Lần nào lên trên này ta cũng theo Bàn Kì Páo vào rừng săn thú.
Thằng bạn Thổn Mừ cụt chim là thợ săn nhà nghề. Nó kể. Mười tuổi ta đã theo người già vác nỏ chạy vào rừng bắn lợn lòi và đào hố đặt bẫy bắt gấu bắt hổ. Đàn bà Thổn Mừ Nà Cốc ta vào rừng chặt nứa hái nấm hái thuốc tắm hồ nước nóng. Đàn ông Thổn Mừ Nà Cốc ta thì đẵn gỗ và săn bắt thú dữ trong rừng.
Không thể nào hiểu được mối quan hệ rằng rịt bí ẩn của thằng bạn cụt chim người Thổn Mừ với rừng. Đã cố hiểu. Nhưng vô ích. Bởi vì có hỏi thì ngay chính thằng Páo cũng không hiểu. Đó là thế giới tâm linh quái lạ và bí mật được cất giấu lưu truyền từ đời này qua đời khác. Nó tạo nên tâm hồn và tính cách người Thổn Mừ.
Ta ghét săn bắn nhưng rất thích vào rừng.
Khoác khẩu súng kíp trên vai. Đeo bọc đạn chì vào lưng. Đi săn ư? Đó chỉ là cái cớ theo thằng bạn Thổn Mừ vào rừng vui chơi.
Một nhà văn lõi đời bạn vong niên của ta ở chốn đô thành náo nhiệt nhếch mép cười. Mày ư. Máy đã trót quá khinh bỉ ghê sợ cái gọi là đám đông nên thích chui vào rừng. Nhưng như vậy là vô phúc. Nghệ sĩ phải nồng nàn ràng rịt với đám đông. Mày không phải là hoạ sĩ. Mày là thợ vẽ.
Ta không khinh bỉ ghê sợ đám đông. Ta chán. Chán lắm. Càng ngày càng chán.
Còn biết chui vào đâu. Rủ vợ con rồng rắn ra vườn bách thú ư để xuýt xoa mấy cây cổ thụ bé tí xíu uốn éo thả rễ trong chậu cảnh hay là trố mắt ra nhìn con hổ đang lồng lộn gầm thét sau song sắt hôi thối.
Nhạt nhẽo. Vô vị.
Thấy ta bắn trượt con hươu què đang à ớc gọi mẹ ben bờ suối, thằng Páo cằn nhằn. Thấy ta găm một viên đạn chì tung toé vỏ cây ngay trên lưng con chồn đực, thằng Páo nhăn nhó. Đến khi thấy ta cố tình tặng một phát ghém vào mông con lợn rừng kêu eng éc cắm đầu phóng chạy vào bụi rậm mất tăm thì thằng bạn Thổ cụt chim ré lên cười.
“Zịt mẹ cậu. Ta biết rồi.”
Từ đó thằng Páo mặc xác ta.
“Hay khịt mũi thế?
“Mùi lá rừng mục nát đang lên men.”
“Thối thum thủm.”
“Trên cả tuyệt vời.”
“Điếc à?”
“Ta mải nghe tiếng suối chảy.”
“Cậu có hay vẽ rừng không?”
“Ta không thể vẽ được rừng.”
“Vẽ rừng mà cũng khó thế cơ à?”
“Khó lắm.”
“Thế mà thằng hoạ sĩ người Kinh hội văn nghệ Nả Hoang vẽ rừng cây đẹp lắm.”
“Ta không tin.”
“Cành lá bôi màu xanh tươi mà.”
“Cậu bị lừa rồi.”
“Lừa a?”
“Đúng.”
“Cũng có thể. Thảo nào ta nhìn mãi mà vẫn không thấy cái rừng cây thở rì rào.”
Rừng Nả Hoang nguyên sinh bị bỏ quên. Có hàng ngàn giống cây lạ. Có hàng trăm loại thú rừng quý hiếm. Nhưng ta chẳng mê man cây cỏ thú rừng. Ta yêu rừng. Hỏi yêu vì căn cớ gì. Không biết. Hỏi tại sao lại cứ thích vào rừng. Chỉ lắc đầu mỉm cười. Ta thích ngồi trên rễ cây loằng ngoằng thân rắn. Thích nằm toài trên tảng đá rêu phong. Vểnh tai nghe tiếng gió hú và khịt mũi liên hồi ngửi mùi sương rừng khi không bị *** nát văng lên mặt. Ta lội trong rừng giống như cái bào thai lội trong bụng mẹ. Trời ơi thanh thản quá chừng. Không buồn không vui. Và nhất là không còn sợ nữa. Sợ cái gì? Không biết. Chỉ biết là sợ thôi. Nỗi sợ vô hình. Bao nhiêu năm nay nó thường trực từng phút từng ngày tháng này qua tháng khác năm này qua năm khác đeo bám nhằng nhẵng sát sạt từng bước chân khi đứng khi ngồi khi uống khi ăn và cả trong những giấc ngủ mộng mị mê sảng. Nỗi sợ như con bạch tuộc ghê gớm nhớt nhát nhầy nhụa chui vào sọ lặng lẽ vươn vòi hút dần óc.
Tha thẩn chui lủi trong rừng thỉnh thoảng thằng bạn Thổ cụt chim lại nhìn gã và mỉm cười. Sao mặt cậu nhâng nháo thế. Giống mặt con dê núi động đực.
Lặn lội trong rừng hơn một giờ thì Bàn Kì Páo bắn được một con cáo cái lông vàng to gần như con chó. Viên đạn xuyên qua cổ ngọt sớt không để lại vết máu. Có lẽ đứt cuống họng. Ta đeo xác con cáo trên vai. Lạc tới một con suối chảy rào rào. Hỏi.
“Sắp tới lán ông cụ Giản rồi nhỉ”
“Đúng rồi. Vẫn nhớ ông hủi cơ à.”
“Ta vẫn nhớ.”
“Lội qua suối. Đi theo con đường mòn vòng vèo kia là tới thôi.”
“Vào chơi nhé.”
Nghe gạ gẫm như vậy thằng bạn Thổ cụt chim ngửa mặt lên trời cười:
“Ông hủi chết rồi. Vợ con khênh xác về bản Nà Xút làm ma. Đang làm đám ma thì có mấy ông bà Việt kiều ăn mặc sang trọng lắm từ Hà Nội lên đỗ ô tô ở uỷ ban tỉnh rồi lặn lội trèo bộ lên tận bản Nà Xút xin được mang xác ông hủi về chôn ở Hà Nội. Thế là cãi nhau ầm ĩ. Phải cãi nhau chứ. Ông hủi chết rồi hoá thành cái ma của người Pa Thẻn Mẹo Lài rồi. Cái ma ông hủi phải ở mãi mãi với núi rừng Nà Xút. Ơi trời ơi. Ta nói như vậy để cậu đừng có giận ta. Mấy lần cậu rủ ta kết nghĩa anh em. Ta cũng thích lắm. Nhưng ta lắc đầu. Ta không muốn cậu chết đi thành cái ma của người Thổn Mừ ta phải ở mãi trên núi rừng Nà Cốc. Như vậy thì khổ cho vợ con cậu lắm không được cúng vái cậu.”
“Ta hiểu rồi. Kể tiếp chuyện đám ma ông hủi đi.”
“Cãi nhau to lắm. Uỷ ban tỉnh phải về tận bản Nà Xút đứng ở giữa để xét xử.”
“Có kiện nhau ra toà đâu mà xét xử.”
“Không kiện nhau ra toà. Chỉ cãi nhau ỏm tỏi thôi. Vậy thì gọi là gì?”
“Hoà giải.”
“Hay lắm. Hoà giải.”
“Hoà giải như thế nào?”
“Xác ông hủi được chở về chôn ở Hà Nội.”
“Uỷ ban không bênh vực người bản Nà Xút a?”
“Chỉ bênh mấy ông bà Việt kiều.”
“Tại sao thế?”
“Tại vì mấy ông bà Việt kiều hứa sẽ mang tiền về đầu tư xây dựng nhà máy chế biến quả mận ở trên này thành rượu mận.”
“Hay quá.”
“Không hay lắm đâu.”
“Tại sao?”
“Ta sợ rằng họ chỉ hứa bậy thế thôi.”
“Việt kiều có nhiều tiền. Bây giờ họ cũng thích đem tiền về nước đầu tư xây nhà máy.”
“Bao giờ ta nhìn thấy cái nhà máy chế biến quả mận thành rượu ở đây thì ta mới tin. Người Kinh chúng mày nói khéo lắm.”
“Cậu cũng đi dự đám ma ông cụ hủi a?”
“Không đi dự. Ta được mấy ông bà Việt kiều thuê khênh quan tài ông hủi về tới tận uỷ ban tỉnh.”
“Mấy ông bà Việt kiều là họ hàng với ông hủi?”
“Phải. Một bà Việt kiều béo lắm kể cho nghe họ là anh em cùng cha khác mẹ đấy. Cả nhà đều làm ăn sinh sống ở Pháp ở Mỹ. Chỉ có một mình ông hủi ở lại trong nước rồi hoá thành người Thẻn Hà.”
Một lần đuổi theo con lợn què chạy tới đây. Con lợn bơi lũn tũn qua suối. Thằng Páo đứng lại chần chừ. Ta nhạc nhiên trố mắt nhìn nó. Thằng bạn Thổn Mừ lè lưỡi. Đành chịu mất con lợn. Tiếc quá. Quay lại thôi. Tại sao? Bên kia có lán hủi người Mẹo Lài mà. Ta sợ người hủi lắm.
Thằng Páo sợ người hủi nhưng ta thì lại không sợ. Bảo thằng bạn Thổ lội suối sang bờ bên kia đi tìm người hủi thì nó chùn lại lắc đầu.
“Ta không nghe lời mày.”
“Vào thăm người hủi hay lắm mà.”
“Không thăm.”
Rủ không đắt. Lội suối sang một mình. Con đường mòn lòng vòng. Trong rừng hoang mà có con đường mòn lòng vòng thế này là có người vẫn thường xuyên qua lại. Cái lán hủi nằm nép vào hang đá. Mái nứa mốc thếch núp dưới cành lá cây lim vàng cổ thụ. Một ông cụ râu tóc bạc trắng. Hai bàn chân quấn giẻ rách. Cởi trần. Ngồi khoanh chân trên tảng đá lim dim gà gật phơi tấm lưng gầy guộc trong nắng rừng mùa đông lạnh lẽo. Chào thật to. Ông cụ mở mắt ra nhìn như nhìn một khúc gỗ rồi lại nhắm mắt. Lại chào thật to. Rồi lại chào lần nữa. Ông cụ từ tốn đứng lên. Không căm ghét, không thân thiện. Thong thả chui vào lán đậy phên cửa lại.
Ta thực sự thấy hứng thú muốn chui vào cái lán hủi nép sát hang đá. Quay lại bờ suối. Thằng bạn Thổn Mừ cụt chim vẫn đang dáo dác ngồi đợi đằng sau bụi cây Mốc Chó rậm rạp. Hai thằng ngồi uống khan hai bát rượu ngô. Thằng Páo lắc đầu. Ôi trời ơi. Ta chưa sang bên đó lần nào. Ta sợ hủi. Nghe người già kể thôi mà. Ông hủi là người Thổn Mừ bản Nà Cốc a? Không phải đâu. Là người Kinh sống ở tận bản tộc người Thẻn Hà Lũng Huối tít trên núi Xà Chiêng. Bị hủi. Dân bản đuổi vào rừng dạt tới Nả Hoang chúng ta. Tại sao là người Kinh mà lại lên sống tít tận bản người Thẻn Hà Lũng Huối? Ta làm sao biết được. Thằng Páo lại lắc đầu. Rủ thằng bạn Thổ cụt chim ở lại trong rừng chơi với ông cụ hủi một hai hôm. Thằng Páo kêu ối một tiếng như bị rết đốt rồi trương mắt nhìn ta.
Tất nhiên là thằng bạn Thổn Mừ cụt chim không ở lại. Nhưng ta thì quyết không chịu về. Cãi nhau ỏm tỏi một hồi. Đành chịu thua cái lý của người Thổn Mừ. Thế là đành hẹn nhau hai hôm nữa thằng Páo sẽ quay lại đón.
Thằng bạn Thổn Mừ cụt chim bỏ lại chai rượu uống dở và hai con sóc vừa bắn được rồi cắm đầu chạy thẳng. Lội qua suối đi một mạch tới trước cái lán nhỏ đóng chặt cửa. Gõ lộc cộc vào vách nứa. Một lúc sau ông cụ hủi chui ra. Hai người đứng nhìn nhau. Ta kính cẩn chào. Ông cụ từ tốn gật đầu mời vào lán. Chui vào. Lán nhỏ. Thấp. Kiên cố. Rất ngăn nắp gọn gàng. Không hôi thối tanh tưởi. Một chồng sách dầy cộm cũ kỹ xếp ngay ngắn ở góc cột. Toàn sách chữ Tây. Thật là ngoạn mục.
Ta xưng danh là hoạ sĩ. Đi săn tình cờ nhìn thấy cái lán lọt thỏm giữa rừng. Muốn vào chơi. Hỏi thăm sức khoẻ bệnh tật. Nhìn thấy đống sách chữ Tây. Muốn nói chuyện với cụ nếu cụ cho phép. Ông cụ hủi cũng xưng danh tên là Giản. Bị bệnh hủi phiêu dạt vào rừng sâu đã gần mười năm nay rồi. Không e ngại thì cứ vào chơi. Ăn cơm. Uống rượu. Ngủ qua đêm trong góc lán kia. Tóm lại muốn làm gì tuỳ thích. Hai người ngồi nói chuyện bên bếp lửa lim dim phun khói. Ta kể chuyện đã nhiều lần sống với đồng bào bị bệnh phong mà người đời vẫn gọi là bệnh hủi hoặc là bệnh cùi. Rồi tình cờ có anh bạn nhà văn rủ ta tham gia một chuyến đi tự nguyện mang thuốc men và gạo vào cứu trợ giúp đỡ những người mắc bệnh phong ở Tây Nguyên. Gần ba tháng trời lang thang phiêu bạt qua mấy trại cùi nghèo đói bị xã hội ruồng bỏ lạc lõng trong rừng thẳm đại ngàn đã khiến ta gần như là một thành viên thực sự trong thế giới người cùi. Sau chuyến đi đó được một tổ chức nhân đạo quốc tế mời sang Mã Lai nghiên cứu dự án thành lập thị trấn người cùi. Nhưng không được đi chỉ vì lý do đơn giản là một nghệ sĩ tự do không phải là người nhà nước vì không làm việc ở cơ quan đoàn thể nào cả. Không được bảo hiểm chính trị. Không được tín nhiệm chính trị. Ông cụ Giản gật gù ngồi nghe. Rồi ông cũng chậm rãi kể ông là người Kinh họ Trần chứ không phải là người Thẻn Hà. Ông là y sĩ. Gia đình tư sản thuộc diện bị cải tạo thành phần. Học xong trường y sĩ là ông được tổ chức nhà trường gọi lên gợi ý tự nguyện viết đơn xung phong lên bản tộc người Thẻn Hà làm việc lâu dài cũng có thể hiểu là suốt đời để phục vụ nhân dân lao động đặng chuộc lại tội lỗi cho ông bà cha mẹ. Tộc Thẻn Hà ở tít trên núi cao. Chỉ còn hơn ngàn người thôi. Nghèo đói. Thật thà. Hồn nhiên như cây cỏ.
“Tôi lấy vợ Thẻn Hà đẻ bốn người con không đứa nào nói được tiếng Kinh. Tôi cũng không hào hứng dạy chúng nó nói cái thứ tiếng của họ nội. Khi bị bệnh hủi tôi bị làng bản đuổi vào rừng. Tôi không oán trách. Tôi hiểu đấy là cái tục lệ của người Thẻn Hà. Dân bản không ghét người hủi. Người hủi phải vào rừng sống chung với ma rừng thôi. Nếu ma rừng không bắt thì sẽ khỏi bệnh trở về với vợ con.”
Hỏi tại sao ông Giản bị bệnh hủi mà sở y tế tỉnh lại không cho ông vào chữa bệnh ở trại phong Quỳnh Lập nổi tiếng. Ông Giản nói là ông ở với người Thẻn Hà lâu quá rồi nên hoá thành người Thẻn Hà rồi. Ông phải vào rừng sống với ma rừng theo phong tục của người Thẻn Hà. Bèn hỏi bao nhiêu năm nay sống thui thủi một mình trong rừng sâu ông có sợ không có buồn không. Ông Giản cười. Không sợ cũng không buồn. Chỉ thấy tĩnh lặng trong tâm không còn ham muốn vương vấn gì cả. Cách đây một năm hai cán bộ y tế của tỉnh có theo con gái út của tôi vào đây cho rất nhiều thuốc tốt và mời tôi về thị xã dưỡng bệnh vì bây giờ có chủ trương là chữa bệnh phong tại nhà vì bệnh hủi đâu có lây. Hay nói chính xác tỉ lệ lây bệnh qua nhiễm trùng máu chỉ là bảy phần nghìn. Vi trùng Hát San chui ra ngoài chỉ sống được có hai mươi bốn giờ đồng hồ. Ngạc nhiên hỏi tại sao ông Giản lại từ chối một cơ hội may mắn được quay trở về sống chung với cộng đồng. Ông Giản lắc đầu. Tôi cũng không hiểu tại sao. Gặng hỏi thêm mấy lần thì ông Giản ngửa cổ nhìn ngọn khói bay vu vơ. Tôi sống thế này quen rồi mà. Già rồi. Sắp thành ma rừng rồi.
Có tin hay không.
Ngồi nói chuyện đến trưa thì cô con gái út của ông Giản gùi gạo vào. Cô bé lai pha trộn hai dòng máu Kinh và Thẻn Hà. Mắt xếch ngược. Tóc xoăn. Da nâu. Cổ chân to tướng. Mặt tròn. Mông cong tếu. Không biết đến nửa tiếng Kinh nhưng cứ luôn mồm líu la líu lô vui vẻ hồn nhiên với ông khách của bố. Ăn cơm xong. Ông Giản nói. Con gái tôi muốn rủ cậu ra chơi hội nhảy lửa ở bản Nài Thút của người Thẻn Hà Mẹo Lài. Ta hỏi. Có xa không. Không xa đâu. Đi đến tối thì tới nơi thôi. Bao giờ về. Hết đêm tan hội thì về. Thế là gật đầu luôn không đắn đo.
Ta lội rừng cũng đã gớm. Nhưng cô gái Thẻn Hà lội rừng gớm hơn nhiều. Lội phăng phăng. Hình như là cây rừng bảo nhau rẽ lối nhường bước cô gái. Đuổi theo mệt phờ. Cô gái cười nói luôn mồm mặc dù ta chẳng hiểu gì cả. Đi một mạch sâm sẩm tối thì tới bản Nài Thút. Sườn núi dốc ngược. Hơn chục nóc nhà thấp lè tè chơi trò trốn tìm lấp ló trong cỏ tranh cao ngút đầu người. Cô gái dắt tay ta chui vào ngôi nhà mái cỏ tranh. Trong nhà lố nhố đám người ngồi quây quần trong ánh sáng chập chờn của đèn nhựa cây phun phì phì. Không ai nhìn. Không ai hỏi. Dường như không phải là người xa lạ. Tay cô gái vẫn nắm chặt tay ta. Trố mắt nhìn. Mâm cơm cúng bày giữa nhà. Con gà sống đã vặt trụi lông. Luộc chín. Ghếch mỏ. Quắp chân cẳng. Bát cơm đầy tú hụ. Chai rượu men lá đục ngầu. Đám người ngả nghiêng lắc lư theo điệu hát của ông thầy cúng mũ áo lùng phùng đang ê a gọi hồn ông bà tổ tiên người Thẻn Hà về với con cháu. Cô gái út con ông Giản cũng ngả nghiêng lắc lư. Ta cũng ngả nghiêng lắc lư. Ông thầy cúng tung đồng xu xin quẻ âm dương. Rồi ông nhảy cẫng lên. Ông bà tổ tiên đã nhận lời về ngồi ăn thịt gà ăn xôi rồi. Ông bà tổ tiên ưng thuận vui chơi nhảy lửa với con cháu rồi. Đám người đứng lên chân trần xô nhau chạy ùa ra khỏi nhà. Cô gái cũng lôi tay ta chạy ra khỏi nhà. Một đống lửa thật to đốt cháy đùng đùng giữa sân. Ông thầy cúng cứ thế chân trần nhảy vọt vào giữa đống lửa rồi nhanh như cắt lại nhảy vọt ra. Đám người reo ồ lên. Và cũng lần lượt theo nhau chân trần nhảy vọt vào giữa đống lửa rồi lại nhảy vọt ra. Tàn lửa bay tung toé hoa đăng lẫn tiếng reo cười hả hê. Có bàn tay ai thụi vào lưng rất mạnh. Cô con út ông Giản hú lên thất thanh. Thế là ta nghiến răng nhảy vọt vào giữa đống lửa. Thanh củi cháy rần rật vọt lên cao. Tàn lửa bắn vào mặt nóng giãy. Tóc cháy xèo xèo khét lẹt. Nhưng đi giày. Chân không bị bỏng. Lại nhảy vọt ra khỏi đống lửa và ngã huỵch vào vòng tay của một cô gái Thẻn Hà lạ hoắc.
Đêm đó nhảy lửa bao nhiêu lần. Không đếm xuể. Ai xui nhảy lửa như người Thẻn Hà. Ngọn lửa. Tiếng hò reo vang động rừng đêm của bà con bản Nà Xút. Hay là con ma rừng. Không biết. Lên đồng. Mọi người nhảy vọt vào đống lửa cháy đùng đùng thì ta cũng nhảy vọt vào đống lửa cháy đùng đùng. Mọi người hét rống lên thì ta cũng hét rống lên. Mọi người nốc rượu ồng ộc thì ta cũng nốc rượu ồng ộc. Ngã vào vòng tay của bao nhiêu cô gái Thẻn Hà cũng không nhớ.
Trời sáng bạch. Đống lửa tắt rụi. Bà con bản Nà Xút xô nhau chạy tán loạn. Ta bám theo váy theo cô gái con út ông Giản vọt vào rừng. Mặt mũi quần áo ta nhem nhuốc tro than. Chạy như bị ma đuổi. Rồi nằm vật ra bên bờ suối chảy róc rách. Ngủ như chết. Lửa cháy đùng đùng trong giấc ngủ. Rồi bỗng nhiên thấy mông đít lạnh buốt. Choàng tỉnh. Cởi truồng. Cô gái Thẻn Hà vú thỗn thện đang quỳ xuống úp mặt vào háng của ta (Zê) mút chùn chụt. Ối trời ơi. Tại sao cô gái Pà Thẻn mù chữ hoang dại như cây cỏ chốn núi rừng hoang vu lại thành thạo cái trò làm tình ở chốn thành thị văn minh tinh quái này. Ai xui. Vô thức tập thể tối đen ông bà tổ tiên xui. Bản năng nguyên thuỷ mù mờ sinh tồn đưa dắt. Hay là con ma rừng vẽ đường chỉ lối. Con nõn dựng đứng như cây trò chỉ. Mắt trợn ngược. Rú lên cong lưng phóng tinh vòn vọt lên trời. Cô gái Thẻn Hà ngẩng mặt lấm láp đen sì tro than lên trời. Nhoẻn cười. Răng trắng loá. Sói cái hiện hình...
Bàn Kì Páo cứ nhấp nha nhấp nhổm như giẫm phải than. Chẳng còn lạ gì tính nết của thằng bạn Thổn Mừ. Mặc kệ. Sau ngày đi săn về ta chỉ nằm khoèo hút tẩu. Ông cụ Giản chết rồi. Xác ông được mang về Hà Nội rồi được đốt thành tro bỏ vào bình. Rồi cái bình ấy được mang lên máy bay chở sang một xứ sở lạ hoắc xa lắc xa lơ nào đó. Ông từ biệt núi rừng Nả Hoang. Nhưng ông để lại bản Nà Xút mấy người con không biết nói tiếng Kinh đã vĩnh viễn hoà nhập trong bộ tộc người Thẻn Hà.
Thế là từ nay mỗi lần ba lô bụi ngược rừng ta lại mất một chỗ đi lại trò chuyện huyên thuyên rồi nằm vật ra sàn nứa thiếp vào giấc ngủ thảnh thơi.
Hai ngày trôi qua. Tới ngày thứ ba thì thằng Páo dựng dậy.
“Cậu ở lại Nả Hoang trông nhà cho ta nhé.”
“Một mình ta ư?”
“Ta gọi một em gái Chỉ Xản đến ở cùng cho đỡ một mình.”
“Cậu đi đâu?”
“Bạn bè rủ sang Trung Quốc đánh một quả hàng thôi. Đón lõng cái Tết đang đến nơi rồi. Ta cần thêm tiền mà.”
“Không muốn ai đến ở cùng ta.”
“Muốn gì?”
“Cho ta sang Trung Quốc với.”
“Ta đi buôn lậu đấy.”
“Thì làm sao?”
“Ta tưởng cậu không thích đi buôn lậu.”
“Cho ta đi cùng. Ta chưa được đi buôn lậu lần nào.”
“Muốn đi buôn lậu a?”
“Muốn.”
“Lạ nhỉ.”
Bàn Kì Páo hỉ hả phun khói thuốc lên trời.
“Cậu có bao nhiêu tiền?”
“Có nhiều.”
“Tiền gì? Việt? Nhân dân tệ? Đô la?”
“Tiền Việt thôi.”
“Bao nhiêu?”
“Ba triệu.”
“Cũng tạm được. Ta hỏi tiền này của ai. Của cậu? Của vợ cậu? Hay là vay của ai?”
“Của ta. Con gái ta cho làm lộ phí đi chơi rừng.”
“Thế thì yên cái bụng rồi.”
“Tại sao lại yên cái bụng rồi?”
“Ta sẽ nhường cho cậu một kiện hàng.”
“Để làm gì?”
“Cõng hàng sang bên đó rồi lại mua hàng bên đó cõng về. Ba triệu vốn. Quay vòng một lần. Lãi hơn một triệu.”
“Tuyệt lắm.”
“Đừng hí hởn vội. Có khi mất trắng đấy.”
“Tại sao mất trắng?”
“Bị công an bắt. Bị bọn lục lâm thảo khấu chặn đường cướp hàng.”
“Mất thì thôi. Ta không cần.”
“Đúng rồi. Tiền đâu? Đưa ta đi lấy hàng cho.”
“Ta để trong ví.”
Móc ví. Cái ví rỗng không.
“Chết tôi rồi. Mất cắp tiền.”
Chưa bao giờ mất cắp tới ba triệu bạc. Choáng. Tiếc. Thộn mặt. Thằng Páo nhắm mắt. Lắc lư đầu trọc. Suy nghĩ. Nhếch mép.
“Tiên sư em gái Pắc Xế ăn cắp tiền. Thảo nào nó chuồn ngay về nhà.”
“Tại sao mày biết?”
“Biết chứ. Ta là công an mà.”
Thằng Páo cười nhạt.
“Được lắm. Ta sẽ lên tận bản Pắc Xế lấy lại tiền cho cậu.”
“Không cần đâu.”
“Cần chứ.”
“Không phải em gái Pắc Xế lấy đâu. Ta nghĩ bị móc trộm từ bến xe ở Hà Nội.”
“Cậu bênh con Pắc Xế.”
“Không bênh. Ta nhớ ra rồi. Ở bến xe Hà Nội có một thằng đội mũ bảo hiểm cứ thúc vào mông ta.”
Thằng Páo cười hì hì.
“Nói dối ngu lắm.”
“Ngu.”
“Không cần ta lên Pắc Xế đòi tiền nữa a?
“Phải.”
“Thế là ta phải chạy đi vay tiền cho mày rồi.”
“Không cần tiền.”
“Đi buôn mà không cần vốn.”
“Ta lại không đi buôn với cậu nữa. Ta muốn đi về nhà.”
“Đừng về vội.”
“Cho ta về thôi.”
“Nhớ vợ a?”
“Không nhớ.”
“Ta cũng không đi buôn lậu nữa. Ta ở lại chơi với cậu vậy.”
“Chơi với nhau đủ rồi. Cho ta về xuôi. Còn vài hôm nữa là tết rồi.”
Phải về thôi. Không có tiền thì phải quay đầu chạy nhanh về nhà. Gã đòi về nằng nặc. Thằng bạn Thố Mừ cụt chim ngồi thần mặt rít tẩu. Buồn. Không thèm nói chuyện.
Bỏ xuống dưới nhà phết phẩy thêm vài vệt sơn vào ba chữ Sướng Hết Ý trên tấm bảng hiệu. Thằng Páo mò xuống đứng sau lưng phun khói thuốc mù mịt.
“Cậu định mở cửa hiệu bán mặt hàng gì? Đưa mẫu hàng ra đây. Ta sẽ vẽ thật đúng cái mặt hàng đó vào tấm bảng hiệu này cho nó oách.”
Thằng Páo cười tủm tỉm.
“Không cần vẽ cái mặt hàng đó mà.”
“Tại sao?”
“Ta bảo không vẽ mà.”
“Bao giờ mày khai trương cửa hàng?”
“Ta còn đang chờ chủ tịch cái thị trấn Nả Hoang cấp cho giấy phép.”
“Cậu bán cái của khỉ gì mà phải có giấy phép của chủ tịch thị trấn Nả Hoang?”
“Thôi mà.”
“Động vật quý hiếm a?”
“Ta không muốn trả lời cậu.”
Hiểu rằng không nên hỏi nữa. Thằng Páo trợn mắt nhìn gã.
“Ở đến ngày mai hẵng về.”
Chiều tối. Thằng Páo lại lôi ra quán thịt thú rừng gọi hẳn một con cầy hương. Hai thằng la đà nhậu nhẹt. Tán láo một lúc thì đá sang chuyện gái. Thằng Páo hỏi:
“Cậu chê con Pắc Xế gầy ốm xấu xí phải không?”
“Không chê.”
“Chê.”
“Láo.”
“Ta biết rồi.”
“Biết cái gì?”
“Biết rằng cậu thích con gái đít to như noọng Thào Yêng.”
“Không nhắc đến noọng Thào Yêng.”
“Và cái mặt phải tròn phải trắng như mặt Thào Yêng.”
Nốc cạn bát rượu. Cau mặt. Thằng Páo cười vớt vát rồi cũng nốc cạn bát rượu. Rồi nó xoa đầu. Xoa chầm chậm. Nhẹ nhàng. Tình thân yêu ấm áp lan toả từ bàn tay nó truyền xuống đầu ta. Còn hơn những lời an ủi đường mật. Ta ngồi. Đầu trọc lóc im phắc. Không xấu hổ. Không giấu giếm. Không giả vờ. Không ngượng. Buồn ngủ.
Phải đến gần nửa đêm hai thằng mới quay về nhà. Hai cô gái váy áo xanh đỏ lùng phùng đã ngồi che ô trong bóng tối cây hồi đổ xuống trên bậc cửa. Thằng Páo mở khoá cửa lách cách. Cô gầy ốm mảnh mai theo thằng Páo vào nhà. Cô béo tốt mặt tròn mông tròn mẩy cong tếu dìu ta lên thẳng tầng trên. Say rượu rồi. Nằm vật ra sàn nhắm tịt hai con mắt thở phì phò kéo bễ rồi thiếp ngay vào giấc ngủ trong một vòng tay mềm mại ấm áp thơm nức mùi nước hoa Trung Quốc.
Ta ngủ. Quá nửa đêm choàng dậy. Đèn tối. Tiếng ngáy gừ gừ nhè nhẹ như tiếng mèo hen. Hơi thở nóng rực xa lạ phà vào mặt. Tấm thân nồng nỗng kề sát bê. Khát cháy họng. Chui ra khỏi chăn. Tìm nước uống. Có tiếng chùn chụt ở tầng dưới. Tiếng phụ nữ rên e é. Bò ra đầu cầu thang. Ghé mắt nhòm xuống. Thằng Páo. Thằng bạn Thón Mừ cụt chim. Trần truồng. Gân bắp cuồn cuộn. To bè như một con trâu mộng. Nó đang làm cái trò gì. Đang làm cái trò vục mặt vào giữa cặp đùi con gái dạng tè he trắng hếu. Chụt chụt. E é. Chụt chụt. E é. Rồi thằng Páo bỗng nhiên nhổm phắt lên. Một cái *** to tướng. Nhựa tái sinh. Cóc vi zít. Xù xì. Gai góc. Vung lên. Dịu dàng. Âu yếm lừ lừ thụt vào giữa háng cô gái. A a a. Cô gái rú lên. Giãy đành đạch. Thằng Páo cúng rú lên. Tấm lưng to bè của nó đổ sập xuống như một sườn núi sạt lở.
Ta (Zê) nằm thẳng cẳng trên sàn. Đỉnh đầu giật nhói nhói. E mé mày cái vết thương giữa đỉnh sọ. Có cơn điên bê bết bùn bẩn nhầy nhụa đang ngọ nguậy đâu đó trong căn phòng mờ tối săn lùng ta. Ôi thằng bạn Thổn Mừ của ta ơi. Ớt cay. Vị đắng của mật sói rừng. Mật ong. Móng vuốt mèo hoang. Vết bỏng sưng tấy giữa ngực. Cuộc đời ta. Cuộc đời thằng Páo. Mơ hồ. Hao gầy... E mé cuộc đời.
Tám giờ sáng. Thức dậy. Tầng dưới tầng trên ngôi nhà nhỏ trống hoác. Sạch trơn. Chăn chiếu gấp gọn gàng. Sàn nhà không một hạt bụi. Dường như bỏ hoang vô chủ đêm qua chỉ có gió rừng ghé vào ngủ nhờ. Ngồi hút tẩu đợi thằng Páo dội nước ào ào trong phòng tắm. Mặt thằng bạn Thón Mừ cụt chim đắc ý nhơn nhơn như là suốt đêm qua hắn đi dự lễ hội nhảy lửa. Hai thằng đi ăn phở. Rồi thằng bạn Thổn Mừ đưa ra bến xe. Vẫn nhơn nhơn mặt.
“Ta để trong ví cậu chút tiền lộ phí xe cộ đi đường”
Thằng Páo dúi vào gầm ghế ngồi trên xe một bao tải to bự.
“Măng rừng cho vợ cậu”
“Thăng kiu. Ta về Hà Nội sẽ gửi tiền lên trả.”
Thằng Páo cười.
“Không phải trả lại tiền. Đấy là tiền công vẽ tấm bảng hiệu Sướng Hết Ý. Tiên sư em gái Pắc Xế. Con dại cái mang. Ta ngượng lắm. Bỏ lỗi cho ta. Em Chỉ Xản mũm mĩm đêm qua làm cậu vui vẻ rồi nhỉ”
Ta gõ cốc vào cái đầu trọc của thằng bạn Thổn Mừ thay cho lời chào từ biệt. Xe nổ máy rình rình. Thay lời chào.
“Bao giờ khai trương cửa hàng thì báo cho ta lên. Ta mở hàng cho cậu để lấy hên.”
Thằng Páo bật cười he he he.
“Cậu đâu có cần mua cái thứ hàng đó. Ha ha.”
“Ta chỉ không mua thuốc phiện thôi. Cái gì ta cũng mua. Ta sẽ là đại khách hàng. Nhưng mà này cửa hàng của cậu bán cái đếch gì vậy. Giấu như mèo giấu ***.”
Xe giật chồm chồm. Lăn bánh.Thằng Páo dập bùm vào thành xe.
“He he he. Về đi. Dai như đỉa. Cứ vặn hỏi mãi thôi. Hàng gì a. Con cu. Con ***. Con bòi... Chất đống trong mấy chục bao tải vất đầy tầng dưới. Một vạn con *** nhựa đúng hiệu mác đơ in Chi na. Tao mất ****. Bây giờ tao lại là thằng có một vạn con ****. He he. Sướng chưa. Thế mới nhờ vẽ cái tên biển cửa hiệu là Sướng Hết Ý. E mé mày. Cứ hỏi mãi. Thằng Kinh ngu hơn con bò.”
Xe chạy tới chân đèo Con Kuông bỏ lại đằng sau thị trấn Nả Hoang mới hơn chục cây số là đã ngủ gà ngủ gật.
Chuyến xe đồng rừng về xuôi những ngày cận tết chật ních người và hàng. Hàng hoá còn buộc ngồn ngộn chất ngất trên mui xe. Trời lạnh. Gió rừng thổi ù ù. Cửa xe đóng kín mít. Trong xe hừng hực hơi người trộn lẫn mùi ngai ngái cay cay. Cái thứ mùi rất đặc biệt không biết gọi là mùi gì, chỉ có ở những miền đồng rừng. Nó sẽ nhạt dần và biến mất hẳn khi xe bắt đầu lăn bánh xuống đồng bằng.
Gà gật. Chập chờn. Thức ngủ. Không mơ hoảng. Không mộng du. Tiếng ô tô ầm ì. Tiếng thở phò của ông già ngồi bên cạnh. Thỉnh thoảng ta lại giật bắn mình choàng tỉnh vì nhìn thấy tấm lưng to bè cánh phản của thằng bạn Thổn Mừ cụt chim đang trôi lừ đừ trong màn sương rừng lùng bùng nồng nặc mùi củ nâu. Hàng ngàn con sâu đang ngọ nguậy. Không phải hàng ngàn con sâu. Hàng ngàn con bòi con *** nhựa xanh lẹt đang ngọ nguậy bò quanh tấm bảng hiệu vàng choé kẻ hàng chữ Sướng Hết Ý... Giờ này thằng Bàn Kỳ Páo đang làm gì? Nằm ôm một em ca ve gầy nhẳng chìm lút trong tấm chăn bông Trung Quốc ấm áp? Hay là đang ngồi chồm hỗm giữa nhà ngắm nghía đếm đi đếm lại hàng nghìn hàng vạn con *** nhựa đủ mọi kích kỡ kiểu dáng? Ô hô đời ơi là đời. Có thế nào thì cũng phải cám ơn những sản phẩm kì diệu của cái ngành công nghệ tình dục đổi mới này. Nó không chỉ làm các bà các chị nhỡ nhàng muộn màng goá chồng khóc rưng rức vì cảm động mà nó còn mang lại lẽ công bằng cho những thằng lính có số phận đen đủi tức cười như thằng Bàn Kì Páo.
Có ai đập vào vai. Choàng tỉnh. Xe đỗ trước một quán cơm đồng rừng ven đường. Hành khách đang lục tục xuống.
Nhìn ra ngoài. Dãy phố huyện lèo tèo vài mái nhà ngói đen sì cổ xưa. Dẫy phố không tên.
“Xuống đái ỉa ăn cơm ông bác ơi.”
Không buồn đái. Không buồn ỉa. Không đói. Không vào quán cơm ăn cơm như mọi người. Ngồi uống nước chè chén trong quán nước nhỏ đối diện bên kia đường. Móc tẩu nhồi thuốc hút. Có hai cô gái váy chàm chít khăn đỏ gù lưng cõng gùi to tướng đi vào. Một cô trố mắt nhìn.
“A lúi. Chú ơi.”
Lông mày nét ngang.
Tình cờ quá. Vi Bằng Tươi. Buông tẩu. Cô gái cười hi hi nhi nha nhí nhoáy như trẻ con được quà.
“Chú về xuôi a.”
“Phải rồi.”
“Hôm nọ em xuống xe. Chú ngủ say quá nên không chào giã biệt chú.”
“Ai đi cùng cậu đây?
“Đố chú biết.”
“Làm sao biết được.”
“Bạn em hay lắm nhé.”
Vi Bằng Tươi kéo cô gái lại gần trịnh trọng giới thiệu.
“Bạn em tên là Kim Chan Sun.”
“Người Hàn Quốc a?”
“Vâng.”
“Chào em.”
Cười xã giao. Nhìn. Kim Chan Sun mảnh mai trong bộ váy áo chàm. Lông mày cong. Mắt một mí. Thông minh. Bướng bỉnh. Vi Bằng Tươi cười hi hi huyên thuyên giới thiệu.
“Chú đây là một hoạ sĩ rất nổi tiếng.”
Cô gái Hàn quốc a lên ngạc nhiên đầy vẻ tôn kính. Người nước ngoài thường cả tin như vậy đấy. Và cô chào lại gã bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ bị vặt trụi tất các dấu.
“Vinh hanh quen biet chu.”
“Không dám.”
“Me cua em cung la hoa si.”
“Hay lắm.”
Chỉ biết nói như vậy. Rồi hỏi Vi Bằng Tươi:
“Em đi đâu mà gùi hàng qua đây?”
“Lên bản Phì Thống.”
“Bản Phì Thống ở đâu?”
“Ở trên đỉnh núi đằng sau lưng chú.”
“Bản Phì Thống của người Xì Oắn ư?”
“Không phải.”
“Của người Lô Thống?”
“Cũng không phải.”
“Của người Mẹo Lài?”
“Bản Phì Thống của người Tha Lẳng.”
“Lên bản người Tha Lẳng làm gì?”
“Làm việc hay lắm.”
“Việc gì mà hay lắm?”
Vi Bằng Tươi cười. Lắc đầu bí ẩn. Cô gái Hàn Quốc cũng cười theo. Càng tăng thêm vẻ bí ẩn. Gọi ba chai bia Con Hổ. Toan lấy cốc thì Vi Bằng Tươi gạt đi. Không cần cốc. Ba người cầm ba chai bia cụng khẽ rồi tu. Uống hai ngụm chưa hết một phần năm chai. Vi Bằng Tươi uống hết nửa chai. Cô gái Hàn Quốc ngửa cổ tu chầm chậm và khi đặt chai bia xuống thì chỉ còn cái vỏ chai rỗng lùi xùi dính chút bọt. Ngạc nhiên chưa. Gọi thêm bia thì Vi Bằng Tươi xua tay.
“Thôi mà.”
“Uống nữa có làm sao.”
“Tốn tiền của chú a.”
“Mấy khi có chuyện gặp nhau tình cờ như thế này. Uống nữa. Chú có tiền mà.”
Búng ngón tay sành điệu. Chủ quán chỉ đợi có thế. Sáu chai bia được bê tới. Móc ví đặt lên bàn. Sáu tờ năm trăm ngàn xanh lè mới tinh. Bằng đúng số tiền cô gái nhỏ người Mán Pắc Xế đã lấy trộm. Lại ngạc nhiên chưa. Nhiều quá. Ôi chao là thằng bạn Thổn Mừ cụt chim Bàn Kì Páo. Chẳng mấy chốc sáu chai bia cũng đã được uống hết. Hai cậu ăn thêm cái gì nhé. Thân mật hỏi. Các cậu không thích ăn đâu. Uống thêm một vài chai nữa có được không. Cô gái Xì Oắn Vi Bằng Tươi cười hi hi hỏi lại như vậy. Thì uống. Thoải mái đi mà. Còn bao nhiêu tiền cơ mà. Chủ quán đâu. Mang một két bia ra đây. Uống hết. Chủ quán nhảy cẫng lên cười tít mắt. Ta khuyến mại một đĩa lạc đây này. Ăn lạc đi. Uống thêm thật nhiều bia nữa đi. Uống hết cả két bia đi. Cho ta cùng ngồi uống bia với. Cho ta góp thêm lạc nữa. Một rổ đầy lạc luộc a. Cho ta vui với. Mấy hôm nay ế hàng ngồi ỉu xìu buồn cái chân cái tay lắm.
Két bia được khuân ra. Uống tiếp. Vẫn kiểu tu chai không cốc. Uống bia như uống nước. Một két bia hết veo. Lại một két nữa được khuân ra. Vi Bằng Tươi ngửa mặt không cười hi hi nữa mà cười ha ha. Cô gái Hàn Quốc cũng ngửa cổ cười. Vẫn nụ cười mơ màng. Nụ cười không dành cho ai. Nụ cười bí ẩn.
Trong quán ăn bên kia đường hành khách đã xong bữa cơm đang lục tục đùn nhau leo lên xe. Phụ xe hét oang oang. Lên xe. Lên xe thôi. Lại bật nắp thêm một chai bia cho gã. Uống. Nghe thấy tiếng gọi lên xe. Nhưng tảng lờ như không nghe thấy. Chủ quán cũng nghe thấy nhưng chỉ ngồi im thít nhìn gã. Cô gái Hàn Quốc uống như người điếc. Còn Vi Bằng Tươi thì cười ré lên.
“Không về xuôi nữa?”
“Không về.”
“Uống hết két bia này.”
“Thêm mười két nữa. Uống cho hết ba triệu mới thôi.”
“Ô kê hoạ sĩ.”
“Chủ quán. Khuân hết bia ra đây.”
“Có ngay.”
“Đi chơi.”
“Chơi.”
“Đi đâu?”
“Đi chơi là đi chơi. Hết. Xong phim.”
“Uống.”
Bên kia đường xe đã nổ máy rình rình. Phụ xe nhảy chồm vào quán.
“Bố ơi. Định mọc rễ ở đây à?
“Ta uống.”
“Mời bố lên xe. Đến giờ xe chạy rồi.”
Khoát tay
“Ta xuống ở đây rồi.”
“Ơ hay.”
“Biến.”
“Biến.”
“Biến.”
Gầm lên. Vi Bằng Tươi gầm lên. Chủ quán cũng gầm lên. Nhưng cô gái Hàn Quốc thì không gầm lên. Bởi vì cô đang lim dim mắt nhìn ra ngoài trời. Phụ xe hí lên rồi quay đầu chạy biến. Còi xe tu tu. Và chiếc xe rừ rừ lăn bánh bò khỏi dãy phố huyện xiêu vẹo lèo tèo vài mái ngói đen sì. Dãy phố không tên.
Một tấm áo chàm đắp trên người. Mùi nước hoa chốn thị thành thoang thoảng trộn lẫn mùi củ nâu núi rừng ngái ngái hoang dại.
Phản rộng. Bốn két bia rỗng xếp chồng cạnh chân cột nhà. Quán nước vắng tanh. Bên ngoài sương bay cuồn cuộn trên những mái ngói vêu vao cũ kỹ đang chầm chậm mờ dần trong chiều rừng u mặc.
Vi Bằng Tươi cười hi hi.
“Hoạ sĩ ngủ nữa đi.”
“Không ngủ nữa. Mọi người đâu cả rồi?”
“Ông chủ quán rủ Kim Chan Sun đi chợ.”
“Chợ có xa không?”
“Cũng xa đấy. Gần mười cây số đấy.”
“Đi chợ làm gì?”
“Chủ quán đòi mua một con chồn về đêm nay mổ thịt uống rượu khoản đãi ba người chúng ta mà.”
“Vui nhỉ.”
“Vui lắm.”
“Đi chợ lâu chưa?”
“Đi lâu rồi mà vẫn chưa thấy về.”
Ngồi dậy nhìn sang quán cơm bên đường đã khép cửa. Gió rừng rì rầm lúc gần lúc xa trong không gian rừng yên ả. Buột miệng vu vơ.
“Sắp tối rồi.”
“Vâng.”
“Đêm nay hai cậu nghỉ ở đâu?”
“Ngủ ở trong cái quán này thôi.”
“Chủ quán cho nghỉ nhờ a?”
“Chủ quán mời tất cả cùng ngủ lại không lấy tiền trọ.”
“Hên rồi.”
“Hên lắm.”
Vi Bằng Tươi rót cho cốc nước đầy. Nước mát lạnh. Uống vào tỉnh người. Móc ví lấy tiền đưa cho cô gái Xí Oẳn.
“Cầm lấy tiền này.”
“Không cần tiền mà.”
“Trả tiến bốn két bia và tiền chợ.”
“Tiền bia trả rồi.”
“Ai trả?”
“Kim Chan Sun trả rồi.”
“Ai lại thế?”
“Mặc kệ. Nó nhiều tiền lắm.”
“Trả tiền chợ?”
“Ông chủ quán khuyến mại a.”
“Hay nhỉ.”
Vi Bằng Tươi cười hi hi.
“Có muốn uống nước nữa không?”
“Đủ rồi.”
“Sáng mai chú lại bắt xe về nhà?”
“Chưa chắc.”
“Tại sao?”
“Đang muốn đi chơi nữa đây.”
“Đi đâu?”
“Chưa biết.”
“Có muốn đi chơi bản Phì Thống với chúng em không?”
Nhảy chồm lên.
“Muốn lắm.”
“Leo núi cả ngày đấy.”
“Leo tốt.”
“Thế thì sáng ngày mai cùng đi với nhau thôi.”
“Kim Chan Sun có đồng ý cho ta đi cùng không?”
“Nó bảo em hãy rủ chú đi cùng đấy mà.”
“Các cậu lên bản Phì Thống có việc gì?”
“Đi làm công tác thôi.”
“Công tác gì?”
“Nhiều công tác lắm.”
“Cho một thí dụ đi.”
“Khảo sát để lập dự án xây dựng bản Phì Thống thành bản du lịch quốc tế mà.”
“Cái bản Phì Thống ấy có cái gì lạ mà định biến nó thành bản du lịch quốc tế?”
“Chẳng có cái gì lạ cả ngoài những ngôi nhà lợp mái tranh đắp tường đất dày hàng mét của người Tha Lẳng. Bà chủ tịch quỹ người Thuỵ Điển cứ xuýt xoa là khắp nơi trên thế giới này không tìm đâu được những ngôi nhà đất kỳ lạ như vậy.”
“Đã có đường cho ô tô chạy lên bản Phì Thống chưa?”
“Chưa có mà.”
“Thế thì làm sao chở khách quốc tế lên bản Phì Thống?”
“Trong dự án có mở một con đường cho ô tô chạy lên tới tận đầu bản.”
“Ai cử các cậu đi làm công tác này?”
“Quỹ quốc tế xoá đói giảm nghèo cho mười nước châu Á nghèo nhất của tổ chức Liên Hợp Quốc mà.”
“Cô Kim Chan Sun cũng làm việc ở cái quỹ này a?”
“Vâng.”
“Kể cho ta nghe một chút về Kim Chan Sun.”
“Ô. Nó là nhân viên chính thức của tổ chức Liên Hợp Quốc đấy. Nó là sếp của em đấy.”
“Là sếp của cậu?”
“Vâng. Vì nó tuyển dụng em đi làm phiên dịch tiếng Tha Lẳng. Nó trực tiếp trả lương cho em.”
“Vi Bằng Tươi biết nói tiếng Tha Lẳng a?”
“Biết chứ. Người Tha Lẳng và người Xí Oẳn nói chung hát chung một thứ tiếng mà.”
“Kỳ diệu.”
“Có gì mà kì diệu?”
“Vô cùng kỳ diệu vì ngày mai ta sẽ được theo hai cô nhân viên Liên Hợp Quốc leo lên bản Phì Thống rồi. Ta thích những chuyến đi ngẫu nhiên như thế này lắm.”
Xe máy đỗ xịch ngay cạnh cửa. Còi bóp te te nghịch ngợm. Kim Chan Sun váy chàm khăn đỏ ngồi trước cầm lái. Nếu không nói thì đố ai biết đó là một cô gái người Hàn Quốc. Vẫn nụ cười mơ màng tươi tắn trên môi. Nụ cười không dành cho ai. Chủ quán ngồi sau ôm cái lồng sắt nhốt con chồn to tướng lông lá lù xù mõm nhọn hoắt đang gào rít lăn lộn nhe răng trắng nhởn. Chủ quán cười hơ hơ.
“Chồn đực bốn cân rưỡi. Lâu lắm rồi mới vớ được một con to thế này. Số ông hoạ sĩ đỏ quá.”
“Bao nhiêu tiền?”
“Hơn hai trăm ngàn đấy.”
“Tôi trả tiền.”
“Ta định khuyến mãi nhưng cái cô người Hàn Quốc đây cứ tranh lấy trả tiền rồi. Ta đành chịu. Bây giờ ta cắt tiết con chồn lấy huyết hoà rượu rồi nấu món chồn tái Thượng Hải, món chồn hầm Quảng Tây và làm món gỏi chồn Hồ Nam cho mà ăn. Ngon miệng lắm. Quên sầu luôn.”
Cũng đã dự nhiều tiệc rượu tình cờ. Nhiều lắm. Không nhớ xuể. Và đêm nay lại có thêm một tiệc rượu tình cờ thú vị chắc chắn sẽ không thể nào quên được. Chủ quán là một tay đồ tể kiêm đầu bếp có hạng. Một mình tay dao tay thớt chưa đầy một giờ đồng hồ mâm rượu thịt tú hụ khói hơi ngào ngạt thơm điếc mũi đã bày chễm chệ trên phản. Không uống bia. Chỉ uống rượu pha huyết chồn. Nâng chén. Hỏi vì cớ chi mà ông chủ lại độc thân mở quán ven đường như thế này. Chủ quán bèn hắng giọng. Ta là người Hông Mơ bản Thịn Phứa huyện xa miền Tây giáp biên giới Việt Lào. Hai năm trước cả nhà ta là vợ ta con trai ta con dâu ta con gái ta rủ nhau theo mấy người trong bản sang Lào mua bạch phiến về bán cho người Hoa. Mua bạch phiến về bán được nhiều tiền lắm. Lãi lắm. Chỉ cần thoát một chuyến thôi cũng thừa tiền mua xe máy mua ti vi. Bản Thịn Phứa ta ở bên này con suối Nậm Ca thì nước Lào ở bờ bên kìa con suối Nậm Ca. Xắn quần lội qua suối là sang nước Lào thôi mà. Tại sao ông không đi cùng với vợ con? Ta bị ốm mà. Cũng vì thế mà ta thoát chết. Tại sao thoát chế?. Tại vì vợ con ta bị công an phục kích bắt còng tay ngay khi ôm bốn bánh bạch phiến lội qua suối Nậm Ca trở về. Kể chuyện nữa đi a. Được thôi.
Nhưng mà buồn lắm. Sầu đời lắm. Vợ con ta bị bắt đi tù. Vợ ta con gái ta con dâu của ta mỗi đứa giấu một bánh hê rô in trong váy nên bị tù mười năm. Riêng thằng con trai ta buộc ba bánh hê rô in vào sau lưng thì bị kết án tử hình. Ta ở lại bản Thịn Phứa đêm nào cũng nằm mơ thấy vợ con hiện về gào khóc không cho ta lấy vợ khác rồi lại đòi ta đến thăm nuôi. Ta sợ quá bèn bỏ bản Thịn Phứa chạy xuống tận cái phố ven đường không tên này mở quán sinh nhai kiếm tiền cũng thuận đường bốn tháng một lần mua quà bánh lên trại tù thăm nuôi vợ con ta. Trại tù ở đâu? Ở gần đây thôi mà. Phía sau dãy núi bên kia đường kia kìa. Đi nửa ngày là tới.
Rượu huyết chồn đực uống vào đắng ngắt. Những cơn gió từ trong rừng sâu cũng bắt đầu ù ù thổi cuộn về trong bóng đêm đang uy nghiêm lạnh lùng đổ xuống. Bếp lửa góc nhà réo phì phì. Ánh lửa nhảy múa trên bốn cái mặt người đang ửng dần lên vì men rượu. Uống tới bát rượu thứ ba thì cô gái tộc người Xí Oẳn cứ ngoẹo cổ cười hi hi. Thỉnh thoảng lại vỗ bộp lên cái đầu trọc lóc của ta (Zê). Uống tới bát rượu thứ tư thì chủ quán quăng đũa bốc thịt nhai trêu trạo rồi ngửa mặt nhắm mắt ư ử ê a hát một bài hát buồn bằng tiếng Hông Mơ chỉ mình người hát hiểu. Có điều lạ lùng là uống nhiều mà không hiểu tại sao lại không say. Cô gái người Hàn Quốc chỉ ngồi nhâm nhi rồi bật máy ghi âm thu lại lời ca của ông chủ quán. Còn ta (Zê) thì ngồi lặng im nheo mắt nhìn ra ngoài trời tối đen. Ta (Zê) lấy giấy bút ra và vẽ núi rừng cây cối lăng nhăng. Cô Kim Chan Sun ghé tới bên cạnh xem.
“Kim Chan Sun học tiếng Việt Nam lâu chưa?”
“Học hơn sau năm rôi.”
“Học ở đâu?”
“Học trong nươc ba năm rôi sang Việt Nam học ba năm nưa. Rât thich lam viêc tai Việt Nam nên phai học tiêng Việt Nam.”
“Thảo nào em nói tiếng Việt giỏi thế. Trụi hết cả dấu.”
“Cam ơn.”
“Em đã lên bản Phì Thống mấy lần rồi?”
“Lên năm lân rôi.”
“Lên với Vi Bằng Tươi a?”
“Lên vơi Vi Băng Tươi hai lân. Lên vơi nhưng ngươi khac ba lân.”
“Có làm thêm việc gì nữa không mà lên bản Phì Thống nhiều lần thế?”
Cô gái Hàn Quốc tủm tỉm cười rồi gật đầu
“Con giup ngươi Tha Lăng lam một cai nha nguyện Tin Lanh ơ ban Phi Thông.”
“Nhà nguyện của đạo Tin Lành?”
“Vâng.”
“Người Thà Lẳng ở bản Phi thống đi đạo Tin Lành?”
“Vâng.”
“Có đông không?”
“Đông lăm. Đông gân hêt ca dân trong ban. Người Tha Lăng theo đạo Tin Lanh ở Phi Thông đã co một Hội Thanh vưa được chinh phu công nhân rôi.”
Có tiếng mang giác rất to ở ngay cuối phố. Gió thì thào. Ngọn lửa trong bếp bập bùng. Vi Bằng Tươi đã dựa đầu vào cột nhà ngủ ngon lành. Chủ quán cũng đã lăn quay ra cạnh bếp lửa áo trùm kín đầu ngáy khò khò. Ta không buồn ngủ. Lạ thế. Nhồi thuốc vào tẩu. Cô gái Hàn Quốc châm lửa cho ta rồi cô cũng móc trong túi ra bao Marlboro và lấy một điếu. Đến lượt ta châm lửa cho cô gái. Và rồi cả hai cùng ngồi im lặng vừa hút thuốc vừa ngắm nhìn ngọn lửa đang nhảy múa trong bếp. Rồi Kim Chan Sun hát khe khẽ một bài thánh ca giọng ngọng nghịu líu lo và vẫn mất trụi tất cả các dấu.
Thập tư xưa sưng sưng cao đưng trên đinh nui xa như tiêu biêu cho muôn sâu khô đau.
Long toi yêu thập gia xưa nơi Chua vinh diệu chi cao thay nhân thê hư hoại chêt cach đau thương.
Long tôi say mê bong dang thập tư xưa vui long dâu phục hiên ca cuộc đơi. Long toi quyên luyên mai vơi thanh gia Chua se biên nên mao vinh diệu cho đoi toi.
Đêm mù mịt. U ám. Nặng trĩu. Cái gì nặng trĩu? Không khí để thở hay cảm giác về một cái gì đó mơ hồ không thể biết đang sùm sụp úp trên đầu trên cổ.
Nhưng cái đó nặng trĩu.
Và gió lạnh mù loà từ phương Bắc rù rù thổi về.
Sương hay là mưa? Cũng không biết nữa.
Mờ mịt bay lượn đầy trời đêm tối đen những sợi nước nhỏ xíu mỏng tanh buốt giá. Cây rừng ướt sũng. Đất rừng nhão nhoét. Rừng đêm u mặc.
Nửa đêm về sáng ta (Zê) choàng dậy. Bụng dưới căng cứng. Mót đái quá. Bếp lửa lim dim. Mấy góc nhà tối đen văng ra những tiếng ngáy rừ rừ. Miệng đắng ngắt. Lần mò ra phía sau nhà. Mấy cây trám cổ thụ đen sì cuộn lá rào rào. Mưa lất phất rắc vào mặt vào cổ. Vạch quần đái vọt cần câu từ trên hè vào gốc trám già. Rùng mình. Ối giời đất ơi cây rừng bò vào chồm chỗm bá vai nhau ngay giữa sân. Chạy đi đâu rách việc. Lớ vớ giẫm phải con rắn thì khốn. Trời tối đen thế này tìm đâu ra nhà xí. Mà có lẽ lão chủ quán cũng không thèm làm nhà xí. Ở một thân một mình nơi này thì bạ đâu ỉa đái mà chẳng được. Bước ra khỏi nhà là đặt chân vào bìa rừng rồi. Nhà xí. Vẽ. Zê cong người nghiến răng đái thoả thuê.
Bỗng nhiên có tiếng cười hi hi. Đai bay. Hoa si đai ây. Vi Bằng Tươi. Không phải. Kim Chan Sun. Quốc tế. Mặc kệ. Ta (Zê) vẫn cứ đái. Dừng lại thế nào được.
Rồi ta (Zê) quay lại. Cô gái Hàn Quốc ngồi co ro ép bụng trên bậc cửa. Mảnh chăn Thổ Cẩm vắt qua vai. Bóng đêm lờ mờ không cho nhìn rõ mặt cô gái.
Ta nhún vai, thản nhiên:
“Em muốn đi vệ sinh có phải không.”
Cô gái Hàn Quốc lúc lắc đầu:
“Đi vê sinh là đi đau.”
“Toa lét?”
“Ô khê. Đung roi.”
Ta (Zê) xoè hai tay ra.
“Không có toa lét. Em muốn đi đái hay đi ỉa?”
“Đi đai thoi ma.”
“Vậy thì chạy ra ngồi sau gốc cây trám già ở góc sân kia ngồi xuống và tất nhiên... tốc váy lên.”
Cô gái Hàn Quốc nhìn ta (Zê) rồi lại nhìn gốc cây trám già. Ta (Zê) gật đầu muốn sái cổ.
“Cứ đái đi. Hoạ sĩ canh gác cho mà.”
Kim Chan Sun mủm mỉm cười rón rén đi ra sau cây trám già. Ta (Zê) đợi. Bỗng nhiên cô gái Hàn Quốc kêu thét một tiếng như bị hổ vồ. Ta lao bổ tới. Một con thú bốn chân to tướng đen sì quất đuôi lao vụt qua sân ném lại luồng gió thối khắm. Chó rừng. Chồn hôi. Hay là một con báo đen đang ngồi rình mồi. Kim Chan Sun ôm choàng lấy cổ ta. Xỉu luôn.
Ta (Zê) đành bế cô gái lên. Cặp vú to mẩy và mềm của nàng áp sát ngực ta (Zê). Tóc nàng xoà trên vai ta (Zê). Loạng choạng bước vào trong nhà. Đặt nàng xuống một góc nhà. Bếp lửa vẫn lim dim. Mùi bia rượu. Mùi khói. Mùi cây nứa còn tươi. Và nhất là mùi hơi người. Nàng vẫn nằm im. Ta nhẹ nhàng sờ soạng tìm mảnh áo gối đầu cho nàng. Vô tình (ta thề là vô tình) bàn tay ta (Zê) dừng lại êm ru nhẹ nhàng giữa háng nàng. Cô gái Hàn Quốc vẫn nằm im. Nhưng ta biết chắc rằng nàng không còn ngất nữa. Ngất thì không thể thở hổn hển như thế. Quái quỷ. Ta (Zê) tắc thở.
Rồi không còn biết tại sao ta (Zê) lại nằm xuống và dịu dàng ôm lấy tấm thân thiếu nữ mềm mại thuộc một giống người lạ hoắc xa vời ấy. Bàn tay ta (Zê) lướt nhẹ trên hông nàng rồi chầm chậm lật váy nàng. Ta (Zê) thấy háng nàng ưỡn lên âm thầm hưởng ứng hành động dâm đãng trắng trợn của ta (Zê). Và thế là môi ta vội gắn lấy môi nàng và thân thể ta (Zê) phủ lên thân thể nàng giống hệt như một con rắn mai gầm vắt tấm thân trơn nhẫy quắp chặt lấy tấm lung mềm oặt của một ả mèo hoang đang đòi động đực.
*
Mờ sáng. Gió lạnh. Và ta (Zê) gai người chợt tỉnh giấc.
Bếp lửa giữa nhà đã tắt ngấm.
Chưa ai thức dậy.
Ta (Zê) bò chầm chậm ra khỏi nhà. Không giống một con chó mà y như một thằng ăn cắp. Ta (Zê) thật xấu hổ. Cuộc làm tình ăn trộm hèn hạ đêm qua như một giấc mộng thủ dâm đê tiện hư ảo mà lại có thật.
Ta (Zê) không còn bụng dạ nào mà háo hức ba lô trên vai ba lô bụi rừng xanh một cái bản Phì Thống nào đó. Bai bai nhà nguyện hội thánh Tin Lành. Bai bai làng du lịch Phì Thống xanh đỏ trong giấy tờ nhăm nhe moi tiền mấy ông tây bà đầm tóc vàng mũi lõ.
Chuồn thôi.
Có một ai đó thì thầm vào tai ta (Zê) như vậy.
Phố rừng không tên buổi sớm tinh mơ nhếch mép giễu cợt tặng ta (Zê) một nụ cười phun đầy nước dãi sương rừng cay ngái và cũng không quên sai khiến gió rừng phóng một cú đá song phi thật lực vào giữa mông đít của ta (Zê).
Cắm đầu cắm cổ chạy một mạch tới đầu dốc mới dám ngoảnh đầu nhìn lại.
Ta (Zê) nhìn.
Con chó lài (chó Mèo) của lão chủ quán tai nhọn hoắt, đen sì, đang ngồi dụi đít xuống đường nghển cổ khinh bỉ nhìn theo.