Đêm đó một con dơi bay vào phòng qua cửa sổ thấp, phía bao lơn mà ở đó chúng tôi có thể ngắm đêm về trên những mái nhà trong thành phố. Trong phòng tối đen, chỉ trừ một tia sáng yếu ớt của đêm trên thành phố. Con dơi không sợ gì cả, bay tìm mồi trong phòng giống như ngoài trời. Chúng tôi nằm nhìn theo nó, tôi chắc rằng nó không trông thấy chúng tôi vì chúng tôi yên lặng. Khi nó bay ra ngoài trời rồi, chúng tôi thấy một tia đèn pha chiếu lên trời rồi tắt mất và đâu đấy lại chìm vào trong bóng tối mênh mông. Gió đêm nhẹ thổi và chúng tôi nghe những người lính phòng không trò chuyện trên mái nhà lân cận. Trời mát nên họ phải khoác áo choàng. Tôi lo ban đêm có thể có người lên phòng, nhưng Catherine bảo ai nấy đã yên giấc. Có lúc chúng tôi ngủ thiếp đi. Khi thức dậy tôi không thấy nàng ở trong phòng. Tôi nghe tiếng chân nàng đi dọc hành lang rồi tiếng mở cửa. Nàng lại gần giường và nói mọi việc đều tốt đẹp. nàng đi xuống nhà và thấy ai nấy đều yên giấc. Nàng có đứng ở ngoài cửa phòng cô Van Campen và nghe hơi thở đều đều của cô qua giấc ngủ. Nàng mang bịch bánh bích quy lên, tôi vừa ăn bánh vừa uống Vermouth. Chúng tôi rất đói nhưng nàng bảo tôi phải giải quyết những thứ này trong vòng mấy tiếng thôi. Tôi lại ngủ thiếp đi cho tới sáng. Lúc tôi tỉnh giấc nàng đã đi ra từ bao giờ. Rồi nàng quay trở lại, xinh tươi, đáng yêu và ngồi xuống giường. Mặt trời đã mọc trong lúc tôi ngậm ống cặp nhiệt trong mồm. Hơi sương trên các mái nhà thoang thoảng cùng với mùi cà phê các anh pháo thủ uống trên mái nhà gần đó.
- Ước gì chúng ta được đi dạo - Catherine bảo. - Nếu có được chiếc xe đẩy, em sẽ đẩy anh đi.
- Làm sao người ta có thể đặt anh vào chiếc xe ấy được?
- Ồ, cũng có cách chứ.
- Chúng ta sẽ đi đến công viên và dùng điểm tâm ngoài trời. - Tôi đưa mắt nhìn ra cửa.
- Vâng - Nàng bảo - Nhưng bây giờ em phải sửa soạn cho anh để bác sĩ Valentini khám cho anh chứ.
- Anh thấy ông ta có vẻ xuất sắc.
- Em không thích ông ta bằng anh thích. Nhưng em cho rằng ông ta cũng tài giỏi.
- Em đi ngủ lại đi, Catherine, đi đi em - Tôi nói.
- Không được, chúng ta chẳng phải đã qua một đêm đẹp đẽ rồi đó sao?
- Liệu đêm nay em có thể còn phải trực không?
- Có lẽ có. Nhưng anh đâu có cần em.
- Có, anh cần em lắm.
- Ồ không, anh chưa mổ bao giờ, anh đâu có biết lúc ấy anh sẽ ra sao.
- Anh sẽ khỏe như thường.
- Anh sẽ yếu, và em thì chẳng giúp được gì cho anh.
- Thế thì trở lại bây giờ.
- Không được - Nàng bảo - Em còn phải làm bảng ghi nhiệt độ cho anh, rồi sửa soạn cho anh đi mổ.
- Em không yêu anh, nếu em thật tình yêu anh, em sẽ trở lại.
- Không ai kỳ cục bằng anh - Nàng hôn tôi - Bảng ghi nhiệt độ của anh tuyệt lắm. Nhiệt độ của anh bình thường như những người khác.
- Còn em thì cái gì cũng tuyệt cả.
- Ồ không. Nhiệt độ của anh tuyệt thật mà. Em rất hài lòng.
- Biết đâu con cái chúng ta cũng có nhiệt độ tuyệt như vậy.
- Có thể con cái chúng ta lại có nhiệt độ rất tồi.
- Em sẽ làm gì cho anh để bác sĩ Valentini khám?
- Không nhiều lắm nhưng hơi khó chịu
- Anh không muốn em làm việc đó.
- Em không làm thì ai? Em không muốn ai khác mó vào người anh. Buồn cười quá phải không anh? Nhưng điều đó làm em tức giận khi một ai khác mó vào người anh.
- Cả cô Ferguson, cô Gage và bà y tá kia nữa. À tên bà ta là gỉ nhỉ?
- Bà Walker.
- Đúng rồi. Ở đây có nhiều nữ y tá quá. Cần phải có thêm thương binh nếu không họ sẽ mời chúng em đi nơi khác. Hiện giờ ở đây có bốn y tá.
- Có lẽ sẽ có thêm thương binh. Người ta cần dùng tất cả các y tá vì bệnh viện này khá lớn. Em mong sẽ có thương binh đến. Nếu họ gởi trả em về thì em biết làm gì? Chỉ trừ có thêm thương binh, không thì họ sẽ sa thải em.
- Anh sẽ đi với em.
- Đừng có nói dại. Anh chưa thể đi lại được. Nhưng ráng mau bình phục đi anh yêu, rồi chúng mình sẽ đi đến một nơi nào đó.
- Rồi sau đó ra sao?
- Sau đó chiến tranh có thể sẽ chấm dứt. Nó không thể kéo dài mãi được.
- Anh sẽ bình phục. Valentini sẽ chữa cho anh khỏi.
- Chắc chắn là như thế rồi. Với bộ râu như thế ông ta sẽ chữa khỏi cho anh. Này anh yêu, khi người ta cho anh ngửi thuốc mê thì anh hãy nghĩ tới việc gì khác, chứ đừng nghĩ đến chuyện chúng mình nhé, khi bị thuốc mê người ta hay mê sảng.
- Thế thì anh phải nghĩ gì bây giờ?
- Gì cũng được miễn đừng nghĩ đến chúng mình thì thôi. Hãy nghĩ về bố mẹ anh hay cô nào khác cũng được.
- Không được.
- Vậy thì lúc ấy anh hãy cầu nguyện, chúng sẽ gây cho anh một ấn tượng lớn.
- Nhưng có thể anh sẽ không nói gì cả.
- Đúng đấy. Thường thường người ta không nói gì hết.
- Anh sẽ không nói gì cả.
- Đừng khoe tài, anh yêu. Em xin anh đấy. Đừng có khoe tài. Anh đáng yêu lắm rồi, không cần phải khoe khoang gì hết.
- Anh sẽ không nói tiếng nào cả.
- Anh yêu, bây giờ anh khoe tài với em. Anh biết là anh không cần phải khoe gì hết. Khi người ta bảo anh thở mạnh, anh hãy đọc kinh cầu nguyện hoặc vài câu thơ hay gì đó. Như thế dễ thương hơn và em sẽ được hãnh diện vì anh. Nhiệt độ anh bình thường và anh ngủ như một đứa trẻ con, tay choàng qua một chiếc gối mà anh nghĩ đó là em, hay là một cô gái nào khác, một cô gái Ý xinh đẹp chẳng hạn.
- Không, chính là em mà.
- Dĩ nhiên là em. Ỗ, em yêu anh vô ngần. Rồi đây Valentini sẽ chữa lại cho chân anh lành hẳn. Em rất hài lòng là em không dự cuộc giải phẫu này.
- Đêm nay em có phiên gác à?
- Vâng, nhưng tới lúc đó anh đâu cần đến em?
- Hãy chờ xem.
- Xong rồi anh yêu. Bây giờ anh đã sạch sẽ từ trong ra ngoài. Này, anh hãy nói cho em nghe đi, anh đã yêu bao nhiêu người rồi?
- Chưa có ai cả.
- Cũng chưa yêu cả em luôn à?
- Không, em thì khác.
- Còn bao nhiêu người trước nưã?
- Không có ai cả.
- Với mấy người anh đã... nói thế nào nhỉ? Anh đã... đi lại rồi?
- Không có ai cả.
- Anh dối em.
- Phải.
- Được, không sao. Hãy dối em luôn đi, em muốn anh nói dối với em như thế. Các cô kia có đẹp không?
- Anh chưa hề đi lại với ai cả mà.
- Biết rồi. Nhưng các cô ấy có hấp dẫn không?
- Anh không biết tí gì về việc ấy cả.
- Anh chỉ thuộc một mình em thôi. Thật thế. Anh chưa hề thuộc về một người nào khác cả. Hơn nữa cũng chẳng sao nếu điều đó không thật. Em không sợ họ đâu. Nhưng đừng nhắc họ với em. Này anh, khi một người đàn ông đi lại với một phụ nữ thì đến khi nào họ cho biết giá cả?
- Anh không biết.
- Không biết thật à? Thế họ có bảo là họ yêu người đàn ông không? Kể cho em nghe đi, em muốn biết điều ấy lắm.
- Có chứ. Nếu người đàn ông muốn cô gái nói thế.
- Thế còn anh ta? Anh ta có bảo là anh ta yêu cô gái đó không? Trả lời đi anh, rất quan trọng đây.
- Anh ta cũng nói thế nếu anh ta thích.
- Nhưng còn anh, chẳng bao giờ anh nói thế chứ, phải không anh?
- Không.
- Thật chứ? Anh hãy nói thật với em đi.
- Không mà. (Tôi đã nói dối nàng).
- Em đã biết chắc rằng anh không bao giờ nói thế cả.
Bên ngoài mặt trời đã lên đến mái ngói và tôi có thể nhìn thấy nó lấp lánh trên đỉnh tháp nhà thờ. Tôi hoàn toàn sạch sẽ từ trong ra ngoài. Tôi chỉ còn đợi bác sĩ đến.
- Này, anh như thế đó hả? - Catherine tiếp tục hỏi - Cô gái chỉ nói những gì người đàn ông muốn, phải không anh?
- Không hẳn luôn luôn như thế.
- Còn em thì em sẽ làm thế. Em sẽ nói điều anh muốn và làm tất cả những gì anh muốn. Như thế anh sẽ không bao giờ cần đến những cô gái khác, phải không anh? - Nàng sung sướng nhìn tôi - Em sẽ làm những điều anh muốn, em sẽ nói những gì anh muốn, và như thế em sẽ hoàn toàn thành công, phải không anh?
- Phải.
- Thế bây giờ anh muốn em làm gì nào?
- Lại đây nằm với anh.
- Được, em sẽ đến đây.
- Ỗ, em yêu, em yêu, em yêu quý của anh.
- Anh thấy chưa, em làm bất cứ việc gì anh muốn.
- Em đáng yêu quá.
- Em sợ rằng em không biết thật rõ...
- Em đáng yêu lắm.
- Em muốn những gì anh muốn. Em không tồn tại nữa, chỉ có những điều anh muốn...
- Em yêu của anh.
- Em dễ thương. Có đúng là em dễ thương không? Này, anh không muốn cô nào khác đấy chứ?
- Không.
- Em đã hoàn toàn chiều theo ý của anh đó, anh thấy chưa?
- Anh thấy chứ. Em dễ thương, em làm tất cả những điều mà anh muốn.
Sau cuộc giải phẫu, khi tỉnh dậy, tôi biết rằng mình chưa chết. Mình không chết được. Người ta chỉ là mình ngạt thở thôi. Điều đó không có gì giống cái chết cả. Đó chỉ là phương pháp hóa học làm cho ta mê đi để cuối cùng không còn cảm giác gì nữa. Sau đó ta có cảm tưởng giống như say rượu nhưng chỉ khác một điều là lúc nôn mửa thì chẳng có gì tháo ra ngoài trừ mật xanh, và vẫn không thấy dễ chịu gì hơn.
Một lát sau tôi nhận ra Gage và cô hỏi :
- Bây giờ anh cảm thấy như thế nào?
- Tốt hơn - Tôi đáp.
- Bác sĩ đã làm một công việc kỳ diệu trên đầu gối của anh.
- Lâu không?
- Hai tiếng rưỡi đồng hồ.
- Tôi có nói sảng không?
- Anh không có nói gì cả. Đừng nói chuyện nữa. Nằm yên đi.
Tôi thấy khó chịu trong người và Catherine có lý, tôi chẳng chú ý gì đến cô y tá đêm hôm đó cả.
Giờ đây bệnh viện đã có thêm ba thương binh nữa. Một cậu ở Georgia thuộc Hồng thập tự, gầy yếu, bị sốt rét. Một cậu ở New York trông bảnh trai nhưng cũng gầy ốm bị mắc bệnh sốt rét vàng da. Còn cậu thứ ba là một cậu bé can đảm tìm cách tháo hạt nổ trên một quả đạn pháo để làm kỷ niệm. Đó là loại đạn mà bọn Áo sử dụng trong vùng núi non - sau khi đạn nổ, tên lửa bay đi và nổ tung khi chạm phải một vật gì.
Mấy cô y tá kia rất mến Catherine Barkley, nàng luôn luôn nhận trực đêm. Đôi với các bệnh nhân sốt rét, nàng không phải làm gì nhiều, còn cậu bé đã tháo đầu đạn tên lửa là bạn của chúng tôi, không khi nào cậu ta bấm chuông ban đêm, trừ khi có việc cần kíp lắm. Nhờ thế chúng tôi được gần gũi nhau trong những lúc nàng rỗi. Tôi yêu nàng tha thiết và nàng cũng say đắm yêu tôi. Ban ngày tôi ngủ và khi thức giấc chúng tôi viết thư cho nhau nhờ tay cô Ferfuson chuyển giao. Cô Ferguson thật tử tế. Tôi không biết gì về cô ngoài trừ cô có một người em ở sư đoàn 52 và một người nữa ở Mesopotamia. Cô đối xử rất tốt với Catherine. Có một lần tôi hỏi nàng :
- Sau này cô có đến dự đám cưới chúng tôi không, cô Ferguson?
- Biết bao giờ anh mới lấy vợ.
- Biết đâu đấy!
- Chẳng bao giờ anh cưới vợ cả.
- Tại sao không?
- Hai người sẽ giận dỗi nhau trước khi lấy nhau.
- Không, chúng tôi không làm thế đâu.
- Thời gian còn dài mà.
- Chúng tôi không giận dỗi với nhau đâu.
- Vậy thì anh sẽ chết. Người ta sẽ giận nhau hoặc là chết. Luôn luôn thế, không bao giờ cưới nhau được cả.
Tôi nắm tay cô Ferguson.
- Đừng chạm vào tôi - Cô bảo - Tôi không khóc đâu. Biết đâu hai người sẽ được toại nguyện. Nhưng hãy coi chừng, anh đừng làm khổ nàng đấy nhé. Nếu anh làm khổ nàng, tôi sẽ giết anh đấy.
- Tôi sẽ không làm khổ nàng đâu.
- Được rồi, nhưng coi chừng đấy. Tôi mong mọi việc đều êm đẹp. Anh hạnh phúc đấy chứ?
- Vâng, chúng tôi hoàn toàn hạnh phúc.
- Đừng cãi nhau, và đừng làm khổ nàng nhé.
- Không đâu.
- Nhưng nhớ coi chừng giữ gìn cẩn thận đấy. Tôi không muốn thấy nàng có con trong thời loạn ly này đâu nhé.
- Cô Fergy, cô tốt bụng quá.
- Đâu có gì. Thôi đừng nịnh. Chân anh thế nào?
- Rất tốt.
- Còn đầu anh? - Cô xoa nhẹ mấy đầu ngón tay trên đầu tôi. Tôi có cảm giác như kiến bò ở chân ấy.
- Không đau gì cả.
- Một vết như thế này có thể làm cho anh điên được. Thế anh không cảm thấy đau đớn gì cả à?
- Không.
- Anh may thật. Viết thư xong chưa? Tôi còn phải xuống đây.
- Đây rồi - Tôi bảo.
- Anh nên bảo nàng nghỉ gác đêm một thời gian. Nàng đã quá mệt nhọc rồi đó.
- Được rồi, tôi sẽ bảo nàng.
- Tôi muốn gác đêm thay nàng, nhưng nàng không chịu. Mấy cô kia thì thích để cho nàng gác như vậy lắm. Anh nên để cho nàng nghỉ ngơi một thời gian đi.
- Được rồi.
- A, cô Van Campen có nói bóng gió về việc anh ngủ quá trưa.
- Mặc cô ta chứ!
- Tốt hơn anh nên để nàng nghỉ gác đêm một thời gian.
- Tôi cũng muốn thế.
- Không, anh không muốn thế đâu. Nhưng nếu anh làm được việc đó, tôi sẽ phục anh nhiều hơn.
- Được rồi, tôi sẽ bảo nàng nghỉ.
- Tôi không tin đâu.
Ferguson lấy bức thư rồi đi ra ngoài. Tôi bấm chuông. Một lát sau cô Gage bước vào hỏi :
- Có chuyện gì thế?
- Tôi muốn nói chuyện với cô chứ không có gì. Cô nghĩ xem cô Barkley có nên nghỉ gác đêm một thời gian không? Trông cô ấy có vẻ mệt kinh khủng. Sao cô ấy lại phải gác đêm mãi thế?
Cô Gage nhìn tôi bảo :
- Tôi là bạn anh mà. Anh khỏi phải nói với tôi như thế.
- Cô muốn nói gì, tôi không hiểu.
- Đừng làm bộ ngớ ngẩn. Bộ không phải anh muốn như thế hay sao?
- Cô dùng một ly Vermouth nhé?
- Được rồi, nhưng tôi phải đi ngay đấy.
Cô Gage lấy trong tủ ra một cái ly và chai rượu.
- Cô uống ly đi. Tôi uống bằng chai cũng được.
- Chúc sức khỏe anh - Cô Gage nói.
- Thế cô Van Campen đã nói gì về việc tôi ngủ trưa?
- Cô ta chỉ càu nhàu thôi. Cô ta gọi anh là bệnh nhân ưu tiên.
- Quỷ tha cô ấy đi!
- Cô ấy không xấu bụng đâu. Cô ấy lớn tuổi và hay gắt gỏng thôi. Cô ấy không thích anh đâu.
- Tôi biết.
- Còn tôi thì trái lại đấy nhé. Tôi luôn luôn là bạn của anh. Đừng nên quên điều ấy.
- Cô rất dễ thương.
- Thôi đi, tôi biết anh thấy ai là dễ thương rồi. Nhưng dù sao tôi cũng vẫn là bạn anh. Anh thấy chân thế nào?
- Đỡ lắm.
- Để tôi lấy nước khóang rưới lên đó. Chắc là ngứa lắm vì bên ngoài nóng bức.
- Cô tử tế quá.
- Có ngứa lắm không?
- Không, dễ chịu lắm.
- Để tôi sửa những bao cát này lại - Cô vừa cúi xuống vừa bảo. - Lúc nào tôi cũng là bạn anh.
- Tôi biết.
- Không, anh không biết đâu. Nhưng rồi một ngày kia anh sẽ biết.
Catherine Barkley nghỉ gác ba đêm. Khi gặp lại nàng, chúng tôi mừng rỡ tựa hồ như đã cách xa lâu lắm.
Mùa hè thật kỳ diệu. Khi tôi đi được, chúng tôi cùng đi dạo bằng xe ngựa trong công viên. Tôi còn nhớ rõ cỗ xe ngựa đi chậm chạp, phía trước là lưng người đánh xe với chiếc mũ cao bóng loáng và bên cạnh tôi là Catherine. Nếu tay chúng tôi có chạm vào nhau thì chỉ cần mấy đầu ngón tay tôi chạm vào nàng cũng đủ làm cho chúng tôi ngây ngất. Sau đó, lúc tôi có thể dùng nạng để đi lại, chúng tôi dều dùng cơm ở Biffi hay ở Gran Italia và ngồi ở dãy bàn phía ngoài trên bao lơn. Những người hầu bàn tiến lại ra vào. Người qua lại tấp nập. Trên bàn, những ngọn bạch lạp cháy có chụp đèn. Về sau, chúng tôi ăn hẳn ở Gran Italia và George, chủ tiệm ăn dành cho chúng tôi một bàn riêng. Anh là một người dễ thương và chúng tôi để mặc anh lựa món ăn trong khi chúng tôi nhìn thiên hạ, nhìn dãy hành lang dài chìm trong bóng hoàng hôn và nhìn nhau. Chúng tôi uống rượu Capri ướp lạnh cùng nhiều thứ rượu khác. Ở đây họ không có bồi rượu vì lý do chiến tranh và George mỉm cười bối rối mỗi khi chúng tôi hỏi những thứ rượu thuộc loại Fresa.
- Ông thử nghĩ xem một xứ sản xuât rượu gì mà chỉ có mùi như mùi dâu! - Ông bảo chúng tôi.
- Không được sao? - Catherine hỏi - Như thế hẳn là tuyệt lắm chứ.
- Xin bà cứ nếm thử nếu bà thấy thích. Nhưng hãy để cho tôi mang một chai Margaux cho trung úy.
- Để tôi nếm thử xem đã, anh George.
- Thưa trung uý, tôi không bảo đảm thứ rượu đó. Vì nó không có mùi gì, ngay cả mùi dâu cũng không.
- Biết đâu đấy - Catherine bảo - Nếu có mùi dâu thì tuyệt.
- Tôi sẽ đem lại - George bảo - Và khi bà nếm thử xong tôi sẽ cất đi ngay.
Thứ rượu đó không ngon như George bảo, nó cũng không gíống mùi dâu nữa. Chúng tôi đành uống lại Capri. Một buổi tối tôi hụt tiền, George cho tôi vay một trăm đồng “lia”. - Trung úy đừng bận tâm. Tôi rất thông cảm. Nếu trung úy hoặc bà cần tiền, tôi bao giờ cũng sẵn sàng.
Sau bữa cơm, chúng tôi đi bộ qua hành lang, qua những nhà hàng và những tiệm khác đã đóng cửa. Chúng tôi ngừng lại một tiệm nhỏ bán bánh mì thịt, lẫn cá thu và rau cải thái nhỏ và dài bằng ngón tay. Chúng tôi mua về để phòng khi đêm đói sẽ ăn. Chúng tôi gọi một cỗ xe ở ngoài hành lang, trước nhà thờ, rồi trở về bệnh viện. Đến cửa bệnh viện, ông thường trực đến đỡ tôi và cặp nạng xuống. Tôi trả tiền xe, và chúng tôi cùng lên thang máy. Catherine dừng lại ở tầng một nơi các y tá ở, còn tôi đi lên trên rồi chống nạng về phòng. Đôi khi tôi thay quần áo đi ngủ, đôi khi tôi ngồi ở bao lơn, chân gác lên ghế nhìn đàn chim én lượn trên mái nhà, để chờ Catherine đến. Khi nàng đến, tôi có cảm tưởng như nàng mới đi xa về. Tôi chống nạng theo nàng. Tôi mang hộ các dụng cụ và đứng ngoài cửa chờ nàng hoặc vào cùng phòng với nàng. Điều đó tuỳ bệnh nhân có là bạn quen hay không. Khi nàng xong việc, chúng tôi trở ra ngồi ở bao lơn trước phòng. Sau đó, tôi vào giường nằm. Khi ai nấy đều ngủ và tin rằng sẽ không còn ai gọi nàng nữa, thì nàng đến phòng tôi. Tôi thích xổ tung tóc nàng ra. Nàng ngồi trên giường không cử động chỉ trừ lúc bất thình lình cuối xuống hôn tôi, trong khi tôi xổ tóc nàng. Tôi tháo mấy cây kẹp tóc để trên giường, tóc nàng xoã ra và tôi ngắm nàng ngồi yên ở mép giường. Tôi liền tháo nốt hai chiếc kẹp cuối cùng và tóc nàng hoàn toàn xoã ra. Và khi nàng cúi đầu thì cả hai chúng tôi nằm kín dưới mái tóc nàng, làm tôi có cảm giác nằm dưới căn lều hoặc một thác nước.
Tóc nàng đẹp vô cùng. Có đôi khi tôi nằm ngắm nàng vấn tóc trong ánh sáng mờ ảo của cánh cửa sổ mở rộng. Dù là trong bóng đêm tóc nàng vẫn ngời sáng như nước lóng lánh trước bình minh. Khuôn mặt và thân hình nàng rất đáng yêu, và cả làn da mịn màng của nàng cũng vậy. Nằm cạnh nàng, tôi mơn man khắp má, trán, cằm và cổ nàng rồi bảo “Da em mịn như phím dương cầm”. Nàng xoa vào căm tôi rồi đùa “Nhẵn như giâ”y nhám và cứng như phím đàn”.
- Nhám lắm hả em?
- Không anh ạ, đùa đấy thôi.
Đêm thật tuyệt diệu. Chúng tôi chỉ cần nằm bên nhau như thế cũng đủ hạnh phúc rồi. Ngoài những lúc như thế, chúng tôi không ở bên nhau, chúng tôi cố đoán xem người kia đang nghĩ gì. Đôi khi chúng tôi đoán đúng vì có lẽ cả hai cùng lúc nghĩ đến một chuyện.
Chúng tôi thích tưởng tượng đã lấy nhau từ ngày nàng đến bệnh viện và chúng tôi tính từng ngày kể từ ngày cưới ấy. Thực ra, tôi muốn cưới nàng nhưng Catherine bảo nếu chúng tôi làm lễ cưới, họ sẽ đổi nàng đi nơi khác và chỉ một việc thi hành thủ tục cũng đủ làm cho họ để ý đến nàng ngay và điều đó sẽ làm đảo lộn cuộc sống. Chúng tôi phải làm lễ cưới theo luật pháp nước Ý và thủ tục sẽ rất phiền toái. Tôi muốn như đã cưới nhau rồi vì mỗi lần nghĩ đến việc này, tôi sợ có con, nhưng chúng tôi giả vờ như đã cưới nhau và không thèm quan tâm đến chuyện đó nữa. Thật ra, trong lòng tôi lại sung sướng vì chưa cưới nhau. Có một đêm chúng tôi bàn về chuyện đó thì Catherine bảo :
- Nhưng anh ơi, người ta sẽ đuổi em đi.
- Không chắc đâu.
- Ỗ, chắc vậy! Người ta sẽ đuổi em về nhà và lúc bấy giờ chúng ta sẽ xa nhau mãi mãi cho đến khi hết chiến tranh.
- Anh sẽ xin nghỉ phép.
- Anh không có đủ thì giờ đi Ireland rồi trở về trong thời gian nghỉ phép. Tuy nhiên em không xa anh đâu. Bây giờ chúng ta làm lễ cưới thì có lợi lộc gì đâu? Chúng ta đã cưới nhau thật rồi đấy. Thế này còn hơn là cưới nhau thật vậy.
- Anh muốn làm lễ cưới là chỉ vì em mà thôi.
- Bây giờ không còn có em nữa. Em là anh. Đừng có tách rời em ra như thế.
- Anh tưởng rằng các thiếu nữ luôn mơ ước được lấy chồng.
- Đúng rồi. Nhưng còn em, anh yêu ạ, em đã có chồng rồi. Em đã lấy anh rồi cơ mà. Em không phải là vợ ngoan sao?
- Em là người vợ rất đáng yêu.
- Anh biết không, anh yêu, đã có lần em chờ đợi ngày cưới.
- Anh không muốn em nhắc đến chuyện đó nữa.
- Anh biết chắc là em chỉ yêu có một mình anh thôi. Có nghĩa lý gì nếu có một người khác yêu em trước anh?
- Quan trọng lắm chứ.
- Không nên ghen với một kẻ đã chết, trong khi anh đã được tất cả.
- Đúng thế, nhưng anh không muốn nghe những chuyện đó nữa.
- Anh ngốc ơi! Còn em, em biết, chắc anh có hàng tá phụ nữ vậy mà em có kể gì đâu?
- Liệu chúng ta có thể làm lễ cưới riêng bằng cách này hay cách khác không? Như thế phòng khi có chuyện gì xảy ra cho anh hoặc phòng khi em có con...
- Không có cách nào khác ngoài cách làm lễ cưới theo tôn giáo hoặc theo luật pháp. Chúng ta đã làm lễ cưới riêng với nhau rồi. Anh biết không, anh yêu, nếu em có đạo thì chuyện đó sẽ là một vấn đề quan trọng với em, nhưng em không theo đạo nào cả.
- Thế sao em đã cho anh tượng thánh Anthony?
- Vì tượng đó đem lại may mắn. Người ta đã cho em.
- Vậy là em chẳng lo buồn gì cả phải không?
- Chỉ trừ khả năng phải xa anh thôi. Anh là lý tưởng của em. Đời em chỉ có một mình anh thôi.
- Được rồi. Nhưng anh sẽ cưới em ngày nào em muốn.
- Đừng làm như là anh biến đổi em thành một phụ nữ đức hạnh, anh yêu ạ. Em vẫn là người đàn bà đoan chính. Không vì lẽ gì lại hổ thẹn khi người ta hạnh phúc và tự hào. Anh thấy có hạnh phúc không?
- Nhưng em đừng phụ anh nhé?
- Không đâu, anh yêu. Em sẽ không bao giờ phụ anh. Cứ cho là nhiều điều khủng khiếp sẽ đến với chúng ta, em đã nghĩ đến tất cả những gian nguy đang chờ chúng ta. Nhưng chuyện phụ anh, anh không phải lo.
- Anh chẳng lo gì cả. Anh yêu em tha thiết, nhưng anh chỉ là kẻ đến sau.
- Thế người đến trước ra sao?
- Người ấy chết rồi.
- Đúng. Nếu anh ấy không chết thì em đâu có gặp anh. Em không phản bội anh đâu, anh yêu. Em có nhiều khuyết điểm nhưng em rất thuỷ chung. Anh sẽ chóng chán vì sự thuỷ chung của em cho mà xem.
- Sớm muộn gì anh cũng sẽ trở lại mặt trận.
- Đừng nghĩ đến chuyện ấy trước. Anh thấy không, anh yêu, em rất hạnh phúc và chúng ta đã sống những giờ phút thần tiên. Lâu lắm rồi em không biết đến hạnh phúc và khi em thấy nó, em gần như điên lên. Có lẽ em đã điên thật. Nhưng bây giờ chúng ta hạnh phúc và chúng ta yêu nhau. Chúng ta hãy tận hưởng hạnh phúc đã. Anh có cảm thấy hạnh phúc không? Em phải làm gì để vừa ý anh bây giờ. Anh có thích em xoã tóc không? Anh có muốn chúng ta đùa không?
- Ừ, em đi ngủ đi.
- Được rồi, nhưng em còn phải đi thăm các bệnh nhân đã.
Mùa hè cứ vậy trôi đi. Tôi không nhớ rõ lắm nhưng chỉ biết đó là những ngày oi bức và báo chí chỉ nói toàn chiến thắng. Tôi rất khỏe và hai chân hồi phục nhanh chóng cho nên ít lâu sau tôi có thể dùng gậy thay thế cho nạng, và đâu gối được uốn nắn ở Ospedale, bằng máy móc và tia tử ngoại trong một căn phòng đầy gương. Tôi đến bệnh viện mỗi tuần ba buổi chiều, và trên đường về tôi thường ghé lại quán giải khát để uống và đọc báo. Tôi không la cà trong thành phố mà chỉ ước ao trở về bệnh viện lúc ở quán ra. Tôi chỉ muốn một điều là gặp Catherine. Ngoài ra tôi tìm cách giết thì giờ. Tôi thường ngủ vào buổi sáng và b buổi trưa. Đôi khi tôi đi bộ và buổi chiều đến điều trị bằng máy. Đôi lúc tôi ghé câu lạc bộ Anh - Mỹ. Tôi ngồi vào chiếc ghế tựa lớn bọc da gần cửa sổ và đọc các tạp chí. Từ ngày tôi bỏ nạng, người ta không để Catherine đi chung với tôi nữa, vì nữ y tá đi cạnh thương binh mà bệnh trạng không cần phải có người trông nom thì khó coi. Bởi thế vào buổi chiều chúng tôi không được ở gần nhau lâu. Tuy nhiên, đôi khi chúng tôi cũng có thể cùng đi ăn nếu có cô Ferguson đi chung. Cuối cùng cô Van Campen nhận chúng tôi là bạn thân, vì Catherine giúp cô được vô số việc. Cô cho rằng Catherine xuất thân từ một gia đình tốt và điều này ảnh hưởng đến sự ưu ái của cô. Cô coi trọng vấn đề gia đình. Chính cô cũng xuất thân từ một gia đình rất nề nếp. Hơn nữa bệnh viện luôn luôn bận rộn làm cho cô không có thì giờ rảnh. Mùa hè oi bức quá. Ở Milan này tôi quen biết nhiều người nhưng tôi luôn luôn muốn trở về bệnh viện lúc chiều tàn. Ở mặt trận, chúng tôi đã tiến dọc theo Carso, chiêm được Kuk ở phía bên kia Plava và bắt đầu đánh chiếm các cao nguyên Bainsizza. Tình hình mặt trận phía Tây không được khả quan. Chiến tranh có vẻ kéo dài. Bấy giờ Mỹ vừa tham chiến nhưng tôi nghĩ phải mất cả năm mới huấn luyện đủ quân số thiện chiến. Năm tới cũng có thể tốt mà cũng có thể xấu. Ý dùng một số quân đáng kể. Tôi không thấy tình trạng này làm sao có thể tiêp tục được. Dù cho họ có chiếm được cao nguyên Bainsizza và đỉnh San-Grabrielle thì bọn Áo cũng còn bao nhiêu là dãy núi phía sau. Tôi đã có dịp thấy những dãy núi đó. Những đỉnh cao nhất đều ở phía sau. Chúng tôi đã chiếm xong Carso nhưng hãy còn nhiều đầm lầy ở cạnh bờ biển. Napoléon đã đuổi bọn Áo về phía đồng bằng và chắc chắn không tấn công chúng trên núi. Napoléon sẽ để cho chúng xuống đồng bằng rồi tấn công ở gần Vérona. Nhưng ở mặt trận phía Tây chưa có đánh nhau thật sự. Có lẽ bây giờ không thể thắng trận được nữa. Chiến tranh có thể kéo dài mãi mãi. Có thể đây là một cuộc chiến tranh trăm năm mới. Tôi để tờ báo lên quầy rồi rời khỏi câu lạc bộ. Tôi cẩn thận bước từng bước một xuống bậc thềm rồi đi dọc lên đường Manzoni. Trước khách sạn Gran Hotel, tôi gặp vợ chồng lão Meyers vừa ở trên xe ngựa bước xuống. Họ vừa đi xem đua ngựa về. Bà vợ to béo mặc toàn sa tanh đen. Riêng ông, đó là một ông già nhỏ bé râu bạc, chống gậy đi khệnh khạng.
- Xin chào, xin chào - Bà bắt tay tôi.
- Chào bạn - Ông Meyers nói.
- Đua ngựa thế nào?
- Tuyệt, thật tuyệt. Tôi trúng được ba con về nhất.
- Còn ông? - Tôi hỏi ông Meyers.
- Cũng khá, tôi trúng được một.
- Tôi chả bao giờ biết nhà tôi đang làm gì. Ông ấy không bao giờ nói gì với tôi cả - Bà Meyers xen vào.
- Tốt, tốt lắm - Ông Meyers nói. Ông trở nên thân mật - Anh phải đến đấy. - Khi ông ta nói chuyện với bạn, bạn có cảm tưởng như là ông ấy không nhìn thấy bạn hoặc giả lầm bạn với một người nào khác.
- Vâng - Tôi đáp.
- Tôi sẽ đến bệnh viện thăm anh - Bà Meyers nói - Tôi có một vài món quà dành cho các con. Các anh đều là con tôi cả đấy. Phải, đúng, các anh là những đứa con thân yêu của tôi.
- Họ sẽ vui mừng được bà đến thăm.
- Ỗ,các con yêu quý. Anh cũng thế, anh cũng là một trong những đứa con của tôi.
- Tôi xin kiếu từ ông bà.
- Bảo tôi có lời hỏi thăm các cậu con trai yêu quý của tôi nhé. Tôi sẽ mang đến cho họ nhiều quà. Tôi có kẹo ngon và bánh ngọt.
- Xin chào ông bà. Họ sẽ vui mừng vô hạn khi thấy bà.
- Chào anh - Ông Meyers nói - Anh hãy đến tửu quán Galleria chơi. Anh biết bàn của chúng tôi chứ? Các buổi chiều chúng tôi đều có mặt tại đó.
Tôi trở ra đường cái. Tôi muốn mua một món gì ở Cova cho Catherine. Vào đến Cova, tôi mua một hộp kẹo sô cô la, trong khi cô bán hàng gói hộp kẹo, tôi vào quán rượu. Ở đó có hai người Anh và vài viên phi công. Tôi uống một ly Martini, trả tiền rồi đến quầy hàng lấy hộp kẹo xong tiếp tục đi về hướng bệnh viện. Trước quán rượu nhỏ bên đường đi Scala, có vài người tôi quen, viên phó lãnh sự, hai người học ca nhạc và Ettore Moretti, một người Ý ở San Francisco hiện đang phục vụ trong quân đội Ý. Tôi chạm ly với họ. Một trong hai ca sĩ là Ralph Simmons, mang biệt hiệu Enrico Delcrédo. Tôi không biết anh hát hay dở ra sao, nhưng anh luôn luôn có vẻ trịnh trọng, như sắp có một biến cố khủng khiếp xảy ra. Anh đã từng hát trong vở Tosca và thành công mỹ mãn.
- Có lẽ anh chưa bao giờ nghe tôi hát cả - Anh bảo.
- Bao giờ anh sẽ hát ở đây?
- Mùa thu này tôi sẽ trình diễn tại Scala.
- Tôi đoán chắc họ sẽ ném ghế vào người anh - Ettore nói - Anh có nghe người ta kể chuyện hắn bị ném ghế ở Modena như thế nào chưa?
- Láo toét!
- Tôi nghe nói anh sắp được huy chương loại nào?
- Tôi không biết. Tôi cũng không biết là tôi sắp được huy chương.
- Anh sắp được rồi. Này các cô gái ở Cova phục anh sát đất đấy. Họ nghĩ anh đã giết hai trăm tên Áo và một mình anh chiếm được căn hầm. Tôi cam đoan với anh là tôi cũng phải hành động mới được ân thưởng.
- Thế anh được bao nhiêu huy chương rồi Ettore? - Viên phó lãnh sự hỏi.
- Hắn có đủ loại - Simmons nói - Chính vì hắn mà người ta gây chiến đấy.
- Tôi đã được huy chương đồng hai lần và ba huy chương bạc - Ettore nói - Nhưng tôi chỉ được giấy chứng nhận có một cái thôi.
- Thế còn những cái kia? - Simmons hỏi.
- Bởi cuộc hành quân thất bại, - Ettore nói - Khi hành quân thất bại thì họ giữ lại tất cả các huy chương.
- Thế anh đã bị thương bao nhiêu lần rồi, Ettore?
- Ba lần bị thương nặng. Tôi bị ba vết thương. Đây thấy không? - hắn kéo tay áo lên. Nhưng vết thương là những cấp hiệu bằng bạc nằm song song với nhau trên nền đen, may đính vào vải ở tay áo dưới vai độ hai tấc.
- Anh cũng có một rồi - Ettore bảo tôi - Trông oai lắm, tôi thích đeo cấp hiệu hơn huy chương. Anh cứ tin tôi đi, ông bạn già ạ, ba cái cũng đủ nói lên điều gì đấy. Người ta chỉ cho mình thêm một cái vì một vết thương khiến mình nằm bệnh viện mất ba tháng.
- Anh bị thương ở đâu hả Ettore? - Viên phó lãnh sự hỏi.
Ettore lật tay áo lên.
- Đây này (hắn chỉ một vết sẹo đỏ nâu và bóng). Ở chân tôi đây, tôi không thể chỉ có các anh được vì tôi đang mang bít tất và ở bàn chân nũa.
- Thế anh bị trúng gì? - Simmons hỏi.
- Loại lựu đạn cầm tay. Ông biết thứ lựu đạn ấy chứ? - hắn quay sang hỏi tôi.
- Biết.
- Tôi biết bọn chó Áo ném - Ettore nói - Nó quật tôi ngã ra và tôi tưởng rằng mình đã chết ngay lúc đó, nhưng không việc gì. Tôi bắn tên chó đó một phát chết ngay tức khắc. Tôi luôn luôn mang súng trường để họ không biết tôi là sĩ quan.
- Khi anh bắn, trông thằng ấy như thế nào? - Simmons hỏi.
- Tôi chẳng biết, - Ettore đáp - Tôi bắn vào bụng nó, vì sợ nếu bắn vào đầu thì trật mất.
- Anh ở cấp sĩ quan đã lâu chưa? - Tôi hỏi.
- Hai năm. Tôi sắp lên đại úy. Còn anh ở cấp trung úy đã bao lâu rồi?
- Độ ba năm.
- Anh không lên đại úy được vì anh không biết tiếng Ý rành rọt - Ettore nói - Anh nói được nhưng đọc và viết không rành. Anh cần phải học tiếng Ý để có thể lên đại úy. Thế sao anh không gia nhập quân đội Mỹ?
- Để xem.
- Cầu trời tôi được lên đại úy. Này, Marc, lương đại úy được bao nhiêu thế?
- Không biết chắc. Vào khoảng hai trăm rưởi đô la.
- Chúa ơi, với hai trăm rưởi đô la đó tôi giải quyết được biết bao là việc. Này Fred, anh cần phải gia nhập quân đội Mỹ mới được, rồi anh tìm cách đưa tôi vào nhé?
- Được rồi.
- Tôi có thể chỉ huy một đại đội bằng tiếng Ý. Tôi cũng có thể chỉ huy bằng tiếng Anh dễ dàng.
- Rồi anh sẽ được thăng đại tướng - Simmons nói.
- Không, tôi không đủ tài sức để làm đại tướng. Một đại tướng cần phải biết nhiều chuyện. Các anh là những kẻ hay chế nhạo người khác. Các anh tưởng rằng chuyện chiến tranh là chơi sao. Đầu óc các anh không được làm đến chức cai hạng bét nữa.
- Cám ơn Chúa, tôi không làm chức cai - Simmons nói.
- Có thể một ngày kia các anh cũng phải làm nếu họ phạt tất cả các dân làm biếng như anh. Này, tôi muốn hai anh gia nhập vào trung đội của tôi. Marc nữa nhé, tôi sẽ cho anh làm lính hậu cần của tôi.
Marc nói :
- Này Ettore, anh có lòng tốt lắm, nhưng tôi e rằng anh là một tay quân phiệt.
- Tôi muốn lên đến chức đại tá trước khi chiến tranh chấm dứt - Ettore bảo.
- Nghĩa là nếu anh không chết trước.
- Tôi không bị chết đâu - Hắn đưa tay sờ mấy ngôi sao đính ở cổ áo - Thấy tôi làm gì đây không? Chúng tôi thường sờ những ngôi sao này nếu có ai nói đến chết chóc.
- Ta đi thôi Sim - Saunders vừa nói vừa đứng lên.
- Ừ thì đi.
- Chào các anh - Tôi bảo - Tôi cũng phải đi đây. Sáu giờ kém mười lăm rồi. Chào Ettore.
- Chào Fred - Ettore nói - Anh nhận được huy chương bạc thì tuyệt lắm.
- Vẫn chưa tiến hành.
- Được mà Fred, tôi nghe bảo anh sẽ nhận được chẳng khó khăn gì.
- Thôi chào anh - Tôi bảo - Hãy giữ mình cẩn thận Ettore nhé.
- Ô đừng lo cho tôi. Tôi không uống rượu và cũng không chạy quanh quẩn. Tôi không thích rượu cũng không thích gái. Tôi chọn cái gì tôi thích.
- Chào anh - Tôi bảo - Tôi rất vui khi anh lên đại úy.
- Không phải tôi ngồi không để được lên chức. Tôi sẽ lập chiến công để xứng đáng được lên chức đại úy. Anh biết không, ba sao cùng với hai lưỡi gươm chéo nhau và hình vương miện chính là của tôi đó.
- Chúc anh may mắn
- Chúc anh cũng vậy. Bao giờ anh trở lại mặt trận?
- Sắp rồi.
- Thế thì mình sẽ gặp nhau ở đấy.
- Chào anh.
- Chào anh. Nên tránh những việc không may nhé.
Tôi theo phố nhỏ dẫn ra một lối tắt về bệnh viện. Ettore hai mươi ba tuổi. Thưở bé anh ta được một người cậu ở San Francisco nuôi dưỡng. Khi chiến tranh bùng nổ thì anh ta đang thăm cha mẹ mình ở Torino. Anh có một người em gái cũng được gởi sang Mỹ sống chung với cậu anh. Năm nay cô ấy sắp tốt nghiệp trường sư phạm.
Ettore thuộc loại người hùng và đánh gục bất cứ ai khi anh ta tiếp xúc. Catherine không chịu nổi hắn ta.
- Chúng ta cũng biết nhiều tay anh hùng - Nàng bảo - Nhưng thường thường họ điềm đạm hơn, anh nhỉ.
- Anh không để ý đến hắn ta.
- Em cũng chẳng cần để ý đến hắn ta làm gì, nếu hắn ta không quá tự phụ và không hiếu thắng. Ô, hiếu thắng đến một mức nào thôi.
- Hắn ta cũng quấy rầy anh vậy.
- Anh nói thế nghe đáng yêu lắm. Nhưng chuyện đó xá kể gì. Anh có thể hình dung hắn lúc ở mặt trận, nơi mà hắn có ích, nhưng đối với em, hắn tiêu biểu cho một hạng người mà em ghét nhất.
- Anh hiểu.
- Anh hiểu thê? Thật đáng yêu. Em đã cố hết sức để có chút tình cảm với hắn, nhưng đúng là một anh chàng đáng ghét, đáng ghét thật sự.
- Hồi chiều này hắn bảo với bọn anh hắn sẽ lên chức đại úy.
- Thế à? - Catherine bảo - Được vậy chắc hắn ta khoái lắm.
- Thế em có thích anh được lên chức cao hơn không?
- Không, anh yêu à. Em chỉ muốn anh có được một chức vừa đủ để được vào ăn ở những chỗ sang trọng mà thôi.
- Thì đúng là cấp bậc của anh đó.
- Câp bậc của anh như thế là tuyệt rồi. Em không cần anh phải lên chức cao. Điều đó có thể làm cho anh bốc lên. Này anh yêu, em vô cùng hài lòng vì anh không tự phụ. Cho dù anh có tự phụ, em cũng lấy anh, nhưng có một người chồng không tự phụ bao giờ cũng dễ thở hơn.
Chúng tôi thì thầm cạnh nhau bên ngoài bao lơn. Trăng đáng lẽ đã lên rồi nhưng sương mù bao trùm thành phố nên không thấy được trăng. Chúng tôi đi vào trong nhà. Bên ngoài sương mù đã chuyển sang mưa. Mưa bắt đầu rơi nặng hạt trên mái nhà. Tôi trổi dậy xem cửa sổ thấp có bị mưa tạt vào không. Nhưng mưa không hắt vào nên tôi vẫn để cửa sổ mở.
- Thế ban chiều anh còn gặp những ai nữa?
- Ông bà Meyers.
- Toàn những người kỳ lạ.
- Đúng ra thì ông ta đang phải ngồi tù tại quê nhà ông ấy. Nhưng người ta lại thả ông ta ra để cho ông chết ở ngoài.
- Và từ đó ông ta sống sung sướng tại Milan.
- Sung sướng à? Anh không hiểu đến mức nào.
- Nhưng em nghĩ phải sung sướng hơn trong tù chứ.
- Bà Meyers sắp mang quà đến đây.
- Bà ta thường mang đến những món quà rất đẹp. Thế bà ta có gọi anh là con yêu của bà không?
- Một trong những người con yêu của bà.
- Các anh là những người con yêu của bà. Bà ta rất thích những cậu con yêu đó. Lắng nghe mưa rơi kìa.
- Mưa nặng hạt quá.
- Và anh sẽ yêu em mãi mãi phải không anh?
- Phải, đúng thế.
- Và mưa rơi nặng hạt cũng không đáng ngại gì phải không?
- Phải, đúng thế.
- Vậy thì tốt lắm, bởi vì em sợ mưa.
- Tại sao?
Tôi buồn ngủ. Bên ngoài trời mưa to.
- Em cũng không biết nữa, anh yêu ạ. Khi nào em cũng sợ trời mưa.
- Còn anh thì thích mưa.
- Em thích đi dạo dưới cơn mưa. Nhưng mưa có hại cho tình yêu.
- Nhưng anh mãi mãi yêu em mà.
- Còn em, em yêu anh, dù mưa, dù tuyết, dù bão, dù gì gì đi nữa.
- Vậy à? Anh buồn ngủ quá.
- Ngủ đi, anh yêu. Dù thế nào đi nữa, em vẫn yêu anh.
- Thế thật tình em không sợ mưa chứ?
- Không, nếu có anh bên em.
- Sao em lại sợ mưa?
- Em không biết nữa.
- Nói cho anh nghe đi nào.
- Đừng bắt em phải nói.
- Nói cho anh nghe đi mà.
- Không, đừng gặng hỏi em.
- Nói cho anh nghe đi.
- Thôi được, vì anh thích. Em sợ trời mưa vì đôi khi em thấy em chết trong mưa.
- Không có đâu.
- Và đôi khi em thấy chính anh cũng chết trong mưa.
- Như thế họa may đúng hơn.
- Không, không đúng, anh yêu. Anh không bao giờ chết cả, vì em biết em có thể che chở cho anh được yên ổn. Em biết là em có khả năng. Nhưng không có ai tự che chở cho mình được.
- Thôi xin em, như thế đủ rồi. Anh không muốn nghe em nói chuyện huyễn hoặc và như một người điên đêm nay đâu. Chúng ta sẽ chẳng còn gần nhau được bao nhiêu lâu nữa.
- Đúng thế, em huyễn hoặc và điên rồ thật. Mà thôi, em không nói chuyện dại dột nữa đâu.
- Ừ, đúng là chuyện dại dột.
- Chỉ toàn là chuyện vô lý nhảm nhí. Thôi, em không sợ mưa nữa đâu. Nhất định không sợ nữa. Trời ơi, ước ao sao đừng sợ mưa nữa.
Nàng khóc nức nở. Tôi dỗ mãi nàng mới nín, nhưng bên ngoài trời vẫn mưa rả rích.
Một buổi chiều chúng tôi đi xem đua ngựa, Ferguson và Crowell Rodgers cùng đi. Rodgers là anh chàng bị thương ở mắt bởi đầu đạn trái phá. Ferguson và Catherine trang điểm sau bữa ăn. Còn tôi và Crowell ngồi ở giường trong phòng đọc các tạp chí đăng tin về những cuộc đua ngựa tuần qua cùng những lời bình luận. Đầu Crowell bị băng nên anh ta không để ý lắm vào những cuộc đua này. Nhưng để giết thì giờ anh ta cứ cầm tờ tạp chí đua ngựa đọc và biết về bước đua của ngựa. Anh ta bảo ngựa chẳng có nghĩa lý gì cả.
Bốn đứa chúng tôi đến San Siro bằng xe ngựa để mui trần. Trời hôm nay thật đẹp. Xe chúng tôi chạy ngang công viên, theo đường xe điện va1 sau khi ra khỏi thành phố, vào một con đường đầy bụi bặm. Nơi đây có nhiều biệt thự rào song sắt, những khu vườn rậm rạp rộng lớn cùng những hào nước chảy và vườn rau phủ đầy bụi. Trên cánh đồng chúng tôi có thể nhìn thấy nhiều nhà cửa và trang trại trù phú xanh tươi với những mương nước tưới tiêu. Những ngọn núi trồi lên ở phía Bắc. Nhiều xe chạy vào trường đua và những người gác cổng để chúng tôi vào tự nhiên không xét hỏi giấy tờ vì chúng tôi mặc quân phục. Chúng tôi xuống xem mua chương trình rồi đi qua sân cỏ vào trong trường đua. Trên sân cỏ một toán lính đứng dài theo hàng rào. Người ta dang cho ngựa quần dưới những tán cây đàng sau khán đài. Chúng tôi thấy nhiều người quen và sau khi kiếm được ghế ngồi cho Catherine và Ferguson, chúng tôi xem xét đàn ngựa.
Những con ngựa đi vòng, con sau nối đuôi con trước, đầu cúi xuống. Một trong mấy con có lông sắc tím đen, Crowell quả quyết là họ sơn nó. Nó ra đúng lúc chuông rung báo giờ lên yên. Chúng tôi kiểm trên chương trình theo số mà người nài ngựa đeo ỏ trên tay. Người ta ghi trong đó là ngựa ô thiến tên Japalac. Độ đua này dành cho những con ngựa ô từng thắng cuộc với giá hơn một ngàn đồng “lia”. Catherine bảo chắc người ta đã đổi màu lông của nó. Ferguson chịu không biết được. Tôi thì nghĩ con ngựa đó có vẻ khả nghi. Chúng tôi đều đồng ý đánh cá nó và đặt một trăm đồng lia. Trên thể lệ ghi gía tiền, nó là con ngựa duy nhất với giá một ăn ba mươi lăm. Crowell đi mua giấy cá ngựa trong lúc chúng tôi theo dõi các kỵ mã vòng lại rồi cho ngựa chậm rãi đến chỗ xuất phát.
Chúng tôi lên ngồi trên khán đài để theo dõi cuộc đua. Ở San Siro người ta không còn dùng dây để ngăn nữa. Người ta đóng những con ngựa trông có vẻ nhỏ đứng xếp hàng. Đằng xa phía cuối sân đua, người ta khoa chiếc roi ra lệnh khởi hành. Những con ngựa chạy qua trước chúng tôi. Con ngựa ô dẫn đầu và đến chỗ ngoặt nó bỏ cách xa những con khác. Nó tiếp tục sải đều như thế cho đến khi cuộc đua chấm dứt.
- Tuyệt quá phải không? - Catherine bảo - Thế thì chúng ta được cả thảy là ba ngàn đồng lia. Thật là một con ngựa hay.
- Tôi mong nó đừng đổi màu trước khi người ta trả tiền cho mình - Crowell bảo.
- Ông có trúng không? - Tôi hỏi lớn về phía Meyers. Lão ta gật đầu.
- Còn tôi không trúng gì cả - Bà Meyers nói - Còn các con, các con đánh cá con nào?
- Japalac.
- Thế à. Đánh con đó một trúng được ba mươi lăm đấy.
- Chúng tôi thích màu lông của nó.
- Tôi không thích. Trông nó xơ xác quá. Người ta khuyên tôi đừng đánh nó.
- Con ngựa đó không trúng được nhiều - Meyers nói.
- Người ta ghi nó giá một ăn ba mươi lăm - Tôi bảo.
- Đánh nó không trúng nhiều - Vào giờ chót Meyers khuyên - Họ đổ nhiều tiền vào nó đấy.
- Ai?
- Kempton và nhiều người khác. Để rồi các anh thấy. Họ không đổi hai lấy một đâu.
- Thế chúng tôi mất ba ngàn đồng lia à? - Catherine nói - Tôi không thích những cuộc đua ngựa gian lận như thế.
- Chúng tôi trúng được hai trăm đồng lia.
- Không đáng kể. Hai trăm bạc chẳng thay đổi được gì. Tôi tưởng là đã trúng được ba ngàn đồng lia.
- Gian lận chán quá - Ferguson bảo.
- Dĩ nhiên - Catherine nói - Nếu họ không gian lận, mình không bao giờ đánh con ngựa đó cả. Tuy nhiên tôi thích được ba ngàn đồng lia kia.
- Thôi chúng ta xuống uống cái gì đã rồi xem họ trả mình ra sao - Crowell bảo.
Chúng tôi đi qua chỗ họ dán bảng kết quả số ngựa trúng. Chuông rung báo hiệu họ phát tiền ngựa trúng. Con ngựa Japalac được ghi trúng 18,50 đồng lia, thế có nghĩa là tiền trúng không bằng giá vé.
Chúng tôi đến quán giải khát dưới khán đài để uống một ly whisky-soda. Chúng tôi gặp đôi vợ chồng người Ý tôi quen và ông Mc Adams, viên phó lãnh sự. Khi chúng tôi trở lại kiếm Catherine và Ferguson thì họ cũng lên theo với chúng tôi. Hai người Ý trông rất nhã nhặn và Mc Adams ở lại tiếp chuyện với Catherine khi chúng tôi quay trở xuống tiếp tục đánh cá nữa. Ông Meyers đang đứng cạnh cửa phòng bán vé cặp.
- Hỏi xem ông ta đánh cá con nào - Tôi bảo Crowell.
- Ông định đánh cá con nào thế, ông Meyers? - Crowell hỏi.
Meyers rút tờ chương trình ra và lấy bút chì chỉ vào số 5.
- Chúng tôi cùng đánh số đó có phiền gì ông không? - Crowell hỏi tiếp.
- Được chứ, đánh đi. Nhưng nhớ đừng có bảo vợ tôi là tôi chỉ cho anh đấy nhé.
- Ông uống gì không? - Tôi hỏi.
- Không, cám ơn. Tôi không hề uống rượu.
Chúng tôi đánh con số 5 một trăm đồng lia, rồi chúng tôi trở lại uống thêm một ly whisky-soda nữa. Tôi thấy khoan khoái trong người. Chúng tôi gặp hai người Ý khác. Họ uống rượu với chúng tôi xong chúng tôi trở lại chỗ Catherine và Ferguson. Hai người Ý mới này lại càng kiểu cách hơn nữa, họ rất hợp với hai người Ý trước. Ai cũng nôn nao không muốn ngồi một chỗ. Tôi đưa vé cho Catherine :
- Con ngựa nào đây?
- Anh không biết. Ông Meyers chọn đấy.
- Anh không biết cả tên của nó nữa à?
- Không, em tìm trên tờ chương trình xem. Số 5 thì phải.
- Anh dễ tin người quá - Nàng bảo - Số 5 thắng nhưng không trúng nhiều. Ông Meyers tức lắm.
- Phải bỏ ra hai trăm đồng lia để được hai chục. - Ông ta nói - Mười hai được mười. Nhưng không sao cả. Vợ tôi thua hai chục lia.
- Để em xuống theo anh - Catherine bảo tôi.
Mấy người Y’ cùng đứng lên, chúng tôi bước xuống khán đài đi ra sân đua.
- Anh thích nơi này không? - Catherine hỏi.
- Có lẽ thích.
- Cứ cho là vui đi - Nàng nói - Nhưng em, anh yêu ạ, em không thể chịu nổi những chỗ đông người như thế này.
- Chúng ta không gặp mấy ai quen ở đây.
- Vâng, nhưng hai vợ chồng Meyers này, rồi người làm ở ngân hàng với vợ của ông ta này...
- Hắn thường trả phiếu chi của anh - Tôi bảo.
- Vâng, nhưng người khác cũng làm việc đó được vậy chứ. Còn bọn người Ý anh dẫn lạt thật kinh khủng.
- Chúng ta có thể đứng sau hàng rào này để xem cuộc đua.
- Được rồi, nhưng anh phải nghe em đây. Chúng ta đánh con ngựa nào chưa hề được nghe nói đến và ông Meyers cũng không cá nó nữa.
- Cũng được.
Chúng tôi đánh con “Light for me”. Con này về nhất bốn kỳ trong năm độ đua. Chúng tôi dựa vào hàng rào nhìn những con ngựa đua chạy lóc cóc trước mặt. Xa xa là những rặng núi sừng sững, phía bên kia là những cánh đồng, thành phố Milan chạy dài sau những rặng cây.
- Em cảm thấy khoan khoái lạ - Catherine bảo.
Mấy con ngựa đang trở về. Chúng vượt rào, mồ hôi nhễ nhại, mấy kỵ mã vuốt ve chúng và đến rặng cây thì nhảy xuống.
- Anh có khát không? Chúng ta có thể uống tại đây và xem đua cũng được.
- Để anh đi gọi - Tôi nói.
- Để bồi mang đến cho - Catherine khuyên.
Nàng đưa tay lên gọi người bồi ở quán Pagoda cạnh chuồng ngựa. Chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế sắt.
- Anh có thấy hạnh phúc hơn khi chỉ có hai đứa mình?
- Nhất định rồi - Tôi đáp.
- Em cảm thấy rất lạc lõng giữa những người này.
- Ở đây mình thoải mái hơn - Tôi nói.
- Vâng, cuộc đua ngựa này thật thích thú.
- Ừ, tuyệt.
- Anh yêu, em không muốn làm mất cuộc vui của anh. Khi nào anh muốn, em sẽ trở lại.
- Không, chúng ta cứ ngồi yên ở đây uống rồi sẽ đi xuống bờ sông để xem hồi đua ngựa nhảy rào.
- Anh tốt với em quá - Nàng bảo.
Hai đứa ngồi cạnh nhau một lúc rồi vui vẻ gặp lại những người khác. Đó là một ngày đẹp.