“Biên dã” trong thành ngữ “Ai hồng biên dã” là gì?
Trích:
Hỏi:Tôi có mua cuốn Thành ngữ Hán Việt của tác giả Ông Văn Tùng (NXB Văn hoá Thông tin, 1997). Trong đó có thành ngữ Ai hồng biên dã 哀 鴻 遍 野, và được giải thích: “Tiếng kêu bi thương của con chim hồng ở nơi biên dã xa xôi. Nghĩa bóng: tiếng kêu thê thảm của những người dân bị đày ải, hoặc những nạn nhân của chiến tranh, lũ lụt, hoả tai” (tr.13). Tôi tra tự điển không thấy từ “biên dã”. Xin hỏi “biên dã” là gì, có phải là “vùng đồng nội nơi biên giới” hay không? (Ông T.Q.H. – Q1, TPHCM)
Trả lời: Đó là thành ngữ Ai hồng biến dã chứ không phải Ai hồng biên dã như cách phiên âm và giải thích như trong sách. Biến 遍 là “cùng khắp, mọi nơi”, như ta thường dùng trong từ “phổ biến”. Ai hồng biến dã có nghĩa là “những con chim hồng kêu thương khắp nơi, ngoài đồng nội”, dùng để chỉ cảnh người dân đói khổ, lang thang trong loạn lạc.
Thành ngữ trên được rút từ thiên Hồng nhạn trong phần Tiểu Nhã của kinh Thi. Nguyên văn như sau: “Hồng nhạn vu phi, ai minh ngao ngao” (Tạm dịch: Chim hồng chim nhạn cất cánh bay, cất tiếng kêu ai oán bi thương). Theo chú giải của Chu Hy thì chim hồng là chim lớn, chim nhạn là chim nhỏ.
Thành ngữ Ai hồng biến dã cũng có khi được viết là Ai hồng biến địa 哀 鴻 遍 地, như trong một bài từ theo điệu Thuỷ long ngâm của Hoàng Khản: “Thiên nhai ngâm vọng, ai hồng biến địa, đô thành sầu lữ” (Tạm dịch: Nơi chân trời ngâm vịnh ngóng trông; những cánh chim hồng lạc loài kêu thương khắp nơi; (chúng) đều trở thành những bạn (của ta) trong nỗi sầu cô lữ).
Có lẽ tác giả cuốn sách trên đọc nhầm chữ biến 遍 thành chữ biên 邊 vì hai chữ na ná giống nhau, và từ đó suy diễn thêm thành “nơi biên dã xa xôi”. Hiện tượng đọc nhầm các chữ Hán có tự dạng gần giống nhau thỉnh thoảng vẫn xảy ra, ngay cả đối với người xưa.
Cái “đình” trong “đình làng” có phải là “đình” trong “triều đình” không?
Trích:
Hỏi:Cháu là sinh viên đang làm luận văn về Đình làng Việt Nam, nên cần một số tư liệu về đình làng. Vừa rồi, trong Kiến Thức Ngày Nay số 635 ra ngày 1.4.08, trong bài Đình làng của tác giả Huỳnh Kim Bửu có đoạn viết vế một cụ già giải thích chữ “triều đình” như sau: “Triều là nơi của vua, của cả nước, còn đình là nơi của hương lý, của làng. Vạn làng hợp lại thành nước. Làng yên vui thì nước yên vui, thái bình”. Xin hỏi cái “đình” trong “đình làng” có phải là “đình” trong “triều đình” hay không?
Cháu nhờ báo Kiến Thức Ngày Nay giới thiệu thêm một số tư liệu nghiên cứu về đình làng Việt Nam (bằng tiếng Việt). (Cô T.K. - TP Vinh)
Trả lời: Ý kiến của cụ già trong bài viết cũng là một ý kiến ngộ nghĩnh, là lạ, song ở đây cụ bị nhầm lẫn về từ Hán Việt đồng âm dị nghĩa.
Cái đình trong đình làng được viết là 亭. Xét về từ loại là danh từ thì nó có hai nghĩa như sau:
1. Nghĩa 1: Đình là ngôi nhà nhỏ nằm ở bên đường hoặc trong vườn để khách vãng lai hoặc khách đến chơi nghỉ ngơi, ngắm cảnh; như thuỷ tâm đình là cái nhà thuỷ tạ giữa lòng hồ. Ngày xưa, dọc đường người ta thường xây các ngôi nhà nhỏ để khách bộ hành nghỉ chân hoặc để hóng mát, gọi là trường đình 長 亭, hoặc lương đình 涼 亭.
Chắc cô còn nhớ đến “trường đình” qua các câu thơ:
“Bề ngoài mười dặm trường đình. Vương ông mở tiệc tiển hành đưa theo”. (Kiều, 873-875) [1]
Hoặc:
“Xa trông mười dặm trường đình. Thờ ơ mặt ngọc da xanh mấy phần”. (Tây sương ký, Vương Thục Phủ, chương Tiệc khóc, Nhượng Tống dịch).
2. Nghĩa 2: Đình là đơn vị hành chính thời Tần, Hán. Theo Hán thư thì cứ mười dặm là một đình, mười đình là một làng. (Thập lý vi đình, thập đình vi hương). Đại khái cứ độ mươi thôn xóm là một đình.
Người đứng đầu một làng là đình trưởng [2]. Chúng ta chắc không ai không biết đến viên đình trưởng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc là Hán Cao Tổ Lưu Bang, người mở đầu cho sự nghiệp 500 năm của nhà Hán.
Chính cái đình đó mới đúng là đình của đình làng.
Còn đình trong triều đình được viết là 廷 có nghĩa là “nơi vua cho quần thần triều kiến hoặc ban hành chính lệnh”. Có lẽ cô từng quen với chữ đình này qua khái niệm “thi đình” (từ Hán Việt là “đình thí”) trong lịch sử khoa cử Trung Quốc và Việt Nam, hoặc triều đình, cung đình….
Vậy giữa hai chữ đình này không có quan hệ gì với nhau cả.
Tư liệu về đình làng có khá nhiều trên mạng Internet. Ngoài các cuốn biên khảo về phong tục Việt nam của các tác giả Toan Ánh, Phan Kế Bính có bàn về đình làng, hoặc bài Phóng sự cái đình của nhà văn Ngô Tất Tố, thì cuốn sách bàn về cái đình với những suy tư mang tính triết học đặc sắc, theo chúng tôi, vẫn là cuốn Triết lý cái đình của cố giáo sư Kim Định. Cô có thể tìm cuốn này rất dễ dàng trên mạng. Chúc cô làm luận văn tốt.
(KTNN số 638, ngày 01.05.2008)
----------------------------
Chú thích của Goldfish:
[1] Có lẽ “Kiều, 873-874” đã bị in nhầm thành “Kiều, 873-875”. Theo bản Truyện Kiều đăng trên trang http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/kieu/call_0805_1056.html thì hai câu thơ trên là 871 và 872
[2] Từ “đình trưởng” trong câu “Tới sau đình trưởng đỗ thuyền/Giúp người Hạng Võ qua miền Ô-giang” trong truyện Lục Vân Tiên được chú thích (không rõ người chú thích) như sau: “Ðình trưởng: đời Tần, Hán, cứ mười lý đặt làm một đình, có đình trưởng coi giữ trộm cướp. Ðình còn gọi là những quán nghỉ lập dọc đường, năm dặm một “đoản đình”, mười dặm một “trường đình”.” (Nguồn: http://4vn.net/thivancodien/luc.van....t1000-1199.htm :-O có trang này à). Chú thích này cũng tương tự với ghi nhận của Nguyễn Bá Lăng trong tác phẩm Đình Làng Việt Nam (tải tại http://tieulun.hopto.org:25000/downl...inhLangVietNam, dạng PDF)
Trong Tiếu ngạo giang hồ, Nhậm Ngã Hành thoát khỏi địa lao ở Tây Hồ để bắt đầu chuyện phục hưng, tại sao Chung Trấn lại nói Nhậm phục hưng cơ nghiệp ở Đông Sơn? Địa danh Đông Sơn ở đâu?
Trích:
Hỏi:Tôi đang đọc bộ “Tiếu ngạo giang hồ” qua bản dịch của Hàn Giang Nhạn xuất bản ở miền Nam trước năm 1975. Trong hồi 132 của cuốn 8, Lệnh Hồ Xung giả làm Ngô Thiên Đức đánh bại phái Tung Sơn để cứu Định Tính sư thái; bọn Tung Sơn tưởng lầm Lệnh Hồ Xung là Nhậm Ngã Hành cải trang nên có đoạn như sau:
“Chung Trấn chấp tay nói:
Các hạ phục hưng cơ nghiệp ở Đông Sơn. Chung mỗ tự biết mình không địch nổi, vậy hãy xin tạm biệt, sau này có ngày tái ngộ”.
Trong truyện thì Nhậm Ngã Hành ra khỏi địa lao ở dưới đáy Tây Hồ để bắt đầu chuyện phục hưng cơ nghiệp, thì làm sao lại là Đông Sơn được? Do đâu mà có Đông Sơn ở đây? Đông Sơn là địa danh ở đâu? Xin cho biết thêm về Đông Sơn. (Ông Phan Tần, Bình Quới, TPHCM)
Trả lời: Chúng tôi đã thử đối chiếu với nguyên tác (tập 30, trong bộ bốn cuốn 28-31) thì thấy viết là “Các hạ trùng lâm giang hồ. Chung mỗ tự tri bất thị đối thủ, tựu thử biệt quá”. Nghĩa các câu này đại khái cũng giống câu ông trích dẫn, song đúng là chỉ có chuyện “trùng lâm giang hồ”, nghĩa là “quay trở lại giang hồ” hoặc “tái xuất giang hồ” chứ hoàn toàn không có liên quan gì đến hai chữ “Đông Sơn”.
Tại Việt Nam, đối với các tác phẩm của Kim Dung thì Hàn Giang Nhạn [1] được xem là dịch giả tài hoa nhất từ trước đến nay. Điều đó chúng tôi tin rằng bất kỳ ai đọc Kim Dung qua bản dịch của ông đều không thể phủ nhận. Song thuở sinh tiền, ông dịch tác phẩm “Tiếu ngạo giang hồ” theo bản Minh báo, là dạng nhật báo được gởi từng ngày từ Hồng Kông sang Sài Gòn, nên nội dung có khác với bản hiệu đính sau này của Kim Dung.
Chúng tôi không có được bản gốc của Minh báo nên chỉ đoán là có thể trong nguyên tác cũ trong Minh báo có thành ngữ “Đông Sơn tái khởi” hoặc “Đông Sơn phục khởi”, do đó mới có câu văn dịch ở trên.
Tây Hồ là địa danh ở tỉnh Hàng Châu và Đông Sơn là địa danh ở tỉnh Triết Giang, dĩ nhiên không có liên quan gì với nhau về mặt địa lý. Song hai chữ Đông Sơn lại gắn liền với một điển cố văn học Trung Quốc.
Đời Đông Tấn, Tạ An từ quan về ẩn ở Đông Sơn, triều đình nhiều lần mời ra nhậm chức song ông đều từ chối. Ông là danh sĩ bậc nhất của Trung Nguyên lại nổi tiếng phong lưu nên được nhiều người đương thời hâm mộ. Do đó, người đời sau thường dùng điển cố Đông Sơn để chỉ nơi ẩn cư hoặc việc ẩn cư của các bậc danh sĩ.
Thơ Vương Duy có câu:
Ngô đệ Đông Sơn thời
Tâm thượng nhất hà viễn.
(Tạm dịch: Em ta khi về ở ẩn, tấc lòng vời vợi mênh mông).
Lý Bạch cũng có bài Ức Đông Sơn (Nhớ Đông Sơn) nổi tiếng như sau:
Ngã kim huề Tạ kỹ
Trường khiếu tuyệt nhân quần.
Dục báo Đông Sơn khách
Khai môn tảo bạch vân. [2]
(Tạm dịch:
Ta nay ôm kỹ nữ
Cười lớn, xa loài người
Muốn báo Đông Sơn khách
Mở cửa quét mây trôi)
Thơ Nguyễn Trãi trong bài Mạn Thành – Kỳ III có câu:
Dữ thế tiệm sơ đầu hướng bạch
Đông Sơn nhật nhật phú qui dư. [3]
(Tạm dịch:
Dần cách xa dời, đầu chớm bạc
Ngày ngày nuôi mộng hướng Đông Sơn).
Về sau Tạ An lại xuất chính, làm quan đến chức Tư đồ. Do đó, thành ngữ “Đông Sơn tái khởi” hoặc “Đông Sơn phục khởi” được dùng như một điển cố văn học để chỉ những người thất thế mà trùng hưng được thanh thế; hoặc nói theo ngôn ngữ hiện nay thì đó là chuyện quay trở lại vũ đài chính trị và tạo dựng sự nghiệp.
Thành ngữ này áp dụng trong trường hợp ông vừa trình bày là hoàn toàn đúng, vì Nhậm Ngã Hành thoát khỏi địa lao để đoạt lại ngôi vị giáo chủ Triêu Dương thần giáo từ tay Đông Phương Bất Bại. Có thể khi biên tập lại, ông Kim Dung thấy thành ngữ “Đông Sơn tái khởi” hoặc “Đông Sơn phục khởi” nặng nề điển cố, khó hiểu nên trong bản hiệu đính, ông sửa lại thành: “Các hạ trùng lâm giang hồ” để tác phẩm có thể tiếp cận với đại đa số độc giả Trung Quốc vùng lục địa.
Người Trung Quốc lục địa hiện nay cũng hiểu biết rất hời hợt về các điển cố văn học cổ của họ, do hậu quả khốc liệt của những cuộc “Đại cách mạng văn hoá”. Như nhà văn nổi tiếng Trung Quốc là Vương Sóc cũng thú nhận không hề biết Lão Tử là ai (một điều khó lòng tưởng tượng nổi đối với một người đọc sách bình thường tại Việt Nam). Từ đó, ông có thể suy ra vì sao Kim Dung bỏ điển cố này khi hiệu đính tác phẩm của mình.
Nếu thành ngữ “Đông Sơn tái khởi” hoặc “Đông Sơn phục khởi” có trong bản Minh báo, theo như phỏng đoán của chúng tôi, thì rõ ràng câu văn dịch của dịch giả Hàn Giang Nhạn đã có chút nhầm lẫn, vì theo tinh thần trong thành ngữ đó thì chuyện trùng hưng sự nghiệp không hề dính dáng gì đến địa phận Đông Sơn, mà đó chỉ là địa danh mang tính điển cố. Đây chỉ là một sơ sót nhỏ do dịch vội vã theo dạng báo ngày; bản dịch “Tiếu ngạo giang hồ” của dịch giả Hàn Giang Nhạn, cũng như những bản dịch khác của ông, đều là những bản dịch gần như toàn bích.
(KTNN số 641, ngày 01.06.2008)
Chú thích của Goldfish:
[1] Hàn Giang Nhạn tên thật là Bùi Xuân Trang (1909-1979). Hai bút danh khác là Thứ Lang và Vô Danh Khách.
[2] Diệp luyến hoa dịch: Nay mang nàng Tạ kỹ,
Thở dài lánh người đời.
Báo khách Đông Sơn nọ,
Mở cửa quét mây mù
[3] Lê Cao Phan dịch: Vừa lánh xa đời đầu đã bạc
Đông Sơn chốn ẩn muốn về ư?
Nhân đây xin được nói thêm là tác giả Liêu Hân vắng mặt trên KTNN số 639 và số 640, nay “tái xuất giang hồ” trên mục CĐCT - KTNN số 641 này.
Hỏi:Sau 1975, tôi thường được nghe các từ là lạ như “khủng bố trắng” hay “nhạc vàng”. Ý nghĩa của nó thì tôi cũng hiểu, song không biết chúng có xuất xứ từ đâu, vì tôi sống ở miền Nam, và trước năm 1975 chưa bao giờ nghe đến các từ này. Xin nhờ báo Kiến Thức Ngày Nay giải đáp. (Ông Lê Công Thi – Bình Quới)
Trả lời: Đây là những từ được dịch trực tiếp từ những thuật ngữ trong tiếng Hán hiện đại, gần như sát nghĩa:
a.“Khủng bố trắng” được dịch từ thuật ngữ “bạch sắc khủng bố”, dùng để chỉ chiến dịch khủng bố và tàn sát bằng bạo lực trên qui mô lớn.
b.“Nhạc vàng” được dịch từ thuật ngữ “hoàng sắc âm nhạc” dùng để chỉ những loại nhạc thiên về tình cảm sướt mướt, uỷ mị. Theo giáo sư Tô Vũ, thuật ngữ này đã xuất hiện vào các năm 1952-1953 tại Trung Quốc trên những chuyên san âm nhạc Bắc Kinh và Thượng Hải, trong chiến dịch bài trừ tàn dư văn hoá cũ.
Trong tiếng Hán hiện đại, từ hoàng sắc bên cạnh nghĩa chính là “màu vàng” quen thuộc, như hoàng sắc chủng tộc là “chủng tộc da vàng”, còn được dùng để chỉ những gì có tính vàng vọt, thiếu sức sống, hoặc hàm nghĩa đồi truỵ, suy đồi. Tự điển Hoa-Anh Welin (Văn Lâm) có liệt kê một số từ theo nghĩa này:
- Hoàng sắc điện ảnh: phim khiêu dâm (pornographic movie).
- Hoàng sắc ca khúc: ca khúc uỷ mị, suy đồi (decadent music/songs)
- Hoàng sắc công hội: tổ chức của các cô gái bán dâm (prostitutes’ union).
- Hoàng sắc thư san: sách/tạp chí khiêu dâm (pornographic books and magazines).
Ở nước ta, do ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc nên các nhà nghiên cứu thường dùng thuật ngữ “nhạc vàng” khi phê bình âm nhạc, nhất là thể loại nhạc tình của miền Nam trước 1975, để phân biệt với loại “nhạc xanh” chỉ những ca khúc “lãng mạn cách mạng”, hoặc loại “nhạc đỏ” để chỉ những ca khúc hùng tráng, mang tính chiến đấu. Có điều lạ là trong tiếng Hán hiện đại lại không có các thuật ngữ “thanh sắc âm nhạc” để chỉ “nhạc xanh” hoặc “hồng/xích sắc âm nhạc” để chỉ “nhạc đỏ”, mà chỉ có “hoàng sắc âm nhạc” để chỉ “nhạc vàng”.
Song theo thiển ý của chúng tôi, âm nhạc cũng như thơ văn đều là phương tiện dùng nghệ thuật để biểu hiện tâm tư tình cảm, chỉ nên phân thành hai loại: hay và dở. Vậy thôi.
Góp ý về hai từ “Tam sên” và câu ca dao “Dù cho ông ký ông cai/Ăn cơm no bụng thấy khoai cũng thèm”
Trích:
1. Hai từ Tam Sên [1] được ông giải thích rất rõ ràng và ngắn gọn. Ý kiến của ông về những lễ vật trong Tam Sên có tính trung dung rất hợp với cách hiểu đạo và hành đạo của một số lớn người Việt Nam chúng ta. Cách lý giải vì sao ông chọn con tôm, con cua và trứng vịt rất ấn tượng. Đúng vậy, điều quan trọng là cái “Tâm thành” chớ không phải là giá trị của lễ vật như thể hiện trong câu “À chaque saint sa chandelle” (tạm dịch: Thần nào lễ nấy – LH) của người Pháp.
2. “Dù cho ông ký ông cai/Ăn cơm no bụng thấy khoai cũng thèm”:
Trong vốn tục ngữ của người Việt chúng ta có một câu đồng nghĩa rất dễ hiểu (vì chỉ có nghĩa đen) có thể dùng để giải thích được câu được yêu cầu giải nghĩa. Đó là: “Đàn ông thấy gái lạ như quạ thấy gà con”. Trong câu này, cái bản chất của nam giới là thích của “lạ”. Cái “đẹp” trong câu này hoàn toàn không được nói đến, vì dù “củ” gì đi chăng nữa, khoai lang, khoai mì, khoai sáp hay khoai sọ, thì con cái họ nhà khoai chẳng bao giờ được dùng làm ẩn dụ để chỉ cái đẹp cả.
“Của lạ” mới là lực hút nam giới. Quan điểm này của người phương Đông hoàn toàn giống với quan điểm của phương Tây.
Người Pháp nói:
- Tout nouveau, tout beau (tục ngữ).
- Changement de corbillon fait trouver la pain bon (tục ngữ).
- Tout plaisir de l’amour est dans le changement (Molière, Don Juan).
Người Anh nói:
- Variety is the sprice of life (tục ngữ).
- Changing of works is lighting of hearts (tục ngữ).
- Change of pasture makes fat calves.
Trân trọng chào ông và kính chúc ông vui mạnh. (Ông Trần Ngọc Tân - 3/137 Cư xá Lữ Gia, P.15, Q.11, TPHCM)
Trả lời: Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và góp ý của ông với chuyên mục Chuyện Đông Chuyện Tây. Những câu tục ngữ phương Tây ông trích dẫn để minh hoạ cho câu ca dao: “Dù cho ông ký ông cai/Ăn cơm no bụng thấy khoai cũng thèm” nghe rất lý thú.
Đúng như ông nói, chính cái “lạ” mới là hấp lực đối với phái nam. Người dân quê chúng ta, dù không phải là những chàng Don Juan đa tình lãng mạn trong văn học phương Tây, nhưng chắc cũng hiểu được “Tout plaisir de l’amour est dans le changement” (tạm dịch: Mọi điều lý thú của tình yêu đều nằm trong sự mới lạ - LH) qua câu tục ngữ: “Của lạ bằng tạ đường phèn” hoặc dân dã hơn: “Của lạ bằng tạ khoai lang”. Ngọt như “một tạ đường phèn” và bùi như “một tạ khoai lang” chắc là đỉnh điểm của “Tout plaisir de l’amour”.
Gần đây, chúng tôi thường nghe một bài thơ dân gian rất dí dõm, so sánh cái lạ của “khoai” bằng khái niệm “quà”, theo nghĩa là món ăn vặt, ăn dặm. Chúng tôi xin ghi lại đây để ông và quí độc giả đọc cho vui. Bài thơ như sau:
Ai ai cũng thích ăn quà
Nhưng tối về nhà lại phải ăn cơm.
Ăn cơm như thể nhai rơm (?)
Nên ta cứ phải vừa cơm vừa quà!
Rất mong có dịp được trao đổi với ông ở ngoài đời. Kính.
(KTNN số 641, ngày 01.06.2008)
Chú thích của Goldfish:
[1] Trong KTNN số 633, ngày 10.03.2008 ghi là Tam sênh (Liêu Hân cho là do đọc trại chữ Tam sinh mà ra)