Nếu Lucy còn sống, chắc hẳn tôi đã không nổi khùng lên đến như thế.
- Giáo sư, ngài điên rồi sao? - Tôi đập bàn đứng dậy nói như quát, mặt đỏ gay gắt.
Van Helsing ngồi yên, ngẩng mặt lên nhìn tôi, ánh mắt nhân hậu của ông làm tôi trấn tỉnh ngay lập tức.
- Lạy Chúa? - Ông nói rất chậm rãi. - Tiếc thật, tôi muốn điên mà không thể điên được! Nếu điên được thì đã dễ chịu đựng một sự thật như vậy hơn nhiều. Chà? Anh bạn ạ, theo anh thì tại sao tôi cứ phải nói nhăng nói cuội mãi trước khi thú thực cái điều rất đơn giản ấy? Chẳng lẽ là do tôi ghét anh như tôi vẫn đối xử với anh từ trước đến nay? Chẳng lẽ tôi muốn anh phải chịu khổ đau thêm nữa? Hay là sau ngần ấy năm, lúc nào tôi cũng rắp tâm trả ơn cứu mạng của anh bằng những lời khó lọt tai ấy? Không phải, hoàn toàn không phải, đúng vậy không anh bạn? Cho tôi có lời xin lỗi, thưa giáo sư. Trái lại, anh bạn ạ, khi nói ra sự thật này, tôi rất muốn làm sao để anh càng ít choáng váng càng tốt, bởi tôi luôn hiểu anh cũng là người rất yêu cô gái ấy. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ cũng vậy, tôi chẳng hy vọng anh sẽ tin tôi ngay lập tức. Thật khó có thể tin ngay ở một sự thực mơ hồ mà điểm xuất phát của lại là một sự ngờ vực, nhất là khi chúng ta luôn có xu hướng muốn có một điều ngược lại. Và sẽ khó khăn hơn thế nhiều nếu phải thừa nhận một sự thật cụ thể, nhất là khi nó khủng khiếp như cái sự thật tôi vừa nói ra. Tối nay, tôi sẽ chứng minh để anh phải tin. Thế nào, anh có dám đi cùng tôi không?
Thấy tôi có vẻ lưỡng lự, ông nói tiếp :
- Suy luận của tôi cũng đơn giản thôi. Nói cho cùng đó hoàn toàn không phải là suy luận của một kẻ mất trí nhắm mắt nhảy bừa từ bụi cỏ này sang bụi cỏ khác, giữa đầm lầy, mà chẳng biết mình phải đi về đâu. Nếu điều tôi nói không phải là sự thật thì bằng chứng sắp tới sẽ giúp chúng ta trút đi một gánh nặng, hoặc ít nhất nó cũng không làm nghiêm trọng thêm câu chuyện định mệnh của Lucy. Nhưng nếu điều tôi nói có thật thì sao? Đó! Vấn đề chính là ở chỗ đó! Song tôi cũng xin được nói rằng chính sự nghi ngại cái có thật sẽ hỗ trợ cho lập luận của tôi, vì điều tôi cần trước hết vẫn là lòng tin ở thực tế như nó vốn có. Tôi định đề nghị anh như thế này: trước hết, chúng ta sẽ tới ngay bệnh viện Phương Bắc để thăm một cậu bé, tức là một nạn nhân mà báo chí vừa đưa tin. Bác sĩ Vincent, người của bệnh viện Phương Bắc, là một người bạn của tôi và có thể cũng là bạn của anh, vì các anh đã có dịp cùng nhau nghiên cứu ở Amsterdam rồi thì phải. Ta cứ đến đó đi, nếu anh ta không thể giúp chúng ta vào thăm nạn nhân thì ít ra cũng phải tạo điều kiện để bạn mình được gặp mấy ông thầy thuốc có liên quan. Hãy đừng vội nói gì với anh ta, trừ phi chúng ta muốn có những chi tiết về ca bệnh này. Sau đó...
- Sau đó thì sao?
Van Helsing rút trong túi quần ra một chiếc chìa khóa và tung tung trên lòng bàn tay :
- Sau đó, tôi và anh sẽ qua đêm trong nghĩa địa, nơi Lucy đang yên nghỉ. Đây là chìa khóa cửa ngôi mộ. Người phu đào huyệt đã nhờ tôi giữ để gửi lại cho Arthur.
Cứ nghĩ tới cái bằng chứng khủng khiếp nào đó là tôi lại cảm thấy chân tay mình sắp sửa rụng rời đến nơi. Tuy nhiên, tôi cũng chẳng thể làm gì khác ngoài việc phải cố gắng tỏ rõ mình cũng là người có khí phách. Vì vậy, tôi đã mạnh mồm giục đi ông nhanh chân, bởi trời sắp tối đến nơi rồi...
Khi chúng tôi bước vào phòng bệnh, cậu bé nạn nhân kia đang thức. Trước đó, nó đã được ngủ sau khi uống một cốc sữa đặc, bởi vậy tình trạng sức khỏe của nó nói chung cũng đã ít nhiều bình phục. Bác sĩ Vincent khẽ bóc lớp băng dán trên cổ cậu bé cho chúng tôi xem hai vết thương nhỏ xíu. Rõ ràng vết thương này cũng giống y như những vết thương trên cổ Lucy, khác chăng là ở chỗ chúng có vẻ tươi hơn và nhỏ hơn một chút. Chúng tôi hỏi Vincent xem anh ta giải thích thế nào về nguyên nhân gây nên vết thương, anh cho rằng cậu bé đã bị cắn bởi một con vật, một con chuột chẳng hạn. Tuy nhiên, anh ta còn nói rằng không thể loại trừ trường hợp đó là vết cắn của một con dơi, bởi ở các vùng cao phía bắc Luân Đôn có rất nhiều đàn dơi đang cư trú. Anh ta giải thích :
“Sống giữa những đàn dơi hiền lành vô hại thỉnh thoảng cũng có một loài dơi hoang dại, hung hãn, từ phía nam tới. Cũng không loại trừ trường hợp có một anh chàng thủy thủ nào đó đã bắt và mang về nhà mình một con dơi như vậy và rồi vô ý để nó xổng mất, hoặc cũng có thể đó là một con dơi sổng chuồng của vườn bách thú. Trong trường hợp này, ai dám đảm bảo đó không phải là giống dơi hút máu người? Bởi vì trong vườn bách thú, người ta đang nuôi rất nhiều loài dơi. Lại còn chuyện này nữa: cách đây chừng chưa đầy mười ngày, vườn bách thú đã để sổng chuồng một con sói, và có người đã thoáng nhìn thấy nó đang lẩn khuất đâu đó trong khu vực quanh đây. Chưa hết, trong suất một tuần nay, người ta kháo nhau rằng lũ trẻ không còn thích trò chơi gì khác ngoài trò Cô bé quàng khăn đỏ. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như trò chơi này không trùng hợp với sự xuất hiện của người đàn bà nhuốm máu và sự bỏ nhà đi qua đêm của lũ trẻ... Như vậy là bọn nhóc... Cả cậu nhóc này nữa, vừa mới mở mắt tỉnh đậy, nó đã hỏi cô y tá là nó có thể đi khỏi đây được chưa. Khi cô ta hỏi đi đâu, nó nói ngay là nó muốn đi chơi với người đàn bà bí ẩn kia.”
- Hy vọng là khi trả đứa trẻ này về nhà, - Van Helsing nói - anh sẽ nhắc nhở bố mẹ nó phải để mắt tới nó nhiều hơn. Vlệc chúng bỏ nhà đi là rất nguy hiểm, chưa biết chừng còn ảnh hưởng đến tính mạng nữa ấy chứ. Nhưng này, hình như anh còn định giữ cậu nhóc này ở đây vài hôm nữa thì phải?
- Ít nhất là một tuần nữa, hoặc cũng có thể lâu hơn nếu yêu thương của nó vẫn chưa chịu lành.
Cuộc viếng thăm bệnh viện của chúng tôi kéo dài hơn dự kiến. Khi chúng tôi quay ra thì trời đã tối.
- Có vội cũng chẳng giải quyết vấn đề gì. - Van Helsing bảo tôi. - Tôi nghĩ bây giờ vẫn chưa đến nỗi quá muộn... Hay là ta kiếm cái gì ăn cho đỡ đói đi, sau đó có làm gì thì làm...
Chúng tôi vào ăn tối ở quán Lâu đài Jack Straw, nơi có một nhóm tay đua xe đạp đang ngồi ăn nhậu ầm ĩ cùng mấy thanh niên. Khoảng mời giờ tối, chúng tôi rời quán trọ. Ngoài phố, trời tối đen như mực. Rõ ràng Van Helsing đã tăm trước con đường chúng tôi phải đi, bởi tôi thấy ông phăm phăm rảo bước mà chẳng sợ vấp phải bất cứ một trở ngại nào. Còn tôi, thú thực tôi sẽ rất ngượng nếu có người hỏi tôi đang ở đâu. Càng lúc đường đi càng vắng hơn, cho dù đã có lúc chúng tôi gặp một toán cảnh sát cưỡi ngựa đi tuần. Nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng đến dược nghĩa địa. Do cổng nghĩa địa đã khóa, nên chúng tôi phải trèo qua tường vào bên trong. Công việc chẳng dễ chút nào, bởi ở đây trời còn tối hơn ngoài đường phố nhiều nên chúng tôi không thể xác định được mình đang đứng ở chỗ nào. Thế mà rồi Van Helsing cũng nhanh chóng tìm được khu nhà mồ của gia đình Westenra. Ông rút chìa khóa mở cửa nhà mồ, cánh cửa nặng nề nghiến ken két làm tôi dựng tóc gáy. Giáo sư giữ ý lùi lại một bước nhường đường cho tôi vào trước. Tôi cảm thấy trong một hoàn cảnh như vậy, cử chỉ lịch thiệp của ông có cái gì đó thật khôi hài. Ông cẩn thận đóng cửa, rồi móc trong túi ra một bao diêm và mẩu nến cháy dở để thắp soi đường. Ngôi nhà mồ, mới hôm nào còn để lại trong tôi một cảm giác gần gũi thân thương là thế, lúc này bỗng làm tôi rùng mình ớn lạnh. Những cánh hoa trắng ngần dành cho Lucy giờ đây đã úa tàn, rơi rụng thành một màu đất, nhường chỗ cho mạng nhện đan chằng chịt. Bụi thời gian ngàn năm vẫn tiếp tục lầm lũi làm cái công việc câm lặng của nó là xóa nhòa đi tất cả những gì thuộc về cuộc sống ngắn ngủi này. Cảnh đêm trong nhà mồ sao mà rùng rợn đến thế! Tôi sợ mình sắp sửa tưởng tượng ra những điều hãi hùng nhất có thể có trong một đêm tối mịt mùng, giữa nghĩa địa quạnh hiu, những điều mà tôi chỉ được biết trong các câu chuyện kỳ bí hoang đường.
Van Helsing bắt tay vào công việc một cách có tính toán. Ông giơ cao ngọn nến, khom người đọc những hàng chữ khắc trên từng chiếc quan tài. Những giọt nến thỉnh thoảng lại rơi độp xuống nắp một quan tài như muốn đẩy sự căng thẳng của tôi đến tột độ. Tới trước quan tài của Lucy, giáo sư chợt cúi xuống móc trong túi đồ mang theo một chiếc tuốc-nơ-vít.
- Ngài định làm gì vậy? - Tôi hỏi.
- Mở nắp quan tài. Có lẽ phải như vậy anh mới chịu tin!
Ông cặm cụi mở từng chiếc vít và khệ nệ nhấc chiếc nắp gỗ nặng trịch sang một bên, để lộ ra một lớp bọc chì trong quan tài. Có lẽ sức chịu đựng của tôi đã lên tới cực độ, hành động của ông khiến tôi hổ thẹn như phải chứng kiến cảnh người ta đang lột quần áo của một phụ nữ đang say giấc nồng. Tôi giơ tay định ngăn lại, nhưng ông vẫn thản nhiên đáp :
- Yên tâm đi, rồi anh sẽ được thấy tất cả?
Đoạn ông lôi trong túi đồ ra một cái cưa sắt nhỏ. Tôi chưa kịp hiểu chuyện ra sao đã thấy ông nhanh tay căm phập chiếc tuốcnơvít vào lớp bọc chì và ngoáy thành một lỗ khá rộng, đủ để đưa lưỡi cưa vào. Tôi sửng sốt nhảy lùi lại mấy bước, vì sợ cái mùi xú uế từ trong quan tài sắp sửa xộc ra. Nhưng giáo sư vẫn cặm cụi với công việc của mình mà chẳng cần quan tâm đến điều gì khác ngoài cái mục đích cuối cùng của mình. Ông cưa lớp bọc chì theo một đường hình vuông, sau đó giật ra một mảnh khá rộng. Thấy tôi vẫn nghệt mặt đứng một chỗ, ông vẫy tay gọi lại.
Tôi thận trọng tiến từng bước về chiếc quan tài. Lạ chưa? Dưới ánh sáng mờ mờ tỏ tỏ của ngọn nến, tôi nhận thấy chiếc quan tài rỗng tuếch như chưa từng có gì ở bên trong.
Người tôi bủn rủn như muốn rụng rời chân tay. Quả là một cú sốc thực sự đối với tôi, nhưng với Van Helsing thì không: tôi thấy ông vẫn đứng thản nhiên như đã biết trước mọi việc từ lâu rồi. Hơn lúc nào hết, tôi chợt hiểu ông đã nói đúng!
- Bây giờ anh đã chịu tin chưa, anh bạn John? Tâm phục khẩu phục rồi chứ?
Tuy nhiên, tôi vẫn chưa chịu :
- Tôi công nhận là Lucy không nằm ở trong quan tài, nhưng dù sao thì sự thật này vẫn chỉ chứng tỏ được một điều.
- Điều gì vậy, John?
- Điều gì ? Thi thể của Lucy không có trong quan tài, thế thôi.
- Lập luận hay đấy! Nhưng anh giải thích như thế nào... anh định lý giải như thế nào về việc thi thể cô ta lại không nằm ở trong đó?
- Có thể do bị trộm đột nhập... Hoặc giả là thi thể cô ấy đã bị lấy đánh cắp bởi chính các nhân viên của nhà đòn...
Tôi cũng hiểu ngay rằng mình đang nói những lời thật ngây ngô, song dù sao thì đó cũng là lời giải giải thích duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra trong lúc này.
Nghe tôi cãi, Van Helsing chỉ còn biết thở dài :
- Thôi được! Vậy là chúng ta lại phải tìm thêm một bằng chứng nữa rồi. Anh hãy theo tôi ra ngoài kia!
Ông lặng lẽ đậy nắp quan tài lại, nhặt dụng cụ, thổi tắt nến, rồi bỏ tất cả vào trong túi đồ. Chúng tôi mở cửa bước ra ngoài. Khóa cửa xong, giáo sư giơ chiếc chìa khóa lên bảo tôi :
- John này, nếu cảm thấy thích thì anh cứ cầm lấy, có lẽ phải như vậy anh mới hết nghi ngờ.
Tôi cười gượng, gạt đi :
- Một chiếc chìa khóa thì có nghĩa lý gì? Biết đâu chẳng còn cả chục cái như vậy nữa ấy chứ, mà cái ổ khóa kia có phải là khó mở đâu.
Van Helsing im lặng bỏ chiếc chìa khóa vào túi và chỉ tay bảo tôi nấp sau một cây thông để quan sát những gì sẽ xảy ra, trong khi ông một mình đi kiểm tra đầu bên kia nghĩa địa. Đứng nấp sau cây thông quả đỏ, tôi còn trông rõ bóng ông trước lúc ông khuất hẳn vào những lùm cây đen sẫm.
Thú thực tôi đã mất tự tin khi phải đứng một mình trong nghĩa địa, giữa đêm tối dày đặc như thế này. Tiếng chuông đồng hồ chợt vẳng tới từ xa xăm, khiến tôi không khỏi rung mình. Vậy là đã nửa đêm rồi. Tôi vẫn sốt ruột chờ đợi. Một giờ, rồi hai giờ... Tiếng chuông thỉnh thoảng lại cất tiếng ngân dài lê thê như từ thế giới bên kia vọng về. Tôi cảm thấy ớn lạnh dọc sống lưng, nếu cứ như thế này thì có lẽ tôi sẽ chẳng còn đủ sức bình sinh và lòng kiên nhẫn để mà đứng rình mãí ở đây. Có lẽ đây cũng là những giây phút khó nhọc nhất mà tôi không thể quên được trong đời.
Bất giác, tôi ngoảnh lại phía sau và giật thót người khi bất ngờ nhìn thấy một vệt trắng lờ nhờ đang luồn lướt qua khoảng trống giữa hai cây thông phía bên kia nhà mồ. Cùng lúc đó, một bóng đen sẫm bất thình lình xuất hiện đúng chỗ giáo sư đang đứng. Tôi định băng tới nhưng không được, bởi tôi không thể nhảy qua những nấm mồ mà không vấp ngã lộn cổ.
Bầu trời vẫn tối đen như mực, dù thỉnh thoảng đã có tiếng gà gáy đâu đây.
Cách tôi không xa, phía sau những cây bách xù trồng bên lối đi dẫn tới nhà thờ, lại là một bong trắng mờ ảo đang tiến nhanh về phía khu mộ nhà Westenra. Tuy nhiên, cái bóng ấy cũng đã nhanh chóng biến khỏi tầm mắt tôi sau những lùm cây, tôi không thể xác định nó chạy về hướng nào. Chỉ còn tiếng những bước chân gấp gáp ở ngay tại nơi cái bóng trắng ấy vừa đi qua. Vài phút sau, tôi thấy Van Helsing đột ngột xuất hiện trở lại, hai tay ôm một đứa trẻ.
Vừa bước tới chỗ tôi, ông hỏi luôn :
- Thế nào, bây giờ thì cậu vẫn chưa chịu tin chứ?
- Chưa!
- Thế anh không trông thấy thằng nhóc này sao?
- Có, tôi trông thấy nó từ nãy... Nhưng ai dẫn nó tới đây mới được chứ? Nó có bị thương không?
- Sẽ biết ngay thôi mà.
Ông chỉ nói có vậy rồi bế thằng bé đi thẳng ra phía cổng nghĩa địa. Tôi mỏi mệt bước theo sau.
Chúng tôi dừng chân bên một lùm cây um tùm. Van Helsing đánh điểm kiểm tra cổ thằng bé. Không có một vết xước nào, dù là rất nhỏ.
- Tôi nói cũng đúng đấy chứ? - Tôi hỏi, giọng đắc thắng.
- May mà chúng ta đã tới kịp! - Giáo sư đáp lại cùng một tiếng thở phào.
Biết phải làm gì với thằng nhóc này bây giờ? Nếu mang nó tới một đồn cảnh sát, chắc chắn chúng tôi sẽ phải giải trình với họ tại sao lại tìm thấy nó, và như vậy thì không ổn chút nào. Vậy là chúng tôi phải quyết định mang nó ra ngoài trảng, khi nào nghe thấy tiếng cảnh sát, chúng tôi sẽ thả nó ở một chỗ mà cảnh sát không thể không nhìn thấy. Ngay sau đó, chúng tôi sẽ tìm cách chuồn càng nhanh càng tất. Và tất cả đều đã trôi qua êm xuôi đúng như chúng tôi mong đợi.
Lúc vừa đến trảng, chúng tôi đã nghe thấy tiếng bước chân nặng nề của một viên cảnh sát. Sau khi thả cậu nhóc bên một lối nhỏ, chúng tôi lẩn vội vào một lùm cây chờ cho đến khi viên cảnh sát cầm đèn đi ngang qua và thất lên một tiếng kinh ngạc, vì bất ngờ nhận ra nạn nhân nhỏ tuổi ngồi chơ vơ một mình. Chỉ đợi có vậy, hai chúng tôi bấm tay nhau lủi thật nhanh. Cũng may vừa ra tới đường cái, chúng tôi gặp ngay một chiếc xe ngựa chở khách đang trên đường vào thành phố.
Tưởng rằng mình sẽ chẳng thể ngủ được, tôi nằm vắt tay lên trán suy nghĩ, định bụng liên hệ các sự việc rời rạc với nhau để tìm ra một sợi dây nào đó xuyên suất vấn đề, nhưng rồi lại thiếp đi từ lúc nào không biết, bởi khi Van Helsing đến gọi tôi thì trời đã trưa rồi. Ông định rủ tôi mò mẫm một lần nữa.
* * * * *
Ngày 27 tháng 9
Đã hai giờ đồng hồ trôi qua kể từ khi chúng tôi quyết định liều lĩnh với toan tính thứ hai này. Việc chôn cất một người xấu số nào đó, được bắt đầu từ trưa, vừa kết thúc; bạn bè và gia quyến người quá cố đang lục tục kéo nhau ra về. Ngồi nấp sau một lùm cây, chúng tôi trông thấy rõ người phu đào huyệt - người cuối cùng trong nghĩa địa đang chuẩn bị thu dọn những công việc cuối cùng. Chỉ lát nữa thôi, anh ta sẽ khóa cổng, và chúng tôi sẽ được tự do làm những gì mình muốn cho tới tận sáng mai. Nhưng giáo sư bảo chúng tôi chỉ cần tối đa một tiếng đồng hồ là đủ. Cũng như hôm trước, tôi lại bắt đầu trải qua một cảm giác ghê sợ mơ hồ không sao diễn tả nổi, mặc dù bây giờ đang là ban ngày, và dù tôi đã cố gắng tưởng tượng ra những hình ảnh tốt lành nhất. Tôi hoàn toàn hiểu rằng để làm xong cái công việc khó hiểu này, có thể chúng tôi sẽ phải hứng chịu sự trừng phạt của luật pháp. Hơn nữa, thú thực tôi vẫn tin công việc chúng tôi sắp làm chỉ là một trò vô tích sự? Nếu như việc mở nắp quan tài ra để xem cái thi thể mà người ta đặt vào đó từ hơn một tuần nay đã chết thật hay chưa là một trò ghê tởm, thì việc vất vả quay trở lại nhà mồ một lần nữa để chứng tỏ chiếc quan tài rỗng tuếch như tôi đã tận mắt chứng kiến - bây giờ quả là một hành động hoàn toàn điên rồ! Song tôi không có ý định bình luận gì về điều mình đang nghĩ, vì tôi luôn hiểu một khi Van Helsing đã nung nấu điều gì trong đầu thì khó có ai có thể lay chuyển được ông. Bởi vậy, tôi vẫn lặng im nhìn ông lấy chìa khóa mở cửa nhà mồ. Cũng như lần trước, ông né người sang một bên như một cử chỉ lịch sự nhường lối cho tôi vào trước. Cảnh bên trong nhà mồ có vẻ đỡ rùng rợn hơn buổi đêm khuya, nhưng ánh mặt trời lọt qua khe cửa sao vẫn yếu ớt và mỏng manh quá! Van Helsing bước lại gần quan tài Lucy, tôi lầm lũi bước theo sau. Ông cúi xuống nhấc nắp quan tài và mảnh chì bọc đã cưa rồi lần trước đặt sang một bên. Tôi thật không còn tin ở mắt mình nứa: vâng, lại một lần nữa tôi phải kinh ngạc, kinh ngạc đến khiếp sợ!
Lucy đang nằm trong đó, đúng với tư thế chúng tôi đã chứng kiến khi người ta đặt cô vào quan tài cách đây ít hôm. Có một điều rất lạ là thi thể cô lúc này trông đẹp hơn bao giờ hết, khiến tôi không thể tin là cô đã chết. Cặp môi cô vẫn đỏ như son, còn đỏ hơn so với khi cô còn sống, và cả đôi má kia cũng ửng hồng rạng rỡ như vừa được đánh một lớp phấn hảo hạng.
- Chẳng lẽ lại là một trò ảo thuật? - Tôi hỏi, trong long chưa hết sửng sốt.
- Bây giờ anh đã chịu chưa? - Vừa hỏi, Van Helsing vừa thò tay xuống phía xác chết. Hành động của ông khiến tôi muốn nôn mửa: ông đang vén cặp môi của người đang nằm, để trơ ra hai hàm răng trắng ởn.
- Anh hãy nhìn đi, nhìn cho thật kỹ vào: hai hàm răng cô ta trước kia có nhọn như thế này không? Đây chính là những chiếc răng đã cắn vào cổ mấy cậu bé đây. Bây giờ thì anh không thể nghi ngờ được gì nữa, đúng vậy không, John?
Tôi vẫn muốn cãi lại, muốn phủ nhận những gì là hiển nhiên đối với ông, song lại tuyệt đối không thể chấp nhận được đối với tôi.
- Thế nhỡ đêm hôm qua, có người đã mang thi thể Lucy trả lại đây thì sao?
- Thế hả? Anh thử nói xem kẻ nào vậy?
- Làm sao tôi biết được. Nhưng chắc chắn phải có người đã mang xác chết về chỗ cũ của nó!
- Thì cứ cho là như vậy đi, nhưng Lucy đã chết từ hơn một tuần nay rồi kia mà. Chẳng lẽ sau chừng ấy ngày, xác chết lại không thể thay đổi được sắc diện hay sao?
Đến đây thì tôi chịu cứng họng. Tuy nhiên, Van Helsing chẳng buồn để ý đến sự bế tắc của tôi, đâu đó cũng là một phần tính cách của ông, trong mọi trường hợp, rất ít khi tôi thấy ông tỏ thái độ bực dọc hay thỏa mãn ra mặt. Ông đang chăm chú quan sát khuôn mặt của Lucy, một lần nữa tôi cảm thấy lợm giọng khi thấy ông vạch môi kiểm tra hai hàm răng của kẻ xấu số.
Đoạn ông quay sang bảo tôi :
- Dường như còn có một cái gì đó rất khác biệt với tất cả những gì tôi được biết từ trước tới nay. Chúng ta đang đứng trước một hiện tượng phân đôi hóa cuộc sống rất hiếm khi gặp cô bé này đã bị một con ma cà rồng cắn khi đang trong trạng thái thôi miên, mộng du... ơ kìa? Anh giật mình đấy à? John ạ, đúng là anh không biết thật, nhưng tôi sẽ giải thích để anh hiểu... Khi cô gái rơi vào trạng thái ảo giác, hẳn con ma đó đã tới hút sạch máu trong người cô. Cô đã chết trong trạng thái miên man. Mặt khác, cô cũng trở thành một kẻ không-chết trong cùng một trạng thái bởi chính quyền năng của con ma ấy. Đây là nguyên nhân khiến cô không hề giống với những trường hợp khác. Thông thường, khi những người bất tử ngủ tại “nhà” mình, - giáo sư vừa nói vừa khoát tay như muốn nhắc tôi rằng những con ma cà rồng nào đó đang ở “nhà mình” tại các nghĩa địa - bộ mặt của chúng luôn bộc lộ những nét gớm ghiếc đặc trưng không thể không có ở chúng. Nhưng đằng này, nét mặt Lucy vẫn dịu dàng đến kỳ lạ và chẳng mang một vẻ gì là dấu ấn của quỷ dữ cả. Chính vì vậy mà việc giết Lucy trong lúc cô đang ngủ như thế này là một điều hết sức khó khăn đối với tôi.
Dòng máu trong người tôi như sắp đóng băng lại đến nơi. Dường như cái lý luận của Van Helsing đã dần dần thuyết phục được tôi. Nhưng nếu Lucy chết thật rồi thì việc gì phải sợ khi quyết định giúp cô yên phận một lần nữa kia chứ?
Giáo sư đưa mắt nhìn tôi, không hiểu sao giọng ông lại có vẻ vui hơn trước, có lẽ cảm xúc trong ông đang thay đổi thì phải :
- A! Bây giờ thì anh đã chịu tin tôi rồi, phải vậy không?
- Không đến nỗi nhanh thế đâu. Thú thực là càng muốn thừa nhận ý kiến của ngài bao nhiêu thì tôi lại càng cảm thấy phải suy nghĩ nhiều bấy nhiêu. Thế ngài định giải quyết như thế nào?
- Phải đóng một cái cọc vào thân người kẻ bất tử, nơi bên trái lồng ngực, sau đó bỏ đầy tỏi vào miệng cô ấy.
Suýt nữa tôi lại quát vào mặt giáo sư. Tôi thật không thể chịu nổi cái cảnh người ta băm vằm thân xác của một cô gái mà tôi hằng yêu thương? Tuy nhiên, tôi vẫn cố kìm nén cảm xúc trong lòng. Người tôi bắt đầu run lên khi sực nhớ ra sự tồn tại của một thực thể xa lạ, một kẻ mà giáo sư gọi là người bất tử. Người con gái tôi yêu đã trở thành một loài tồn tại ghê tởm. Chẳng lẽ tình yêu lúc nào cũng mang hai thái cực như vậy sao?
Cái khoảnh khắc chờ đợi Van Helsing ra tay hành động dường như đang kéo dài vô tận. Ông vẫn đứng đó, bất động, chìm nghỉm trong dòng suy tư của mình.
Cuối cùng, tôi thấy ông lấy chân gạt phắt túi đồ sang một bên và nói bằng một giọng thật quả quyết :
- John ạ, tôi đã nghĩ kỹ rồi, cần phải hành động sao cho có hậu nhất. Nếu cứ làm theo thiện kiến của mình, chắc chắn tôi sẽ phải ra tay ngay lập tức - đúng thế, ngay bây giờ. Nhưng không thể không lường trước những hậu quả mà chúng ta chưa thể tưởng tượng nổi. Rõ ràng Lucy chưa giết hại một người nào, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian. Nếu bây giờ ra tay, tôi sẽ vĩnh viễn loại cô ta ra khỏi nguy cơ đe dọa đối với bao nhiêu người. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng không thể không hỏi ý kiến của Arthur. Thú thực tôi vẫn chưa biết phải giải thích toàn bộ câu chuyện với cậu ta như thế nào bây giờ. Nếu như cậu ta đã thấy vết thương trên cổ Lucy và những vết thương trên cổ các nạn nhân nhỏ tuổi trong bệnh viện; nếu như cậu ta đã tận mắt chứng kiến chiếc quan tài, chỉ mới hôm qua thôi, còn rỗng tuếch, nhưng hôm nay đã lại xuất hiện nguyên vẹn một người con gái mà hơn một tuần sau khi qua đời, bỗng trở nên tươi tắn và xinh đẹp hơn bao giờ hết; nếu anh, người đã trực tiếp thấy một bóng trắng mờ mờ ảo ảo lôi kéo một đứa trẻ vào nghĩa địa giữa đêm hôm khuya khoắt hôm qua, còn cảm thấy khó tin ở mắt mình, thì làm sao có thể hy vọng Arthur - người hoàn toàn chưa được tận mắt trông thấy gì cả - sẽ tin ở câu chuyện tôi kể kia chứ? Anh ta sẽ nghi ngờ mà hỏi tại sao tôi lại cản trở anh ta ôm hôn Lucy khi cô ấy sắp chết. Nếu có thứ lỗi cho tôi thì chẳng qua cũng là vì anh ta tin rằng tôi đã ngăn cản anh ta nói lời vĩnh biệt với cô gái do một chẩn đoán sai lầm. Và bây giờ, rất có thể anh ta sẽ tin rằng chính vì sự sai lầm đó mà cô gái đã bị chôn sống. Nói tóm lại, anh ta sẽ nghĩ chính chúng ta đã giết chết cô gái bởi những sai lầm chồng chất. Và thế nào anh ta chẳng nghĩ chúng ta chỉ là những kẻ lừa bịp dốt nát, là thủ phạm giết chết cô gái để cố chứng tỏ việc làm của mình là đúng. Kết quả là càng ngày anh ta càng cảm thấy bất hạnh hơn, và khổ một nỗi anh ta sẽ chẳng bao giờ chắc chắn được một điều gì. Đó chính là điều tệ hại nhất. Khi thì anh ta nghĩ người yêu mình bị người ta đem chôn sống, và thế là những cơn ác mộng nào đó sẽ trở nên quái ác đến bội phần khiến cho anh ta không khỏi hình dung ra những điều khủng khiếp nhất mà cô gái từng phải hứng chịu, khi thì anh ta lại tự nhủ có thể chúng ta đã làm đúng, và rốt cuộc thì cô gái đúng là một kẻ không chết như tôi đã bảo. Chà! Cũng đã có lần tôi nói bóng gió với anh ta về điều tồi tệ nhất có thể xảy ra, nhưng có lẽ chưa bao giờ anh ta tưởng tượng nổi một cảnh trái khoáy và oan nghiệt như thế này. Còn bây giờ tôi chỉ có thể dám chắc được một điều: Arthur cần phải trải qua những giờ phút khó khăn và cay đắng trước khi có một cuộc sống bình yên trọn vẹn mãi sau này. Lạy Chúa! Anh chàng tội nghiệp ấy còn phải tiếp tục trải qua những khoảnh khắc thê lương mà đối với anh ta, bầu trời sẽ như sắp đổi sập xuống. Tuy nhiên, sau đó chúng ta sẽ phải làm sao để anh chàng trở lại với sự bình yên, thanh thản trong lòng. Phải như thế... Bây giờ, có lẽ ta về đi. Anh sẽ quay về với các bệnh nhân của mình. Còn tôi, tôi sẽ qua đêm ở đây, giữa chốn nghĩa địa này. Sáu giờ chiều mai, anh hãy tới tìm tôi ở Khách sạn Berkeley. Tôi sẽ viết vài dòng gửi Arthur để mời anh ta và cả anh chàng người Mỹ Quincey Morris tới đây luôn thể. Tất cả chúng ta đều có rất nhiều việc phải làm... Bây giờ, tôi sẽ cùng anh tới Piccadilly ăn cái gì trước đã, sau đó tôi sẽ cố gắng trở lại đây trước khi mặt trời lặn.
Van Helsing lặng lẽ khóa cửa nhà mồ và cùng tôi đi về phía tường rào nghĩa địa. Tôi trèo ra trước, ông ra sau. Hai chúng tôi lầm lũi trở lại con đường dẫn tới quán trọ Piccadilly.
Thư gửi bác sĩ John Seward của Van Helsing cất trong valy tại khách sạn Berkeley
Ngày 27 tháng 9
“John thân mến,
Tôi phải viết mấy dòng gửi anh đề phòng trường hợp có chuyện bất trắc xảy ra mà không còn cơ hội được gặp lại anh. Tôi phải quay trở lại nghĩa địa để theo dõi tình hình mà tôi đã dự đoán. Tôi muốn ngăn cản người bất tử, tức Lucy, ra khỏi nhà mồ vào tối nay để đêm mai, cô ta càng ham muốn thoát ra khỏi đó hơn. Tôi sẽ gắn vào cửa nhà mồ những thứ mà kẻ không chết đó không thích là tỏi và cây thánh giá, chỉ cần vậy là đủ để giữ cửa cô ta. Có điều tỏi và cây thánh giá chỉ có tác dụng ngăn cản Lucy trốn ra ngoài, chứ không phải là một đảm bảo để cô ta từ bỏ ham muốn ra ngoài đó. Tôi sẽ ở lại nhà mồ suốt đêm, kể từ lúc mặt trời lặn cho tới khi bình minh thức dậy, để nếu có chuyện gì xảy ra còn có cái mà báo cho anh. Về những gì liên quan đến Lucy, hoặc là đối với bản thân cô ta, hoặc là xuất phát từ cô ta, tôi chẳng hề lo ngại.
Điều đáng lo ngại lại xuất phát từ một thế lực nào đó vốn là nguyên nhân biến Lucy thành kẻ không chết kia. Thế lực ấy hiện có quyền năng để tìm đến ngôi mộ của cơ và trú ẩn ở trong đó. Hắn là kẻ cực kỳ xảo quyệt. Tôi nói vậy không phải là chỉ nghe theo lời kể của Jonathan, mà còn căn cứ vào nhiều thủ đoạn kẻ xảo quyệt đó từng giở chiêu trước chúng ta khi hắn can dự vào cuộc đời của Lucy và biến chúng ta thành kẻ thua cuộc. Trong thực tế, người không chết luôn rất khỏe. Một tay hắn có khi còn khỏe hơn cả chúc người. Việc bốn chúng ta lần lượt hiến máu cho Lucy rất cuộc cũng chỉ là việc làm vô ích. Đã thế, thế lực hắc ám ấy còn có quyền năng gọi được cả chó sói và có thể là những hoang thú khác mà tôi còn chưa biết. Nói tóm lại, nếu hắn tới nghĩa địa vào đêm nay, hắn sẽ đụng phải tôi. Nhưng cũng có thể là hắn sẽ không tới. Lãnh địa săn lùng của hắn hẳn sẽ còn nhiều con mồi khờ dại hơn ở cái bãi tha ma hoang. vu này, nơi chỉ có một cô gái trẻ bất tử là Lucy đang ngủ và một ông già là tôi đang thức.
Dù sao thì tôi cũng vẫn cứ viết mấy dòng ngắn ngủi này gửi anh để nếu có bề gì... Anh hãy cầm cuốn nhật ký của Harker, những giấy tờ khác mà tôi đã sắp sẵn cùng với lá thư này, rồi đọc và nghiền ngẫm cho kỹ nhé. Sau đó, anh phải can đảm hơn để thay tôi hành động. Hãy làm như tôi đã nói: dù rất đau lòng, anh cũng phải tìm đến kẻ bất tử ấy để hỏa thiêu trái tim địa ngục hoặc phải đóng cọc vào thi thể của cô ta. Có như vậy mọi người xung quanh chúng ta mới thoát khỏi một tai họa tiềm ẩn do cô ta gây ra sau này.
Chào tạm biệt, hoặc có thể là vĩnh biệt!
Van Helsing.”
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 28 tháng 9
Kể ra ngủ được một đêm đối với tôi lúc này cũng là một điều rất tất. Hôm qua, tôi hầu như đã chấp nhận hết các ý tưởng quỷ quái của Van Helsing. Tôi không còn nghi ngờ việc ông luôn tin vào những gì ông đã kể, song thỉnh thoảng tôi vẫn tự hỏi có lúc nào đầu óc ông bị rối loạn hay không. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận ông có một cách giải thích rất phù hợp với tất cả những điều mà tôi thấy là bí ẩn kia. Hơn nữa, ông còn là người thông minh và kiên quyết đến ngoan cố. Mỗi khi hăng tiết lên, ông sẽ tìm mọi cách để thực hiện cái ý định của mình - cho dù đó là ý định gì và tất nhiên, chẳng có gì có thể cản trở được ông. Thú thực tính cách của ông cũng có đôi lúc làm tôi phiền lòng, và điều tôi sợ nhất lúc này là có người bảo ông điên! Nhưng nói gì thì nói, bây giờ tôi sẽ phải luôn để mắt tới ông, bởi trên đời này chẳng có chuyện gì là không thể xảy ra! Dĩ nhiên, tôi cũng phải xác định xem có ánh sáng nào dẫn đến câu chuyện bí ẩn kia hay không.
* * * * *
Ngày 29 tháng 9
Khoảng gần mười giờ tối hôm qua, Arthur và Quincey rủ nhau đến phòng Van Helsing. Giáo sư đã nới với chúng tôi những gì ông chờ đợi ở từng người, song người ông quan tâm nhiều hơn cả tất nhiên vẫn là Arthur, cứ như thiện ý của tất cả chúng tôi chỉ tùy thuộc ở anh ta không bằng.
Ông bắt đầu câu chuyện bằng việc bày tỏ hy vọng cả ba chúng tôi sẽ nghe theo lời ông, “bởi chúng ta - ông nói cụ thể phải cùng nhau hoàn thành một nhiệm vụ vừa thiêng liêng vừa rất khó nhọc.” - Chắc là anh đã rất ngạc nhiên khi đọc thư tôi? – Ông hỏi Arthur.
- Vâng, quả là như vậy. - Arthur trả lời. - Tôi đã có quá nhiều chuyện phiền muộn, quá nhiều điều phải bận tâm trong thời gian qua. Cầu mong tôi có đủ nghị lực để dễ dàng vượt qua tất cả! Tôi và Quincey đã nói với nhau rất nhiều về lá thư của ngài. Chúng tôi chưa hiểu chính xác lá thư ấy định nói gì. Càng bàn, chúng tôi càng không hiểu. Tôi chỉ có thể nói dù đã nghĩ nát óc, rất cuộc tôi vẫn chẳng rõ...
- Cả tôi cũng chịu chết, thưa giáo sư. - Quincey ngắt lời.
- Ồ? Vậy thì các anh sẽ hiểu vấn đề nhanh hơn anh bạn John đây. Ánh ta đã phải đì đẹt suốt cả một chặng đường dài, để bây giờ mới bắt đầu láng máng nhìn ra những gì ngay trước mặt.
Rõ ràng là dù tôi chưa tham gia một lời nào, ông vẫn đoán được là tôi còn chưa hết nghi ngờ. Ông quay sang giải thích với hai vị khách kia bằng một vẻ hết sức nghiêm trọng :
- Tôi định xin các anh cho phép tôi tối nay được làm cái việc mà tôi cân nhắc là phải làm. Có thể tôi đòi hỏi ở các anh hơi nhiều. Chỉ khi nào biết ý định của tôi, các anh mới cân đong những đòi hỏi mà tôi đưa ra. Vậy tôi có thể đề nghị các anh cho phép tôi mà không cần quan tâm đến việc tôi phải làm là gì, để sau đó, nếu muốn, - điều này tôi nghĩ rất có thể xảy ra - các anh cũng chẳng có gì phải tự trách mình không?
- Vậy thì xin giáo sư cứ nói thẳng ra. - Quincey sốt sắng đề nghị. - Tôi tin ở giáo sư. Dù chưa biết ngài đi về đâu, nhưng lúc nào tôi cũng hiểu rằng trong bết cứ hoàn cảnh nào, dự định của ngài cũng đều là tất đẹp. Và với tôi, chỉ cần thế là đủ.
- Cảm ơn anh bạn trẻ. Thật vinh dự khi có một người bạn đáng tin cậy như anh, và sẽ chẳng bao giờ tôi quên được điều đó Van Helsing đáp lễ và chìa tay cho Quincey.
- Thưa bác sĩ Van Helsing, - Đến lượt Arthur lên tiếng - tôi thật không muốn mua mèo trong túi như người ta vẫn nói, nhưng điều tôi lo ngại là ở chỗ nếu danh dự của một nhà quý tộc và đức tin ở Chúa lòng lành của tôi bị tổn hại, thì chắc chắn tôi không thể đưa ra lời hứa như ngài đã đề nghị. Ngược lại, nếu ngài đảm bảo với tôi điều mà ngài định làm không gây nguy hại đến người này hay người khác, thì tôi có thể để ngài được tự do hành động ngay bây giờ, cho dù tôi không rõ là ngài đang dự định điều gì.
- Tôi xin chấp nhận các điều kiện của anh, - Van Helsing đáp lời - và tất cả những gì tôi đề nghị bây giờ là trước khi phản đối hành động này hay hành động khác của tôi, các anh hãy nên suy nghĩ và tìm hiểu cho thật kỹ xem tôi có gì không đáp ứng được các điều kiện đó không.
- Đồng ý - Arthur hứa. - Bây giờ tôi có thể hỏi ông về những gì chúng tôi sẽ phải làm được rồi chứ?
- Tôi muốn các anh sẽ cùng tôi tới nghĩa trang Kingstead với một ý thức giữ bí mật tối đa.
Althur sửng sốt hỏi lại, mặt như dài ra :
- Tới nghĩa trang Lucy đang yên nghỉ?
Giáo sư gật đầu trả lời.
- Thế rồi sao nữa?
- Sao nữa à? Chúng ta sẽ cùng vào nhà mồ nhà cô ấy.
Arthur đứng bật dậy.
- Bác sĩ Van Helsing, ngài không đùa đấy chứ?... Xin lỗi, nhìn ngài thì không có vẻ gì là không nghiêm túc ở đây cả.
Arthur lại từ từ ngồi xuống, rõ ràng anh đang cố giữ ý tứ. Ngồi trầm ngâm một lát, anh mới hỏi nhỏ, vẻ nhượng bộ :
- Thế khi nào chúng ta vào trong đó?
- Chúng ta sẽ mở nắp quan tài của Lucy. - Van Helsing nói tiếp mà không trả lời thẳng vào câu hỏi của Arthur.
- Ngài thật quá quắt! - Arthur đứng phắt dậy, vẻ tức giận ra mặt. - Cái gì cũng vừa vừa, phai phải thôi chứ! Tôi chỉ có thể kiên nhẫn trong chừng mực nào đó, nhưng đằng này... cái kiểu làm ô ụế chỗ an nghỉ... của một người đã...
Cơn thịnh nộ làm cho Arthur không thể nói được nữa.
Van Helsing buồn buồn nhìn anh, vẻ thương hại :
- Anh bạn tội nghiệp ạ, nếu như tôi có thể tránh gây cho anh bị xúc động mạnh như vậy thì chắc rằng Chúa luôn biết tôi sẽ làm điều đó? Nhưng đêm nay, chúng ta vẫn buộc phải đi vào một con đường đầy chông gai, nếu không sau này, mãi mãi về sau này, người con gái.anh hằng yêu thương sẽ phải chìm ngập trong những nẻo đường đầy lửa bỏng của địa ngục!
Arthur ngước mắt nhìn ông bác sĩ già, mắt tái dại đi.
- Thưa ngài bác sĩ, xin ngài ăn nói cẩn thận cho!
- Có lẽ trước hết, các anh hãy chịu khó lắng nghe tôi nói ra những gì tôi phải nói đi. - Van Helsing điềm tĩnh đáp lại. Nói cho cùng thì anh vẫn rất cần phải biết ý định của tôi. Anh cớ muốn tôi nói ngay cái ý định đó ra bây giờ không?
- Có khi nên thế thì tốt hơn! - Quincey muốn nói như muốn làm dịu đi bầu không khí nặng nề của cuộc nói chuyện.
Van Helsing ngồi yên lặng một hồi lâu, dường như ông đang chuẩn bị tinh thần để nói ra cái điều mà ông thấy là rất khó nói. Cuối cùng, ông vẫn phải đi thẳng vào vấn đề :
- Cô Lucy đã chết rồi, đúng không ạ? Tất nhiên ai trong chúng ta cũng biết điều đó. Nếu đúng là như vậy thì sẽ chẳng có gì làm hại được cô ấy. Nhưng nếu cô ấy không chết thì...
Arthur bỗng nhảy chồm đậy và gào lên :
- Lạy Chúa? Ngài đang lải nhải cái gì thế? Chẳng lẽ lại là một trò bịp bợm ? Chẳng lẽ người ta đã chôn sống cô ấy?
- Tôi không nói là khi đó, cô ấy còn đang sống, anh bạn ạ, và tôi cũng không hề nghĩ như vậy. Tôi chỉ nói có thể cô ấy đã trở thành một kẻ không chết, thế thôi.
- Không chết? Rồi lại không sống nữa chứ gì? Ngài nói như vậy là thế nào? Chẳng lẽ tôi vẫn chưa qua được cơn ác mộng của đời mình hay sao?
- Trên đời luôn có những điều bí ẩn mà trí tuệ con người chỉ biết phỏng đoán mà chẳng biết phải lý giải như thế nào; cũng có những bí ẩn mà mỗi thế kỷ trôi qua, người ta chỉ dần dần làm sáng tỏ được từng phần nội dung của nó mà thôi. Xin hãy tin ở tôi, anh bạn ạ, quả thực chúng ta đang đứng trước một bí ẩn như vậy, và hy vọng chúng ta sẽ tìm được chìa khóa của nó. Hãy cứ để tôi tiếp tục công việc với sự cho phép của anh. Anh sẽ cho phép tôi đóng cọc vào người Lucy chứ?
- Ối trời cao đất dày ơi - Arthur bỗng rống lên thảm thiết, có vẻ như cơn tức giận và sự đau khổ của anh đã lên tới tột độ - Ôi, Chúa ơi! Đừng hòng có chuyện tôi để người ta làm nhục cô ấy. Bác sĩ Van Helsing, ngài làm giọt nước tràn ly rồi đấy! Tôi đã làm gì nên nông nỗi để ngài phải hành hạ tôi như vậy? Lucy có tội tình gì khiến ngài phải lôi bạn bè đến làm ô uế nơi an nghỉ của cô ấy như vậy? Ngài bị điên khi nói ra những lời rồ dại ấy, hay tôi điên khi phải nghe những lời ngài nói? Từ rày trở đi, xin ngài đừng mơ tưởng có thể làm ô uế nơi an nghỉ của cô ấy. Đừng hòng nhé! Tôi phải che chở cho cô ấy, Chúa sẽ chứng giám rằng tôi sẽ tìm mọi cách để làm tròn nghĩa vụ của mình?
Van Helsing rời khỏi đivăng, nơi ông ngồi từ nãy đến giờ, và nghiêm giọng đáp lại :
- Cả tôi cũng vậy, huân tước Godalming ạ, tôi cũng có một nghĩa vụ buộc phải hoàn thành mà không thể nào khác được. Đó là nghĩa vụ đối với mọi người, với chính anh và người con gái đã nằm xuống ấy. Tất cả những gì tôi cần ở anh bây giờ là tin ở tôi, theo tôi đến nghĩa trang để tận mắt chứng kiến, để thấy, để nghe những gì sẽ xảy ra. Sau đó, nếu tôi vẫn đưa ra lời đề nghị như vừa rồi và anh không tiện trả lời, thì tôi xin được... xin được thực hiện nghĩa vụ của mình trong trường hợp cần thiết. Mọi chuyện tôi sẽ giải thích với anh sau.
Giọng ông nhỏ dần, rồi im lặng, rồi lại chợt khẽ vang lên, nhưng lần này có vẻ hơi tủi thân :
- Nhưng tôi cầu xin anh hãy đừng giận tôi nữa! Trong suốt cuộc đời mình, chẳng mấy khi tôi được làm những việc dễ chịu cả. Thậm chí đã có lúc tôi phải giáp mặt với những việc đau xé lòng mà không thể bỏ qua. Anh tưởng tôi không biết nghĩ sao? Tôi cũng buồn lắm chứ, tê tái lắm chứ! Nhưng đời là vậy mà! Có mấy ai lúc nào cũng được như mong muốn của mình đâu. Tuy nhiên, tôi cùng phải thừa nhận rằng chưa bao giờ tôi phải làm tròn một bổn phận nào khó khăn như cái bổn phận đang chờ đợi tôi. Hãy tin ở tôi, anh bạn ạ, hãy tin là nếu có một ngày, tình cảm của mọi người đối với tơi bỗng thay đổi hẳn, chỉ còn lại tình cảm của một người bạn như anh thôi... Với tôi, như vậy cũng là quá đủ để xua đi những ưu phiền về cái giờ phút buồn tủi này, bởi tôi đã làm cái mà một con người có thể làm để anh vợi đi phần nào những vết thương lòng. Anh cứ thử nghĩ mà xem? Tại sao tôi phải lăn lộn như thế! Tại sao tôi cứ nhất nhất phải chuốc vào mình những việc phiền phức đến thế? Tôi từ Hà Lan sang đây để hết lòng chăm sóc một bệnh nhân. Đầu tiên, tôi đến chỉ là để đáp lại lời mời của anh bạn John đây. Sau đó, tôi đã không quản ngày đêm để chữa trị cho một cô gái - người đã dần dần mang lại trong tôi cảm hứng của một tình bạn thật sự. Biết nhắc lại chuyện này là không hay, nhưng tôi vẫn phải nói tôi cũng đã từng hiến máu cho cô ấy, giống như anh đã từng làm với dòng máu từ trái tim mình. Vâng, tôi đã cho cô gái một phần dòng máu của tôi. Song chỉ có điều với cô ấy, anh là một người chồng chưa cưới, còn tôi, tôi chỉ là một thầy thuốc và hơn chăng cũng chỉ là một người bạn. Tôi đã dành cho cô ấy trọn nhiều ngày, thậm chí là nhiều đêm nữa, và tôi không chỉ làm vậy trước khi cô ấy chết, mà còn suất cả thời gian cô ấy không còn sống nữa. Nếu như cái chết của tôi có thể làm nhẹ đi phần nào cái số mệnh nghiệt ngã của cô gái, người hiện đã trở thành một kẻ bất tử, thì tôi xin được sẵn sàng ngay lập tức.
Thật không khó để nhận ra trong giọng nói của Van Helsing có hàm chứa một cái gì đó thật chua chát, song cũng không thiếu sự cảm thông. Tôi hiểu Arthur cũng đang rất xúc động trong một tâm trạng rối bời, bởi sau một hồi im lặng ngồi nghe vị giáo sư tâm sự, anh đã run run đứng dậy bắt tay ông như một cử chỉ hối hận, và đáp lại bằng một giọng như đứt hơi :
- Trời ơi! Mọi sự sao mà rối bời, tang thương và khó hiểu đến thế! Nhưng thôi được, tôi sẽ theo giáo sư đến nghĩa trang. Rồi chúng ta sẽ thấy...
Gần nửa đêm, chúng tôi trèo tường vào nghĩa địa. Trời tối đen như mực, trừ những lần hiếm hoi mảnh trăng khuyết bất ngờ xuất hiện lấp ló sau những đám mây khổng lồ lững lờ trôi. Van Helsing dẫn đường, chúng tôi bám sát theo sau. Đến gần ngôi mộ, tôi phải để mắt tới Arthur, vì tôi sợ những kỷ niệm buồn có thể sẽ làm anh xúc động mạnh. Nhưng cũng may là anh còn làm chủ được mình. Có lẽ câu chuyện khó hiểu mà Van Helsing vừa nói ra đã ít nhiều làm anh quên mất những ưu tư trong lòng. Thấy chúng tôi ai cũng có vẻ do dự, giáo sư bèn mở cửa vào trước. Đợi chúng tôi vào hết, ông khép cửa, thắp đèn, và chỉ nơi đặt quan tài của Lucy. Arthur chần chừ đi trước, trong khi Van Helsing hỏi chuyện tôi.
- Hôm qua, anh đã tới đây với tôi. Lucy không còn nằm trong quan tài, đúng không?
- Đúng thế!
Đoạn ông quay sang bảo hai anh chàng còn lại :
- Các anh nghe thấy rồi chứ? Thế mà vẫn còn có người không tin tôi đấy!
Van Helsing lại đến bên quan tài, khom người mở vít, nhấc chiếc nắp gỗ sang một bên. Arthur im lặng trố mắt đứng nhìn, mặt tái xanh. Khi nắp gỗ được đặt ra ngoài, anh hồi hộp tiến lại gần hơn. Rõ ràng anh không biết bên trong quan tài còn có một lớp bọc chì. Nhìn thấy vết cắt trên lớp vỏ chì, mặt anh chợt đỏ bừng lên, rồi lại tái đi. Van Helsing nhấc tiếp mảnh chì bị cắt, chúng tôi giương mắt nhìn kinh ngạc.
Chiếc quan tài lại rỗng không!
Chúng tôi chết lặng người, chẳng ai nói với ai một lời. Cuối cùng, Quincey Morris là người lên tiếng trước :
- Thưa giáo sư, như tôi đã nói, tôi rất tin ở ngài. Lời nói chân tình của ngài đủ làm tôi tin. Bình thường, tôi sẽ chẳng đặt ra cho ngài một câu hỏi nào để rồi ngài lại bảo tôi vẫn ngờ vực ngài, nhưng ở đây, chúng ta đang đứng trước một bí ẩn hoang đường đến nỗi tôi không thể không hỏi ngài một câu Ai đã làm nên chuyện này vậy, thưa ngài?
- Trước tất cả những gì linh thiêng nhất, tôi xin thề với các anh rằng tôi không mang cô gái ra khỏi nơi đây và cũng tuyệt đối không dính dáng gì đến chuyện này. Chuyện xảy ra là thế này: tối hôm kia, tôi và anh bạn John đã tới đây vì những ý định tất đẹp nhất, xin cứ tin ở tôi. Tôi đã mở nắp quan tài, khi đó còn gắn xi kín, và nhận thấy trong quan tài chẳng có gì cả, y như bây giờ vậy. Vì thế, chúng tôi quyết định đứng rình ở bên ngoài và quả thực chúng tôi đã phát hiện ra một bóng người mặc toàn đồ trắng chập chờn xuất hiện giữa các bóng cây. Hôm qua, chúng tôi lại quay lại đây, nhưng là vào ban ngày, và trông thấy Lucy đã nằm trong này từ lúc nào. Tôi nói vậy có phải không, anh bạn John?
- Phải.
- Đêm đầu tiên, chúng tôi đã đến kịp thời. Lại thêm một cậu bé nữa bị mất tích, nhưng ơn Chúa, chúng tôi đã tìm thấy cậu ta giữa những nấm mồ và cũng may là chưa hề bị thương gì. Hôm qua, sau khi tới một lần vào bàn ngày, tôi có quay trở lại đây ngay trước lúc mặt trời lặn, bởi trong thời gian mặt trời lặn, những kẻ bất tử có thể ra khỏi mộ. Tôi ngồi đợi ở đây suất từ lúc ấy cho tới sáng, nhưng không trông thấy gì bất bình thường. Đơn giản là vì tôi đã treo tỏi và cây thánh giá, tức là những thứ mà người bất tử rất kỵ, lên cánh cửa nhà mồ. Đêm hôm nọ, người bất tử đã bỏ ra ngoài. Hôm nay cũng vậy, trước lúc mặt trời lặn, tôi đã tới gỡ tỏi và thánh giá ở trên cửa xuống. Chính vì vậy mà chiếc quan tài mới rỗng không như thế này. Nhưng cứ theo tôi cái đã, còn có những chuyện kỳ dị hơn sắp xảy ra nữa đấy. Hãy cùng tôi nấp ở một chỗ không xa đây lắm, rồi các anh sẽ biết tôi nói thật hay nói láo. Nào, ra khỏi đây thôi.
Ông đậy lại nắp đèn lồng, đợi chúng tôi ra hết để khóa cửa.
Chà! Ra ngoài này mới thấy không khí mát mẻ và dễ thở hơn ở trong cái nhà mồ rùng rợn kia nhiều Thật dễ chịu khi được trở lại với những đám mây hững hờ rong ruổi trên bầu trời đêm. Tôi chợt cảm thấy ánh trăng nhạt nhòa lấp ló giữa những đám mây tang bồng mang đủ hình thù kỳ lạ kia là một khoảnh khắc dịu êm hiếm hoi, vụt cắt ngang qua những phiền muộn đang trĩu nặng trong lòng mình. Cũng thật nhẹ người khi được hít thở cái không khí ít chở nặng mùi xú uế và chết chóc ở bên ngoài. Tôi phần nào thấy yên tâm trong lòng khi nhận ra những tia sáng mảnh mai đầu tiên đang sắp sửa ló rạng sau một ngọn đồi xa xa và những âm thanh thật mơ hồ vọng tới từ một thành phố lớn. Nhưng dù vậy, nét mặt chúng tôi vẫn không giấu được vẻ căng thẳng khi ra khỏi nhà mồ. Arthur vẫn lặng im, tôi đoán anh đang cố vắt óc suy nghĩ tại sao lại xảy ra những chuyện vô lý ấy. Còn tôi, càng ngày tôi càng cảm thấy bị thuyết phục bởi những kết luận mà Van Helsing đã đưa ra. Trong khi đó, Quincey vẫn không có biểu hiện gì, hay nói đúng hơn, trông anh có biểu hiện của một người đã thừa nhận tất cả những gì người khác nói, nhưng là thừa nhận một sự nghi hoặc trong lòng. Biết là không thể châm thuốc hút, anh lấy sợi thuốc vê bỏ vào miệng nhai. Về phần mình, Van Helsing vẫn mải mê với công việc. Ông lấy một vật gì đó trông giống như một chiếc bánh quy, hoặc một chiếc bánh thánh mỏng, được gởi cẩn thận trong một mảnh khăn trắng, rồi tiếp đó là hai vốc chất gì đó trăng trắng là bột mì thì phải. Ông bóp vụn miếng bánh quy và trộn lẫn bột thành một cục. Sau đó, ông về bột thành những sợi dài và mảnh để trát kín vào các khe cửa nhà mồ. Việc ông làm không khiến tôi ngạc nhiên, nhưng tôi vẫn hỏi xem ông làm như vậy là vì mục đích gì. Cả Arthur và Quincey cũng tò mò sán lại gần nghe ông giải thích :
- Tôi làm vậy cốt là để người bất tử không thể trở lại trong ấy được.
- Chẳng nhẽ cái bột vớ vẩn ấy cũng có tác dụng thế sao?
- Quincey hỏi, vẻ không tin. Tôi thấy cứ như là ngài đang đùa ấy!
- Đùa à?
- Nhưng thực ra ngài đã dùng những thứ gì vậy? - Đến lượt Arthur tò mò hỏi.
- Bánh thánh. Tôi đã cất công mang đi từ Amsterđam. Giáo hoàng cho tôi đấy.
Câu trả lời của Van Helsing đã khéo đánh vào sự hoài nghi của chúng tôi và dĩ nhiên, ai cũng phải cảm thấy rằng trước ý định nghiêm túc như vậy của giáo sư, một ý định khiến ông phải sử dụng tới một vật linh thiêng nhất, chúng tôi không thể nghi ngờ gì được nữa. Sau khi lấp kín các khe cửa bằng thứ bùa thiêng ấy, ông chỉ chỗ nấp xung quanh nhà mồ cho từng chúng tôi. Chỗ ông chọn cũng thật khéo. Từ chỗ nấp của mình, chúng tôi có thể bao quát được một tầm khá rộng, nhưng ngược lại, không một người ngoài nào có thể phát hiện ra chúng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy ái ngại cho hai người bạn cùng đi, nhất là Arthur. Dầu sao thì tôi cũng thấy quen với cảnh vật lờ nhờ ghê sợ nơi tha ma hơn họ nhờ những lần đi trước. Tuy nhiên, nếu chưa đầy một giờ đồng hồ trước tôi còn phủ nhận những chứng cứ mà Van Helsing đã đưa ra, thì bây giờ tôi lại thấy tim mình như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi mơ hồ cảm thấy sự thực càng ngày càng đúng là sự thực. Chưa bao giờ tôi cảm thấy các ngôi mộ trong đêm lại hiện lên toàn một màu trắng mờ ảo đáng sợ đến như vậy. Chưa bao giờ những cây bách, cây thông quả đỏ, cây đỗ tùng kia lại bao trùm một vẻ bi ai đến vậy. Từng lùm cây, ngọn cỏ trước mắt tôi cũng chưa bao giờ rung lên trước gió với một vẻ ma quái như thế. Nhìn đâu tôi cũng thấy bí ẩn, lạnh lẽo và thê lương, ngay cả những tiếng rền rĩ, tru tréo của bầy chó nhà từ xa xăm vọng tới cũng khiến tôi liên tưởng đến một điềm gở nào đó đang sắp đổ ập xuống cõi địa ngục này.
Chúng tôi ngồi chờ đợi trong im lặng, một sự im lặng sâu thẳm khiến tôi có cảm giác như có thể nghe rõ cả tiếng kêu than ai oán của những oan hồn dưới lòng đất. Tôi chợt giật mình khi nghe tiếng kêu khe khẽ của giáo sư: “Ssuỵt... suỵt suỵt!” Ông giơ tay chỉ về phía một cái bóng lờ nhờ trắng như sương mù đột ngột xuất hiện giữa những cây thông quả đỏ đang tiến về phía chúng tôi.
Đúng một bóng người mặc bộ đồ trắng đang ôm trên ngực một cái gì đó tôi tối. Cái bóng bồng bềnh bỗng dừng lại đúng vào lúc mảnh trăng bất ngờ xuất hiện giữa hai đám mây đen: đó là một người đàn bà khoác trên mình một tấm vải liệm. Chúng tôi không nhìn rõ khuôn mặt của ả, bởi ả đang cúi đầu xuống cái mà ả đang ôm trên tay. Dưới ánh trăng mờ tỏ, chúng tôi nhận ngay ra một đứa trẻ tóc vàng. Chúng tôi giật mình khi nghe thấy một tiếng kêu ré lên giữa đêm trăng. Âm thanh ấy tựa hồ tiếng một đứa trẻ giật mình thảng thốt trong giấc ngủ, hoặc một tiếng chó hất hoảng trong cơn mê gần đống lửa. Chúng tôi định nhảy bổ về phía ả, nhưng Van Helsing, lúc này vẫn đang nấp sau một cây thông trước tầm mắt chúng tôi, đã phẩy tay ra hiệu dừng lại. Cái bóng trắng ấy tiếp tục cất bước khi những đám mây che kín mảnh trăng con. Thoắt một cái đã thấy ả xuất hiện ngay trước mắt chúng tôi. Dưới ánh trăng một lần nữa bất ngờ ló rạng sau giữa những đám mây, khuôn mặt ả hiện lên khá rõ. Tim tôi như chết đứng, cùng lúc đó, tôi nghe thấy tiếng kêu thất kinh của Arthur: chúng tơi vừa nhận ra những nét quen quen của Lucy. Lucy Westenra, nhưng sao cô có nhiều thay đổi đến như vậy? Sự dịu dàng mà chúng tôi từng biết nơi cô đã nhường chỗ cho sự thô cứng, tàn nhẫn và độc ác. Khuôn mặt ngây thơ thuở nào nay đã bị hằn sâu bởi ham muốn nhục dục. Van Helsirlg rời khỏi nơi ẩn nấp, chúng tôi cũng bật dậy lao ra, bốn chúng tôi đứng chắn trước cửa nhà mồ. Van Helsing mở nắp đèn lồng, giơ cao lên ngang ngực, để ánh sáng hắt vào mặt người đàn bà trước mặt.
Lạy Chúa! Cặp môi ả đang ướt ướt đỏ máu tươi, vâng, máu chảy thành một dòng xuống cằm và rớt cả xuống cổ áo. Một lần nữa chúng tôi cảm thấy rùng mình ớn lạnh. Trong ánh đèn lồng chờn vờn, tôi biết ngay cả bộ thần kinh thép của giáo sư Van Helsing cũng ít nhiều bị chao đảo. Arthur đứng bên tôi, nếu không có tôi chạy tới đỡ một tay, chắc là anh đã ngã khuỵu xuống đất rồi.
Trong khi đó, Lucy tôi gọi kẻ đang đứng trước mặt là Lucy, bởi ả mang hình hài của Lucy vừa lùi lại phía sau vừa kêu hộc lên một tiếng đầy tức giận, giống như một con chuột bị sập bẫy, và đưa ánh mắt hằn học nhìn hết người này đến người khác. Về hình dáng bề ngoài và màu sắc thì đó đúng là đôi mắt của Lucy, nhưng về ánh mắt thì không, sự dâm ô và hằn học của lửa địa ngục đã thế chỗ cho sự ngây thơ và dịu dàng trong ánh mắt của người con gái tôi yêu ngày nào. Những gì còn vương lại trong tình yêu của tôi lập tức biến thành một cảm giác hận thù và kinh tởm. Tôi bỗng muốn chính tay tôi được làm việc kết thúc sự tồn tại trong tội lỗi của ả. Vẫn bằng cái nhìn sáng quắc và độc ác, ả cất tiếng cười nhăn nhở, ngây ngô và đầy tà dâm. Nhìn ả mà lợm giọng!... Và vôi hành động của một con quỷ cái, ả bất ngờ quẳng đứa trẻ mà ả vẫn ôm từ bấy đến giờ xuống trước mặt, miệng ả gầm lên một tiếng vừa tức giận, vừa như tiếc rẻ. Trông ả chẳng khác nào một con chó đói buộc phải từ bỏ một miếng xương béo ngậy.
Đứa trẻ kêu ré lên một tiếng khiếp đảm rồi nằm im một chỗ, miệng rên rỉ không ngớt. Sự nhẫn tâm như không của ả khi vứt đứa trẻ xuống đất khiến Arthur hộc lên một tiếng đau đớn. Sau hành động không còn nhân tính ấy, ả lừ lừ tiến về phía Arthur: ả vừa cười vẫn nụ cười lả lơi lời mời chào ấy vừa chìa hai tay ra trước, mắt long lanh nhìn người tình của dĩ vãng. Arthur chỉ còn biết lùi lại, hai tay bưng mặt sợ hãi.
Nhưng ả vẫn lừ lừ bước tới, vừa đi vừa gọi tên bạn tôi, giọng ả nghe du dương như không có thật trong cuộc đời này, hai tay ả đong đưa như mơn chớn vào hư không :
- Lại đây với em đi, Arthur. Đừng theo các bạn anh nữa, hãy đến với em đi. Em muốn được ôm anh trong vòng tay ân ái! Lại đây! Từ giờ trở đi, chúng ta sẽ yên nghỉ cùng nhau? Ôi, lại đây nào, người chồng của em? Lại đây với em nào!
Giọng nói dịu dàng nhưng ma quái của ả, tựa hồ tiếng kêu lách cách của thủy tinh va vào nhau, cứ ngân mãi, ngân mãi trong đầu tôi. Trong khi đó, Arthur như bị mê hoặc, hai tay anh không còn ôm mặt mà dang rộng ra như chờ đón ả. Chỉ đợi có vậy, người đàn bà dâm đãng lập tức lao vào đôi tay của người bị bùa ngải như muốn tìm một chỗ ẩn náu an toàn. Nhưng ngay lúc đó, Van Helsing đã nhảy ra chặn đường ả với cây thánh giá vàng giơ ngang trước mặt. Kẻ không chết lập tức lùi lại, mặt ả giật giật trong một cơn giận cuồng loạn, ả nhảy tránh sang một bên và chạy nhanh về phía nhà mồ như muốn trốn vào trong đó.
Nhưng khi chỉ còn cách cửa nhà mồ chừng một, hai bước chân, ả bỗng khựng lại bởi một sức mạnh vô hình bất khả kháng đã ngăn ả tiến xa hơn. Không thể làm gì khác, ả quay phắt lại nhìn chúng tôi, mắt long sòng sọc dưới ánh trăng thanh và ánh đèn lồng trên tay vị giáo sư già. Chưa bao giờ tôi trông thấy một bộ mặt như thế. vừa ai oán, vừa bất cần. Hy vọng sẽ không bao giờ có ai phải chứng kiến một bộ mặt như vậy nữa. Đôi má ả, khi nãy hồng hào là thế, giờ bỗng biến thành một màu tái xám, chỉ có ánh mắt ả là vẫn thế đầy những tia hằn học và tối tăm đúng như đôi mắt của một kẻ thoát lên từ địa ngục. Vầng trán ả hằn sâu những nếp nhăn ngoằn ngoèo như những con rắn giun, còn cái miệng với đôi môi gợi tình đỏ mọng một màu máu tươi đang há hốc thành một hình vuông, trông chẳng khác nào những chiếc mặt nạ tượng trưng cho sự tức giận của người Thổ hay người Nhật Bản. Nếu như bao giờ có một bộ mặt thông báo một án tử hình, hoặc trên đời có những cái nhìn đủ khả năng giết người, thì chúng tôi đã có ngay trước mặt một bộ mặt và cái nhìn như vậy rồi.
Trước mắt tôi, ả vẫn đứng trơ trơ giữa một bên là cây thánh giá vàng mà Van Helsing đang cầm trên tay, và một bên là nhà mồ có những khe cửa được gắn kín bằng bánh thánh. Chừng nửa phút trôi qua, vị giáo sư già chợt phá tan sự im lặng bằng câu hỏi Arthur :
- Nói đi, anh bạn... Trả lời tôi đi, tôi có nên tiếp tục công việc không?
Arthur quỳ sụp xuống, hai tay bưng mặt, trả lời trong tiếng nấc nghẹn ngào :
- Ngài cứ việc làm như ngài đã định... Hãy cứ làm như ngài đã định... Sẽ chẳng bao giờ có gì khủng khiếp hơn thế này đâu.
Tiếng nấc của anh lúc này đã biến thành những tiếng rên rỉ đau đớn, nếu tôi và uincey không tới đỡ, có lẽ anh đã khuỵu xuống.
Van Helsing đặt cây đèn lồng xuống đất và đi về phía cửa nhà mồ, không hiểu sao ông lại bóc các lớp bùa ra khỏi khe cửa. Và khi ông lui sang một bên, chúng tôi không khỏi sửng sốt kinh ngạc khí chứng kiến cảnh tượng hãi hùng xảy ra ngày trước mắt: ả đàn bà bằng xương, bằng thịt kia đã dễ dàng chui qua một khe cửa hẹp mà tôi nghĩ lưỡi dao nhét vào còn khó chứ chưa nói gì đến một vật dày dặn hơn Tuy nhiên, chúng tôi đã phần nào bởi lo sợ khi thấy giáo sư điềm nhiên lấy những mảnh bột khi nãy bịt kín các khe cửa lại như cũ.
Đoạn ông chạy ra bế lấy đứa trẻ và bảo chúng tôi :
- Có lẽ ta về thôi. Bây giờ chưa thể làm được gì đâu. Trời sắp sáng rồi, trưa nay lại có thêm một đám ma nữa, chúng ta phải đợi họ làm xong đã. Chúng ta sẽ có mặt khi người phu đào huyệt khóa cổng nghĩa địa. Còn rất nhiều việc phải làm, nhưng chuyện sẽ hoàn toàn không giống như gì chúng ta vừa bận tâm. Còn cậu bé này, có vẻ như không có gì trầm trọng lắm, có thể chỉ tối mai là cậu ta bình phục thôi. Bây giờ, thế này nhé, chúng ta sẽ thả cậu nhóc ở một chỗ nào đó mà cảnh sát có thể dễ dàng nhìn thấy, giống như trường hợp của nạn nhân hôm trước ấy, sau đó chúng ta sẽ cùng về.
- Arthur này, ông vừa an ủi vừa bước lại gần anh tôi biết sự thật xảy ra trước mắt thật khủng khiếp với anh, nhưng rồi sau này, khi nhớ lại, anh sẽ hiểu mọi việc chúng ta làm bây giờ đều rất cần thiết. Những giờ phút cay đắng mà tôi vừa kể, và cả những khoảnh khắc anh đang sống bây giờ nữa, ơn Chúa, rồi sẽ sớm qua đi và anh sẽ có những năm tháng thảnh thơi nhất, cho dù đó chưa phải là một hạnh phúc trọn vẹn. Tôi sẽ không để anh phải đánh vật mãi với những ưu phiền trong lòng đâu.
Tôi đưa Arthur và Quincey về nhà mình. Trên đường đi, chúng tôi vẫn không quên động viên, an ủi nhất!. Chúng tôi buộc phải thả cậu bé ở một nơi mà cảnh sát để nhận ra nhất trước khi về. Mệt mỏi quá? Hôm đó, ba chúng tôi chìm vào giấc ngủ chập chờn.
* * * * *
Ngày 29 tháng 9
Khoảng gần hai gĩờ chiều, chúng tôi đến khách sạn tìm giáo sư. Có điều lạ là chúng tôi, không ai bảo ai, đều mặc bộ đồ đen. Rõ ràng chúng tôi đã ít nhiều bị ám ảnh bởi những gì vừa xảy ra, vì Arthur đang trong thời gian để tang đã đành, nhưng những người còn lại trong số chúng tôi có ảnh hưởng gì đâu. Khoảng một giờ rưỡi đồng hồ sau, chúng tôi tới nghĩa địa nhưng chỉ dám tha thẩn dạo bộ ở các lối nhỏ khuất nẻo để không bị ai trông thấy trước khi nghĩa địa bị khóa cổng. Hôm nay, Van Helsing đã thay chiếc túi nhỏ màu đen mà mấr lần trước ông mang theo bằng một chiếc túi da dài hơn nhiều, trông cứ như một bao đa đựng gậy chơi kricket. Tôi đoán trong túi phải nhiều đồ lắm.
Đợi những bước chân cuối cùng ra khỏi nghĩa địa và biết chắc chỉ còn mình là những người chủ ở đây, chúng tôi bước theo giáo sư đi về phía mộ nhà Westenra, không ai nói với ai một lời. Ông lấy chìa khóa mở cửa và ra hiệu cho tôi đóng cửa, vì tôi là người vào sau cùng. Ông thắp đèn lồng, đất thêm hai ngọn nến rồi gắn chúng ở đầu hai chiếc quan tài bên cạnh. Có vẻ như lần này ông cần nhiều ánh sáng hơn. Cũng như những lần trước, ông nhấc nắp quan tài của Lucy và mảnh chì hình vuông đặt sang một bên, trước sự chứng kiến của chúng tôi. Thật tội cho Arthur, trông người anh cứ run bắn như một tàu lá khi nhận ra hình hài quen thuộc của người đàn bà đang nằm bên trong. Vâng, người đàn bà ấy đang nằm trong quan tài có một vẻ tươi tắn và đẹp lộng lẫy hơn bao giờ hết. Nhưng tôi biết trong tim mình chẳng còn chỗ dành cho tình yêu, mà chỉ còn sự căm thù đang âm ỉ cháy trong lòng, sự căm thù được nhen nhóm bởi cái thực thể mang hình hài quen thuộc của Lucy nhưng không còn giữ một chút tâm hồn nào. Dường như Arthur đã cố trấn tĩnh lại, bởi tôi thấy anh gặng hỏi Van Helsing :
- Có đúng đây là thể xác của Lucy, hay chỉ là một con quỷ lấy hình hài của cô?
- Đó là xác của cô ấy và cũng không phải xác của cô ấy. Nhưng hãy cứ đợi một lúc, rồi anh sẽ thấy thực hư như thế nào.
Nhưng dù sao thì chúng tôi vẫn cảm thấy mình đang sống trong một “cơn ác mộng Lucy”. Trước mắt chúng tôi là một ả đàn bà có hàm răng nhọn hoắt, đôi môi mọng máu gợi dục chỉ thế thôi cũng đủ làm tôi rùng mình ghê sợ và cơ thể căng tràn nhục cảm, bộ mặt toát lên một vẻ man rợ, cô hồn, giống như một sự nhạo báng ma quái đối với những gì là dịu dàng thơ ngây và trong trắng của Lucy ngày trước.
Như một thói quen, Van Helsing bắt đầu lôi các dụng cụ trong túi đặt ra ngoài. Đầu tiên là những thứ được dùng như dụng cụ hàn xì, rồi một cọc gỗ nhỏ nhọn đầu dài khoảng ba bộ, cuối cùng là một cái búa. Đối với tôi, người đã quen với các công việc mổ xẻ, thì việc chứng kiến một thầy thuốc chuẩn bị ra tay chẳng có gì là nặng nề cả, nhưng đối với Arthur và Quincey thì không, rõ ràng là hai người đang rất căng thẳng khi nhìn thấy các dụng cụ mà Van Helsing mang theo. Tuy nhiên, họ vẫn tỏ ra can đảm, bình tĩnh và biết giữ yên lặng.
Sắp xếp xong các dụng cụ, Van Helsing quay ra bảo chúng tôi :
- Trước khi bắt tay vào công việc, tôi xin được giải thích đề các anh biết thêm một số chi tiết. Thực ra, kiến thức của tôi không phải là nhiều và cũng chẳng có gì là cao siêu cả, nó được rút ra từ khoa học và kinh nghiệm của người xưa để lại, hoặc của những người đã từng dày công nghiên cứu về các quyền năng của người không chết. Trạng thái không chết luôn gắn liền với lời nguyền định mệnh bất tử. Những thực thể này không thể chết định mệnh và chúng luôn tìm cách gây ra những nạn nhân mới, những tai ương mới cho trái đất từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, bởi nếu ai đã chết với tư cách là con mồi của một kẻ không chết chắc chắn sẽ lại trở thành một kẻ không chết khác. Và cứ như vậy, kẻ bất tử mới lại đi tìm những con mồi mới để gieo rắc thêm tai họa. Vòng tròn tai ương cứ thế lớn mãi, lớn mãi, giống như những vòng tròn trên mặt nước lúc người ta ném xuống hồ một hòn đá. Anh bạn Athur ạ, nếu hôm đó, anh ôm hôn người bạn gái mình một lát trước lúc cô ấy qua đời để thỏa lòng mong ước, hoặc giả là đêm qua, nếu anh để cô ta lao vào vòng tay mình chẳng hạn, thì sớm muộn gì thì anh phải chịu chung một số phận nhừ vậy, nói cụ thể là anh sẽ trở thành một nosfertu giống như người Đông Âu vẫn gọi. Và chắc chắn là hết năm này qua năm khác, chính anh sẽ trở thành nguyên nhân làm nên những thực thể không chết mới, khiến cho bao người phải kinh hoàng. Cũng may cuộc đời báo hại của người kẻ bất tử Lucy bất đắc dĩ kia mới chỉ vừa bắt đầu. Bọn nhóc mà ả hút máu vẫn chưa rơi vào tình trạng tuyệt vọng, nhưng nếu kẻ không chết ấy còn tiếp tục “sống”, bọn nhóc sẽ ngày càng mất nhiều máu, bởi chúng phải tuân theo quyền năng mà ả đã ám vào chúng, và càng ngày chúng càng muốn tìm đến hơn. Cái miệng nhớp nháp của ả sẽ hút đến những giọt máu cuối cùng của bọn trẻ. Ngược lại, nếu ả chết thật, mọi tội ác sẽ bị chặn đứng, những vết thương nhẹ sẽ biến mất khỏi cổ lũ trẻ và chúng sẽ quay trở lại với các trò chơi thường ngày của mình mà quên đi sạch những cuộc phiêu lưu mạo hiểm kia. Nhưng điều quan trọng hơn là cái chết thật sự sẽ đến với kẻ không chết, và tâm hồn ma ám của cô ta sẽ được giải thoát. Thay vì phải làm những việc tội ác trong bóng tối và phải hứng chịu ngày càng nhiều ô nhục, cô ta sẽ được ban một chỗ trên thiên đàng cùng với các thiên thần. Nhưng cần phải có một bàn tay giống như một sự ban phước lành cho cô ta. Tôi rất sẵn lòng làm việc đó. Nhưng chẳng lẽ trong số chúng ta lại không cớ ai xứng đáng được nhận ưu tiên ấy hơn tôi hay sao? Thật hạnh phúc khi từ nay trở đi, mỗi lần phải thao thức giữa đêm khuya tĩnh mịch, ta có thể nghĩ: “Cô ấy đã đến với những vì sao nhờ chính bàn tay mình, bàn tay của một người từng yêu cô ấy nhất trần đời, bàn tay mà cô ấy sẽ lựa chọn nếu cô ấv còn có thể được lựa chọn”. Nói đi các bạn, chẳng lẽ không ai muốn có một giấc mơ với những lời như vậy sao?
Tất cả chúng tôi, không ai bảo ai, cùng đưa mắt nhìn Arthur, và cũng như chúng tôi, anh rất hiểu ý định đầy nghĩa hiệp của Van Helsing. Tôi hiểu cảm xúc của anh qua cử chỉ đưa tay về phía giáo sư. Anh bước tới bên giáo sư, bàn tay run run, mặt tái đi :
- Tự đáy lòng mình, tôi xin chân thành cám ơn ngài, một người bạn, một người bạn thực sự của tôi. Hãy bảo tôi phải làm gì đi, tôi sẽ bình tĩnh nghe lời ngài.
- Hoan hô chàng trai! Anh chỉ cần can đảm một lúc, một lúc thôi, thế là đủ! Vấn đề là ở chỗ phải đâm cái cọc nhỏ này xuyên qua xác... Tôi nhắc lại rằng đó quả là một thử thách khủng khiếp nhất đời anh, những việc diễn ra cũng nhanh thôi. Và niềm vui mà anh nhận được sẽ lớn hơn sự đau đớn mà anh cảm hứng chịu rất nhiều. Chỉ lát nữa thôi, khi đã đi khỏi đây rồi, anh sẽ cảm thấy mình giống như một người có cánh. Tuy nhiên, chỉ cần do dự một chút thối là anh sẽ chẳng giải quyết được việc gì hết. Hãy nghĩ rằng chúng tôi đang đứng ở đây, bên cạnh anh, và luôn cầu nguyện cho anh trong những phút giây khủng khiếp nhất.
- Thôi được, tôi phải làm gì đây? - Arthur nghẹn ngào đáp lại.
- Anh hãy cầm cây cọc này bên tay trái, đầu cọc cắm vào đúng trái tim cô ta, còn tay phải hãy cầm cái búa này. Khi tôi đọc kinh cầu nguyện cho các linh hồn, tôi có cầm theo sách kinh đây, khi nào tôi đọc, hai anh còn lại hãy xương theo nhé anh phải nhân danh Chúa cầm búa đóng vào cọc. Có làm vậy, cô gái thân yêu của anh mới được an nghỉ và kẻ không chết trong thể xác cô ta mới vĩnh viễn lìa trần!
Arthur quả quyết cầm cọc và búa, rõ ràng là khi đã quyết định hành động, anh không còn run rẩy và do dự nữa. Van Helsing bắt đầu mở kinh thánh ra đọc, Quincey và tôi cố gắng xướng theo. Arthur đặt chính xác đầu cọc lên người Lucy, nơi có trái tim không còn lửa tình yêu nồng nàn của một người con gái thùy mị như trong hồi ức của anh, và lấy hết sức bình sinh đóng từng nhát, từng nhát thật dứt khoát.
Cái xác trong quan tài bắt đầu rung lên, giãy giụa quằn quại không dứt, và từ đôi môi đỏ thắm của ả chợt hộc lên một tiếng kêu khàn khàn, đục đục, nghe mà đứng tim. Hai hàm răng nhọn của ả cắn chặt vào đôi môi nhục cảm đến rỉ máu. Arthur vẫn gắng sức đóng cọc, cho dù có một thoáng anh đã tỏ ra mất can đảm, buông thõng tay búa xuống, nhưng chỉ một thoáng thôi. Tôi nhận ra một dòng máu từ nơi trái tim khốn nạn của kẻ không chết chảy tràn xuống dưới.
Xác chết dần dần không còn rung lên bần bật và giãy giụa quằn quại nữa, chỉ có bộ mặt ả là vẫn co giật từng hồi, còn hàm răng thì vẫn nghiến chặt vào môi. Phải một lúc sau, xác chết mới đúng là xác chết: nó nằm bất động hoàn toàn và không hề còn biểu hiện gì của một kẻ không chết. Vậy là nhiệm vụ khủng khiếp tưởng như bất khả thi đã được hoàn thành!
Arthur buông búa, người lảo đảo đứng không vững, nếu chúng tôi không chạy vội lại đỡ thì anh đã đổ vật xuống đất rồi. Anh thở hổn hển, mồ hôi lấm tấm trên trán. Nỗ lực mà chúng tôi đề nghị ở anh rõ ràng là phi thường, nếu không có lý trí và cân nhắc nhân đạo, chắc chắn anh không thể hoàn thành. Chúng tôi mải hướng vào anh nền chẳng còn ai để ý đến chiếc quan tài nữa, nhưng khoảng mười phút sau, có một cảm giác kỳ lạ khôn tả bất chợt trào dâng trong chúng tôi, khiến ai nấy đều đổ dồn mắt về nơi ấy. Không ai kìm được một tiếng reo thầm kinh ngạc. Arthur từ từ đứng dậy bởi từ nãy tới giờ chúng tôi phải để anh ngồi nghỉ cho hoàn hồn tiến lại gần chỗ Lucy. Cảm giác sung sướng đã thế chỗ cho sự khiếp sợ và nỗi buồn u uất thường trực trên gương mặt anh.
Nằm trong quan tài không còn là kẻ bất tử ghê sợ, khiến ai cũng không thể không ngờ vực và hận thù đến nỗi phải coi việc hủy diệt thể xác và linh hồn của ả là một ưu tiên dành cho người xứng đáng nhất trong số chúng tôi, mà chính là Lucy, một Lucy với khuôn mặt dịu dàng, thuần khiết chúng tôi từng biết khi cô còn sống. Sự suy tư, nét u buồn và cả nỗi đau đớn đích thực của Lucy đời thường bây giờ đều đã trở lại với khuôn mặt ấy. Cảm giác thân thương cũng trở lại với chúng tôi. Chúng tôi chợt hiểu từ nay trở đi, gương mặt ấy sẽ mang lại cho chúng tôi một sự thanh thản trọn vẹn, một cuộc sống bình yên với bao kỷ niệm vui buồn. Sự hồi sinh của thể xác và linh hồn cô chỉ có thể là một bằng chứng, một tượng trưng trần thế của những ngủ vĩnh hằng.
Tới lúc này Van Helsing mới tới đặt tay lên vai Arthur và hỏi anh :
- Thế nào anh bạn? Bây giờ anh đã tha lỗi cho tôi được chưa?
Arthur đưng đưng nắm chặt bàn tay vị giáo sư già và nghẹn ngào nói :
- Tôi mới là người phải cảm ơn ngài, Van Helsing ạ. Chúa sẽ ban phước lành cho ngài. Ngài chính là người đã trả lại linh hồn đích thực cho người con gái tôi yêu và mang tới cho tôi sự thanh thản!
Chỉ nói được có vậy, Arthur gục đầu vào vai ông mà khóc và thổn thức trong những tiếng nấc nghẹn ngào. Đợi anh ngẩng mặt lên, Van Helsing mới nói :
- Anh bạn ạ, bây giờ thì anh có thể ôm chầm lấy cô ấy được rồi. Và nếu muốn, anh có thể đặt lên làn môi ngọt ngào của cô ấy một nụ hôn mà bấy lâu cô ấy hằng mong đợi. Bây giờ cô ấy không còn là một bóng ma có nụ cười quái gở nữa, mãi mãi sau này cũng vậy. Lucy không còn là một kẻ không chết, một đồng lõa của quỷ dữ. Cô ấy đã là một người chết thực sự của Chúa, linh hồn cô ấy nay đã được về với Ngài?
Arthur cúi xuống đặt lên khuôn mặt thân thương của người con gái một nụ hôn cuối cùng. Sau đó, tôi đưa anh và Quincey ra ngoài nhà mồ, còn tôi phải quay vào với giáo sư làm nốt những việc cuối cùng: cưa phần cọc gỗ thừa ra ngoài cơ thể Lucy và bỏ đầy tỏi vào miệng cô. Cuối cùng là việc hàn kín lớp chì bọc bên trong và bắt vít chiếc nắp gỗ vào quan tài như lúc ban đầu. Xong việc, chúng tôi thu dọn đồ đạc ra về. Khóa cửa nhà mồ xong, giáo sư trả chiếc chìa khóa cho Arthur.
Bên ngoài, trời xanh, mây tạnh, ánh nắng chan hòa cùng những tiếng chim hót líu lo trong một nhịp sống bình yên. Dường như thiên nhiên, cảnh vật đã mang một sắc thái hiền hòa khác hẳn mọi lần. Hoặc cũng có thể là do chúng tôi không còn những âu lo, phiền muộn vẫn trĩu nặng bấy lâu trong lòng. Tuy nhiên, trước khi chia tay chúng tôi, Van Helsing lại bảo :
- Như vậy là phần đầu, cũng có thể nói là phần khó khăn nhất, trong công việc của chúng ta đã được hoàn thành. Nhưng các bạn ạ, chúng ta vẫn còn một nhiệm vụ khác mà nếu xét ở một khía cạnh nào đó, cũng không kém phần quan trọng: ấy là việc phát hiện ra thủ phạm đã gây ra sự bất hạnh của Lucy và làm cho hắn vĩnh viễn biến khỏi thế giới này. Trong chừng mực nhất định, tôi đã nắm được một vài chìa khóa để hỗ trợ cho cuộc tìm kiếm này. Nhưng xin cũng được lưu ý với các bạn là công việc sẽ kéo dài và thậm chí còn rất gian nguy nữa. Các bạn sẽ giúp tôi chứ? Song trước hết, điều tôi cần ở các bạn bây giờ vẫn là niềm tin. Chúng ta sẽ đi đến cùng của vấn đề, đúng vậy không ạ?
Chúng tôi lần lượt bắt tay ông với lời hứa giúp đỡ chân tình nhất. Lúc chia tay, ông nói thêm :
- Tối mai, khoảng bảy giờ, chúng ta sẽ cùng nhau tới ăn tối ở nhà anh bạn John. Tôi xin được mời hai bạn Arthur và Quincey. Mọi kế hoạch đều đã được tôi tính toán đâu ra đấy rồi, tôi sẽ giải thích sau. John này, bây giờ hãy về cùng tôi cái đã, tôi muốn tham khảo anh một số ý kiến. Tối nay, có lẽ tôi phải về Amsterdam giải quyết một vài công việc, nhưng chiều mai tôi sẽ cố gắng có mặt ở đây. Sau đó, chúng ta sẽ bắt tay vào cuộc điều tra quy mô của mình, tôi sẽ nói tường tận tất cả những gì phải làm và những gì tôi còn đang nghi ngờ trong lòng. Nhưng anh hãy nhớ cho, một khi chúng ta đã bắt tay vào việc rồi thì không thể lùi bước được đâu nhé.
Chúng tôi vừa về tới khách sạn Berkeley thì một người hầu hớt hải chạy ra báo có người gửi cho Van Helsing một bức điện.
“Tôi đến bằng tàu hỏa. Jonathan đang ở Whitby. Tin quan trọng. Mina Harker.”
Giáo sư reo to, vẻ mặt rất hớn hở :
- A! Hóa ra là bà Mina! Viên hồng ngọc của chúng ta!
Nhưng tiếc quá, bà ấy đến mà tôi lại không thể chờ được. Có lẽ phải đưa bà ấy về nhà anh thôi, John ạ, mà có khi anh phải ra ga đón bà ấy đấy. Tôi sẽ đánh điện báo cho bà ấy biết.
Gửi điện xong, ông vừa pha trà vừa nói với tôi về cuốn nhật ký mà Jonathan Harker đã viết trong những ngày anh ở nước ngoài. Ông đưa tôi một bản sao nhật ký của anh và một bản được viết ở Whitby của Mina, cả hai cuốn đều đã được đánh máy rất rõ ràng.
- Cầm cả lấy mà đọc, đọc cho thật kỹ vào, anh bạn ạ. Làm sao để tối mai, khi tôi quay lại, anh phải biết hết các chi tiết có trong hai cuốn nhật ký này. Sau đó, chúng ta sẽ bắt tay vào nghiên cứu từng vấn đề. Nhưng phải giữ số giấy tờ này cho cẩn thận đấy nhé, toàn là báu vật cả đấy. Tôi cũng xin được nhắc là ngay từ bây giờ, anh phải tuyệt đối có lòng tin, cho dù anh đã trải qua những chuyện mà lúc đầu anh tưởng là hoang đường và không thể tin được. Đối với anh, với tôi và nhiều người khác, có thể chuyện kể ở đây ông nói và đặt tay lên tập giấy - se là sự khởi đầu của một ngày tàn, hoặc cũng có thể là một hồi chuông báo tử của cái “không chết” đang chuẩn bị hủy diệt sự sống trên trái đất này. Tôi muốn anh không bỏ qua một chi tiết nào, và nếu có thể làm sáng tỏ một điều gì đó mà anh chiêm nghiệm được, thì xin cứ việc, vì đâu đó cũng là điều quan trọng nhất mà chúng ta phải hướng tới. Hình như anh cũng có một cuốn nhật ký ghi lại ít nhất là hơn một sự việc đáng ngạc nhiên .đã xảy ra, đúng không nhỉ? Nếu vậy thì trong những ngày tới, chúng ta sẽ cùng nhau tìm ra một sợi dây xuyên suất các sự việc rời rạc có liên quan tới bức tranh toàn cảnh của thực tế nhé.
Đoạn ông sửa soạn lên đường về Amsterdam. Về phần mình, tôi phải tới Padđington để đón Mina Harker. Tôi đến trước giờ tàu vào ga khoảng mười lăm phút.
Tàu vào ga, hành khách nhanh chóng tỏa đi theo các ngả đường. Đang sốt ruột chờ đợi vì sợ vị khách mời lạc đi đâu mất thì tôi bỗng ngờ ngợ nhận ra một phụ nữ trẻ, xinh đẹp và lịch lãm, đang tiến về phía mình.
- Xin lỗi, ông là bác sĩ Seward, phải không ạ?
- Còn bà là Harker, Mina Harker?
Người phụ nữ trẻ vui mừng chìa tay cho tôi.
- Tôi nhận ra ông theo chân dung miêu tả của Lucy...
Cô bỗng ấp úng dừng lại, mặt đỏ ửng lên.
Tôi cũng đỏ mặt vì ngượng ngùng, nhưng điều đó lại làm cho chúng tôi dễ chịu hơn, bởi dẫu sao đó cùng là một câu trả lời ngầm cho những gì cô vừa gợi nhắc lại. Tôi cầm hành lý của vị khách mời, trong đó có một cái máy chữ, và dẫn cô đi về bến tàu điện ngầm ở phố Fenchurch. Tới bến, tôi đánh điện về nhà nhờ bà quan gia chuẩn bị trước cho Harker một phòng riêng.
Tôi về nhà đúng giờ đã dự kiến. Harker nhận ngay ra chỗ tôi ở là một nhà thương tâm thần, song không vì thế mà cô không ngần ngại khi bước qua cửa.
Vừa vào nhà, chưa kịp ngồi nghỉ, cô đã bảo rằng nếu tôi không thấy có điều gì bất tiện, cô sẽ tới ngay phòng làm việc của tôi, bởi cô có rất nhiều điều muốn nói với tôi. Trong lúc chờ đợi cô sắp xếp hành lý, tôi tranh thủ ghi nhật ký vào máy ghi âm. Thú thực là tôi chẳng thích thú gì với việc phải đọc cả mớ giấy mà Van Helsing vừa đưa, tôi vẫn để cả trên mặt bàn kia. Tất nhiên, tôi cũng phải bố trí thời gian đọc qua một chút để còn có cái mà hỏi thêm Harker. Thực ra, người phụ nữ trẻ này còn chưa hiểu thời gian đối với chúng tôi bây giờ quý đến như thế nào, và cũng chưa biết có một nhiệm vụ tối quan trọng đang chờ đợi chúng tôi ra sao.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 29 tháng 9
Sau khi thu xếp qua loa hành lý mang theo, tôi xuống ngay phòng làm việc của Seward. Tôi ngại ngừng không dám gõ cửa, vì hình như bác sĩ đang tiếp ai trong đó thì phải. Tuy nhiên, tôi nhớ là vừa nãy, anh có bảo khi nào xong việc thì xuống gặp anh càng sớm càng tốt, tôi liền mạnh dạn gõ cửa. Anh trả lời ngay: “Mời vào!”.
Thật lạ là anh ở trong phòng có một mình, nhưng khi nhìn lên trên bàn, tôi đoán ngay ra rằng anh vừa nói vào một cái máy ghi âm mà tôi chưa bao giờ được nhìn thấy, tôi chỉ được người khác tả cho nghe mà thôi. Cái máy đã lập tức thu hút được sự chú ý của tôi.
- Hy vọng tôi không làm ông phải đợi lâu. - Tôi nói - Thực ra tôi đã đứng ngoài cửa được một lúc rồi, nhưng vì nghe tiếng ông nói nên tưởng ông đang có khách.
- Ồ! Tôi ghi nhật ký đấy mà. - Anh phì cười trả lời.
- Nhật ký?
- Vâng, đây này, cuốn nhật ký đây này. - Ông vừa nói vừa đặt tay lên cái máy ghi âm.
- Cái gì? - Tôi ngạc nhiên hỏi lại - Nếu thế thì còn hay hơn cái trò tốc ký của tôi ấy chứ? Tôi có thể nghe qua một đoạn được không?
- Tất nhiên!
Seward hồ hởi đứng đậy, định cho chiếc máy chạy thử một đoạn, nhưng chẳng hiểu sao anh lại dừng lại, vẻ rất chần chừ :
- Thực ra thì... từ trước tới giờ tôi chỉ... chỉ ghi... những gì liên quan đến các bệnh nhân của mình... toàn những chuyện buồn cười... có nghĩa là... tôi muốn nói là...
Anh chàng ấp úng không sao thanh minh được sự thay đổi ý định bất ngờ của mình. Thấy vậy, tôi phải lựa lời nói lảng sang chuyện khác cho anh đỡ khó xử.
- Ông đã ở bên Lucy trong những ngày cuối đời của cô ấy. - Tôi nói. - Xin ông hãy kể cho tôi biết những gì liên quan đến cái chết của cô ấy, tôi muốn biết tất cả những gì có liên quan đến sinh mệnh của cô ấy. Ông biết đấy, Lucy là người bạn thân nhất của tôi mà.
Tôi rất ngạc nhiên khi thoáng nhận thấy sự hất hoảng trên nét mặt anh.
- Kể cho bà nghe về cái chết của cô ấy? Dù thế nào tôi cũng không thể kể cho bà được đâu!
- Tại sao không? - Tôi gặng hỏi, trong lòng chợt cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ.
Seward không trả lời ngay. Tôi hiểu anh đang cố tìm ra một lý do nào đó.
- Bà thấy đấy, - Anh nói sau một hồi suy nghĩ - thật khó để tôi tìm được một đoạn nhật ký nào có liên quan tới Lucy ở trong đó...
Anh chỉ nói nửa chừng rồi lại thôi. Hình như trong đầu anh vừa thoáng có một ý nghĩ nào đó, bởi tôi thấy giọng anh bỗng thay đổi hẳn, vẻ như chân thành hơn, thậm chí còn ngây thơ như giọng một đứa trẻ :
- Đúng rồi! Đúng thế rồi?
Tôi phì cười trước vẻ ngây thơ của anh.
- Lần này thì tôi có thể nói thật với bà? Bà có biết không, kể từ khi ghi nhật ký tới nay, chưa bao giờ tôi nghĩ mình phải làm như thế nào để gọi ra được một đoạn nhật ký cụ thể khi cần thiết.
Nghe anh nói như đánh trống lảng, tôi sực hiểu nhật ký của một thầy thuốc từng chăm sóc Lucy, trong những ngày cuối đời của cô, hẳn phải có ít nhiều chi tiết quan trọng mà tôi rất cần để bổ sung cho những điều tôi tôi đã biết. Vì vậy, tôi lên tiếng đề nghị ngay :
- Thưa bác sĩ, nếu thế thì bác sĩ hãy cho phép tôi chuyến toàn bộ nội dung nhật ký trong máy ra giấy bằng máy chữ, được không ạ?
Seward giãy nảy từ chối, nét mặt anh bỗng tái dại đi :
- Không? không? không! Không thể làm như thế được, tôi không thể để bà biết câu chuyện khủng khiếp đó được!
Như vậy, câu chuyện có vẻ khủng khiếp hơn những gì tôi đã hình dung nhiều. Trực giác của tôi hoàn toàn cảm nhận được điều đó. Trong lúc đăm chiêu, tôi vô thức đảo mắt nhìn khắp phòng với hy vọng sẽ tìm được một lý do nào đó có thể giúp được mình thuyết phục được ông bác sĩ trẻ tuổi theo cách này hay cách khác, và ánh mắt tôi chợt dừng lại a một tập giấy đánh máy chữ đặt trên bàn. Seward cũng đưa mắt nhìn theo ánh mắt tôi. Tôi có cảm tưởng anh đã đoán được ý định của tôi.
- Có lẽ ông chưa có dịp biết tôi. - Tôi nói. - Hy vọng khi nào đọc hết đống giấy kia - tức là những dòng nhật ký của tôi và của chồng tôi mà tôi đã sao lại bằng máy chữ - ông sẽ hiểu tôi hơn. Tôi chưa bao giờ do dự khi phải cho người khác mượn những dòng nhật ký ấy của vợ chồng tôi, nhưng rõ ràng là ông vẫn chưa hiểu tôi... chưa hiểu... và tất nhiên, tôi cũng chẳng hy vọng ông sẽ tin ở tôi.
Lucy nói đúng, bác sĩ Seward hẳn phải là một con người thật đáng mến. Đợi tôi nói dứt lời, anh lập tức đứng đậy lôi ra mấy ống kim loại phủ sơn đen được cất trong một ngăn kéo khá rộng.
- Đây chính là những gì bà muốn có. - Anh nói, mặt đỏ lựng. - Sở dĩ tôi chưa tin bà là vì chưa biết bà, có thế thôi. Nhưng bây giờ, chúng ta đã biết nhau rồi. Thực ra tôi cũng có nghe nói về bà từ lâu. Tôi biết là Lucy cũng đã có lần kể về tôi cho bà nghe; và cô ấy cũng có lần kể với tôi về bà. Xin lỗi nhé? Bây giờ bà hãy cầm lấy mấy cuộn này mà nghe. Sáu cuộn đầu toàn nói về tôi và tất nhiên chúng chẳng có gì khiến bà phải bận tâm cả. Bà có nghe cũng được, không nghe cũng được, nhưng nếu chịu khó nghe, bà sẽ hiểu rõ hơn về tôi. Bữa tối có lẽ cũng đượe chuẩn bị sắp xong rồi. Về phần mình, có khi tôi cũng phải chịu khó đọc những tài liệu này để biết thêm một số chi tiết nào đó...
Đoạn anh cầm chiếc máy ghi sang một phòng khách nhỏ nằm kề với phòng tôi và bấm cho máy chạy. Tôi háo hức chuẩn bị nghe những đoạn nhật ký đầu tiên ghi lại một vế khác của câu chuyện tình mà thực tế tôi mới chỉ được biết đại khái qua lời kể của Lucy.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 29 tháng 9
Tôi bị cuốn nhật ký của Jonathan và vợ anh cuốn hút đến nỗi quên cả thời gian. Khi người giúp việc vào báo bữa tối đã được chuẩn bị xong, tôi vẫn chưa thấy Harker xuống; tôi phải bảo bà ta rằng có ìẽ cô đang mệt sau một chuyến đi dài, cứ để cho cô nghỉ, một tiếng nữa hãy dọn cơm. Và tôi lại tiếp tục dán mắt vào những dòng nhật ký. Khi tôi đọc đến những dòng cuối cùng trong cuốn nhật ký của Harker thì cô bước vào. Trông cô có vẻ buồn, hai mắt đỏ hoe, không giống với đôi mắt lúc gặp tôi ơ ga chút nào.
- Hy vọng là tôi đã không làm cho bà buồn bực. – Tôi khẽ nói.
- Không, không, ông đừng nói thế... Cái máy hát ấy tuyệt lắm, có điều là nó hơi tàn nhẫn? Nó cho tôi biết tất cả những phiền muộn mà ông từng trải qua. Tôi có cảm giác như mình được nghe một tâm hồn đang đau đớn cầu xin phước lành ở Thượng đế tối cao. Cầu mong đừng bao giờ có ai phải nghe những chuyện buồn như thế nữa! Ông biết không, tôi sẽ giúp được ông đôi chút đấy, tôi sẽ đánh máy toàn bộ câu chuyện của ông ra giấy. Như vậy, từ nay về sau, sẽ chẳng còn ai phải cảm nhận nhịp đập thổn thức của trái tim ông như tôi.
- Nhưng sẽ chẳng còn ai được biết nhật ký của tôi nữa đâu! Sẽ không có ai, không bao giờ có ai... - Tôi khẽ đáp lại.
Harker đặt bàn tay lên tay tôi và nghiêm giọng nói tiếp :
- Có, cần phải như vậy!
- Nhưng vì sao chứ?
- Vì sao ? Vì đó là một phần không thể thiếu của câu chuyện khủng khiếp liên quan tới cái chết của cô gái Lucy tội nghiệp và những sự kiện đã xảy ra trước đó, vì trong cuộc chiến đấu mà chúng ta đang dấn thân vào để loại bỏ bóng quỷ dữ ra khỏi trái đất này, chúng ta cần có càng nhiều dữ kiện và chi tiết càng tốt. Tôi có cảm giác rằng trong lúc nghe những dòng nhật ký ghi âm của ông, tôi đã nhận ra hơn một chi tiết mà bình thường ông sẽ chẳng bao giờ cho tôi biết. Quả thực là chúng đã mang lại ít nhiều ánh sáng cho cái bí ẩn tối tăm đang bao trùm lên xung quanh chúng ta. Ông sẽ đồng ý để tôi được giúp đỡ ông, đúng không ạ? Tôi hoàn toàn hiểu phần mở đầu của câu chuyện, và mặc dù mới chỉ nghe đoạn nhật ký ghi đến ngày mùng bảy tháng chín của ông, tôi vẫn đoán ra những bất hạnh đã bám riết lấy Lucy và kết cục bi thương của cuộc đời cô. Kể từ khi giáo sư Van Helsing tới thăm đến nay, không có lúc nào chúng tôi không nghĩ về chuyện ấy. Nhà tôi đã đi Whitby để thu thập thêm một số tin tức, ngày mai anh ấv sẽ trở về. Thiết tưởng chúng ta không nên có một bí mật nào cần phải giấu nhau cả, hợp tác với nhau, tin tưởng ở nhau mới là cách tối ưu mang lại thành công, chứ không phải là ai cũng biết một ít, để rồi lại giấu nhau một ít như vậy.
Tôi hơi bất ngờ trước bản lĩnh của người phụ nữ trẻ đang đứng trước mặt. Nhìn vào mắt cô, tôi hiểu cô là người dũng cảm và cũng rất cương quyết, ánh mắt của cô đã làm tôi thực sự cảm thấy yên tâm.
- Bây giờ, tôi chỉ có thể tôn trọng thiện ý của bà mà thôi, thưa bà. - Tôi đáp lời. - Chúa sẽ tha thứ cho tôi nếu tôi có cái nhìn sai lầm về bà! Có thể bà sẽ biết thêm nhiều chi tiết khủng khiếp hơn nữa! Tôi hiểu vì đã biết nhiều về bệnh tình của của Lucy, nên bà không thể không muốn biết thêm về kết cục thảm thương của cô ấy. Tôi khẳng định rằng khi đã nghe toàn bộ câu chuyện về cô ấy.... vâng, cuối cùng... bà cũng sẽ cảm thấy yên tâm phần nào... Bây giờ, có lẽ ta đi ăn tối đi Chúng ta cần phải giữ sức khỏe... Sau khi ăn uống xong, bà sẽ tiếp tục nghe nốt phần còn lại của câu chuyện, và tôi sẽ sẵn sàng trả lời những chi tiết nào bà thấy không được rõ. Bà nói đúng, đối với chúng ta, tất cả đều phải rõ ràng để đi đến một kết thúc có hậu.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 29 tháng 9
Ăn tối xong, tôi theo bác sĩ Seward vào phòng làm việc của anh. Anh sang phòng lấy chiếc máy hát, còn tôi xách chiếc máy chữ xuống. Tôi được anh dọn cho một chỗ ngồi thuận tiện ở ghế trường kỷ để có thể vừa đánh máy vừa điều khiển chiếc máy hát đặt bên cạnh. Sau đó, anh chỉ cho tôi cách dừng máy khi muốn nghỉ một chút cho đỡ mỏi. Bố trí chỗ ngồi xong, tôi bật máy để nghe tiếp những dòng nhật ký bằng lời của anh.
Nghe đến đoạn nói về cái chết của Lucy và những gì xảy ra sau đó, tôi đổ vật người xuống lòng ghế, người bủn rủn như không còn một chút sức lực nào. Cũng may tôi không phải là loại người hơi một tí là ngất xỉu! Tuy nhiên, bác sĩ Seward vẫn vội vàng chạy đi lấy một chai rượu mạnh cho tôi uống vài ngụm, và chỉ đến khi đó tôi mới vững vàng trở lại. Song không vì thế mà lòng tôi hết rối bời, dù cuối cùng tôi cũng được nghe thuật lại cô bạn thân yêu Lucy của tôi đã về vôi Chúa. Suýt nữa thì tôi gào lên vì phẫn uất. Nếu chưa biết về cuộc phiêu lưu ở Transylvanie của Jonathan, có lẽ tôi đã không lo sợ đến thế. Dù thế nào thì tôi cũng không biết mình phải nghĩ gì nữa, và tôi đã phải tìm cách che giấu sự rối bời trong lòng bằng việc đề nghị bác sĩ :
- Cứ để tôi đánh máy lại tất cả những gì ông ghi trong máy hát. Chúng ta cần phải chuẩn bị đầy đủ trước khi bác sĩ Van Helsing trở lại. Tôi đã đánh điện cho Arthur rồi, anh ấy sẽ từ Whitby về đây luôn. Trong vụ này, ngày tháng là vấn đề quan trọng nhất. Theo ý tôi, nếu chúng ta sắp xếp các sự kiện theo trình tự ngày tháng thì mọi việc sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Ông vừa bảo là ông cũng đang đợi huân tước Godalming và Quincey Moriss, vậy thì khi đến đây, họ cũng nên được biết tất cả mọi chuyện đã xảy ra.
Nghe tôi nói, Seward liền bật lại máy, nhưng lần này ông đặt ở chế độ chạy chậm hơn để tôi có thể dễ dàng đánh máy từ đầu nội dung nhật ký. Tôi đánh làm ba bản để những người khác có thể cùng đọc mà không mất thời gian chờ đợi vô ích. Seward phải đi thăm một số bệnh nhân, nhưng chỉ một loáng đã thấy anh quay về. Anh nói anh phải tiếp tục đọc nốt những trang nhật ký của vợ chồng tôi và hơn nữa, anh muốn trong phòng có người cũng làm việc với tôi cho đỡ trống trải. Anh quả là một con người ga lăng. Thế giới này dường như vẫn còn rất nhiều những con người như thế, nhưng cũng không phải là không có quỷ dữ. Trước khi quay về về phòng mình, tôi chợt nhớ tới đoạn nhật ký mà Seward nhắc tới mấy tờ báo - tờ Westmirlster Gazette và Pall Mall Gazette số mới nhất, do Jonathan đã mua tặng Van Helsing lúc ông chuẩn bị lên tàu ở ga Exeter - nên đã hỏi mượn để mang lên phòng đọc trước khi đi ngủ. Tôi nhớ lúc còn ở nhà, các tờ báo Dailygraph và Whitby Gazette đã mang lại cho chúng tôi một số chi tiết rất có lợi cho việc tìm hiểu thêm các sự kiện hãi hùng đã xảy ra ê Whitby, khi lão bá tước Dracula cập bến ở đó. Nằm trên giường, tôi đọc lướt qua các trang báo với hy vọng sẽ tìm thấy ở trong đó một vài tia sáng mới nào đó.
Tôi không thấy buồn ngủ, nhưng dường như mấy tờ báo đã giúp tôi bình thản hơn thì phải.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 30 tháng 9
Jonathan đến vào khoảng chín giờ. Anh nhận được điện của vợ lúc chuẩn bị từ Whitby về. Gặp anh, người ta cảm nhận ngay được rằng anh là một người đàn ông rất thông minh và giàu nghị lực. Nếu nhật ký của anh viết trung thực, thì chắc hẳn anh còn là người rất dũng cảm nữa. Bởi phải là người cực kỳ can đảm mới dám mò xuống hầm mộ trong tòa lâu đài cổ đó hai lần. Sau khi đọc những dòng tự sự ấy của anh, tôi cứ tưởng mình sẽ được gặp một người cứng rắn lắm, chứ không phải là một người có vẻ bình lặng mang đầy đủ phẩm chất của một doanh nhân đang ngồi ăn trưa trước mặt tôi.
* * * * *
Một lúc sau
Sau bữa trưa, Jonathan và vợ anh quay trở về phòng. Khi đi ngang qua cửa phòng anh, tôi lại nghe thấy tĩếng máy chữ gõ lạch tạch. Hai vợ chồng họ quả là những người kiên trì. Họ đang ráp nối các mẩu sự kiện rời rạc với nhau theo một trình tự thời gian như đề nghị của Mina. Jonathan đã có trong tay các lá thư trao đổi giữa những người nhận vận chuyển các thùng hàng ở Whitby và công ty Carter, Paterson & Cie ở Luân Đôn. Anh cũng mải mê đọc nội dung cuốn nhật ký của tôi mà Mína vừa đánh máy xong. Không hiểu họ có tìm thấy được một điều gì giúp cho việc làm sáng tỏ các vấn đề của chúng tôi hay không? Chà! Đây rồi...
Có một điều rất lạ là trong đầu tôi chưa bao giờ lóe lên ý nghĩ rằng ngôi nhà có mảnh vườn tiếp giáp với vườn nhà chúng tôi kia lại có thể là nơi ẩn náu của lão bá tước! Tuy nhiên, chỉ có Chúa mới biết cách ứng xử của tay bệnh nhân Renfield lại chính là một mắt xích giúp chúng tôi tìm ra hướng điều tra. Bây giờ, chúng tôi đã cớ trong tay những lá thư liên quan tới việc mua bán nhà cửa mà Jonathan mang tới. Nếu biết trước những dữ kiện đó vài ngày, chắc là chúng tôi đã cứu sống được Lucy! Nhưng dù sao thì việc cũng đã qua rồi!... Jonathan vẫn vùi đầu vào công việc. Lúc xuống ăn tối, vợ. chồng anh đã tóm tắt cho chúng tôi lôgích của toàn bộ sự việc tưởng chừng rất rời rạc đã xảy ra. Theo ý Jonathan, tôi sẽ cảm nhận tất vấn đề nếu để mắt tới Renfield, bởi hắn chính là một tín hiệu vô thức báo trước sự đi đi, về về của lão bá tước. Tôi chưa hình dung được khả năng của sự việc này, nhưng có thể khi so sánh các ngày tháng... Cũng may Mina đã chép lại nhật ký của tôi ra giấy, nếu không thì chẳng bao giờ chúng tôi để ý đến ngày tháng làm nên chuỗi sự kiện đó cả!
Khi tôi đến thăm Renfield, hắn đang ngồi yên ở một xó phòng. Thấy tôi vào, hắn nhe răng cười rất hiền. Lúc đó, tôi có cảm giác hắn đã hoàn toàn tỉnh táo như một người bình thường. Tôi ngồi xuống và nói với hắn không biết bao nhiêu là chuyện, và hắn đáp lại tôi đúng như một người có tâm thần lành lặn. Thế rồi hắn bỗng nhắc tới chuyện hắn muốn trở về nhà - điều mà hắn chưa bao giờ nhắc tới từ khi vào viện tới nay. Tôi tin rằng nếu không có cuộc nói chuyện với Jonathan và chưa đọc những lá thư mà anh đang có trong tay, hoặc chưa xem lại những ngày tháng mà Renfield bị lên cơn điên, thì thế nào tôi cũng sẽ cho hắn ra viện trong một vài ngày tới. Nhưng thú thực về mặt suy luận, tôi vẫn chưa thể hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cứ cho là những lần lên cơn điên của Renfield trùng với sự xuất hiện của lão bá tước ở ngôi nhà bên, nhưng không hiểu tâm trạng của hắn bây giờ ra sao? Chẳng lẽ ma cà rồng lại có nhiều quyền năng đến thế” Tôi không thể quên được chuyện Renfield đã ngấu nghiến nhai cả ruồi nhặng lẫn nhện sống, và trong cơn điên cuồng loạn, hắn đã tới trước cửa ngôi nhà bỏ hoang mà gào lên “ông chủ”. Điều này có thể khẳng định giả thiết của chúng tôi. Nếu thế thì tôi phải giữ hắn lại. Tôi thấy có vẻ hắn đủ tỉnh táo để trả lời những câu hỏi mà hắn có thể đoán được mục đích của tôi: muốn hiểu rõ về con người lão bá tước. Chưa bao giờ hắn tỉnh táo đến thế!... Vâng, tôi sẽ giữ hắn lại. Tôi bỗng thấy nghi ngờ những khi hắn ngoan ngoãn. Tôi phải nhắc tay giám thị để mắt tới hắn và giữ hắn bằng một chiếc áo trói thật chắc chắn.
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 29 tháng 9
Tôi viết nhật ký trong chuyến tàu đi Luân Đôn. Khi Billington nhiệt tình hứa sẵn sàng cung cấp cho tôi toàn bộ các thông tin mà ông có, tôi nghĩ ngay mình sẽ gặp may ở Whitby. Thực ra, bây giờ tôi chỉ muốn biết chính xác một chỗ ở Luân Đôn, nơi đã nhận chuyến hàng mờ ám của lão bá tước. Người con trai của Billington, một chàng trai tốt bụng, đợi đón tôi ở ga.
Họ bố trí cho tôi ngủ qua đêm ở ngay nhà mình. Tại đó, tôi được đón tiếp rất chân tình theo cách riêng của người Yorkshire và cho phép tôi có thể làm bất cứ việc gì tôi muốn. Biết tôi phải giải quyết nhiều việc trong một thời gian rất ngắn, Billington đã chuẩn bị cho tôi toàn bộ số giấy tờ liên quan đến việc gửi các thùng hàng mờ ám. Người tôi bỗng run lên khi nhận ra một trong số những lá thư mà tôi đã từng nhìn thấy trên bàn của lão bá tước vào cái ngày tôi còn chưa được biết những kế hoạch đen tối của lão Lão đã nghĩ rất kỹ mọi tình huống, hành động rất chính xác và có bài bản. Dường như lão đã trù tính trước mọi chướng ngại có thể gặp phải trong quá trình thực hiện âm mưu của mình.
Để thể hiện mình theo phong cách làm ăn của người Mỹ, lão “không chịu bất cứ một rủi ro nào” về chuyến hàng, và sự chính xác mà lão đờí phải ghi trong các hướng dẫn vận chuyển hàng chỉ là hệ quả của một suy tính cực kỳ cẩn thận đối với một phi vụ mờ ám. Tôi để ý thấy trong hóa đơn giao hàng đặc biệt có dòng chữ: Năm mươi thùng đất thường sử dụng cho các cuộc thí nghiệm. Ông chủ nhà Billington cũng chỉ cho tôi bản sao lá thư gửi công ty Carter, Paterson & Cie và thư trả lời của công ty này. Billington cho tôi một bản sao của hai lá thư. Biết đây là những thông tin duy nhất mà ông có thể cung cấp, tôi bèn xuống cảng để hỏi thêm mấy nhân viên bảo vệ, thuế quan và viên đội trưởng quản lý cảng. Tất cả đều có chuyện để nói về việc cập cảng bất thường của con tàu bí ẩn nay đã trở thành một chuyện truyền miệng của người địa phương. Tuy nhiên, chẳng có ai trong số họ có thể đưa ra lời giải thích tối thiểu về những gì được chứa đựng bên trong các thùng gỗ kia, và vì vậy, tôi chỉ còn cách bằng lòng với một thông tin duy nhất ghi trên hóa đơn: năm mươi thùng đất thường. Sau đó, tôi tìm đến vị trưởng ga. Nghe tôi đặt vấn đề, ông cho gọi ngay những người đã từng tham gia vận chuyển các thùng hàng đó tới. Nhưng số người này cũng chỉ cho tôi biết được cái điều tôi không thể chắc chắn: đó là năm mươi thùng gỗ, và họ cũng không thể nói được gì thêm nếu không phải là “các thùng gỗ ấy to và nặng khủng khiếp”, hoặc “nâng được chúng lên rồi thì mình cũng đến chết khác.
Đúng là mất công vô ích!
* * * * *
Ngày 30 tháng 9
Vị trưởng ga viết vài dòng thư tay giới thiệu tôi với một đồng nghiệp của ông ở Kings Cross để khi tới Luân Đôn vào sáng nay, tôi có thể đặt vấn đề ngay với anh ta về những gì tôi muốn biết thêm về các thùng hàng gỗ khi chúng được dỡ xuống đây. Về phần mình, anh ta cũng cho gọi ngay những phu khuân vác từng tham gia bốc dỡ các thùng hàng này đến cho tôi tìm hiểu, song số người này cũng chỉ nói được số lượng các thùng hàng là năm mươi. Cớ điều không thấy ai kêu ca về sự đói khát lạ thường cả. Song dù có sự khác thường hay không thì tôi vẫn phải chán nản mà cảm ơn những người phu khuân vác này.
Từ ga Kings Cross, tôi uể oải về văn phòng làm việc của công ty Carter, Parterson ở Cie, nơi họ đã đón tiếp tôi rất lịch sự. Sau khi tìm hồ sơ giao dịch cho tôi, các nhân viên đã gọi điện cho chi nhánh Kings Cross để hỏi các thông tin chi tiết chính xác. Đám tài xế xe tải vừa chở hàng về. Theo đề nghị, họ chuyển ngay cho chúng tôi một báo cáo về chuyến hàng. Người ta đã đưa cho một người trong số họ một thư giao hàng và các giấy tờ khác liên quan tới việc vận chuyển các thùng hàng đến Carfax. Số thùng hàng ở đây cũng trùng khớp với số ghi trên hóa đơn. Ngoài ra, các tài xế cũng đồng ý cung cấp cho tôi các chi tiết bổ sung mà họ biết. Các chi tiết liên quan, nếu có thể gọi là như vậy, mà tôi nhận được chỉ là một sự bất tiện rất khó chịu của công việc - đó là bụi và những cơn khát cháy cổ. Nhưng khi tôi để cho đám tài xế ngồi xả hơi và biếu họ một vài giấy bạc lẻ, một tay tài xế bỗng cao hứng reo rất to, giọng đặc sệt nhà quê :
- Ngôi nhà ấy, thưa ông chủ, chỉ toàn bụi là bụi thôi? Đúng là một điều kỳ lạ nhất mà em từng thấy trong đời! Em thề đấy! Nhìn ngôi nhà cứ như cả trăm năm nay cũng chưa có người đặt chân vào ấy! Bụi cứ là dày hàng tấc! Dày thế này này... đến nỗi người ta có thể nằm ngủ mà chẳng sợ bị đau lưng! Ngôi nhà hoang tàn chẳng khác nào Jerusalem cổ xưa! Nhưng ghê nhất phải là cái nhà thờ riêng trong ấy?
- Chết, chết, chết! Em chẳng thấy nó giống ở đâu cả! Lúc bước ra ngoài, em và mấy thằng bạn cứ ngỡ là mình vừa từ cõi chết trở về? Chúa ơi? Em chẳng thể nán lại đó một tích tắc khi trời đã tối!
Tất nhiên là tôi tin ở lời nói của anh ta, và tôi cũng tin chắc là nếu biết tất cả những gì tôi đã biết, anh ta sẽ có một giọng diễn cảm hơn thế nhiều.
Dù thế nào thì bây giờ tôi cũng chắc chắn được một điều: tất cả các thùng hàng được chuyển từ Varna đến Whitby bằng tàu Demeter rồi được chuyển tới nhà thờ riêng Carfax. Cả thảy là năm chục thùng, và sau khi đọc nhật ký của bác sĩ Seward, tôi e từ đó tới nay, ít nhất cùng phải có vài thùng được sử dụng rồi.
Tôi sẽ cố gắng tìm lại người tài xế xe tải từng đánh nhau với Renũeld lúc chở hàng ở Carfax. Theo dấu vết này, biết đâu chúng tôi chẳng tìm ra một cái gì đó không đến nỗi tồi?
Lát sau
Tôi và Mina đã làm việc suốt cả ngày, vì vậy mọi loại tài liệu bây giờ đều đã được sắp xếp đâu ra đấy.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 30 tháng 9
Tôi cảm thấy vui đến nỗi tạm thời có thể mãn nguyện với chính mình. Có lẽ đó là phản ứng bình thường đối với một sự lo lắng cực độ luôn thường trực trong tôi: lúc nào tôi cũng sợ khi bị nhắc lại vết thương lòng, Jonathan sẽ lại lên cơn vật vã. Lúc chuẩn bị đi Whitby, trông anh có vẻ đã hoàn toàn làm chủ được bản thân, nhưng không vì thế mà tôi không muốn chết vì lo. Ơn Chúa! Mọi nỗ lực và công việc của anh đều được thực hiện ổn thỏa với sự giúp đỡ nhiệt tình của những người anh cần gặp. Chưa bao giờ tôi thấy anh khỏe khoắn, nghị lực và quyết tâm đi đến tận cùng của sự việc đến thế. Vị giáo sư già tất bụng Van Helsing đã nói đúng: Jonathan quả là một người thật dũng cảm, càng gặp khó khăn trở ngại, anh càng hăng hái đương đầu với thử thách. Lúc anh trở về, tôi thấy anh có vẻ tràn trề hy vọng và thể hiện rõ quyết tâm hơn. Anh giúp tôi hoàn thành nốt việc sắp xếp tài liệu mà anh vừa thu được theo trình tự thời gian. Bây giờ, tất cả đã được chuẩn bị chu đáo. Trong lòng tôi cảm thấy nhẹ nhõm và phấn khích hơn trước nhiều. Thú thực là lúc đầu, tôi cũng tự hỏi rằng xét cho cùng, có cần thiết phải thương hại một tạo hóa bị săn đuổi như lão bá tước hay không. Bởi cái tạo hóa này chẳng có chút gì được gọi là nhân tính cả, nhưng lão cũng đâu cớ giống một con vật. Tuy nhiên, hễ cứ nhớ đến cái chết của Lucy và những sự kiện diễn ra sau đó là tôi lại thấy điên tiết lên?
* * * * *
Một lúc sau
Huân tước Godalming và Moriss đến sớm hơn so với mong đợi của chúng tôi. Bác sĩ Seward phải dẫn Jonathan đi thăm mấy người bệnh, nên tôi là người trực tiếp đón tiếp họ. Thú thực, tôi cảm thấy hơi khó khăn trong chuyện này, bởi nhìn thấy họ, tôi lại chợt nhớ đến những niềm hy vọng của Lucy cách đây ít tháng! Vâng, Lucy đã không ít lần nói chuyện với tôi về họ và tôi còn nhớ hình như cũng đã có lần Van Helsing “đọc diễn văn” ca ngợi Quincey Moriss rồi thì phải. Thật là những chàng trai tội nghiệp! Họ đâu có hiểu tôi là người đã biết rõ chuyện từng người hỏi cưới Lucy! Hình như họ vẫn tưởng tôi chưa biết gì về những tình cảnh thảm thương xảy ra với cái chết của cô thì phải, bởi trước mặt tôi, họ chỉ toàn nói chuyện về thời tiết và những chuyện hươu vượn khác. Bởi vậy, tôi phải nói rõ tình hình hiện tại cho họ nghe.
Qua nhật ký của Seward, tôi biết họ cũng có mặt trong cái chất - ý tôi muốn nói là cái chết thật sự - của Lucy, vì thế nên chẳng còn gì phải giữ bí mật ở đây cả. Tôi nói để họ biết rằng hai vợ chồng tơi đã đọc tất cả các tài liệu có trong tay rồi đánh máy lại hết theo một trình tự thời gian. Và tôi đưa cho mỗi người một bản sao để họ ngồi đọc trong thư viện. Huân tước Godalming hỏi tôi :
- Thưa bà Harker, có phải bà là người đã đánh máy toàn bộ số tài liệu này không?
Thấy tôi gật đầu, anh hỏi tiếp :
- Tôi chưa rõ lắm mục đích việc làm của mọi người, nhưng tôi thấy các bạn đều rất tất với tôi, rất tận tâm vì tôi. Sự nhiệt tình của mọi người ft đầu đến giờ dường như đã mang lại nhiều kết quả. Bây giờ, tất cả những gì tôi có thể làm là tin tưởng và đáp lại sự giúp đỡ của mọi người. Tôi thừa nhận các sự việc và biết rằng mọi người cũng rất yêu thương Lucy...
Anh bỗng gục đầu xuống, hai tay ôm mặt, giọng thổn thức trong những tiếng nấc. Moriss đặt tay lên vai anh một lúc, như một cử chỉ an ủi người bạn đang tủi thân, rồi lặng lẽ bước ra ngoài. Chắc là trong tính cách bản năng của phụ nữ chúng tôi phải có một cái gì đó mới khiến một người đàn ông dễ dàng bày tỏ cảm xúc và nỗi lòng đau đớn của mình như vậy mà không hề sợ mất thể diện.
Thấy chỉ còn hai người trong phòng, anh đổ vật người xuống ghế trang kỷ và chẳng cần cố giấu đi nỗi đau trong lòng. Tôi đến bên cạnh và nắm chặt lấy bàn tay anh. Tôi hy vọng cử chỉ của mình sẽ không bị đánh giá là quá gần gũi đối với một người đàn ông khác. Và nếu sau này, khi có nhớ lại, anh cũng sẽ không bao giờ nghĩ về tôi như vậy. Nhưng có lẽ tôi đã hơi lo xa, bởi tôi biết anh là một người lịch lãm, quý tộc, sẽ chẳng bao giờ anh nghĩ như vậy trong đầu.
- Tôi cũng rất thương Lucy, - Tôi tâm sự - và tôi cũng rất hiểu tình cảm cô ấy dành cho ngài cũng như những gì ngài đã dành cho cô ấy. Tôi và cô ấy vẫn coi nhau như hai chị em. Bây giờ cô ấy không còn nữa, vậy ngài có thể coi tôi như một người em gái được không? Tôi biết ngài vừa trải qua hai nỗi bất hạnh lớn trong đời, nếu như tình cảm chân tình của tôi có thể làm ngài nguôi ngoai đi phần nào nỗi buồn trong lòng, thì xin ngài hãy cho phép tôi được giúp ngài...
Chàng trai tội nghiệp bỗng khóc nấc lên, nướe mắt lăn dài trên gò má. Thương anh quá mà chẳng biết làm sao? Trong lúc xúc động, anh đã ngả đầu vào vai tôi mà nức nở như một đứa trẻ.
Cũng như những người phụ nữ khác, bản năng của một người mẹ chợt thức dậy trong tôi khi gặp một người cần sự che chở và niềm an ủi. Tôi cảm thấy chàng trai đang gục đầu thổn thức trên vai tôi giống như một đứa con bé bỏng mà sẽ có ngày tôi được bế trong vòng tay. Tôi vuốt mái tóc của anh như mái tóc của một đứa con trai.
Cuối cùng, khi đã trấn tĩnh trở lại, anh từ từ ngẩng mặt lên và thú nhận rằng bấy lâu nay, anh chưa có dịp nào tâm sự cùng ai về sự chán chường và tuyệt vọng trong lòng mình. Anh không còn cảm thấy hứng thú khi giao thiệp với những người con gái khác và hơn nữa, anh không thể nói chuyện thân tình được với bất cứ một cô gái nào sau những tình cảnh trớ trêu vừa qua.
- Tôi biết tôi phải chịu đựng đến mức nào, - Anh vừa nói vừa lau nước mắt - nhưng việc bà làm hôm nay vì tôi thật sâu nặng đến mức ngay bây giờ tôi chưa thể hiểu hết giá trị của nó, và sẽ chẳng bao giờ có ai hiểu được điều đó. Nhưng tôi có thể hiểu là tới một ngày nào đó, khi tôi đã thấm thía hoàn toàn việc làm của bà, thì xin bà cứ tin rằng sự biết ơn của tôi đối với bà sẽ còn sâu sắc hơn rất nhiều. Kể từ ngày hôm nay, để tưởng nhớ đến Lucy, tôi xin được coi bà như một người em gái.
- Vâng, để tưởng nhớ tới Lucy của chúng ta. - Tôi đáp lại và siết chặt bàn tay anh.
- Và cũng vì những gì thuộc về con người bà nữa chứ, - Anh nói tiếp - bởi nếu bao giờ cớ ai đó xứng đáng dành được lòng biết ơn và sự trân trọng của một người đàn ông, thì bà chính là người đã dành được trọn vẹn lòng tôi. Nếu sau này, khi nào cần tới sự giúp đỡ tận tình của một người bạn chân thành, thì xin bà hay nghĩ tới tôi. Chúa sẽ không bao giờ để bà phải trải qua những ngày đen tối nữa? Nhưng nếu điều đó vẫn cứ xảy ra thì xin bà hãy cho tôi biết ngay!
Tôi hoàn toàn cảm nhận được tâm trạng và sự nghiêm túc trong giọng nói của anh, và có lẽ lời hứa của tôi sẽ phần nào an ủi được anh.
- Vâng, tôi xin hứa như vậy!
Ngoài hành lang, Moriss đang đứng trầm ngâm trước ô cửa sổ. Vừa nghe thấy tiếng bước chân tôi, anh quay sang hỏi luôn :
- Arthur thế nào rồi?
Thấy hai mắt tôi đỏ hoe, anh đỡ lời ngay :
- A! Tôi biết thế nào bà cũng tìm cách an ủi anh ấy mà. Tội nghiệp anh chàng, anh ấy rất cần được an ủi? Chỉ có phụ nữ mới làm nguôi ngoai được nỗi lòng của một người đàn ông, và cử chỉ dịu dàng của người phụ nữ mới...
Tuy nhiên, ngay cả Moriss cũng không phải là người có thế dễ dàng vượt qua được nỗi đau trong lòng nếu không có sự can đảm và bản lĩnh của một người đàn ông cương nghị. Khi nhận thấy trên tay anh là một xấp giấy đánh máy, tôi chợt hiểu anh đã đọc những gì tôi đưa và biết tôi là người đã rõ mọi chuyện.
- Tôi rất muốn an ủi tất cả những ai có nỗi đau trong lòng? - Tôi nói. - Hãy cho phép tôi được là một người bạn, một người bạn mà ông có thể tìm gặp bất cứ lúc nào cần có sự giúp đỡ. Sau này ông sẽ hiểu tại sao tôi lại nói với ông như vậy.
Moriss nghiêng mình hôn lên bàn tay tôi. Thực tình mà nói, tôi vẫn cảm thấy mình quá nhỏ bé và yếu đuối để có thể giúp đỡ một chàng trai hào hiệp à vô tư này! Tôi không biết phải làm thế nào để bày tỏ tình cảm trân trọng của mình đối với anh. Những giọt nước mắt chứa đầy nỗi niềm chợt lăn dài trên gò má chàng trai đáng thương, khiến anh không thể nói thêm được điều gì. Phải một lúc sau, anh mới bình tĩnh lại và bảo tôi :
- Cô bé à, sẽ không bao giờ em phải lấy làm tiếc vì đã bày tỏ tấm lòng c.ủa mình đối với tôi đâu, không bao giờ?...
Rồi anh lặng lẽ quay vào phòng với người bạn của mình.
“Cô bé...” Đúng là những lời nói mang nặng ân tình mà anh đã từng dùng để nói với Lucy, nhưng rõ ràng anh cũng đáng là một người bạn thân lắm chứ!
Tôi về nhà lúc năm giờ chiều, khi huân tước Godalming và Moriss đã có mặt và họ được biết về các lá thư và những cuốn nhật ký mà Jonathan và người vợ đáng khâm phục của anh đã sao chép đâu ra đấy. Jonathan vẫn chưa về, anh phải đến nhà mấy tay đánh xe tải mà ông Hennessey nói trong thư. Mina pha cho chúng tôi mỗi người một tách trà, thú thực kể từ khi làm thầy thuốc, đây là lần đầu tiên tôi thực sự cảm thấy nhà thương này là “nhà mình”.
Trong lúc ngồi uống trà, Mina có hỏi tôi :
- Bác sĩ Seward này, tôi có thể đề nghị ông một việc được không? Tôi muốn được gặp tay bệnh nhân Renfield của ngài một lúc. Những gì ngài nói về hắn trong nhật ký khiến tôi không thể không chú ý.
Giọng nói, ánh mắt gần như cầu khẩn của cô khiến tôi không thể từ chối. Vả lại, tôi thấy cũng chẳng có lý do gì để làm như vậy. Và tôi đã đồng ý dẫn cô tới gặp Renfield ngay sau đó. Bước vào phòng hắn, tôi bảo hắn có một quý bà muốn được vào thăm hắn, hắn ậm ừ hỏi lại :
- Để làm gì chứ?
- Bà ấy định thăm nhà thương, - Tôi giải thích - và muốn được tiếp xúc với các bệnh nhân nội trú để tìm hiểu một số vấn đề, thế thôi.
- Hay đấy! Vậy thì cứ bảo bà ta vào đi? Nhưng từ từ đã, tôi phải dọn lại mấy thứ cho gọn gàng mới được.
Đối với hắn, dọn dẹp mấy thứ tức là nuốt bằng sạch lũ ruồi, nhện đựng trong mấy cái hộp vứt ngổn ngang trong phòng, trước khi có người ngăn cản hắn. Rõ ràng hắn sợ người khác biết chuyện về những côn trùng kia. Sau khi “dọn dẹp” xong, hắn vui vẻ bảo tôi :
- Gọi bà ta vào đi?
Rồi hắn ngồi xuống mép giường, đầu cúi gục, nhưng mắt vẫn cố ngước lên chờ người khách lạ mặt. Nhìn hắn, tôi bỗng thấy lo ngại, vì hắn có thể nổi cơn điên chết người vào bất cứ lúc nào. Tôi nhớ đã có lần hắn tỏ ra hoàn toàn ngoan ngoãn trong phòng làm việc của tôi, ấy thế mà chỉ vài phút sau, hắn bỗng nhảy xổ vào người tôi như muốn kết liễu tôi ngay lập tức. Bởi vậy, tôi phải lân la đến ngồi cạnh hắn để nếu có bề gì, tôi còn có thể bắt chết hắn ngay trước khi hắn kịp giở trò tấn công Mina. Đọc hắn đồng ý, Mina tươi cười bước vào và chìa tay tiến lại gần hắn.
- Xin chào Renfield. - Cô nói. - Ông thấy đấy, tôi đã được biết về ông, bác sĩ Seward đã kể cho tôi nghe về ông.
Hắn nhíu mày nhìn chằm chằm vào người phụ nữ lạ mặt và không thèm trả lời ngay. Hắn còn tỏ vẻ ngạc nhiên lẫn một chút ngờ vực nữa, nhưng chính hắn cũng làm tôi ngạc nhiên bởi một câu hỏi mà tôi không thể ngờ được :
- Bà không phải là người mà ông bác sĩ đây muốn cưới làm vợ đấy chứ? Không, không thể là bà được, bởi người con gái ấy đã chết rồi.
Mina mỉm cười trả lời :
- Không, chắc chắn là không phải rồi? Bởi vì tôi đã có chồng, chúng tôi cưới nhau từ khi tôi còn chưa được biất bác sĩ Seward, và khi đó ông ấy cũng chưa bao giờ gặp tôi.
- Vậy thì bà tới đây làm gì?
- Tôi và chồng tôi muốn tới thăm nhà bác sĩ Seward.
- Đừng nên nán lại nhà ông ta!
- Tại sao?
Sợ cuộc nói chuyện kiểu này có thể làm Mina phật ý, tôi phải lựa lời lái câu chuyện đi một hướng khác.
- Làm sao anh biết tôi định cưới vợ? - Tôi hỏi Renfield.
Hắn đáp lại tôi bằng một giọng khinh khỉnh, mắt hết nhìn Mina rồi lại nhìn tôi, rồi lại quay ngoắt đi ngay lập tức :
- Một câu hỏi thật ngu ngốc!
- Tôi thì tôi không nghĩ như vậy, Renfield ạ? - Mina nói như muốn bênh vực tôi.
Khác hẳn với thái độ khinh khinh khi nói với tôi, hắn tỏ ra rất lịch sự và có thái độ tôn trọng khi tiếp chuyện Mina :
- Bà Harker này, chắc bà cũng hiểu đối với một người đàn ông được đề cao, được yêu như ông bác sĩ đây, thì tất cả những gì liên quan đến ông ta đều làm cộng đồng nhỏ của chúng tôi quan tâm. Không chỉ có những người bạn yêu mến bác sĩ Seward, mà ngay cả một số người trong đám bệnh nhân của ông ta, do sự mất thăng bằng về tâm thần, có thể làm thay đổi bản chất của nguyên nhân và kết quả. Từ khi phải vào cái nhà thương này, tôi không thể không để ý rằng sự ngụy biện của một số người nội trú luôn có xu hướng làm họ phạm phải các sai lầm phi nguyên nhân và có hậu quả, khiến họ nhẫm lẫn không chỉ vì sự thiếu nhận biết về chất, mà còn cả về nguyên nhân nữa.
Tôi trố mắt ngạc nhiên nhìn hắn. Hắn là một bệnh nhân khiến tôi phải bận tâm nhất, nên tôi luôn hiểu rằng một trong những điều làm nên chứng bệnh của hắn là hay nói về triết học. Nhưng quả thật chưa bao giờ tôi thấy hắn nói kiểu như vậy: hắn nói cứ như một triết gia thực sự lỗi lạc. Phải chăng sự hiện diện của Mina đã làm rung động một sợi dây nào đó trong hồi ức của hắn? Nếu sự thức tỉnh đột xuất của các năng lực trí tuệ này là tự phát, hoặc ít nhất là xuất phát từ sự ảnh hưởng vô thức của người phụ nữ trẻ kia, thì chắc hẳn cô phải có một khả năng thiên bẩm hay một năng lực hơi không bình thường.
Chúng tôi ngồi tán chuyện thêm một lúc nữa. Thấy Renfield có vẻ khoái trí với lý lẽ của mình, Mina nháy mắt nhìn tôi rồi hỏi thêm hắn về chủ đề mà hắn thích. Rõ ràng là càng lúc hắn càng làm tôi ngạc nhiên. Hắn nói vô tư như một người đàn ông có đủ các năng lực về trí tuệ, đã thế, hắn còn lấy chính bản thân mình ra làm ví dụ cho những gì hắn muốn chứng minh.
- Nếu để ý, bà sẽ thấy trong tôi một bản thể rất khác lạ.Tôi nói bà đừng cười, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi những người bà con của tôi luôn tỏ ra lo ngại cho tôi và đặt tôi dưới sự giám sát của họ. Thỉnh thoảng tôi vẫn hình dung cuộc sống là một bản thể thiết thực, vĩnh hằng, và bằng cách nuốt chửng vô số các thực thể sống cho dù đó là các thực thể nằm ở đáy thang của tạo hóa - người ta có thể kéo dài vô tận cuộc sống của mình. Tôi luôn tin ở sự trường tồn, đến nỗi sẽ tới một lúc nào đó, tôi phải thể hiện mình thực sự là một người đàn ông. Thế nào chẳng có lúc ông bác sĩ đây sẽ kể với bà rằng đã có lần tôi định giết ông ta để tiếp thêm sức sống cho bản thân mình, tôi muốn nói tôi trường tồn bằng cách thu nạp dòng máu của chính ông ta, vì tôi nhớ trong Kinh thánh có câu: “Dòng máu chảy, ấy chính là cuộc sống.” Thế mà các thầy thuốc đã cố tình tầm thường hóa điều hiển nhiên này đến độ ông ta rất đáng bị phỉ nhổ vào mặt. Tôi nói vậy có đúng không, ông bác sĩ?
Tôi khẽ gật đầu, trong lòng cảm thấy rất kinh ngạc để có thể tìm ra một lời nói hay một thậm chí là một ý nghĩ về những gì hắn vừa lý giải. Có thể nào đây lại là một gã đàn ông mà chỉ năm phút trước thôi, đã nuốt chửng không biết bao nhiêu ruồi và nhện?... Tôi liếc nhìn đồng hồ, vì đã đến lúc phải ra ga đón Van Helsing. Thấy tôi nhắc, Mina lập tức đứng dậy cùng tôi ra về, nhưng trước khi ra khỏi cửa, cô còn mỉm cười nói với Renfield :
- Chào tạm biệt! Hy vọng là tôi sẽ được tới thăm ông thường xuyên vào những dịp thích hợp!
Câu trả lời của Renfield một lần nữa lại làm tôi khó nghĩ :
- Tạm biệt cưng... hoặc nói đúng hơn là Chúa muốn rằng tôi chẳng bao giờ phải gặp lại khuôn mặt duyên của bà nữa. Cầu mong Ngài hãy bảo vệ bà và ban phước lành cho bà!
Tôi ra ga một mình, để Arthur ở nhà với Quincey. Hôm nay, Arthur có vẻ vui hơn cả kể từ khi Lucy của anh qua đời. Trong khi đó, Quincey cũng phấn chấn hẳn lên khi có thêm người bạn mới Mina Harker để chuyện trò.
Tàu vừa dừng bánh, Van Helsing đã nhanh nhẹn nhảy tót xuống sân ga như một thanh niên. Trông thấy tôi, ông chạy vội lại, miệng reo to :
- Á? John, thế nào, vẫn khỏe chứ hả? Tốt rồi! Còn tôi, lúc ở Amsterdam, tôi đã tranh thủ giải quyết hết mọi việc để có thể ở lại đây dài dài nếu thấy cần thiết. Tôi có rất nhiều chuyện để nói với anh đấy. Mina đang ở nhà anh phỏng? Được đấy! Thế còn ông chồng đáng mến của cô ấy thì sao rồi? Cả Arthur và Quincey nữa? Họ cũng đều đang ở nhà anh đấy chứ? Hay thật!
Trên đường về nhà, tôi tranh thủ kể cho ông nghe tất cả những gì xảy ra từ khi ông về nước đến giờ, kể cả chuyện cuốn nhật ký của tôi bỗng dưng trở nên có ích khi được Mina đánh máy và sắp xếp lại theo một trình tự thời gian.
- Ái chà! Cái cô Harker này càng ngày càng gây cho tôi nhiều ngạc nhiên đấy! Cô ấy quả thực là người có cái đầu của một người đàn ông - một người đàn ông có tư chất thiên bẩm nhưng lại mang trong mình một trái tim hiền dịu của một người phụ nữ! Tôi nói anh đừng cười, Chúa sinh thành cô ấy: chính là vì một thiên ý đặc biệt nào đó. Anh bạn thân mến ạ, thần may mắn đưa cô ấy tới đây để giúp chúng ta đấy. Có điều là sau ngày hôm nay, ta không nên để cô ấy tham gia vào câu chuyện kinh khủng này nữa. Nếu không, cô ấy sẽ phải đương đầu với những nguy hiểm không thể lường trước được đâu. Ta đã hứa với nhau rằng việc hủy diệt con quỷ kia là việc của chính chúng ta, những người đàn ông can đảm, chứ không phải là một người phụ nữ, đúng không nhỉ? Kể cả khi cô ấy không gặp phải bất cứ một rủi ro nào đi chăng nữa, thì trái tim nhân ái của cô ấy cũng không nên phải kinh qua những dồn nén của hết sự khủng khiếp này đến nỗi lo sợ khác. Dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng không được phép để cô ấy có những đêm đầy ác mộng sau này. Hơn nữa, vì vẫn còn trẻ và lại chỉ vừa mới cưới chồng, nên nếu không phải là bây giờ thì cũng là trong thời gian sắp tới, cô ấy sẽ có rất nhiều việc cần phải thu xếp. Anh vừa nói cô ấv đã đánh máy tất cả các tài liệu ra giấy, như vậy cũng là tham gia khá nhiều việc với chúng ta rồi. Ngày mai, anh nên bảo cô ấy nghỉ đi! Đừng để cô ấy làm việc gì nữa. Chúng ta sẽ tự tay tiếp tục công việc mà không để cô ấy...
Tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của giáo sư và thông báo cho ông biết điều chúng tôi mới khám phá trong thời gian ông đi vắng: ngôi nhà bá tước Dracula mua chính là ngôi nhà nằm kề với khuôn viên nhà thương của tôi. Van Helsing có vẻ rất ngạc nhiên, nhưng cũng không giấu nổi nét mặt ưu tư.
- Trời ơi! Tại sao chúng ta lại không biết sớm hơn kia chứ? - Ông than thở. - Nếu biết sớm thì đã cứu được Lucy rồi? Nhưng thôi, chuyện cũng qua rồi, đừng nên nghĩ mãi về nó, vấn đề bây giờ là phải cố gắng để đến được cái đích cuối cùng kia!
Ông chợt im bặt và eứ im lặng như thế mãi cho tới khi về tới nhà. Trước khi lên gác cởi áo ngoài chuẩn bị ăn tối, ông nói với Mina :
- Anh bạn John đây có bảo tôi rằng bà và ông nhà đã cất công đánh máy, sắp xếp lại tất cả các tài liệu liên quan tới những gì chúng ta biết về bá tước Dracula cho tới lúc này.
- Không phải là tới lúc này, thưa giáo sư, mà chính xác là tới sáng nay.
- Thì cũng có gì khác nhau đâu? Trước sau thì đó vẫn là một chút ánh sáng soi tỏ các dữ kiện, cho dù đó là những dữ kiện mà bề ngoài có vẻ ít quan trọng nhất. Chúng ta đều đã nói với nhau tất cả những gì mình biết, đúng thế không ạ?
Mina đỏ mặt rút trong túi ra một mẩu giấy :
- Thưa giáo sư, ngài có thể đọc qua mẩu giấy này rồi xem tôi có nên tiếp tục làm không ạ? Đây là những gì tôi ghi dược trong ngày hôm nay. Tiếp tục ghi lại cặn kẽ những gì xảy ra kể từ bây giờ có khi vẫn là một việc làm có ích. Tôi nghĩ không có việc gì là của cá nhân ở đây cả. Tôi có nên tiếp tục không?
Đọc xong mẩu giấy, Van Helsing vừa nói vừa đưa trả lại Mina :
- Việc này sẽ chẳng hỗ trợ được cho các tài liệu khác là mấy nếu như bà không muốn. Tuy nhiên, về phần mình, tôi vẫn thấy đó là việc nên làm. Chồng bà chỉ có thể cảm thấy yêu bà hơn, và với việc làm của bà, ông ấy sẽ cảm nhận được rằng sự đánh giá và cả tình bạn mà chúng tôi, những người bạn thực sự của ông bà, dành cho bà chỉ có thể mỗi ngày một lớn hơn mà thôi.
Mina lại đỏ mặt thẹn thùng cầm lại mẩu giấy từ tay vị giáo sư già với nụ cười rạng rỡ trên môi.
Vậy là cho đến giờ này, tất cả các ghi chú của chúng tôi đều đã được hoàn thành và sắp xếp đâu ra đấy. Van Helsing cầm một bản để tranh thủ nghiền ngẫm sau bữa tối, khi chúng tôi ngồi chờ họp vào lúc tám giờ. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng toàn bộ tài liệu sớ tài liệu có trong tay, ông sẽ cùng chúng tôi lên kế hoạch hành động chống lại kẻ thù bí ẩn và đáng sợ kia.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 30 tháng 9
Khoảng hai tiếng sau bữa tối, chúng tôi kéo nhau vào phòng làm việc của bác sĩ Seward. Cuộc họp của chúng tôi chẳng khác nào cuộc họp của một hội đồng hay một ủy ban công cán nào đó. Giáo sư Van Helsing ngồi ở phía đầu bàn như một vị chủ tọa, ông bảo tôi ngồi bên phải ông làm thư ký cho cả nhóm. Arthur ngồi cạnh tôi. Ngồi đối diện với hai vợ chồng tôi là Arthur và Moriss - Arthur ngồi cạnh giáo sư và bác sĩ Seward ngồi cạnh anh.
Thấy mọi người đã ngồi Đông đủ, giáo sư Van Helsing bắt đầu cuộc họp :
- Nếu tôi không nhầm thì tất cả mọi người đều đã tường tận toàn bộ các sự việc có liên quan được ghi trong nhật ký và thư từ cá nhân rồi, phải không ạ?
Đợi chúng tôi gật đầu trả lời, ông tiếp tục :
- Tôi thiết nghĩ nói cho các bạn rõ hơn về kẻ thù mà chúng ta đang phải đối đầu cũng là một việc nên làm. Các bạn hãy chịu khó nghe tôi giải thích một số điểm về gã đàn ông mà bây giờ tôi đã hoàn toàn chắc chắn này. Sau đó, chúng ta sẽ cùng thảo luận để tìm ra cách hành động tốt nhất với các biện pháp thích hợp nhất có thể có. Đầu tiên, tôi xin khẳng định rằng ma cà rồng thực sự tồn tại trên đời này, bởi đơn giản là một số người trong nhóm chúng ta đã tình cờ có được các bằng chứng? Thậm chí, kể cả khi chúng ta chưa phải trải qua cái thực tế đau đớn vừa qua đi chăng nữa, thì chuyện quá khứ cũng vẫn cứ cung cấp cho chúng ta nhiều chứng cứ đủ để kết luận về sự tồn tại của chúng. Thú thực, lúc đầu tôi cũng chẳng tin. Từ nhiều năm nay, nếu không buộc mình phải mở rộng cách nhìn nhận về thế giới và cuộc sống, tôi sẽ chẳng bao giờ tin ở câu chuyện có vẻ hoang đường này cho tới khi có một tiếng sét đánh ngang tai rằng: Thấy chưa! Ta sẽ buộc nhà ngươi phải thấy! Ta sẽ cho ngươi một bằng chứng rõ mồn một mà ngươi không thể phủ nhận được?” Thế đấy? Nếu ngay từ đầu, chúng ta đã biết mọi chuyện như bây giờ thì cuộc sống quý giá của Lucy có lẽ đã không có một kết cục buồn đến thế! Rất cuộc là chúng ta đã thất bại. Bây giờ mọi nổ lực có thể của chúng ta chỉ là cứu vớt những linh hồn khác. Cần biết rằng giống nosferatu này không thể chết kiểu như loài ong vẫn chết sau khi tiêm nọc độc vào cơ thể một người. Trái lại, nó chỉ có thể càng khỏe hơn mà thôi, và càng khỏe bao nhiêu, nó lại càng trở nên nguy hiểm bấy nhiêu. Con ma cà rồng mà chúng ta đang phải đương đầu có sức mạnh bằng cả hai chục người. Hắn còn quỷ quyệt hơn bất cứ một thực thể tương tự nào, bởi ngón nghề xảo trá của hắn đã được đúc rút qua nhiều thế kỷ. Hắn biết sử dụng thuật chiêu hồn, một ma thuật hiểu theo nghĩa nguyên thủy là gọi hồn người chết để đoán định tương lai, và tất cả những người chết đều có thể đến với hắn theo mệnh lệnh của hắn. Hắn là kẻ cực kỳ tàn nhẫn, và có khi còn tệ hơn cả sự tàn nhẫn. Hắn là một con quỷ không có tình người, không có trái tim ở nhiều xứ sở, hắn có thể xuất hiện bất cứ nơi đâu, chỗ nào mà hắn muốn, với nhiều lốt khác nhau. Thậm chí trong một chừng mực nào đó, hắn còn có quyền năng điều khiển được cả sức mạnh của tự nhiên như gọi giông bão, sương mù, sấm chớp, hoặc bắt các thú vật cấp thấp như chuột, cú vọ, dơi, bướm sâu đo, chồn cáo và chó sói phải nghe lời. Hắn có thể tự biến thành to hơn hoặc nhỏ đi, và trong một số trường hợp, hắn có thể biến mất như không còn tồn tại trên đời này nữa. Trong những điều kiện như vậy, chúng ta phải làm như thế nào để tìm ra hắn? Và lúc tìm thấy rồi thì phải làm cách nào để vĩnh viễn hủy diệt được hắn? Không dễ đâu các bạn ạ, hoàn toàn không dễ chút nào cả. Đó sẽ là một công việc cực kỳ khó khăn và khủng khiếp, có khi chỉ cần nghĩ tới hậu quả mà công việc đó gây ra thôi cũng đủ làm một người đàn ông dũng cảm nhất phải rùng mình. Vì sao vậy? Vì nếu đâm đầu vào cuộc chiến, hắn sẽ cầm chắc phần thắng trong tay. Và rồi chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? Đối với tôi, chuyện mất mạng chẳng có gì đáng sợ cả. Vấn đề là ở chỗ thất bại của chúng ta lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác với sự sống hay cái chết: chúng ta rồi sẽ biến thành những kẻ không có trái tim, cũng chẳng có ý thức như hắn, những tạo vật của đêm tối, để rồi lại biến những người chúng ta yêu thương nhất thành con mồi của chính mình. Những cánh cửa thiên đường sẽ chẳng bao giờ đóng lại cho chúng ta, bởi ai sẽ là người mở rộng cửa cho chúng ta chứ? Chúng ta sẽ bị người đời phỉ nhổ, nguyền rủa mãi mãi. Vậy đấy? Một thử thách ghê gớm nhất đang được đặt ra. Chúng ta đang đứng trước một nhiệm vụ mà Chúa giao phó, một mũi tên sẽ được cắm vào người kẻ sẽ chết vì nhân loại. Nhiệm vụ là đấy, chúng ta có thể lùi bước được không? Về phần mình, tôi không hề quản ngại một điều gì. Dù sao thì tôi cũng đã già rồi, cuộc đời, ánh mặt trời rực rỡ, nhà cửa, vườn tược líu lo tiếng chim hót, âm nhạc, tình yêu, nỗi nhớ... tất cả, tất cả đều đang lùi lại phía sau. Nhưng còn các bạn, các bạn vẫn còn rất trẻ. Một vài người trong các bạn, tuy đã phải hứng chịu nhiều chuyện buồn, nhưng những ngày vui vẫn sẽ dang rộng vòng tay đón chờ các bạn. Các bạn định quyết định như thế nào?
Từ đầu tới giờ, Jonathan vẫn chăm chú lắng nghe. Thú thực khi thấy anh đưa tay nắm chặt lấy tay mình, tôi bỗng đâm lo rằng sự nguy hiểm mà giáo sư đang nói sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thần kinh của anh, khiến anh hoàn toàn nhụt chí. Nhưng rồi tôi lại cảm thấy mình như vừa được hồi sinh khi cảm nhận được tiếng nói qua bàn tay anh, một bàn tay nắm chặt, chắc nịch và đầy quyết tâm. Rõ ràng là bàn tay của một người đàn ông dũng cảm cũng có tiếng nói riêng của nó, và chỉ có một người phụ nữ mang trong long một tình yêu nồng cháy mới cảm nhận được tiếng nói ấy.
Giáo sư im lặng chờ đợi, tôi và Jonathan đưa mắt nhìn nhau, mọi lời nói giữa hái chúng tôi lúc này đều là vô ích.
- Tôi và Mina xin được nói có. - Jonathan trả lời.
- Xin giáo sư cứ tin ở tôi. - Moriss khẳng định mong muốn trong lòng.
- Tôi cũng xin được cùng ngài đi tới đích, - Huân tước Godalming thổ lộ nỗi lòng - tôi muốn thực hiện bổn phận của mình vì tưởng nhớ tới Lucy, và thậm chí kể cả khi không còn mục đích gì khác là được giúp đỡ ngài một tay.
Về phần mình, bác sĩ Seward chỉ gật đầu lặng lẽ. Với anh, như thế là quá đủ để nói lên điều nung nấu trong tim. Tất cả chúng tôi cùng chìa tay thể hiện rõ quyết tâm của mình. Vậy là điều ước trọng đại của chúng tôi đã được thống nhất. Thú thực đã có lúc tim tôi thoáng như thắt lại, mặc dù chưa có giây phút nào tôi nghĩ mình phải từ chối tham gia công việc nguy hiểm trước mắt. Sau những cái bắt tay thể hiện sự quyết tâm, chúng tôi trở về chỗ ngồi của mình. Van Helsing tiếp tục các lý giải của mình vôi sự hồ hởi của một người đang thấy rất thoải mái trong lòng, khi hiểu nhiệm vụ tối quan trọng của chúng tôi cuối cùng cũng đã được bắt đầu bằng một sự đồng tâm, hiệp lực cao nhất.
- Tốt lắm! Bây giờ chúng ta đã biết mình đang phải chiến đấu chống lại cái gì rồi nhé. Chúng ta không thiếu lực lượng. Chúng ta có lợi thế về số lượng, vì ma cà rồng luôn đơn độc, mà chúng ta thì Đông. Chúng ta có thông tin lấy từ sách vở Hơn nữa, chúng ta lại được tự do hành động và tự do suy nghĩ. Về hành động, chúng ta cũng có lợi thế, bởi ngày đêm đều thuộc về chúng ta. Trên thực tế, với những lợi thế có trong tay, chúng ta có thể tự do hành động như mong muốn. Chúng ta chỉ cống hiến cho một mục đích, và mục đích mà chúng ta định hướng tới không chỉ mang lại lợi ích cho riêng ai, mà là chung cho cả nhân loại. Bây giờ, chúng ta hãy cân nhắc các hạn chế của ma cà rồng nói chung và của lão bá tước nói riêng. Để làm được như vậy, chúng ta cần phải tham khảo truyền thống và tín ngưỡng. Nhưng thực ra mà nói, truyền thống và tín ngưỡng cũng chẳng mang lại điều gì to tát nếu chỉ nói về sự sống và cái chết... hoặc cụ thể hơn, các vấn đề được đặt lên bàn cân còn quan trọng hơn sự sống và cái chết nhiều. Tuy nhiên, chúng ta cần phải biết tự bằng lòng với chính mình, trước hết là bởi chúng ta buộc phải hành động, sau đó là bởi truyền thống và tín ngưỡng chẳng để lại một cái gì quá quan trọng. Xin hỏi là cách đây khoảng một năm, giữa cái thế kỷ mười chín có nền khoa học phát triển đến đỉnh cao này, ai trong số chúng ta dám thừa nhận những gì mà cho đến. bây giờ, chúng ta vừa mới biết nào? Chúng ta từng ghê tởm đối với một tín ngưỡng, để rồi không lâu sau đó lại chứng kiến một thực tế hoàn toàn không phi lý một chút nào. Các bạn hãy tin rằng chính ma cà rồng một nhân vật khiến cho nhiều người phải tín ngưỡng ở sự tồn tại và các quyền năng cũng như các hạn chế của nó - cũng đã mang tới những bằng chứng về sự tồn tại của mình dưới con mắt của nhiều người ngoài chúng ta. Chúng ta có thể nhận thấy điều này ở bất cứ chỗ nào có con người trên trái đất này. Ma cà rồng được nhắc tới ở khắp nơi: Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, Đức, Pháp, Ấn Độ, thậm chí ở cả quần đảo Chersonèse. Ở Trung Hoa, một đất nước nằm rất xa chúng ta, cho đến nay vẫn còn rất nhiều người chỉ thoáng nghe thấy nó thôi cũng đã đủ khiếp sợ mà chui vội vào trong chăn. Tiếng xấu về nó còn lặng lẽ bám theo dấu bước chân của các tộc người Ailen, Hung, Slav, Saxon và người Magyar du mục qua mọi nẻo đường trên các châu lục. Vậy là chúng ta đã biết tất cả những gì cần phải biết, và đã có đủ những dữ kiện cần phải có để bắt tay vào hành động. Nhưng tôi cũng xin được nói rằng vẫn còn nhiều tín ngưỡng về nhân vật này chưa được kiểm chứng trong thời gian chúng ta trải qua nỗi bất hạnh vừa qua. Ma cà rồng sống mà không sợ thời gian dần dần đưa nó gần tới cái chết. Nó sẽ tiếp tục bành trướng thuận lợi chừng nào còn được tiếp sức nhờ dòng máu của người sống. Chúng ta có thể thấy nó trẻ ra, khỏe hơn và có thể hồi sinh ngay lập tức nếu tìm được một nguồn dinh dưỡng ưa thích của mình. Nó phải theo đuổi chế độ sống này chứ không thể sống theo lối sống của người bình thường. Như anh bạn Jonathan đã thấy, trong suất nhiều tuần ở lâu đàí Dracula, đã bao giờ anh thấy nó ăn uống một bữa nào chưa? Không bao giờ! Còn một điều kỳ lạ không kém: người nó không có bóng; hình hài nó không bị phản chiếu trong gương, điều này thì Jonathan cũng đã được thấy rồi. Mặt khác, nó còn có một sức mạnh ghê gớm như Jonathan đã tả lại trong nhật ký khi nó đóng cổng lâu đài không cho bầy sói vào và khi nó giúp anh bạn này xuống xe. Nó có thể thay hình đổi dạng thành một con chó sói, như người ta đã thấy khi con tàu nào đó cập bến ở Whitby hoặc khi nó tấn công và xé xác một con chó nhà, hoặc thành một con dơi như trường hợp Mina đã thấy ở trên bậu cửa sổ ở Whitby, như anh bạn John đã thấy khi nó bay khỏi ngôi nhà hàng xóm kia, hoặc như anh chàng Quincey từng thấy khi nó đậu trên cửa sổ phòng Lucy. Nó có thể sán lại gần người thuyền trưởng dũng cảm ngồi trước bánh lái bằng một lớp vỏ bọc sương mù dày đặc tự tạo xung quanh người, nhưng chúng ta cũng rất dễ xác định được khoảng không gian giới hạn của nó nhờ chính màn sương mù bao bọc ấy. Ma cà rồng có thể xuất hiện dưới dạng những hạt bụi lẫn vào ánh sáng của mặt trăng, giống như trường hợp của ba ả đàn bà mà Jonathan đã vài lần nhìn thấy trong lâu đài Dracula. Các bạn biết không, nó có thể thu nhỏ mình lại đến mức chui vừa qua một khe cửa hẹp như sợi tóc ở nhà mồ của gia đình Westenra hôm nọ. Một khi đã tìm ra đường đi của mình, nó có thể ra vào bất cứ nơi nào và có thể nhìn xuyên bóng đêm, đây không phải là một quyền năng đáng xem thường trong một thế giới tranh sáng tranh tối. Nó có thể làm được tất cả những điều tôi vừa kể, nhưng không vì thế mà nó có tự do lựa chọn. Nó là một tù nhân thực sự của chính mình, một tù nhân bị kết án chung thân khố sai, một thằng điên bị nhất trong một căn phòng tù túng. Việc đi tới tất cả những nơi mình muốn là một điều không thể được với nó. Nó không phải là dạng thực thể sống theo thiên nhiên, mà là dạng phải sống theo một số quy luật nhất định của riêng mình. Không phải cánh cửa nào cũng rộng mở đối với nó. Cũng như các thế lực ma quái khác, quyền năng của nó sẽ hết hiệu lực ngay sau khi những ánh bình minh đầu tiên ló rạng. Hắn có quyền hưởng tự do, nhưng chỉ ở trong những thời khắc cụ thể. Nếu không có mặt ở nơi mình muốn, nó sẽ không thể trở về đó trước lúc mặt trời lặn. Chúng ta biết được điều đó là nhờ dân gian và các cuốn sách tư liệu, và chúng ta cũng có thể tìm ra bằng chứng tương tự qua những gì mà chính chúng ta đã thu thập được ở đây. Như vậy, có thể nói mặc dù có không ít lúc có thể dương oai diễu võ theo ý thích của mình, nhưng ma cà rồng vẫn không thể bỏ qua các giới hạn bị áp đặt trong một phạm vi riêng: quan tài, địa ngục, hoặc một nơi nào đó như ngôi mộ không được ban phước lành của một kẻ tự tử trong nghĩa địa Whitby chẳng hạn, và nó chỉ có thể di chuyển trong những thời gian thật cụ thể, hoặc có thể vượt đại dương trong những lúc triều lên. Và như chúng ta đã biết, còn có một số thứ có thể vô hiệu hóa quyền năng của nó, ví dụ như tôi chẳng hạn, hoặc một vật mang tính biếu tượng như cây thánh giá bằng vàng: nhìn thấy vật thiêng này, nó buộc phải lùi bước và tìm cách bỏ trốn. Có một số thứ khác mà các bạn cũng nên biết đề phòng trường hợp cần thiết, đó là cây hồng dại dùng để đặt lên nắp quan tài ngăn nó thoát ra ngoài, một viên đạn thánh bắn vào trong quan tài sẽ giết chết nó, ý tôi muốn nói là cái chết thực sự. Và khi đóng cọc vào tim nó, cũng giống như trường hợp chặt đầu nó, chúng ta sẽ cho nó một giấc ngủ vĩnh viễn, khỏi phải bao giờ thức dậy. Chúng ta đều đã rõ trường hợp này rồi, phải không ạ?
- Như vậy, - Giáo sư Van Helsing nói tiếp - đối với bá tước Dracula, khi tìm thấy chỗ ở của lão, chúng ta sẽ tìm mọi cách giữ lão ở sào huyệt để hủy diệt ngay tại đó. Nhưng cũng đừng quên lão là một kẻ cực kỳ xảo quyệt và cũng rất thông minh. Tôi từng có lần đề nghị anh bạn Arminius của mình ở trường Đại học Tổng hợp Budapest cung cấp cho các thông tin về cuộc sống của Dracula, và ông ấy đã kể cho tôi nghe tất cả những gì ông ấy biết về nhân vật ma quái này. Có thể lão chính là tay thủ lĩnh Dracula khét tiếng đã đi vào lịch sử với cuộc vượt sông giao chiến với người Thổ ở ngay đường biên giới giáp với Thổ Nhĩ Kỳ ngày nào. Nếu quả thực là như vậy, thì lão sẽ không phải là một kẻ bình thường, bởi trong thế kỷ chiền tranh đó, và thậm chí là trong nhiều thế kỷ sau đó, người ta đã nói rất nhiều về lão như một đứa con tài ba nhất, táo bạo nhất và can đảm nhất của “đất nước phía bên kia rừng rậm”. Sự thông minh siêu phàm và ý trí không gì lay chuyển nổi của lão đã đi cùng lão xuống mồ để đến bây giờ, lão lại lôi ra sử dụng chống lại chúng ta. Theo Arminius, dòng họ Dracula là những người thuộc một dòng giống quý tộc lừng danh, trong đó có một số người trong các thế hệ kế tiếp có quan hệ mờ ám với quỷ dữ. Chúng bắt đầu dựng trường học và thuyết giảng các pháp thuật huyền bí của mình ở Scholomance, một xứ thuộc vùng núi mọc bên hồ Hermannstadt, nơi quỷ dữ nuôi dạy một trong mười đệ tử thành kẻ giống mình. Có rất nhiều tài liệu kể về kẻ này với những cái tên như stregoica - nghĩa là phù thủy; ordog - quỷ Sa tăng; pokol - địa ngục. Và có một tài liệu trong số đó đã nhắc tới lão bá tước Dracula của chúng ta như một vampir - tức ma cà rồng, mà biểu hiện của nó giống y như những gì chúng ta đã hiểu quá rõ. Dracula chính là mầm mống tạo thành hàng loạt các nhân vật - nạn nhân đàn ông, đàn bà khét tiếng khác mà khi nằm dưới mồ, chúng vẫn luôn cơi trái đất này là nơi cư trú duy nhất có thể được của quỷ dữ...
Mặc dù đang chăm chú lắng nghe, nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao từ nãy đến giờ, Moriss cứ nhìn hoài ra cửa sổ. Cuối cùng, anh lặng lẽ đứng dậy bước ra khỏi phòng, không giải thích lấy một câu. Van Helsing im lặng một lát rồi lại tiếp tục câu chuyện :
- Bây giờ chúng ta hãy quyết định những gì cần phải làm đi. Căn cứ vào các dữ kiện tôi vừa nêu, chúng ta phải tìm ra một lời giải cho kế hoạch của mình. Theo kết quả điều tra của Jonathan, có năm chục thùng đất đã được chuyển từ lâu đài Dracula tới Whitby và tất cả đều được chở đến cất trong ngôi nhà hoang Carfax, nhưng chúng ta cũng biết sau đó đã có người tới lấy đi một số thùng. Theo ý tôi, có lẽ trước tiên, chúng ta nên xác định xem có còn lại thùng nào trong ngôi nhà đó không, hay tất cả đã được mang đi hết rồi. Trong trường hợp này, chúng ta sẽ phải tìm...
Đang nói, ông chợt im bặt giữa chừng, khiến ai cũng ngạc nhiên. Chúng tôi còn sửng sốt hơn khi bất ngờ nghe thấy một tiếng súng nổ chát chúa khiến ai cũng giật thót người: một phát đạn không rõ từ đâu phóng tới, đập tan ô kính cửa sổ, rồi nhảy thia lia trên khung cửa và cắm thẳng vào bức tường cuối phòng. Chắc chắn tôi là một kẻ nhát gan, bởi chỉ có thế mà tôi đã rúm ró, khiếp sợ, gào ầm lên như một con điên. Đám đàn ông hết hoảng đứng bật cả dậy. Huân tước Godalming chạy vội tới bên cửa sổ nhòm ra ngoài. Chúng tôi nghe rõ tiếng Moriss :
- Ngàn lần xin lỗi mọi người? Có lẽ tôi đã làm mọi người phát hoảng? Tôi sẽ kể ngay cho các vị nghe chuyện gì vừa xảy ra!
Lát sau, chúng tôi thấy Moriss vội vàng quay trở lại.
- Tôi ngu ngốc quá! - Anh nói trong hơi thở hổn hển - Thưa bà Harker, tôi thành thật xin lỗi bà! Có lẽ tôi đã làm bà quá khiếp sợ. Nhưng chuyện là như thế này: trong lúc giáo sư mải nói chuyện, có một con dơi rất to đã lao vút tới đâu trên gờ cửa sổ. Sau rất nhiều chuyện đã xảy ra, tôi bỗng cảm thấy sợ loài vật bẩn thỉu này, đến nỗi tôi không thể không nổ súng mỗi khi nhìn thấy chúng. Tôi không biết cảm giác ấy đã xuất hiện trong tôi từ bao đêm rồi. Anh sẽ không giễu cợt tôi chứ, Arthur?
- Anh bắn có trúng không? - Van Helsing hỏi.
- Tôi e là không, bởi nó vẫn tiếp tục bay về phía cánh rừng.
Moriss quay trở lại chỗ của mình và không nói gì thêm. Giáo sư Van Helsing nói tiếp những gì ông vừa định nói :
- Chúng ta sẽ phải tìm từng thùng một, và khi nào xác định được nơi chúng được chuyển đến, chúng ta sẽ hoặc là chiếm lấy chúng, hoặc sẽ giết chết Dracula ở một trong các sào huyệt này của lão. Cũng có thể là thế này: chúng ta sẽ vô hiệu hóa tác dụng của lượng đất chứa trong các thùng gỗ, để lão không còn chỗ ẩn náu an toàn nữa. Chúng ta sẽ chơi lão khi lão còn đang ẩn trong lốt của một con người vào thời gian từ giữa trưa đến khi mặt trời lặn, tức là chúng ta sẽ chiến đấu với hắn trong lúc hắn rơi vào trạng thái yếu nhất... Còn về phần bà, Harker ạ, bà sẽ chẳng cần phải bận tâm đến một điều gì nữa kể từ giờ cho tới khi mọi việe kết thúc. Đối với chúng tôi, bà là một người rất đáng quý, nên bà không thể phơi mình ra trước không biết bao nhiêu nguy hiểm đang chờ đợi phía trước. Tối nay, bà không cần phải đặt ra cho chúng tôi bất cứ một câu hỏi nào nữa. Chúng tôi hứa sẽ kể cho bà nghe tất cả vào lúc nào thích hợp. Đám đàn ông chúng tôi có thể chịu đựng được những thử thách nghiệt ngã nhất, còn bà, một vì sao may mắn và niềm hy vọng của chúng tôi, phải luôn được an toàn trước mọi mối nguy hiểm.
Thế là tất cả mọi người, kể cả Jonathan cũng vậy, đều thở phào như vừa trút bỏ được một nỗi bận tâm mà chưa ai tiện nói ra. Tuy nhiên, tôi lại không hề muốn họ gạt tôi ra khỏi cuộc phiêu lưu này, bởi tôi nghĩ nếu Đông hơn, dù chỉ thêm một người như tôi, chúng tôi vẫn sẽ mạnh hơn là khi không có tôi. Nhưng trước quyết tâm của họ, tôi chỉ còn biết im lặng chấp nhận sự ngoài cuộc như một đảm bảo an toàn cho tính mạng của riêng mình.
Im lặng từ nãy tới giờ, Moriss chợt lên tiếng tham gia câu chuyện :
- Có lẽ chúng ta chẳng còn nhiều thời gian nữa đâu, tôi đề nghị chúng ta phải nhìn nhận xem những gì đã xảy ra trong ngôi nhà hoang. Một khi đã bàn tới con quỷ hút máu người ấy thì mỗi phút trôi qua đối với chúng ta đều rất đáng quý: hành động nhanh chóng và kịp thời, biết đâu chúng ta lại ngăn chặn được lão gây tai họa cho một nạn nhân mới ấy chứ.
Thú thực là tôi đã cảm thấy mất hết sinh khí khi hiểu rằng đám đàn ông đang chuẩn bị bắt tay vào việc ngay lập tức, nhưng tôi chẳng dại gì nói ra nỗi lo sợ của mình, bởi nếu làm thế, tôi sẽ cản trở quyết tâm của họ và từ nay về sau, họ sẽ chẳng bao giờ cho tôi tham gia thảo luận bất cứ một vấn đề gì nữa. Bây giờ, họ đã sang ngôi nhà hoang Carfax cùng với tất cả những thứ có thể cần cho việc đột nhập vào bên trong.
Đúng là đàn ông có khác! Họ bảo tôi phải đi ngủ ngay và không được nghĩ ngợi linh tinh điều gì cả. Họ cứ làm như người phụ nữ có thể ngủ ngay được khi những người cô ta yêu thương đang phải đối mặt với sự nguy hiểm không bằng!
Được thôi, tôi sẽ đi nằm và giả vờ ngủ để khi quay về, Jonathan không còn gì phải lo lắng và bận tâm về tôi cả.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 1 tháng 10, 4 giờ sáng
Chúng tôi vừa thò đầu ra khỏi cửa thì gặp ngay tay giám thị đi tới, ông ta hỏi - lại về chuyện Renfield - rằng tôi có thể tới gặp hắn ngay bây giờ được không, bởi hắn bảo hắn có chuyện rất hệ trọng muốn nói với tôi. Tôi trả lời tối nay tôi rất bận, hẹn ngày mai sẽ tới gặp hắn sớm.
- Nhưng lần này hắn có vẻ sốt ruột hơn bao giờ hết, thưa ngài. - Tay giám thị nài nỉ. - Dù rất muốn không phải như thế, nhưng tôi vẫn có cảm giác nếu ngài không tới gặp hắn ngay lập tức, thế nào hắn cũng nổi một cơn điên dữ dội nhất từ trước tới nay cho mà xem.
Tin lời ông ta, tôi bảo mấy người bạn chịu khó đứng đợi một vài phút để tôi tới gặp hắn.
- Tôi muốn được cùng đi với anh, John ạ. - Van Helsing nói. - Cuốn nhật ký của anh cho tôi thấy tay bệnh nhân này hay đấy, thỉnh thoảng hắn cũng có liên quan tới trường hợp công việc của chúng ta. Tôi rất muốn được thăm tay này lúc hắn chuẩn bị lên cơn xem sao.
- Tôi có thể cùng đi được chứ ạ? - Huân tước Godalming hỏi.
- Thế còn tôi? - Đến lượt Quincey Moriss.
- Cả tôi nữa chứ? - Cuối cùng là Jonathan Harker.
Tôi gật đầu bảo tất cả có thể cùng đi.
Quả thực Renfield đang rất bồn chồn, nhưng tôi chưa bao giờ thấy hắn tỉnh táo và bình tâm như vậy trong cách nói năng đối với tôi. Lần này, tôi lại có dịp được thấy thêm một biểu hiện nữa trong trường hợp của hắn, một biểu hiện mà tôi chưa từng gặp ở bất cứ một bệnh nhân nào khác từ trước tới nay. Hắn tin các lý dò mà hắn đưa ra không thể bị chúng tôi phản đối. Cái làm hắn muốn gặp tôi khẩn cấp ấy là xin tôi được ra viện về nhà. Hắn viện lý do rằng bây giờ hắn đã hoàn toàn bình phục và không còn một rối loạn nhỏ nhất nào về tâm thần. “Tôi sẽ hỏi chuyện các bạn ông, hắn nói biết đâu họ lại chẳng đánh giá tất về híện trạng của tôi. Mà này, ông còn chưa giới thiệu với tôi...” Tôi sững sờ đến nỗi không nhớ ra rằng việc giới thiệu người khác với một thằng điên nội trú trong nhà thương của mình là một việc làm không mấy bình thường, nhưng thực tình mà nói, lúc này Renfield có một cái gì đó đáng được người khác đối xử bằng các thói quen xã giao của cuộc sống xã hội thường ngây. Vậy nên tôi chẳng còn gì phải ngần ngại khỉ giới thiệu những người đang có mặt với nhau: “Ngài Renfield... huân tước Godalming, giáo sư Van Helsing, ngài Quincey Moriss đến từ bang Texas của nước Mỹ, ngài Jonathan Harker”.
Hắn bắt tay, nói chuyện với từng người.
- Huân tước Godalming, ở Windham, tôi đã có vinh hạnh được giúp đỡ cha ngài, tôi rất ìấy làm tiếc vì ông ấy không còn nữa, đến bây giờ ngài đang mang tước hiệu của ông ấy. Ông ấy luôn dành được sự kính trọng và yêu mến của tất cả những ai biết ông ấy. Tôi nghe nói hồi còn trẻ, ông ấy đã phát minh ra một loại rượu pun được rất nhiều người sành điệu ở Derby ưa thích. Ngài Moriss, ngài có rất nhiều lý do để tự hào về bang vĩ đại của mình. Việc sát nhập Texas vào Liên bang đã tạo nên một tiền lệ, mang lại kết quả vô cùng quan trọng, ĩhi mà các bang khác cũng đang muốn cùng gia nhập dưới một lá Cờ sao. Người ta có thể dễ dàng nhận ra sức mạnh của Hiệp ước liên minh khi học thuyết Monroe có được một chỗ đứng thực sự với tư cách là một thỏa ước chính trị.
Tôi biết nói thế nào về hân hạnh của mình khi được gặp giáo sư Van Helsing nhỉ? Thật có lỗi khi chưa kịp hỏi han gì ngài theo phép xã giao tầm thường. Khi một người có một cuộc cách mạng trong phương pháp chẩn trị nhờ những khám phá về sự phát triển không ngừng của bộ não người, mọi hình thức lịch sự tầm thường đều bị thay đổi, bởi nếu đem các phép lịch sự đó áp dụng cho mình, có vẻ như người ta lại muốn dìm vị trí của những người khác xuống. Tất cả các ngài đây, hoặc là nhờ quốc tịch, hoặc là nhờ quyền thừa kế hay nhờ chính sự ưu ái của tự nhiên ban cho, đều có một chỗ đứng trong cái thế giới đang vận động điên đảo của chúng ta. Tôi xin lấy ví dụ: tôi cũng hoàn toàn lành lặn về thể chất và tinh thần như đại đa số những người đang hoàn toàn được quyền tự do ở ngoài kia. Thưa bác sĩ Seward, tôi tuyệt đối tin tưởng rằng với tư cách là một nhà bác học rất tốt bụng, từng nghiên cứu luật cũng như làm thầy thuốc, ngài sẽ hiểu rằng việc khám lại thật chu đáo cho trường hợp của tôi chính là một nghĩa vụ mang tính đạo đức của ngài.
Nói đến những câu cuối cùng, hắn cố làm bộ làm tịch, tỏ ra vẻ thật tự tin và cũng không kém phần lịch sự đối với tôi.
Tôi nghĩ rằng dù chưa một lần được tiếp xúc với Renfield như tôi, những người bạn tôi cũng đang rất ngạc nhiên. Về phần mình, bất chấp những gì đã biết về các giai đoạn phát bệnh của hắn, tôi vẫn tin là hắn rõ ràng đang tìm cách bao biện cho ý định của mình. Thú thực tôi chỉ muốn nói với hắn rằng bệnh trạng của hắn quả thực đã có những tiến triển tất đẹp và tôi sẽ đi hoàn thành mọi thủ tục để hắn có thể ra viện vào sáng mai. Nhưng nhớ lại những lần thay đổi đột ngột và thất thường của hắn, tôi lại muốn làm ngược lại, tôi muốn khuyên hắn hãy nghĩ thật kỹ trước khi đưa ra một quyết định hệ trọng như vậy. Vì vậy, tôi phải trả lời hắn rằng bệnh tình của hắn đang được cải thiện từng ngày, và tôi sẽ nói chuyện với hắn lâu hơn vào sáng ngày mai, sau đó tôi sẽ đưa ra quyết định cụ thể đối với lời thỉnh cầu của hắn.
Hắn có vẻ không bằng lòng với câu trả lời của tôi, bởi tôi thấy hắn cãi lạí ngay lập tức :
- Nhưng thưa bác sĩ, tôi sợ rằng ông lại không hiểu tôi rồi. Điều tôi muốn, ấy là được ra về ngay... ngay lập tức... ngay bây giờ... ngay lúc tôi đang nói đây, nếu có thể được. Thời gian gấp lắm rồi, mà thời gian lại chính là yếu tố quan trọng nhất trong thỏa ước ngầm của chúng ta với Tử thần... Tôi nghĩ tất hơn hết là ngài hãy thực hiện luôn những gì ngài vừa nói đi.
Hắn chăm chú nhìn tôi như chờ đợi, thấy tôi không có biểu hiện gì muốn tán thành, hắn lại quay sang cầu khẩn người khác. Không nhận được câu trả lời nào, cho dù đó chỉ là cái gật đầu, hắn gặng hỏi :
- Chẳng lẽ tôi lại nhầm với các giả định của mình?
- Đúng thế, anh đã nhầm, nhầm to nữa là đằng khác. - Tôi trả lời thẳng thừng.
Hắn im lặng một hồi lâu rồi thủng thẳng nói tiếp :
- Nếu vậy thì có lẽ tôi lại phải có một thỉnh cầu khác với ông vậy. Lần nẩy, tôi xin được đề nghị mọi người hãy nhượng bộ đối với tôi, cho tôi một ân huệ hoặc là một ưu tiên nếu nói theo cách của ông. Lần này, tôi van xin ông không phải vì các động cơ của cá nhân tôi, mà là vì hạnh phúc của người khác. Tôi không còn nhiều thời gian để giải thích cho ông hiểu mọi lý do khiến tôi buộc tôi phải cầu khẩn ông, nhưng xin ông hãy tin rằng đó là những lý do xác đáng, không thể phủ nhận và hoàn toàn không mang một chút vụ lợi cá nhân nào. Tôi được truyền cảm hứng từ chính ý nghĩa cao cả của nghĩa vụ mà tôi thấy mình cần phải thực hiện. Thưa bác sĩ, nếu như đọc được ý nghĩ tự đáy lòng tôi thì chắc là ông sẽ hoàn toàn ủng hộ những tình cảm đang thúc giục tôi. Mà có khi ông còn coi tôi là một trong những người bạn thân thiết nhất và trung thành nhất của mình nữa ấy chứ.
Dứt lời, hắn lại đưa mắt chăm chú nhìn chúng tôi khắp lượt. Lúc này, tôi bắt đầu ngờ rằng sự thay đổi đột ngột trong cách xử sự của hắn chỉ là một hình thức khác, hoặc chính xác hơn là một giai đoạn khác của bệnh điên. Và tôi tự nhủ mình cần phải chờ xem điều gì sẽ xảy ra, bởi qua kinh nghiệm nhiều năm tích lũy được về người điên, tôi hiểu căn bệnh của hắn lại sắp tái phát. Không hiểu Van Helsing đang nghĩ gì, bởi từ nãy tới giờ ông vẫn nhíu mày quan sát từ đầu đến chân hắn, Ông chợt hỏi hắn bằng một giọng mà lúc mới nghe, tôi thấy không có gì phải ngạc nhiên, nhưng lát sau, chỉ khi nghĩ lại, tôi mới thấy có cái gì đấy khang khác. Rõ ràng ông đang xem hắn như một người hoàn toàn tỉnh táo chứ không phải là một bệnh nhân tâm thần :
- Anh không thể giải thích cho chúng tôi nghe tại sao anh muốn rời khỏi đây nay tối nay hay sao? Tôi tin chắc rằng nếu anh không giấu diếm tôi điều gì - tôi nói là tôi, một người nước ngoài lúc nào cũng chịu hiểu mọi điều và không hề có định kiến gì với anh: thì thế nào bác sĩ Seward sẽ có trách nhiệm để anh ra viện cho mà xem.
Hắn lắc đầu buồn bã. Nhìn nét mặt hắn, tôi biết hắn đang luyến tiếc một điều gì đó. Giáo sư không tỏ vẻ quan tâm đến nỗi chán chường của hắn mà nói tiếp :
- Thế nào, anh bạn? Cứ nghĩ kỹ đi. Anh nói là anh đã bình phục, anh muốn chứng minh cho chúng tôi thấy lý trí của anh đã trở lại bình thường, nhưng chúng tôi vẫn thấy nghi ngờ bởi anh chẳng làm gì để chứng minh được điều đó, Nếu anh không giúp đỡ chúng tôi trong cuộc trắc nghiệm này thì làm sao bác sĩ Seward có thể đồng ý với anh được? Một lần nữa, tôi khuyên anh nên nghĩ cho thật kỹ, hãy giúp đỡ chúng tôi, hãy cứ tin ở tôi, anh bạn ạ, quả thực tôi rất mong anh được tự do!
- Thưa bác sĩ Van Helsing, - Hắn lắc đầu trả lời – tôi chẳng thể nói gì được đâu. Lập luận của ngài quả thật không thể bác bẻ gì được, nếu chỉ vì mình tôi, chắc chắn là tôi chẳng ngại gì mà không nói cho ngài biết, nhưng vì tôi không phải là người duy nhất trong vụ việc này... Tôi chỉ có thể đề nghị ngài hãy tin ở tôi. Nếu không để tôi đi khỏi đây, thì xin thưa với bác sĩ Seward rằng tôi sẽ hoàn toàn không chịu trách nhiệm đối với những gì có thể xảy ra đâu nhé.
Thấy đã đến lúc phải chấm dứt cuộc nói chuyện vô bổ, tôi bỏ ra ngoài cửa và nói với vào :
- Thôi nào, các bạn, chúng ta đi làm việc thôi. Tạm biệt Renfield nhé!
Tuy nhiên, lúc tôi chuẩn bị mở cửa, tên bệnh nhân bỗng thay đổi ngay thái độ. Hắn lao nhanh về phía tôi, khiến tôi phải hất hoảng thất lên một tiếng, vì tưởng rằng hắn lại định giết tôi, nhưng tôi đã nhầm, hắn chỉ chìa hai tay khẩn khoản nhắc lại đề nghị của hắn với tôi. Mặc dù có vẻ hiểu cách nài nỉ kiểu như vậy là hơi quá, nhưng hắn vẫn càng lúc càng tỏ ra gấp gáp và thống thiết hơn. Song tôi vẫn nhất quyết không chấp nhận đề nghị của hắn, tới đẩy hắn lùi lại và bảo hắn đừng mất thời gian vô ích. Đây không phải là lần đầu tiên tôi thấy hắn nhún mình hết mức khi hắn muốn ngay lập tức đạt được một ân huệ nào đó mà hắn cho là tối quan trọng, ví dụ như hôm hắn nài nỉ tôi mang cho hắn một con mèo chẳng hạn. Cũng như hôm đó, tôi tưởng hắn mặc dù vẫn tỏ thái độ bất cần - cuối cùng cũng sẽ phải chấp nhận sự từ chối của tôi. Nhưng lần này thì không.
Nhận thấy có đề nghị tôi mãi cũng vô ích, hắn bắt đầu phát cuồng. Hắn quỳ sụp xuống đất hay tay dâng trước mặt tôi rồi lạy lên, lạy xuống, hòng đánh vào lòng trắc ẩn của tôi. Nước mắt giàn giụa, nét mặt sầu thảm hết mức, hắn lại tiếp tục bài diễn văn dài dằng dặc với tôi.
- Làm ơn đi, bác sĩ Seward, tôi van lạy ông đấy! Hãy cho phép tôi rời khỏi ngôi nhà này ngay bây giờ đi? Tôi chẳng câu nệ cung cách tiễn đưa gì đâu! Ông cứ cho bảo vệ mang rồi đã, xích sắt bám theo tôi cũng được; họ có thể lồng tôi vào áo trói, còng tay, xích chân, cùm cổ tôi... Nhưng vì tình yêu dành cho Chúa, ông hãy để tôi ra khỏi đây nhé! Nếu cứ buộc tôi phải ở nhà thương này, ông sẽ là người cố tình phớt lờ đi một điều độc ác, mà ông làm vậy là vì cái gì chứ? Xin ông hãy tin rằng những lời tôi nói đều xuất phát từ sâu thẳm nơi đáy lòng tôi! Xin ông hãy rủ lòng thương kẻ khốn nạn này! Vì tất cả những gì linh thiêng nhất, thân thiết nhất đối với ông trên thế gian này, vì tình yêu mà ông đã để mất, vì niềm hy vọng còn vương trong lòng và vì Chúa tối cao, xin ông hãy cho tôi ra khỏi đây và hãy cứu vớt linh hồn tội lỗi của tôi? Ông vẫn nghe tôi nói đấy chứ, ông bác sĩ? Ông có hiểu tôi nói không. Chẳng lẽ ông lại không nhận ra sự bình phục về thể chất và tinh thần của tôi hay sao? Chẳng lẽ ông lại nghĩ tôi nói năng không nghiêm túc hay sao? Tôi hoàn toàn không phải là một thằng tâm thần đang lên cơn điên, mà là một người có đầy đủ lý trí, ai sẽ cứu vớt tâm hồn của tôi đây? Hãy để cho tôi đi! Để cho tôi đi?
Tôi nghĩ rằng cảnh này càng kéo dài bao nhiêu thì hắn sẽ càng dễ tỏ ra kích động bấy nhiêu, và nếu vậy, chua biết chừng hắn sẽ nổi cơn điên thật ấy chứ.
- Nào, thôi đi! - Tôi nói nghiêm túc. - Như thế là đủ rồi đấy? Anh lên giường nằm nghỉ cho trấn tỉnh lại đi?
Hắn bất lực nhìn tôi chằm chằm. Rồi chẳng nói chẳng rằng, hắn lầm lì đứng dậy đi vào giường ngồi.
Đợi cho các bạn tôi ra trước, tôi đứng nhìn hắn một lần nữa rồi bỏ đi. Trước khi khuất tầm mắt, tôi còn nghe hắn nói với theo một câu, giọng rất bình thản và cũng không kém phần lịch sự :
- Bác sĩ Seward này, tôi hy vọng là ngài sẽ không bao giờ quên rằng tối nay tôi đã làm tất cả những gì có thể để thuyết phục ngài rồi đấy nhé?
Ngày 1 tháng 10, 5 giờ sáng
Tôi cùng mọi người đến nhà Carfax trong một tâm trạng thật thoải mái, bởi chưa bao giờ tôi thấy Mina khỏe khoắn và tự tin đến thế. Nếu như để cô ấy trực tiếp tham gia vào công việc của chúng tôi thì thế nào cô cũng khó tránh được những cơn ác mộng, nhưng may quá bây giờ cô ấy đã chịu để chúng tôi hành động một mình, nên tôi cũng phần nào yên tâm. Vả lại, tôi còn hy vọng cô ấy đang nghĩ mình đã làm cái điều cần phải làm rồi: tất cả các chi tiết nhỏ nhặt nhất đã được tập hợp lại, nếu như có ích cho chúng tôi thì chẳng phải là nhờ công sức và sự thông minh của cô đó là gì?
Tôi tin rằng tất cả chúng tôi đều bị ám ảnh sau cuộc viếng thăm Renfield. Từ lúc ra khỏi phòng hắn, chúng tôi chẳng ai nói với ai một lời. Chỉ tới khi trở về phòng làm việc của Seward, tôi mới thấy Moriss lên tiếng :
- John này, nếu như Renfield không phải là kẻ lừa bịp, thì đây quả là một thằng điên có lý trí nhất mà tôi từng thấy từ trước tới nay! Tôi không dám phán lung tung, nhưng hình như trong đầu hắn đang nung nấu một điều gì đó thật sự nghiêm túc thì phải, bởi vậy, ông nên để mắt tới hắn!
Tôi và huân tước Godalming không thấy có gì đáng chú ý, nhưng bác sĩ Van Helsing lại khác, ông nói :
- Anh bạn John ạ, tôi thật vui mừng khi thấy anh là người đã hiểu mọi giai đoạn phát bệnh của các bệnh nhân tâm thần hơn tôi, bởi nếu là người phải ra quyết định, có lẽ tôi đã cho thả Renfield ngay trước khi hắn rơi vào tình trạng quá khích như vậy. Nhưng cho tới lúc này, càng ngày chúng ta càng hiểu rõ những gì liên quan đến mình, vì vậy, như anh bạn Quincey đã nói, chúng ta không thể làm bừa một điều gì khi công việc chúng ta đang đảm đương là một nhiệm vụ cực kỳ nguy hiểm. Mọi sự đều diễn ra tuần tự theo chiều hướng vốn phải có của chúng.
Dường như bác sĩ Seward định trả lời cả hai người cùng lúc thì phải :
- Đúng là như vậy. Nếu hắn giống như nhiều bệnh nhân khác, tôi sẽ chẳng ngại gì mà không cho hắn thấy rằng tôi rất tin tưởng ở hắn. Nhưng đằng này, cách xử sự của hắn lại có vẻ tùy thuộc rất nhiều vào chuyện đi lại của lão bá tước. Nếu để hắn đi mà không chú ý tới tính khí thất thường của hắn, tôi sẽ phạm phải một sai lầm không thể tha thứ được. Có lần, đứng trước mặt tôi, hắn đã luôn mồm lải nhải gọi lão bá tước là “Đức ông” và “ông chủ” của hắn. Tôi nghi có thể hắn đang chuẩn bị giúp Dracula thực hiện một sứ mệnh ma quỷ nào đó Con quỷ này có khả năng sai khiến chó sói và lũ chuột bẩn thỉu, đó là chưa nói đến các thực thể giống y như lão: vậy thì làm sao hắn không nghĩ tới việc bắt một thằng điên phải phục tùng mình kia chứ? Đúng, có vẻ như Renfield đã nói năng rất nghiêm túc, tôi nhận ra điều đó mặc dù cũng biết rất rõ về căn bệnh của hắn. Tôi hy vọng chúng ta làm đứng những gì cần phải làm. Nhưng đlều này lại xảy ra đúng. Vào lúc chúng ta đang tiến hành các cuộc tìm kiếm tang tóc, nên tôi sợ sẽ làm nhụt ý trí của một người.
Giáo sư mỉm cười bước tới vỗ vai Seward và trấn an :
- Anh bạn thân mến ạ, đừng lo ngại gì cả! Đúng là chúng ta đang nỗ lực đảm đương một sứ mệnh thực sự khủng khiếp, và chúng ta chỉ có thể hành động bằng một lý trí mà chúng ta thấy là đúng đắn nhất, nhưng thiết tưởng cũng nên hy vọng ở lòng nhân từ của Chúa chứ!
Không hiểu ít phút trước, Huân tước Godalming bước ra ngoài làm gì, chỉ thấy khi quay trở lại, anh đang tung hứng một chiếc còi bạc trên tay.
- Có thể ngôi nhà ấy sẽ đầy nhung nhúc chuột. – Anh giơ chiếc còi ra trước mặt chúng tôi và giải thích. - Tôi có cái này để đuổi lũ vật bẩn thỉu ấy ra chỗ khác.
Chúng tôi lặng lẽ đi về phía ngôi nhà bị bỏ hoang, nép dưới các tán lá cây để tránh nguy cơ bị lộ vì ánh trăng có thể bất ngờ ló rạng sau các đám mây bất cứ lúc nào. Tới trước cửa ngôi nhà, Van Helsing mở túi xách lấy ra hàng tá những đồ vật nhỏ và đặt xuống ngưỡng cửa thành bốn đụn nhỏ - rõ ràng là mỗi đụn ấy được sẽ được chia cho một người trong chúng tôi.
- Các bạn ạ, - Ông giải thích - chúng ta đang phải đương đầu với một thách thức cực kỳ nguy hiểm, bởi vậy, cần phải có đủ loại vũ khí. Mối đe dọa từ kẻ thù không chỉ là khả năng ra lệnh cho các linh hồn. Nên nhớ rằng chỉ một mình lão cũng thừa sức để địch lại cả hai chục người gộp lại. Với quyền năng đầy mình của lão, việc chúng ta đánh lão bị thương còn khó chứ chưa nói gì đến chuyện... Vả lại, nếu bị thương, lão còn nổi điên, khiến chúng ta khốn nạn hơn gấp vạn lần ấy chứ. Bởi vậy, cẩn thận một chút vẫn hơn. Anh đeo cái này lên ngực đi - ông đưa cho tôi một cây thánh giá nhỏ, bởi tôi là người đứng gần ông nhất - và cả tràng hoa này nữa – ông đưa tiếp cho tôi một tràng hoa tỏi khô để quàng lên cổ. Cầm luôn lấy khẩu súng ngắn và con dao, chúng ta vẫn chưa biết còn có kẻ thù nào khác nữa. Mỗi người cầm lấy một cái đèn cất vào áo vét, và hãy nhớ lấy điều này: tất cả chúng ta, không ai được phép lọ mọ đi lung tung trong nhà đấy, nhớ chưa?
Ông cầm một chiếc bánh thánh bỏ vào một bì giấy nhỏ rồi đưa cho tôi.
Những người còn lại cũng nhận được số “vũ khí” tương tự như của tôi :
- Mà này, John, mấy cái móc khóa đầu rồi nhỉ? – Giáo sư hỏi bác sĩ Seward.
- Nếu mở được cửa lớn, chúng ta sẽ không phải trèo qua cửa sổ như lũ trộm. Hôm ở nhà Lucy, chúng ta cũng đã làm như vậy mà.
Loay hoay một lúc Seward mới chọn được một chiếc móc vừa với ổ khóa ngôi nhà. Đối với anh, chỉ cần thế là đủ để mở khóa cửa. Cánh cửa nặng nề nghiến ken két khi bị đẩy vào. Tiếng kêu ấy làm tôi nhớ ngay đến hình ảnh bác sĩ Seward cùng mấy người vào nhà mồ của gia đình Westenra mà anh đã kể lại trong nhật ký. Hình như những người còn lại cũng đang có liên tưởng như tôi, bởi họ bỗng cùng lúc đứng sững cả lại Giáo sư Van Helsing là người quyết định bước vào trước.
- In manus tuas, Domine! - Ông lẩm bẩm niệm điều gì đó khi bước qua ngưỡng cửa.
Chúng tôi thận trọng khép cửa lại. Lúc này, mỗi người chỉ còn chú ý đến ánh đèn rọi từ tay mình. Giáo sư cẩn thận kiểm tra lại chất cửa đề phòng trường hợp chúng tôi phải khẩn cấp chạy tháo lui. Cuộc điều tra ngôi nhà bỏ hoang bắt đầu.
Trong vệt sáng vàng ệch từ cây đèn pin nhỏ, tôi thấy đồ vật nào ở đây cũng mang một hình thù quái dị. Đã thế, ánh đèn của người này thỉnh thoảng lại dọi loáng qua người khác, khiến cho cái bóng của chính chúng tôi cũng trở nên rất đáng sợ. Tôi không thể xua đuổi được cái cảm giác chúng tôi không phải là những người duy nhất có mặt trong ngôi nhà tối tăm này. Có lẽ hồi ức kinh hoàng ở Transylvanie đã bất thần trở lại với tôi giữa đêm đen lạnh lẽo nơi đây. Tuy nhiên, tôi tin rằng không riêng gì tôi, mà tất cả những người bạn kia cũng có chung một cảm giác lo ngại như tôi, bởi cứ mỗi lần nghe thấy một tiếng động nhỏ, hoặc bất giác ngờ ngợ thấy một cái bóng đổ dài lên tường, là ai nấy đều giật mình ngoảnh lại nhìn.
Trong nhà, chỗ nào cũng đầy bụi là bụi. Tôi có cảm giác trên nền nhà, trừ những chỗ mới có dấu chân người, bụi dày dễ đến cả đốt ngón tay. Các bức tường cũng vậy, bụi bám lô nhô như một lớp lông bẩn thỉu; ở các góc tường, bụi bám thành mảng trên các lớp mạng nhện treo lơ lửng khiến cho tôi tưởng trên đầu mình đang lơ lửng những mảnh vải bố bị xé rách nham nhở. Trên một mặt bàn kê ngoài hành lang, có một xâu chìa khóa to bự, ở mỗi chìa đều có gắn một mảnh nhựa ghi số phòng đã bị ố vàng bởi thời gian. Có vẻ như những chiếc chìa khóa này đã được sử dụng không ít lần, bởi tôi thấy những vệt nhỏ kéo dài trên lớp bụi ở mặt bàn rất giống.ong với những đường rãnh khi giáo sư vừa nhấc xâu chìa khóa lên.
Giáo sư cầm xâu chìa khóa và quay sang bảo tôi :
- Jonathan này, anh là người biết rõ ngôi nhà này hơn ai hết, anh lại có trong tay các bản bình đồ của ngôi nhà - hoặc ít nhất là các bản sao - mà chắc chắn là anh đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu, vậy thì anh vẫn còn nhớ điện thờ của ngôi nhà này nằm ở chỗ nào chứ?
Tất nhiên là tôi biết rất rõ vị trí nhà thờ nằm ở đâu, cho dù trong lần đầu tiên tới thăm ngôi nhà này, tôi vẫn chưa có dịp được vào trong đó. Tôi dẫn mọi người đi lòng vòng qua mấy khúc hành lang, đến trước một ô cửa bằng gỗ sồi có khung vòm bên trên.
- Đúng là đây rồi! - Giáo sư vừa nói vừa rọi đèn kiểm tra bản sao bức hoành đồ mà tôi từng sử dụng khi mua ngôi nhà.
Phải thử một lô chìa ông mới tìm được một chiếc vừa ổ khóa. Chúng tôi chờ đợi một điều gì đó rất khó chịu sắp sửa xảy ra. Quả thực là lúc cánh cửa chỉ vừa hé mở, mùi hôi thối nồng nặc đã lập tức xộc ra, khiến chúng tôi lập tức mường tượng tới cảnh phải hít thở cái không khí tởm lợm khi phải bước vào bên trong.
Ngoại trừ tôi, chưa có ai trong nhóm được nhìn thấy lão bá tước. Về phần mình, lúc tôi nhìn thấy lão là lúc lão hoặc đang rúc ở đâu đó trong các căn phòng bụi bặm của mình, hoặc đang đầy mọng máu trong một ngơi nhà đổ gần như ở ngoài trời. Nhưng nơi chúng tôi đang đứng đây lại hoàn toàn chật chội và kín như bưng với một bầu không khí tù hãm không biết từ đời thừa nào. Tôi cảm thấy có mùi của đất, và càng lúc càng cảm thấy rặt một mùi chướng khí tràn ngập. Tôi thật không biết phải mô tả như thế nào về bản chất thực có của cái mùi xú uế ấy. Không chỉ tất cả những tà ác gây nên chết chóc trên đời được nhập vào đấy, mà dường như chính bản thân sự thối rữa cũng đang biến chất để làm nên cái địa ngục này. Chỉ nghĩ thế thôi cũng đủ làm tôi sinh bệnh rối! Mỗi hơi thở của quỷ dữ dường như đều gắn với từng hòn đá trên bốn bức tường của điện thờ!
Có lẽ trong những tình huống khác, chỉ cần ngủ thế thôi là chúng tôi cũng phải bỏ cuộc rồi. Nhưng trước mắt chúng tôi là một cái đích quan trọng và hệ trọng, đến mức chúng tôi buộc phải vượt qua những trở ngại kinh tởm nhất. Sau khi đứng sững lại và nhảy giật lùi theo phản xạ tự nhiên, chúng tôi lại sực nhớ tới công việc nên cứ phải coi nơi đây như một vườn hồng.
- Trước hết, - Giáo sư nói - cần phải xem còn lại bao nhiêu thùng gỗ nữa. Phải kiểm tra mọi góc ngách, hang hốc và mọi dấu vết có thể giúp chúng ta phát hiện ra một cái gì đó!
Chúng tôi không gặp trở ngại gì khi đếm các thùng gỗ, bởi thực ra đó toàn là những hòm gỗ có kích cỡ khá lớn. Không thể có chuyện nhầm được! Tổng số theo giấy tờ là năm mươi thùng, nhưng ở đây chỉ còn lại hai mươi chín! Trong khi đếm, đã có lúc tôi giật mình sợ run khi thấy huân tước Godalming bất ngờ quay ra kiểm tra cánh cửa đang khép hờ nhìn ra ngoài một hành lang tối đen. Tim tôi như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Tôi có cảm giác ánh mắt sáng quắc của lão bá tước đang nhìn xuyên qua cái màn đêm tưởng như có thể sờ được kia, rồi tôi hình dung ra dưới con mắt ấy là cái mũi khoằm, đôi môi mọng đỏ nổi bật trên bộ mặt lúc nào cũng trắng bệch... Khoảng một phút sau, huân tước Godalming quay trở lại, miệng lẩm bẩm: “Cứ tưởng một thằng chết giẫm nào, hóa ra chỉ là mấy cái bóng vớ vẩn.” Tôi cẩn thận lia đèn ra cửa và ngoài hành lang, nhưng rõ ràng là không có ai cả. Ở đây không có góc ngách, không có cửa giả, cũng chẳng có một khe hẻm nào, tất cả chỉ là những bức tường phủ dày bụi. Tôi phải kiểm tra để chắc chắn rằng trong này không có chỗ để một kẻ nào đó có thể ẩn náu - kể cả lão. Sự sợ hãi đã biến tôi thành nạn nhân cho sự tưởng tượng của chính mình. Tuy nhiên, ai dại gì hé răng nói ra chuyện này.
Vài phút sau, đang ngó nghiêng kiểm tra một góc nhà thờ, Moriss bỗng hốt hoảng nhảy ngược trở ra. Chúng tôi giật mình đổ dồn mắt về phía anh. Người tôi lạnh toát mồ hôi khi thoáng nhận ra những đốm sáng lập lòe như những ánh lân tinh ẩn hiện lao vụt qua trước mặt. Chúng tôi lập tức lùi lại theo bản năng. Chỉ trong nháy mắt, không biết cơ man nào là chuột chạy náo loạn trong nhà thờ hoang.
Cảnh tượng trước mặt làm chúng tôi thực sự khiếp sợ. Chỉ có huân tước Godalming vẫn tỏ ra bình thản như không, có vẻ như anh đã lường trước được sự việc. Anh lao nhanh tới ô cửa gỗ sồi, rút then, mở toang cánh cửa, rồi lấy chiếc còi bạc thổi liền một hơi. Nghe thấy tiếng còi rên rỉ như tiếng mèo hen, lũ chó sau nhà thương điên đồng loạt sủa inh ỏi cả một vùng. Khoảng hơn một phút sau, có ba con chó săn thú hang lập tức chạy vòng vào góc ngôi nhà hoang. Chúng tôi vẫn lùi lại một cách vô thức. Lùi đến gần cửa, tôi để ý thấy lớp bụi ở đây cũng đã bị giày xéo bởi nhiều vết giầy: hẳn là các thùng gỗ bị thiếu kia đã được chuyển qua lối này. Nhưng đó cũng chính lúc thêm một đàn chuột khác thình lình ào tới hợp bọn với lũ chuột trước tạo nên một cảnh tượng náo loạn, hãi hùng trước mắt chúng tôi. Chúng chạy tràn ra khắp nhà thờ cùng những tiếng kêu chí chóe lạnh gáy, con nào con nấy mắt sáng quắc như đom đóm lập lòe dưới nền đất. Mấy con chó hung hăng định nhảy xổ vào, nhưng không hiểu sao vừa đến ngưỡng cửa, chúng bỗng khựng cả lại, gầm gừ, tru tréo hệt như loài sói. Đàn chuột, dễ có đến cả nghìn con, tiếp tục hoành hành điên loạn trong nhà thờ. Chúng tôi hất hoảng nhảy bổ ra ngoài cửa.
Huân tước Godalming ôm xốc một con chó quẳng vào trong nhà thờ. Chân vừa chạm đất, con chó chuyên săn thú hang lập tức lấy lại sự can đảm vốn có và lao vào tàn sát không thương tiếc các đối thủ không đội trời chung của nó. Loáng một cái nó đã giết chết tươi hơn hai chục con chuột, nhưng cũng chỉ trong chừng ấy thời gian, lũ chuột đã tháo chạy tan tác, chúng trốn nhanh đến nỗi không để lại một cơ hội sát thủ nào cho hai con chó còn lại vừa lao vào trong nhà.
Lũ chuột đột ngột biến mất khiến chúng tôi cảm thấy quỷ dữ cũng vừa tháo lui. Lũ chó vẫn lăng xăng lùng sục khắp nhà, đuôi ve vẩy như rất vui mừng với chiến công vừa lập được. Chúng có vẻ rất khoái nhìn xác chết của những con chuột thiếu may mắn trên nền nhà. Chúng tôi thấy mình như vừa được tiếp thêm lòng can đảm. Không hiểu là do sự xuất hiện của mấy con chó săn, do bầu không khí tù hãm trong phòng đã được giải phóng khi các cánh cửa nhà thờ được mở toang, hay do tiếng thở phào của chính mình khi cảm thấy mình không còn bị nhất kín nữa, nhưng dù thế nào thì mối đe dọa đè nặng lên chúng tôi cũng phần nào được trút bỏ giống như người ta vừa trút bỏ được một mảnh áo bẩn thỉu khó chịu. Lũ chuột đi rồi, chúng tôi lại khóa cửa nhà thờ, cài chất, chằng dây xích và bắt đầu đi lục soát toàn bộ ngôi nhà. Vẫn không có gì đặc biệt nếu không phải là bụi, bụi phủ dày khắp các phòng còn lại, và điều đáng lưu ý là không có chỗ nào có dấu chân người, ngoại trừ những dấu chân do chính tôi để lại trong lần đến thăm nhà trước để làm thủ tục môi giới. Không thấy lũ chó có biểu hiện gì đặc biệt, kể cả lúc chúng tôi quay trở lại nhà thờ cũng vậy. Chúng chỉ chạy lăng xăng như thể đang được đi săn thỏ rừng trong một ngày đẹp trời vậy.
Khi chúng tôi ra ngoài cổng ngôi nhà cũng là khi một ngày mới sắp sửa bắt đầu. Van Helsing cẩn thận khóa cửa và bỏ chiếc chìa khóa vào túi. Tôi không rõ ông tháo chiếc chìa này từ xâu chìa khóa trong nhà từ lúc nào.
- Tốt rồi! - Ông nói. - Vậy là cuộc điều tra của chúng ta đêm nay đã diễn ra êm xuôi? Chúng ta đã biết có bao nhiêu thùng gỗ được chuyển đi. Hơn nữa lại không phải đối mặt với bất cứ sự nguy hiểm nào như tôi vẫn lo. Nhưng điều làm tôi vui nhất là chúng ta đã hoàn thành bước đầu của công việc mà không có sự tham gia của Mina, vì thế cô ấy sẽ không sợ bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng trong nhà thờ vừa rồi. Hơn nữa, cuộc điều tra này cũng cho chúng ta thấy một điều khá thú vị, nếu như không phải là một kết luận chắc chắn về một vấn đề khác hẳn: những con ôn vật ghê tởm chịu sự sai khiến của lão bá tước không phải lúc nào cũng tuân theo quyền năng tâm linh thuần túy của lão. Hãy cứ nhìn đàn chuột mà xem, các bạn sẽ thấy chúng xuất hiện ào ào khi có lệnh của lão - giống như trường hợp lão gọi bầy sói đến khi anh đòi ra khỏi lâu đài Dracula ấy, Jonathan ạ - nhưng rồi cũng biến mất ngay lập tức khi nhìn thấy những chú chó nhỏ kia! Đúng là chúng ta chỉ đang bắt đầu ở vào một thử thách. Đây không phải là lần duy nhất hay lần cuối cùng con quỷ này... sai khiến thế giới thú vật bằng quyền năng của mình. Lão chỉ tạm thời biến mất trước khi tặng chúng ta một dịp được reo vui là “lão đã thất bại?” Cuộc chơi sẽ còn dài đấy. Bây giờ, chúng ta về nhà đi. Trời cũng sắp sáng rồi. Vậy là hôm nay, chúng ta đã có thể bằng lòng với đêm làm việc đầu tiên của mình.
Lúc trở về, tôi không thấy có gì đặc biệt trong nhà thương điên còn đang chìm trong giấc ngủ của bác sĩ Seward, ngoại trừ những tiếng kêu oai oái của một kẻ bất hạnh nào đó ở một phòng cuối hành lang, hoặc những tiếng rên rỉ trong phòng Renfield. Chắc là đầu óc hắn đang bị giày vò ghê gớm lắm - bởi đây là điều vẫn thường thấy ở những người bị rối loạn tâm thần.
Tôi rón rén đi về phòng. Mina vẫn đang chìm trong giấc ngủ, hơi thở của cô chậm và nhẹ đến nỗi tôi phải ghé sát người xuống môi nghe được. Chỉ tới lúc này tôi mới giật mình để ý thấy cô có vẻ xanh xao hơn bình thường. Mong sao cuộc họp hôm qua không làm cô nghĩ ngợi nhiều? Thật may cô không tham già các cuộc điều tra, tìm kiếm hoặc các quyết định của chúng tôi nữa. Rất có thể cô sẽ lo sợ khi nghe chúng tôi bàn về một vài điều gì đó. Tuy nhiên, biết đâu việc chúng tôi giấu cô có khỉ còn làm cô khủng hoảng hơn nếu một lúc nào đó, cô bỗng nghi ngờ chúng tôi muốn cô lặng thinh về chuyện này hay chuyện khác.
Có thể trong thời gian tới, chúng tôi sẽ cố gắng để cô tuyệt đối không nghi ngờ gì về các quyết định và công việc của mình - ít nhất là cho đến lúc chúng tôi có thể thông báo cho cô biết rằng cơn quỷ khát máu kia đã vĩnh viễn bị loại bỏ khỏi trái đất này. Đối vôi tôi, giữ im lặng hoàn toàn không phải là một việc dễ dàng, nhất là khi hai chúng tôi có thói quen cái gì cũng tâm sự cho nhau nghe. Nhưng tôi đã quyết rồi, khi cô ấy thức dậy, nhất định tôi sẽ không kể gì về chuyện vừa xảy ra trong đêm. Nếu cô ấy có gặng hỏi, tôi cũng chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Trời sắp sáng hẳn, tôi rón rén tới nằm nghỉ trên ghế trường kỷ để khỏi làm phiền giấc ngủ của cô.
* * * * *
Ngày 1 tháng 10, một lúc sau
Chắc là không có chuyện gì bất bình thường khi chúng tôi ngủ một mạch tới tận trưa, vì cả ngày lẫn đêm hôm trước, chúng tôi chưa hề được ngả lưng một lúc nào. Mina chắc cũng rất mệt, bởi tôi - người thức dậy đầu tiên - đã phải hai, ba lần lay gọi cô mới chịu tỉnh. Cô ngủ say đến nỗi không nhận ngay ra trước mặt mình đang có người. Cô ngơ ngác và sợ hãi nhìn tôi cứ như người vừa trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp vậy. Thấy cô kêu mệt, tôi bảo cô cứ nán lại trên giường thêm ít phút nữa rồi dậy cũng được... Bây giờ, chúng tôi đã biết có hai mươi mất thùng gỗ đã biến mất trong ngôi nhà bỏ hoang. Bởi vậy, tôi phải điều tra cho rõ số thùng thiếu đó đã được chuyển đi đằng nào. Hôm nay, tôi sẽ tới nhà Thomas Snelling.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 1 tháng 10
Tôi thức dậy khi trời đã gần trưa. Van Helsing có mặt trong phòng tôi từ lúc nào tôi cũng không rõ. Trông ông có vẻ hồ hởi ra mặt, đây là điều rất ít thấy ở ông. Có lẽ những gì chúng tôi vừa phát hiện được đã làm cho tinh thần ông thoải mái hơn. Ông bắt đầu câu chuyện bằng việc nhắc lại một chút về cuộc điều tra đêm hôm qua, rồi chuyển sang nói về vấn đề bệnh nhân Renfield :
- Tay bệnh nhân của anh làm tôi chú ý đấy. Hôm nay, tôi có thể gặp hắn một lần nữa được không? Nếu bận, anh cứ để tôi đến với hắn một mình cũng được. Tôi thấy trường hợp của hắn cũng hay hay. Một thằng điên lại biết nói chính xác về lý luận và triết học mới chết chứ!
Quả thật hôm nay tôi rất bận, bởi vậy tôi phải bảo ông đến phòng Renfield một mình vì không muốn ông phải đợi cho mất thời gian. Tôi gọi một tay giám thị tới dặn mấy điều cần thiết và bảo anh ta dẫn ông đi. Nhưng trước khi ông bước ra khỏi phòng, tôi vẫn nhắc ông phải dè chừng.
- Tôi chỉ định nói chuyện về chính hắn - Ông đáp lại – và nỗi đam mê đã thúc đẩy hắn nuốt sống các côn trùng thôi mà. Hôm qua, tôi có đọc nhật ký của anh và biết rằng hắn đã nói chuyện với Mina. Nhưng anh cười cái gì vậy, John?
- Xin lỗi, nhưng lời đáp cho câu hỏi của ngài lại nằm ở đây - Tôi nói và đặt tay lên xấp giấy đánh máy - Khi tay bệnh nhân điên có lý trí và có giáo dục của chúng ta bàn về thói quen ăn các thực thể sống với tôi, quả thực mồm miệng hắn vẫn còn đính nhoe nhoét chân nhện và chân ruồi mà hắn vừa mới ăn ngay trước khi bà Harker bước vào phòng.
Van Helsing phì cười.
- Anh có một trí nhớ tuyệt đấy, anh bạn ạ! Lẽ ra tôi cũng nên nhớ chi tiết này mới phải, Tuy nhiên, cũng chính những khiếm khuyết tương tự trong suy nghĩ và trí nhớ lại là một sức hút lôi cuốn người ta nghiên cứu về các bệnh nhân tâm thần. Biết đâu khi tìm hiểu về căn bệnh điên qua biểu hiện lạ lùng của Renfield, tôi lại chẳng biết thêm về sự thông thái của con người? Ai mà biết được?
Nói đến đây, tôi phải đến văn phòng để bắt đầu công việc. Thời gian sao trôi nhanh quá, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy giáo sư quay lại.
- Tôi không làm phiền anh đấy chứ?
- Không, ngài cứ việc vào! - Tôi trả lời. - Tôi cũng vừa giải quyết xong mấy việc cần làm, bây giờ tôi có thể dẫn ngài đi nếu ngài còn muốn.
- Khỏi cần đi! Tôi đã gặp hắn rồi!
- Thế hả?
- Chỉ sợ hắn nghĩ về tôi chẳng ra gì. Cuộc nói chuyện thật chóng vánh. Khi tôi vào, hắn đang ngồi chồm hỗm trên chiếc ghế đẩu đặt giữa phòng, hai tay chống cằm, mặt lì lợm, khó chịu. Tôi cố gắng hỏi chuyện hắn bằng một thái độ vui vẻ và rất tôn trọng hắn, nhưng hắn vẫn không thèm trả lời. “Anh không biết tôi à?” - Tôi hỏi. Câu trả lời của hắn rõ ràng là không ổn: “Có chứ! Là ông già Van Helsing ngớ ngẩn chứ ai. Tôi muốn ông tìm chỗ khác mà chơi. Hãy đi mà nghiên cứu cái bộ não ngu ngốc của ông? Quỷ tha ma bắt ông đi, đúng là cái bọn Hà Lan đần độn!” Tôi không thể nói gì được nữa, còn hắn vẫn giữ cái bộ mặt cau có lì lợm của mình và quên hẳn sự có mặt của tôi. Vậy là cơ hội tìm hiểu thêm một điều gì đó từ tên bệnh nhân thông minh này đã qua. Để tự an ủi mình, có lẽ tối phải tìm đến nói chuyện với cô Mina hiền dịu thôi. John ạ, biết diễn tả với anh như thế nào về niềm vui trong tôi khi chúng ta giấu được cô ấy những gian khổ và hiểm nguy còn đang chờ đợi phía trước bây giờ nhỉ? Đành rằng cô ấy vẫn còn có thể giúp chúng ta được một số việc, nhưng chúng ta cũng phải làm sao cho phải đạo mới được.
- Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài. Tất hơn hết là đừng để Mina phải lo lắng thêm điều gì. Tình hình bây giờ đang rất nguy hiểm cho chúng ta, những người đàn ông từng trải qua nhiều thời điểm gian khó trong mưu cầu sinh tồn của cuộc sống. Nếu cứ tiếp tục tham gia với chúng ta, thế nào người phụ nữ trẻ này cũng sẽ héo mòn mất.
Vậy là Van Helsing đã quyết định tìm đến trò chuyện với vợ chồng Harker. Lúc này, Quincey và Arthur đang tiếp tục đi tìm các thùng đất - hoặc ít nhất là lần theo dấu vết của chúng. Tối nay, chúng tôi sẽ lại có một buổi hội ý với nhau.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 1 tháng 10
Tôi cảm thấy rất ấm ức khi bị gạc ra ngoài cuộc như ngày hôm nay. Trong bấy nhiêu năm, Jonathan luôn tỏ ra rất tin tưởng ở tôi, nhưng hôm nay, tôi phải gặp anh mà không được biết gì về cuộc nói chuyện của bọn họ. Sáng nay, tôi dậy rất muộn, vì tôi đã rất mệt mỏi suốt cả ngày hôm qua. Jonathan cũng chỉ dậy trước buổi trưa không lâu... nhưng anh vẫn là người tỉnh giấc đầu tiên! Trước khi đi, anh nói với tôi bằng một giọng dịu dàng và âu yếm hơn bao giờ hết, nhưng tuyệt nhiên không thấy anh đả động một lời nào về cuộc điều tra ngôi nhà lão bá tước đêm hôm qua. Tuy nhiên, chắc hẳn anh vẫn hiểu tôi đang rất lo lắng về chuyện này. Tội nghiệp anh! Việc giữ im lặng sẽ càng làm cho anh bận lòng hơn vì tôi. Tất cả bọn họ đều nhất trí đặt tôi ngoài cuộc, và tôi chỉ còn biết chấp nhận. Nhưng cứ nghĩ người chồng đang ấp ủ nhiều điều bí mật đối với mình là tôi lại thấy ấm ức? Song tôi lại bật khóc như một đứa con nít khi nghĩ chỉ vì tình yêu dành cho tôi mà anh ấy phải giữ im lặng. Và số còn lại cũng vậy, họ là những người bạn hào hiệp và tất bụng, chỉ muốn đảm bảo sức khỏe và sự an toàn cho tôi mà thôi!
Tuy nhiên, những giọt nước mắt nóng bỏng lăn dài trên gò má đã làm tôi nhẹ lòng đi đôi chút. Tôi tự nhủ rồi cũng có ngày Jonathan sẽ kể cho tôi nghe tất cả. Còn bây giờ, tôi sẽ tiếp tục viết nhật ký như bình thường. Nếu có lúc nào anh nghi ngờ niềm tin của tôi, tôi sẽ cho anh biết cảm xúc, nghĩ suy của mình trong những dòng nhật ký ấy. Nghĩ vậy thôi, chứ hôm nay tôi vẫn buồn và uể oải lắm. Có lẽ đây cũng là hậu quả của những cảm xúc thái quá của tôi.
Tối hôm qua, tôi lên giường nằm ngay sau khi Jonathan và những người bạn ra khỏi nhà, đơn giản là vì họ khuyên tôi nên làm như vậy. Tôi không buồn ngủ, mà chỉ thấy lo, lo kinh khủng. Tôi chợt nghĩ về những gì đã xảy ra tử cái hôm Jonathan đến thăm tôi lần đầu tiên ở Luân Đôn, tất cả cứ như một màn kịch khủng khiếp mà các số phận đang nghiệt ngã tiến dần đến điểm cuối cùng của nó. Dường như hành động nào của chúng tôi, cho dù là có thiện ý nhất, cũng đều dính phải những kết quả tệ hại thì phải. Nếu tôi không đến Whitby, chắc gì Lucy đã phải chết. Trước khi tôi đến, có bao giờ cô ấy ra nghĩa địa đâu? Nếu như không cùng tôi đi dạo ở đó, cô ấy sẽ không thể mộng tới tới đó, và như vậy sẽ không có chuyện cô bị con quỷ kia làm hại. Trời ơi! Tại sao tự nhiên tôi lại vác mặt tới Whitby kia chứ? Vâng... thế là tôi lại khóc... Tôi tự hỏi không hiểu hôm nay mình bị làm sao. Jonathan hẳn không biết rằng tôi - người chưa bao giờ khóc vì tủi thân, và cũng chưa bao giờ rơi nước mắt trước mặt chồng mình - đã hai lần khóc vào ngày hôm nay. Nếu nhận ra điều này, chắc chắn anh sẽ bối rối vô cùng. Bởi bình thường ra, nếu có buồn về một chuyện gì đó, tôi cũng chẳng bao giờ để lộ ra mặt...
Hôm qua, tôi không biết mình ngủ thiếp đi từ lúc nào. Tôi chỉ nhớ mình chợt nghe thấy những tiếng sủa inh ỏi của lũ chó nhà và vô số những tiếng kêu lí nhí kỳ lạ vang lên từ phòng tên bệnh nhân Renfield, tức là căn phòng ở ngay dưới phòng tôi. Tiếp đó là một sự im lặng sâu thẳm khiến tôi không thể không cảm thấy lo lắng. Cảm giác mơ hồ khó chịu khiến. tôi phải vùng dậy nhìn ra ngoài cửa sổ. Sự im lặng và bóng tối, thỉnh thoảng được điểm thêm bằng một chút ánh trăng mờ ảo, làm cho đêm khuya càng trở nên huyền bí hơn. Không có gì động đậy ngoài ấy, tất cả bao trùm một vẻ sầu thảm và im lìm như trong một thế giới chết, ngoại trừ mệt làn sương mù bàng bạc bay rất chậm - chậm gần như tôi không cảm nhận được sự chuyển động là là mặt cỏ về phía ngôi nhà của nó, xem ra chỉ có làn sương ấy là hiện thân duy nhất của sự sống lúc này. Làn sương cứ bồng bềnh mãi trong tâm trí tôi, khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn, bởi lúc trở lại giường nằm, tôi thấy mình bắt đầu lâng lâng như đang thiu thiu đi vào giấc ngủ. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể ngủ được, làn sương vẫn đang bồng bềnh trong ý nghĩ của tôi, khiến tôi phải vùng dậy nhòm qua cửa sổ một lần nữa. Làn sương lúc này đã trải đài ra và lơ lửng tiến sát đến ngôi nhà: tôi trông rõ làn sương đầy đặc bám sát vào tường như đang muốn leo qua các ô cửa sổ. Renfield lúc này bỗng gào lên như chó dại, không hiểu hắn nói những gì mà thảm thương đến thế. Rồi tôi chợt có cảm giác như vừa nghe thấy tiếng ai đó đang đánh nhau, có lẽ viên giám thị vừa vào phòng và bị hắn cự nự quyết liệt nên mới sinh chuyện đánh vật với nhau. Tôi sợ hãi về giường nằm, kéo chăn trùm kín đầu, bịt thật chặt hai tai. Lúc này, tôi không còn cảm thấy buồn ngủ nữa. Song cuối cùng thì tôi cũng dần dần thiếp đi, bởi sau một cơn mê, tôi chẳng còn nhớ những gì đã xảy ra cho đến tận. trưa hôm nay, khi Jonathan gọi tôi dậy. Phải định thần một lúc, tới mới nhận ra mình đang ở đâu và ai đang đứng trước mặt. Trong giấc ngủ li bì, tôi đã trải qua một giấc mơ thật quái gở, điều đó cho thấy tôi đã nghĩ ngợi và lo lắng như thế nào. Đúng là tôi vừa trải qua một giấc ngủ mê mệt!
... Tôi ngủ mê mình đang đợi Jonathan quay trở về. Lo cho anh khủng khiếp, nhưng tôi vẫn không tài nào cựa quậy để đứng dậy và làm theo ý muốn của bản thân: chân tay tôi, và cả đầu nữa, bỗng tê dại bởi một trọng lực rất nặng dè lên người. Trong cơn mê, tôi cảm thấy rất khó chịu và không thể điều khiển được ý nghĩ của mình. Lúc đó, tôi có cảm giác bầu không khí xung quanh có một mùi gì đó nằng nặng, ẩm ớt và lạnh toát. Tôi hất tung chăn ra và kinh ngạc nhận thấy căn phòng đang chìm ngập trong bóng tối. Ngọn đèn tôi vặn nhỏ đợi Jonathan khi nãy bây giờ chỉ còn là một đốm nhỏ đỏ quạch, phát ra một thứ ánh sáng chỉ vừa đủ nhìn trong một lớp sương mù đang mỗi lúc một dày đặc hơn trong phòng. Dù nhớ rất rõ là mình đã đóng cửa sổ trước khi đi ngủ, nhưng tôi vẫn muốn ra kiểm tra lại, chỉ có điều là chân tay tôi cứ như đang được làm bằng gỗ, không thể cử động gì được. Biết làm gì bây giờ? Tôi đã nhắm mắt, nhưng dường như vẫn hé nhìn được qua mi mắt (hình như các giấc mơ thường có những điều kỳ quặc như vậy). Màn sương mù vẫn mỗi lúc một dày đặc thêm, và bây giờ tôi đã nhận ra màn sương quỷ quái ấy vào phòng theo đường nào rồi: nó không vào theo cửa sổ như khói hoặc như hơi nước, mà theo các khe hở ở cửa ra vào. Một lát sau, lớp sương mù biến dần thành một cột mây - vâng, nếu tôi có thể gọi là như vậy - vươn cao vút lên trần nhà, và trên đỉnh đám mây hình như có ánh sáng của một đốm lửa trông như một con mắt nhỏ đỏ ngầu. Tất cả bỗng điên đảo trong đầu tôi. Dường như cột mây càng tích tụ dày đặc trong phòng bao nhiêu thì qua lớp sương mù, tôi càng đọc rõ dòng chữ Cột mây ngày, ngọn lửa đêm được ghi trong Kinh thánh bấy nhiêu. Chẳng lẽ đây lại là một cách cảnh báo mà tôi nhận được trong giấc ngủ? Cột mây được tạo thành bởi hai yếu tố ngày và đêm, bởi ở đó có ánh lửa trong con mắt màu đỏ Càng nghĩ, tôi càng cảm thấy mình bị quyến rũ bởi cái hình ảnh đó. Một lúc sau, đốm lửa đỏ bỗng tách đôi tựa như hai con mắt. Hình ảnh ấy khiến tôi sực nhớ đến lời nói của Lucy về những tia nắng mặt trời buổi hoàng hôn hắt vào những ô cửa kính của nhà thờ Thánh Mary, khi tôi và cô ngồi trên vách đá ở Whitby. Tôi cũng bàng hoàng nhớ lại chuyện Jonathan từng được chứng kiến ba tạo vật quỷ quái bất ngờ hóa thành những hạt bụi dưới ánh trăng và hiện hình dần thành ba ả đàn bà dâm đãng. Sau đó tôi lịm đi trong cơn mê tối tăm mù mịt.
Trong một nỗ lực cuối cùng của trí tưởng tượng, tôi nhận ra một bộ mặt xanh tái chui ra từ lớp mây mù và cúi xuống gần tôi.
Có lẽ phải dè chừng những cơn mê kiểu như vậy, bởi vì nếu chúng thường xuyên tái diễn, chắc chắn đầu óc tôi sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tôi định sẽ hỏi bác sĩ Van Helsing hoặc bác sĩ Seward xem tại sao tôi lại ngủ li bì như vậy, nhưng chỉ ngại họ lại lo vớ vẩn. Nếu tôi kể cho họ nghe cơn mê của mình, chắc chắn họ sẽ càng lo lắng vì tôi hơn. Tối nay, tôi sẽ cố gắng ngủ sao cho thật thoải mái. Nếu vẫn không ngủ được, có lẽ tối mai tôi sẽ xin họ một viên thuốc an thần. Tôi nghĩ chỉ dùng một lần thôi thì cũng chẳng có hại gì, và tôi sẽ có một đêm thật yên giấc. Cơn mê như vừa rồi chỉ có thể làm tôi mệt nếu tôi tiếp tục bị mất ngủ.
* * * * *
Ngày 2 tháng 10, 10 giờ tối
Đêm hôm qua, tôi ngủ thật sâu và không thấy mê man gì. Tuy nhiên, giấc ngủ say vẫn không làm tôi sảng khoái, cho đến hôm nay tôi vẫn còn cảm thấy khá mệt và bải hoải. Cả ngày hôm qua, tôi đã cố gắng đọc nhưng không được vì chứng ngủ gật. Buổi chiều, Renfield kêu muốn gặp tôi. Gã đàn ông khốn khổ tỏ ra rất tử tế khi nói chuyện với tôi, thậm chí lúc chào tạm biệt tôi, hắn còn hôn lên tay tôi và cầu Chúa ban phước lành cho tôi nữa. Tự nhiên tôi cảm thấy thương hại hắn đến phát khóc. Lại một lần nữa tôi tự nhủ mình phải giấu đi điểm yếu này, bởi nếu Jonathan biết tôi khóc, anh ấy sẽ buồn không biết để đâu cho hết.
Jonathan và những người bạn chỉ trở về khi gần đến bữa ăn tối với một vẻ mặt rất mệt. Tôi đã làm tất cả những gì có thể để cho họ đỡ mệt, và coi đó là một niềm an ủi giúp mình dần dần quên đi sự mỏi mệt của chính mình. Sau bữa tối, họ lại khuyên tôi lên giường nghỉ, còn họ sẽ ra ngoài hút thuốc thư giãn, nhưng tôi thừa biết là họ muốn ra ngoài thông báo cho nhau nghe về công việc mà từng người đã làm được trong ngày. Nhìn Jonathan, tôi đoán là anh vừa khám phá ra một điều gì hệ trọng lắm. Nằm trên giường, tôi cảm thấy mình không thể ngủi được, vì vậy tôi đã đề nghị bác sĩ Seward cho tôi một viên thuốc an thần liều nhẹ. Tôi giải thích với anh rằng đêm hôm qua tôi ngủ không được ngon giấc cho lắm. Anh cho tôi một viên thuốc mà anh bảo là rất nhẹ và không gây tác dụng phụ... Tôi uống và nằm chờ giấc ngủ... Sau đó không lâu, tôi cảm thấy mình có vẻ như sắp chìm vào giấc ngủ... Nhưng đó cũng chính là lúc tôi lại vướng vào một nỗi lo sợ: chắc là tôi không nhầm khi dùng liều thuốc ấy đấy chứ? Có lẽ sẽ tất hơn nếu như tôi tỉnh ngủ suất đêm! Nhưng đã quá muộn rồi... Tôi đang chìm vào giấc ngủ bất khả kháng... Chào tạm biệt!