùng má mô tả quần áo tôi mặc trên người khi tới nhà má: một chiếc mũ bằng đăng-ten, một áo cánh bằng vải toan mịn đính đầy đăng-ten, tất dài bằng len trắng, giày trẻ con hàng dệt kim trắng có nơ lụa, một áo dài fla-nen trắng, cuối cùng là một áo khoác mặt trong là lông có mũ bằng ca-sơ-mia trắng lót lụa, trang trí với những hình thêu rất đẹp. Không áo quần nào được đánh dấu cả, nhưng chắc chắn là có dấu vì một số góc đã bị cắt đi chứng tỏ người ta rất cẩn thận làm lạc hướng mọi tìm kiếm.
- Mô tả đầy đủ như thế thì ông Driscoll không thể nào được nhầm lẫn trong việc kể tên những thứ cậu mặc khi người ta ăn cắp cậu.
- ông có thể quên chứ.
- Người ta có thể quên quần áo của đứa con người ta bị mất không? Chính là từ quần áo đó mới tìm lại được nó chứ?
Không dễ dàng gì hỏi cha tôi khi người ta lấy cắp tôi, tôi mặc quần áo như thế nào. Cuối cùng vào một hôm trời mưa giá rét chúng tôi về sớm hơn mọi khi, tôi bèn hỏi ông. Tôi vừa hé lời hỏi, cha tôi bèn nhìn thẳng vào mặt tôi dò hỏi đôi mắt tôi nhưng tôi chịu đựng cái nhìn đó một cách can trường. Tôi tưởng ông sắp giận dữ, nhưng không. ông mỉm cười, trong cái cười này có cái gì đanh ác.
- Điều tốt nhất đã giúp cha tìm lại được con, - ông nói, - chính là sự mô tả quần áo con mặc lúc con biến mất..Và ông mô tả lại hoàn toàn giống mô tả của má Barberin. ông nói thêm:
- Cha hy vọng nhiều vào hai chữ F.D đánh dấu trên quần áo con, tức là Francis Driscoll, tên thật của con, nhưng dấu này đã bị cô ăn cắp cắt đi mất; cha cũng đã phải đưa ra giấy khai sinh của con mà cha giữ trong tủ này.
Vừa nói thế ông vừa lục tìm trong một cái ngăn kéo với vẻ thích thú khá bất thường ở ông, ngay sau đó ông lấy ra một tờ giấy to đóng rất nhiều dấu, đưa cho tôi. Tôi cố gắng một lần cuối cùng:
- Nếu cha cho phép con sẽ nhờ Mattia dịch cho con. Từ lời dịch mà Mattia dịch tàm tạm, tôi được sinh ra vào ngày thứ năm mồng hai tháng tám, là con trai của Patrick Driscoll và Margareth Grange, vợ ông. Còn đòi hỏi gì hơn nữa?
Tuy nhiên Mattia tỏ ra chưa thỏa mãn, buổi tối khi chúng tôi lui về chiếc xe của mình, nó tâm sự:
- Tất cả những điều đó vẫn chưa giải thích được làm sao mà Patrick Driscoll và Margarreth Grange lại đủ giàu để ăn mặc cho con bộ cánh giàu có đến thế. Bọn bán hàng lưu động làm gì giàu đến như thế được. Tớ thì tớ tin là cậu không phải là con của ông Driscoll mà là đứa trẻ bị ông Driscoll ăn cắp.
- Nếu tớ không phải con ông thì ông tìm tớ làm gì? Việc gì ông phải cho tiền Barberin, cho tiền hãng Greth và Galley?
- Tôi đập lại.
Mattia không trả lời được.
Ai dám bảo khi tôi khóc than không có gia đình là rồi đây tôi sẽ khóc vì tuyệt vọng vì có gia đình? ấy thế mà tôi vẫn cứ phải hát, phải nhảy phải cười phải nhăn nhở, trong khi trái tim tôi buồn bã sâu sắc đến thế. Chủ nhật là những ngày tốt đẹp hơn cho tôi vì ngày hôm ấy không được chơi nhạc trong phố phường Londres, tôi có thể tự do mà buồn khổ trong khi đi dạo chơi cùng Mattia và Capi. Một ngày chủ nhật khi tôi chuẩn bị đi ra ngoài với Mattia, cha tôi giữ tôi ở lại nhà lấy cớ là cần đến tôi, cho Mattia đi chơi một mình.
Ông tôi hôm ấy không xuống dưới nhà, mẹ tôi cùng các anh chị em tôi đi rong phố. ở nhà chỉ có cha tôi và tôi. Khoảng một tiếng đồng hồ sau thì có người gõ cửa. Cha tôi ra mở cửa và đi vào cùng một người không giống những người bạn ông vẫn thường tiếp tí nào: ông này đúng là một người ở nước Anh gọi là ông quý phái có nghĩa một ngài quý tộc thực sự, ăn mặc sang trọng mặt mũi cao ngạo tuy có vẻ gì mệt mỏi trên nét mặt. ông độ năm mươi tuổi. Cái gây ấn tượng nhất với tôi là cái cười của ông ta, làm lộ ra những chiếc răng trắng và nhọn như răng chó con. Người ta tự hỏi cái cười của ông gây ra cái mím môi hay là ông đang muốn cắn.
Vừa nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh ông vừa chốc chốc lại đưa mắt nhìn về phía tôi, nhưng khi gặp mắt tôi, ông ta thôi không khảo sát tôi nữa.
Sau mấy phút chuyện trò như thế ông bỏ tiếng Anh chuyển sang dùng tiếng Pháp. ông ta nói tiếng Pháp dễ dàng như không gần như không có âm điệu ngoại quốc nào.
- Đây là đứa trẻ mà ông nói chuyện với tôi chứ gì?
- ông ta nói với cha tôi, tay chỉ tôi.
- Cháu có khỏe mạnh không nhỉ?
- ông hỏi tôi.
- Thưa ông có ạ.
- Có bao giờ bị ốm không?
- Cách đây ba năm cháu có bị sưng phổi một lần khi phải nằm trên tuyết vào một ngày lạnh khủng khiếp.
- Từ đó có bị bệnh này lần nào nữa không?
- Không ạ.
- Không bao giờ thấy mệt mỏi uể oải chứ?
- Không bao giờ. Khi nào cháu đi nhiều thì cháu mệt nhưng không vì thế mà ốm ông ta đứng lên đi lại gần tôi, sờ tay tôi, đặt tay lên tim tôi, cuối cùng áp tai vào lưng tôi, vào ngực tôi bảo tôi thở mạnh lên rồi ho lên.
Ông ta tiếp tục nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh rồi vài phút sau cả hai đi ra nhà để xe. Chuyện này nghĩa là thế nào nhỉ? ông quý phái này muốn mượn tôi làm cho ông ta ư? Vậy thì tôi phải xa Mattia và Capi ư? Mà tôi thì quyết định không bao giờ làm đày tớ cho ai hết.
Sau một lát cha tôi trở vào, ông không giải thích gì cả chỉ nói là tôi được tự do đi chơi. Tôi không muốn đi chơi, nhưng ngồi làm gì trong căn nhà này? Trời mưa tôi bèn vào xe lấy tấm da cừu. Tôi giật mình thấy Mattia trong đó!
Tôi định nói với nó thì nó đặt bàn tay lên miệng thì thầm:.
- Ra mở cửa nhà để xe đi; tớ sẽ nhẹ nhàng đi treo cậu. Không nên để ai biết tớ đã có mặt trong xe. Chỉ khi ra tới phố rồi Mattia mới nói:
- Cậu có biết cái ông lúc nãy đứng với cha cậu là ai không?
- Nó nói.
- ông Miligan đấy, chú của Arthur bạn cậu mà cậu thường nói chuyện với tớ đấy. Tôi đứng lặng giữa phố, Mattia nắm lấy cánh tay tôi vừa đi vừa nói tiếp:
- Tớ đi một mình trong mấy phố nhỏ chán quá nên về nhà nằm, nhưng không ngủ được. Cha cậu cùng một ông quý phái đi vào nhà để xe.
Tớ nghe họ nói chuyện với nhau như sau: "Vững chãi như một tảng đá, ông quý phái nói, ở địa vị nó thì mười thằng nhóc đã phải chết rồi, thế mà nó thoát, chỉ bị sưng phổi!". Vì không biết có phải nói đến cậu không nên tớ chăm chú nghe.
Lúc này cuộc nói chuyện đổi đề tài. "Thế thằng cháu ông thế nào rồi?" Cha cậu hỏi. "Khá hơn. Lần này nó lại thoát chết. Trước đây ba tháng thì bác sĩ nào cũng bảo là nó không thể chữa được; mẹ nó lại cứu nó lần nữa. ái chà! Cái bà Milligan này mới là một bà mẹ tốt chứ!" Cậu xem, tớ càng chú ý đến thế nào. "Này thế nếu thằng cháu ông khá lên như thế thì ông lo toan thận trọng như vậy vô ích à?". "Lúc này thì có lẽ thế thật đấy nhưng tôi không muốn chấp nhận Arthur sống được, bởi vì sống được là phải có phép thần mà phép thần ở đời này đâu còn. Ngày mà nó chết tôi phải được bảo đảm không có sự trở về nào cả. Người thừa kế duy nhất chỉ là tôi, James Milligan mà thôi." "ạng cứ yên tâm, cha cậu nói, nếu chỉ cần có thế thì tôi xin bảo đảm chuyện này". "Tôi trông cậy ở ông đấy" nói xong ông quý phái còn nói thêm gì nữa mà tớ không hiểu, tớ dịch sơ sơ như thế này: "Tới lúc ấy ta sẽ xem nên làm gì". Rồi ông ta đi ra.
Arthur còn sống! Sức khỏe nó lại khá lên nữa chứ! Lúc này đây tin vui này đủ làm tôi sung sướng..
Chúng tôi chỉ còn nói tới Arthur và bà Mil-ligan. Họ đang ở đâu? Chúng tôi biết tìm họ ở đâu?
Chuyến viếng thăm của ông James Milligan làm chúng tôi nảy ra một ý nghĩ và đưa ra một kế hoạch mà kết quả xem ra là chắc chắn: vì James Milligan đã đến nhà cha mẹ tôi một lần thế nào ông ta chẳng đến nữa? Chắc ông ta có làm ăn gì đó với cha tôi. Vậy thì khi nào ông ta ra về, Mattia sẽ đi theo; biết chỗ ở của ông ta rồi sẽ lân la hỏi chuyện bọn đầy tớ, từ những tin tức này có thể đến được chỗ Arthur.
Đã đến lúc mà, đáng lẽ phải đi chơi đàn trong các phố vào ban ngày chúng tôi lại đi vào ban đêm bởi vì đúng vào nửa đêm mới là những buổi hòa nhạc Giáng sinh. Như vậy ban ngày ở nhà, một trong hai đứa chúng tôi sẽ canh gác, thế nào chẳng có lúc chộp được ông chú Arthur.
Một hôm trong khi đi dạo phố phường tôi thấy một người giả da đen mặc quần áo lố lăng có đuôi chim làm hiệu cho Mattia; lúc đầu tôi cứ tưởng một trò hề để làm vui công chúng mà chúng tôi là nạn nhân, nhưng thật ngạc nhiên Mattia thân mật đáp lại.
- Cậu quen anh ta à?
- Tôi hỏi Mattia.
- Đó là Bob, bạn tớ hồi tớ làm ở rạp xiếc Gassot, chính anh ấy đã dạy tớ tiếng Anh đấy. Sau khi trình diễn xong Những bản nhạc du dương của người da đen Bob đến chỗ chúng tôi và cứ xem cái cách anh ta lại gần Mattia, tôi hiểu được người bạn đường của tôi đã được mọi người yêu quý như thế nào. Đến một người anh ruột cũng không có được niềm vui trong ánh mắt, trong giọng nói như của anh hề da đen này, người mà "qua cái nghiệt ngã của thời gian buộc phải trở thành ca sĩ hát rong" như anh ta bảo chúng tôi. Nhưng chúng tôi phải mau chóng chia tay để anh ta còn đi theo đoàn, chúng tôi thì về nhà; hai người bạn đành phải để tới chủ nhật sau mới có dịp vui sướng kể nhau nghe đã từng làm gì từ khi xa cách. Có lẽ vì tình bạn với Mattia nên Bob rất muốn tỏ thiện cảm với tôi, thế là chẳng.bao lâu chúng tôi có một người bạn chân tình mà nhờ kinh nghiệm và những lời khuyên của anh, cuộc sống ở Londres đối với chúng tôi dễ chịu hơn suốt từ hồi nào cho tới lúc này.
Cứ như thế chúng tôi đến gần lễ Giáng sinh, lẽ ra ra đi buổi sáng thì chúng tôi lên đường mỗi buổi tối vào lúc tám hoặc chín giờ để tới những khu mà chúng tôi đã chọn sẵn.
Nhưng những ngày lễ Giáng sinh đã qua rồi mà James Milligan vẫn chưa xuất hiện. Sau Giáng sinh lại phải ra đi ban ngày chẳng còn mấy cơ hội trông thấy hắn ta nữa.
Không nói là chúng tôi đang bận tâm vì cái gì, Mattia cởi mở tâm tình với anh bạn Bob của chúng tôi, hỏi anh xem có thể tìm được địa chỉ một bà tên là Milligan hoặc một ông tên là James Milligan không. Nhưng Bob trả lời phải biết địa vị xã hội của họ hoặc nghề nghiệp của họ thì mới được, ở Londres nhất là trong cả nước Anh có biết bao người tên là Milligan. Chúng tôi không nghĩ tới chuyện này nữa.
Mattia có ý kiến như sau: nó muốn chúng tôi quay về Pháp, nó nói, ở đó chúng tôi có nhiều cơ hội gặp lại Arthur và bà Milligan hơn. Lúc nào nó cũng nói đi nói lại ý nghĩ đó, nhưng tôi muốn trung thực với gia đình tôi nên từ chối không chịu trốn. Mattia khẳng định rằng gặp được bà Milligan tôi sẽ gặp gia đình đích thực của tôi. Nó nói thế với vẻ rất lạ nhưng không nói thêm gì.
Thời gian cứ chậm chạp trôi đi, đã tới lúc gia đình tôi từ bỏ Londres để đi khắp nước Anh. Hai chiếc xe lưu động đã được sơn lại, chất đầy ắp những hàng hóa mà chúng có thể chứa nổi, hàng hóa thì người ta lôi ra từ hầm bí mật trong nhà xe.
Cuối cùng mọi thứ đã sẵn sàng để ra đi. Tối hôm trước cha tôi đã báo cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ đi theo họ, nhưng vẫn làm nghề chơi đàn. Chúng tôi lại đi trên những con đường lớn.
Chúng tôi cứ theo sau hai cái xe, qua vùng đồng quê tươi đẹp thở không khí trong lành. Mỗi khi tới một ngôi làng lớn, họ đưa xe ra một chỗ rộng, hạ một bên thành xe xuống bày hàng ra trước sự tò mò của người mua.
- Hãy xem giá cả này! Xem giá cả này!
- Cha tôi la lên.
- Không ở đâu rẻ như thế..Tôi nghe thấy tiếng người mua xem hỏi giá rồi bỏ đi:
- Chỉ có là đồ ăn cắp mới rẻ thế.
Giá họ đưa mắt về phía tôi hẳn họ chẳng phải nghi ngờ gì nữa khi thấy mặt tôi đỏ lên. Nếu như họ không thấy tôi bối rối thì Mattia thấy được điều này, buổi tối nó bảo tôi:
- Việc gì cậu cứ phải chịu đựng mãi nỗi hổ thẹn này nhỉ, Rémi? Chẳng lẽ cậu nghĩ cảnh sát để yên không hỏi xem tại sao ông Driscoll bán hàng với giá rẻ thế? Tất cả chúng ta đều có thể bị bắt... Làm sao chứng minh được là ta không làm gì? Bào chữa cho mình thế nào?... Ta hãy xem có cơ hội nào là lập tức chuồn ngay, tớ có linh cảm sắp xảy ra tai họa đến nơi. Xin cậu, Rémi, ta hãy quay lại Pháp đi!
- Cho tớ vài ngày nữa, rồi chúng ta sẽ xem.
- Mau mau lên, tớ cảm thấy nguy hiểm chẳng khác gì con yêu tinh ngửi thấy mùi thịt tươi. Chưa bao giờ những lời nói, lời cầu khẩn của Mattia làm cho tôi bối rối đến như thế, mỗi khi nhớ lại những lời đó tôi lại tự bảo mình là sự do dự khiến tôi trăn trở thật là hèn, tôi phải quyết định một bề thôi.
Hoàn cảnh đã làm những gì mà tôi không dám làm.
Một hôm cha tôi đến đóng đô ở một thành phố, cho rằng ở đó làm ăn được. Tới nơi sớm lại không phải bày hàng nên tôi và Mattia đi xem trường đua ngựa ở cách thành phố khá xa.
Nhiều căn lều được dựng lên, từ xa đã có thể nhìn thấy những cột khói nhỏ đánh dấu giới hạn trường đua. Chẳng mấy chốc chúng tôi đổ ra một con đường trũng xuống nơi đất truông mọi khi cằn cỗi trơ trụi chiều nay đầy lán hàng dựng bằng ván gỗ trong đó có các quán rượu, xe cộ hoặc đơn giản là những trại đóng quân ngoài trời. Qua trước một ngọn lửa, chúng tôi gặp bạn chúng tôi, anh Bob. Thấy chúng tôi anh vui lắm. Anh ở đó cùng các bạn anh để tổ chức biểu diễn sức mạnh và sự khéo léo, nhưng mấy nhạc sĩ họ trông chờ lại lỡ hẹn thành ra ngày mai, lẽ ra rất thành công có chiều hỏng việc. Nếu muốn, chúng tôi có thể giúp họ: thay thế các nhạc sĩ, tiền thu được sẽ chia ra làm năm, lại có cả một phần cho Capi.
Vì chúng tôi tự do muốn làm gì thì làm tùy thích, nên chỉ với điều kiện đem lại thu nhập khá chúng tôi đã nhận lời ngay..Nhưng khi về nhà thông báo cho cha tôi biết việc thu xếp này, bỗng nảy ra một khó khăn.
- Ngày mai cha cần Capi.
- ông bảo tôi.
Họ lại cần Capi cho một công việc bẩn thỉu nào chăng? Nhưng cha tôi làm tiêu tan nỗi lo ngại của tôi ngay tức khắc:
- Capi tai thính, cái gì nó cũng nghe thấy, canh gác rất tốt, chúng ta cần nó để giữ xe, đông thế này họ có thể lấy cắp hàng của chúng ta. Hai đứa đi chơi đàn với Bob thôi, nếu công việc kéo dài thâu đêm, mà có thể như vậy lắm, thì các con tìm chúng ta ở quán Cây Sồi Lớn, bọn ta ngủ ở đó.
Sáng hôm sau, sau khi săn sóc Capi cẩn thận không để nó thiếu thốn cái gì, chính tay tôi buộc nó vào trục chiếc xe mà nó có nhiệm vụ canh gác, chúng tôi đi đến trường đua.
Vừa đến nơi chúng tôi bắt đầu chơi đàn ngay, và chơi không nghỉ cho đến tận chiều tối. Các đầu ngón tay tôi đau buốt như bị hàng ngàn cái gai đâm vào, Mattia thổi kèn đẩy đến hụt hơi thở không nổi nữa. Tuy nhiên Bob và các bạn anh vẫn không thôi biểu diễn các tiết mục. Tối đến, tôi tưởng đã đến lúc chúng tôi được nghỉ ngơi, hóa ra lại từ cái lều của chúng tôi chuyển sang một tiệm rượu lớn, rồi các tiết mục nhào lộn và âm nhạc lại tiếp diễn hăng hái hơn bao giờ hết. Cứ như thế cho tới nửa đêm. Tôi không còn biết mình đang chơi bản nhạc gì, Mattia cũng chẳng hơn gì tôi. Các bạn tôi cũng mệt rã rời, làm hỏng một trò diễn. Một lúc nào đó một cái sào lớn phục vụ biểu diễn rơi ngay xuống đúng đầu ngón chân Mattia. Đau đến nỗi nó kêu lên một tiếng, thịt rách ra, tuy xương không bị gãy nhưng Mattia không đi được nữa.
Thế là mọi người quyết định chúng tôi ngủ lại trong xe của Bob, sáng mai mới trở về quán. Ngủ chỉ được vài tiếng đồng hồ nhưng cũng làm tôi lại sức, sáng hôm sau tôi tỉnh dậy chuẩn bị đi nếu như Mattia, lúc ấy còn đang ngủ, có thể đi theo tôi. Ra khỏi xe tôi đi lại phía Bob đang nhóm lửa. Mải nhìn anh ta đang dùng hết sức lực thổi phù phù dưới cái nồi, tôi hình như nhận ra Capi, đang bị một cảnh sát dẫn đi.
Giật mình tôi đứng lặng người tự hỏi thế nghĩa là thế nào, nhưng Capi, nhận ra tôi, liền giật thật mạnh khỏi dây buộc, thoát khỏi tay.người cảnh sát. Chỉ vài bước nó đã chạy tới chỗ tôi và lao vào vòng tay tôi.
Cảnh sát bước tới:
- Có phải con chó này của anh không?
- Anh ta hỏi tôi.
- Vâng.
- Thế thì tôi bắt anh.
Và anh ta nắm lấy cánh tay tôi. Bob đứng lên:
- Tại sao anh giữ thằng bé này?
- Bob hỏi.
- Anh là anh nó à?
- Không, là bạn.
- Đêm qua có một người đàn ông và một thằng bé chui vào nhà thờ Saint-Georges qua một chiếc cửa sổ ở trên cao bằng một cái thang, có cả con chó này đi theo để canh gác nếu có ai làm phiền họ. Đúng là có người đến thật.
Họ nhanh chóng bỏ trốn không kịp mang theo con chó. Nhờ con chó này chắc chắn tôi sẽ tóm được kẻ gian. Thế là tóm được một rồi. Cha anh đâu?
Tôi hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra: không phải người ta hỏi mượn tôi Capi để giữ xe mà để thông báo cho bọn ăn cắp trong nhà thờ biết có người đến! Tôi phải tự mình bào chữa cho mình thôi. Mattia bị cuộc nói chuyện giữa chúng tôi làm thức giấc, ra khỏi xe.
- Anh hãy giải thích cho họ em làm sao phạm tội được vì suốt đêm em ở đây với các anh cơ mà. Bob dịch lời tôi nói với viên cảnh sát nhưng viên cảnh sát không tin như là tôi hy vọng.
- Cái gì chứng tỏ điều đó là thực?
- Cảnh sát nói.
- Tôi thề như thế chứ còn sao nữa!
- Bob kêu lên.
- ồ! Anh ấy à, anh mà làm chứng thì còn phải xem lại đã.
- Này anh đừng có mà lăng nhục tôi.
- Bob nói một cách tự trọng.
- Tôi là công dân Anh đấy nhé!
- Trong khi chờ đợi, tôi hãy cứ đưa thằng bé này đi đã, nó sẽ giải thích với ông thẩm phán sau. Tôi giữ cả con chó, nó sẽ giúp tôi tìm thấy mấy kẻ kia..Nhà tù mà họ giam tôi không phải để đùa, như cái nhà tù ở trong chất đầy hành như chúng tôi đã thấy; đây là một nhà tù thực sự cửa sổ có chấn song lớn bằng sắt chỉ nhìn thấy đã tiêu tan ngay mọi ý định vượt ngục. Toàn bộ đồ đạc chỉ có một ghế dài và một cái võng.
Tôi ngả người xuống chiếc ghế và suy nghĩ rất lung về hoàn cảnh đáng buồn của mình. Tối hôm qua mệt như thế nhưng lo lắng quá tôi không sao ngủ được. Tôi cũng không thể động đến thức ăn người ta mang cho tôi.
Ngược lại tôi vồ lấy nước mà uống, tôi khát đến cháy họng. Tôi muốn chuẩn bị các câu trả lời để cãi cho mình, nhưng tôi hoảng hốt quá. ái chà! Mattia mới có lý làm sao! Lẽ ra tôi phải nghe nó!
Sáng hôm sau một người cai ngục tới dẫn tôi vào phòng lớn của tòa án. Một làn gió nóng thổi vào mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng rì rầm khó phân biệt. Liếc mắt một cái tôi thấy ngay toàn cảnh rõ nét đang ở quanh tôi: đó là phòng xử của tòa án, trong phòng đầy những người.
Phòng xử khá rộng, trần cao, cửa sổ lớn, chia ra hai khoảng ngăn cách với nhau, một dành cho tòa, phần kia mở ra công chúng. Trên một cái bục cao có quan tòa ngồi, trước mặt quan tòa ở vị trí thấp hơn là ba vị thẩm phán, còn trước cái đài ngồi của tôi là một nhân vật mặc áo dài đeo tóc giả: luật sư của tôi.
Làm sao mà tôi có được một luật sư nhỉ? Do Mattia và Bob gửi đến chăng? Những câu hỏi này chưa phải lúc để trả lời. Tôi có một luật sư, thế là đủ.
Trong một cái đài ngồi khác tôi nhìn thấy Bob và hai anh bạn và nhiều người khác nữa mà tôi không quen; còn trong một cái đài ngồi khác nữa là viên cảnh sát cùng một số người. Tôi hiểu đây là chỗ ngồi của những người làm chứng. Nơi dành cho công chúng ngồi chật ních.
Tôi thấy Mattia, ánh mắt chúng tôi giao nhau, tôi cảm thấy mình can đảm trở lại.
Một trong các thẩm phán lên tiếng, ông giải thích tóm lược tình hình câu chuyện: một vụ ăn cắp xảy ra ở nhà thờ Saint-Georges, kẻ cắp là một người đàn ông và một đứa bé, dùng thang leo vào nhà thờ qua một cửa sổ mà chúng đập vỡ kính ra, chúng mang theo một con chó để canh gác. Một người qua đường về muộn thấy.lạ vì có ánh sáng le lói trong nhà thờ, ông ta lắng nghe thì có tiếng như tiếng vỡ, ngay tức khắc ông đánh thức người coi nhà thờ dậy; người ta đến khá đông nhưng con chó sủa lên thế là trong khi mọi người mở cửa bọn kẻ cắp tẩu thoát qua cửa sổ bỏ lại con chó; con chó này trong khi cảnh sát Jerry dẫn đi đã nhận ra chủ mình chính là thằng bé ngồi trên cái ghế dài kia, còn tên kẻ cắp thứ hai thì đang lần theo dấu vết.
Sau một vài nhận xét chứng tỏ tôi phạm tội, ông thẩm phán ngừng lời, sau đó một giọng the thé cất lên: "Im lặng!" Quan tòa không buồn nhìn về phía tôi mà như tự nói với chính mình, hỏi tôi tên tuổi, nghề nghiệp.
Tôi trả lời những câu hỏi của quan tòa sau đó xin phép được nói bằng tiếng Pháp. Tôi giải thích mình không thể ở nhà thờ vào giờ đó được bởi vì lúc đó tôi ngủ nơi trường đua ngựa cùng với các bạn tôi.
- Vậy anh giải thích thế nào về sự có mặt của con chó của anh trong nhà thờ?
- Quan tòa hỏi, tỏ ra kém tin tưởng ở những lời khẳng định của tôi.
- Tôi không giải thích. Con chó không đi cùng với tôi. Buổi sáng tôi buộc nó vào một chiếc xe của chúng tôi.
Tôi không nói gì thêm vì sợ cho người ta những vũ khí chống lại cha tôi. Người ta gọi một nhân chứng, người này tuyên thệ trên quyển Thánh Kinh là sẽ nói sự thật, không vì ghét hoặc vì yêu. Đó là một con người nhân hậu, thấp lùn, trông cực kỳ oai vệ mặc dầu mặt thì đỏ, mũi thì xanh nhợt: đó là người giữ nhà thờ.
Ông ta bắt đầu kể lể dài dòng, nào là mình đang hoang mang và phẫn nộ như thế nào khi người ta đến đánh thức bảo là có kẻ trộm trong nhà thờ; nào là lúc đầu cứ tưởng mọi người đùa mình, nhưng ai lại đùa với những người có tính cách như ông bao giờ, cho nên ông hiểu là đã xảy ra một chuyện gì nghiêm trọng; ông vội chạy tới, mở cửa nhà thờ ra, và thấy... một con chó ở trong đó. Tôi không có gì để trả lời cho việc này, nhưng luật sư của tôi suốt từ đầu không nói gì bèn đứng dậy, lắc lắc bộ tóc giả, xốc lại chiếc áo dài trên vai và lên tiếng:.
- Tối qua ai đóng cửa nhà thờ?
- ông ta hỏi.
- Tôi.
- Người gác nhà thờ trả lời.
- ông có chắc không?
- Tôi làm gì là chắc chắn đã làm việc ấy.
- Được; thế ông có chắc chắn đã khóa cả con chó ở trong nhà thờ không?
- Nếu con chó có ở trong nhà thờ thì tại sao tôi không trông thấy nó.
- Mắt ông có tốt không?
- Mắt tôi cũng như mắt mọi người.
- Cách đây sáu tháng, có phải ông đã đâm đầu vào bụng một con bê phơi mình treo ở trước cửa một cửa hàng bán thịt không?
- Tôi không thấy một câu hỏi như vậy có lợi gì khi đưa ra cho một người có tính cách như tôi.
- Người giữ nhà thờ kêu lên mặt hóa xanh ra.
- Xin ông hết lòng làm ơn trả lời câu hỏi này.
- Đúng là tôi có va vào một con bê treo một cách vô ý thức trước cửa một hàng thịt.
- ông không trông thấy nó ư?
- Lúc ấy tôi đang bận tâm nghĩ tới chuyện khác.
- Khi ông đóng cửa nhà thờ có phải ông vừa ăn cơm tối xong không?
- Hẳn là thế rồi.
- Thế khi ông đâm đầu vào con bê ông chưa ăn cơm tối chứ?
- Rồi, nhưng...
- Trong khi ăn cơm tối ông uống mấy vại bia?
- Hai.
- Có khi nào uống nhiều hơn không?
- ôi khi ba.
- Sau bữa cơm có uống một cốc rượu trắng pha chanh với đường nữa chứ?
- Thỉnh thoảng thôi.
- Mấy cốc?
Vì người giữ nhà thờ không trả lời, mặt càng ngày càng xanh, ông luật sư lại ngồi xuống, vừa ngồi vừa nói:
- Cuộc thẩm vấn này đủ tỏ ra rằng có thể con chó đã bị người làm chứng vừa rồi khóa trong nhà thờ từ trước. ông này cứ sau bữa cơm.tối do bận lòng lo lắng cái gì đó nên không nhìn thấy cả những con bê nữa. Đó là tất cả những gì tôi muốn biết. Giá mà dám, chắc là tôi đã ôm hôn ông luật sư. Tôi thoát rồi!
Sau người giữ nhà thờ, người ta còn nghe nhiều người làm chứng khác, rồi nghe đến các bạn tôi. Cuộc hỏi cung chấm dứt, quan tòa hỏi tôi có muốn nói thêm gì không. Tôi trả lời là tôi vô tội, tôi xin phó thác mình vào công lý của tòa án.
Lúc đó quan tòa cho đọc biên bản rồi tuyên bố tôi sẽ chuyển sang nhà tù của quận chờ đại bồi thẩm đoàn quyết định xem có bị gọi ra tòa đại hình hay không. Tôi xỉu đi trên chiếc ghế dài.
Rất lâu sau khi vào lại nhà tù, tôi tìm ra lý do để giải thích cho mình vì sao không được tha: Quan tòa còn đợi bắt được những người vào trong nhà thờ đã, để xem tôi có đồng lõa với họ không. Ông thẩm phán nói là người ta đang theo hút họ; chẳng bao lâu nữa tôi sẽ phải đau khổ và nhục nhã xuất hiện bên cạnh họ trên ghế của tòa đại hình.
Biết bao câu hỏi trong óc tôi làm cho thời gian trôi nhanh hơn tối qua. Trước nửa đêm một chút, tôi nghe có tiếng kèn đẩy, tôi nhận ra cách chơi kèn của Mattia. Tiếng kèn vẳng tới tai tôi qua bức tường trước mặt cái cửa sổ phòng giam tôi. Cùng với tiếng kèn có tiếng bước chân và tiếng rì rầm mơ hồ.
Tôi đến mở cửa sổ ra. Tôi mở vô cùng thận trọng tránh cho nó kêu lên, cuối cùng nhờ hết sức nhẹ nhàng tôi đạt được kết quả. Tôi đứng đó lắng tai nghe ngóng. Bỗng nhiên có đầu ai thò lên trên bờ tường:
Đó là đầu Bob. Anh ta lấy tay ra hiệu cho tôi đứng xa cửa sổ ra. Tôi nghe theo tuy không hiểu gì. Tay kia hình như Bob cầm một ống xì đồng, để lên miệng. Tôi nghe thấy một tiếng thổi đồng thời trông thấy một cục tròn màu trắng bay vào rơi dưới chân tôi. Ngay lập tức đầu Bob biến mất, tiếng kèn đẩy cũng im. Tôi không nghe thấy gì nữa.
Tôi đóng cửa sổ lại, vồ lấy cục giấy mở ra đọc: "Tối mai người ta đưa cậu đến nhà tù quận. Cậu sẽ đi tàu và ở trong toa tàu cùng với một cảnh sát. Hãy ngồi gần cửa toa chỗ cậu bước lên;.đi được độ bốn mươi nhăm phút (nhớ xem đồng hồ cho kỹ) tàu sẽ đi chậm lại vì có chỗ ngoặt; hãy mở cánh cửa toa tàu ra và dũng cảm lao xuống, khi lao hai tay duỗi ra phía trước sao cho rơi xuống trên hai chân; tới đất một cái leo lên sườn dốc bên trái, bọn tớ sẽ ở đó cùng một cái xe và một con ngựa tốt; đừng sợ gì cả; hai ngày sau ta sẽ về đến Pháp; can đảm lên!" Tôi thế là thoát rồi! Không phải xuất hiện trước tòa đại hình! ôi! Những người bạn tốt!
Tuy nhiên trong niềm vui bồng bột tôi có một ý nghĩ buồn: Còn Capi? Nhưng tôi nhanh chóng gạt bỏ ý nghĩ này. Không đời nào Mattia bỏ Capi. Nếu nó tìm được cách cho tôi vượt ngục nó cũng tìm được cách cho Capi trốn thoát.
Tôi đọc đi đọc lại mẩu giấy hai ba lần nữa rồi nhai nuốt nó đi. Tôi ngủ yên ả.
Thời gian trôi khá nhanh và chiều hôm sau, một viên cảnh sát vào ngục tôi bảo tôi đi theo. Tôi hài lòng thấy đó là một người khoảng năm mươi tuổi thân hình không có vẻ mềm mại lắm. Vậy là mọi việc có thể diễn biến theo chỉ dẫn của Mattia, lúc tàu sắp chạy tôi ngồi gần cửa toa tàu, viên cảnh sát ngồi trước mặt tôi, chỉ có hai chúng tôi ở trong toa.
Tôi dựa vào cửa toa tàu mà cửa kính mở ra, tôi xin phép viên cảnh sát được nhìn quang cảnh bên ngoài nơi chúng tôi đi qua, viên cảnh sát đồng ý. ông ta sợ gì cơ chứ? Tàu đang chạy nhanh. Bỗng nhiên không khí lạnh tạt vào mặt ông ta, ông ta đi xa cửa toa tàu vào ngồi ở giữa toa. Tôi chẳng biết lạnh là gì, nhẹ nhàng thò tay trái ra ngoài mở nắm cửa sẵn, tay phải thì giữ lấy cánh cửa. Sau bốn mươi nhăm phút như Mattia đã dặn, đầu tàu rú còi và chạy chậm lại. Đến lúc rồi. Tôi nhanh nhẹn đẩy cánh cửa tàu và nhảy xuống xa nhất có thể. Tôi rơi xuống một cái hố. Cú sốc mạnh quá làm tôi lăn ra đất, ngất đi.
Khi tỉnh lại tôi cứ tưởng mình vẫn còn ở trong tàu vì thấy mình đang được mang đi theo một vận hành nhanh; tôi nghe thấy tiếng bánh xe lăn; tôi nằm trên một lớp rơm. Má tôi trán tôi có ai vuốt ve, một cái vuốt ve mềm và ấm.
Tôi mở mắt. Một con chó màu vàng nằm trên mình tôi và đang liếm cho tôi. Luồng mắt tôi gặp mắt Mattia đang quỳ bên cạnh tôi..
- Cậu thoát rồi.
- Nó vừa nói vừa gạt con chó ra, ôm lấy tôi.
- Chúng ta đang ở đâu thế này?
- Trên xe ngựa do Bob chở.
- Em thế nào rồi?
- Bob hỏi.
- Em cũng không biết nữa. Có lẽ tốt thôi, hình như thế.
- Cử động tay, cử động chân xem nào.
- Bob kêu.
Đang nằm thẳng trên nệm rơm, tôi làm như Bob bảo.
- Tốt rồi, - Mattia nói, - không chỗ nào bị gãy cả.
- Nhưng mọi việc xảy ra thế nào nhỉ?
- Cậu nhảy tàu, chấn động làm cậu choáng váng, cậu rơi vào trong hố, không thấy cậu đâu Bob bèn chạy xuống sườn dốc trong khi tớ giữ cương ngựa, Bob bế cậu lên. Chúng mình tưởng cậu đã chết cơ đấy. Sợ quá!
- Còn viên cảnh sát thì sao?
- i theo tàu. Tàu có dừng lại đâu.
Tôi đã biết những điều cơ bản. Tôi nhìn quanh thấy một con chó vàng nhìn tôi âu yếm, đôi mắt dịu dàng.
- Còn Capi?
- Tôi hỏi.
- Nó đâu?
Mattia chưa kịp trả lời thì con chó vàng nhảy lên người tôi vừa liếm tôi vừa khóc.
- Nó đấy thôi!
- Mattia nói.
- Bọn tớ nhuộm nó đi.
Tôi vuốt ve lại chú Capi tốt bụng, tôi hôn nó. Bob quay lại phía chúng tôi và bảo Mattia:
- Em cầm cương ngựa một lát, anh phải làm cho không ai nhận ra cái xe khi đến chỗ chắn đường nữa. Đây là một cái xe phủ vải bạt trên những cái vòng, Bob bèn đặt những cái vòng đó vào trong xe, vải bạt thì gấp làm tư, anh bảo tôi lấy vải bạt phủ lên người và khuyên Mattia cũng ẩn mình dưới tấm vải. Làm như vậy cái xe hoàn toàn thay hình đổi dạng. Nếu người ta đuổi theo chúng tôi, các dấu hiệu mọi người kể lại sẽ làm mọi tìm kiếm bị lạc hướng.
- Ta đi đâu thế này?
- Tôi hỏi Mattia khi nó nằm dài bên cạnh tôi.
- Đi Littlehampton, đấy là một hải cảng nhỏ, ở đấy Bob có người anh ruột chỉ huy một cái tàu chuyên đi Pháp mua bơ và trứng ở Norman-die, Isigny. Nếu ta trốn thoát mà chắc chắn là.chúng ta sẽ trốn được - đó là nhờ ở Bob. Bob làm tất cả đấy; chứ còn tớ, thằng bé khốn khổ tội nghiệp, tớ làm gì được cho cậu đâu! Chính Bob nghĩ ra cậu phải nhảy tàu, Bob mượn bạn bè cái xe và con ngựa này, rồi lại kiếm cho ta một cái tàu để mà về Pháp, bởi vì nếu cậu đi tàu chạy bằng hơi nước cậu sẽ bị bắt ngay. Cậu xem đấy, có bạn bè tốt thật là sung sướng.
- Còn Capi, ai có ý định đem nó đi theo?
- Tớ, nhưng Bob là người quyết định nhuộm lông nó thành màu vàng để người ta không nhận ra nó nữa, chúng mình ăn trộm nó từ viên cảnh sát Jerry; đành rằng Capi cũng cảm thấy ở tớ có chuyện gì đó nên để tớ muốn làm gì thì làm; hơn nữa Bob còn biết rõ tất cả mọi thuật của bọn ăn cắp chó.
- Còn chân cậu thế nào?
- Khỏi rồi, hoặc gần như khỏi; tớ chẳng còn thì giờ nghĩ đến nó nữa. Chúng tôi đi rất nhanh vì ngựa tốt, Bob đánh xe cũng giỏi. Tuy nhiên chúng tôi phải dừng lại cho con ngựa thở một chút và cho nó ăn. Bob dừng lại giữa rừng, tháo ngựa và đeo vào cổ nó một cái túi dết đựng đầy lúa mạch lấy trong xe; đêm tối như bưng, ít có nguy cơ bị bắt lại. Lúc đó tôi liền nói chuyện với Bob, nói vài lời cảm động cảm ơn anh, nhưng anh không cho tôi nói hết những điều tôi cảm thấy.
- Bọn em đã giúp anh, - anh nói và bắt tay tôi, - giờ đến lượt anh: hơn nữa em gần như anh ruột của Mattia rồi còn gì, mà đối với một cậu bé tốt như Mattia thì người ta sẵn sàng làm cho nó mọi việc. Tôi hỏi anh xem chúng tôi còn xa Little-hampton không; anh trả lời còn phải đi hai giờ nữa và chúng tôi phải gấp lên vì tàu của anh anh cứ đến thứ bảy là đi Isigny, thủy triều lên vào sáng sớm, mà hôm nay đã là thứ sáu rồi. Chúng tôi lại lên nằm trên ổ rơm dưới tấm vải bạt, con ngựa đã được nghỉ ngơi giờ đi rất nhanh.
- Cậu có sợ không?
- Mattia hỏi tôi.
- Có và không. Tớ rất sợ bị bắt lại nhưng xem ra người ta không bắt lại tớ được. Chỉ có điều cứ giày vò tớ, đó là đi trốn chẳng khác gì mình có tội. Sẽ bào chữa cho mình thế nào bây giờ?
- Bọn mình cũng đã nghĩ đến điều đó, nhưng Bob tin rằng phải làm tất cả để cậu khỏi phải.xuất hiện trên ghế của tòa đại hình. Phải ngồi đó thì phiền lắm, ngay cả được tha bổng cũng vậy; tớ thì tớ không dám nói gì, bởi vì khẳng định thế nào cũng phải đưa cậu về Pháp, tớ sợ rằng ý định đó có thể khiến tớ khuyên cậu lầm chăng.
- Cậu làm thế là phải, và dù xảy ra cái gì chăng nữa thì tớ cũng chỉ có thể cảm ơn cậu và anh Bob mà thôi.
- Sẽ không xảy ra cái gì đâu, yên tâm đi. Khi tàu hỏa đến ga, viên cảnh sát của cậu sẽ báo cáo chuyện cậu, nhưng trước khi tổ chức xong việc tìm cậu thì đã mất khối thì giờ rồi. Mà ta thì lại phi nước đại. Hơn nữa họ đâu biết ta xuống tàu ở Littlehampton mà theo. Chắc chắn là, nếu họ không theo hút chúng tôi, chúng tôi sẽ có cơ may xuống tàu không lo gì cả, nhưng tôi không yên tâm bằng Mattia.
Trong khi đó con ngựa của chúng tôi, được Bob điều khiển một cách mạnh mẽ, vẫn tiếp tục chạy trốn rất nhanh trên con đường vắng vẻ. Chỉ thỉnh thoảng chúng tôi mới bắt gặp một vài chiếc xe khác. Những ngôi làng chúng tôi đi qua đều im ắng, thỉnh thoảng lắm mới có một cửa sổ còn sáng đèn muộn; chỉ có vài con chó chú ý đến xe chúng tôi đang chạy nhanh nên sủa theo mà thôi. Sau khi leo một đoạn đường dốc đứng, Bob dừng ngựa lại cho nó thở, chúng tôi xuống xe, dán tai xuống đất nghe ngóng, nhưng ngay cả Mattia, tai thính hơn chúng tôi, cũng không nghe thấy tiếng động nào khả nghi; chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình trong bóng tối và tĩnh lặng của đêm trường. Bây giờ không phải chúng tôi nằm dưới tấm vải bạt để trốn nữa mà là để tránh lạnh, một làn gió lạnh thổi đã khá lâu. Khi chúng tôi thè lưỡi liếm môi, chúng tôi thấy vị mặn của muối; đã gần đến biển. Chẳng mấy chốc chúng tôi nhận thấy một luồng ánh sáng cứ từng khoảng cách đều đặn biến đi rồi lại hiện ra rực rỡ: đó là một chiếc đèn pha. Chúng tôi đã đến nơi. Bob dừng ngựa, đưa nó đi thong thả nhẹ nhàng vào một con đường ngang. Rồi anh xuống xe, bảo chúng tôi cứ ở yên đó, giữ lấy ngựa. Anh đi xem anh của mình đã khởi hành chưa và liệu chúng tôi xuống thuyền có nguy hiểm không.
Tôi thú thật là thời gian Bob vắng mặt đối với tôi sao mà lâu quá. Chúng tôi không ai nóigì chỉ nghe sóng biển đập vào bờ cát sỏi ở gần đâu đấy với tiếng động đều đều càng làm tăng nỗi xúc động của chúng tôi. Mattia run bắn lên, tôi cũng vậy.
Cuối cùng chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân ở con đường lúc nãy Bob đi. Chính là Bob trở lại. Anh không đi một mình. Khi anh tới gần, chúng tôi trông thấy một người đi cùng với anh, đó là một người đàn ông mặc chiếc áo va-rơi bằng vải dầu và đội một cái mũ len.
- Đây là anh anh, - Bob nói, - anh ấy sẵn lòng nhận các em lên tàu. Ta chia tay nhau ở đây thôi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong những hoàn cảnh tốt đẹp hơn, anh hứa với các em như thế. Anh không nói thêm lời nào nữa và ôm hôn từng đứa chúng tôi, rất xúc động. Họng chúng tôi nghẹn lại không biết nói gì. Bob ra đi không một tiếng động trong đêm tối.
Chúng tôi đi theo anh anh, và chẳng bao lâu đã đi vào những con phố tĩnh mịch của thành phố, rồi sau vài khúc ngoặt ra tới bến cảng, gió biển quất vào mặt chúng tôi. Anh của Bob chỉ con tàu của mình cho chúng tôi, không nói gì.
Vài phút sau chúng tôi xuống tàu, anh đưa chúng tôi vào một ca-bin nhỏ.
- Hai tiếng nữa anh mới khởi hành, - anh nói.
- Bọn em đừng gây tiếng động nhé.
Khi anh đã khóa cửa ca-bin Mattia sà vào vòng tay tôi không một tiếng động, ôm hôn tôi. Nó không run nữa..