Nỗi đau đớn của bà Cà Xợi hôm nay đã dâng lên tới cực độ. Hồi trưa, thằng Xăm giơ dao chém Sứ, bà xổ lại phía nó. Nhưng bọn lính xô bà ngã xuống, giẫm đạp lên bà khiến bà ngất xỉu... Bà Cà Xợi tỉnh dậy trong buổi chiều tắt nắng. Cà Mỵ chạy về đầu bù tóc rối, khóc và báo cho bà hay là Sứ đã chết. Cà Mỵ nói xong lại chạy đi. Chỉ còn lại mỗi mình bà sờ soạng trên bộ vạt tre, giữa gian nhà trống trước trống sau gió giật vách lá hai bên xành xạch, xành xạch. Mãi một lúc, bà mới ngồi nhổm dậy được. Đôi con mắt bà đờ ra long lanh nắng quái. Đầu tóc vàng sém của bà xổ tung, mà những tia nắng chiều rọi lên, làm mớ tóc đỏ hoe hoe như nhuốm ánh lửa. Rồi khi hết nắng, và đêm nhòa tối, bà vẫn ngồi im không cục cựa. Bóng tối từ ngoài tràn vào phủ kín bóng bà. Đến lúc trăng lên, bóng bà Cà Xợi lại hiện ra, nhưng không phải ngồi trên bộ vạt tre nữa, mà là đứng dưới đất. Người mẹ Khơ - me đau khổ đó trong cách đứng coi cũng lạ. Đôi chân bà hơi doạng ra, hai bàn chân châu các ngón vào, bám bíu trên đất nền nhà khô nứt những đường kẻ. Hai cánh tay bà như dán sát vào nách, và bóng bà nổi rõ hơn, hơi chúi về phía trước. Trông như cái cây sắp đổ. Bà Cà Xợi đứng rất lâu. Có thể là bà đứng như vậy chừng non tiếng đồng hồ. Thình lình, bà bước ra khỏi nhà, vẫn cái dáng người ngã tới phía trước ấy, mà đi. Bà mò mẫm đi trên con đường đất dẫn tới ngã ba Sĩ - lỳ. Dọc đường, có khi bà chới với, loạng choạng, hoặc ngã giúi xuống, rồi lại lò mò đứng lên, lại đi. Cái hôm bà đến tiệm thím Ba ú mua rượu, bận về bà cũng vấp ngã. Nhưng lần đó, và những lần trước đó, không khi nào bà vấp ngã nhiều như hôm nay. Hôm nay, bà Cà Xợi đau đớn đến điên dại thật rồi. Thằng con bà, sau một thời gian vắng xa Hòn Đất, nay trở về đã chém một cô con gái mà người Khơ - me lẫn người Việt trên Hòn đều yêu mến. Cô con gái đó và mẹ của cô lại là người ơn lớn của bà Cà Xợi. Hai mươi năm về trước, trong một đêm khuya sương giá, hai mẹ con đã dìu bà về nhà, bảo bọc cho bà sinh ra Cà Mỵ. Hồi đó, mới mười tuổi mà cô gái ấy đã có tấm lòng nhân hậu rồi. Bà quên sao được nó đã tiếp sức cho mẹ nó đưa bà về nhà. Đêm ấy, bà còn nhớ hai mẹ con đầu trùm khăn vì trời lạnh. Bà nhớ lắm. Khi anh Thạch Kha chết đi, gia đình mẹ Sáu đều thương bà, thương con Cà Mỵ, hết lòng đùm bọc cho cả hai mẹ con. ›n lớn của gia đình mẹ Sáu, bà Cà Xợi vẫn ghi trong dạ. Bà không biết lấy gì mà đền đáp cho được. Thỉnh thoảng, bà cùng con Cà Mỵ tới tiếp mẹ Sáu vét mương, làm vườn hay vào ngày mùa thì gặt lúa, đập lúa phụ. Cái ơn kia chưa trả được bao nhiêu, thì nay, thằng con tàn ác do bà đẻ ra đã chém sả xuống thân cô con gái làm ơn cho bà dạo nọ. Thằng Xăm giết chết Sứ, đó là cái lý do khiến người đàn bà Khơ - me già nua chất phác này đêm nay lảo đảo, đi không vững. Nhưng bà Cà Xợi đi đâu, bà muốn đi đâu? Nào ai biết được. Chỉ biết rằng bà đang đi vất vả, trên con đường có trăng và không lấy gì lồi lõm cho lắm... Bà đang đi những bước đau khổ. Nhưng rồi cái bóng của bà, dưới ánh trăng, cũng lọ mọ hiện tới được chỗ ngã ba Sĩ Lỳ.
Tại ngã ba, khi bà đi thẳng, lúc ấy mới lộ ra ý định của bà. Bà muốn đi lại nhà mẹ Sáu. Nhưng bà đi mò mẫm, rụt rè và sợ hãi. Tới khoảng vườn xoài, bà không dám đi giữa lối, mà tạt vào mé vườn, lẩn qua sau các gốc xoài. Không biết bà đi tới nhà mẹ Sáu mất bao lâu. Chỉ biết khi tới đó, bà đã trông thấy bà con tụ tập đông đảo lắm rồi. ấy chính là lúc mọi người sắp liệm Sứ. Bà Cà Xợi không hề trông thấy cái cảnh mẹ Sáu âu yếm chải tóc, bới tóc cho con, đứa con gái thuở lên mười đã có lần tận lực dìu bà Cà Xợi từ đồng rạ về nhà nó. Bà không nhìn thấy cảnh ấy, vì bà có dám đặt chân vào tới cái sân đông nghịt người đó đâu! Bà len lén ngồi thụp sau một bụi khóm, ở vệ đường. Tại đó, bà có nghe thấy tiếng khóc của mẹ Sáu từ trong nhà vẳng ra. Bà run lên khi nghe tiếng khóc ấy. Và bà đưa tay bưng kín mặt. Khi các ngọn đuốc cháy rực giữa sân, chiếu sáng đến tận chỗ bà, bà hoảng hồn, mọp sát xuống. Lát sau, lúc bà con Hòn Đất người đuốc rầm rộ kéo đi, bà ngó thấy cái hòm đỏ chói và mái tóc bạc óng của mẹ Sáu sau kẽ hở của bàn tay mình và kẽ hở của những lá khóm nhú gai sắc. Bà nín thở nhìn cái hòm, trái tim trong lồng ngực lép kẹp của bà thắt lại tưởng như không sao đập tiếp được nữa. Bởi vì bà biết rất rõ cô gái nằm trong cái hòm đó chính là Sứ. Nay Sứ đã nằm im, đã chết. Bà nhắm nghiền mắt lại.
Cho dù bà nhiều lần từng nói thằng ác ôn đó không phải là con của bà, nhưng rõ ràng nó chính là con của bà, vì chính bà đã sinh ra nó. Trời ơi, cái đêm hôm ấy mới oi ả làm sao! Những bức tường của ngôi nhà nền đúc phông - tô ấy mới dày kín làm sao! Tại đó, bà nằm rã rượi mồ hôi, bụng đau như xé, oằn oại mãi tới khuya mới đẻ lọt ra đứa bé, là thằng Xăm... Đám người đuốc đã lũ lượt kéo đi mút đuôi rồi. Có cả con Cà Mỵ của bà cũng đi nữa. Trong bụi khóm, mấy lần bà Cà Xợi nhấp nhổm muốn chạy theo họ, nhưng bà không dám. Lần này thì bà không dám đi theo họ thật. Cà Mỵ thì khác. Còn bà, bà thấy mình là kẻ có tội, không phải mới bây giờ, nhưng bây giờ thì ghê gớm hơn, trực tiếp hơn, do đó bà không sao dám cất chân đi theo họ cho được.
Họ đã đi hết rồi. Lửa đuốc chập chờn trên những lá cành phía trước, cuối cùng khuất hẳn. Cái sân sáng lửa ban nãy giờ lại mờ tối, bàng bạc ánh trăng. Chỉ còn lại một mình bà Cà Xợi ngồi bệt sau bụi khóm. Bên kia hàng khóm nhô lá nhọn sắc như những thanh kiếm, hiện mờ mờ cái khoảnh sân, cái bậc thang, cái gian nhà sàn vách ván hãy còn leo lét cháy một thếp đèn mỡ cá. Bà Cà Xợi mở to mắt ngó gian nhà trân trân, bắt đầu từ những nấc bậc thang năm xưa, nơi đó, người con gái Việt mới chết đã có lần ráng sức dìu bà lên. Năm xưa, trong gian nhà leo lét ánh đèn đó, bà đã sinh ra con Cà Mỵ, giữa lúc mẹ Sáu rút ra trong miệng bà những cọng rạ nhừ nát. Rồi cũng tại đây, anh Thạch Kha đến đón bà về. Xăm ơi, bọn mày ác quá, mày gieo tang tóc cho cái nhà đã đùm bọc mẹ mày trong cơn khốn đốn! Mày đã về hùa với cha mày mà giẫm đạp lên trái tim mẹ mày rồi đó! Mày là con dao độc ác cứa đứt mẹ mày ra khỏi mọi người! Vì mày mà mẹ mày phải lẩn trốn trong đêm tối, không dám chạm mặt với bà con.
- "Sao ả - rặt đâu không vật mày đi cho rồi! Tao cầu ả - rặt vật mày chết, để có đau tao chỉ đau mỗi một lần, khỏi bị cứa dứt như vầy nữa! " Bà Cà Xợi nguyền rủa đứa con của mình. Rồi bà chới với đứng dậy, vẹt lá khóm đi ra. Bà đi vào sân nhà mẹ Sáu, bụng nghĩ phải lên tắt thếp đèn đó mới được, để vậy hao mỡ quá. Tới chân bậc thang bắc lên sàn nhà, bà đưa tay rờ rẫm bậc thang, như thể kiếm vật gì đánh rơi. Cứ đặt chân leo lên mỗi bậc thang là bà lại rờ rẫm, như vậy. Lâu sau bà mới lên đến sàn, lần tới cái cửa bỏ ngỏ. Tới cửa, bà nhìn thấy ngọn đèn trên ban thờ vờn qua vờn lại trước gió. Đồng thời bà trố mắt và rú lên khi trông thấy bên cạnh thếp đèn buông rủ một mớ tóc đen nhánh. Bà chỏi hai bàn tay về phía mớ tóc, đi giật lùi, rồi vùng chạy xuống thang. Bỗng nhiên, ngực bà như bị những đôi giày đinh ban trưa tiếp tục giẫm mạnh. Bà nín thở một cái, và ngã xuống ở bậc thang cuối cùng. Vào khoảng gần nửa đêm, mẹ Sáu và những bà con đi chôn Sứ về tới nhà gặp bà Cà Xợi nằm dưới bậc thang. Mọi người lấy làm lạ, vực bà lên nhà, cởi áo xống, đánh gió cho bà. Mẹ Sáu đưa mắt lặng lẽ nhìn đầu tóc vàng sém của bà Cà Xợi rồi ngoảnh đi nơi khác. Mẹ ngồi trân trân một lúc, môi bậm chặt. Bỗng mẹ đứng dậy đi vào bếp. Lát sau, mẹ trở ra, cầm một củ gừng già đưa cho chị Hai Thép. Chị Hai Thép cầm củ gừng, liếc thấy mắt mẹ rân rấn. Nhưng mẹ vẫn cắn chặt môi, không nói một tiếng nào cả. Chị Hai Thép nhai củ gừng cho dập ra, xát mạnh lên lưng bà Cà Xợi. Sau đó, chị dùng cái sống lược cạo sồn sột. Thím Ba ú giựt tóc cho bà. Không bao lâu, đã nghe bà rên khe khẽ. Mọi người đã cứu được bà tỉnh dậy. Nhưng khi tỉnh dậy, hoàn hồn nhớ ra mọi việc và sực trông thấy mẹ Sáu, bà Cà Xợi vụt nhào từ trên ván xuống, lết tới, sụp dưới chân mẹ Sáu mà lạy. Bà vừa lạy vừa khóc ròng.
- Bà Sáu lấy cây dao cắt cổ tui đi...!
Mẹ Sáu ngồi trơ ra đó. Rồi mẹ cũng khóc mùi. Chị Hai Thép lôi bà Cà Xợi ra, đỡ bà trên tay. Chị nói:
- Bà Sáu không giết thím đâu... Thím đừng lạy đừng khóc nữa. Bà Sáu với lối xóm đây có thù là thù thằng Xăm, thù thằng Mỹ - Diệm chớ không thù bà Cà Xợi đâu.
- Tui phải giết thằng Xăm! Bà Cà Xợi chồm dậy la lớn. Những ngón tay đen đúa của bà co quắp lại. Mắt bà mở trừng trừng nhìn ra ngoài cửa. Thím Ba ú nói:
- Thôi bây giờ tôi đưa thím về nhà nghỉ, nghe?
- Tui đi, mình ên tui đi được!
- Không, tôi đưa thím đi... Thím Ba ú vừa nói vừa nắm tay bà Cà Xợi dắt đi. Thím đưa bà đi được một đỗi thì gặp Cà Mỵ cũng đang hoảng hốt chạy tìm mẹ. Thím bảo Cà Mỵ:
- Con Mỵ đưa má bây về nghỉ! Phải coi chừng, má bây mới xỉu nữa đó!
Cà Mỵ dìu mẹ về tới nhà thì gà trong xóm đã gáy rộn. Nhưng Cà Mỵ biết đêm chưa tàn. Đấy là gà ngủ được một giấc, mở mắt thấy ánh trăng ngỡ trời sáng nên cất tiếng gáy. Cà Mỵ đặt mẹ lên vạt xong, cô ngồi bệt xuống đất, lưng dựa vào chân vạt. Cô gục đầu xuống, đôi tay khoanh nơi gối, nghĩ tới chị Sứ, nghĩ tới cuộc gặp gỡ tại hang Hòn ban nãy, nghẹn ngào căm tức thằng Xăm. Khác với mẹ mình, Cà Mỵ không đến nỗi đau đớn như thế. Mức độ đau đớn của cô có khác. Cô căm tức nhiều hơn và thương chị Sứ không biết để đâu cho hết. Sau cái chết của chị Sứ, giờ đây Cà Mỵ càng sẵn sàng lao mình vào bất cứ việc gì để hỗ trợ cho cuộc chiến đấu trong hang, để báo thù cho chị Sứ, đồng thời như là để chuộc lại mọi tội lỗi mà thằng anh tàn bạo của cô đã gieo xuống đất này. Cà Mỵ ngồi im tới trăng lặn. Giờ này gà đã te te gáy sáng thật. Cô đứng dậy, đến đằng nhà chị Hai Thép. Cà Mỵ vừa ra khỏi nhà thì thằng Xăm mò đến. Cùng đi với hắn có tên lính hộ vệ người bé nhỏ, đôi mắt láo liên. Đây là lần thứ hai thằng Xăm ghé qua nhà mẹ. Đầu hắn vẫn đội sụp cái kết ba rèm. Lưỡi trai vải phía trước muốn che hết cái trán vốn đã ngắn của hắn, chỉ để lộ ra hai tròng mắt trắng giã. Thằng Xăm đi nghiêng nghiêng, vai trái hơi xệ xuống, không nhúc nhích. Tên lính loắt choắt đi trước vào nhà. Thằng Xăm chưa vào.
Trong lúc trời đất còn mờ mờ chưa tỏ hẳn, hắn đứng giữa sân, niễng đầu nhìn lu nước, nhìn gian nhà trống trước trống sau... Hắn lắng tai nghe tiếng gió giật chái lá xành xạch. Trước mặt hắn cây sua đũa với vòm lá thưa loang loáng hơi sương lâu lâu lại rụng xuống vài bông trắng. Những cái bông sua đũa êm ái chạm mặt đất, không phát ra một tiếng động. Đâu đây xông vào mũi thằng Xăm mùi bùn non quăng quăng của một cái ao mới cạn. Những cái đó, từ tiếng gió giật, từ cánh hoa rụng trong đêm tàn, từ mùi bùn, tất cả hình như gieo vào lòng thằng biệt kích ác ôn nỗi trắc ẩn. Đứng lại mảnh sân nhà hiu quạnh của người mẹ, thằng biệt kích chừng như mới bắt đầu có lại được cái cảm giác thông thường của con người.
Nhưng không chịu nổi lâu với cảnh đó, hắn quay phắt, đi lục xục vào nhà. Bà Cà Xợi đã thức dậy, ngồi trên bộ vạt, chân thõng xuống. Bà biết có thằng Xăm về, vì tên lính hộ vệ vào trước đã cho bà hay. Thằng Xăm vào nhà, đi tới đi lui. Hắn dừng lại trước mặt bà Cà Xợi hỏi:
- Tụi nó đánh má có đau không? Bà Cà Xợi không đáp. Thằng Xăm đi tới đi lui, cánh tay trái vẫn ngay đơ:
- Mà má đi theo mấy con mẹ đờn bà Hòn Đất làm chi... Phải không có má ở đó, tui ra lệnh bắn té hết! Đứng lại giữa nền nhà giờ đã sáng ra, hắn đưa tay mặt bợ cánh tay trái bị thương, hậm hực nói:
- Cái con Sứ đó cứng cổ quá, chém ba dao không đứt. Đồ đờn bà ngu, theo Việt cộng chi cho chết thảm thiết. Con mẹ của nó bạc đầu mà cũng vậy. Biểu khuyên lơn con, không chịu là không... Nè, má biết hôn, tụi trong hang gần chết hết rồi. Không cơm ăn, không nước uống, chịu sao thấu... Chút nữa ráo ráo sương, tui cho lính chất rơm ớt đốt hang nữa, cho thằng nào con nào ở trỏng cũng phải chun ra hết... Nghe thằng Xăm nói, bà Cà Xợi vẫn nín thinh. Thỉnh thoảng bà liếc mắt nhìn nó. Cái liếc nhìn của bà sáng nay trông dễ sợ. ánh mắt bà vừa tỉnh táo, vừa dài dại. Thằng Xăm chợt hỏi:
- Má nè, con Mỵ đâu rồi?
- Nó đi vô xóm! Thằng Xăm ngồi lên bộ ván giữa, ngã người nằm xuống. Hắn ngó lên góc nhà giây lâu bỗng nhổm người dậy:
- Lần này tiêu diệt hết Việt cộng rồi, tôi đóng bót ở đây. Ruộng vườn của ông già, tôi lấy lại ráo. Ai làm ruộng phải nộp lúa ruộng, ai làm vườn phải nộp tiền vườn. Mấy năm rồi, ai giựt thì bây giờ phải nộp thoái, không được thiếu một hột lúa! Bà Cà Xợi nghe hắn nói, ngồi im một chốc mới thốt:
- Chắc chớ. Nhứt định là tôi đóng bót, cất nhà lại đàng hoàng. Má với con Mỵ cứ ở không ăn, khỏi nắn nồi, đươi đát chi cho cực. Lâu lâu tôi cho xe đưa hai người lên Rạch Giá chơi. Tôi biểu vợ tôi sắm cho con Mỵ nhiều quần áo tốt. Con Mỵ mà sửa soạn vô coi ngộ lắm...
- Thì để coi coi...
- Bà Cà Xợi nói giọng như thường. Đoạn bà bước xuống bộ vạt, đi ra sau chuồng gà bắt luôn hai con gà mái tơ trói lại. Bà xách hai con liệng giữa nhà nói:
- Xăm à, mày với chú lính đây ở lại ăn cơm nghe?
- Được, được! Vẻ mặt thằng Xăm hớn hở hẳn lên. Hắn lột cái kết ba rèm trên đầu liệng xuống ván. Rồi hắn co giày khẽ đá hai con gà, khen:
- Hai con gà này mập đây! Hắn vui vẻ móc bóp, lấy một tờ bạc hai trăm đưa tên lính:
- Hai Nhỏ, mày đi mua rượu. Coi ở tiệm có gì nhậu được cứ mua thêm! Thằng lính Hai Nhỏ rón cầm tờ bạc. Thằng Xăm tháo cái bi - đông ở lưng đưa cho nó, dặn rằng phải mua hai bi - đông rượu, chớ một bi - đông thì không thể nào uống đủ. Thằng lính Hai Nhỏ đi ngay. Đi tới cửa nó sực nhớ cây súng trên bộ ván, quay lại tính lấy. Thằng Xăm khoát tay:
- Cứ đi đi, để súng đây tao coi cho. Không lẽ Việt Cộng ở trong hang lòn ra tới đây giựt súng sao mà sợ! Tên Hai Nhỏ đi rồi, thằng Xăm vẫn tiếp tục sống trong trạng thái vui vẻ. Có lẽ đời hắn dạo gần đây chưa bao giờ được vui như vậy. Bà Cà Xợi nhóm bếp, bắc cái trã đất lên nấu nước. Thằng Xăm nói:
- ở xứ Hòn này xài cái gì cũng bằng đất dở quá. Để rồi mua xong nhôm chảo sắt mà nấu. ở trên Rạch Giá bây giờ đâu có ai xài thứ nồi om trã đất này nữa! Bà Cà Xợi cầm con dao dâu kề và cổ con gà, nghe hắn nói thế thì dừng dao ngó xuống. Bà nhổ thêm mấy cái lông nơi cổ gà rồi kề lưỡi dao vào cắt. Con gà hấp him đôi mắt, kêu khe khé trong cuống họng. Máu ở cổ gà phì ra, nhểu toong toong xuống cái ơ đất kê bên dưới. Thằng Xăm ngồi chồm hổm một bên coi. Hắn buột miệng lẩm bẩm:
- Coi giống máu ở cổ con Sứ nhểu xuống hôm qua quá. Lần này, bà Cà Xợi bủn rủn muốn buông dao. Tim bà thắt lại, nhưng bà cố nén, cầm dao cắt cổ nốt con gà thứ hai. Thằng Xăm thì vẫn ở trong cái tâm trạng vui vẻ.. Hắn giúp bà Cà Xợi một tay, vặt lông gà. Bà Cà Xợi lặng thinh làm gà. Một con gà đem luộc nước dừa xiêm, một con đem rang muối. Hai món này người Khơ - me rất ưa. Một mình bà đứng trông hai bếp. Một bếp bà bắc cái ơ đổ tràn nước dừa, một bếp bà bắc cái nồi om đất. Trong nồi đã có bỏ muối hột và lót vỉ tre. Đợi muối bắt đầu nóng chảy trong nồi, bà Cà Xợi mới đặt con gà đã nhỏ hết nước lên vỉ, rồi đậy kín nắp vung. Bà trông coi hai cái bếp rất kỹ, mắt nhìn nước dừa sủi tăm và tai lắng nghe tiếng muối nổ lắc xắc. Có lẽ trong suốt đời mình, chưa có khi nào bà Cà Xợi nấu nướng chăm chú, cẩn thận như buổi sáng hôm nay. Lúc tên lính Hai Nhỏ xách hai bi đông rượu về, thì lát sau gà cũng đã luộc và rang xong. Con gà luộc chín mọng. Con gà rang khô se. Bà Cà Xợi xé gà xếp vun hai vịm nhỏ, đâm muối ớt và xắc chuối cây trộn ghém. Bà bày đầy chiếc mâm gỗ cũ kỹ mòn mép, dọn lên bộ ván giữa. Trong bữa ăn, bà Cà Xợi không ăn mấy. Bà uống rượu từng chén, ép thằng Xăm và tên lính cùng uống. Đây là bữa đầu tiên bà Cà Xợi ăn chung mâm với con. Thằng Xăm với tên lính Hai Nhỏ nốc rượu ừng ực, ăn thịt gà ngốn ngấu. Hai bi đông rượu đều cạn, nhưng gà thì còn lại hơn nửa con. Bà Cà Xợi nói:
- Để dành cho con Mỵ! †n xong, tên Hai Nhỏ lăn ra ngủ. Thằng Xăm ngồi nói bâng quơ vài câu rồi cũng ngã ra ván quờ tay chụp cái kết vải đậy mặt. Lát sau hắn cất tiếng ngáy khò khò... Bây giờ thì bà Cà Xợi đã đến đứng sát bên bộ ván thằng Xăm ngủ. Tay phải bà xách cây dao dâu. Tay trái bà run rẩy kéo nhẹ cái kết "ba rèm" trên mặt thằng Xăm ra. Mắt hắn vẫn nhắm nghiền, bộ mặt hắn bóng loáng, nhờn nhờn. Bộ mặt này trước kia đã có lúc bà Cà Xợi ghì sát vào lòng, hôn hít. Đôi môi này trước đã ngoạm bú vú bà chùn chụt. Nay bộ mặt ấy thay đổi quá. Hồi đó nó còn là một đứa trẻ thơ. Nay nó là một thằng biệt kích, một kẻ đã từng mổ bụng, moi mật và ăn gan người. Hồi đó nó chả biết gì. Thế mà bây giờ nó biết sống chết cố dựng lại ngôi nhà trên chính cái nền nhà của cha nó bị nông dân phá sụp. Người ơn của mẹ nó thì nó chém chết không thương tiếc, rồi còn bảo con gà bị cắt cổ nhểu máu như thế nào thì người bị nó chém cũng nhểu máu như vậy.
Mẹ nó vốn xuất thân là một người nắn nồi đất, thế mà bây giờ nó nói nồi đất chẳng ra gì, sánh với nồi nhôm. Nó chẳng biết mẹ nó ngày xưa sống được là nhờ những cái nồi đất ấy. Nó cũng chẳng cần biết có nồi đất thì người nghèo như mẹ nó mới nấu được cơm, và có nồi đất thì mới cất được rượu nếp nồng nàn mà nó vẫn ưa uống hơn cả. Thằng Xăm là đứa biết và không biết một cách rất có ý thức về mọi điều đó. Tuy nhiên có lúc, hắn còn biết nghĩ đến một điều là nghĩ về mẹ và em gái hắn. Mặc dù điều này cũng rất đỗi mỏng manh, nhưng chính bởi cái đó nên đã ba lần bà Cà Xợi giơ dao lên rồi lại từ từ hạ xuống. Khốn thay cái bản năng duy nhất có thể cho phép thằng Xăm thoát hiểm cũng lung lay nốt, vì những tội lỗi trên kia đã choáng phủ tất cả, xóa đi tất cả, không để cho người mẹ còn nhận được hắn là con của mình nữa. Cho nên sau những phút chần chừ, do dự, bà Cà Xợi dựng con dao dâu vào vách và chạy ra khỏi nhà. Hồi lâu, giữa lúc thằng Xăm và tên lính hãy còn ngủ thì có hai bóng người lẻn vào cửa sau. Đó là hai du kích còn náu lại ngoài xóm...
Một anh du kích đứng cầm trái lựu đạn gác cửa, còn một anh cầm mã tấu phăm phăm đi riết vào chỗ thằng Xăm ngủ. Thằng Xăm chết ở nhát mã tấu chém phụp xuống đất nặng và gọn. Đầu hắn đứt lìa văng ra cách cái cổ đang phun máu của hắn chừng nửa gang tay. Tên lính Hai Nhỏ nghe động giựt mình choàng dậy, chụp súng. Nó cũng liền bị anh du kích chém đổ ngay xuống ván. Nhát mã tấu này ăn xếch từ dưới lẹm cằm lên tới mang tai tên lính xấu số. Lưỡi mã tấu mắc dính trong đó, anh du kích loay hoay mất một lúc, mới nhấc ra được.
5
Nắng trưa đã rọi thẳng xuống đỉnh các ngọn dừa. ánh nắng in thành vệt trên những đống rơm chất dài trong vườn. Cạnh đó, mấy bao bố chứa ớt khô và vôi bột mà bọn giặc mới vác từ suối đến cứ xếp chồng lên nhau. Đợi mãi chẳng thấy trung úy Xăm đâu, tên thiếu úy Ba ra lệnh cho bọn lính bắt đầu đội rơm lên đầu, chia thành hai cánh, men vào hai bên mép miệng hang. Trông những tên lính vác rơm thật buồn cười. Chúng đi rón rén như kẻ trộm, mặc dù hai khẩu đại liên của chúng đặt trong mé vườn đã được nạp đạn, chĩa nòng vào miệng hang để đề phòng bất trắc. Bọn lính nối đuôi nhau đi mỗi lúc một xa. Khi chúng đi vào tới vạt cỏ ống che khuất đến lưng, thì chỉ còn thấy những đống rơm biết đi, xô đẩy, hêu hêu trên đầu ngọn cỏ. Chúng đến hai bên mé hang, hất rơm trên đầu xuống thành hàng đống dài, vàng lóa. Những thằng lính vác bao ớt bột, vôi bột men ra sau cũng đã đi được nửa đường. Sau rốt tên thiếu úy gọi mấy thằng lính vác sào tre dài lêu đêu, vàng óng, xông vào. (Những cây tre này chúng vừa đốn hồi sáng ngoài bãi tre. Và do đó bà con đã kéo tới chỗ tên thiếu tá làm ầm lên. Khi tên thiếu tá chịu xuất tiền bồi thường thì những thằng lính mới vác tre đi được.) Vào đến miệng hang, tên thiếu úy Ba một mặt cho lính chạy vào xóm kiếm thằng Xăm, một mặt cho rạch mấy bao vôi, ớt. Chúng đổ rắc vôi và ớt bột vào tất cả các bó rơm rồi dùng sào tre xiên qua các bó rơm đó, đẩy tới miệng hang. Rơm mới đùn tới miệng hang thì súng từ trong bắn xổ ra. Rơm khô bị những viên đạn nóng rẫy cọ sát, ngún khói và trong nháy mắt cháy bùng lên. Tên thiếu úy nằm rạp xuống cỏ từ nãy giờ thấy thế liền bật cười hô hố. Hắn co chân đạp gió lia lịa, la lên:
Bọn lính cầm sào tre ra sức đẩy rơm tới giữa miệng hang. Lát sau miệng hang đùn đầy rơm, bộn bề, xù xụ. Rơm khô bén lửa cháy phừng lên giữa buổi trưa nắng chang chang. Súng bên trong cũng im bặt không bắn ra nữa. Bọn lính tiếp tục dùng sào đẩy rơm vào miệng hang. Tên thiếu úy vẫn nằm xoài trên cỏ. Theo lệnh hắn, những tên xạ thủ súng máy nằm bên cạnh đã đặt tay lên cò súng, sẵn sàng quét đạn về phía miệng hang nếu có ai từ trong đó vụt chạy ra. Tên thiếu úy chòi chòi hai gót giày giữa khoảng không, đắc chí bảo:
- Đ. mẹ, khói ớt mà chịu gì nổi? Trận này chuột phải bò ra khỏi hang thôi. Hễ thằng nào vọt ra, tụi bây quét liền cho tao! Những tên xạ thủ súng máy mím môi chờ đợi. Nhưng chúng chưa thấy bóng một người nào ra cả. Chỉ có đám lính đứng lố nhố gần miệng hang vụt chạy lùi trở lại. Tên thiếu úy hỏi lớn:
- Cái gì, cái gì mà chạy? Bọn lính không đáp. Thằng nào thằng nấy cứ ôm ngực ho sặc sụa, chạy thoái lui. Thì ra rơm cháy lên, nhưng khói không chịu lùa vào hang. Luồng khói trắng xám bốc từ đống rơm cháy bị gió trong hang lồng ra, cuồn cuộn tạt qua hai bên miệng hang. Bọn lính đứng gần đó bị luồng khói độc địa phả vào mặt. Chúng hít phải hơi ớt và vôi bột, chịu không nổi, vùng chạy trối chết. Nước mắt, nước mũi trên mặt chúng chảy giàn giụa cả ra. Có thằng bị khói ớt xông lên cay buốt tận đỉnh đầu, đứng không vững phải ngồi khuỵu xuống. Có thằng mắt mở ra không được. Vừa đi vừa quờ tay như bị mù. Tên thiếu úy Ba ức lắm, nhỏm dậy chạy lại coi. Hắn cũng liền bị khói phả vào mặt, ho sằng sặc và quay lui. Những luồng khói không ngừng miết vào hai mép hang, lùa theo. Hệt như ở trong đó có người đang quạt thốc khói ra vậy. Nhưng kỳ thực trong đó nào có ai quạt. Lỗi lầm này là cũng bởi tại bọn giặc quá ngu xuẩn mà thôi. Trong một cái hang đã có sẵn khối thể khí, nay lại dồn vào, tất nó không nhận thêm. Ban sáng khi bọn lính đi cướp rơm của bà con trong xóm có để lộ ý định xông hang thì nhiều bà con đã cười thầm trong bụng rồi. ạng Tư Đờn đã nói với bọn lính:
- Tui tiếc chi ba cọng rơm, mấy người muốn lấy rơm đem xông Việt cộng thì cứ lấy. Tui chỉ e không ăn thua gì đâu!
- Sao không ăn thua?
- Không xông nổi đâu! Một tên bảo:
- Thôi, đi vác rơm đi tụi mày, ở đó nói lần khân với ổng làm chi, ổng mù, chuyện giặc giã làm sao ổng biết được! Chúng không dè ông Tư Đờn biết rõ. ạng biết không thể nào xông khói vô hang được, nên ông mới nói thế. Bây giờ lời nói của ông đã được chứng thực. Khói cứ vẫn bay ngược trở ra. Tên thiếu úy mắt nhắm mắt mở bảo bọn lính:
- Như vậy không xong. Tụi bây phải vác sào chỏi đống rơm đó vô miệng hang sâu sâu một chút mới được. Ba bốn thằng lính cầm sào tre, mon men lại gần miệng hang vừa đi vừa tránh khói thổi tạt vô mặt. Chúng đứng lóm thóm tạt đó một chút rồi liều mạng nhảy đại ra trước miệng hang, cầm sào đẩy rơm vào lia lịa. Đống rơm đang cháy bị đẩy vào sâu hơn. Bọn lính đẩy xong vội vàng chạy lùi về. Nhưng lần này tên thiếu úy và cả bọn lính đều thất vọng. Khói trong miệng hang vẫn cứ cuồn cuộn bay ra. Một tên lính dụi mắt càu nhàu:
- Gẫm ra ông già mù trong xóm nói phải. Khói không chịu bay vô mà ăn thua mẹ gì!
- Anh Ba à, nhắm không êm thì mình rút về tính kế khác, chớ láng cháng ở đây...
- Phải đó, ở đây không nên, rủi tụi nó trong hang xổ ra mình trở tay không kịp! Tên thiếu úy Ba tức giận quát lớn:
- Không nên, không nên cái con c...
Tụi nó ra thì sanh tử với tụi nó, không rút đi đâu hết thảy! Hắn lại chửi thề thêm một câu nữa, rất tục. Rủi thay, giữa lúc hắn nổi giận thì từ trong mé vườn có một tên lính hớt hải chạy ra. Đó là tên lính ban nãy theo lịnh hắn vào xóm kiếm thằng Xăm. Tên này chạy đến nơi, mặt xanh mét không còn một giọt máu. Nói như muốn đứt thở:
- Trung... trung úy chết rồi! Tên thiếu úy Ba chưng hửng, chưa kịp hỏi thì tên lính lại hổn hển nói:
- Thằng Hai Nhỏ cũng chết... Trung úy với thằng Hai Nhỏ bị chém. Trung úy đứt đầu. Châu cha, máu chảy đầy một bộ ván...
- Ai chém? Bắt được chưa? Mà chém ở đâu?
- Tại nhà bà già của trung úy. Chưa biết ai chém. Tôi bước vô thấy hai người nằm, ruồi bu đầy cổ, chớ không thấy có ai ở đó hết!
- Thôi chết mẹ rồi, Việt cộng trong xóm bắt đầu ám sát rồi!
- Tao nghi... Mặt tên thiếu úy tái hẳn lại. Hắn hỏi:
- Cho thiếu tá hay chưa? Tên lính đáp:
- Rồi, tôi chạy lên cho ổng hay rồi?
- ổng nói sao?
- ổng đương nhậu, buông rớt bể cái ly...
Tên thiếu úy không hỏi thêm gì nữa. Hắn liền ra lịnh bỏ cuộc un hang. Bọn lính vứt sào tre, không màng tới đám rơm còn đang cháy hù hù. Tất cả kéo nhau qua khoảng đất trống. Những tên lính bị chảy nước mắt và những tên lính không bị chảy nước mắt, tất cả đều bị cái tin rùng rợn kia làm cho chân tay bủn rủn. Đây là lần đầu tiên bọn lính biệt động hoang mang run sợ nhất. Lâu nay thằng Xăm gây cho chúng lòng cuồng tín cao độ. Bọn chúng vẫn tin rằng hễ có mặt thằng Xăm trong trận đánh phá nào thì trận đánh phá đó ắt phải kết quả. Chúng tin rằng đi theo thằng Xăm thì chúng chỉ giết được người khác chớ người khác không bao giờ giết được chúng. Lâu nay thằng Xăm là tiếng reo hò thúc giục chúng xông vào tội ác. Khi phát hiện trên đồng nước một bóng cán bộ nào thì hắn chạy sải tới như ngựa, hạ lệnh rượt đến cùng, dù là đồng nước ấy ngập tới gối, dù người cán bộ đó ở cách xa hằng ba bốn cây số. Đi biệt kích, hắn thường đánh thức bọn chúng dậy giữa đêm mưa và nói rằng chỉ có đi trong đêm mưa mới đánh được Việt cộng. Ban đầu bọn chúng còn rụt rè chưa dám ăn thịt người, thì thằng Xăm nhai nghiến ngấu, luôn miệng bảo trên đời không có thịt con nào ngon hơn thịt con người. Đối với phụ nữ, trừ mẹ và em gái, hắn có thể hiếp bất cứ ai. Sau lúc hiếp hắn còn cắn vú họ, hút máu, và nói rằng máu đàn bà bổ hơn máu đàn ông. Hắn là một đứa như thế. Và chính nhờ thế hắn mới được Ngô Đình Diệm phong là một trong sáu anh hùng của quân đoàn bốn, trấn cứ tại miền Tây Nam bộ. Đại đội biệt kích của hắn chả khác gì con rắn độc, mà hắn là cái đầu. Bây giờ đầu rắn bị chặt rời nên mình rắn là bọn biệt kích kia cũng tức khắc oằn oại.
Trên mặt tên thiếu úy Ba, vẻ hùng hổ đã chết lặng, nhường chỗ cho nỗi hoảng sợ hiện lên là da mặt mỗi lúc một xanh tái. Từ khoảng đất trống dẫn tới mé vườn, hắn đi vấp ngã mấy lượt. Đôi tên biệt kích còn ngó ngoái lại miệng hang. Hôm nay đứa nào cũng thấy trong người rã rời. Cái tin thằng Xăm bị chết một cách đột ngột cùng cuộc un hang thất bại gieo vào lòng chúng nỗi chán ngán đến mệt mỏi. Sau lưng chúng, đống rơm ở miệng hang đã cháy rụi. Khói trắng bay là là ra tới khoảng đất trống. Đống tro rơm trên miệng hang bỗng sụp xuống và phần trên miệng hang lộ ra. Cả bọn kéo về tới bên bờ suối. Tên thiếu tá cũng có mặt ở đó. Khi biết việc đốt hang thất bại, hắn lầm bầm chửi tục, mặt quạu quọ. Từ đêm qua tới nay hắn toàn gặp chuyện rắc rối. Mấy hôm trước dân Hòn Đất còn im lặng. Thế mà từ sau khi hắn xuống lệnh giết chết một người con gái thì ngay đêm đó hắn bắt đầu phải đối phó với bao nhiêu vụ. Nào là dân chúng biểu tình ban đêm, nào là dân chúng bắt bọn lính đốn tre dẫn tới chỗ hắn, đòi hắn phải bồi thường. Rồi thằng Xăm bị chặt đầu, rồi kế hoạch hun hang do hắn bày ra đã hỏng bét. Sau khi chửi thề, hắn nói với tên thiếu úy Ba:
- Thôi được, un hang không được thì sẽ lấp hang. Về vụ này tôi nghi trung úy Xăm và thằng Hai Nhỏ bị con mẹ đằng Thổ chém. Nghe nói con mẻ điên...
- Thưa thiếu tá, tôi cũng nghi vậy. Đâu có ai vô đó... Con mẹ đó coi ghê lắm, phải bắt con mẻ mới được!
- Nó trốn rồi. Tự nãy giờ cho lính kiếm giáp xóm mà không gặp. Tôi tính bắt con nhỏ đằng Thổ lai em của trung úy Xăm đem về khảo thử, nhưng dân chúng họ cự dữ quá, họ giựt con nhỏ đó lại...
- Thưa thiếu tá, tụi dân chúng ở đây coi bản mặt đứa nào cũng lầm lầm lì lì. Chắc phải "mổ" vài đứa cho tụi nó hoảng mới được! Tên thiếu tá không đáp, đưa cánh tay đen nhánh lên nhìn đồng hồ. Hắn nói:
- Gần hai giờ rồi. Bây giờ các anh cho lính tới vác xác hai người đem chôn đi. Tôi còn phải lại trường học coi số lính bị thương hổm rày ra sao. Nghe nói họ rên la dữ quá. Đ. mẹ, kêu trực thăng rát cổ họng mà chớ có tới một chiếc. Bộ bị Việt cộng bắn rớt hết rồi sao không biết?...
Tên thiếu tá nói xong, quay lưng kêu bọn lính đi với mình vào xóm... Tại cái trường học mà ngay từ hôm đầu tiên bọn chúng đã vứt tất cả bàn ghế ra sân, tên thiếu tá đứng trước một cảnh tượng khủng khiếp. Trên những tấm vải bạt xám trải đất, bọn lính bị thương nằm chật hết không còn một chỗ trống. Những thân hình xám xịt, hôi hám buộc đầy bông băng cứ ngọ ngoạy tay chân, quờ qua quờ lại. Trên vải bạt vương đầy những miếng bông dán máu khô sẫm và những lớp vải băng tuột ra lòng thòng, giây máu giây đất trông rất bẩn. Bọn lính bị thương chửi rủa luôn miệng và rên rỉ đủ kiểu khác nhau tùy theo thương tích của từng tên. Chúng rên hư hư như trẻ con khóc. Chúng chắc lưỡi hoặc rít dài. Có tên thở hộc hộc và có những tên từ cuống họng chợt phát ra tiếng ơ ớ như người nằm mê gặp mộng dữ, muốn rú lên mà không rú được. Tại đây chỉ còn lại bọn lính bị thương nặng. Bọn bị thương nhẹ có hy vọng tiếp tục cầm súng đã được chở đi hồi trưa hôm qua, cùng chuyến trực thăng đổ xuống lấy xác tên Mỹ. Tên thiếu tá chau mày trước những hình hài lăn lộn, đang rên rỉ và chửi rủa. Mấy tên nằm ở góc ngoài chẳng biết có thấy thiếu tá của chúng đứng đấy hay không, mà chúng cứ lôi tên thiếu tá ra chửi. Nghe chửi một lúc, tên thiếu tá nóng mặt hất hàm bảo bọn lính:
- Tụi bây biểu nó câm miệng đi, không thôi tao xổ cho một băng đạn bây giờ! Một tên lính chạy sấn vào nạt lớn:
- Im đi, làm gì mà cứ rống lên vậy. Thiếu tá bắn chết mẹ hết bây giờ!
- Đ. mẹ, thiếu tá, thiếu tá đâu? Thiếu tá đâu? Mấy tên lính càng chửi dữ rồi chồm tới phía cửa, muốn chụp chân tên lính vừa nói. Tên lính hoảng sợ rụt chân, lui lại. Bọn bị thương gào lên như xé họng. Chúng bò nhoài ra phía cửa hông ngôi trường, chửi xối xả vào mặt tên thiếu tá, bảo rằng chính hắn đã bắt chúng đi chết bỏ vợ bỏ con. Tên thiếu tá đứng yên cúi nhìn mấy tên lính bị thương đang chồm về phía mình. Hắn thét:
- Câm, tao biểu câm miệng! Nhưng bọn này cũng không ngớt lời nguyền rủa. Chúng còn hăm nếu chúng mà chết, chúng sẽ bắt hồn tên thiếu tá đi theo. Một bàn tay dài ngoẵng của tên lính đã vớ lên tới mũi giày da đen cao cổ bám đầy bụi của tên thiếu tá. Tên thiếu tá nháy mắt bảo tên lính mang tôm - xông đứng gác tại cửa.
- Bắn nó cho tao! Tên lính kéo khẩu tôm - xông ra khỏi vai. Nhưng rồi tên lính ấy cứ đứng trơ ra, miệng há hốc, ngón tay đặt nơi cò súng cứ run lẩy bẩy. Nó không bắn được. Tên thiếu tá không đợi nữa. Hắn thò tay mở bao súng, rút khẩu côn 12 chĩa xuống cái đầu băng bó đỏ lòm dưới chân mình bắn "đẹt" ngay một phát. Người lính bị thương chúi đầu xuống, hai bàn tay đang ôm lấy ống giày tên thiếu tá từ từ buông rời ra. Sau khi giết chết tên lính, tên thiếu tá quay mũi súng sang tên lính cầm tiểu liên tôm - xông, nghiến hàm răng vàng lóa:
- ‰, sao biểu bắn mày không bắn mậy? Tên lính không đáp. Nhưng khẩu tôm - xông trong tay tên lính tự nhiên cũng chĩa vào người tên thiếu tá. Hai họng súng đều run run. Tên thiếu tá bỗng tái mặt. Hắn thấy đôi mắt tên lính bây giờ đỏ ngầu, và bàn tay trái của tên lính nắm chặt lấy băng đạn tôm - xông còn đầy ắp. Lát sau, tay súng ngắn tên thiếu tá từ từ hạ xuống. Hắn vừa đưa mắt nhìn tên lính, vừa cho súng vào bao. Tên lính thì vẫn cứ chĩa họng súng vào người hắn. Đến mấy giây sau, tên lính mới chúc mũi súng, khoác mạnh vào vai. Rời cái trường học cứ văng vẳng tiếng rên la, tên thiếu tá nghĩ:
“Mình phải giết thằng này mới được. Nếu không, nó sẽ bắn mình. " Tên lính cũng mấy lần liếc nhìn tên thiếu tá:
“Thế nào nó cũng trả thù. Có dịp là mình phải bắn hạ nó trước! " Trên đường đi, hai tên cùng một lúc đoán đúng bụng dạ và ý định của nhau. Tới gần bốn giờ chiều, một chuyến máy bay trực thăng của giặc đến Hòn Đất. Giữa tiếng sóng biển, động cơ trực thăng vẫn vọng rõ, nghe hù hù, ở bên trên tiếng sóng. Đến lúc người Hòn Đất nghe tiếng động cơ ầm ầm thì ngước mắt lên, họ đã trông thấy tất cả có sáu chiếc từ phía biển bay vào. Gồm có bốn chiếc trực thăng hai động cơ mà bấy giờ bà con đã quen gọi là "sâu rọm" và hai chiếc loại một động cơ được gọi là "cán gáo". Cái hình thù của những chiếc trực thăng này nom rất quái đản. Nó gieo cho bà con nông dân thuần phác cái ấn tượng về sự bất lương, vừa thô bạo lại vừa rất đỗi ma mị. Trên vòm trời xanh ngăn ngắt, những hình thù đó hiện ra ngọ ngoạy lủi tới, đe dọa mọi người. Khi chúng bay qua khỏi bờ biển trào sóng lập tức cả sáu chiếc đều sà xuống thấp. Những cái chong chóng to lớn ở gần đầu và gần đuôi chúng quay tít, kêu lạch bạch, tưởng chừng như chúng sắp sửa đổ xuống đến nơi.
Nhưng không, chúng vẫn đang bay. Có điều là chúng bay thấp, nên vườn lá liền chuyển động. Những tàu lá dừa gặp phải trận gió cuộn lốc, lúc oằn xuống, lúc cong vút lên. Vườn vú sữa, vườn măng cụt, vườn li - ki - ma bỗng rào rào, vật vã. Tất cả mọi chiếc còn đẫm ánh mặt trời bị thổi riệt, bay lật ngược ra sau thân cành. Đàn trực thăng nặng nề sà qua những vườn quả đó, nơi màu xanh mươn mướt của cây lá tiếp giáp với màu xanh sẫm của biển chiều. Những con quái vật này rít rống, rền rĩ bay qua trên đầu những trái măng cụt nâu rám, trái vú sữa tím ửng, trái mãng cầu ta xanh phơn phớt và như có rắc phấn. Chúng bay qua Hòn Đất nín lặng, bấy giờ ở miệng hang còn lơ lửng vài làn khói rơm yếu ớt, mong manh như những sợi chỉ. Đàn trực thăng bay qua khỏi Hòn Đất một đỗi bỗng vòng trở lại ruộng trống. Lần này đầu máy bay trực thăng nhủi xuống. Tiếng động cơ nổ ầm ầm, vang rền. Trông chúng giống như những con cá lóc bơi vội, mà những chong chóng trên thân thì lại giống như những cái vây cá đang quạt. Cửa hông sáu chiếc máy bay đều đã mở hoác và bắc sẵn thang. Mấy tên lính Mỹ ló đầu ra các cửa sổ ấy, ngó xuống. Tên Mỹ nào cũng đeo kính đen lớn, mặt đỏ gay. Sáu chiếc trực thăng lần lượt hạ xuống mặt ruộng. Những gốc rạ liền vật vã, cơ hồ như sắp bị nhổ bật cả lên. Khi những chong chóng trực thăng lạch bạch quay chậm lại thì bọn lính trong vườn ùa chạy ra. Hai tên Mỹ từ trên máy bay bước xuống thang, đi về phía chúng. Hai tên Mỹ xì xồ nói gì, rồi có mấy tên lính chạy trở vào ven vườn. Bọn lính còn lại đi đến chỗ các máy bay đậu, leo lên thang. Chúng khuân trong máy bay ra rất nhiều bao xi - măng, một số thùng sắt sơn xám, và cuối cùng là một cái chân máy chiếu bóng cùng những cái loa lớn. Tên thiếu úy tâm lý chiến bộ mặt vênh váo chạy lộp bộp đến bên thằng lính vác cái chân chả ba. Hắn rờ rẫn cái chân máy chiếu bóng, nói với lũ lính:
- ý kiến của tao đã được bên trên chấp thuận. Hay lắm, máy móc và phim đã tới. Anh em sẽ được coi xi - nê!
- Hát bóng hả thiếu úy?
- Phải, hát bóng! Bỗng phía sau lưng, một tên lính thở dài:
- Non nước này mà còn hát bóng. Vui vẻ gì mà hát! Tên thiếu úy nghe lọt tai câu nói. Hắn trề môi:
- ‰, không phải chiếu cho tụi bây coi đâu. Đây là chiếu cho tụi Việt cộng và dân chúng coi, hiểu chưa?
- Sao lại chiếu cho Việt cộng và dân chúng coi, thưa thiếu úy?
- Tụi bây khờ quá, đánh với Việt cộng mà đánh bằng súng không đâu có được, phải đánh bằng cả tâm lý nữa chớ. Để tao nói cho nghe, bộ phim này là bộ phim của Huê - kỳ, gay cấn lắm, quay cảnh Huê - kỳ đánh với Trung cộng và Bắc Cao tại một trái núi Huê - kỳ đánh tan trái núi đó tụi Trung cộng và Bắc Cao chết không còn một mạng... Tên thiếu úy dừng lại tự trỏ vào ngực:
- Sáng kiến của tao đó nghe. Tao yêu cầu trên cho đem chiếu bộ phim đó trước cửa hang để tụi Việt cộng trong hang coi đặng rủn chí. Chừng chiếu sẽ dồn dân Hòn Đất tới coi nữa, cho nó ngán... Bọn lính tấm tắc:
- Vậy thì hay lắm! Một tên vọt miệng khen:
- ờ, chiếu cái tuồng đó chắc tụi nó ớn. Thiếu úy có sáng kiến thiệt. Hèn chi thiếu úy theo ngành tâm lý chiến là phải! Tên thiếu úy được khen phổng mũi. Hắn lấy giọng nghiêm trang:
- Đánh với Việt cộng phải đánh vậy mới được chứ. Nè, mà tao dặn, tụi bây biết vậy thôi. Không được đi nói rum nghe chưa? Bọn lính bảo là sẽ không nói với ai. Chúng hè hụi khiêng vác đồ đạc vô vườn. Bọn này đi vô tới vườn thì gặp số lính bị thương cũng được võng ra tới. Tất cả có đến ngót năm mươi tên, mình mẩy băng bó, đứa nằm cong mình như con tôm, đứa nằm ngoẻo đầu trên mặt võng. Những chiếc võng ấy đi tới đâu là đem theo mùi hôi thối và tiếng rên la tới đó. Trên mặt ruộng ngả chiều, bọn lính khiêng võng đi xồng xộc. Võng bố cứ oặt òa oặt oẹo đưa đẩy thân hình các tên lính đang oằn oại kia không chút thương xót. Trong bọn lính cáng võng có những tên ngồm ngoàm cạp một trái mãng cầu ta hoặc một trái vú sữa mà chúng nhặt được trong vườn. Mặt các tên lính đó coi hám ăn, hau háu. Trông chúng mới thản nhiên làm sao, trông chúng vẫn như thường. Nhưng dù thế, chúng cũng còn ra sức khiêng vác bọn bị thương. Chỉ có bọn Mỹ mới thực là lạnh nhạt. Phần lớn chúng đều ngồi trên máy bay đã đậu im. Chỉ có hai tên xuống lúc nãy, giờ đứng trên khoảng đồng, miệng ngoạm điếu thuốc dài non gang tay, phì phèo. Cả hai đều đứng xoạc chân, một tay khoanh nơi ngực, một tay thỉnh thoảng lại giật phắt điếu thuốc ra khỏi mép. Khi những chiếc võng oặt oẹo tiến tới, chúng khẽ nhấc cặp kính đen đeo mắt xuống để nhìn. Rồi cả hai tên như cùng một lúc đứng nánh ra, đưa bàn tay phẩy ngang mũi. Từng chiếc võng cứ thế nặng nề đi qua cùng với tiếng rên và mùi hôi thối. ở một vài chiếc võng thấy nhễu xuống những giọt gì, không rõ là máu hay là mủ, hay là nước rỉ vàng. Hai tên Mỹ ngoảnh mặt chỗ khác, rít thuốc, khạc nhổ lia lịa xuống ruộng.
Đám lính khiêng võng lần lượt đi qua. Những tên đi đầu sau khi trút bọn bị thương lên sàn máy bay, giờ đã quành lại. Chúng kéo lệt bệt đôi chân giày của chúng và lôi xệch những chiếc võng không trên ruộng rạ. Sáu chiếc trực thăng bắt đầu nổ máy trở lại. Đầu tiên động cơ gầm gừ làm cho máy bay như rùng mình nhất loạt. Sau đó chúng mới gầm lớn hơn, lớn hơn nữa. Những cái chong chóng gỗ ép nãy giờ rũ cụp xuống, nay lại dửng lên, từ từ quay. Chong chóng quay nhanh dần, nhanh dần rồi sau cùng chỉ thấy vun vút, loang loáng và phát ra tiếng ù ù, lạch bạch. Lúc máy bay sắp cất cánh, tên thiếu tá ra tới. Hắn bắt tay hai tên Mỹ đứng dưới ruộng, nói chuyện với chúng. Trong câu chuyện, đôi khi hắn cau mày. Mặt hai tên Mỹ thì cứ khinh khỉnh. Thằng trung úy Mỹ vừa nói bằng cái giọng nghẹt mũi vừa hút thuốc, hút hết điếu này hắn lại mồi điếu khác. Về sau một tên Mỹ trên máy bay thò tay ra cửa sổ ngoắc và la:
- Quick, quick! Hai tên Mỹ quay lưng chạy về phía máy bay. Tên thiếu tá chạy theo đến bên chiếc máy bay "cán gáo" mà hai tên Mỹ vừa leo lên. Tên trung úy Mỹ thò đầu ra, vẫy tay chào hắn. Hắn đứng khựng, mái tóc chải ốp xửng lên, cứng còng trước cơn gió cuộn của các cánh quạt trực thăng. Sau cùng hắn giơ cả hai cánh tay ra, nói lên:
- If you please, if you please. Tên trung úy nhếch miệng cười, gật gật đầu. Hắn khoát tay ra ý bảo tên thiếu tá lùi ra. Tên thiếu tá vội đi giật lùi. Máy bay bắt đầu nổ máy mạnh hơn. Cặp thứ nhất bốc thân mình khỏi mặt đất. Chúng bay lên từng cặp một. Tên thiếu tá nãy giờ như đứng giữa trận giông khô. Đồng rạ dưới chân hắn chấp chới muốn bứt gốc bay lên hết cả. Lúc những bụi rạ ấy đứng yên lại như cũ thì lạ thay, có những bụi không cất lên. được nữa. Màu rạ mới trước vàng tươi, nay chợt xám ngoét. Không phải chỉ có chỗ trực thăng hạ, cũng không phải những bụi rạ này bị sức gió thô bạo của những cái chong chóng trực thăng kia xô bẹp. Đây là do những mùi máu hôi thối từ các võng nhểu xuống ban nãy, cộng thêm ánh nắng hắc của ngày tàn, nên mấy bụi rạ đó mới sinh thối lây, rủ nhẹp xuống. Tên thiếu tá theo cái lối mòn rạ cũ đó mà đi vô vườn. Trong lúc sáu chiếc trực thăng một lần nữa ầm ã chở những tên lính hấp hối sà ngang vườn cây Hòn Đất, bay ra biển.
Tên trung úy ngồi ló đầu ra cửa sổ máy bay. Sau làn kính râm màu xám nhợt, hắn nhìn thấy sóng biển chạy trườn vào bờ, rồi sóng ấy sủi trào, giạt trở lại. Hắn còn nhìn thấy bãi cát dợn lên lăn tăn, dấu vết của nước triều cùng ngày tháng. Và kia, những cái cọc nò nhô khỏi mặt biển không ngớt bị sóng vỗ vã. Một cái nhà trại cất trên những cột to phơi đầy lưới, chung quanh bồng bềnh vài chiếc ghe và xuồng. Trại nò với hàng rào cách khoảng ấy gợi tên trung úy nhớ tới những cái tháp đèn và những phù tiêu trên một cửa biển nào đó mà hắn đã có dịp đi qua. Đấy là ranh giới cuối cùng đã đặt ra cái hòn xanh thẳm rất đỗi xa lạ kia ở lại sau lưng hắn. Những chiếc trực thăng bay tới với tốc độ mau hơn. Giữa tầng không, bấy giờ chợt hiện ra mấy cụm mây khói đen trĩu nước và biển bên dưới hình như đã bắt đầu sôi sục. Sóng biển trong nháy mắt chuyển từ màu xanh mênh mông trở thành màu chì xám xịt. Tên thiếu úy rụt đầu vào, hạ tấm cửa kính dày xuống, lẩm bẩm.
- Trời xấu rồi!
- Có lẽ sắp mưa. Tên thượng sĩ ngồi bên nói. Tên thượng sĩ nói xong đứng bật dậy khỏi ghế da, ghé mắt dòm xuống mặt biển chao sóng, miệng thì thào, run run:
- Thưa trung úy, chúng ta ra tay đi thôi!
- Còn gần bờ lắm! Tên trung úy đáp và đưa tay lên xem đồng hồ. Hắn bảo:
- Năm phút nữa.
Cánh tay đeo đồng hồ của tên trung úy đặt lên tấm kính cửa sổ, rờ rờ. Mấy ngón tay múp míp mọc đầy những sợi lông vàng xoăn của hắn lướt trên mặt kính ngọ ngoạy, bồn chồn. Từ khi bốc lên khỏi mặt đất, thân máy bay rung chuyển không ngớt. Những người lính bị thương nặng nằm trên sàn máy bay càng thêm vật vã. Tiếng rền rĩ của họ bị động cơ ầm ầm lấn át không còn nghe thấy gì nữa. Thân máy bay rung chuyển bắt máu từ các vết thương họ chảy ộc ra. Trường hợp chấn thương này mới ghê gớm hơn cả mọi trường hợp chấn thương khác. Nó không va xốc mạnh, nó chỉ đánh động từ từ, với nhịp độ đều đều mà không dứt. Nó là sức máy, vì vậy nó lâu bền một cách độc ác. Máu của từng người lính bị xốc cho chảy ra, lúc đầu còn ri rỉ, về sau cứ tuôn ồng ộc. Sàn máy bay làm bằng chất nhựa đỏ rám mặt sạn bây giờ ướt sũng máu. Và máu đó tìm chỗ chảy. Qua các đường hở nơi bậc thang, máu nhểu giọt, hòa vào cơn mưa đã bắt đầu giăng kín bầu trời, bay xiên xuống mặt biển trắng mịt như sương như khói. Tên trung úy Mỹ đứng dậy bỏ chân bước ngang mình bọn lính bị thương nằm nơi sàn. Hắn rẽ ngoặt vào buồng đặt máy vô tuyến điện thoại. Lát sau hắn trở ra, bước vụt qua mình các tên lính. Hắn bảo tên thượng sĩ:
- Bắt đầu đi!
Tên thượng sĩ cởi áo, rón gót giày bước tới sát vách máy bay. Hắn rùn chân nắm chặt lấy một cái vòng sắt coi giống như cái "vô - lăng" xe có quấn đầy dây cáp, thòi ra nơi vách. Tên thượng sĩ đưa mắt liếc nhìn bọn lính nằm dưới sàn nhựa lần nữa, rồi nghiến răng xoay mạnh cái vòng sắt. Dây cáp tuồn tuột tháo ra. Lớp sàn bỗng nhiên trụt hẳn xuống, trống hoác một lỗ vuông vức độ hai thước cạnh. Bảy tám tên lính bị thương vụt chuồi người theo khoảng sàn nhựa vừa há ra đó, bay hắt đi. Còn vài tên không nằm đúng trên khoảng sàn, lập tức bị tên trung úy Mỹ co giày đạp hất xuống. Có tên chỉ kịp kêu "trời ơi! " rồi lọt thỏm xuống ngay. Tên sau rốt, lọt cả người xuống rồi, nhưng hai tay với kịp, cố bám rị lấy thành sàn. Thằng trung úy co giày định hất đôi tay ấy ra. Nhưng không biết nghĩ sao, hắn lại khom lưng cúi nhìn bàn tay người lính đang cố bấu víu lấy mép sàn. Đôi bàn tay của người lính lóng cóng, các đốt rã rời buông dần, buông dần từng phân sàn nhựa. Cuối cùng không cưỡng nổ sức gió bên dưới, mấy ngón tay đó buông hẳn. Đám lính dẫu bị thương nặng mấy, lúc rớt xuống biển họ cũng chợt tỉnh lại. Vì nước biển chiều mưa âm ấm đã lay dậy sức sống cuối cùng trong ngót năm mươi cái cơ thể đớn đau. Chính làn nước biển đã giúp họ hiểu ra những phút giây khốn đốn nhất của đời họ. Khi biết rằng đây là cái chết thật sự, những con người đó bơi lội giãy giụa một cách tuyệt vọng trong sóng. Máu hòa vào với nước biển. Và nước biển mặn lại xát vào các vết thương trên người họ. Không mấy chốc họ đều đuối sức. Những lớp sóng màu chì lần lượt nhận họ chìm xuống. Những người cố vùng vẫy nhất rốt cuộc cũng bị sóng đánh gục. Tất thảy bốn mươi sáu người lính bị thương đều chìm nghỉm xuống mặt biển chiều hôm đang gầm gào, xám xịt mưa dông.
6
Hạ sĩ Cơ nhấc ly rượu uống một hơi. Ba người lính bảo an trạc tuổi anh ta cũng nhấc ly lên uống. Họ đặt mấy cái ly xuống ván, thò tay rón lấy mỗi người một thớ khô mực xé để trên đĩa. Mưa rơi trên mái quán thím Ba ú mỗi lúc một nặng hạt. Tự nãy giờ thím Ba đứng ngoài cửa nhìn trời. Thấy trời đổ mưa to, thì thím mừng lắm. Ngay từ lúc mây khói đen bay nhanh và gió trở ngọn lành lạnh, thím đã bảo bụng:
“ờ, mưa đi ông, làm ơn mưa dùm một trận lớn cho anh em tôi trong hang nhờ coi! " Sau khi nướng xong mực cho mấy người lính "cảm tình", thím Ba ra đứng luôn tại cửa. Đặt hai bàn tay xòe hết ngón nơi cạnh sườn, thím ngóng nhìn cụm mây đen kịt. Chưa bao giờ thím trông đợi trời mưa như bữa nay. Khi mưa rắc hạt xuống mái nhà, thím lại mong tiếng rơi của nó hãy nặng hơn.
- ạng trời làm coi được quá mấy cậu ơi! Thím bước vô nhà và nói với bốn người lính như vậy. Hạ sĩ Cơ bảo:
- Chẳng biết mấy ổng ở trỏng có hứng được nước mà uống hay không?
- Được chớ!
- Thím Ba ú nói nho nhỏ.
- Phải, không khát đâu. Hễ có mưa là nước chảy lọt vô kẽ hang, thiếu chi! Hạ sĩ Cơ nói:
- Mọi khi ra gần giêng ít khi có mưa lớn lắm! Thím Ba ú cười tủm tỉm, nói giọng nửa giỡn nửa thật:
- Thì mọi năm có như vậy đâu... Tôi gẫm ông trời ổng ủng hộ cho Việt cộng đó a mấy cậu!
Một anh lính ngồi ở trong ngó châm bẩm những giọt mưa trên mái nhà tí tách rơi xuống cái rãnh ngoài cửa bấy giờ đã có nước cuộn chảy và nổi nhiều chiếc bong bóng nhỏ xíu. Người lính ấy nói:
- Còn tôi, hễ ngó trời mưa là tôi rầu thúi ruột. Hồi giữa cái năm tôi bị bắt lính thì mái nhà tôi đã rệu quá cỡ. Lớp lá "cần đốp" thì giỏi gì một năm cũng phải lợp lại. Đằng này chịu đựng gần hai năm, chịu sao thấu? Rầu nhứt là mưa đêm, vợ la con khóc, vác chiếu chạy tới góc nào cũng đều bị dột. ở trong nhà không khác chi ở ngoài sân. Nên ông trời ổng đổ mưa là ổng hại tôi. Giờ tôi ngồi đây chớ vợ con ở nhà không biết chừng bị ướt ráo trọi rồi cũng nên... Người lính dừng lại. Hai ngón tay anh ta se sẽ thớ khô, nói tiếp:
- ở chỗ tôi lá lợp nhà mắc lắm. Hồi thời bình lái lá ở miệt Thứ chở lên còn dễ. Bây giờ giặc giã, khi lên khi không, mà bây giờ lái lá có chở lên cũng phải bán cho nhà vựa, chủ vựa là mấy lão hội đồng xã mua của lái với giá hai ngàn một thiên, bán ra hai ngàn tám, ba ngàn sấp lên. Vợ con tôi đào tiền đâu ra mà mua?... Kẹt lắm, ở xứ tôi kẹt lá lắm!
- Xin lỗi vậy chớ xứ cậu ở đâu?
- Thím Ba ú hỏi.
- ở Chắc - cà - đao, trong khu trù mật! Thím Ba ú liếc nhìn người lính:
- Chắc - cà - đao thì tôi biết... Nhưng... nhưng mà... Thím nói tới đó, liền hạ thấp giọng hỏi vừa đủ để người lính nghe:
- Cậu... cậu tính đi mà lại đi về khu trù mật nữa sao?
- Không, không, khu trù mật đó bể rồi... Bể hồi tháng chín! Thím Ba mới vỡ lẽ:
- ạ, ạ... ra vậy...
Trong lúc bên ngoài mưa tầm tã, thím Ba khi bước xuống đất, khi ngồi lên ván, đong rượu rót rượu. Hết khô thì thím chế rượu đó ra đĩa, nướng khô bằng ngọn lửa rượu chờn vờn, tim tím. Hết dấm thì thím sớt dấm. Mọi việc đó thím lo chu tất, gọn gàng. Mấy người lính đều khoan khoái, song cũng vẻ hơi cóm róm. Họ xuýt xoa miệng, xoắn đôi bàn tay vào nhau hoặc rờ rẫm đưa lướt tay tới lui trên đùi. Xem ra họ có vẻ sung sướng lắm, chừng như trong cuộc đời làm lính mướn khổ nhục của họ thì cái buổi chiều mưa lạnh được ngồi nhâm nhi này không phải dễ kiếm. Mà cũng không phải người chủ quán nào cũng đối xử tử tế như thím Ba đây. Nên trong sự khoan khoái cóm róm kia của họ còn có sự cảm động. Gần một tuần lễ ở đây, họ đã tới quán thím Ba năm bảy lượt. Đầu tiên là hạ sĩ Cơ, về sau hạ sĩ Cơ rủ rê dắt thêm họ. Hôm kia hạ sĩ Cơ đã ngỏ ý với thím Ba là họ muốn bỏ trốn, nhờ thím mối mang giúp đỡ họ lọt qua Vàm Răng, thì thế nào họ cũng kiếm cách về được nhà ở Mặc - cần - dưng, Ba - dầu, Vĩnh - hanh và Chắc - cà - đao. Nên bữa chiều nay họ lại tới quán. Mấy người lính tiếp tục uống rượu. Thím Ba ú cứ đưa tay rờ mép cái đĩa khô mãi một lúc rồi mới nói:
- Tôi thấy mấy cậu đi cực khổ, bỏ vợ bỏ con thì tôi cũng bứt rứt, nên tôi có hứa giúp mấy cậu. Hứa là hứa vậy, chớ thiệt ra cũng ăn thua ở mấy cậu thôi... Không biết mấy cậu đã quyết ý chưa, tôi cũng ngại... Hạ sĩ Cơ vội bảo:
- Thím đừng ngại, tụi tôi nhứt quyết rồi mà. Xin thím giúp cho được sớm chừng nào tốt chừng nấy. Hồi nãy thím không thấy trực thăng nó tới chở tụi bị thương bay khẳm đừ đó sao. Nếu mà thím thiệt lòng muốn tụi tôi thoát khỏi cảnh đó thì thím phải giúp tụi tôi mới được!
- Đành là tôi giúp... nhưng mấy cậu phải dứt khoát không do dự...
- Dứt khoát chớ, bộ thím không tin tụi tôi sao?
- Người lính quê ở Chắc - cà - đao nói.
Thím Ba ú bèn cười. Lát sau thím buông rời hai ngón tay khỏi mép đĩa, nghiêng người sang hạ sĩ Cơ nói ghé vào tai anh ta:
- Thôi được, ngày mai trời sụp tối, cậu Chín dắt anh em lại ngã ba đây, tôi đợi...
- Dà!
- Nhớ nghe, mấy cậu phải y hẹn. Nếu trật vuột thì không có dịp nào nữa đâu, tôi đã...
- Được rồi, được rồi! Hạ sĩ Cơ gật đầu liên tiếp hai ba cái. Thím Ba ú lại rỉ tai anh ta:
- Cậu dặn anh em là phải giữ kín. Tôi tin ở cậu...
- Không sao, thím đừng lo! Hạ sĩ Cơ uống thêm một ly nữa rồi bước xuống đi ra cửa. Thấy cơn mưa đã ngơn ngớt, anh nói:
- Thôi, uống hết chỗ rượu đó rồi về anh em! Ba người lính uống cạn ba ly rượu. Họ bước ra đứng nơi cửa, lóng nhóng rồi kẻ trước người sau chạy vụt ra đường. Sực nhớ lời chị Hai Thép mới căn dặn, thím Ba còn níu áo hạ sĩ Cơ dặn thêm:
- Về vụ súng ống, có thêm cây nào nữa thì càng hay, nhưng khó quá thì thôi nghe, không nên lấn cấn lâu, dễ lộ. Cứ vác bốn cậu bốn cây cho chắc... Nhớ sụp tối ra ngã ba, tôi đợi mấy cậu ở đó... Bà con có gom góp được ít tiền cho mấy cậu làm lộ phí, đừng lo... Hạ sĩ Cơ nghe vậy thì cúi thấp đầu, mắt hấp háy. Anh ta khẽ nói:
- Thôi tôi về nghen thím! Anh bước thoắt ra cửa, bấu mũi giày lên mặt đường đất trơn nhẫy, chệnh choạng chạy theo ba người lính phía trước. Chốc sau, anh đã đuổi kịp họ. Trong cơn mưa dịu bớt, anh vừa nhanh chân bước vừa lào phào nói cho ba người lính bạn anh biết những điều mà thím Ba ú vừa nói với anh. Cơn mưa ngớt, nay lại đổ ào xuống, lớn hơn. Bốn người lính lại chạy, tay giơ lên, chới với. Mưa mỗi lúc một to. Thoáng thấy bóng cây me lờ mờ hiện ra sau màn mưa giăng, hạ sĩ Cơ chỉ tay nói:
- ở đó có nhà của ông già mù. Rán tới đó đụt. Họ chạy riết tới cây me. Bốn người dừng đứng dưới gốc me, rũ rũ quần áo một lúc rồi chạy vô nhà ông Tư Đờn. ạng già đang ngồi nứt vành cái rổ xúc, nghe tiếng giày lộp bộp thì biết ngay là lính. ạng còn phân biệt được đó là tiếng giày bố nữa, nên biết chắc là lính bảo an. Đứa cháu gái khoảng mười hai mười ba tuổi ở trong bếp chạy ra, đứng quệt quệt tay vào ống quần hỏi:
- Mấy ông kiếm gì?
- Không, ghé đụt mưa chút mà em! Một anh lính đáp và day sang nói với ông Tư:
- Bác làm ơn cho tụi tôi đụt nhờ nghe bác! ạng Tư vẫn buộc cái vành rổ:
- Mấy ông cứ đụt! Đứa con gái liếc mắt ngó họ rồi chạy vào bếp. Bốn người lính ngồi chồm hổm dưới đất, khoanh tay rế, ngó coi ông Tư nứt vành rổ. Một anh tấm tắc:
- Bác đương cái rổ xúc này khéo quá!
- Tôi đương vụng chớ không đặng khéo đâu! ạng Tư thoái thác. Anh lính hơi cụt hứng, xẽn lẽn. Nhưng anh lại cố hỏi thêm:
- Như bác đương một ngày được mấy cái
- Có nan sẵn thì hai cái! ạng Tư đáp gọn lỏn. Hỏi câu nào ông trả lời câu đó chớ không trả lời hơn.
- Bác đương rổ như vậy kiếm ăn đủ không? ạng Tư từ từ ngước cặp mắt tối đục:
- Không đủ thì cũng phải đủ chớ ông. Tật nguyền như tui thì làm bữa nào đong gạo bữa nấy. Đâu thể bằng thiên hạ được...
- Tụi tôi đi đây cũng chỉ đủ ăn gạo như bác thôi, chớ sung sướng khỉ gì! ạng già nghe nói chợt buông lỏng cọng mây trên tay:
- Mấy ông nói tui nghe không lọt. Thân già tàn tật như tui bì sao được với mấy ông kia chớ. Mấy ông còn đủ tay chân, cầm súng rong ruổi, tháng tháng lãnh lương, rồi thường khi còn kiếm được con gà con qué, mà mấy ông nói không sung sướng. Tui nghe không lọt...
- Nói bác không tin, chớ tụi tôi cực lắm...
- Tui biết mấy cậu cực, cực mà đi tới đâu cũng có thịt trâu, thịt gà ăn... Hạ sĩ Cơ buồn rầu chắc lưỡi:
- Bác ơi, bác đừng nhiếc tụi tôi chi tội nghiệp. Tụi tôi không phải như mấy thằng bắn trâu bắt gà của bà con đâu! ạng Tư mò kiếm cọng mây, tiếp tục xỏ buộc vành rổ:
- Tui đâu dám nhiếc mấy ông. Mà tui cũng đâu biết là ông lính nào bắt gà, ông lính nào không bắt gà... Tui chỉ biết lính mấy ông cốt tử là hay bắn trâu, bắt gà. Mới hôm qua đây bắt con gà mái đẻ của tui còn nằm trên ổ, cháu tui chạy theo giành hết sức mà giành không lại.
- Tụi nó khác, tụi tôi khác bác à. Tụi tôi trước cũng là dân ruộng, chết đói thì chết chớ không giựt đồ của cô bác đâu!
- Mấy ông nói vậy thì tui biết vậy chớ tui đâu biết hơn được!...
- Tụi tôi nói thiệt mà!
- Thôi thì tui cũng cho là mấy ông nói thiệt. Kể như bây giờ mấy ông còn tử tế, nhưng tui e đi hoài kiểu này thế nào mấy ông cũng làm ẩu. Đi lính "quốc gia" mà không giựt đồ, tui không tin! Bốn người lính ngó nhau, không biết nói năng sao với ông Tư nữa!
Mưa bên ngoài vẫn tầm tã. Trời tối mịt. ạng già bỗng dịu giọng và đổi cách xưng hô:
- Mưa lớn quá, trời tối chưa mấy cậu?
- Tối rồi! ạng Tư réo cháu:
- Tím ơi, đốt đèn đi con! Con bé ở trong bếp đang thổi lửa phù phù. Hồi sau nó rón rén bưng thếp đèn mỡ cá đi ra, đặt lên chõng tre. Rồi nó dọn đĩa chén. Nghe đứa cháu quơ đũa rột rẹt, ông Tư buông cái rổ hỏi bốn người lính:
- Mấy cậu ăn cơm chưa?
- Dạ rồi!
- Tưởng chưa thì ở ăn cơm. Tui kêu con nhỏ nó nấu!
- Dạ, cảm ơn bác, tụi tôi ăn rồi! ạng Tư Đờn đứng dậy, khom lưng, tự đấm vào lưng mình thùm thụp. ạng quơ bàn tay tới trước thành chõng, ngồi lên. Con Tím đưa cho ông nó đôi đũa và chén cơm mới bới. ạng cầm đũa xới xới cơm trong chén. Bỗng ông dụi đầu đũa xuống chén, im đi một chốc rồi hỏi:
- Vậy trước khi đi đây mấy cậu là dân ruộng?
- Dạ phải.
- Hạ sĩ Cơ đáp.
- Sao không ở nhà mần ruộng, đi đây chi? ạng Tư hỏi xong, chậm rãi và cơm. Con Tím gắp chỗ cá nạc trong tô canh chua bỏ vào chén cho ông. Tô canh này đặt phía bên ông Tư. Hình như đứa cháu gái nấu tô canh cho riêng ông nó ăn. Thấy nó chỉ nhỏ nhẻ ăn với cá kho. Giữa lúc hai ông cháu ăn cơm, một anh lính thấy cây đờn độc huyền treo nơi vách thì bước tới coi. Anh ta khều sợi đồng bật lên tiếng kêu thánh thót, thốt nói:
- Cây đờn này tiếng tốt quá! ạng Tư vẫn lặng thinh và cơm. Nhưng đôi con mắt tối đục của ông chợt hướng về phía sợi dây đờn còn ngân rung chưa dứt. ạng bảo, giọng nghiêm trang:
- Cậu nào đờn được thì lấy xuống đờn chơi, đừng khều phá! Anh lính được dịp bợ cây đờn xuống, ra ngồi ngoài bậc cửa lẩy tăng lăng. Anh ta cũng quào được mấy câu vọng cổ. Tiếng đờn nhấp nhem của người lính nghe cứ lẩng cẩng, lúc dài ra thậm thượt, lúc lại hẫng đi như người bị nấc. ạng Tư ăn cơm xong, mưa vẫn không ngớt. ạng bước xuống mò kiếm một cọng tre, ngồi xổm gối trên manh đệm, xỉa răng. Hai hố mắt ông ngó ra ngoài trời mưa tối đen. Dường như ông chỉ lắng nghe tiếng mưa rơi chớ không màng tới tiếng đờn của người lính. Anh lính quào hoài có mấy câu ý chừng cũng ngượng. Anh nói ướm:
- Nghe nói bác đờn hay lắm. Bác đờn nghe chơi! ạng Tư như sực tỉnh, ngước mắt hỏi:
- Cái gì? Tui đờn é à?
- Phải, bác đờn đi, bác đờn đi!
- Hạ sĩ Cơ cũng khẩn khoản. ạng già nín thinh hồi lâu, mới nói:
- Ngón đờn của tui không tươi đâu...
- Không, tụi tôi biết bác đờn hay lắm, bác đờn cho con em đây nó ca cái bản gì mà "đề cờ đề cờ" đó đi! Trời còn mưa dữ quá, tụi tui chửa về được đâu! ạng già vẫn khước từ:
- Thiệt... không nói giấu gì mấy cậu, đời tui nghèo cực không thôi, nên chữ đờn của tui không đặng tươi. Người ta chê chữ đờn tui nghe nó ai oán lắm!... Mặc dù ông Tư từ chối, hạ sĩ Cơ vẫn bợ cây đờn trên tay người lính nọ, trao lại cho ông. ạng Tư sợ cây đờn rớt, bèn rút gối chân xuống, ôm cây đờn vào lòng. ạng đưa tay run run rờ lướt trên thân đờn hồi lâu, chép miệng nói:
- Tối hôm nọ cũng có mấy cậu lính tới biểu tui đờn cho mấy cậu nghe. Thấy họ ăn nói tử tế như mấy cậu, mà lại cứ nài nỉ hoài, tui mới đờn... Về sau họ tới nghe chật nhà, bỏ cả canh gác tuần phòng sao đó nên ông đại úy kiếm về chửi bới om sòm. ạng đuổi mấy cậu lính về, quát tháo tui:
“ạng già, tôi cấm ông không được tụ tập quyến rũ lính tới đờn ca nữa nghe! " Tui thưa:
“Bẩm ông, tui đâu có tụ tập quyến rũ mấy cậu. Từ đầu tui đã nói với mấy cậu là tui không đờn, nhưng mấy cậu cứ một mực khăng khăng bắt tui đờn cho mấy cậu nghe, buộc lòng tui mới đờn... " ạng đại úy hăm tui:
“Từ rày trở đi ông đừng đờn nữa, không thì tôi đập nát cây đờn của ông đa! " Tui mới thưa:
“Dạ, từ rày mấy cậu mà có rủ tui cũng không đờn nữa! " ạng Tư kể và bàn tay gầy guộc của ông không ngớt rờ rẫm vuốt ve thân đờn. Coi tuồng như cây đờn nay còn nằm trong lòng ông là sự may mắn lắm vậy.
- Bây giờ bác cứ việc đờn đi, khỏi sợ. ạng đại uý "ngoẻo" hồi hôm kia rồi.
- Tui có nghe. Tui nghe đồn ổng bị bắn chết trước miệng hang... phải không?
- Phải, chết trước miệng hang!
- Vậy cái ông mới lên thay ổng thì sao. Nhắm có đòi đập bể đờn tui nữa không? Giọng hỏi ông già bấy giờ chợt như có náu tiếng cười. Mấy người lính nói:
- Không đâu, thằng cha trung úy mới lên thay này nó không chú ý đâu!
- Vậy thì được, để tui đờn mấy cậu nghe! ạng Tư nói rồi liền vặn trục đờn kèn kẹt. ạng rút cây găm tre ở cuối thân đờn, cất tiếng gọi cháu:
- Tím ơi, rửa chén rồi chưa con?
- Chút xíu nữa ngoại ơi!
- ờ, rửa rồi ra đây ngoại biểu. ạng già quắp cây găm đờn trong năm ngón tay, ngồi đợi. Bốn người lính ngồi nhích tới. Lát sau con Tím nhong nhong đi ra. ạng Tư nghe bước chân nó, liền giơ tay:
- Ngồi xuống đây con. Ngoại đờn, con ca bản Nam ai cho mấy cậu này nghe.
Đứa cháu gái nghe ông nó bảo thế thì mặt lộ vẻ không vui. Nó với tay kéo cái đuôi tóc nhỏ xíu như cái đuôi mèo ra trước ngực, nói ngủng ngẳng:
- Con hổng ca đâu! ạng Tư cười, bảo mấy người lính:
- Mấy cậu thấy không. Nó còn giận vụ con gà mái đẻ đó! Rồi ông nói nhỏ nhẻ với cháu:
- Ca đi con. Mấy cậu lính đây tử tế chớ không phải như tụi hôm qua đâu. Mấy cậu... cũng nghèo như mình... Con Tím chẳng nói chẳng rằng, nó với cái khăn sọc vắt trên vai ông lau đôi bàn tay nhỏ ướt nước. Lau rồi, nó vắt khăn lên vai ông nó như cũ. Dưới ánh đèn mỡ cá chập chờn, nó mở to mắt nhìn chằm chằm xuống đệm. Thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn mấy người lính. ánh mắt của con Tím hơi dịu bớt vẻ hằn học. Khuôn mặt của nó coi sáng sủa, nhưng da mặt bị rỗ huê lấm tấm (Chắc là dấu vết của một trận đậu mùa khủng khiếp nào đó để lại). ạng già biết chắc cháu mình thế nào cũng sẽ hát, nên một tay cầm trục đờn, một tay cầm găm ông bắt đầu dạo vô. Khi những ngón tay khô gầy của ông xeo nhẹ cây găm, tức khắc sợi dây đồng chợt như rùng mình nức nở. Khúc dạo vô chưa chi nghe đã rưng rưng, thê thiết. Con Tím như bị tiếng đờn của ông nó thu hút. Đôi mắt con bé từ từ ngước lên, long lanh sáng rực. Nó nhìn ra đêm mưa rơi, và bàn tay bé nhỏ của nó bỗng bíu chặt lấy vạt áo mốc cời của người ông. Chữ đờn cuối cùng của khúc nhạc dạo chợt ngắt ngang. Bàn tay cầm trục của ông Tư co quắp lại, giật bắn lên. Còn bên tay cầm găm của ông thì cất qua khỏi sợi dây đờn lúc ấy đang ngân cao vời vợi. Không khí gian nhà bỗng như lắng xuống. Con Tím liền cất tiếng ca: Khi vâng ơ... chiếu chỉ ra đề cờ...
Cây găm trong tay ông Tư cũng liền lẩy đờn rất nhanh. Chữ đờn của ông dìu đưa tiếng ca của đứa cháu bay theo: Từ chàng đi ơ... thiếp bặt tin đợi chờ Như hồng nhạn cao phi Sông Hớn ơ... bơ vơ... Não nùng tiếng ngẩn ngơ Má phấn ơ... duyên phai lợt Hồng nhan luống đợi chờ Trướng lý đành để dính lại bụi trần nhơ... Tiếng ca của con Tím nghe non nớt quá, mà tiếng đờn của ông Tư lại là tiếng đờn già dặn của cả một đời người sáu mươi năm tủi cực đau thương dồn nén. Sự khác biệt đó tạo nên một mối tương phản lạ lùng: ... Kìa cờ ai tiếng trống gióng xa xa ấy hay là chiếu chỉ triệu chồng ta... Chốn giang biên chàng có hay chăng là Giọng ca của con Tím chấp chới: Từ chàng ra chốn cung đao... Thiếp trông tin chàng như cá trông sao... Sợi dây đờn bây giờ không lẻ loi nữa. Dường như không phải chỉ có mỗi mình nó trên thân đờn nữa mà là có rất nhiều sợi. Đây thật không thể nói là ngón đờn tươi hay không tươi, ai oán hay không ai oán. Đây là tiếng đờn chạnh lòng chạnh dạ, buộc người xa vợ phải nhớ vợ, ai xa con sẽ nhớ con. Đây là sợi tơ đồng réo gọi tình thương nhớ làng quê, nhớ sông nước bến bờ, nhớ mồ mả tổ tiên. Bốn người lính đều cúi đầu, tóc phủ xõa gối. Trong lúc tiếng đờn vẫn cứ khắc khoải vẳng lên những chữ đờn ly biệt, bồn chồn. Ngoài trời mưa vẫn không ngừng rơi. ánh đèn mỡ cá lù mù rọi những hạt mưa ngoài cửa đang bay xiên, loang loáng.
- Có nước rồi, có nước rồi! Cái tiếng kêu "có nước" truyền đi khắp hang. Cả anh Thẩm và thằng Bé đang nằm cũng nhỏm dậy, ngóng nhìn về phía các ánh nến. Lát sau lại có tiếng anh em gọi báo cho nhau là nước đã chảy thành giọt. ở hang trong, Năm Nhớ cầm nến đứng soi cho Quyên ngồi nâng cái cà - om kê vào giọt nước từ trên kẽ đá nhểu xuống. Giọt nước mưa đùng đục rơi từ từ, chạm đáy cà - om nghe tí tách. Nước mỗi lúc một chảy nhanh. Khi đáy cà - om bật lên tiếng kêu toong toong thì nước đã chảy thành dòng, và nước trở nên trong hơn. Quyên cẩn thận nâng cà - om, mắt không rời dòng nước. ở vách đá bên cạnh, những đường kẻ nhỏ hơn cũng giàn giụa, ướt loáng mặt đá. Không bao lâu cà - om trên tay Quyên đã nặng trĩu. Cô ghé mắt nhìn, thấy nước trong cà - om đã được gần nửa. Cô thở phào:
- Thôi, khỏe rồi, không sợ khát nữa! Năm Nhớ hạ thấp ngọn nến bảo:
- Đặt cà - om xuống đi, hơi đâu mà bưng. Quyên nghe theo, từ từ đặt cà - om xuống đất. Nước mưa chảy thành dòng dài và lớn hơn. Quyên vẫn ngồi bẹp nhìn dòng nước, mắt long lanh. Cô nói:
- Bữa nay mình đoạt hai cái thắng lợi mà không tốn mồ hôi. Một là tụi nó bày trò un hang. Hai là ông trời ổng mưa... Chắc ở ngoài mưa lớn lắm!
- ờ, mưa lớn nên nước nó mới chảy nhiều như vậy!
- ạng trời ổng ủng hộ mình quá. Giờ thì khỏi lo rồi. Có gạo, có nước, mình cứ ở trong hang này hoài coi nó làm gì mình cho biết!
- Anh Tám nói sợ nó đánh chất nổ.
- Đánh bằng chất nổ cũng không sợ. Bất quá mình thụt vô trong một chút, nổ rồi mình lại ra. Thì cũng cỡ một ngàn trái MK3 hôm nọ là cùng! Cái cà - om đã lấp xấp muốn đầy, nước văng tung tóe. Năm Nhớ cặm nến lên đá, rút tấm vải nhựa kẹp trong nách ra. Hai cô cầm bốn chéo vải nhựa mà hứng. Lát sau, tấm vải nhựa nặng trĩu một bọc nước đầy. Quyên túm lại. Cô bảo Năm Nhớ:
- Mày đi lấy hết nồi ơ lại đây. Năm Nhớ chạy lại. Chốc sau, cô trở lại nói rằng anh em đã lấy nồi xoong đem hứng nước hết rồi, giờ không còn thứ gì để chứa nước nữa. Quyên ngồi nhổm, ngó dòng nước chảy xối, lấy làm tiếc. Bỗng cô bước tới quỳ xuống chỏi hai tay, ngửa miệng đón lấy dòng nước. Quyên uống ừng ực. Uống thỏa thích rồi, cô quệt miệng, nánh ra, bảo Nhớ:
- Uống đi, uống cho đỡ khát đi! Năm Nhớ cũng quỳ xuống như Quyên, ngửa mặt để nước chảy vào miệng. Quyên bảo:
- Để tao chạy đi kêu mấy ảnh đem đồ lại đây hứng! Quyên chạy đi. Năm Nhớ uống xong, dụm chân ngồi giữa dòng nước tắm luôn. Nước giội tràn lên tóc, lên mặt mũi cô. Nước dán chặt quần áo vào vóc người hơi đẫy của cô. Quyên trở lại thấy thế hỏi:
- Tắm đó hả Nhớ. Tao cũng tắm nữa... Mấy ảnh hứng đầy hết các thứ rồi! Năm Nhớ đứng dậy để dòng nước chảy xuống đầu lượt nữa rồi bước sang bên. Quyên ngồi xuống. 63 64 Cô vảnh tay rút cái kẹp tóc, ngậm nơi miệng. Dòng nước xổi xuống mái tóc đen nhánh, chảy ướt ròng khuôn mặt trái xoan loang loáng ánh nến. Rồi từ cổ, đến vai, đến ngực, Quyên đều ướt đẫm. Bộ quần áo đen dán sát vào người Quyên, cho thấy vóc người cô thon thả, và mảnh hơn vóc người Năm Nhớ. Cô hơi ngả đầu ra phía sau, hai bàn tay vuốt vuốt từng lọn tóc. Khi Quyên kỳ cọ chân thì dòng nước chảy yếu dần. Năm Nhớ nói:
- Muốn tạnh mưa rồi. Thôi đi thay đồ đi! Nói xong Năm Nhớ quay đi. Quyên cố ngước mặt hứng những giọt nước cuối cùng, rồi mới đứng dậy cầm cây nến rón rén đi về phiến đá của cô. Đứng dụm chân bên dưới, cô nhìn thấy Ngạn đang lòn tay cho con Thúy gối đầu ngủ. Quyên khẽ gọi:
- Anh Ngạn ơi, lấy dùm bộ đồ tơ cho em!
- Tắm rồi hả. Có lạnh không?
- Mát lắm! Ngạn mò soạn lấy bộ quần áo tơ đen và cái khăn đưa xuống cho Quyên:
- Thay đồ lẹ lẹ đi. Coi chừng bị cảm lạnh bây giờ! Quyên lặng lẽ đứng thay quần áo. Cô vắt bộ đồ ướt cho ráo nước, trải lên ở góc phiến đá. Lên ngồi duỗi chân sát bên Ngạn, Quyên lặng lẽ cầm khăn lau tóc. Ngạn liếc nhìn cô, rồi anh rút tay khỏi đầu con Thúy, ngồi dậy. Anh giằng nhẹ chiếc lược Quyên đang nắm trong tay, khẽ đỡ vai Quyên, chải gỡ tóc cho Quyên. Cô gái ngồi im không động đậy. Hướng mắt cô ngó mông vào đêm tối, đăm đăm. Nếu như ngày thường chắc miệng cô đã chúm chím. Nhưng bây giờ thì môi cô không hé một nụ cười. Ngạn chải tóc cho Quyên như chải tóc cho đứa em gái. Anh cũng lặng lẽ. Hình như từ hôm chị Sứ mất, Ngạn gần cận chăm sóc Quyên nhiều hơn. Anh muốn an ủi người yêu bằng mọi cử chỉ trìu mến mà anh có thể làm được. Cái chết của chị Sứ khiến anh thấy phải tìm cách làm dịu bớt nỗi đau buồn của Quyên. Suốt đêm hôm qua, sau phiên gác, anh vào nằm bên Quyên, vuốt cái lưng tròn tròn của Quyên mãi đến lúc cô ngủ thiếp đi anh mới trở ra miệng hang. Bây giờ anh lại lần chải tóc cho cô. Anh chải làn tóc ướt mà ấm, làn tóc ướt đượm mùi thương yêu. Và hỏi:
- Cây kẹp của em đâu? Quyên ngoan ngoãn đưa cây kẹp cho anh. Anh vừa kẹp tóc Quyên xong, bỗng Quyên quay lại chúi đầu vào lòng anh khóc rưng rức. Hai vai Quyên rung lên, Ngạn để yên cho Quyên khóc. Một lát anh mới nói:
- Thôi, đừng khóc nữa em, đừng khóc nữa Quyên à. Anh đã nói là... Quyên vẫn tức tưởi:
- Em thương... thương cho chị Ba, chỉ đợi... đợi anh Ba hoài. Bây giờ... làm sao chỉ gặp... gặp lại anh Ba cho được... Hồi sáng em coi lại tấm giấy sót trong túi áo chị Ba... hóa ra là... là cái thơ của anh Ba mới gửi cho chỉ. Còn có một cái thơ chỉ mới viết có mấy chữ "Anh thương yêu của Sứ và con. Em vừa nhận được thư anh... "
- Em còn cất cái thơ đó hả?
Ngạn thẫn thờ và liền nghĩ tới anh San ở ngoài Bắc. Người anh bạn rể đó mà biết được sự thể này thì anh ta làm sao đứng ngồi cho yên được. Cảnh đất nước phân đôi đặt bao người vợ trẻ ở lại trong vòng nước sôi lửa bỏng. Không biết bao nhiêu tuổi xuân đã qua đi trong đợi chờ và tranh đấu. Thời gian thử thách họ từng năm một. Hai năm đầu tiên thì dễ. Nhưng bắt đầu năm thứ ba trở đi, mối thử thách trở nên gay gắt. Ngạn đã trông thấy trước mắt vô số người phụ nữ vượt qua những thử thách đó. Tuy nỗi gian khổ và năm tháng ít nhiều có làm họ già đi, nhưng trông họ bình tĩnh và rắn rỏi. Anh cũng đã gặp một vài chị thiếu kiên tâm và cũng có chị đã sa sẩy nhưng chị Sứ thuộc vào loại trên. Chị đã đi tới năm thứ bẩy, cũng là năm cuối cùng của đời chị. Ngạn bảo Quyên:
- Chị Ba hy sinh thiệt là dũng cảm!
- Nhưng tội nghiệp cho chỉ...
- Anh biết... Ai cũng buồn. Em buồn nhiều hơn là phải. Như bây giờ em có thể khóc với anh, nhưng sáng ngày...
- Sáng ngày em không khóc.
- Vậy thì được. Giữa lúc tụi nó có thể nhảy vô giết mình thì phải gạt nước mắt sẵn sàng đâm lại nó!
- Em chỉ sợ con Thúy nó biết!
- Thế nào rồi nó cũng biết, nhưng nó biết sau trận này thì tốt hơn! Quyên nín thinh, cắn cắn bâu áo của Ngạn. Một lát không biết nghĩ sao, Quyên nói:
- Anh hay nhiếc em lắm!
- Anh đâu có nhiếc em hồi nào!
- Có! Ngạn nhớ lại mấy câu anh vừa nói, thì bật cười:
- Em là út, quen được má cưng nên anh mới nói có vậy mà em cũng cho là nói nặng.
- Thôi thì anh nói nhẹ! Ngạn cười. Anh bảo:
- Thôi em ngủ đi. Ngày mai tụi nó chưa có rút đâu. Mai nữa là chẵn một tuần lễ rồi!
- Một tuần lễ mà sao em thấy lâu quá!
- Vì mình trông tụi nó rút nên thấy lâu. Hễ cái gì mình đợi hoài thì nó lâu tới!
- Không phải. Tại em nghĩ có bẩy ngày mà sao xảy ra nhiều chuyện quá! Ngạn gật gù:
- Phải, xảy ra rất nhiều chuyện! Anh ngưng lại một chốc rồi tiếp:
- Bẩy ngày mà đã vậy. Mới biết trong bẩy năm tại miền Nam có biết bao nhiêu là sự việc. Hy sinh, căm thù, anh dũng, cái gì cũng có đủ...
- Mấy đêm nay em không sao chợp mắt được...
- Em ngủ đi. Anh phải ra hang đây. Có lẽ mưa tạnh rồi! Quyên lắng tai. Cô không còn nghe những giọt nước trong kẽ hang chảy róc rách nữa. Ngọn nến cắm trên phiến đá leo lét, sắp tắt. Trước khi ra ngoài, Ngạn cúi hôn Quyên, giữa lúc ánh nến sáng lên lần cuối và phụt tắt. Ngạn đi rồi, Quyên nằm một lúc thì thằng út đến. Nó đứng dưới hỏi vọng lên:
- Chị út ngủ thức?
- Thức, em đó hả út?
- Dạ... Quyên nhổm dậy, với tay kéo thằng út lên. Tay thằng út mát lạnh. Quyên rờ thấy quần áo của nó âm ẩm và đầu nó ướt rượt.
- Bộ em tắm hả út?
- Dạ... Thằng út thì thào:
- Chị út ơi, chị có hay gì hôn! Mấy chú ngoài xóm chặt tiêu thằng Xăm rồi! Quyên chưng hửng:
- Sao em biết?
- Chị Cà Mỵ mới đem gạo vô miệng hang, chị không hay à?
- Cà Mỵ hả, Cà Mỵ đâu?
- Chị Cà Mỵ về rồi. Hồi trời mưa dữ đó. Chị Mỵ nói mấy chú diệt thằng Xăm với một thằng nữa. Má chị Mỵ bỏ trốn rồi... Mà sao chị Mỵ khóc dữ quá hà. Chị bị tụi lính nó làm cái gì đó...
- Em ngó thấy chị Cà Mỵ à?
- Em thấy chớ. Hồi nãy em ở ngoài... Trời đương mưa ầm ầm thì nghe kêu:
- "Mấy anh ơi, tui là Cà Mỵ đây! " Em với mấy chú chạy ra. Chị Mỵ chuyên đồ ăn vô, nói cái vụ đó rồi khóc thút thít. Lúc chỉ chạy đi, ông trời ổng nháng lên, sao em ngó thấy quần áo của chỉ rách te tét hết trơn hè! Thằng út lập bập, vừa nói vừa thở. Nó quả quyết bảo rằng nó nói thiệt. Và nó nắm tay Quyên.
- Không tin chị út đi với em ra hỏi mấy chú coi! Quyên nhoài chân xuống phiến đá, đi theo thằng út. Ra gần tới miệng hang, Quyên đụng phải anh Hai Thép. Cô hỏi:
- Cà Mỵ nó mới tới đây hả anh Hai?
- ờ nó mới đem cơm với thuốc hút vô. Thiệt là không ngờ anh em đã thanh toán được thằng Xăm, khá quá!
- Nghe thằng út nói em không tin. Vậy nó chết thiệt rồi à?
- Chết rồi. Bà Cà Xợi thì bỏ trốn mất biệt! Thằng út nói leo:
- Sợ bả trốn ở ngoài nhà nò của tui quá!
- Sao mày biết?
- Chỗ đó êm lắm! Anh Hai Thép không chú ý nghe thằng út nữa, anh bảo Quyên:
- Tao thương con Mỵ quá. Con nhỏ đó tốt thiệt. Ban nẫy thấy kiểu nó khóc tao nghi lắm, hỏi gặng mãi nó chỉ bảo:
“Cháu không nói đâu. Chừng nào mấy chú ra khỏi hang cháu mới nói... " Vậy rồi nó chạy vụt đi. Lạ quá, quần áo của nó rõ ràng là bị xé rách. Quyên thốt lên:
- Trời ơi...
Cô đút ngón tay vào miệng cắn cắn, và nín bặt. Trong đêm tối cô thấy Cà Mỵ hiện ra với khuôn mặt nâu rám hay ngước lên và khóe mắt của Cà Mỵ xưa nay vốn đã ươn ướt thì giờ lại càng ướt hơn. Đôi mắt của cô gái hiện ra trước Quyên trông sao vẫn thiệt thà, vẫn ngây thơ một cách đáng thương. Quyên nhớ những khi Cà Mỵ cười như nắc nẻ bên suối, nhớ Cà Mỵ gánh nồi đi Tri Tôn, mồ hôi rấp dính những món tóc loăn xoăn trên trán. Quyên nhớ Cà Mỵ ngồi đan cà - ròn, miệng hát bài "Hoàng tử chém chằn". Tháng nắng, chiều nào ra suối Cà Mỵ cũng đặt cà - om lên cỏ, chúm đôi bàn tay dịu nhỉu múa một điệu của riêng cô nghĩ ra. Thoáng chốc, Quyên nhớ đến mọi nét mọi vẻ của Cà Mỵ. Cả cái cử chỉ khi Cà Mỵ ôm cô mà hôn thiệt là kêu, thiệt là nhiệt thành. Nghe thằng Xăm chết, Quyên không mảy may thương xót. Chớ thoáng nghe đời Cà Mỵ hình như bị bọn giặc phá hoại Quyên đau quá, thương cho Cà Mỵ quá. Song Quyên vẫn không tin. Quyên nói với anh Hai Thép:
- Đâu chắc là Cà Mỵ đã bị tụi nó làm ẩu. Anh Hai à, chưa chắc đâu. Mặc dù nói vậy, sao Quyên vẫn cảm thấy chừng như việc đã gần tới sự thật lắm. Linh tính của cô như quả quyết với cô điều ấy.
2
Mưa ngớt vào lúc nửa đêm. Qua hôm sau bầu trời Hòn Đất trở lại trong trẻo. Các vườn lá trên Hòn được trận mưa đêm tắm gội cho mướt mượt. Địch không mở thêm một cuộc tấn công nào mới. Ngồi trong cái chuồng trâu bỏ trống dùng làm chỗ đóng quân, hạ sĩ Cơ và ba người lính cùng tiểu đội hồi hộp đợi từng tiếng đồng hồ của ngày hôm ấy trôi qua. Họ hy vọng mọi sự được êm ái, để trời sụp tối là họ tới nơi hẹn gặp thím Ba. Không may cho họ, lúc xế, hạ sĩ Cơ bị tên trung úy gọi tới:
- Anh về dẫn tiểu đội của anh lên đại đội!
Hạ sĩ Cơ thiếu điều muốn run lên. Anh nín thở, nghe tên trung úy nói tiếp:
- Tối nay người ta hát bóng cho Việt cộng với dân chúng coi... Mấy anh lên khiêng vác, làm giàn rớ gì đó!
- Dà... Hạ sĩ Cơ thở phào nhẹ nhõm. Anh ta hỏi:
- Dạ đi bây giờ?
- ờ, đi liền bây giờ! Hạ sĩ Cơ nghĩ bụng:
“Nguy quá, kiểu này làm sao gặp thím Ba ú cho được! " Về tới chuồng trâu, anh kêu lính trong tiểu đội sửa soạn đi. Và anh gọi riêng một trong số những người lính sẽ trốn với mình, rỉ tai bảo:
- Chạy lại quán cho thím Ba biết mình bị kẹt. Hỏi thím coi hưởn trê trễ lối bảy tám giờ được không. Rồi chạy cho tôi hay! Hạ sĩ Cơ dắt tiểu đội lính đi lên đại đội. Tên chỉ huy đại đội bảo an thấy hạ sĩ Cơ dắt lính tới thì nói:
- Đi làm chỗ hát bóng đó hả?
- Dà.
- Theo tôi! Hắn dắt hạ sĩ Cơ cùng tiểu đội lính đi vô vườn mãng cầu. ở đó một đám người gồm nhiều phụ nữ và vài ông già đang ngồi lổm nhổm, có mấy tên bảo an đứng coi chừng. Trong số đó có chú Tư Râu ba thằng út. Chú bị bắt khi đem cá vô xóm bán. Chú đang cảu nhảu:
- Mấy ông bắt tôi đi mần bất tử như vầy bỏ nò ở nhà không ai thăm. Tôi thì có biết làm cái vụ này đâu kia chớ!
- Không biết thì người ta chỉ cho biết. Bỏ một bữa thăm nò mà cằn nhằn hoài. Mấy người ham làm giàu vừa vừa chứ. Tụi tôi đi đánh Việt cộng cho mấy người hưởng chớ ai hưởng?
- Tôi không hưởng cái khoản đó! Chú Tư thản nhiên đáp. Tên đại đội phó nổi cục, bước tới ngó mặt chú. Hắn ngó mé bên nầy rồi lại ngó mé bên kia:
- ‰, tên gì mày?
- Tôi tên Tư.
- Tao hỏi mày tên gì?
- Tôi nói tôi tên Tư! Tên đại đội phó cung tay đấm mạnh vào mặt chú Tư. Nhưng chú đã lẹ làng gạt phắt tay nó ra. Đám đờn bà thấy thế vụt chạy nhào tới:
- Trời ơi, sao đánh người ta. ạng hỏi tên thì người ta nói tên, chớ sao ông lại đánh? Một ông già chậm rãi bảo tên thiếu úy:
- ạng à, ông trật rồi. Chú ta tên Tư thiệt mà, bà con tôi vẫn kêu chú là chú Tư Râu. Tên đại đội phó quay phắt đi:
- Đ. mẹ, tôi không biết Tư Râu Tư Ria gì hết. A - lê, đi làm. Đám đàn bà léo xéo:
- Không, tụi tôi không đi nè. Ai giỏi làm gì thì làm thử coi! Không muốn không khí trở nên găng, nên chú Tư ôn tồn nói:
- Thôi mình đi mấy thím! Nói thế xong, bỗng chú bước vụt lên ngang mặt tên thiếu úy, nói vừa đủ cho hắn nghe:
- Cậu là người Việt nên tôi chỉ gạt tay cậu ra. Chớ Mỹ mà nó đánh tôi kiểu đó, tôi vặn họng nó rồi a cậu! Tên thiếu úy ngó sững người đàn ông râu ria xồm xoàm vai u thịt bắp. Hắn đi rướn tới, nặng nề, và hoàn toàn câm lặng. Đám phụ nữ nghe lời chú Tư Râu, lẽo đẽo đi theo. Tên thiếu uý ấy sai lính khiển mọi người vác tre, vác cưa, dao rựa đi về phía hang. Bọn lính đốc thúc bà con dựng lên một cái khung tre trước miệng hang. Giữa lúc kềm giữ cho bà con đào lỗ, cắm cọc, hạ sĩ Cơ không ngớt dòm về phía miệng hang. Anh ta bảo bụng:
“Còn có mấy tiếng đồng hồ nữa thì mình thoát khỏi chỗ này rồi, phải thủ kỹ mới được". Anh lính đi lại quán thím Ba ú đã về cho hạ sĩ Cơ hay rằng bất luận thế nào thím Ba cũng đợi họ tại ngã ba Sĩ Lỳ để dắt họ đi, nếu họ về sớm sẽ đi sớm, về muộn sẽ đi muộn, không thể dời ngày khác được. Mãi tới choạng vạng cái khung để mắc màn ảnh mới dựng xong, sau bao lượt dùng dằng chèo kéo. Hạ sĩ Cơ dắt tiểu đội trở về tới chuồng trâu thì trời sụp tối. Anh ta và ba người lính nọ bưng cà - men cơm ăn qua loa vài hột rồi vác súng lỏn đi... Tới ngã ba Sĩ Lỳ, họ không thấy ai cả. Người nọ thì thào hỏi người kia:
- Cha, sao không thấy thím Ba đâu hết?
- Mày nghe thím dặn kỹ không?
- Hạ sĩ Cơ hỏi. Ngay lúc đó, có tiếng bên vệ đường vọng ra:
- Anh em đó hả? Đúng là tiếng thím Ba. Mà vẫn chưa thấy thím đâu. Lát sau mới nghe tiếng sột soạt trong bụi cây vệ đường:
- Tôi đây nè. Cái bóng to béo của thím ở trong bụi bước ra, thì thào hỏi:
- Anh em tới đủ hết chưa?
- Đủ.
- Đưa súng đạn hết đây cho tôi! Bốn người lính cởi súng đạn, run run cầm giao cho thím Ba. Thím lanh lẹ tóm xách một tay hai cây súng, lủi vô bụi. Chốc sau, thím chui ra trao cho mỗi người một ốp mo cau còn bốc hơi nóng ấm:
- Đây là phần cơm của mấy cậu. Có thịt gà ở trỏng!
Bốn người lính cóm róm đỡ lấy mo cau, thím Ba bắt đầu đi vượt lên, xấp xải. Khỏi ngã ba vài trăm thước, thím rẽ xuống ruộng. Bốn người đi theo thím như chạy. Một đỗi sau, tới giữa đồng, họ bỗng nghe tiếng loa vọng ồm ồm trong xóm. Thím Ba hỏi:
- Cái chi vậy?
- Tụi nó lùa bà con đi coi hát bóng mà! Thím Ba yên tâm đi tới. Sông Vàm Răng hiện ra như một kẽ trũng, đang chảy đổ ra biển. Nước sông mỗi lúc một ráo kiệt, thỉnh thoảng réo lên, như tiếng người kêu khản giọng giữa bốn bề đất trống đồng khô. Thím Ba ú xăm xăm đi tới bờ sông. Thím vỗ tay bộp bộp, ở phía bờ bên kia bỗng chổi dậy mấy cái bóng phụ nữ vắt vẻo búi tóc:
- Chị Ba đó hả?
- ờ.
- Cho anh em qua đi. Cứ lội qua, cạn xợt thôi! Thím Ba ú nói với bốn người lính:
- Thôi bây giờ mấy cậu đi nghe. Phận sự tôi tới đây xin hết! Thím móc túi lấy cái gì đưa hạ sĩ Cơ:
- Đây, bà con cho chung mấy cậu ba trăm. Hạ sĩ Cơ rụt tay lại. Thím Ba ú nhét vô tay hạ sĩ Cơ và bảo:
- Mấy cậu cầm mà xài đường. Của bà con cho, mấy cậu cứ lấy, không can chi! Hạ sĩ Cơ buộc lòng cầm tiền. Anh ta cứ đứng ngây miệng lúng búng câu gì không rõ. Bốn người lính từ biệt thím Ba rồi cởi giày, lần lượt lội xuống bãi bùn. Người phụ nữ bờ bên kia nói trỏ xuống bốn người lính đang lội ồn ột.
- Mấy cậu bận quần xà lỏn thôi, còn đồ lính cởi ra ném xuống sình đi! Qua đây sẽ có quần áo cho mấy cậu thay!
Bốn người nghe lời cởi quần áo giữa lòng sông cạn. Họ vo guộn những bộ binh phục bảo an vụt xuống bãi bùn rồi lấy chân đạp nhận xuống thật sâu. Trong bóng tối lờ mờ, thím Ba ú còn nhìn thấy bóng những người lính vừa rũ bỏ binh phục đang lội lên bãi sông bên kia. Bây giờ thím Ba ú mới thiệt tin là bổn phận mình đã hoàn tất. Có cái gì khiến thím hân hoan thật sự. Thím tự nhủ:
“Được bốn người cũng đỡ bốn người! " Đến lúc anh em lên tới bờ bên kia, thím mới quày lưng trở về. Vào tới rìa xóm, thím Ba nghe tiếng người dậy lên rào rào như ong vỡ tổ. Và tiếng lính la ó vang rân, thím đứng lại một chút mới đi vô. Vừa mới ló ra ngã ba, thím liền bị một tên lính chộp tay thím lôi đi. Thằng lính la oang oang:
- Bắt được thêm con mẹ này đây! Thím Ba ú hốt hoảng, tính xô tên lính mà chạy. Nhưng một thằng đi trờ tới chợt lầu bầu:
- Đ. mẹ, dân xứ này ngu quá, tới coi hát bóng mà cũng phải rượt như rượt gà! Nghe vậy thím Ba vỡ lẽ, nên không chạy. Thím dục dặc tuột tay thằng lính:
- Bỏ tôi ra, để tôi đi, làm gì mà dữ vậy? Thằng lính buông tay thím. Nó nói:
- Mấy bà nội đi hay không đâu có ăn nhậu gì tới tôi. Lùa mấy bà đi, tôi cũng chớ có được đồng xu cắc bạc nào. Ngặt thiếu tá kêu lùa là tụi tôi phải lùa!
- Đi thì đi... Vậy chớ hát tuồng gì đó hả cậu, mà hát ở đâu?
- Bà nội này nãy giờ bộ lên chuồng ngủ rồi sao chớ? Người ta phát loa năm bảy lượt mà không nghe. Hát tuồng Huê - kỳ, hát ở trong hang! Thím Ba ú thừa biết rồi, nhưng thím thấy cần phải đến đó, nên thím chịu đi, không cự nự gì nữa. Lát sau, lại có một 85 86 đám bà con cũng bị dồn tới. Hỏi ra thì là những người cuối cùng mà bọn giặc vừa bắt được. Bọn lính dắt mọi người tới bãi đất trống trước miệng hang thì ở đó đã đen nghẹt những người. Loa phóng thanh của địch treo trên các cọc tre thét oang oang kêu bà con giữ trật tự. Nhưng đám bà con ngồi trên bãi đất trống vẫn nhốn nháo, ầm ĩ. Tên thiếu úy tâm lý chiến đêm nay đóng vai trò nổi bật. Tiếng gào của hắn trong loa không lộ vẻ bất bình mà lại tỏ vẻ phấn chấn. Vì rốt cuộc, cái sáng kiến của hắn đã được đem ra thực hiện. Vì máy nổ đã khởi động, tấm vải trắng màn ảnh đã được treo lên, và ít ra thì cũng có tới một ngàn người bị dẫn tới ngồi trên bãi đất này, Mặc cho đám quần chúng bị bức bách coi phim đó còn ồn ào huyên náo, tên thiếu úy vẫn cứ bắt đầu. Hắn trịnh trọng:
- Kính thưa toàn thể đồng bào. Hôm nay tôi xin hân hạnh giới thiệu cùng quý đồng bào cuốn phim hay nhứt mà chúng tôi vừa nhận được của trên. Xin lưu ý cùng toàn thể quý đồng bào, đây là cuốn phim chiến trận ở Cao - ly. Quân đội Huê - kỳ đánh phá một trái núi tên gọi Thượng - cam - lĩnh...
Đèn điện vụt tắt ngấm. Máy chiếu phim quay sè sè. Một đoàn máy bay xuất hiện, che rợp màn ảnh. Rồi bộ binh kéo đi rầm rộ. Quân Mỹ đội nón sắt, cắp súng chạy sau những xe tăng có gắn đại bác nòng dài nghễu nghện. Những hình ảnh đầu tiên đó quả có sức lôi kéo của nó. Trên bãi đất, tiếng nhốn nháo lắng xuống dần. ở trong hang, tổ gác miệng hang cũng nhìn thấy rõ mồn một. Anh Hai Thép nói:
- Tụi này đánh mình không nổi, giờ bày trò chiếu phim tác động đây. Để coi coi... Ngạn ghìm súng, dán mắt theo dõi. Màn ảnh ở hơi xa một chút, nhưng anh trông thấy rõ đạn đại bác nổ, những vầng khói, cả những cái nón sắt bóng loáng và các đôi chân quấn xà cạp của quân Triều - Trung cuống chạy lẫn vào trong miệng hang núi sâu hoắm. Ngạn nghĩ:
“Chắc tụi nó bắt lính Lý Thừa Vãn và lính Tàu Tưởng đóng cho nó quay!... " Trên màn ảnh, các cánh quân Triều - Trung lần lượt bị máy bay, xe tăng và bộ binh Mỹ dồn vào hang. Ngạn văng tục:
- Mẹ nó, nó xuyên tạc trận Thượng - cam - lĩnh. Cái phim này các đồng chí Trung Quốc quay rồi, hồi gần hòa bình, tôi có coi!
- Phải, tôi cũng có coi...
- Trọng nói. Ngạn tiếp lời:
- Ai chạy lấy mấy cái loa mo cau ra đây cho tôi!
- Để tôi đi! Trên màn ảnh bắt đầu diễn ra những cuộc xung phong ác liệt. Quân Mỹ nhiều lượt tràn vào hang. Chúng cũng bị đánh bật ra. Rồi các giếng nước có cần vọt quanh núi đều bị quân Mỹ chiếm. Trong hang, những chiến sĩ Trung - Triều rã rượi, đói khát... Quân Mỹ lại xung phong hết sức dũng mãnh. Kìa, những chiến sĩ Triều - Trung ngã gục tại miệng hang, tay chới với buông những khẩu tiểu liên kiểu có nhiều lỗ tỏa nhiệt. Loa phóng thanh không ngớt rít rống, giải thích. Cuối cùng tiếng loa dồn dập, câu nọ xọ câu kia:
- Bọn Trung cộng và Bắc Cao rất chi là ngoan cố. Chúng bị vây siết mà vẫn không chịu đầu hàng. Quân đội Huê - kỳ buộc lòng phải phá hang. Đây là lúc Huê - kỳ đang đem chất nổ vô! Ngay lúc đó trên màn ảnh quả nhiên hiện ra bọn lính Mỹ vác hòm thuốc nổ cháy xốc vô hang, dưới làn hỏa lực của các cỡ súng yểm trợ. Cuối cùng toàn bộ trái núi bị giật nổ tung, bắn ra vô vàn đất đá. 89 90 Tên thiếu úy tâm lý chiến hối hả nói một tràng kết luận:
- Quý đồng bào chắc đã thấy rõ, trái núi lớn như vậy mà còn nát vụn, huống hồ là cái Hòn này... Tới đây, miệng loa của chúng bỗng day vào phía hang. Vẫn là giọng nói đang hồi phấn chấn của tên thiếu úy:
- A - lô, a - lô, hỡi các phần tử Việt cộng trong hang! Chúng tôi khuyên các người hãy đầu hàng. Nếu không, quân đội cộng hòa buộc lòng phải đánh nát cái hang của mấy người y như trong phim này vậy... Ngạn lập tức giơ cái loa mo cau lên, thét ra:
- Nghe đây, đồng bào hãy nghe chúng tôi nói đây! Vừa rồi tụi giặc chiếu cái phim gì đồng bào biết không? Cái phim láo đó! Đồng bào đừng tin. Chuyện này chúng tôi biết rất rõ, chính bộ đội chí nguyện Trung Quốc và bộ đội Triều Tiên đã chôn vùi giặc Mỹ tại trái núi đó! Ngạn nói tới đây, đồng bào ở ngoài hang liền vỗ tay như sấm. Anh nói tiếp theo:
- Bà con ơi, chúng tôi còn một người chiến đấu một người, còn hơi thở nào chiến đấu hơi thở nấy. Tất cả chúng tôi đều còn sống, còn đánh... Bớ mấy thằng giặc theo Mỹ - Diệm, tụi bây có giỏi thì vô đây... Vô đây tụi tao bắn đổ ruột hết thẩy... Nhướng mắt mà coi nè! Ngạn liệng cái loa, xóc khẩu tôm - xông, nhắm vào màn ảnh bóp cò. Súng nổ "đoành đoành đoành". Màn ảnh bị lủng ba lỗ dụm vào nhau. Bà con bên ngoài lại vỗ tay, reo hò dữ dội. Anh Hai Thép ngăn:
- Thôi đừng bắn nữa, để dành đạn. Đến khi bọn giặc bắt đầu xổ trung liên vào hang thì Ngạn và anh em đã nép mình sau các mỏm đá. Loạt trung liên của giặc vừa dứt, Ngạn lại bắc loa nói ra:
- Hỡi các anh em binh sĩ, chúng tôi khuyên các anh em đừng đánh vô hang nữa mà chết uổng mạng. Tốt hơn hết là đòi về hoặc đào ngũ. Nếu anh em nghe lời tụi chỉ huy xông vô đây thì chúng tôi phải nổ súng. Mà khi chúng tôi đã nổ súng thì anh em ắt phải chết... Nói để anh em biết, ở trong này bắn ra không trật đâu! Loạt trung liên thứ hai bây giờ lại xổ ra. ý chừng tên xạ thủ vừa đóng băng đạn mới. Nhưng giữa cái khoảng nó thay băng, Ngạn đã lợi dụng xong rồi. Buổi chiếu bóng thế là thất bại. Bà con đốt đuốc kéo về. Tiếng cười nói rộn lên khắp khu vườn. Tên thiếu úy tâm lý chiến hổn hển nguyền rủa tên thiếu tá:
- Tôi đã nói đừng lùa tụi nó tới coi mà không chịu, ai biểu tham... Tỷ như không có tụi nó thì Việt cộng coi ên, thối chí hay không thối chí cũng không hại. Đằng này..... Trong lúc đó thì tên thiếu tá vẫn đang ngồi nhậu giữa ngôi nhà nền đúc. Nghe tên lính chạy về cho hay, hắn liệng ly rượu vỡ "choang", cười kha kha:
- Đ. mẹ hư hết rồi sao hả? ối, thằng thiếu úy Sanh non lắm. Hồi nó đưa ý kiến đó, tôi nghi rồi. Ngặt nó cứ đeo theo tỉ tê ton hót hoài, tôi mới buông xuôi cho nó làm. Muốn hiểu tụi Việt cộng hỏi tôi đây nè!... Hồi tôi làm quận ở Xẻo Rô, tôi trói tụi nó lại dập đầu bằng búa mà tụi nó còn không ngán. Đập thằng trước té xuống, thằng sau vẫn tự nhiên như thường. Mấy con nữ cán bộ cũng vậy, tôi càn vô cứ bắt được mấy đứa đem về ghim kim vô đầu ngón tay. Mới ghim xong chưa kịp lấy búa gõ thì đã có đứa nói:
- "Coi đây! " rồi nó vỗ mạnh mười ngón tay vô tường, lút kim. Đ. mẹ, Việt cộng là vậy đó! Không thấy con nhỏ hôm trước sao, chém gần lìa cổ rồi mà vẫn chửi. Huống chi đem tuồng hát bóng ra dụ nó, dụ mẹ gì được mà dụ!
Tên thiếu tá nói, chửi thề, và tiếp tục rót rượu. Hắn rót tràn rượu trắng vào một cái ly mới, dằn mạnh cái chai xuống mặt bàn làm ly rượu sóng sánh đổ tạt. Hắn đưa tay ra dáng như đè vật gì trong không khí xuống:
- Thô... ôi, để đó... Hắn quay phắt sang bên:
- Trung úy Tự!
- Dạ, có tôi. Một tên trung úy trạc bốn mươi tuổi đang đứng dựa tường vội vàng bước tới. Tên thiếu tá bảo:
- Anh cho trộn xi - măng, gánh gạch vô hang, như hôm nọ đã bàn...
- Ngay bây giờ à, thưa thiếu tá?
- Ngay bây giờ, phải làm cho gấp. Sáng mai tôi chỉ huy lấp mẹ cái miệng hang đó là yên!
3
Chú Tư Râu nói với Cà Mỵ:
- Té ra hồi chiều tao bị tụi nó bắt đi làm cũng không uổng công Mỵ à. Anh em trong hang nói nghe "đã" quá! ... Trên đường ra bãi, Cà Mỵ lẽo đẽo đi theo sau lưng chú Tư. Thằng út nói vậy mà đúng. Bà Cà Xợi hiện đang ở ngoài nhà nò. Bữa trước, bà con bảo bọc bà ở xóm lưới. Nhưng tụi lính lùng kiếm riết quá, nên hôm qua chú Tư lảnh đem bà ra giấu ở nhà nò. Đợi lúc trên đường không còn ai, Cà Mỵ hỏi:
- Má tui hôm rày ra sao chú Tư?
- Vẫn mạnh.
- Má tui có buồn hay chết xỉu nữa không chú?
- Không... có cái là tao thấy bả coi hơi khác khác...
- Khác sao chú!
- Tao cũng không biết. Mà bây giờ má bây mần công chuyện coi mau mắn lẹ hết sức!
- Má tôi mần công chuyện gì?
- Má bây nấu cơm, vá lưới dùm tao. Tội nghiệp, má bây cũng chưa được vui... Cà Mỵ không hỏi nữa. Cô áp đôi tay lên ngực, bước đi từng bước một. Trước mặt cô, sóng biển nhuốm ánh trăng muộn dào dạt la liếm vào bãi cát. Cô đi trong vầng trăng và tiếng sóng đó, mà tấm lòng chất phác của cô trào lên biết bao uất ức. Hôm qua cái nhà của cô đã bị tụi giặc đốt. Và bây giờ cô cảm thấy sợ tiếng lá dừa khô kêu rắc rắc, vì trên những tàu lá đó cô đã bị mấy thằng lính thay nhau cưỡng hiếp, trong lúc cô đem cơm đi vô hang. Chiếc xuồng của chú Tư vẫn còn nằm trên bãi. Sóng biển tung tóe liên tiếp sau lái xuồng. ý chừng sóng muốn vỗ tới lái chiếc xuồng đó, nhưng nó vẫn không sao vỗ tới được. Chú Tư Râu bước đến kéo vần chiếc xuồng. Cà Mỵ vịn be phụ đẩy với chú. Mũi xuồng chuồi xuống, rập vã vào ngọn sóng, để lại phía sau một đường cát miết dài. Chú Tư bơi lái bằng cây chèo. Chú bơi cật lực nhưng mũi xuồng không rấn lên được bao nhiêu. Gió thổi chỉ mũi, xuồng đi rất chật vật. Chiếc xuồng nhảy nhót men theo các cây hàng rào nò hiện mờ mờ, chạy dài tít tắp. Xa xa phía trước, ánh đèn đỏ nhà nò nhấp nháy như nổi trên lưng sông. Chú Tư trỏ tay về ánh đèn nói vui vẻ:
- Má bây còn biết nổi đèn lên dùm tao là bả còn tỉnh lắm. Không sao đâu! Cà Mỵ nhìn ánh đèn. Ban đầu cô chỉ nhìn thấy ánh đèn đó, nhưng xuồng đi một đỗi sau thì cô bắt đầu thấy dạng nhà nò. Dưới ánh trăng bàng bạc, nhà nò của chú Tư hiện ra giống cái chuồng chim bồ câu, nổi hêu một mình giữa bốn bề sóng động. Từ trong bãi bỗng có tiếng chim bìm bịp kêu giục giã một thôi dài. Tiếng kêu của con chim lông nâu báo con nước triều lên xuống ấy nghe tợ tiếng tù và rúc, càng về cuối nghe càng nhặt.
- Nước lên rồi!
- Chú Tư nói.
- Bây giờ chú Tư đi thăm nò không? Để cháu đi thăm với chú nghen?
- Thôi... Không kịp đâu Mỵ à. Để con nước ròng sáng thăm cũng được! Chiếc xuồng vượt qua mấy cây hàng rào cuối cùng rồi căng vào bậc thang sàn lảng của nhà nò. Cà Mỵ bò tới giơ tay bám vịn nấc thang, vừa leo lên vừa kêu lớn:
- Me, me ơi! Bà Cà Xợi đang nằm mơ trong chòi vùng choàng dậy. Bà chệnh choạng chạy ra. Hai mẹ con gặp nhau ở chỗ sàn nhà. Cà Mỵ vì vấp vào cái cây lót sàn nên khuỵu xuống, ôm ngang người mẹ. ánh trăng chiếu rọi ngấn mắt long lanh giàn giụa của Cà Mỵ đang ngước lên. Giữa lúc chú Tư đang quấn thêm vòng lòi tói nữa, buộc xuồng vào cầu thang. Sợi dây lòi tói đó cứ bật kêu rủng rẻng. Chiếc xuồng tuy đã buộc vào gần cầu nhưng nó chẳng thể đậu yên với nhịp sóng lúc thì nâng nó lên, lúc thì níu nó xuống. Chú Tư đi vào lấy tấm đệm trải giữa sàn nhà nói:
- Thím Cà Xợi với con Mỵ ngủ ở đây nghe! Rồi chú đến ngồi bên cái mẻ un còn ngún khói, kề miệng thổi phù phù. Chú móc bì thuốc, vừa vấn thuốc vừa nói:
- Mẹ nó, mới tới đây có mấy bữa mà nhà nào nó cũng gây oán. Thím Cà Xợi à, thím với con Mỵ đừng sợ, cứ ở đây, chừng nào tụi nó rút, thím hẵng về. Chừng đó tụi tôi sẽ ráp cất nhà lại cho thím. Mùa tới có thiếu mạ cấy thì cô bác giúp đỡ, không lo...
- Tui còn có hai bàn tay, có cô bác, tui đâu lo. Mà điều... Bà Cà Xợi ngập ngừng, lát sau mới nói tiếp, giọng rên rẩm:
- Để thằng Xăm cũng khổ, mà nó chết rồi tôi cũng khổ. Chú Tư ngước nhìn về phía bà Cà Xợi. Chú thấu hiểu lòng bà. Nhưng chú nói:
- Thím đừng nghĩ vậy, đừng nghĩ gì nữa... Kể như, thím không có đẻ thằng Xăm đi. Hồi giờ chủ Mưu dưỡng dạy nó, thằng Mỹ - Diệm tập dượt nó thành đứa ác ôn. Nó có còn là con thím nữa đâu. Nói thiệt, tôi mà có thằng con thế đó thì tôi chặt lâu rồi! Bà Cà Xợi làm thinh. Chú Tư lại nói:
- Thím Cà Xợi à, trận này tụi nó về đây đánh phá tính lập bót rồi giựt đất giựt biển của mình lại ráo đó đa thím!
- Tui biết...
- Cái đó mới là cái khổ nạn lớn!
- Thằng Xăm có nói với tui, bữa nó chết...
- Nói sao?
- Nó nói là chừng tiêu diệt hết đằng mình trong hang thì nó ở lại đây luôn!
- Ghê không? ở đây đặng rồi giựt đất thâu tô chớ gì, ở đây đặng bắt bà con mình trở lại cái cảnh đi mua từng thước đất nắn nồi như hồi nẳm chớ gì! Nói thế xong, chú Tư khoát tay trỏ biển:
- Bà mẹ nó, nó tính vậy, chớ dễ dầu gì mình chịu rủ tay lần nữa thím? Thằng Bé tôi nghe nói cụt tay, tôi cũng không thối chí. Tôi hứa với thím, hễ tụi nó mà nhớm khiêng gạch xây bót là tôi bỏ nò vô xóm nhập du kích liền. Hổm nay tôi cứ tính tới nước cùng là cho nó chiếm được hang và anh em trong hang có hy sinh hết đi thì rồi Hòn Đất này cũng nhen nhóm đánh nữa. Nói là nói giả dụ vậy, chớ anh em ở trỏng đâu có chết thím... Cà Mỵ nói:
- Tám bữa rồi nó không nhập vô hang được. Võng trong xóm đều bị tụi nó lấy để khiêng thây!
- Cứ cái "mửng" này chắc là nó phải rút. Lính tráng mất thần hết rồi. Bà con mình trong xóm mấy bữa nay hễ gặp lính là dọa. Tụi lính sợ dữ lắm. Mai tôi cũng vô trong xóm coi... Cà Mỵ nhích tới, khẽ bảo:
- Chú Tư ơi, chừng nào cần đem gạo vô hang thì để cháu đi... Cà Mỵ nói chưa dứt câu, chú Tư bỗng rùng mình. Hôm qua lúc ghé nhà mẹ Sáu, mẹ đã kể cho chú nghe rằng Cà Mỵ đã nói với mẹ chuyện nó bị hiếp. Cà Mỵ khóc rấm rức và bảo mẹ Sáu. "Muốn đem gạo vô hang cho mấy chú nên con liều mình bà ơi". Chú Tư Râu thương cho Cà Mỵ quá nên khi nghe cô đòi đi đem gạo nữa thì chú gạt ngang:
- Má bây ngủ rồi. Thôi bây ngủ đi. Tao cũng đi ngủ đây! Chú Tư lại chỗ góc trại, vách nón chun vô. Cà Mỵ dặn:
- Gần sáng có đi thăm nò kêu cháu dậy đi với nghe chú?
- ờ, để tao kêu! Chú Tư mới nằm xuống đã ngáy liền. Chú ngủ một giấc dài thì Cà Mỵ mới chợp mắt thiếp đi. Lúc bìm bịp kêu nước giựt ròng, chú Tư trở dậy. Chú lại bếp thổi lửa, hút thuốc. Hút hết điếu thuốc chú mới mò kiếm cái lưới vợt, lom khom đi ra. Ngang chỗ Cà Mỵ nằm, thấy Cà Mỵ vẫn còn ngủ thì chú không gọi, vác vợt ra bậc thang, mở xích xuồng. Trời hãy còn tối. Sóng vẫn đùa giỡn với làn sương phủ dày mặt biển. 103 104 Chú Tư bơi xuồng từ trụ "ông bổn", ra tới họng nò. Vừa bơi chú vừa nghĩ bụng:
“Mình bỏ một con nước, bây giờ ra thăm chắc thế nào cá cũng chạy khá! " Buộc xuồng cập vô hàng rạo xong, chú xốc cây vợt bước tới mũi xuồng. Nước trong nò đã giựt cạn. Mấy con cá chẽm tung mình lên rồi lại rớt xuống. Cá chạy quẩn trong nò tóe nước sáng trưng. Tôm búng tanh tách, tanh tách. Chú Tư đứng chịu hai chân chữ bát, nơi sạp mũi, thọc cây vợt xuống. Hai tay chú nhấc cán vợt nặng trĩu, đổ hất vào khoang xuồng. Cá giống, cá guộc, cá chẽm chuồn mình giãy đành đạch. Chú Tư xúc hết vợt này tới vợt khác, xúc mỏi cả tay. Còn mấy con cá to vẫn chạy vòng quanh nò. Chú Tư bèn thọc sâu cây vợt xuống, rà đón đặng bắt nốt. Thình lình sóng xô đập một vật gì vào dãy hàng rạo ở ngoài. Rồi vật ấy cứ cặp theo hàng rạo mà trôi tới. Tưởng có con cá mú lớn chạy vào, chú Tư vội rút cây vợt lên, để yên, cho nó đâm thẳng vào miệng nó. Nhưng lạ quá, vật đó trôi tới miệng nò thì vướng lại, quay ngang. Chú Tư không biết cái chi. Cá thì không phải cá. Chú thọc vợt xúc đại. Nhưng tay vợt của chú sao cứ trớt trợt, nằng nặng. Quỳ rạp xuống, lừa lọc mãi chú mới bợ lên mấp mé mặt nước một phần của vật ấy. Trời hơi sang sáng, chú trố mắt nhìn và buột miệng kêu "á" lên một tiếng. Trên miệng vợt, một mớ tóc rũ xõa, rập rềnh. Thì ra đó là một cái xác chết. Chú Tư trấn tĩnh lại, dùng vợt rà nâng cái xác cặp vào mé hàng rạo. Không nghe mùi thối. Chú nghĩ bụng:
“Phải vớt lên mới được! " Nhưng ở phía ngoài hàng rạo chú không thể vớt cái xác. Chú thu cây. vợt về, liệng xuống khoang, và cầm chèo hộc tốc bơi xuồng vào giữa nò. Sau một lúc loay hoay chú tìm lại được cái xác. Lúc nắm phải cặp chân mang đôi giày bố đã mềm sũng, chú Tư hiểu ngay rằng đó là một tên lính. Tay chú muốn buông cặp chân giày đó ra rồi. Chú nghĩ:
“Chà, công đâu vớt nó lên! Cứ để nó nằm đây làm mồi nhử cá... " Nhưng nghĩ thế, chú đã vội nghĩ lại:
“Cứ đem lên thử coi, biết đâu, chừng có súng ống hoặc lựu đạn". Chú Tư rán sức lôi cái xác lên xuồng.
Thì quả là một người lính thật. Với đôi giày bố đó, với bộ quân phục xám trĩu nặng trên người anh ta đó. Giữa buổi bình minh mới hé trời hãy còn đầy sương và bốc cuộn hơi thở biển, người lính nằm ngửa trên sạp xuồng, thẳng đơ. Chung quanh anh ta, những con cá chú Tư mới vợt ở nò lên vẫn giãy giụa. Chú Tư khoát nước rửa tay, rồi cúi xuống. Vẫn không nghe mùi hôi thối. Nhưng mặt người lính đen sạm, nứt toác. Đôi tay anh ta co co như giơ lên sắp đón ôm một vật gì vào lòng, còn các khuỷu ngón tay thì quắp lại. Chú Tư không dám nhìn lâu bộ mặt người lính vì nó gieo cho chú cái cảm tưởng hình như chú đã gặp bộ mặt đó ở đâu rồi. Cái bộ mặt trông vất vả và lương thiện, trước kia nếu không phải là dân lội ruộng thì cũng là dân hạ bạc nếu không phải là dân tát đìa mướn thời cũng chắc là dân bạn ghe, chống chèo dầm mưa dãi gió. Cặp mắt anh ta trông mới lạ chứ, nó cứ mở he hé, cho thấy đôi con ngươi đó như có rắc tro, như dại đi vì nỗi tức giận và hối tiếc khôn nguôi. Chú Tư không chịu nổi khi nhìn thấy đôi tay co co giữa không trung của người chết, nên chú khom cúi người cầm đôi bàn tay ấy đè xuống. Nhưng cánh tay vẫn không chịu buông xuôi, vẫn cứng nhắc giơ lên, như đợi ôm lấy cái gì. Nhưng đâu có cái gì. Giữa vòng tay chết đó chỉ có làn sương tan, hơi biển vờn lên như khói, và ánh bình minh mỗi lúc một trắng sáng. Một lần nữa chú Tư lại cố vịn bàn tay người lính đè xuống. Lần này, chú chợt chạm nhằm phải lớp chai cộm dày, nhám cứng nổi trong lòng bàn tay người lính. Chú vội rụt tay mình lại như bị phỏng lửa. Lát sau, chú mới rón rén cầm bàn tay người lính lê nhìn. "Trời... " chú buột miệng kêu khẽ. Lòng bàn tay người lính chai nhám hết. Trừ một lõm nhỏ ở giữa, tất cả đều nổi cộm đầy chai, hơi sần sần tróc trắng vì bị ngâm nước lâu. Chú Tư từ từ buông tay người lính ra. Bàn tay của chú bỗng rụng rời, yếu nhớt. Chú lẩm nhẩm trong bụng:
“Mình đoán không sai... Thằng này cầm cày ít nhứt cũng mươi năm... cái cục chai đó... " Mãi sau chú mới mò mẫm khắp người anh ta. Không có thứ khí giới nào cả. Chú lôi ra từ túi áo anh ta một cái "bóp" bằng da giả màu nâu, đã rách beng, để lòi một mớ giấy tờ và rơi rớt mấy đồng bạc in đầu Ngô Đình Diệm ướt xỉn. Trong hai cái túi đãy nơi đùi người lính cũng chẳng có gì, ngoài một miếng cơm dừa cứng cạy đã nhớt nhợt. Chú Tư ngồi lặng trước thây người lính. Chú thẫn thờ không cần thiết gì tới chuyện vợt cá trong nò nữa. Mặc dù trong đó còn có nhiều con cá lớn, chú cũng không để tâm tới ngọn sóng luôn nhồi lắc chiếc xuồng. Lòng chú giờ cứ nhói lên, như bị rất nhiều mũi kim châm chích. Mấy câu hỏi dồn dập đến với chú cùng một lúc:
“ở đâu mà trôi vô nò mình? Chết hồi nào, trận nào? Thiệt kỳ quá! Nhưng coi bộ chết chưa lâu, cao lắm là hai ngày... Đáng lẽ thì sình rồi, chắc là nhờ nước biển mặn... " Chú Tư lập vập nghĩ thế và tính tới tính lui không biết có nên chở cái xác về hay bỏ lại biển. Bỗng chú sực nhớ tới đám lính hiện ở trong xóm:
“Không, mình không nên bỏ cái xác xuống biển. Nên báo liền cho thím Hai Thép hay... sẵn có con Mỵ, để kêu nó đi... " Chú Tư bỏ không xúc cá trong nò nữa, vớ mái chèo, lái mũi xuồng hướng về phía nhà chòi, bơi riết. Vừa bơi chú vừa thầm kêu trong lòng:
“Bớ tụi lính bỏ ruộng bỏ đồng, đất đai của tụi bây ở nhà cũng đương bị bọn đầu trâu mặt ngựa lăm le lấy lại, sao không lo, còn theo tiếp bọn nó đi giựt đất bà con để chết cách thê thảm... Đồ lính ngu lính dại, tao phải đem cái thây này vô cho tụi bây ngó thấy mới được! "
Có tiếng gót chân giậm lên nắp hầm bộp bộp. Anh Tám Chấn nghe đúng là ba tiếng, liền nhoai người ra, chỏi tay khẽ ẩy miệng hầm. Chị Hai Thép ngồi bên trên cúi xuống, thì thào:
- Báo cáo anh vừa xảy ra một chuyện này...
- Chuyện chi?
- Cà Mỵ mới ở ngoài nhà nò chú Tư về cho tôi hay là có xác một tên lính trôi về nò, chú Tư mới vớt được.
- Lính gì? Chủ lực hay bảo an?
- Lính chủ lực, bận đồ tay - di, bị thương ở bụng. Tụi tôi nghi tên lính này bị máy bay chở đi đổ xuống biển! Nghe nói thế, anh Tám Chấn ngoi đầu lên khỏi miệng hầm, hỏi:
- Vẫn còn để cái xác đó ngoài nhà nò chú Tư à?
- Còn để ở ngoải. Anh Tám Chấn im lặng một lát rồi nói:
- Hôm kia trực thăng có tới chở lính bị thương đi, nay vớt được tên lính này ở nò thì đúng là trực thăng nó đổ rồi. Muốn biết chắc hơn, thím nên bố trí bà con hỏi nhóng tụi lính thử coi. Lựa lính chủ lực mà hỏi. Nếu binh sĩ họ xác nhận thì thím lập tức huy động bà con đem cái xác đó vô xóm, gây thành một sự xúc động và phẫn khích lớn trong binh sĩ, ra sức lôi kéo họ nhập cùng bà con đấu tranh vạch mặt Mỹ - Diệm, làm dữ với tụi chỉ huy hành quân, qua đó mà đánh sụp hẳn tinh thần chiến đấu của tất cả bọn quân lính hiện ở trên Hòn, đẩy chúng tới mức rệu rã không thể be đắp lại được... Chị Hai Thép nói:
- Chắc phải cho tụi lính tới nhìn mặt cái thây mới được!
- Thím liệu sao cho ổn đó thì làm. Phải sắp đặt cho êm, kẻo tụi nó giựt lại cái thây!
- Tôi sẽ sắp đặt thiệt êm. Báo anh biết, lúc tôi chạy về đây, dọc đường đã thấy tụi nó hùng hùng hổ hổ kéo đi lấp hang. Nghe đâu chính thằng thiếu tá cầm đầu làm vụ đó...
- Được rồi, thím cứ đi lo chuyện này. Không dễ gì lấp hang được đâu. Nếu phát triển đấu tranh kịp thời, thằng thiếu tá đó sẽ bị lôi lưng về cho coi! Trước khi đi, chị Hai Thép còn chạy lại bếp gọn gàng nhấc nồi cơm đem lại, đưa xuống cho anh Tám:
- Cơm sáng tôi nấu rồi đây, anh để dưới mà ăn. Trọn ngày nay chắc tôi búi lắm không về được.
- Thím ăn cơm chưa?
- Cơm nước gì nữa anh. Thôi tôi đi. Anh Tám ở nhà cũng chú ý coi chừng, hễ nghe ám hiệu trật, anh đừng mở hầm lên nghe!
Quả như lời chị Hai Thép vừa nói, từ sáng sớm thằng thiếu tá Sằng đích thân chỉ huy tấn công lấp hang. Thực ra hắn cũng chẳng xông vô. Hắn ngồi ở bên mé ngoài, chỉ huy bọn lính diễn tấn tuồng phóng qua phóng lại trước miệng hang để liệng lựu đạn. Rủi thay, hai thằng lính đầu tiên ngã vật xuống ngay vì súng trong hang bắn xổ ra. Và bốn trái lựu đạn MK3 trong tay chúng nổ tung, làm cho bốn thằng lính ấy ngã quay lơ. Tên thiếu tá ngồi cách đó mười thước bị mảnh lựu đạn văng chạt, cướp nguyên cái chỏm mũ ba rèm đang đội. Thành ra cái đầu trống lốc. Bọn lính nằm thụp sau những bao xi - măng, nhấp nhổm không dám chạy vọt ngang nữa. Tên thiếu tá Sằng đưa tay sờ sờ chỏm tóc. Hoàn hồn lại, hắn vung cây gậy giục bọn lính tiếp tục tấn công. Rồi hắn lại nằm xoài xuống cỏ. Lần này bọn lính liệng vô hang được năm sáu trái. Lựu đạn nổ như bưng đất lên. Khói bốc mù mịt. Lợi dụng sự áp đảo đó, chúng bắt đầu vọt ngang như thoi, liệng thêm lựu đạn tới tấp. Lần này tiếng súng trong hang im bặt. Chỉ độc có tiếng lựu đạn nổ, kéo dài tới bốn năm phút. Tên thiếu tá nhổm lên, quơ gậy la:
- Tấn vô mau! Bọn lính liều mạng nhào vô miệng hang đầy khói. Chẳng thấy chúng đâu nữa. Chỉ nghe hàng loạt tôm - xông của chúng quét lia lịa trong đó. Như lần trước, anh em đã rời ngõ hang ngoài để tránh lựu đạn nổ dồn dập. Sáu tên giặc tràn vào chiếm ngay được ngõ hang ấy. Chúng ở đó bắn xỉa vào, không lui mà cũng không tiến. Cả hai phía đều không cho phép chúng tiến thoái. Bên trong bắn ra đã đành, nhưng nay bên ngoài bọn ác ôn cũng chĩa súng thúc đít chúng. Theo lệnh tên thiếu tá, bọn lính ở ngoài xách thuổng đào móng và xốc xáo chuyển gạch đến để bịt kín miệng hang. Chúng xếp gạch vội vã. Trong tiếng súng nổ tằng tặc, tường gạch ba lớp mỗi lúc một chất cao. Bỗng bọn lính trong ngõ hang chạy nhào ra, xô bừa lớp tường mới chất đó. Tên thiếu tá vung gậy đập túi bụi vào bọn này. Hắn ra lệnh một mặt tung lựu đạn vào trong, một mặt xếp gạch lại.
Nghe lựu đạn vẫn còn nổ, anh em nín im trong các ngách. Cuối cùng miệng hang bị lấp kín. Bọn giặc trát xi măng lên. Song các kẽ hở hai bên rất khó trát. Thấy rơm hôm đốt hang còn vương vãi bên ngoài, chúng vơ guộn lại trám chặt các kẽ rồi trát xi - măng lên. Muốn chắc hơn, chúng còn hè hụi xếp thêm mấy lớp gạch nữa. Bỗng giữa lúc đó, tên Sanh, thiếu úy tâm lý chiến từ trong xóm chạy ra thở hổn hển báo cáo với tên thiếu tá:
- Thiếu tá ơi, lính nó làm loạn lên ở trong... Nguy lắm! Tên thiếu tá hỏi giật:
- Cái gì? Lính làm sao? Hả, hả?
- Thưa... thưa...
- Nói mẹ ra đi, thưa thưa cái gì!
- Thưa thiếu tá, không biết dân chúng họ vớt đâu ngoài biển một cái thây lính. Tên thiếu tá giật mình:
- Thây lính à?
- Dạ, lính... lính chủ lực... Họ... họ vác vô xóm, bêu từ đầu xóm tới cuối xóm. Lính ùa ra coi. Tụi ở đại đội ba nhận ra là thằng Sáu Hơn. Tụi nó nói chiều hôm kia thằng Hơn bị thương được trực thăng chở đi cớ sao bữa nay lại chết giạt ngoài biển. Tụi nó la rùm lên, bảo là số bị thương hôm kia vậy là bị trực thăng chở đi liệng xuống biển hết rồi... Tên thiếu tá tái mặt:
- Anh ngó thấy cái xác không? Có đúng là thằng Hơn nào đó ở đại đội ba không?
- Có ngó thấy, đúng... đúng là thằng Hơn ở đại đội ba... kỳ quá!... Tên thiếu tá lấm lét liếc nhìn chỗ khác:
- Rồi sao nữa?
- Dạ tụi lính các đại đội khác thảy đều la ó chửi rủa... Tụi nó chửi ba thằng Mỹ đem anh em liệng biển, nếu không liệng biển sao thằng Sáu Hơn trôi giạt vô nò...
- Trôi vô nò à?
- Dạ trôi vô nò. Thằng cha coi nò vớt được... à quên thiếu tá đã hay tin bốn thằng bảo an bỏ trốn đêm qua chưa?
- Chưa, lại có vụ đó nữa sao?
- Dạ, bốn thằng trốn mất, không biết đi đâu!
- Đ. mẹ, chó đẻ quá!
- Thưa thiếu tá, về vụ cái thây lính Hơn, tụi lính nó làm dữ lắm. Có thằng châm lửa đốt tăng. Một số vụt súng xuống suối nhập với dân chúng đi biểu tình... Tên thiếu tá nghiêng bộ mặt đầy mụn, lắng nghe và nói:
- Đó... Tụi nó đương la ì ì đó, thiếu tá không nghe sao? Thiếu tá Sằng không đáp, hắn xây lại bảo tên trung úy công binh:
- ạng Tự, ông ở đây đốc thúc lấp thêm gạch cho chắc nghe! Đoạn xây qua tên thiếu úy, hắn quơ gậy:
- Đi, tôi với anh về trỏng coi sao? Tên thiếu úy quày quả đi trước. Thiếu tá Sằng bước theo sau, lo lắng hỏi:
- Thằng cha giữ nò vác cái xác đó vô xóm hả?
- Nhiều người vác chớ không riêng gì thằng chả...
- Lúc đó anh ở đâu mà không ngăn tụi nó lại, hả?
- Thưa thiếu tá, tụi nó đem vô hồi nào tôi đâu có biết. Chừng biết thì vỡ lở ra hết rồi!
- Đ. mẹ, chuyện này nhứt định có bàn tay Việt cộng xúi giục!
- Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng thưa thiếu tá là ngặt có cái thây đó thiệt, chớ nếu không thì Việt cộng làm sao xúi giục được!
- Thây thể, mặt mũi còn nguyên không?
- Cũng bị tróc da chút đỉnh, nhưng ngó vô thì biết là thằng Hơn liền. Mới bắt đầu sình thôi. Gặp nước mặn nên lâu sình.
- Đ. mẹ, đánh giặc kiểu này thì Ngô tổng thống đánh cũng thua nữa chớ đừng nói gì tôi... Đánh phía trước động rần rần ở phía sau thì thắng mẹ gì được. Hồi mới xuống tôi đã nói là phải giữ kỹ đừng cho dân chúng họ dậy lên, rốt cuộc cũng giữ không nổi...
- Bây giờ cả lính cũng dậy ổ rồi... Tên thiếu tá tức giận rống lên:
- Được rồi. Thằng nào liệng súng tao xách đầu bắn bỏ. Tên thiếu úy nín im. Lát sau, đi ngang cây dừa ngã, tên thiếu tá ngó sợi dây treo chị Sứ hôm nọ còn lẳng lặng:
- Thưa thiếu tá, từ cái bữa mình chặt đầu con cán bộ tóc dài nọ thì dân tụi nó mới bắt đầu làm dữ... Đáng lẽ...
- Sao?
- Đáng lẽ mình xử chầm chậm một chút thì hay hơn. Bởi con nhỏ đó được lòng người ta ở đây lắm. Nghe đâu khắp cái Hòn này ai cũng đều yêu mến nó. Giả tỷ bữa đó mà trung úy Xăm không chặt nó thì có khi ổng chưa chết... Tên thiếu tá lắc đầu:
- Tôi không tin, con mẹ đằng Thổ đó điên mà!
- Con mẻ không điên đâu, thưa thiếu tá. Điên sao không chặt đầu người lối xóm, sao không chặt Việt cộng!
- Thì chặt con mình mới điên dữ!
Miệng nói thế, chớ bụng dạ tên thiếu tá Sằng hết sức hoang mang. Hắn ngỡ là chính tay bà Cà Xợi giết thằng Xăm và mong sao việc người đàn bà Khơ - me giết con thật sự chỉ vì điên chứ không có ý thức căm thù. Hắn không muốn nghĩ rằng đây là một sự báo thù, mặc dù hắn cảm thấy vấn đề hình như là thế. Bởi nếu mọi tội ác đều phải trả như vậy thì bản thân hắn sẽ không tránh khỏi cái chết. Hắn không lo lắm về những món nợ cũ, vì rằng hắn đã rời khỏi các vùng đất ướt máu đó. Cái hắn lo nhất là những sự việc ở đây, cụ thể việc hắn bắn chết người lính tại trường học hay việc đổ bọn lính bị thương xuống biển mà hắn đã biết từ trước và thỏa thuận để bọn Mỹ làm việc ấy. Hắn kéo lê cây ba - toong trên đầu ngọn cỏ, bụng rắp sẵn:
“Chuyện mình bắn chết lính ở trường học thì tụi lính đều biết, nhưng chuyện mình nhượng bộ để Mỹ đổ xác lính xuống biển thì tụi nó không biết. Nếu nó có hỏi, mình phải chối phăng, nói không hay biết gì cả...! Và mình phải nổi giận, phải tỏ ra uất ức:
“Tôi sẽ cùng anh em tranh đấu tới cùng. Phải vậy mới được, chớ không thì... " Hắn và tên thiếu úy Sanh lội qua suối, sang bờ bên kia. Các lều của bọn biệt kích thì có lính, còn các lều của tiểu đoàn chủ lực vắng hoe không thấy một tên lính nào. Bọn biệt kích đang dựng hai ba chục khẩu ga - răng ướt nước trước lều:
- Thưa thiếu tá, tụi đại đội ba liệng súng xuống suối anh em tôi mới mò lên đó! Thiếu tá Sằng ngó qua mấy cây súng. Bây giờ tai hắn cũng đã nghe tiếng hò reo nổi dậy rất rõ. Hắn nghĩ không thể đi ra xóm một mình, nên bảo bọn biệt kích:
- Mấy anh lấy súng đi với tôi. Đem cả "ép" theo! Bọn biệt kích vào lều lấy súng, theo tên thiếu tá tiến vô xóm. Lúc này nắng đã rọi tới thân dừa. Đoàn người khiêng anh lính chết Sáu Hơn vừa đổ qua ngã ba Sĩ Lỳ. Tên thiếu tá và lũ biệt kích mới ló ra tới đường đất thì nghe bên kia ngã quẹo vang lên tiếng chói lói của phụ nữ.
- Đả đảo bọn Mỹ - Diệm đổ anh em binh sĩ bị thương xuống biển!
- Đả đảo! Tiếng hô "đả đảo" hưởng ứng vang rền. Kế lại có tiếng la:
- Mỹ Diệm phải đền mạng cho anh em binh sĩ đã chết!
- Phải đền mạng, phải đền mạng!
Nghe tiếng gào thét dữ dội và nhác thấy bụi bốc mù ở ngã quẹo, tên Sằng thụt lui trở vô vườn. Hắn lắp bắp nói với tên thiếu úy:
- Tôi về đằng chỗ tôi, anh ở đây đón gặp họ bảo họ giải tán, kêu lính phải trở về nơi đóng quân ngay. Có yêu cầu gì cứ đưa lên tôi, tôi chuyển cấp trên giải quyết. Anh em biệt kích cứ giữ ở đây, đừng cho họ đi lung tung các chỗ khác nếu nột quá xổ vài băng "ép" để giải tán. Thôi tôi đi đây. Tên Sằng quay lưng, đi luôn vào vườn. Bọn biệt kích vừa dàn ngang mặt đường xong thì đoàn người kéo tới. Tên thiếu úy tâm lý chiến đứng ở giữa đoàn người và bọn biệt kích, giơ hai tay lên trời:
- Anh em cô bác ơi, đứng lại, đứng lại để tôi có vài lời!
- Nói cái gì, xê ra.
- Một người lính nạt.
- Thiếu tá biểu tôi...
- Biểu cái gì? Tốp bà con và anh em binh sĩ đi đầu dừng lại. Tên thiếu úy hạ giọng:
- Thiếu tá biểu bà con anh em đừng kéo đi la ó, rất hại, tụi Việt cộng sẽ thừa nước đục thả câu... Bà con anh em có yêu cầu gì xin cứ nói, thiếu tá hứa sẽ chuyển về trên để trên giải quyết. Còn anh em binh lính ở đâu phải về đó, thiếu tá không chịu trách nhiệm về hành động của anh em!
- Tụi tôi không nói chuyện với anh. Thiếu tá đâu? Mấy người lính xông lên, hùng hổ. Tên thiếu úy vừa bỏ chân bước lùi vừa nói:
- Thiếu tá... ổng ở... ở đằng nhà ngói...
- Kéo lại chỗ thiếu tá đi anh em bà con ơi! Mấy người lính la lớn, chạy sấn lên. Đoàn người ùa theo. Bây giờ có khoảng một trăm lính đi đầu, còn bà con đều đi sau. Bọn biệt kích ở mặt đường chĩa súng vào đoàn người. Vốn ghét bọn biệt kích từ lâu, anh em càng sôi sục:
- Đ. mẹ, thằng nào giỏi bắn thử coi?
Một số đông lính thuộc đại đội một còn đeo súng thấy thế liền lên đạn rốp rốp, chạy xổ tới. Họ chĩa súng vào bọn biệt kích, sẵn sàng nhả đạn. Bọn biệt kích cũng ghìm súng chĩa vào họ. Hai bên liếc nhau như kẻ địch. Ngón tay họ đều đặt lên cò súng, nín thở, căng thẳng. Giữa lúc ấy bỗng thím Ba ú vẹt đám đông đi tới. Thím bình tĩnh đến trước mặt bọn biệt kích, đưa bàn tay phủi nhẹ một cái vào khoảng không, lấy giọng ôn tồn bày giải với cả đôi bên:
- Thôi mà... mấy cậu có thù oán gì với nhau đâu mà hầm hừ đòi bắn lẫn nhau! Mấy cậu bắn nhau thì cũng là người mình đổ máu, ích lợi gì... Nghe lời bà con tụi tôi hạ súng xuống đi!...
Lính hai bên vẫn chưa chịu hạ súng. Thím Ba ú đưa tay nhẹ nhàng đè mũi súng của hai người lính chủ lực đứng bên cạnh. Và thím nói với bọn biệt kích:
- Mấy cậu à, bà con với anh em đây đâu có làm gì mấy cậu. Chẳng qua Mỹ nó dã man liệng lính Việt Nam mình xuống biển, nên bà con anh em mới tranh đấu... Mấy cậu nghĩ coi anh em đi lính bị thương nó nhắm không xài được nó vứt bỏ cho gió dập sóng dồi, cho cá rỉa quạ ăn thế đó... theo như mấy cậu bị vậy, mấy cậu chịu nổi không?... Bọn biệt kích nín thinh. Thím Ba ú lại nói tiếp:
- Xưa nay loài cầm thú nó còn biết thương nhau nữa là con người... Tụi Mỹ nó không bằng con thú, nó đâu có thương gì anh em. Phải thương thì nó chẳng liệng xuống biển. Đây là bà con mới vớt được có một xác, chớ còn bao nhiêu cậu lính giờ không biết bị sóng xô gió đẩy nơi nao, không chừng đã làm mồi cho cá mập cá mú hết rồi cũng nên... Miệng nói, tay thím Ba khoát đè các mũi súng của lính chủ lực. Giọng nói khi cất cao, khi hạ thấp, khi ngọt ngào, khi tức giận của thím Ba làm cho các mũi súng đôi bên lần lượt chúc xuống đất hết. Tên chỉ huy cánh biệt kích lườm thím Ba:
- Thôi bà nội ơi, tụi tôi đâu có ngu. Dạy đời hoài! Thím Ba vùng cười, xởi lởi:
- Tôi đờn bà dốt nát thấy sao nói vậy, chớ đâu dám dạy đời. Mấy cậu mới thông hiểu hơn tôi nhiều chớ! Nói chưa dứt câu, thím đi sấn đến. Lính chủ lực và bà con ùa theo. Có cả bóng mẹ Sáu cầm khăn trầu đỏ chạy tới. Mớ tóc bạc của mẹ bời lên. Bọn biệt kích xuôi xị giạt qua. Thím Ba loáng thoáng nghe chúng bảo nhau:
- Con mẹ mập này lanh quá, cái lưỡi của nó nói dẻo quẹo! Thím Ba giả điếc, lịch phịch đi tới. Bọn biệt kích lạt sang ngồi hai bên mé vườn, để mặc đoàn người kéo qua. Cái thây người lính được đặt trên chiếc cáng lót vải tre, do hai anh lính và hai người đàn ông khiêng. Chú Tư Râu cũng ở trong tốp khiêng thây, mới được thay; chú vừa đi vừa thở phía sau. Thây người lính giờ cũng nằm giống lúc anh ta mới được chú Tư vớt lên xuồng. Hai cánh tay anh vẫn co co như thế. Đôi mắt cũng vẫn he hé, duy có da mặt của anh thì xám hẳn lại và mớ tóc lật ngược ra sau của anh trông khô cứng, xửng lên, rắc một lớp bụi hoe hoe. Tiếng phụ nữ bây giờ lại lanh lảnh thét lên:
- Đả đảo Mỹ - Diệm đổ anh em binh sĩ bị thương xuống biển! Đoàn người hô "đả đảo" vang trời.
- Mỹ - Diệm phải đền mạng cho anh em binh sĩ đã chết!
- Phải đền mạng! Phải đền mạng!
Anh em binh sĩ lại hô lẩy ra từng tiếng một:
- Chúng tôi không đi càn quét!
- Chúng tôi không đi càn quét! Đoàn người kéo tới trước cái nhà nền đúc
- tên thiếu tá Sằng ở. Anh em lính chủ lực nói với bọn lính gác đứng dọc theo các trụ đá hàng rào:
- Tụi bây vô kêu thiếu tá ra đây cho anh em cô bác nói chuyện coi! Một tên lính đáp:
- Thiếu tá đi đánh trong hang chưa về!
- Đ. mẹ, nói láo hả? Tụi tao biết thiếu tá có nhà, đi vô kêu không? Mấy người lính chủ lực vừa nói vừa xốc mũi súng tới. Bọn lính gác nói:
- Thôi mà, anh em với nhau mà làm gì dữ vậy?
- Nếu muốn còn là anh em thì vô kêu thiếu tá ra, bằng không thì chẳng còn anh em gì hết! Bọn lính nháy mắt vào phía trong nhà, xuống giọng nhỏ:
- ổng mới về, ở trong é... Nhưng ổng dặn tụi tôi nói là ổng chưa về...
- Cứ vô kêu đi! Một tên lính khẽ bảo:
- Mấy cha "đả" vài phát súng... cho tụi tôi có cớ vô kêu, kẻo sau này ổng "dộng" tụi tôi!
Một người lính chủ lực cất mũi súng ga - răng, bắn "bầm bầm" hai phát. Mấy tên lính gác vừa cười vừa chạy luồn vào trong. Anh em lính và bà con đứng đợi tên thiếu tá Sằng. Đợi khá lâu mà chẳng thấy tăm hơi hắn đâu cả. Anh em lính lại nổ thêm năm sáu phát súng tự động nữa. Lát sau, mới thấy tên thiếu tá ló đầu ra hành lang. Hắn cầm cây gậy quơ quơ, từ từ bước ra cổng. Hắn lấy dáng đi rất oai vệ, hai vai cứ nhích lên nhích xuống. Đến trước mặt anh em lính, hắn quắc mắt nhìn anh em, vẻ trấn áp. Chị Hai Thép đứng giữa đám bà con nhóng lên thấy thế liền lập tức hô các khẩu hiệu. Tiếng thét của đoàn người lại vang lên. Tên thiếu tá hơi chùn lại, không dám giương mắt hăm dọa nữa. Bà con khiêng cái cáng đặt người lính chết, phăng phăng đi tới. Tên thiếu tá khoát khoát tay:
- Thôi khỏi, thôi khỏi... Tôi biết hết rồi, tôi có nghe nói... Thím Ba ú chống nạnh tay nơi sườn, cười lại:
- ờ, thì nhất định là ông phải biết chớ. Lẽ nào tụi Mỹ nó làm mà không bàn soạn với ông! Tên Sằng hốt hoảng chối lia:
- Không, không... tôi mới biết đây thôi, trước đó tôi chớ có biết.
Tụi Mỹ nó làm nó đâu cho ai hay... Tôi, tôi cũng tức lắm... tôi sẽ cùng tranh đấu với anh em cô bác, lính của tôi, tôi đau xót lắm chớ!... Trong hàng lính, có tiếng xì xào to nhỏ. Một người lính vụt nói:
- Nhứt định vụ này ông có bàn tính với tụi Mỹ. ạng mà đau xót mẹ gì. Trước khi tụi Mỹ chở anh em đi vứt xuống biển thì ông đã bắn chết một người rồi... Vậy nên anh em tụi tôi đây không thể đi với mấy ông nữa, nếu đi cũng có ngày thành thằng chỏng. Tụi tôi cương quyết trả súng về nhà làm ăn...
- Không được!
- Tên Sằng kêu lên
- Anh em đừng làm vậy. Tôi, tôi sẽ cùng anh em ký tên kiến nghị gởi lên trên.
- Ký thì ký, nhưng tụi tôi cũng không ở!
- Trời ơi, anh em đừng mắc mớp mấy con mẹ đờn bà. Chúng ta đang đánh Việt cộng, chúng ta sắp tiêu diệt tụi nó... Anh em lính la át:
- Chúng tôi không cần đánh... ạng muốn tiêu diệt thì cứ ở lại đây mà tiêu diệt. Tên thiếu tá Sằng vụt đưa hai tay lên như rán sức trì níu lại cái gì vừa vuột khỏi:
- Tụi Việt cộng đang chết nghẹt trong hang. Tôi đã cho lấp kín miệng hang lại rồ... ồi!
5
Sau khi lựu đạn ngừng nổ một lúc, anh em trở ra hang. Họ phải mò mẫm lần vách đá mà đi, không còn thấy một rọi sáng nào từ ngoài hất vào miệng hang. Đạt kêu lên:
- ủa, sao tối đen vậy kìa! Quyên và Ngạn cũng kêu:
- ờ, sao kỳ vậy? Đạt vung cánh tay cản mọi người lại:
- Mấy anh đứng đây, khoan đi tới, để em ra dọ coi! Mọi người dừng lại. Đạt thụp xuống, một tay cậu ta xách khẩu cạc - bin đã lên đạn, một tay quơ quơ, bò tới. Đạt bò rất chậm. Vẫn không thấy gì cả. Mãi một lát sau, thình lình tay cậu ta quơ phải tấm tường bọn giặc ngăn trước mặt. Đạt sờ khắp mặt tường. Tay cậu ta rờ rờ, nhận ra hình thù những viên gạch và các chỗ kẽ còn bưa vừa xi - măng ướt. Đạt chỏi tay rán sức xô thử bức tường, nhưng bức tường không nhúc nhích. Cậu ta sợ quá, lẩm bẩm:
- Chết rồi, nó hàn miệng hang lại rồi! Cậu vội vàng đi trở vào, kêu:
- Mấy anh ơi!
- Sao đó?
- Tụi nó lấp kín miệng hang rồi!
- Cái gì, lấp miệng hang à?
- Dạ, nó lấp bằng gạch, em rờ thấy. Anh Hai Thép xô tới:
- Sao, nó lấp miệng hang hả. Cha chả, lúc nãy nó liệng lựu đạn để lấp. Vậy thì cũng mới thôi, đâu mình ra coi. Có gì thì phải phá sớm, để lâu sẽ khó khăn. Ngạn bảo:
- Anh ở đây, để tụi tôi ra! Ngạn cùng Quyên, anh Ba Rèn theo Đạt mò ra. Tới nơi, mọi người sờ soạng thấy quả có bức tường đúng như lời Đạt nói. Anh Ba Rèn bàn:
- Phải phá liền mới đặng, để lâu xi - măng nó cứng lại thì chết cha!
- ờ, nếu để vậy thiếu không khí thở, chết ngột oan lắm. Nhưng tôi thấy không cần phá hết có lẽ mình moi gạch để trống vài lỗ thôi. Như vậy rất có lợi mình vừa có công sự che chở vừa có lỗ châu mai chĩa súng bắn ra!
- Hay lắm! Đạt hớn hở:
- Để em moi cho! Cậu ta nói xong, bắt đầu dùng ngón tay khượi xi - măng, rồi rút viên gạch. Xi - măng còn ướt nên gạch rút ra không khó mấy. Ngạn rờ coi chỗ Đạt đang moi, rồi anh cũng moi thêm lỗ khác cạnh đó. Đạt moi trước Ngạn, nên lát sau cậu ta rút được viên gạch ngoài cùng. ánh sáng liền hắt vô, Đạt thì thào:
- Tới rồi! Giữa lúc ấy bỗng một loạt súng nổ vang. Đạt kêu "ới" một tiếng. Người cậu ta bỗng từ từ trụt xuống đổ vào chân Ngạn. Ngạn rụt tay lại, cúi xuống ôm xốc lấy Đạt. Tay anh rờ vuốt nhằm mặt Đạt đầm đìa những máu. Anh gọi:
- Đạt, Đạt! Nhưng Đạt không đáp. Ngạn thọc tay vào ngực áo Đạt. Tim cậu ta không còn đập nữa. Ngạn đau đớn nín lặng. Bọn địch vẫn liên tiếp bắn vào cái lỗ của Đạt vừa moi. Giữa tiếng súng chát chúa ấy, Ngạn vụt nghe văng vẳng câu Đạt nói với anh hôm trước:
- Em khoái ăn gỏi đu đủ trộn tôm xé lắm. Lần nào về, ngoại em cũng làm cho em ăn "đã" thôi! ... Quyên đứng nép bên cái lỗ, lặng người đi vì đau đớn. Cô quờ kiếm khẩu cạc - bin của Đạt cầm lên, coi lại ổ đạn. Không nói một lời, cô nín thở đứng im. Đợt loạt súng địch vừa bắn dứt, cô bước nhích qua, ghé mắt nhìn vào lỗ. Quyên nhìn thấy rõ một thằng giặc đang còn nhấc khẩu tôm - xông đâm băng. Quyên lập tức chĩa mũi súng vào lỗ gạch, bóp cò. Phát súng nổ "đoàng". Một tiếng kêu "trời ơi" vẳng lên, từ bên ngoài. Quyên thu súng ngay về, đứng nép nguyên lại chỗ cũ. Không nghe một loạt tôm - xông nào bắn vào nữa, cô tự nhủ:
“Thằng đó chết rồi. Chắc sẽ có thằng khác tới thay. " Quả vậy, lát sau nổi lên tiếng ga - răng nhịp "bầm bầm". Gạch bể tung tóe. Quyên nghĩ bụng:
“Đợi nó bắn hết lam đạn, mình nổ liền, nhứt định là nó phải chết! " Quyên đếm từng phát ga - răng một. Đếm tới phát thứ tám Quyên lách sang. Y như lúc nãy, cô chĩa súng qua lỗ gạch bắn liền một phát. Tiếng bọn giặc ở ngoài vùng la lên, láo nháo. Sau đó Quyên không nghe chi hết. Cả tiếng súng cũng nín bặt. Anh Ba Rèn nói:
- út Quyên giỏi lắm. Cái thằng bắn tự động đó chắc chết rồi! Quyên không đáp, lẳng lặng khoác đai súng lên vai cúi xuống ẩy nhẹ tay Ngạn ra, giành ôm lấy xác Đạt còn nóng hôi hổi, ấp vào lòng mình, vuốt tóc, vuốt máu. Rồi cô bồng Đạt từ từ đứng lên, đi vào hang trong. Anh Ba Rèn sửng sốt nói với Ngạn:
- Nè, con út Quyên bữa nay bắn hai phát súng kỳ quá! Tôi không ngờ, thiệt không ngờ...
- Nhắm có chết thằng nào không?
- Ngạn hỏi.
- Chết chứ, hai thằng đó chắc chắn chết. Bắn kiểu đó thì thằng nào mà tránh khỏi. Ngạn thở ra:
- Mình chủ quan quá, không dè tụi nó còn nấp ở ngoài!
- ừ, bậy quá!
- Bây giờ tính sao anh?
- Thôi, đừng nói nữa. Moi một lỗ đủ rồi... Không chết ngột đâu mà sợ. Kệ mẹ nó, nó lấp như vậy cũng không ăn thua gì đâu!
- Ngặt mình không lọt được ra ngoài đây chớ!
- Để êm êm nó rút vô vườn rồi mình phá, lo gì. Phá vừa một người chui lọt thôi!
- ừ... Thôi vô trong đi! Hai người lần vào trong hang. Anh em đang ngồi xúm quanh xác Đạt vừa được đặt nằm trên tấm vải nhựa trải đất. Năm Nhớ quỳ một gối, cầm cây nến cháy. Cạnh đó, thằng út quàng tay ôm cổ con bé Thúy đứng ngó. Anh Hai Thép xếp bằng sát bên, mắt mở trân trân nhìn bộ mặt đã lau sạch máu của Đạt. Ngay giữa trán cậu ta in rõ ba lỗ đạn tôm - xông bằng đầu ngón tay, dụm vào nhau, nhòe máu. Quyên nãy giờ vẫn ngồi bết dưới đất tay luôn vuốt đôi chân đen mốc của Đạt. Anh Hai Thép cắn môi nói:
- Chiến đấu mà chết là chuyện thường, không nói chi. Ngặt sau đây gặp bà ngoại nó mới khổ. Biết nói sao cho ngoại nó nguôi ngoai. Bà cụ chỉ có một mình nó bà cưng nó lắm! Chú Tư Nghiệp chắc lưỡi:
- Tiếc quá. Tui chưa thấy chú em nào bảnh như vậy? Từ bữa vô trong hang tới nay, tự tay chú em đó bắn chết ngó thấy tận mắt là sáu thằng. Cái hôm khát nước dữ, chú em cũng cứ giỡn hoài, không hé miệng than tiếng nào... Anh Hai Thép nói nho nhỏ:
- Xương cốt của ba nó giờ cũng ở trong hang đây. Cả cha lẫn con đều hy sinh... Chú Tư Nghiệp nói giọng nghiêm trang:
- Để... Để tối nay tôi tụng một bài kinh cho linh hồn chú em được thung thăng như thuở chú em còn sống.
- Không cần
- Anh Ba Rèn nói.
- Nên lựa một bộ quần áo khá nhứt bận cho chú, rồi chọn tấm "ni - lông" nào rộng và lành lặn nhứt để gói ghém chú là được rồi! Quyên nghẹn ngào nói gấp:
- Để em... để em lo! Anh Hai Thép trỏ vào vách hang:
- Cái ba - lô Đạt để ở kia, út Quyên soạn coi có bộ nào lành lặn đem bận cho chú. Năm Nhớ cầm cây nến đứng lên:
- Thôi mấy anh cứ lo ngoài miệng hang, để tụi em lo gói ghém cho Đạt. Quyên cũng đứng lên theo. Hai chị em đi vào vách hang. Năm Nhớ soi nến cho Quyên mò kiếm ba - lô của Đạt. Quyên lôi từ trong hốc vách đá ra một cái ba - lô nhỏ như cái túi dết may bằng tơ càng nhuộm màu già. Quyên sờ sờ làn tơ thô sợi, rưng rưng nghĩ bụng:
“Chắc của ngoại nó dệt" cô mở nắp ba - lô, lôi ra một cái gói vuông vức bọc vải nhựa rất kỹ. Trong gói vải nhựa ấy ngoài bộ quân phục vải bồng bột xám tro còn có một bộ bà ba đen đã vá và một quyển sổ nhỏ. Quyên lật quyển sổ. Trang đầu dán bức ảnh Hồ Chủ tịch, bên dưới có dòng chữ viết nắn nót:
“Bác Hồ". Quyên lấy bộ quân phục rồi gói cái gói lại, đút trả vào ba - lô. Bỗng tay Quyên chạm phải vật gì cồm cộm dưới đáy ba - lô. Cô lôi vật ấy lên. Hóa ra là một cái nạng giàn thun bằng gỗ cẩm lai đen mun. Quyên cầm cái nạng giàn thun lên coi rồi thơ thẩn nhét vào. Hai cô rời hốc đá đi trở lại bên xác Đạt. Mọi người đã kéo ra miệng hang. Chỉ còn lại thằng út ôm con Thúy lặng lẽ đứng bên. Quyên bảo chúng:
- Thôi mấy đứa vô trong chỗ anh Thẩm với anh Bé chơi đi!
- Thằng út "dạ". Con Thúy nói nhõng nhẽo:
- Anh út cõng em... Thằng út vốn cưng con Thúy nên nó khom lưng cho con Thúy leo lên, cõng xốc đi. Con mực ngoe nguẩy đuôi chạy theo hai đứa. Năm Nhớ trao cây nến cho Quyên nói:
- Để tao đi lấy cái khăn rấp nước lau cho Đạt rồi hẵng bận quần áo. Quyên gật đầu. Trong lúc Năm Nhớ chạy đi, Quyên cầm cây nến cúi xuống. Cô đăm đăm nhìn ba vết đạn ở giữa trán Đạt, dịu dàng đặt ngón tay lên đó. Nghĩ tới hai phát súng bắn trả ban nãy, lòng cô bớt nặng nề đôi chút. Rõ ràng Quyên nghe tụi nó kêu "Trời ơi! ". Đúng là cái thằng đã giết Đạt. Nghĩ lại, Quyên mới thấy nguy hiểm. Nếu chậm một chút rất có thể cô cũng bị những viên đạn 12 ly xuyên thẳng trán hệt như Đạt và rồi cô cũng nằm đây, đợi mọi người gói lại. Nhưng đó là bây giờ cô mới nghĩ ra, chớ lúc nãy cô chẳng nghĩ thế. Lúc nãy trước mắt cô chỉ là Đạt ngã xuống, là chị Sứ bị treo lủng lẳng, là cái lu mái chứa đầy xương trắng. Và không có gì len vào ngoài cái ý muốn trả thù đã giục cô vồ lấy khẩu cạc - bin, bắn ra. Lúc đó cô chỉ có mỗi ý nghĩ là mình bắn trúng, phải trúng.
... Năm Nhớ trở lại với cái khăn sọc đen đã rấp nước. Quyên cùng Năm Nhớ tháo cúc áo Đạt, cởi hết quần áo Đạt ra. Không chút e ngại, hai cô lau khắp người Đạt, cẩn thận và trìu mến như lau tắm cho đứa em trai ruột của mình. Bàn tay của hai cô gái dịu dàng vuốt sạch máu, bụi và mồ hôi suốt bảy ngày nay không ngừng tuôn chảy trên người Đạt. Các ngón tay của hai cô có lúc run rẩy lặng đi trên tấm thân nâu rám ấy. Hai cô bắt đầu mặc cho Đạt bộ quân phục màu tro giản dị, bộ quần áo mà khi còn sống cậu ta hằng ưa thích. Quyên vuốt các nếp nhăn trên tay áo, cổ áo Đạt. Lúc hai cô sắp sửa bọc Đạt vào vải nhựa thì Ngạn từ ngoài miệng hang đi vô.
Anh bước tới ôm lấy xác Đạt, nhìn Đạt một lúc... Rồi chầm chậm quỳ xuống nhẹ đặt cậu lên tấm vải nhựa màu hồng nhạt trong suốt. Ngạn cúi bế Đạt lên. Quyên và Năm Nhớ đi theo anh... Tới một phiến đá phẳng mặt, Ngạn đặt Đạt nằm lên đó. Anh đứng im một lúc, đoạn ngước cặp mắt đỏ hoe bảo Quyên và Năm Nhớ:
- Thôi đi ra hang đi! Ba người ra tới ngoài hang thì anh em hãy còn hì hục, chọc phá miệng hang. Ai cũng nhất trí nên phá vừa để một người chui lọt thôi. Xi - măng còn ướt, nên anh em tháo gạch ra cũng dễ. Lần này, kinh nghiệm hơn, anh em vừa phá lớp gạch chót thì dừng lại, nghe ngóng. Anh Ba Rèn cởi áo ra đưa Ngạn cầm giùm:
- Thôi anh em xê ra, không cần moi nữa, để tôi đạp một cái là đổ hết...
- Coi chừng tụi nó rình như lúc nẫy nữa đó!
- Không sao! Anh Ba Rèn khom lưng chui vào lỗ. Anh mầy mò trong đó một chốc, rồi bất thình lình anh chỏi cẳng đạp mạnh một cái. Lớp tường vừa đổ nhào, anh bò thoắt vào hang, xô mọi người nép qua bên. Quả nhiên khi mọi người vừa nép vào các hốc đá thì bọn lính bắn xối vào chỗ tường vừa bị phá trống. Anh Ba Rèn cười ha hả. Bọn địch bắn một lúc thì ngừng không bắn nữa. Anh Ba Rèn đắc chí:
- Anh em thấy chưa, rút cuộc thì gà ai nấy bồng, ăn thua mẹ gì! Anh Hai Thép nói:
- Hồi nãy mình chủ quan thành ra chú Đạt mới hy sinh chớ thiệt ra nó lấp hang kiểu này càng hại cho nó!
- Bây giờ tổ trực cứ ngồi đây rình, hễ thằng nào chun vô là nện, không thèm bắn nữa!
- Hay lắm, cũng sắp hết đạn rồi! Cái giọng khàn khàn của chú Tư Nghiệp cất lên:
- Nói không phải mê tín chớ kéo ngay ra thì trời phật có độ mình đó mấy cha. Không độ sao lúc hết nước, cháy khô cổ thì ổng mưa cho một trận. Còn bây giờ hết đạn, ổng lại xui khiến tụi giặc đắp công sự giùm mình... Anh em nghe chú Tư nói đều phì cười. Anh Hai Thép thấy anh em có mặt ở đây gần đủ nên nói:
- Anh em mình phải cảnh giác hơn. Kiểm lại bẩy bữa nay tụi nó đã giở đủ trò ác hiểm, nào là tập trung tấn công bằng lựu đạn, nào là bỏ thuốc độc xuống suối, rồi xông khói ớt, chiếu phim tác động, lấp hang... Sắp tới coi chừng nó dở thêm âm mưu mới, độc ác hơn. Rất có thể nó xịt chất độc hóa học vô hang, hoặc đánh thuốc nổ hoặc gì gì đó... Anh dừng lại một giây, rồi nói tiếp:
- Nói để đề phòng chớ xịt chất độc hoá học thì mình rút vô sâu không dễ gì nó xịt tới, còn đánh chất nổ thì đại khái như liệng một ngàn trái MK3 thôi. Tới bữa nay tính ra đã bảy đến tám ngày rồi, mình hy sinh hai, bị thương hai, tụi nó chết và bị thương cho ít gì cũng cỡ một trăm. Mình cũng mệt nhưng tinh thần đều vững, tụi nó thối chí lắm rồi. Bây giờ chính là lúc mình phải kiên trì. Giỏi lắm nó rán thêm năm hôm nữa rồi cũng phải bỏ cuộc. Tình hình đấu tranh cả tỉnh bây giờ không cho phép nó giam quân ở một nơi nào quá nửa tháng đâu, nhứt là với số quân nay đã lên tới một ngàn rưởi. Hồi đêm tôi nghe đài tụi nó đưa tin mình đang đánh các bót miệt Thứ. Chú Tư gật đầu:
- Hay quá, nhứt định mấy chỗ khác mình đâu để nó yên! Quyên có ý kiến:
- Báo cáo các anh số gạo dự trữ vậy là hết rồi. Chỉ còn hai chục lít Cà Mỵ đem vô bữa nọ. Mấy em đề nghị từ giờ trở đi mỗi người chỉ ăn một lon trong ngày.
- Hai chục lít... Cho mười chín người
- Anh Hai Thép lẩm bẩm.
- Nếu ăn một lon thì chịu được ba ngày. Gay đấy, nhưng thôi cứ tạm thời như thế cái đã... để cho tăng cường đi bẻ dừa, bẻ mít... Ngạn nói:
- Bẻ dừa thì may ra, chớ bẻ mít không được. Hôm nọ tụi tôi cũng tính vô kiếm mít chín, nhưng vô chưa tới đã đụng. Tụi nó đóng dày nghẹt, không vô được! Anh Hai Thép suy nghĩ rồi bảo:
- Chuyện đó để rồi coi coi... nhứt định phải tìm cách lỏn ra hái mít ăn chứ chẳng lẽ khoanh tay chịu chết đói? Nói tới đây, anh Hai Thép hít hít mũi, cười:
- Không biết mấy ông có nghe mùi mít chín bay vô không, chớ tôi nghe tôi thèm quá! Anh Ba Rèn thụi anh Hai Thép:
- Thôi đi ông, làm gì mà mùi mít bay vô tới đây? Anh Hai Thép cười cười, hỏi thêm anh em:
- Còn có vụ gì nữa không... Anh em bị thương có gì đáng ngại không? Năm Nhớ đáp:
- Vết thương của em Bé và anh Thẩm có đỡ dần. Nhưng em khổ quá... Ngạn lo lắng hỏi:
- Sao, cái gì khổ? Năm Nhớ?
- Anh Thẩm ảnh cứ than vãn là chưa chi đã bị thương làm cực anh em. Mỗi lần tụi nó tấn công ảnh cứ nhấp nhỏm níu kéo đòi em phải dìu ảnh ra ngoài này để chiến đấu. Em không chịu, sau đó ảnh giận em cả buổi... Ngạn cười:
- Tưởng gì chớ chuyện đó không sao... Với vết thương ấy, kể ra Thẩm có thể chiến đấu được. Nhưng chưa cần, chúng ta chưa hết người. Để tôi nói với Thẩm. Nói tới đây, chợt Ngạn ngước nhìn Quyên hỏi:
- à, còn vợ chồng Ba Phi nó ra sao?
- Em vẫn tới đó phát gạo rang và nước. Lần nào mụ vợ cũng khóc. Hôm qua, lúc em vào, mụ ta vùng khóc rống lên rồi sụp xuống dập dập đầu dưới chân em, nói hổn ha hổn hển:
- "Đừng giết vợ chồng tôi, tôi xin ăn năn, từ nay tôi không dám làm điều gì quấy nữa... " Em mới bảo:
- "Thôi đừng có khóc... " Mụ ta hứa hẹn thề bồi là sẽ ăn năn hối cải, mụ nói:
- "Vợ chồng tôi mà còn làm quấy nữa thì vợ chồng tôi chết không phải động tay... ". Rồi mụ kêu xin được mở trói, em không mở... Anh Hai Thép nói:
- Chưa mở trói được đâu... Thôi nghe, bây giờ còn có gì mình tiếp tục giải quyết sau. Tổ nào gác hang ở lại gác, còn anh em vô nghỉ ngơi lấy sức... Anh Ba Rèn dõng dạc hô:
- Tổ Ba Rèn ở lại nghe! Lúc Ngạn sắp đi vào hang, bỗng anh Ba Rèn bước tới, chụp tay anh đặt lên cây dầu vuông cạnh anh đang cầm:
- Chú coi cây này ngon không! Thằng nào cả gan thò đầu vô, tôi xáng cho một cây là chết tốt! Ngạn cầm cây dầu vuông lên nâng nâng trong tay, gật gù:
- Cây này cầm nặng tay, đập rất sướng. ạng kiếm được ở đâu hay quá! Ba Rèn đắc ý cười khin khít, không đáp.
6
Bữa nay đã hai mươi tháng chạp ta rồi... Còn có chục này nữa là Tết... Tên thiếu tá Sằng nằm ngửa trên chiếc võng đan bằng dây dù, miệng lẩm nhẩm như thế. Chiều đã xuống. Sau một ngày tranh đấu, cả Hòn Đất như hãy còn vang tiếng thét. Trên mặt đường, bụi cũng chưa lắng xuống hết. Đó đây vẳng lên tiếng trâu nghé ngọ gọi bầy, tiếng súng nổ lẻ tẻ "bốc chát" và tiếng sóng biển đồng vọng ầm ĩ. Tên Sằng nằm giữa buổi chiều ấy, thân thể rã rời. Hắn cảm thấy không yên tâm. Hồi xế hắn buộc lòng phải ký chung vào lá đơn của những người lính đòi mở cuộc điều tra về số phận của ngót năm mươi đồng đội bị thương của họ. Sau khi đặt bút ký rồi hắn thấy nản lòng và mất nhiều tin tưởng. Cái hang Hòn có vỏn vẹn mười chín người cố thủ này chiều nay đối với hắn càng trở nên kiên cố, hóc hiểm. Nằm đây, hắn nhìn thấy đỉnh Hòn xanh rì, trơ trơ, sừng sững ra đó một cách đáng ngán. Ban trưa, giữa lúc hắn còn kỳ kèo chưa chịu ký vào lá đơn thì tên trung uý Tự trở về báo là Việt cộng đã moi được hang. Hắn bối rối, mới hạ bút ký. Chớ theo lẽ thì hắn cũng chưa chịu xuống nước đến thế. Hôm nay hắn không có được mối hy vọng như mấy hôm mới đến.
Sự cả tin đánh diệt được hang Hòn của hắn cứ theo từng ngày mà sụt thấp xuống mãi. Đây là lần đầu tiên sau sáu năm, một tên thiếu tá chí cốt như hắn lại gặp trở lực lớn như vậy. Chiều nay hắn chán nản lắm rồi. Hắn không muốn thúc lính xông vô hang nữa. Hắn chẳng thiết cái vùng đất Hòn nhiều cây trái này nữa. Cả bãi Tre mà buổi đầu đặt chân đến hắn đã tắc lưỡi khen đẹp và dự định trong thời gian ở đây hắn phải tắm mỗi ngày ít nhất một lần. Bây giờ bãi Tre với hắn chẳng có gì là đẹp đẽ nữa. Đúng vào lúc hắn nằm chán ngán nhìn cái đỉnh Hòn sừng sững như thách thức, thì ở phía sau nhà có tiếng tên giữ máy bộ đàm người Bắc léo nhéo:
- A - lô... vâng, vâng. Anh Dũng đây!... Vâng, thiếu tá... à đợi một tí nhé...
Tên Sằng nhỏm ngay dậy. Hắn hỏi tên điện báo viên người Bắc vừa ló đầu ra:
- ở đâu kêu tôi đó?
- Thưa thiếu tá, Vẻ Vang gọi. Thiếu tá Sằng liền hất võng, chạy vào. Hắn tròng vội máy vào tai, cầm lấy ống nói:
- A - lô, Vẻ Vang đâu, Vẻ Vang đâu? ... A... Vẻ Vang đó à? ... Phải... Phải... chính tôi đây...
- Giọng tên Sằng vụt trở nên cóm róm
- Dạ dạ... dạ tôi nghe... Dạ, vừa rồi tôi đã báo cáo vụ đó... Dạ không yên, khó khăn lắm.
- Đến đây vẻ mặt tên Sằng vụt sa sầm rồi lại bỗng nhiên hớn hở hẳn lên
- Dạ, dạ... trước sáng... dạ được, dạ để tôi cho đánh... dạ, dạ sẽ cho đánh ngay... Tên Sằng buông máy, mặt hớn hở. Hắn gỡ ống nghe ở tai ra, đứng dậy. Tên điện báo viên tò mò hỏi:
- Thưa thiếu tá. Vẻ Vang kêu đánh nữa đấy à? Tên Sằng vui vẻ vung nắm tay:
- Chớ sao, phải đánh tới nữa chớ sao! Bỗng hắn đặt ngón tay lên môi, ghé sát vào tai tên điện báo viên, hạ giọng:
- Nè, nói cho mình anh biết thôi... Có lịnh rút rồi! Tên điện báo viên gật đầu. Tên Sằng quay ra ngoài. Hắn bảo một tên thiếu úy:
- Anh báo cho các ban chỉ huy tiểu đoàn, đại đội cử người về họp ngay bây giờ! Tên thiếu úy đến một cái bàn kê gần đấy, quay điện thoại, gọi hết cánh quân này đến cánh quân khác, xuống lệnh triệu tập. Xong rồi, y đi đốt hai cây đèn khí đã đặt lên cái bàn ở giữa nhà. Tên thiếu tá Sằng trở lại ngồi võng, phì phèo điếu thuốc. Trời đã nhá nhem. Bấy giờ trước mắt hắn, đỉnh Hòn Đất mỗi lúc một sẫm đậm. Và đến khi bóng đêm đã thực sự đổ xuống, đỉnh Hòn vẫn không biến đi mà cứ hiện sờ sờ ra đó, khum khum như một chiếc mai rùa đen in nổi giữa nền trời đầu hôm nhuộm màu lam biếc. Hồi sau, bọn sĩ quan lục tục kéo đến. Tên thiếu tá Sằng nhổm dậy:
- Tụi lính ra sao rồi, mấy anh?
- Cánh tôi bình thường!
- ở đại đội tôi tụi nó vẫn dục dặc, chửi rủa tới tối!
- Mẹ, lính ở cánh mấy anh làm kiểu đó lây qua tới bên tôi. Tụi nó cứ bàn tán hoài!
- Thôi được!
- Tên Sằng cắt ngang, và đứng hẳn dậy. Hắn đến ngồi ở cái ghế đặt đầu bàn, gõ ngón tay lóc cóc lên mặt bàn rồi báo cho tụi sĩ quan biết cái tin rút quân. Thằng nào nghe xong cũng cố nén nỗi mừng, cố nén để khỏi thở phào ra một cái. Tên Sằng nói thêm, giọng nhỏ lại:
- Lịnh trên biểu chậm gì thì trưa mai cũng phải về tới quận Tri Tôn. Cho nên chúng ta phải rút khỏi đây trước sáu giờ sáng. Mà phải rút thiệt êm. Nhớ giữ kín, đừng cho tụi lính biết trước, nghe không? Tên Sằng dừng lại, búng khẩy tàn thuốc:
- Đó là việc chánh, còn một việc nữa rất quan trọng là trước khi rút, đêm nay chúng ta sẽ phá hang...
Bọn sĩ quan nghe nói thế liếc mắt ngó nhau. Tên Sằng biết chúng lo lắng, nên giảng giải:
- Bộ mấy anh tưởng phá banh cả hang hả? Không phải. Muốn phá banh cái hang đó phải đợi có bom nguyên tử mới phá nổi. Chúng ta hiện còn thuốc nổ hôm nọ đem xuống mà chưa xài. Đêm nay sẽ xài hết. Anh Tự đâu?
- Có tôi.
- Đêm nay anh lo điều động đem mấy bọc thuốc nổ đó vô đánh hang. Còn thiếu úy Sanh, anh cho sửa soạn loa phóng thanh. Hễ vừa đánh miệng hang là anh loan tin khắp xóm cho dân chúng họ biết!
- Thưa thiếu tá, bất kỳ kết quả ra sao, chúng ta cũng cứ loan tin? Tên Sằng nói:
- Lẽ nào với bây nhiêu thuốc nổ mà không đem lại kết quả gì hay sao? Tên trung úy công binh là Tự đáp:
- Miệng hang thì có thể phá sập. Nhưng Việt cộng nó khôn lắm, tôi e nó rút vô sâu như mấy lần trước thì cũng không ăn thua! Tên Sằng chặt bàn tay xuống mặt bàn:
- Cứ đánh cho tôi! Và hắn đứng bật dậy:
- Chúng ta cần có một tiếng vang trước khi rút khỏi chỗ này!
- Thiếu tá nói đúng, cần phải cho tụi nó biết là không phải mình yếu! Một số tên trong đám sĩ quan nguỵ hưởng ứng theo, đầy vẻ a dua. Chúng đứng dậy nói thêm vài câu chuyện với tên thiếu tá rồi lộc xộc kéo nhau ra khỏi ngôi nhà nền đúc. Tên trung úy Tự và tên thiếu úy Sanh hãy còn ở lại. Tên Tự hỏi:
- Thưa thiếu tá, chừng nào khởi sự?
- Tùy anh, khởi sự chừng nào cũng được. Nhưng có lẽ để khuya khuya, thừa lúc tụi nó mệt mỏi buồn ngủ mà đánh thì hay hơn!
- Tôi cũng tính vậy... nhưng phải cho chuyển thuốc vô sớm!
- ờ phải, anh cho chuyển vô ngay bây giờ là vừa đừng đánh sớm mà cũng đừng để trễ. Đúng năm giờ sáng là rút quân anh tính sao thì tính. Có lẽ nên đánh lối mười hai giờ. Giác đó tụi Việt cộng gác hang thế nào cũng có thằng ngủ gục... Tên trung úy nói:
- Vậy đúng mười hai giờ tôi sẽ đánh! Thiếu tá Sằng "ừ" rồi day sang tên thiếu úy Sanh dặn:
- Còn anh, giác đó đừng có ngủ quên nghe!
- Dạ tôi thức chớ đâu ngủ được. Loa phóng thanh tôi sẽ phát giữa đêm khuya. Tụi dân chúng chắc sẽ rụng rời khi nghe tin hang Hòn bị phá hủy. Gẫm ra cái phim chiếu đêm qua cũng không đến nỗi vô ích đâu thiếu tá! Tên Sằng nhếch mép cười:
- Cái phim của anh thì ăn thua mẹ gì mà nhắc!
- Thưa thiếu tá, cái phim đó và những tiếng nổ dữ dội đêm nay khắn với nhau lắm chớ! Tên Sằng cười lạt:
- Anh còn "nai" lắm. Đầu tôi đã mọc hai thứ tóc, tôi hiểu Việt cộng, hiểu dân chúng hơn anh nhiều mà. Cái giống họ khó bề lung lạc lắm. Anh tưởng khuya nay anh phát loa nói tiêu diệt hết tụi nó rồi dân chúng họ tin liền sao. Đâu có dễ vậy? ... Tôi đã nói, trước khi rút khỏi đây, chúng ta cần có một tiếng vang. Vậy thôi! Tên thiếu úy Sanh còn rán hỏi:
- Một tiếng vang vô nghĩa sao?
- Sao lại vô nghĩa, anh thiệt là ngu...
Tên thiếu tá nói thế, và liền lúc đó hắn nghĩ ngay tới những điều mà hắn đã sắp sẵn để báo cáo lên cấp trên. Nhưng hắn chợt nghĩ tới thôi chớ không nói ra... Tên trung úy Tự đã đi làm nhiệm vụ. Y không gặp một trở ngại nào trong việc điều động bọn lính vác những bọc thuốc nổ vào miệng hang. May mà những tên lính thuộc đơn vị của y chưa bị cơn lốc đấu tranh chống đối ban sáng cuốn theo. Chỉ có một sự rủi ro xảy ra sau cùng là lúc chúng vào sát miệng hang thì tên lính vác bộc phá bị vấp té đánh phịch một cái. Do đó, tổ anh em gác ở miệng hang nghe thấy. Tổ này gồm có Trọng và hai anh du kích. Một anh tên Lến, còn anh kia tức là Hai Cá Trèn. Cả ba đều giật mình. Trọng nói:
- Cái gì giống như ai té?...
- ừ, coi chừng tụi nó mò vô nghen! Trọng chắn bàn tay, bấm đèn. Tại lỗ miệng hang vẫn như thường. Ngoài những miểng lựu đạn MK3 rải rác lúc nhúc như *** trùng, tịnh không có gì khác Trọng tắt đèn. Lến thì thào:
- Hồi nãy tổ của Tới gác thì êm rơ, có gì đâu? Trọng bảo:
- Hồi nãy khác, bây giờ khác. Có khi xê xích một phút là thay đổi rồi, phải thủ kỹ mới được. Rõ ràng tôi nghe như có thằng nào vấp té! Nói xong, Trọng nhích họng súng tôm - xông tới sát lỗ hang dặn:
- Băng đạn tôi chỉ còn nhẵn mười viên. Hễ có chuyện tôi bắn vừa dứt thì mấy cha chém liền nghe. Thằng nào chun vô, cứ bình tĩnh bửa đầu nó cho tôi! Hai anh du kích lăm lăm mã tấu trong tay:
- ừ, anh bắn hết đạn rồi cứ nánh qua một bên để tụi tôi! Ba người bàn với nhau như thế và sẵn sàng chờ đợi. Họ rùn chân, đứng dợm trong bóng tối. Mấy phút trôi qua, họ vẫn không thấy gì. Rồi cả mấy mươi phút sau, cũng không có gì xảy đến. Đứng riết mỏi chân họ ngồi xuống. Có tới một tiếng đồng hồ mà mọi sự vẫn bình yên. Hai Cá Trèn nói:
- Hồi nãy chắc là chồn chạy!
- Chồn đâu ở đây.
- Trọng thắc mắc. Hai Cá Trèn cười, vẻ thông thạo:
- ở trên Hòn thiếu gì... Anh ít ở đây nên không biết chớ các thứ chồn, khỉ, rắn hổ mây, không thiếu thứ chi... Có cả con vích nữa, con vích lớn thì bằng cái nia, con nhỏ nhứt cũng bằng cỡ thúng giạ.
- Chừng tan trận này về tụi mình kiếm vài con rắn hổ đất nấu cháo ăn chơi.
- Cha, thứ hổ đất bây giờ có hơi "khiếm khuyết". Đẻ ra con nào đều bị dân nhậu kiếm bắt sạch trơn. Anh ăn trăn không, con trăn lạt thua hổ đất xa, nhưng nếu mình không ham lột da bán lấy tiền, cứ để nguyên da nấu cà - ri thì ăn cũng đỡ ngặt lắm... Hai Cá Trèn bắt đầu nói thao thao. Anh ta thấy Trọng ưa chuyện, nên càng cao hứng:
- Anh biết con vích nó đẻ ra làm sao không?
- Chẳng đợi Trọng đáp, Hai Cá Trèn nói tiếp
- Thứ đó đẻ ngộ lắm. Tháng nắng đi kiếm ăn ba đồng bảy đỗi ngoài biển, lúc trời gầm gừ muốn sa mưa nó mới bò về Hòn lo đẻ. Nó đẻ trứng bự bằng trái đu đủ, bươi đất thành hố, lăn trứng xuống hố rồi lăn kềnh ra dùng mai nện láng lức. Xong rồi nó lại bỏ Hòn ra biển. Hễ trời mưa xuống là trứng nở nứt đất, vích con dôi đất ngoi lên, lóp ngóp bò ra biển tự kiếm ăn...
- Ngộ quá ha!
- Trọng kêu lên. Hai Cá Trèn gật đầu, thản nhiên:
- Còn nhiều thứ ngộ nữa chớ... Giả tỉ như con nhím, ở Hòn đây cũng nhiều. Cái thứ này kỳ cục nhứt trên đời, nó vừa là giống đực lại vừa là giống cái.
- Sao?
- Nghĩa là nó tự ăn ngủ lấy, rồi nó chửa, rồi đẻ...
- Cha, cha! Hai Cá Trèn bảo:
- Hòn này có nhiều con thú quý lắm. Tôi tính tới chừng giải phóng miền Nam rồi tôi rủ vài người bạn ăn ý, lâu lâu đi săn bắt các loại thú trên Hòn cũng đủ hốt bạc! Anh Lến hỏi xeo:
- Tới chừng đó rủ tôi đi không?
- Không, mày hay xạo sự quá, đi theo hư hết. Người săn thú phải có tánh ý, phải đàng hoàng... Anh Lến cười rè, bảo Trọng:
- Anh ít về đây nên anh không biết danh thằng Hai Cá Trèn. Nó thấy anh lạ, nó đẩy dóc anh đó... Chớ hồi cha mẹ tôi sanh tôi ra ở Hòn Đất tới giờ tôi có thấy nó bắt được một con nhen con nhóc nào, chớ chưa nói tới chồn, khỉ, rùa, rắn chi cho mệt... Hai Cá Trèn nín im một lát, đoạn nói:
- ‰ Lến, vậy hôm rằm tháng bảy mày hay thằng nào vác mặt tới nhà tao ăn cháo rắn hổ đó?
- Con rắn đó thằng út đập cho mày, mà mày dám nói là mày đào bắt, dóc quá, bữa đó có mặt vợ mày nên tao không nói, sợ mày mất mặt với vợ mày tội nghiệp... Vậy mà bây giờ mày còn khui ra! Hai Cá Trèn cự:
- Thằng út nào đập, thằng út nào đập?
- Thằng út con chú Tư Râu chớ thằng út nào nữa. Nó có ở đây, để rồi tao kêu nó đối chất lo gì! Hai Cá Trèn nín thinh. Trọng cười, nói vả lả cho anh ta đỡ ngượng:
- Cái gì chớ loài thú thì trên Hòn tôi tin chắc có nhiều. Lến đáp:
- Có, thú thì có! Vừa lúc ấy trong hang có tiếng chân đi ra. Hai Cá Trèn đứng dậy phủi đít bảo:
- Tổ anh Ngạn ra thay kia rồi. Thôi mình vô làm một giấc coi. Buồn ngủ quá! Ngạn đã ra đến nơi. Cùng đi với anh có chú Tư Nghiệp và Quyên. Ngạn nói:
- Thôi anh em vô nghỉ, tới giờ rồi!
- Mười giờ hả?
- Lến nói.
- Ngồi nghe Hai Cá Trèn nói dóc hết giờ hồi nào không hay! Trọng nói với Ngạn:
- Tình hình không có gì. Cách đây độ một tiếng rưỡi tụi tôi có nghe một tiếng động bên ngoài, giống như ai vấp té phịch một cái...
- Vậy hả?
- Nhưng từ đó tới giờ thì vẫn êm không xảy ra chuyện chi.
- Nghe giống tiếng người vấp ngã à?
- Phải, nhưng cũng có thể là chồn chạy...
- Thôi được, đưa đèn pin cho tôi! Ngạn ngồi xuống bấm đèn. Anh ngồi cách lỗ miệng hang chừng một thước, sau lưng anh là Quyên, rồi tới chú Tư Nghiệp. Ngạn dùng khẩu tôm - xông. Quyên nay giữ cây cạc - bin của Đạt. Riêng chú Tư Nghiệp thì thủ cây dầu vuông của anh Ba Rèn mới đưa cho. Ngồi yên tại chỗ của mình, chú Tư Nghiệp móc thuốc ra vấn:
- Nhờ bà con bữa nọ tiếp tế nên bữa nay đâu còn mấy điếu. Tôi có để ý mấy chùm rán bay trên vách đá. Chừng nào hết thuốc, gỡ rán bay đó đem sấy hút cầm cự đỡ được! Ngạn nói:
- Cái đêm đó... Thiệt là nhờ bà con lanh trí tiếp tế cho chớ không thì bữa nay mình nguy rồi. Thuốc chẳng có hút mà gạo cũng không có ăn. Nghe vụ Cà Mỵ, thiệt tôi... Sau câu nói của Ngạn, ba người đều im lặng. Hình như bên ngoài, trời bắt đầu nổi gió. Vì mọi người nghe gió lùa qua miệng hang mát cả chân. Đến lúc bên ngoài dậy lên tiếng rào rào, hu hú thì ai nấy biết là gió nổi thực sự rồi. Quyên có cảm giác biển mỗi lúc một ùa vào gần hơn. Cái âm ba rì rào rì rào ấy nay cứ mạnh mẽ lên dần, mạnh mẽ lên mãi. Rồi thì tiếng sóng dội vào hang bắt đầu nghe rùng rùng như đổ.
- Biển lại động!
- Quyên khẽ kêu và chép miệng nói với Ngạn.
- Trời... không biết mấy bữa rày ở ngoài ra sao... Em lo quá. Em lo cho má... Chị Ba chết... má có chịu qua nổi không?
- Chắc má sẽ chịu nổi... Nhưng tội nghiệp cho má. Phải nói là chị Ba hay em, má đều cưng hết, nhưng má cưng em cách bồng bột, còn với chị Ba thì má cưng cách đằm thắm. Có lần nghe má nói:
“Dẫu phải đợi mươi năm, con Sứ nó cũng đợi được... Tao chỉ lo là tới chừng đó tụi nó già hết rồi... " Quyên nín im một lúc rồi thốt:
- Thiệt... em là con nhỏ bộc tuệch bộc toạc chớ không được như chị Ba... Chú Tư chợt cười, ghé chuyện:
- út nè, tao hỏi thiệt bây cái này, trả lời thử tao nghe nghen?
- Nói con Sứ dám đợi thì tao tin... Còn giả dụ như bây giờ Đảng xuống lệnh điều chú Ngạn đi công tác xa chừng mươi, hai mươi năm thì con út bây tính sao?
- Sao? Nói tao nghe coi? Quyên chợt ngây mặt ra trong bóng tối. Cô nghĩ:
“ồ, chuyện này mình ít nghĩ tới thiệt đó! " Song cô thốt rất nhanh:
- Cháu không đợi.
- Rồi cô bụm miệng cười. Chú Tư Nghiệp bảo:
- Đó, chú Ngạn nghe con Quyên nó nói chưa?
- Nghe chớ! Và Ngạn cố lấy giọng mỉa mai:
- Cháu biết mà, cháu đâu có nước non gì mà người ta đợi.
Anh vừa dứt lời, liền bị Quyên thò tay véo cho một cái vào đùi. Cô lại véo thêm cái thứ hai. Lần này hai ngón tay cô riết lâu hơn, mãi sau mới từ từ buông ra. Nhưng rồi không biết nghĩ sao, cô lại áp cầm lên vai Ngạn, ghé răng cắn cắn vai Ngạn. Cử chỉ đó của Quyên chú Tư không thấy được. Ngạn cứ để Quyên nhá nhá vai mình. Anh không thấy đau chi cả, mà chỉ thấy khoan khoái và sung sướng. Anh chợt nhận ra giữa lúc chiến đấu mà được như vậy thiệt là một hạnh phúc lớn và hiếm hoi. Thường Quyên và anh gắn bó với nhau không phải ở trong cảnh thoải mái vui chơi như người khác mà là trong hầm, trong cứ, và giờ đây trong hang mỗi một phút một giây đều căng thẳng, sôi sục, thiêng liêng. Giờ đây anh thấy mình có được sự kề vai sát cánh đầy đủ quá, từ đồng chí, đồng đội, từ Quyên. Bỗng anh nhè nhẹ đưa vai ẩy đầu Quyên ra. Anh vừa chợt nghe có tiếng gì sột soạt rất khẽ, như làn gió thổi đùa lá vào lỗ hang. Tức khắc, anh bấm đèn. ánh đèn "pin" chiếu xuống lỗ miệng hang, rọi cho ba người trông thấy một cái bọc vải xám vuông dài buộc thắt nhiều đường dây đang nhủi vào. Có một ngọn sào tre ở phía sau chỏi cái bọc đó. Và ở mép bọc, một sợi dây cháy chậm đang ngoe nguẩy cháy ngún, xịt khói. Cả Ngạn, Quyên và chú Tư Nghiệp trố mắt kinh sợ nhìn cái mồi cháy rốn nhanh vào.
Ngọn sào vừa đẩy gói bộc phá qua khỏi lỗ miệng hang liền rụt lại. Ngạn cầm đèn và súng chưa kịp xoay xở ra sao thì Quyên đã để khẩu cạc - bin xuống, nhảy chồm tới. Cô chụp đại gói bộc phá liệng trở ra khỏi lỗ hang. Khi cô lăn mình lùi lại, nằm rạp xuống, thì Ngạn đưa cánh tay đỡ lấy ngực cô. Bộc phá nổ một tiếng lớn. Đất đai hang động như bưng lên hết. Ba người bị nhấc khỏi mặt đất, rồi rớt xuống. Quyên nhờ Ngạn nâng ngực nên không bị dội tức. Cô còn tỉnh trí, quờ tay chụp lấy khẩu cạc - bin. Ngạn vội thét:
- Vô trong mau! Anh bấm đèn rọi cho Quyên và chú Tư Nghiệp chạy trước. Rồi anh luồn theo. Vào tới ngách hang trong, ba người đứng lại. Chú Tư Nghiệp ngồi xổm, thở hổn hển:
- Thiếu chút nữa ba đứa mình biến thành bụi hết rồi! Mẹ, sợi dây mồi cháy coi thiệt ớn! Anh em từ hang trong đổ xô ra. Anh Hai Thép hỏi:
- Ngạn đâu? Anh em có sao không?
- Tôi đây anh, không sao... Nó chuồi bộc phá vô, tụi tôi phát hiện kịp, Quyên ôm vụt gói bộc phá ra ngoài!
- Biết thế nào nó cũng "chơi" thuốc nổ mà! Anh Hai Thép rọi đèn ra miệng hang. Không thấy có gì, anh bảo:
- Thôi cứ tránh ở đây... Đề phòng đánh tụi đột nhập. Ba Rèn đâu?
- Có tôi.
- Tổ anh cũng lo giữ ở đây!
- Đồng ý! Anh Ba Rèn bước tới. Anh mò kiếm chú Tư Nghiệp, rờ rẫm khắp người chú, cười hà hà:
- May quá, ông già còn nguyên ta! Đoạn anh lần tay chú Tư, rón lấy cây dầu vuông:
- Thôi, đưa cái cây cho tôi, ông vô nghỉ đi! Giữa lúc đó ngoài miệng hang lại nổ ầm một tiếng. Mọi người đang đứng tự dưng bị xốc nhớm gót lên. Đá bụi tung rào rào. Bọn địch đã đánh tiếp trái bộc phá thứ hai. Luồng ánh sáng rọi cho mọi người thấy một vầng khói đen xạm dày đặc. Khắp hang rung rinh mãi hồi lâu vẫn còn nghe tiếng kêu răng rắc như đá đang bị nứt. Anh Hai Thép nói:
- Tôi rọi đèn, anh em tất cả súng lên vai, chú ý theo dõi thằng nào lọt vô đây diệt ngay thằng đó! Ngạn gác khẩu tôm - xông lên một mỏm đá. Anh chỉ cho Quyên một mỏm đá kế đó. Quên đặt khẩu cạc - bin lên, từ từ áp báng vào vai. Anh em khác cũng ghìm súng đợi. ánh đèn pin từ tay anh Hai Thép vẫn rọi thẳng ra hang. Quyên nhìn thấy trước mũi súng của mình, vầng khói tản ra và bức tường mất biến một nửa. Một nửa còn lại chỉ là đống gạch vụn lổn nhổn. ánh đèn pin bỗng vụt tắt. Một giây sau, khi anh Hai Thép chiếu đèn trở lại thì trong quầng ánh sáng của đèn xuất hiện rõ một thằng địch đang ôm thu lu gói bộc phá nhảy qua chỗ gạch vụn. Ba bốn phát súng, nổ vang lên cùng một lúc. Thằng địch đứng sững, buông gói bộc phá rớt xuống. Nó khuỵu tại chỗ, ngoẻo đầu, mà hai tay vẫn ôm vòng cái gói có sợi dây ngòi đang cháy ngún.
Quyên mở miệng kêu "á" lên một tiếng. Cô vừa nép vào ngách hang thì bộc phá nổ ầm. Anh Hai Thép bấm đèn rọi ra. Miệng hang lần này cũng dày đặc khói đen như lần trước. Lúc khói tan, không trông thấy thằng địch đâu nữa. Hai bên vách, đá tuôn đổ rào rào. ở trên miệng hang bị phá rộng toác, còn bên dưới đá gạch vụn đùn lên. ánh đèn pin từ tay anh Hai Thép vẫn chiếu sáng rực. Anh em vẫn ghìm súng đợi, hy vọng sẽ cho tái diễn cái cảnh ấy lại lần nữa. Nhưng một phút trôi qua. Rồi năm phút. Rồi mãi đến khi ánh đèn pin lu đi cũng không thấy tên địch nào ôm bộc phá nhảy vô kiểu đó nữa. Đợi quá lâu, anh Hai Thép tắt đèn. nhưng không yên tâm, anh lại bấm đèn lên. Cứ bấm cứ tắt mấy lượt, vẫn không thấy gì.
- Chắc nó rút rồi
- anh Ba Rèn nói. Chú Tư Nghiệp ngăn:
- Khoan! Cứ rọi đèn. Trăng gần mọc rồi! Bên ngoài gió vẫn dậy ào ào. Đôi lúc gió lùa qua miệng hang sụp lở, kêu hu hú. Và sóng biển vẫn rùng rùng như tiếng trống chầu đổ hồi, không dứt. Các tay súng vẫn giữ nguyên tư thế sẵn sàng nhả đạn. Quyên sốt ruột vì ánh đèn pin khi nhá sáng, khi tắt ngấm. Ngón tay trỏ của cô đặt nơi cò súng thả ra, co vào không biết mấy lượt. Nhưng mắt cô lúc nào cũng mở to trố nhìn cái miệng hang chợt sáng chợt tối ấy. Thế rồi một lát sau, khi ánh đèn tắt khá lâu, Quyên vẫn nhận ra miệng hang. Đúng như chú Tư Nghiệp nói, trăng đã lên. Miệng hang không tối như trước nữa. ở đó, bóng tối ngả sang màu xanh sẫm, nhợt thêm một chút, rồi rạng biếc. Quyên đã có thể phân biệt rõ đống gạch đen lù lổn nhổn kia với ánh trăng sáng ửng miệng hang. Anh Hai Thép thôi không rọi đèn nữa. Anh phân công Ba Rèn ở lại gác như bình thường và cho anh em vào hang nghỉ. Quãng đêm còn lại ấy trôi qua một cách yên tĩnh, yên tĩnh hơn cả những đêm hôm trước. Bộc phá không còn gầm lên, và anh em cũng chẳng nghe thấy tiếng súng bắn "bóc đùng" ở ngoài xóm như mọi đêm. Tổ gác miệng hang đã trở ra ngồi gác sau đống gạch vụn. Người tổ trưởng phiên gác cuối cùng là anh Hai Thép, lần đầu tiên nhìn thấy ánh bình minh được nới rộng hơn trước, qua cái miệng hang vừa bị thuốc nổ công phá hồi đêm. Khi anh kêu:
“Sáng rồi! " thì lúc ấy đêm đã nhợt dần, nhòa đi. Biển cũng đã lặng. Anh nghe thấy tiếng chim kêu ríu rít. Rồi anh bắt đầu nhận ra những ngọn cỏ ngoài hang ươn ướt hơi sương. ánh ngày mát rợi và dịu dàng lướt trên những ngọn cỏ đó, lan ra mãi. Bây giờ thì anh lại nhìn thấy bãi cỏ bị nhiều dấu giày xéo nát, và anh giật mình thấy ngay trước mặt có một khúc chân bê bết máu. Anh nói với hai anh du kích cùng tổ:
- Chắc của thằng hồi hôm! Lúc đó chợt anh nghe sau lưng có tiếng cười hi hí. Anh quay lại. Thì ra thằng út mới ngủ dậy, mò ra. Nó vừa dụi ghèn xong, hai tay vịn gối chân đứng rùn rùn, trố mắt nhìn cái khúc cẳng. Thằng út lè lưỡi nói:
- Coi lớn quá hén chú Hai!
- ừ, nó lãnh nguyên bao bộc phá mà vừa gì! Còn được cái cườm cẳng đó là may... Anh Hai Thép hỏi:
- Hồi đêm hôm tụi nó đánh hang, mày hay không út? Thằng út không đáp. Nó đang lo nhìn cái gì ở ngoài, người nhổm tới.
- Chắc lúc đó mày ngủ khò chớ hay biết gì hả út?
- Anh Hai Thép lại hỏi. Thằng út vẫn lo nhướn mắt nhìn. Bỗng nó lào thào:
- Trời ơi... tụi nó, tụi nó vô! Nó vụt trỏ tay ra phía ven vườn:
- Kia kìa, tụi nó kéo đến nghẹt kia kìa, chú Hai ơi!
- Đâu đâu? Theo ngón tay thằng út, anh Hai Thép thấy quả có một đám lính kéo tới rất đông. Hình như chúng đang chạy tới. Anh thét:
- Núp vô, chuẩn bị! Cả ba anh du kích và thằng út đều núp vào vách đất. Anh Hai Thép lên đạn khẩu ga - răng đánh "rốp" một cái, mắt chăm chú theo dõi. Đám lính mỗi ngày một rời xa mí vườn. Thình lình thằng út chớp chớp mắt vụt la:
- ủa... không phải lính! Vừa lúc hai anh du kích cũng đồng kêu:
- ủa... Đâu như bà con mình cả... Ai chạy trước giống má Sáu quá, tóc bạc trắng như bông... Thôi đúng rồi! Cả ba anh nhớn nhác nửa tin nửa ngờ. Thằng út chỉ chỏ reo:
- Ba tôi đó, ổng chạy đó chớ ai! Anh Hai Thép lẩm bẩm:
- Kỳ quá, hay là tụi nó lùa bà con chạy trước làm bia đỡ đạn?
- Không, đâu có lính!
- Cứ núp sát vô! Ngoài kia, đám người mỗi lúc một tới gần. Họ đã chạy qua quá nửa vạt đất trống. Hiển nhiên là ở phía sau họ không có một thằng lính nào. Anh Hai Thép bắt đầu nhận ra từng người. Mẹ Sáu, vợ Ba Rèn, chú Tư Râu, anh Tám Chấn, thím Ba ú. Trời ơi, đủ hết. Có cả vợ anh, thím Tư Nghiệp, vợ thằng Lến. Cả Hòn Đất, không thiếu một ai. Người lớn, trẻ nhỏ, mạnh ai nấy chạy nhào tới, tất tưởi. Có người vấp té chúi, lại gượng dậy, lại chạy. Còn cách miệng hang vài chục bước, mấy người chạy đằng đầu dừng lại, đặt bàn tay lên miệng, hổn hển kêu lớn:
- Anh em ơ... ơi, tụi nó rút rồ... ồi! Thấy trong hang vẫn im lìm giữa đám người có tiếng khóc òa lên. Chú Tư Râu đang khom lưng chạy tới, ráng sức gào:
- Bớ anh em! Còn sống... khô... ông? Nghe rõ tiếng kêu, anh Hai Thép lách mình, xách súng nhảy qua đống gạch đá vụn. Kế đó thằng út với hai anh du kích cũng phóng vọt theo. Anh Hai Thép cầm khẩu ga - răng vừa qua vừa chạy a lại phía bà con. Chú Tư Râu ôm chầm lấy anh. Anh Tám Chấn chạy tới chụp vai Hai Thép lắc lắc, cười nói:
- Cha chả, tưởng ông không còn về gặp má bầy trẻ nữa rồi chớ! Mọi người vây quanh anh, vây quanh thằng út, chụp hai anh du kích mà đấm thùi thụi, níu kéo lăng xăng, kẻ cười người khóc. Chị Hai Thép không cười, chị ngó nhìn anh Hai, rưng rưng nước mắt. Chị thấy mặt chồng mình nay xám xạm trông hốc hác hẳn đi. Anh Hai báo cho bà con biết mọi người còn đủ, trừ Sứ và chú Đạt. Anh đến bên vợ khẽ hỏi:
- Sắp nhỏ đâu rồi mình? Chị Hai Thép đáp:
- Tôi gởi nó ở trong xóm. Giữa lúc đó, thằng út vùng tuột ra khỏi tay mấy người đang ôm nó, chạy trở vô hang. Anh Hai Thép đưa mắt tìm kiếm mẹ Sáu. Anh thấy mẹ Sáu đang đứng sững gần đó. Đôi mắt mẹ trân trân nhìn tới trước, ráo hoảnh. Khi anh chạy đến bên mẹ thì mẹ chẳng nói gì cả, bước đi. Mẹ bước chầm chậm về phía hang, tay phải vò chặt chiếc khăn rằn đỏ đưa lên miệng. Anh em trong hang được thằng út vào cho hay, giờ đã ùa ra. Hai bên gặp nhau trước miệng hang, la hét, cười khóc. Trong khi con chó mực của thằng út chạy loăng quăng, kêu sủa mừng rỡ. Mọi người xô tới ôm ghì lấy nhau trên khoảng đất bị đạn cào bấy. Anh du kích Hai Cá Trèn cõng thằng Bé trên vai, bước ra khỏi hang, hai chân hơi loạng choạng. Quyên cõng con Thúy từ trong cũng vừa luồn ra. Tới đống gạch đổ, cô nhấc mũi súng cạc - bin đeo nơi vai, rán bước qua. Mẹ Sáu lập cập chạy tới, run rẩy dang hai tay ôm cả Quyên lẫn con Thúy vào lòng, oà khóc. Con Thúy thấy ngoại nó khóc thì cũng khóc theo, rồi nó nhớn nhác đưa mắt tìm kiếm. Hàng trăm cặp mắt đều nhìn dồn vào con Thúy. Chợt con Thúy la:
- Ngoại, ngoại, má con đâu, má con đâu ngoại? Mẹ Sáu không đáp. Con Thúy vùng ra khỏi lòng ngoại nó kêu lớn:
- Má... má ơi!
Con bé vừa kêu vừa chạy kiếm. Nó chạy từ đám người này tới đám người khác. Ai cũng hoảng sợ, nhìn nó bằng đôi mắt đau đớn lặng đi. Trong tiếng kêu xé ruột của con Thúy, tốp người trong hang vẫn tiếp tục đi ra. Năm Nhớ xốc dìu anh Thẩm. Cái chân bị thương của Thẩm cứ cà nhắc, bước thấp bước cao. Người thứ mười bảy và là người ra khỏi hang sau cùng là Ngạn. Anh bế trên tay mình cái bó vải nhựa màu hồng nhạt. Tấm vải nhựa trong suốt đó lờ mờ để lộ ra khuôn mặt của Đạt. Anh Tám Chấn xổ tới. Anh đứng sững trước Ngạn hồi lâu rồi lặng lẽ bước tới đưa tay đỡ lấy thân Đạt. Anh ngó trân trân khuôn mặt Đạt hồng lên sau lần vải nhựa mỏng. Đôi mắt anh mở to, đồng tử mắt không động, chốc mắt anh sau đỏ hoe rân rấn. Không khác chi những anh em khác, khuôn mặt Ngạn như sắt lại, hốc hác, dính đầy bụi. Người nào cũng thế. Trên mình họ, chẳng có cái quần cái áo nào lành. Tất cả đều bị rách ống, rách vai, hoặc toạc hở lưng. Giờ họ đã đuối sức, bụng dạ lại cồn cào, cổ cháy bỏng. Chừng như bây giờ họ mới thấm mệt, rã rời. Bước chân của họ đi hơi loạng choạng trong buổi sớm nắng hửng.
Và đây là những tia nắng đầu tiên mà họ bắt gặp lại. Nắng chiếu lóng lánh các giọt sương đọng trên ngọn cỏ. ánh nắng chớm sáng ven vườn, rọi hực hỡ các vòm lá. Hòa vào trong nắng ấy là làn gió đương xuân, hây hẩy, lao xao. Ngoài kia, sau những thân tre vàng óng đang chới với đu đưa, sóng biển đẫm nắng vỗ rối rít và ngoan ngoãn trườn nhẹ vào bãi. Đang đi, Ngạn chợt dừng chân, ngoảnh lại. Trước mặt anh, mép miệng hang như vừa bị một con quái vật khổng lồ nào cho cạp lở lói. Vách đá trước vốn là màu xanh rêu nay ám khói đen xịt. ở hai bên mép miệng hang, xi - măng để đùn đống, vung vãi. Đi hơn chục bước, Ngạn hãy còn nghe mùi máu tanh tưởi, mùi xác chết ở đâu đấy, và rõ rệt hơn cả là mùi khói thuốc nổ phất lên mũi anh nồng nặc.