Ghi chú đến thành viên
Ðề tài đã khoá
 
Ðiều Chỉnh
  #236  
Old 02-06-2008, 03:18 PM
ngocvosong1986's Avatar
ngocvosong1986 ngocvosong1986 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 960
Thời gian online: 1 ngày 14 giờ 25 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 156 Times in 8 Posts
Hồi 235


Nịnh không phải đường bị quở trách

Vi Tiểu Bảo đáp:
- Liệng súng lên đi!
Cửa động lấp loáng ánh bạch quang. Một thanh mã đao quăng ra. Tiếp theo một vùng lửa cháy nhô lên.
Nguyên tên quân La Sát này đầu tóc đang bị cháy đỏ hồng.
Đội thân binh canh giữ ngoài cửa nghe tiếng đại soái ở trong phòng quát tháo liền có một bọn chạy vào. Bảy tám tên giữ lấy hai tên quân La Sát, dập tắt lửa cháy trên râu tóc bọn chúng rồi trói lại.
Đột nhiên Vi Tiểu Bảo trỏ vào một tên quân La Sát hô:
- Ô kìa! Ngươi là Vương Bát Tử Kê.
Tên quân đó lộ vẻ vui mừng reo lên:
- Dạ dạ! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài chính là Hoa Bá Tư Cơ.
Một tên nữa cũng reo lên:
- Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài... là Tề Lạc Nặc Phu.
Vi Tiểu Bảo chú ý nhìn hắn thấy hàm râu cháy xém tơi bời, mặt mũi chỗ đỏ chỗ sưng, nhưng sau gã cũng nhận ra liền đáp:
- Phải rồi! Ngươi là Trư La Nọa Phu.
Tề Lạc Nặc Phu cả mừng hô:
- Đúng lắm, đúng lắm! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài là bạn cũ của đại nhân.
Nguyên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là hai tên vệ sĩ của Tô Phi á Công chúa. Ngày trước chúng đã làm quen với Vi Tiểu Bảo ở thành Nhã Tát Khắc rồi lại cùng đi Mạc Tư Khoa.
Hai tên vệ sĩ này hồi ở Liệp cung đã theo bọn lính súng làm phản lập được chút công lao.
Khi Tô Phi á Công chúa lên nắm quyền quốc chính liền thăng quan cho bọn vệ sĩ hầu cận để đền công chúng đã tùy tùng và ra sức.
Chuyến này có bốn tên vệ sĩ đi theo Đồ Nhĩ Bố Thanh trong cuộc Đông tiến và chúng đều làm Đội trưởng. Trong bọn một tên chết trận, một tên chết rét.
Còn lại hai tên này gặp cơn binh biến, thành vỡ, lén lút chui xuống đường hầm định trốn ra ngoài thành, không ngờ cửa ra đã vít chặt. Hai tên hết đường tiến thoái rồi tung tích bị bại lộ.
Ngày trước Vi Tiểu Bảo kêu chúng bằng Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu (Nguyên Hoa Bá Tư Cơ đọc hơi giống Vương Bát Tử Kê nghĩa là gà chết khốn nạn, Tề Lạc Nặc Phu đọc tương tự Trư La Nọa Phu nghĩa là chó lợn hèn hạ. Vi Tiểu Bảo hô tên chúng như vậy cho dễ nhớ và cũng là để chế diễu chúng).
Hai tên này đâu có hiểu được ý nghĩ của Vi Tiểu Bảo, chúng vui vẻ chịu liền, hễ gọi đến tên Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu là chạy tới ngay.
Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu nghe Công chúa kêu Vi Tiểu Bảo là "Trung Quốc tiểu hài", ban đầu chúng cũng xưng hô gã như vậy. Sau Vi Tiểu Bảo lập được công trạng, Công chúa phong tước cho gã. Bọn vệ sĩ mới kêu gã bằng "Trung Quốc tiểu hài đại nhân" để tỏ lòng tôn kính.
Vi Tiểu Bảo hỏi rõ lai lịch rồi sai bọn thân binh cởi trói và lấy rượu thịt khoản đãi chúng.
Bọn thân binh sợ dưới đường hầm còn có gian tế liền chui xuống soát hết một lượt, lại điều tra khắp mọi chỗ thì trong phòng ngoài đường hầm này không có địa đạo cùng ngõ ngách nào khác, chúng mới lui ra.
Tên đội trưởng bọn thân binh sợ hãi vô cùng, luôn miệng xin tha tội. Hắn nghĩ rằng đây là cái may tầy đình... Nếu hai tên quân La Sát này chờ tới nửa đêm ở dưới đường hầm chui lên đâm chết Vi đại soái thì hắn sẽ bị toàn gia tru lục.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo kêu Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ra hỏi thăm tình hình Tô Phi á Công chúa.Hai tên cho gã hay:
Công chúa điện hạ nắm hết công việc triều chính. Vương công đại thần, tướng quân, chủ giáo trong toàn nước La Sát không ai dám chống cự nàng. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, nhất thiết đều nghe theo lời tỷ tỷ.
Tề Lạc Nặc Phu còn nói:
- Công chúa điện hạ vẫn tưởng nhớ Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Điện hạ dặn bọn nô tài tới đây dò la tin tức của đại nhân và hễ gặp đại nhân thì mời qua Mạc Tư Khoa du ngoạn, điện hạ sẽ ban thưởng cho.
Hoa Bá Tư Cơ nói:
- Công chúa điện hạ chưa biết Trung Quốc tiểu hài đại nhân đem binh đến đây chinh phạt. Nếu không thì hai bên thân ái vui vẻ như tình bằng hữu. Cuộc chiến cũng không xảy ra nữa.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Các ngươi nói nhăng nói càn để lừa gạt ta. Làm gì có chuyện Công chúa dặn dò như vậy?
Hai tên liền thề sống thề chết là đã nói đúng sự thực, không nửa lời sai trái.
Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng:
- Bản tâm Hoàng thượng muốn ta nghĩ cách giảng hoà cùng La Sát. Vậy ta bảo hai tên này về tâu lại với Tô Phi á Công chúa cũng chẳng hề gì.
Gã nghĩ vậy liền nói:
- Ta muốn gửi thư cho Công chúa các ngươi, nhưng không biết viết chữ ngoằn ngoèo như giun bò của nước La Sát, vậy các ngươi viết giùm ta.
Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngơ ngác nhìn nhau ra chiều khó nghĩ. Cả hai tên này chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn chuyện viết chữ thì chẳng hiểu gì.
Tề Lạc Nặc Phu đáp:
- Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Đại nhân muốn viết thư tình thì bọn nô tài không làm được. Để nô tài... đi kêu một vị giáo sĩ đến viết dùm cho.
Vi Tiểu Bảo ưng ngay, sai chúng đi kiếm trong bọn người La Sát đã đầu hàng.
Lát sau hai tên dẫn vào một vị giáo sĩ râu quai nón.Thời bấy giờ phần lớn quân nhân La Sát không biết chữ. Những giáo sĩ đi theo trong quân ngoài việc cầu đảo Thượng đế, khích lệ chiến sĩ, còn chức vụ trọng yếu là viết gia thư giùm cho các binh tướng.
Vị giáo sĩ này người cao lớn lại vận quân phục của Thanh binh, áo quần chật hẹp như người đóng rọ rất tức cười.
Giáo sĩ sợ run bần bật theo hai tên đội trưởng vào tham kiến Vi Tiểu Bảo. Y hô:
- Cầu đức Thượng đế ban phước lành cho Trung Quốc đại tướng quân! Đại tước gia! Cầu chúc Trung Quốc đại tướng quân toàn gia an bảo.
Vi Tiểu Bảo bảo y ngồi xuống rồi nói:
- Ngươi viết cho ta một phong thư gửi đến Tô Phi á Công chúa.
Giáo sĩ vâng dạ luôn miệng.
Bọn thân binh đã lấy văn phòng tứ bảo để trên bàn.
Giáo sĩ tay cầm bút lông, mở to giấy bản, viết chữ La Sát ngùng ngoèo.
Y nhận ra cây bút lông mềm nhũn quá, nét chữ chỗ lớn chỗ nhỏ coi rất tức cười, nhưng y tuyệt nhiên không dám bình luận gì về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ vị Trung Quốc tướng quân này nổi giận.
Vi Tiểu Bảo nói:
Ngươi theo lời ta đọc mà viết:
- "Sau buổi chia tay, lúc nào ta cũng tưởng nhớ Công chúa, chỉ mong lấy được nàng làm vơ...." Giáo sĩ giật bắn người lên. Tay run rẩy, ngọn bút lông chấm xuống giấy một vết mực lớn.
Tề Lạc Nặc Phu đứng bên cổ vũ giáo sĩ:
- Vị Trung Quốc tiểu hài đại nhân này là người yêu của Tô Phi á Công chúa điện hạ. Công chúa điện hạ rất thương mến đại nhân. Điện hạ thường nói tình nhân Trung Quốc hay hơn tình nhân La Sát gấp trăm lần.
Hắn muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo nên đã phóng đại ra như vậy.Vị giáo sĩ vâng dạ luôn miệng, đáp:
- Phải rồi! Phải rồi! Hơn gấp trăm lần, hơn gấp trăm lần...
Trong lòng hồi hộp, văn tứ trì trệ, nhưng y không dám dừng bút nghĩ ngợi, đành dùng những câu thường nhật đã viết giùm binh tướng La Sát gửi cho vợ con hoặc tình nhân ở cố hương và toàn là những câu tha thiết về thể xác. Nào là "Có gần gũi mới thỏa lòng", nào là "Đêm qua ta lại mộng thấy mình", nào là "Hôn mình muôn ngàn cái"... v.v Vi Tiểu Bảo thấy giáo sĩ cầm bút viết như gió cuốn, rất lấy làm thỏa mãn. Gã đọc tiếp:
- "Quân La Sát của nàng chiếm đất Trung Quốc của ta và giết tróc trăm họ người Trung Quốc. Trung Quốc đại Hoàng đế tức giận vô cùng, phái ta đem quân đến đây để bắt hết bọn binh tướng của nàng xẻo từng miếng thịt nướng thành Hà Thư Ni Khắc... " Giáo sĩ lại giật mình kinh hãi, bất giác bật tiếng la:
- Trời ơi!
Rồi miệng hô:
- Lạy đức Thượng đế! Lạy đức Thượng đế!
Vi Tiểu Bảo đọc tiếp:
- "Nhưng ta nể mặt Công chúa, tạm thời hãy để chúng đó, chưa xẻo thịt nướng chả. Nếu nàng ưng chịu từ nay trở đi không cho quân La Sát đến xâm phạm cương giới Thanh thì ta sẽ tha hết bọn chúng. Đồng thời Trung Quốc và nước La Sát vĩnh viễn thành tình bằng hữu.
Bằng nàng không chịu nghe lời, ta sẽ phái binh đến giết cho kỳ hết đàn ông La Sát, nàng không còn nam nhân để ngủ chung nữa. Nếu nàng muốn ngủ chung với nam nhân thì khắp thiên hạ chỉ có đàn ông Trung Quốc mà thôi".
Giáo sĩ rất lấy làm bất phục, bụng bảo dạ:
- Trong thiên hạ ngoài đàn ông La Sát, bao nhiêu nước khác thiếu gì nam nhân, há phải riêng một Trung Quốc mới có? Câu này thật vô lý không thể viết vào được.Y lại nhận định viết thư lên Công chúa điện hạ, nhất thiết không thể hành văn một cách vô lễ. Y liền nhất quyết đổi mấy câu này vừa tỏ ra kính cẩn vừa đầy vẻ thân mật.
Giáo sĩ tiên liệu vị tướng quân Trung Quốc này không biết chữ La Sát, tất chẳng khám phá ra nổi. Nhưng bản tính thận trọng, y sợ Vi Tiểu Bảo nhìn thấy chỗ sơ hở liền viết bằng chữ La Tinh. Thỉnh thoảng trên môi lại điểm một nụ cười.
Vi Tiểu Bảo đọc tiếp:
- "Nay ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu đưa phong thư này đến tay nàng, lại tặng lễ vật cho nàng nữa. Nàng muốn làm tình nhân hay là kẻ thù của ta, cái đó tự nàng quyết định lấy" Giáo sĩ còn đem mấy câu sau cùng đổi thành lời văn rất kính cẩn. Y viết:
- "Kẻ tiểu thần ở Trung Quốc lúc nào cũng nhớ đến ân thâm đức trọng của điện hạ. Nay kính cẩn dâng đồ cống vật để tỏ chút dạ trung thành.
Tiểu thần còn sống ngày nào, năm nào cũng là kẻ thần hạ trung tâm bất nhị ngày ấy năm ấy của điện hạ.
Tiểu thần chỉ mong lưỡng quốc hòa hợp. Những quân La Sát hiện còn ở Nhã Tát Khắc mà được trùng qui cố thủ đều là nhờ ơn đức cao dầy của điện hạ" Mấy câu sau cùng do tâm tư của giáo sĩ nghĩ ra. Y cho rằng vạn nhất cuộc nghị hòa của hai nước không thành thì y cùng bao nhiêu người La Sát đầu hàng tất phải chết vùi chết dập ở nơi tha hương đất khách, vĩnh viễn không mong gì trở về quê quán.
Vi Tiểu Bảo chờ giáo sĩ viết xong, nói:
- Hết rồi! Ngươi đọc lại cho ta nghe.
Giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đứng nghiêm trang tuyên đọc. Những chỗ nào y thay đổi vẫn đọc theo ý của Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo hiểu biết tiếng La Sát chẳng được bao nhiêu, gã nghe giáo sĩ đọc lại chắc là không sai trật. Gã lại tiên liệu chẳng khi nào giáo sĩ dám tự ý thay đổi lời lẽ của mình.
Vi Tiểu Bảo nghe giáo sĩ đọc xong, nói:- Hay lắm!
Đoạn gã lấy ấn "Phủ Viễn đại tướng quân Vi" đóng dấu son vào.
Thế là phong thư này thư tình chẳng ra thư tình, công văn chẳng ra công văn, nhưng cũng xong việc.
Vi Tiểu Bảo cho giáo sĩ lui ra lĩnh thưởng. Gã lại sai vị sư gia trong doanh trại bỏ thư vào bao, ngoài đề bằng chữ Trung Quốc gửi cho Tô Phi á Công chúa.
Sư gia mài mực thật đặc, dầm bút cho kỹ. Hàng đầu viết:
- "Đại Thanh Quốc Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn Đại tướng quân Vi phụng thư".
Hàng thứ hai viết:
- "Nga La Tư Quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố Luân trưởng Công chúa điện hạ".
Nguyên hai chữ "La Sát" trong kinh Phật là một thứ quỷ dữ, nếu dùng để xưng hô nước Nga là có điều khinh mạn, nên trong văn thư kêu bằng "Nga La Tư".
Sư gia lại nhận thấy ba chữ "Tô Phi á" không được thuần nhã và chữ "Phi" nghĩa là phất phơ khiến cho người ta tưởng đến câu "Phương thảo phi phi" nghĩa là cỏ thơm phất phơ, tựa hồ có ý chê toàn người nàng đầy những lông lá, nên y đổi là "Tô Phi Hà" (Phi Hà là ráng chiều bay).
Y dùng điển cố trong câu "Lạc hà dữ cô tế tề thí" nghĩa là ráng chiều bay song song với chim trĩ. Lại có câu "Phi hà phát diện" tả cảnh đẹp ráng bay trước mặt.
Còn "Cố Luân trưởng Công chúa" là một phong hiệu rất tôn quý của một vị Công chúa Thanh triều. Em gái Hoàng đế kêu bằng trưởng Công chúa. Con gái Hoàng đế là cười.
Tô Phi á đã làm đến Nhiếp chính, lại là tỷ tỷ của hai vị Sa hoàng, dĩ nhiên nàng là Công chúa hàng đầu.
Lại nghe Vi Tiểu Bảo cười nói:
- Giữa ta và nàng Công chúa La Sát này đã có mối liên quan. Mấy năm chưa gặp, không hiểu tình trạng nàng hiện nay như thế nào?Tên sư gia liền viết vào mặt sau bao thư hai hàng chữ:
- "Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phước dã. Như nhạc chi họa vô sở bất tài.
Thỉnh dữ tử lạc chi".
Y nghĩ bụng:
- Những câu này lấy trong sách Tả Truyện, nhưng La Sát là một nước Nhung Địch chưa chắc đã hiểu được những câu trong kinh truyện nước Trung Hoa. ý nghĩa ở hai câu song quan lại càng khó hơn.
Thực ra chẳng những "Cố Luân trưởng Công chúa nước Nga La Tư" quyết chẳng thể nào hiểu được ý nghĩa sâu sắc về những chữ Trung Quốc này, mà cả đến "Đại Thanh quốc tam đẳng Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo" thì ngoài ba chữ tên mình và hai chữ "Đại", "Tiểu" là gã mù tịt.
Vi Tiểu Bảo thấy sư gia viết trên bao thư đầy những chữ là chữ, liền nói:
- Đủ rồi! Đủ rồi! Ngươi viết chữ hay lắm! Hay hơn cả tên rậm râu nước La Sát.
Gã lại dặn sư gia chuẩn bị một món lễ vật quý trọng mà là những đồ đã thu được ở trong thành Nhã Tát Khắc, chứ không tốn một đồng một chữ nào.
Vi Tiểu Bảo kêu hai tên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đến, truyền cho chúng lựa lấy một trăm người trong bọn hàng binh La Sát để làm vệ đội và lập tức đăng trình về Mạc Tư Khoa đưa thư.
Hai tên đội trưởng mừng như bắt được vàng, sì sụp lạy mãi không ngớt.
Chúng lại kéo tay Vi Tiểu Bảo ra mà hôn vào lưng bàn tay gã rất lâu.
Vi Tiểu Bảo bị hàm râu của hai tên đội trưởng xát vào lưng bàn tay ngứa ngáy không chịu được, gã bật lên tràng cười hơ hớ.
Thành Nhã Tát Khắc nhỏ bé không đủ chỗ để cho đại quân đồn trú.
Vi Tiểu Bảo liền cùng Khâm sai và Sách Ngạch Đồ thương nghị việc đóng quân. Gã phái Lang Thản, Lâm Hưng Châu lĩnh hai nghìn quân ở lại trong thành phòng thủ. Còn đại quân kéo xuống miền Nam chia ra đóng ở hai thành ái Huy và Hô Mã Nhi để chờ đợi thánh chỉ.
Đồng thời phái kỵ binh chạy về Bắc Kinh báo tin thắng trận lên Hoàng đế.Lúc ra đi, Vi Tiểu Bảo căn dặn hai tướng Lang Thản và Lâm Hưng Châu không được đào giếng hay đào đường hầm trong thành Nhã Tát Khắc.
Đại quân rầm rộ nhằm hướng Nam tiến phát.
Vi Tiểu Bảo cung bọn Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở ái Huy. Tát Bố Tố lãnh một cánh quân đóng ở Hô Mã Nhi.
Vi Tiểu Bảo nhàn rỗi không có việc gì làm, chỉ uống rượu đánh bạc vui chơi, bất tất phải tường thuật.
Gã sai hàng binh La Sát mặc quân phục Thanh binh và phái người dạy tiếng Trung Hoa, cần cho chúng thuộc lòng những câu "Nga hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế"... "Trung Quốc Hoàng đế đức bì tứ hải, uy chấn tuyệt vực"... "Vạn tuế gia thần thánh văn võ, Hoàng ân hạo đăng"... "Thánh Thiên tử vạn thọ vô cương"...
Đó toàn là những câu cầu chúc và phụng sự nhà Vua.
Sau khi bọn hàng binh La Sát thuộc kỹ những câu này rồi, Vi Tiểu Bảo phái binh đưa chúng về Bắc Kinh và dặn chúng khi đi qua những đường phố tại kinh thành phải hô lớn những khẩu hiệu đã thuộc kỹ. Nhất là lúc vào triều kiến Vua Khang Hy càng phải hô thật lớn. Gã bảo chúng:
Tên nào hô càng lớn, đức Hoàng thượng càng ban thưởng nhiều.
Sau hơn một tháng, Vua Khang Hy ban chiếu thư đến khen ngợi nhiệt liệt các tướng sĩ xuất chinh.
Vi Tiểu Bảo được thăng tước Nhị Đẳng Lộc Đỉnh Công. Kỳ dư các tướng sĩ đều được thăng thưởng.
Viên Khâm sai truyền chỉ lại giao cho Vi Tiểu Bảo một cái hộp gỗ niêm phong sơn đỏ nói là của đức Hoàng thượng ngự tứ.
Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ Ơn, mở hộp gỗ coi, gã không khỏi ngẩn người.
Nguyên trong hộp gỗ đựng một cái bát ăn cơm bằng Hoàng kim, trong bát khắc bốn chữ "Gia quan tấn tước" phảng phất giống như cái bát mà Thi Lang đã tặng gã ngày trước. Có điều những hoa văn và tự tích bị sây sứt thì đã được tu bổ hoàn chỉnh.Vi Tiểu Bảo nhớ lại cái bát vàng này ngày trước để ở Bá Tước phủ trong hẻm Đông Mạo. Đêm hôm ấy, gã hoang mang chạy trốn không kịp đem theo. Sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu, gã hiểu liền ra lý lẽ.
Đêm hôm ấy chắc là sau khi nổ súng bắn vào Bá Tước Phủ, đội quân Tiền Phong Doanh nhặt nhạnh những đồ vật còn lại, cả những thứ bị sứt mẻ cũng kê vào thành đơn phúc trình Hoàng thượng.
Cái bát vàng này tuy đã vỡ nhưng chưa đến nỗi tan tành. Nhà Vua liền sai thợ hàn gắn lại và bây giờ ban cho gã.
Dĩ nhiên nhà Vua muốn nhắn nhủ gã:
Cái bát vàng gã đã bị sứt mẻ một lần, phen này phải giữ gìn cẩn thận đừng để nó phải tan tành.
Vi Tiểu Bảo nghĩ vậy rồi tự nhủ:
- Tiểu Hoàng đế đã dùng nghĩa khí đối đãi với ta thì ta cũng phải có đi có lại, không đào hầm hố để khỏi tổn thương long mạch mà gây tai hại đến vận mạng của ngài.
Qua mười mấy bữa nữa, Vua Khang Hy lại ban thượng dụ tới nơi. Lần này ngài nặng lời quở trách, phán rằng:
Vi Tiểu Bảo có những hành động phá quấy vì gã bắt hàng binh La Sát hô khẩu hiệu "Vạn thọ vô cương" là một điều rất đáng buồn.
Trong thượng dụ nói:
- "Bậc nhân quân giữ việc chăn dắt nhân dân phải thể theo lòng trời, thương yêu bách tính".
"La Sát tuy là nước Man Di, xa với vương hóa, nhưng dân tộc nước này cũng là người. Chúng đã quy thuận hàng phục, thì không thể khinh nhờn vũ nhục họ được".
"Ngươi đã làm đại thần nên can gián quân thượng những điều tàn tệ, thi hành nhân chính tới muôn dân".
"Nếu trẫm có ơn huệ với trăm họ thì dù chẳng sống lâu cũng là bậc minh quân. Bằng trẫm kiêu sa tàn bạo thì "Vạn thọ vô cương" chỉ tổ làm khổ thiên hạ".
"Kẻ đại thần xu nịnh quân thượng, đưa chúa vào hành vi bất đức là tội nặng lắm. Ngươi phải nhớ mà răn mình".Chuyến này Vi Tiểu Bảo bợ đít ngựa mà lại vỗ vào chân để nó đá hộc máu mồm.
Nếu ở địa vị người khác tất lấy vụ này làm lo âu, buồn bã. May ở chỗ gã là kẻ mặt dầy, vẫn chẳng quan tâm. Trước mặt quan Khâm sai truyền chỉ, gã tự mắng mình tội thật đáng chết, nhưng trong lòng lại tự nhủ:
- Trong thiên hạ còn ai là người không ăn phỉnh? Nhất định vụ này bọn quân La Sát thốt lời Trung Quốc không được hoàn hảo, khiến tiểu Hoàng đế nghe chẳng ra sao nên mới bực mình.
Gã liền kêu mấy tên sư gia đã dạy Hoa ngữ cho bọn quân La Sát đến thống mạ một hồi.
Sau đó gã lại cùng bọn chúng mở cuộc đánh bạc. Gã gieo mấy bàn xúc xắc rồi là bao nhiêu lời huấn giới của Nhà Vua bay lên chín tầng mây hết.
Thì giờ thấm thoát, đông qua xuân tới, Vi Tiểu Bảo ở thành ái Huy tuy được nhàn hạ, nhưng thường thường nhớ tới bọn A Kha, Mộc Kiếm Bình mấy người thê tử.
Thỉnh thoảng gã lại sai thân binh đưa đồ về nhà. Sáu vị phu nhân cũng gửi ra y phục cùng phẩm vật. Ai cũng biết gã không hiểu chữ nghĩa nên không gửi gia thư mà chỉ dặn lời là trong nhà đều bình yên cả, mong mỏi Đại soái ca khúc khải hoàn về kinh cho sớm.
Một hôm, có thượng dụ ban ra, khâm mạng cho Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ làm những đại thần trong cuộc nghị hòa để cùng sứ thần nước La Sát kiềm đính hòa ước.
Trong kinh còn phái đến bốn nhân vật giúp đỡ công cuộc này là Hán quân Hoàng Kỳ Đô thống Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A Nhĩ Ni và Tả đô Ngự sử Mã Tề.
Đông Quốc Cương tuyên đọc thượng dụ xong, lại lấy ra một đạo công văn đọc tiếp.
Đạo công văn này là Quốc thư của hai vị Sa hoàng La Sát gửi lên Vua Khang Hy. Tờ quốc thư đã do hai vị truyền giáo sĩ người Hà Lan ở Bắc Kinh dịch ra Hán văn.
Bức quốc thư như sau:"Cẩn phụng thượng:
Đức Đại thánh Hoàng đế.
Ngồi chơi hoa hạ, ảnh hưởng bao trùm hoàn vũ, hướng dẫn tôi hiền trong cuộc phân chia cương thổ, cai trị muôn dân. Trung Quốc gồm thâu Mãn Hán, oai danh lừng lẫy bốn Phương.
Nguyên tiền triều A Liệt Khắc Tịch Mễ Hàn ở hạ quốc đã phái bọn Ni Quả Lai qua thiên triều mưu việc giao hảo cho hai nước.
Kẻ sứ thần không am tường điển lễ Trung Quốc, cử chỉ có điều thô lỗ, ngữ ngôn lại thiếu văn hóa, đành trông vào đức độ khoan hồng của thượng quốc.
Cả việc ca tụng Hoàng đế cũng không khỏi phạm vào thất thể, vì hạ quốc ở nơi hẻo lánh xa xăm, vương hóa khó bề phổ cập. May mà thượng quốc cũng không hạch tội.
Ngày trước Hoàng đế đã gửi quốc thư, nhưng hạ quốc không ai biết chữ, chẳng hiểu thánh ý ra sao.
Sau bọn Ni Quả Lai trở về, Hạ quốc hỏi ra mới biết thượng quốc chất vấn về vụ bọn Cán Đặc Mộc Nhĩ bôn đào qua hạ quốc. Trong quốc thư còn đề cập đến những việc quấy nhiễu biên thùy.
Mới đây hạ quốc được tin Hoàng đế hưng binh đến vùng biên cảnh, khiến tình giao hảo hai bên bị tổn thất.
Nếu dân gian hạ quốc ở chốn biên cương quả đã gây hấn làm càn thì thiên triều chỉ cần minh thị là hạ quốc bắt về nghiêm trị ngay, hà tất phải dấy động can qua?
Nay hạ quốc phụng tiếp chiếu chỉ mới rõ đầu đuôi, liền hỏa tốc hạ lệnh cho tướng sĩ không được giao binh.
Cung thỉnh thiên triều minh xét những tên nào đã gây họa loạn để hạ quốc đem ra chính pháp.
Ngoài việc phái sứ thần quyết định biên giới, hạ quốc lại sai bọn Phật Nhi Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa mang thư đi suốt ngày đêm để dâng thượng quốc.Xin thiên triều rút cuộc bao vây Nhã Tát Khắc. Nếu còn xẩy chuyện lôi thôi, cứ phái sứ thần đưa thư hiểu dụ là hai nước vĩnh viễn giữ cuộc hòa mục.
Một vị đại thần ở thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ năm trước có quen biết Hoàng tỷ ở hạ quốc là Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á điện hạ. Vi đại nhân lại tới kinh thành Mạc Tư Khoa giúp việc dẹp loạn lập nên công lớn ở hạ quốc. Đây thật là một ơn huệ của thượng quốc ban cho. Chúa tôi hạ quốc không bao giờ quên ơn đức này.
Kính dâng trọng lễ trên Đại thánh Hoàng đế bệ hạ. Thứ nhì là trọng lễ phụng tặng Vi Tiểu Bảo đại thần các hạ, để tỏ lòng thành tín hòa mục của hạ quốc".
Đông Quốc Cương đọc quốc thư rồi, sư gia liền đem những ý tứ trong thư giải thích cho Vi Tiểu Bảo cùng chúng tướng nghe.
Đây là một thông lệ Ở trong quân, vì những văn thư qua lại thường gặp chữ nghĩa sâu xa khó hiểu mà số đông binh tướng lại không biết chữ. Dù nhiều người đã đọc sách mấy năm, nhưng kiến thức vẫn còn kém cỏi. Những văn kiện trong quân quan hệ đến quân cơ đại sự, nếu xảy chuyện hiểu lầm sẽ đưa tới hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Vì thế mà quân chế nhà Mãn Thanh phải đặt sư gia vào việc giải thích văn thư.
Đông Quốc Cương nói:
- Vị Nhiếp Chính Nữ Vương La Sát vẫn nhớ mối tình cố cựu với Vi đại soái, đưa tặng rất nhiều lễ vật. Đức Hoàng thượng phải tiểu đệ đêm hết tới đây để giao lại cho đại soái thu nhận.
Vi Tiểu Bảo chắp tay đáp:
- Đa tạ, đa tạ!
Gã nói tiếp:
- Người La Sát không hiểu lễ tiết, chẳng nhún mình là lòng thành lễ bạc lại khoe khoang đồ lễ quý trọng. Phần lễ trọng nhất dâng lên Hoàng thượng, còn phần lễ trọng thứ hai gì đó đưa tặng tiểu đệ. Họ nói thế mà không sợ người ta cười cho.
Đông Quốc Cương nói:- Vi đại soái phái quân giải bọn người đầu hàng nước La Sát về kinh thành, đức Hoàng thượng thân hành thẩm vấn. Ngài phát giác trong bọn tiểu tốt có một vị đại quan La Sát trà trộn vào...
Vi Tiểu Bảo "ủa" lên một tiếng, nhảy bổ lên hỏi:
- Có chuyện đó ư?
Đông Quốc Cương đáp:
- Người này thật giảo quyệt! Hắn trà trộn vào trong đám tiểu tốt, nhất thiết không động thanh sắc, hôm ấy Hoàng thượng thẩm vấn bọn người đầu hàng đã sai một vị giáo sĩ Hà Lan làm thông ngôn. Sau Hoàng thượng nói mấy câu Lạp Đinh (La Tinh) với giáo sĩ. Trong bọn người La Sát đầu hàng có một tên tiểu binh đột nhiên lộ vẻ khác lạ. Hoàng thượng liền hỏi có phải hắn hiểu tiếng Lạp Đinh không, nhưng hắn chỉ lắc đầu. Hoàng thượng lại dùng tiếng Lạp Đinh ra lệnh:
•Đem tên tiểu binh này ra chém đầu!•. Hắn sợ hãi thất sắc, quỳ xuống năn nỉ xin tha và thú nhận có hiểu tiếng Lạp Đinh.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Tiếng Lạp Đinh là thế nào? Có phải người La Sát khi lôi bọn tráng đinh đi vận tải quân nhu thì nói thứ tiếng này? Sao Hoàng thượng lại hiểu được ngôn ngữ đó?
Đông Quốc Cương đáp:
- Tiểu đệ cũng không hiểu đạo lý vụ này. Khi nào đại soái có dịp bái kiến Hoàng thượng khẽ dập đầu xin ngài giải thích cho.
Vi Tiểu Bảo gật đầu hỏi:
- Hoàng thượng xử trí với hắn ra sao?
Đông Quốc Cương đáp:
- Người đó không thể dấu diếm được, phải thổ lộ hết chân tình. Tên hắn là á Nhĩ Thanh Tư Cơ, làm Đô tổng quản hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc.
Mọi người nghe nói không khỏi giật mình kinh hãi, bất giác •ủa• lên một tiếng.Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Thế ra chức quan của thằng cha đó lớn lắm ư?
Đông Quốc Cương đáp:
- Phải rồi! Những quan chức mà nước La Sát phái đến mặt Đông, địa vị hắn lớn hơn hết. Hôm thành Nhã Tát Khắc bị hạ, hắn cải trang làm tên tiểu tốt nên không ai nhận ra được.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói:
- Ngày hạ thành Nhã Tát Khắc thì người La Sát từ Đại tướng cho đến tiểu tốt, từ quan lớn cho đến quan nhỏ, nhất thời đều bị lột trần như nhộng. Ngó lui ngó tới ai cũng như ai, trong mình chẳng còn tý gì để phân biệt. Như vậy thì vụ này không nhận ra tên đại quan La Sát này cũng không phải là lỗi ở bọn tiểu đệ.
Chúng tướng nổi lên tràng cười ha hả.
Mọi người liền thuật lại tình hình hôm đánh phá thành Nhã Tát Khắc cho Đông Quốc Cương nghe.
Đông Quốc Cương cười nói:
- Té ra là thế. Như vậy quả không trách ai được.
Lão lại kể tiếp:
- Đức Hoàng thượng phán:
Vi Tiểu Bảo bắt được Đô tổng quản của nước La Sát trông coi hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc là một công trạng rất lớn. Đáng tiếc y tưởng người này cũng là tên tiểu tốt tầm thường. Y đã phạm vào tội làm việc hồ đồ, vậy công kia chuộc lại lỗi này là xong. Việc đó thành ra vô thưởng vô phạt.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Đức Hoàng thượng cầm cân nảy mực rất đúng. ¥n điển của ngài khiến cho bọn nô tài chúng tôi muôn vàn cảm kích.
Đông Quốc Cương nói:
- Đức Hoàng thượng thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ liên tiếp sáu ngày liền.
Chẳng những ngài biết hết về quân chính đại sự nước La Sát, mà cả việc phân chiacương vực, phong tục tập quán, thổ sản địa Phương ngài cũng hiểu rõ một cách tỷ mỷ. Đức Hoàng thượng của chúng ta quả được trời ban cho tài trí thông minh khác đời. Ngài chỉ biết qua thái độ của á Nhĩ Thanh Tư Cơ mà phát hiện ra chuyện bí mật.
Lão nhìn Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa nói tiếp:
- Theo lời Vi đại soái thì á Nhĩ Thanh Tư Cơ lúc bị bắt cũng thân thể trần truồng như mọi người. Ai ngờ hắn vẫn dấu được văn kiện bí mật.
Tài sản của ngocvosong1986

  #237  
Old 02-06-2008, 03:20 PM
ngocvosong1986's Avatar
ngocvosong1986 ngocvosong1986 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 960
Thời gian online: 1 ngày 14 giờ 25 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 156 Times in 8 Posts
Hồi 236


Trai la sát toàn là đồ bỏ

Vi Tiểu Bảo tức mình thóa mạ:
- Tổ bà nó! Thằng cha á Nhĩ Tử Kê gì đó quả là quỷ kế đa đoan.
Lần sau còn gặp hắn phải xét kỹ mới được. Văn kiện bí mật hắn dấu ở chỗ nào?
Đông Quốc Cương đáp:
- Bọn người La Sát đầu hàng trước khi vào triều kiến Hoàng thượng dĩ nhiên đã bị bọn Ngự tiền thị vệ lục soát trong mình rất kỹ. Người ta moi móc cả trong túm râu, mớ tóc. Chúng còn phải tụt giầy cởi quần để thị vệ khám xét không sót một chỗ nào. bọn người Phiên bang lòng dạ hiểm sâu khôn lường! Chỉ sơ hở một chút để chúng mang lợi khí trong mình thì nguy hiểm vô cùng!...
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
- Tên á Nhĩ Thanh Tư Cơ này dĩ nhiên cũng bị lục soát như ai. Trong người hắn chẳng có vật gì. Nhưng đức Hoàng thượng rất tinh tế. Ngài thấy trên vai bên phải hắn cao gồ lên một chút. Thỉnh thoảng hắn lại liếc mắt nhìn vào chỗ đó.
Hoàng thượng liền hỏi hắn:
Trên cánh tay có vật gì. á Nhỉ Thanh Tư Cơ kéo tay áo lên. Cánh tay hắn buộc băng vải thật dày. Hắn nói là đã bị thương ở Nhã Tát Khắc.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Hắn dấu văn kiện trên vai hay sao?
Đông Quốc Cương kể tiếp:
- Hoàng thượng bảo hắn tiến gần lại rồi bóp mạnh cánh tay hắn một cái. á Nhĩ Thanh Tư Cơ la lên một tiếng "úi chao!" nhưng tiếng la không lộ vẻ gì đau đớn...
Vi Tiểu Bảo bật cười nói:
- Thú thật! Tên quỷ La Sát này giả vờ bị thương rồi.
Đông Quốc Cương nói:
- Nhất định là thế, Hoàng thượng liền sai thị vệ cởi bỏ băng quấn trên cánh tay hắn ra. Lập tức mặt hắn tái mét, toàn thân run bần bật.
Đông Quốc Cương nói tới đây, nhìn Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Vi đại soái! Đại soái thử đoán xem á Nhĩ Thanh Tư Cơ đã dấu vật gì dưới lần băng đó?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Khâm sai vừa nói trong người hắn có văn kiện bí mật, phải chăng là cái đó?
Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói:
- Chính thị! Trách nào Hoàng thượng thường khen ngợi đại soái rất thông minh, quả nhiên đoán việc gì cũng trúng. á Nhĩ Thanh Tư Cơ dấu một văn kiện bí mật dưới lần băng tay kia. Văn kiện này là một đạo mật dụ của Sa hoàng nước La Sát hửi cho hắn.
Đông Quốc Cương kể tiếp:
- Hoàng thượng liền gọi giáo sĩ Hà lan dịch văn kiện đó ra Hán văn. Bản sao tiểu đệ có đem tới đây.
Lão nói rồi lấy bản văn kia ra lớn tiếng đọc:
- "Ngươi nên nói cho Hoàng đế Trung Quốc biết rằng:" "Nga Hoàng bệ hạ thống lĩnh toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, độc tài đại quân chủ Hoàng đế cùng đại vương kiêm trị nhiều nước, quyền oai rất lớn bao trùm cả những nước xa xôi. Rất nhiều quân vương các nước đã được đặt dưới quyền thống trị tối cao của Đại Hoàng đế bệ hạ." "Vậy Hoàng đế Trung Quốc cũng nên cầu khẩn được lĩnh ơn huệ của Đại Hoàng đế bệ hạ như toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư. Đại Hoàng đế bệ hạ sẽ hết lòng bảo vệ cho Hoàng đế Trung Quốc được hưởng hoàng ân bát ngát và giữ cho địch nhân khỏi xâm phạm cương thổ. Hoàng đế Trung Quốc chỉ phải triều cống Đại quân chủ bệ hạ là vĩnh viễn bình yên vô sự" "Ngoài ra Đại Hoàng đế bệ hạ còn ưng chuẩn cho những thuộc quốc được doanh thương tự do ở Trung Quốc." "Ngược lại, Trung Quốc Hoàng đế cũng chuẩn cho sứ thần của Đại Hoàng đế bệ hạ được đi lại không bị cản trở.""Ngươi lấy thư phúc đáp của Hoàng đế Trung Quốc đưa về trình Đại Hoàng đế bệ hạ." Đông Quốc Cương cứ đọc một câu là Vi Tiểu Bảo lại mắng một tiếng:
- Thối lắm!
Lão đọc hết bản mật dụ, không hiểu Vi Tiểu Bảo đã mắng bao nhiêu câu "thối lắm!".
Đông Quốc Cương lại nói:
- Hoàng thượng phán rằng:
Người La Sát dã tâm bồng bột, lại cực kỳ vô lễ! Vị Hoàng đế La Sát ra đạo mật dụ này là phụ thân của hai vị Sa hoàng hiện nay. Vị Hoàng đế kia đã chết rồi. Khi ấy họ chưa hiểu người Trung Quốc ta lợi hại nên mới coi thường. Nhưng hiện nay người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không dám càn rỡ như trước nữa. Có điều khi nghị hòa cùng chúng, ta cần phải vừa cương vừa nhu, chớ có khinh suất.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Đúng thế! Hoàng thượng đã dặn dò như vậy thì chúng ta cứ việc tát vào mặt, đá đít bọn chúng. Đồng thời còn đập vai, sửa lưng chúng nữa.
Đông Quốc Cương nói:
- Vị nữ Nhiếp Chính Vương La Sát cũng giảo quyệt vô cùng! Y giả vờ không biết thành Nhã Tát Khắc đã bị chúng ta hạ rồi, nói là hạ lệnh cho binh tướng La Sát không được giao phong với quân ta. Nhưng y đã khôn lại không ngoan, trong quốc thư để lòi đuôi ở câu:
Xin Hoàng thượng trả những người La Sát bị bắt về cho họ chính pháp.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
- Đâu có chuyện dễ dàng thế được? Y tặng cho tiểu đệ mấy tấm da điêu, vài viên bảo thạch mà bảo là trọng lễ thứ nhì để đòi thả quân binh của y mà được ư?
Đông Quốc Cương nói:- Hoàng thượng dặn bảo:
Người La Sát đã cầu hòa thì mình nghị hòa với họ cũng không sao, nhưng chúng ta phải đem đại quân đi để họ cùng ký điều ước "thành hạ chi minh".
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Thành hạ chi minh là cái gì?
Đông Quốc Cương đáp:
- Hai nước giao binh. Đại quân bên ta vây thành trì Phiên bang. Phiên bang xin hòa. Ta cùng họ ký hòa ước ở dưới chân thành. Cái đó kêu bằng "thành hạ chi minh". Phiên bang tuy không đầu hàng, nhưng thế là đã nhận thua.
Vi Tiểu Bảo nói:
- à thì ra thế. Thực tình chúng ta ra quân hạ Ni Bố Sở cũng chẳng khó gì.
Đông Quốc Cương đáp:
- Hoàng thượng phán bảo:
Muốn thắng mấy trận nữa, kể ra mình đã nắm vững, nhưng La Sát là một nước lớn trên thế giới hiện nay, có rất nhiều nước nhỏ bị đặt dưới quyền thống trị. Nếu bọn họ thua xiểng liểng ở mặt Đông thì oai phong bị tổn thương rất lớn, khiến cho những nước nhỏ thuộc quyền bất phục. Trường hợp này mà xảy ra, tất La Sát phải kéo đại quân đến báo thùm gây nên nạn binh hỏa lâu dài, lại đưa đến nỗi cừu địch khó bề thu thập, chẳng biết bao giờ mới kết thúc...
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
- Đức Hoàng thượng đã thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ và biết rằng phía Tây nước La Sát có một nước lớn nữa là nước Thụy Điển. La Sát và Thụy Điển đang lâm vào tình trạng căng thẳng, chỉ va chạm thêm một chút là chiến tranh bùng nổ.
Nếu La Sát bị cả hai mặt Đông Tây giáp công tất phải điên đầu. Chúng ta nhân cơ hội này ký hòa ước với La Sát là chiếm phần tiện nghi nhiều lắm. ít ra mình khỏi lo về mặt Bắc và giữ được thái bình hàng trăm năm.
Vi Tiểu Bảo sau mấy trận đại thắng, những muốn thừa thế xông lên tấn công hạ thành Ni Bố Sở. Gã nghe nói Hoàng thượng thuận cho La Sát cầu hòa, không khỏi cụt hứng. Đây là quyết sách của Hoàng đế thì gã muốn "ngồi trong cái gì đểquyết thắng ra ngoài cái gì" cũng đành đình chỉ, vì chẳng khi nào kẻ vi thần dám chống lại mệnh lệnh của Nhà Vua.
Rồi gã lại nghĩ:
- Lão là mẫu cửu của Hoàng thượng, đồng thời cũng là mẫu cửu của cô vợ ta.
Kể theo vai vế, lão là trưởng bối trên ta một bậc. Mặt khác lão là Nhất Đẳng Công, còn ta vừa mới được thăng Nhị Đẳng Công. Thế mà chuyến này đi nghị hòa với La Sát, Hoàng thượng lại phái lão làm phó cho ta, là ngài nể mặt ta lắm.
Gã nghĩ tới chi tiết đó, trong lòng rất lấy làm đắc ý.
Nguyên phụ thân của Đông Quốc Cương là Đông Đồ Lại. Đông Đồ Lại là phụ thân của Hiếu Khang Hoàng hậu, mẹ Vua Khang Hy, cũng dòng Hán tộc. Vì thế mà người ta nói huyết thống Vua Khang Hy nửa phần là Mãn, nửa phần là Hán.
Hiện nay, Đông Đồ Lại chết rồi. Đông Quốc Cương tập ấm được phong làm Nhất Đẳng Công.
Ngày trước Đông Đồ Lại lập được nhiều quân công lừng lẫy, oai danh rất lớn, nhưng Vi Tiểu Bảo nhận thấy lão rất dở. Gã lẩm bẩm:
- Đồ Lại! Đồ Lại! Đồ Lại nghĩa là chỉ chực cãi cối. Cái đó thuyết minh hễ lão thua bạc là cãi cối. Đường đường một vị quốc trượng, sao lại chơi kiểu đó?
Tối hôm ấy, sau bữa tiệc tiếp phong, các đại thần theo lời đề xướng của Vi Tiểu Bảo mở cuộc đánh bạc. Đông Quốc Cương thua bạc liền lấy ngân phiếu sáu trăm lạng ra trả đàng hoàng và thản nhiên như không, chẳng cãi cối chi hết.
Vi Tiểu Bảo thấy lão chơi sòng phẳng, không giống phong độ của ông bố, gã không khỏi ngạc nhiên.
Khi về phòng lên giường ngủ, gã chợt tỉnh ngộ, bụng bảo dạ:
- Tên lão này là Đông Cốt Quang (Quốc Cương gã đọc trạnh thành Cốt Quang) đã chứng minh lão đánh bài thua mà vẫn quang minh lỗi lạc. Vậy đổ tính của lão rất tốt, ta nên kết bạn với lão.
Hôm sau, Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị quốc sự. Các quan đều nói:
Ta đã cùng đối phương sắp ký hòa ước "thành hạ chi minh" vậy nên dẫn đạiquân đến trước chờ họ tức là kế "dĩ dật đãi lao" (Mình nhàn rỗi đối với bên kia nhọc mệt).
Vi Tiểu Bảo khen phải. Gã liền phát tướng lệnh cho hai cánh quân đống ở ái Huy và Hô Mã Nhĩ nhắm thành Ni Bố Sở tiến phát. Cuộc hội sư sẽ diễn ra ở dưới chân thành này.
Hiện thời đã hết xuân sang hạ, băng rữa tuyết tan, khí trời ấm áp. Việc tiến quân rất phương tiện.
Một hôm đại quân đi tới bờ sông Hải Lạp Nhĩ, đội tiên phong báo cáo có toán quân La Sát nhỏ xin ra mắt đại soái.
Vi Tiểu Bảo truyền cho vào.
Hai tên đội trưởng toán quân này là Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu.
Vi Tiểu Bảo cả mừng nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Té ra là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu.
Hai người khom lưng thi lễ xong, đệ trình bức thư phúc đáp của Tô Phi á Công chúa.
Vị giáo sĩ La Sát vẫn còn lưu lại trong quân trướng để phòng khi có việc dùng đến.
Vua Khang Hy cũng sai một giáo sĩ Hà Lan đến giúp việc trong công cuộc kiềm đính hòa ước.
Vi Tiểu Bảo truyền cho cả hai vị giáo sĩ vào trong trướng để họ phiên dịch phúc thư của Công chúa. Giáo sĩ La Sát ngày trước đã thay đổi nguyên ý trong bức thư tình của Vi Tiểu Bảo, lúc này trong lòng rất là hồi hộp. Y chỉ sợ trong phúc thư của Công chúa sẽ lòi ra những điều không ăn khớp với bức thư kia. Y vội cầm lấy bức phúc thư coi hết một lượt, chẳng thấy chỗ nào đáng ngại mới yên lòng.
Y liền đem văn tự La Sát trong thư dịch ra chữ La Tinh. Kế đó vị giáo sĩ Hà Lan lại dịch sang Hoa ngữ.
Trong thư nói:
Từ buổi chia tay ta hằng tưởng nhớ. Mong rằng sau khi ký hòa ước, Vi Tiểu Bảo qua Mạc Tư Khoa một chuyến để tự sự tình cố nhân. Vi Tiểu Bảođược quân thượng hai nước cùng có lòng sủng ái, vậy nên giải thích những chỗ hiểu lầm cho đôi bên, hầu tiêu trừ mọi xích mích, xây dựng nền hòa hảo muôn đời trong lưỡng quốc.
Trong thư còn nói:
- Trung Hoa và La Sát một nước ở mé Đông, một nước ở phương Tây đều là nước lớn nhất trên thế giới. Nếu lưỡng quốc liên minh là có thể bao trùm thiên hạ, chẳng còn quốc gia nào kháng cự được.
Bằng nghị hòa bất thành, cuộc chiến tranh còn kéo dài, tất không tránh khỏi cả hai bên cùng bị kiệt quệ.
Vì những lẽ trên, Tô Phi á Công chúa mong Vi Tiểu Bảo xúc tiến giúp vụ này cho thành tựu, dĩ nhiên gã lập công lớn ở Trung Quốc. Đồng thời nước La Sát cũng đền ơn trọng hậu.
Công chúa lại xin Vi Tiểu Bảo tiến ngôn lên Hoàng đế Trung Quốc thỉnh cầu ngài buông tha những tướng sĩ La Sát bị bắt cho họ trở về đoàn tụ vui vẻ với gia đình.
Giáo sĩ Hà Lan dịch thư xong, Vi Tiểu Bảo thấy Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đưa mắt ra hiệu mấy lần. Gã biết là còn có biệt tình, liền cho hai vị giáo sĩ lui ra rồi hỏi:
- Các ngươi còn điều chi muốn nói?
Hoa Bá Tư Cơ nói:
- Công chúa điện hạ dặn bọn tiểu nhân nói với Trung Quốc tiểu hài đại nhân là ngài vẫn tưởng nhớ đại nhân. Bọn đàn ông La Sát kém lắm, chỉ có Trung Quốc tiểu hài đại nhân là hay nhất thiên hạ. Ngài nhất định mời đại nhân qua Mạc Tư Khoa.
Vi Tiểu Bảo hắng giọng một tiếng, nghĩ bụng:
- Đây là mê thang của nước La Sát, ta không thể tin được.
Tề Lạc Nặc Phu nói:
- Công chúa điện hạ còn mấy việc nữa muốn nhờ Trung Quốc tiểu hài đại nhân lo dùm. Cái này là Công chúa điện hạ tặng cho đại nhân.Hắn nói rồi cời sợi giây đồng buộc trên cổ xuống. Đầu dưới sợi dây buộc một cái túi da.
Hoa Bá Tư Cơ cũng cởi cái túi da ở trên cổ xuống. Đây chắc là hai người bạt thiệp trường đồ sợ xảy chuyện thất lạc mà phải dùng giây đồng buộc vào cổ.
Miệng túi da khóa bằng khóa đồng.
Hoa Bá Tư Cơ lại cởi chiếc chìa khóa ở giây lưng ra mở khóa đồng trên túi da của Tề Lạc Nặc Phu.
Tề Lạc Nặc Phu cũng lấy chìa khóa mở túi da của Hoa Bá Tư Cơ.
Hai người kính cẩn đặt túi da lên án trước mặt Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo cầm túi da đảo lộn nghe những tiếng loảng xoảng vang lên. Gã đổ ra mấy chục viên bảo thạch, màu sắc khác nhau coi rất ngoạn mục.
Những viên bảo thạch này rất lớn và đủ thứ:
Hồng bảo thạch, Lam bảo thạch, Lục bảo thạch, Hoàng bảo thạch.
Còn cái túi da nữa trong đựng kim cương, toàn thạch và ngọc phỉ thúy.
Trong lúc nhất thời, Vi Tiểu Bảo trông hoa cả mắt. ánh bảo quang tỏa ra khắp quân trướng.
Châu báu đối với gã là thường, nhưng những viên bảo thạch vừa lớn vừa nhiều thế này thì gã chưa từng được thấy qua.
Gã liền cười nói:
- Công chúa đưa hậu lễ tặng ta thế này, ta nhận thế nào được?
(Lời chú của tác giả:
Theo bài lược khảo về cuộc mậu dịch sơ khởi giữa Trung Hoa và nước Nga của Lưu Tuyển Dân đăng trên Yên Kinh Học Báo số 25 thì Nga hoàng phái đại sứ là Quả La Văn sang Trung Quốc đàm phán về việc chia cương thổ và việc thông thương giữa hai nước.
Dọc đường Đông du, Quả La Văn lại tiếp được mật dụ của Nga hoàng trịnh trọng chỉ thị:
Nếu cuộc đàm phán về cuộc giao thương với Trung Quốc mà thắng lợi thì dù có phải nhường thành Nhã Tát Khắc cho Trung Quốc cũng được, miễn làđừng để tổn thương đến uy danh Nga hoàng. Sứ giả còn bí mật đưa lễ vật đút lót đại biểu Trung Quốc.) Hoa Bá Tư Cơ nói:
- Công chúa điện hạ còn dặn tiểu nhân trình Trung Quốc tiểu hài đại nhân là nếu làm xong đại sự, Công chúa điện hạ sẽ tặng lễ vật quý trọng. Ngoài ra còn lựa mỹ nữ của mười nước là Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Kha Tát Khắc, Thát Đát, Thụy Điển, Ba Tư, Ba Lan, Lập Đào Uyển, Đan Mạch mỗi nước một cô, cô nào cô ấy đều nhỏ tuổi xinh đẹp và toàn là xử nữ chứ không phải quả phụ đưa đến tặng cho Trung Quốc tiểu hài đại nhân.
Vi Tiểu Bảo cười khanh khách đáp:
- Hiện ta đã có bảy cô vợ mà mình ứng phó chưa được chu đáo, nếu lại thêm mỹ nữ mười nước thì cái mạng của Trung Quốc tiểu hài đại nhân này đến phải ô hô ai tai mất!
Hoa Bá Tư Cơ vội nói:
- Không phải đâu! Không phải đâu. Mười vị xử nữ xinh đẹp này, Công chúa điện hạ chuẩn bị cả rồi. Chính mắt bọn tiểu nhân đã trông thấy, cô nào tướng mạo cũng như bông mai côi, da mỡ như sữa bò, tiếng nói như dạ Oanh.
Vi Tiểu Bảo trống ngực đánh thình thình hỏi:
- Công chúa điện hạ muốn ta làm việc gì?
Tề Lạc Nặc Phu đáp:
- Việc thứ nhất là hai nước hòa hiếu, hoạch định cương giới một cách công bằng. Từ nay trở đi không xảy cuộc giao binh nữa.
Vi Tiểu Bảo tự nhủ:
- ý kiến của Hoàng đế cũng muốn như vậy. Việc này có thể làm được.
Nhưng gã chau mày hỏi:
- Phía Tây nước La Sát các ngươi có một nước Thụy... Thụy gì đó đã phái sứ giả đến yêu cầu Trung Quốc chúng ta đồng thời ra quân giáp công La Sát cả hai mặt Đông và Tây để chia đôi giang sơn của các ngươi. Khi đó thì những gì Đại NgaLa Tư, Tiểu Nga La Tư, bất dại bất diểu Trung Nga La Tư, Hắc Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Ngũ Hoa Thập Sắc Nga La Tư chẳng thiếu gì giai nhân mỹ nữ, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, chẳng cần phải Công chúa điện hạ của các ngươi đưa tặng nữa.
Huống chi mỗi thứ chỉ đưa tặng có một cô là keo kiệt quá!
Hai tên đội trưởng La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy không khỏi giật mình kinh hãi.
Hồi ấy, Quốc Vương nước Thụy Điển là Lý đệ thập bát mới lên ngôi là một vị anh quân niên thiếu, chỉnh đốn quân cơ, sửa sang võ bị, có ý muốn khởi binh đánh La Sát. Bọn văn võ đại thần ở triều đình Mạc Tư Khoa đều lấy làm lo lắng, vì ngày ngày cho đại đội binh mã không ngớt kéo qua mặt Đông. Chẳng ngờ Thụy Điển lại toan tính đến việc liên minh với Trung Quốc. La Sát tuy cường thịnh, nhưng hai mặt trước sau đều thụ địch thì đại cuộc tất lâm nguy.
Vi Tiểu Bảo nhìn mặt Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu biết là mình đánh đòn gió đã sinh hiệu lực, liền nói tiếp:
- Nhưng giữa ta và Công chúa điện hạ là chỗ hảo bằng hữu tâm đầu ý hợp thì khi nào còn nhận lời đề nghị của bọn man tử nước Thụy gì gì đó? Hiện giờ Trung Quốc Hoàng đế chưa quyết định chủ ý, nếu quả nước La Sát thành tâm cầu hòa thì ta đuổi sứ giả nước Thụy gì đó về.
Hai tên đội trưởng cả mừng vội đáp:
- Nước La Sát rất mực chân thành, tuyệt chẳng có điều chi giả dối. Xin Trung Quốc tiểu hài đại nhân đuổi ngay sứ giả Thụy Điển về nước, hay chặt đầu hắn đi càng tốt.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:
- Việc chặt đầu sứ giả thì không được đâu. Huống chi hắn lại đưa tặng ta rất nhiều kim cương bảo thạch và mỹ nữ mười mấy nước thì làm sao chém chết hắn cho đành? Có đúng thế không?
Hai tên đội trưởng luôn miệng khen phải. Chúng nghĩ thầm:
- Té ra nước Thụy Điển cố ý giao hảo với Trung Quốc. Họ thả vỏ quít trước rồi ăn mắm rươi sau. Thủ đoạn của họ còn sáng nước hơn mình.Rồi chúng tự nhủ:
- May mà gã Trung Quốc tiểu hài đại nhân này giao hảo với Công chúa nhà mình, không thì vụ này thật nát bét, khó bề vãn hồi được.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
- Công chúa còn muốn ta làm việc gì nữa?
Hoa Bá Tư Cơ mỉm cười đáp:
- Công chúa điện hạ chân thành mời Trung Quốc tiểu hài đại nhân tới điện Cẩm Linh thành Mạc Tư Khoa để cùng bàn việc trong tẩm thất.
Vi Tiểu Bảo bật tiếng cười khành khạch bụng bảo dạ:
- Đây lại là món mê thang của La Sát hay gọi tắt là La Sát thang cho tiện, La Sát thang ăn được nhưng không thể tin được.
Gã cười nói:
- Té ra bọn đàn ông La Sát toàn là đồ bỏ.
Tề Lạc Nặc Phu mỉm cười đáp:
- Chẳng phải đàn ông La Sát toàn là đồ vô dụng, nhưng Công chúa điện hạ đặc biệt tưởng niệm Trung Quốc tiểu hài đại nhân.
Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:
- Lại thêm một chén La Sát thang nữa.
Gã liền hỏi:
- Chỉ có vậy thôi, không còn việc gì nữa chứ?
Hoa Bá Tư Cơ đáp:
- Công chúa thỉnh cầu Trung Quốc Hoàng đế bệ hạ chuẩn cho các nhà buôn hai nước được đi lại tự do thông thương.
Tề Lạc Nặc Phu nói theo:
- Một khi thương nhân hai nước đi lại thường xuyên, Công chúa thời thường có thể viết thư, đưa lễ gửi sang cho đại nhân.Vi Tiểu Bảo mắng thầm:
- Con mẹ nó! Lại thêm một chén La Sát thang nữa.
Gã liền hỏi:
- Ngươi nói thế thì hai nước giao thương là làm việc riêng cho Công chúa hay sao?
Tề Lạc Nặc Phu đáp:
- Dạ dạ! Hoàn toàn vì Trung Quốc tiểu hài đại nhân.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Hiện giờ ta không còn là trẻ nít, các ngươi không được xưng hô Trung Quốc tiểu hài gì gì đó.
Hai tên liền khom lưng hô:
- Dạ dạ! Trung Quốc đại nhân các hạ.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp:
- Được rồi! Các ngươi hãy lui về nghỉ ngơi. Bọn ta sẽ đến Ni Bố Sở. Các ngươi cùng theo đi là xong.
Hai tên kinh hãi đưa mắt nhìn nhau tự hỏi:
- Đại quân Trung Quốc kéo đến Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ họ lại đánh thành?
Vi Tiểu Bảo nói tiếp:
- Các ngươi cứ yên lòng. Ta đã nhận lời với Công chúa là hai nước hòa hiếu, không còn chuyện giao tranh nữa.
Hai tên khom lưng nói:
- Đa ta Trung Quốc tiểu... à quên... đại nhân các hạ.
Hoa Bá Tư Cơ lại nói:
- Công chúa nghe nói những cầu ở Trung Quốc xây cất rất hay. Bất luận trường giang đại hà đều dùng đá lớn để bắc cầu. Phía dưới không cần thạch trụ, kiều đôn. Công chúa đem lòng yêu mến Trung Quốc đại nhân các hạ, nên ưu thíchcả những cái gì của Trung Quốc. Điện hạ xin đại nhân phái mấy tên thợ giỏi chuyên nghiệp bắc cầu qua Mạc Tư Khoa để dựng mấy tòa thạch kiểu thuần kỳ.
Hàng ngày Công chúa điện hạ ra chơi thạch kiều Trung Quốc, đi lại tản bộ trên cầu cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ.
Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:
- La Sát thang đưa hết chén này đến chén khác, ta mà ăn mãi vào tất phải ộc ra mất. Tại sao Công chúa La Sát lại đặc biệt thẩm mỹ những tòa thạch kiều của Trung Quốc? Trong vụ này tất có điều chi ngoắt ngoéo. Ta không thể để mắc vào cạm bẫy của hồ ly tinh nước La Sát.
Gã liền đáp:
- Công chúa mà tưởng niệm ta cũng bất tất phải bắc cầu đá cho tốn nhiều công trình. Ta tặng nàng mấy tấm chăn bông và gối đầu ở Trung Quốc là đủ. Khi nàng ngủ cứ ôm chăn và gối của ta thì cũng như nàng ngủ chung với Trung Quốc đại nhân các hạ.
Hai tên đội trưởng La Sát đưa mắt nhìn nhau, vẻ mặt đều ra chiều bẽn lẽn.
Tề Lạc Nặc Phu ngập ngừng nói:
- Cái đó... dường như...
Hoa Bá Tư Cơ đầu óc linh hoạt hơn, liền đỡ lời:
- Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh. Chăn gối Trung Quốc do bọn tiểu nhân đưa về để Công chúa điện hạ không ôm Trung Quốc đại nhân các hạ thì ôm chăn gối Trung Quốc cũng hay rồi. Có điều chăn gối chỉ được mấy năm là rách nát, chẳng thể kiên cố bằng cầu đá. Vậy xin đại nhân phái mấy kỹ sư qua dựng thạch kiều mới là tuyệt diệu.
Vi Tiểu Bảo nghe giọng lưỡi hai tên đội trưởng La Sát rất tha thiết về việc phái kỹ sư đi bắc cầu, liền nghi là chúng có âm mưu ngụy kế. Gã chưa hiểu thời bấy giờ kỹ thuật bắc cầu của Trung Quốc đứng vào bậc nhất thiên hạ. Người ngoại quốc đến Trung Hoa thấy những cây thạch kiều hùng vĩ đều tấm tắc khen là kỳ dị. Ai cũng tán thưởng không ngớt. Họ tự hỏi:- Những cây thạch kiều ở đáy dưới không có cột chống mà sao bắc qua sông được? Thật là thần diệu khôn lường!
Người La Sát cũng mong học được phương pháp bắc cầu bằng cách này, vì họ rất ca ngợi môn kỹ thuật về khoa học của Trung Quốc mà thôi, chứ chẳng có âm mưu nào khác.
(Lời chú của tác giả:
"Năm Khang Hy thứ 15 những Nga phái Tư Ba Tháp Lôi (N. G. Spatinary) làm khâm sai, đem theo những chuyên gia về bảo thạch, chuyên gia về dược tài đến Bắc Kinh, đưa ra mấy khoản yêu cầu.
Trong những khoản này có một điều xin chuẩn cho nước Nga được mượn kỹ sư bắc cầu của Trung Hoa.
Viên Khâm sai La Sát vì không chịu quỳ xuống dập đầu trước mặt Hoàng đế Trung Quốc nên bị Thanh đình đuổi về nước.") Vi Tiểu Bảo bụng bảo dạ:
- Những tên này đòi hỏi hết điều nọ đến điều kia. Chúng càng đòi hỏi, ta càng không chịu ưng thuận.
Gã liền nói:
- Ta biết rồi. Các ngươi hãy lui ra.
Hai tên đội trưởng không dám nói gì nữa. Chúng thi lễ rồi rút lui.
Đại quân lên đường tiến về phía Tây, một hôm đến gần thành Ni Bố Sở.
Khâm sai đại thần nước La Sát là Phi Yến Đa La được tin báo đại quân bên Thanh kéo đến không khỏi giật mình kinh hãi. Y vội viết thư sang xin quân Thanh đồn trú ở ngoài rồi y lập tức đến tương hội.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Bất tất phải khách sáo. Cứ để bọn ta đến chào khách là được.
Quân Thanh rầm rầm rộ rộ kéo đến tận chân thành Ni Bố Sở.
Bọn Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Mã Lạt chia lấy ba đội nhân mã đi quanh giữ ba mặt Bắc, Tây, Nam thành Ni Bố Sở, đóng trên những yếu đạo để ngăn chặn đườngrút lui của quân La Sát trong thành, lại cản trở cả đường viện binh của quân tiếp viện từ mặt Tây kéo đến.
Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ cùng bọn Đông Quốc Cương thống lĩnh trung quân đồn trú ở ngoài thành phía Đông.
Trung quân bắn pháo thay phiên. Bốn mặt cũng nổi hiệu súng vang rền.
Các đại thần và quan quân La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh tập hợp đông như kiến, khí thế rất là hùng dũng, không khỏi khiếp sợ.
Phi Yến Đa La liền sắp sửa lễ vật phái người đưa đến doanh trướng quân Thanh và đệ thư lên khâm sai đại thần Trung Quốc.
Trong thư nói:
Hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, vậy cuộc hội ngộ này chuyên về việc kiềm đính hòa ước. Quân đội hai bên không nên gần nhau quá để tránh khỏi xảy cuộc xung đột bất ngờ, có thể đưa đến chỗ tổn thương tình giao hảo giữa hai nước.
Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị, đều nói:
Trung Hoa là thượng quốc không xử sự ngang trái, cần giữ điều tiên lễ hậu binh.
Vi Tiểu Bảo liền hạ lệnh lui binh mấy dặm, đồn trú ở phía Đông sông Thân Nhĩ Khắc. Đồng thời gã ra lệnh cho ba cánh quân đóng ở ba mặt Bắc, Tây, Nam cũng rút vào trong núi chờ đợi.
Phi Yến Đa La thấy quân Thanh triệt thoái mới hơi yên dạ. Y lại viết văn thư đưa ra bốn điều kiện về cuộc tương hội.
Điều thứ nhất:
Cuộc hội kiến diễn ra tại khu vực giữa thành Ni Bố Sở và sông Thập Nhĩ Khắc.
Điều thứ hai:
Ngày hội kiến, Khâm sai hai nước đều đêm bốn chục tùy viên.
Điều thứ ba:
Hai nước đều giàn hàng năm trăm quân. Quân Nga sắp hàng ở dưới chân thành. Quân Thanh sắp hàng ở bờ sông.
Điều thứ tư:
Hai nước đều đem kèm đội vệ binh gồm hai trăm sáu chục người.
Ngoài đao kiếm, vệ binh không được mang một thứ vũ khí nào khác.
Sở dĩ bên La Sát phải đưa bốn điều đề nghị này vì uy thế quân Thanh rất lớn mà quân Nga ít người. Nếu không hạn chế nhân số thì bên Nga lâm vào tình thếhạ phong. Mặt khác võ khí quân La Sát lợi hại hơn quân Thanh mà không hạn chế khí giới thì quân Nga lại chiếm thế thượng phong, chắc đối phương không chịu. Vì vậy, họ đề nghị trước là khôn và quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm.
Vi Tiểu Bảo sau khi thương nghị với các đại thần, nhận thấy đề nghị này có thể theo được, liền tiếp nhận ngay.
Ngay đêm hôm ấy, Vi Tiểu Bảo phái thân binh dựng doanh trướng để làm hội sở.
Sáng sớm hôm sau, bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương dẫn hai trăm sáu chục tên quân đằng bài đến hội sở.
Bỗng thấy cử thành Ni Bố Sở mở rộng, hơn hai trăm quân kỵ Kha Tát Khắc đều cầm trường đao hộ vệ cho quan viên La Sát đến hội sở.
Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm liệt. Còn quân đằng bài bên Thanh đều là bộ binh, coi về ngoài không hùng dũng bằng quân La Sát.
Tài sản của ngocvosong1986

  #238  
Old 02-06-2008, 03:22 PM
ngocvosong1986's Avatar
ngocvosong1986 ngocvosong1986 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 960
Thời gian online: 1 ngày 14 giờ 25 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 156 Times in 8 Posts
Hồi 237


Lần đầu tiên nếm món Trung Hoa

Đông Quốc Cương cất tiếng thóa mạ:
- Tổ bà nó! Bọn quỷ La Sát thật là xảo quyệt! Mới bước đầu mình đã mắc hợm. Chúng bảo mỗi bên đem đi hai trăm sáu chục tên vệ binh, mình quên không hỏi kỵ binh hay bộ binh. Bây giờ chúng đem đoàn kỵ binh thành ra hơn mình hai trăm sáu chục con ngựa.
Sách Ngạch Đồ nói:
- Vụ này nhắc nhở chúng ta phải rất thận trọng, mỗi khi giao dịch với bọn quỷ La Sát chớ có sơ hở. Mình chỉ bất cẩn một chút là mắc lừa chúng.
Trong khi hai người đang nói chuyện thì bọn quan binh La Sát đã gần tới trước mặt.
Đông Quốc Cương nói:
- Chúng ta tuân chiếu lời phán bảo của Hoàng thượng thì việc gì cũng phải theo lễ nghĩa Trung Hoa là thượng quốc. Vậy chúng ta xuống ngựa đi.
Vi Tiểu Bảo hô:
- Phải lắm! Hết thảy mọi người phải xuống ngựa!
Quan quân nghe lệnh nhất tề hạ mã, chắp tay đứng nghiêm chỉnh.
Khâm sai Phi Yến Đa La thấy vậy cũng hạ lệnh cho quan viên La Sát xuống ngựa, khom lưng hành lễ.
Hai bên đều tiến gần vào nhau.
Phi Yến Đa La hô:
- Khâm sai nước Nga La Tư là Phi Yến Đa La vâng mệnh Sa hoàng kính chúc Đại Thanh quốc Hoàng đế thánh thể an khang.
Vi Tiểu Bảo bắt chước hắn, đáp lại:
- Khâm sai Đại Thanh quốc là Vi Tiểu Bảo vâng mệnh Hoàng thượng kính chúc Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang.
Gã lại thêm một câu:
- Và chúc Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á Công chúa xinh đẹp, bình yên.
Phi Yến Đa La mỉm cười nghĩ bụng:
- Đại Thanh Hoàng đế chúc Công chúa bên ta xinh đẹp, bình yên thì thật là một câu ly kỳ cổ quái, song Công chúa nghe thấy tất lấy làm hoan hỷ.
Hai bên đưa ra những câu chúc tụng, có điều Vi Tiểu Bảo nghe tiếng La Sát câu được câu chăng, mà gã nói càng văn phạm đảo diên, từ cú lệch lạc. May chỉ là những lời khách sáo, chẳng có gì quan hệ.
Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát đứng nghiêm trang kính cẩn nghe lời, lễ mạo cũng chu đáo, nhưng hai trăm sáu chục tên quân kỵ Kha Tát Khắc vẫn ngang nhiên cưỡi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao xếp thành đội ngũ. Chúng ngồi trên cao trông xuống, phảng phất có vẻ uy hiếp. Gã càng nhìn càng tức, liền hỏi:
- Đội vệ binh bên quý quốc rất vô lễ! Chúng tham kiến Trung Quốc đại nhân các hạ mà sao không xuống ngựa?
Phi Yến Đa La đáp:
- Theo luật lệ của tệ quốc thì kỵ binh đang ở trong đội ngũ dù tham kiến Sa Hoàng bệ hạ cũng không phải xuống ngựa.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Đây là đất Trung Quốc. Đã đến Trung Quốc là phải theo luật lệ Trung Quốc.
Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:
- Xin lỗi Trung Quốc đại nhân các hạ! Các hạ lầm rồi. Chỗ này là lãnh thổ của Sa Hoàng nước Nga La Tư, chứ không phải đất Trung Quốc.
Vi Tiểu Bảo cãi:
- Đây hiển nhiên là đất Trung Quốc, các vị đến cưỡng chiếm mà thôi.
Phi Yến Đa La đáp:- Xin lỗi các hạ. Trung Quốc Khâm sai đại thần các hạ lầm rồi đó. Đây là lãnh thổ Sa Hoàng nước Nga. Thành Ni Bố Sở do người Nga La Tư dựng lên.
Cuộc hội đàm lần này nguyên là để phân chia ranh giới hai nước, nên chỗ đất này thuộc về Trung Quốc hay thuộc về Nga Quốc phân định cho rõ là một điều trọng yếu. Khâm sai đại thần hai nước vừa gặp mặt, chưa kịp vào trướng mở cuộc đàm phán đã xảy chuyện tranh chấp.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Người La Sát các vị đắp thành lên đất Trung Quốc rồi tự nhận là lãnh thổ của mình mà được ư? Trong thiên hạ sao lại có chuyện kỳ thế?
Phi Yến Đa La cãi:
- Chỗ này nhất định là lãnh thổ nước Nga. Người Nga La Tư xây thành ở đây, người Trung Quốc không xây thành đắp lũy đủ chứng minh là đất nước Nga. Bây giờ Trung Quốc đại thần các hạ bảo là đất Trung Quốc thì có gì làm chứng cứ không?
Thực ra một giải Ni Bố Sở trước nay chẳng có gì ước thúc. Nó là chỗ biên thùy hai nước Trung, Nga nhưng chưa vạch rõ cương giới. Nó thuộc về Trung Quốc hay thuộc về nước Nga, chẳng ai có bằng chứng đưa ra.
Vi Tiểu Bảo nghe đối phương hỏi đến chứng cứ không khỏi tắc họng. Gã muốn cưỡng biện, khốn nỗi gã không thông suốt từ ngữ La Sát. Ngay những câu đối đáp tầm thường đã cảm thấy khó khăn thì làm sao đủ tiếng để trình bày biện bác được?
Gã nói ẩu:
- Đây là đất Trung Quốc, chẳng thiếu gì chứng cứ.
Rồi gã dùng tiếng Dương Châu thóa mạ:
- Con mẹ quân chó đẻ! Ta nguyền rủa tổ tôn mười tám đời bọn quỷ La Sát các ngươi.
Gã thốt câu này rồi tiếp đến những lời thô tục tuôn ra như nước chảy, thao thao bất tuyệt, thóa mạ cao tổ mẫu, tằng tổ mẫu rồi đến tổ mẫu, mẫu thân, tỷ muội,ngoại bà, di má, cô mẫu nhà Phi Yến Đa La. Gã chửi tưới hạt sen, chửi vung xích chó. Bao nhiêu đàn bà nhà họ Phi nước La Sát gã chửi tuốt chẳng tha một ai.
Các quan viên cả hai bên Trung, Nga thấy Khâm sai đại thần Trung Quốc nổi lôi đình đều băn khoăn kinh hãi. Có điều gã mồm năm miệng mười đưa ra từng tràng như pháo nổ liên thanh, đừng nói Phi Yến Đa La chẳng hiểu gì mà cả quan viên Trung Quốc cùng thông dịch viên hai bên cũng lờ mờ.
Nên biết những câu chửi rủa của Vi Tiểu Bảo này toàn là lời thô tục đê hèn trong đám dân quê ở Dương Châu. Ngay những vị thân sĩ, thục nữ người Dương Châu cũng chưa chắc đã hiểu được mấy phần. Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương, hoặc là người Bát Kỳ, hoặc là võ quan ở phương Bắc từ lâu thì còn lý hội làm sao được?
Vi Tiểu Bảo thóa mạ hồi lâu đã tiết hận, trong lòng khoan khoái. Gã không nhịn được lại nổi lên tràng cười khanh khách.
Phi Yến Đa La ban đầu tuy không hiểu ngữ ngôn của gã, nhưng coi vẻ mặt cùng nghe giọng nói cũng đoán là gã đang nổi giận. Sau lại thấy gã đột nhiên cười rộ không khỏi ngơ ngác, cất tiếng hỏi:
- Xin hỏi quý sứ đưa ra trường thiên đại luận đó để chỉ giáo điều gì? Ngôn từ của quý sứ sâu xa và huyền diệu, mà tệ nhân lại học thức thô sơ, kiến văn hủ lậu, khó bề thông tình đạt lý. Xin quý sứ nói chậm chạp từng câu một, để tệ nhân lãnh giáo.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Bản sứ vừa nói quý sứ không hiểu đạo lý gì hết. Bản sứ muốn quý tổ mẫu đến đây làm người bạn lòng và làm bà vợ.
Phi Yến Đa La mỉm cười đáp:
- Tổ mẫu của tệ nhân là người đẹp nổi danh ở thành Mạc Tư Khoa. Lão nhân gia là con gái của Bỉ Đắc Lạc Phu Tư Cơ Bá tước. Té ra Trung Quốc đại nhân các hạ cũng biết tiếng tệ tổ mẫu. Tệ nhân thực lấy làm vinh hạnh vô cùng! Đáng tiếc tệ tổ mẫu đã chết trước đây ba mươi tám năm.
Vi Tiểu Bảo nói:- Thế thì bản sứ muốn giao du thân mật với lệnh mẫu để lấy bà làm vợ.
Phi Yến Đa La nở mày nở mặt, càng lộ vẻ hoan hỷ đáp:
- Má má của tệ nhân là con nhà danh môn vọng tộc ở thành Cơ Phụ. Nước da người vừa trắng vừa non. Người biết làm thơ chữ Pháp. Ở thành Mạc Tư Khoa chẳng thiếu gì bậc vương công, tướng quân rất sùng bái người. Ở tệ quốc còn có một vị đại thi nhân đã làm mấy chục bài thơ tán dương sắc đẹp của tệ má má. Hiện nay tuy người đã ba mươi sáu tuổi nhưng tướng mạo còn non trẻ chỉ bằng một thiếu phụ dưới ba mươi. Trung Quốc đại nhân các hạ mai đây có dịp qua Mạc Tư Khoa, tệ nhân nhất định giới thiệu đại nhân các hạ với má má. Việc kết hôn thì đại nhân rằng không được, còn làm bạn tâm tình thì có thể.
Nguyên theo phong tục Tây dương thì ai có mẫu thân hoặc thê tử xinh đẹp được người tán tụng, chẳng những họ không lấy thế làm hỗn xược, trái lại họ cho là một điều rất vinh hạnh và khoan khoái hơn cả ca tụng chính họ.
Vi Tiểu Bảo không hiểu phong tục Tây dương, lại cho là Phi Yến Đa La sợ mình, có ý muốn bái mình làm cha hờ, mới chịu phụng hiến thân mẫu.
Gã sướng quá, bao nhiêu lửa giận tiêu tan hết, liền cười đáp:
- Hay lắm! Hay lắm! Sau này nếu quả bản sứ có dịp qua Mạc Tư Khoa nhất định sẽ vào làm thượng khách của quý phủ.
Gã dắt tay Phi Yến Đa La đi vào doanh trướng. Bọn tùy tùng hai bên liền theo sau tiến vào.
Bọn Vi Tiểu Bảo ngồi ở đằng Đông. Bọn Phi Yến Đa La ngồi ở mé Tây.
Phi Yến Đa La lên tiếng:
- Nhiếp Chính Nữ Vương Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã dặn bảo cuộc hòa đàm chuyến này để hoạch định cương giới. Tệ quốc hết sức thành ý, mong hai bên giữ mực công bằng, đừng ai lấn át đối phương. Vì vậy tệ quốc đề nghị lấy sông Hắc Long Giang làm giới hạn cho hai nước. Mặt Nam sông này là Trung Quốc.
Mặt Bắc thuộc về Nga La Tư. Sau khi cương giới đã hoạch định, quân Nga La Tư không được qua sông tràn xuống phía Nam. Quân Trung Quốc cũng không được qua sông tiến lên miền Bắc.Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Thành Nhã Tát Khắc ở Giang Nam hay Giang Bắc?
Phi Yến Đa La đáp:
- Nhã Tát Khắc ở Giang Bắc. Thành này do người La Sát xây đắp. Cái đó chứng tỏ mặt Bắc sông Hắc Long Giang đều là lãnh thổ của nước Nga.
Vi Tiểu Bảo nghe nói lại nổi cơn tức giận hỏi:
- Trong thành Nhã Tát Khắc có một trái núi nhỏ. Các hạ có biết tên trái núi này là gì không?
Phi Yến Đa La quay lại hỏi tùy viên rồi đáp:
- Trái núi đó kêu bằng Cao Trợ Lược Sơn.
Vi Tiểu Bảo hiểu được tiếng La Sát, Cao Trợ Lược tức là con hươu, liền nói:
- Người Trung Quốc kêu bằng Lộc Đỉnh Sơn.
Rồi gã hỏi:
- Qúy sứ có biết bản sứ được phong tước vị gì không?
Phi Yến Đa La đáp:
- Các hạ là Lộc Đỉnh Công. Nếu nói bằng tiếng La Sát tức là Cao Trợ Lược Sơn Công tước.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Thế là các hạ còn có lòng muốn lấn át bản sứ. Các hạ đã biết rõ bản sứ là Lộc Đỉnh Công sao còn cưỡng chiếm Lộc Đỉnh Sơn của bản sứ? Phải chăng các hạ bảo bản sứ không phải là Công tước?
Phi Yến Đa La đáp:
- Không không! Tệ nhân quyết chẳng có ý đó.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
- Tước hiệu của các hạ là gì?
Phi Yến Đa La đáp:- Tệ nhân là Mạc Nặc Sa Phạt Hầu tước.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Hay lắm! Vậy thì Lạc Nặc Sa Phạt thuộc về lãnh thổ Trung Quốc.
Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi rồi mỉm cười nói:
- ấp phong của tệ nhân Lạc Nặc Sa Phạt còn ở phía Tây Mạc Tư Khoa, cách xa Trung Quốc vạn dặm, sao lại thuộc về lãnh thổ Trung Quốc được?
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Qúy sứ bảo ấp phong của mình kêu bằng Lão Miêu Lạp Thi Pháp...
Phi Yến Đa La sửa lại:
- Lạc Nặc Sa Phạt.
Vi Tiểu Bảo không lý gì đến hắn, tiếp tục câu hỏi:
- Từ thành Bắc Kinh bên bản sứ tới Lão Miêu Lạp Thi Pháp cộng bao nhiêu dặm đường?
Phi Yến Đa La đáp:
- Từ Lạc Nặc Sa Phạt đến Mạc Tư Khoa đã hơn trăm dặm, phải đi mất bốn ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh phải đi ba tháng nữa.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Nếu vậy từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp phải đi mất ba tháng lẻ năm ngày. Lộ trình xa quá nhỉ?
Phi Yến Đa La đáp:
- Xa lắm! Xa lắm!
Vi Tiểu Bảo nói:
- Đường đất đã xa như vậy thì Lão Miêu Lạp Thi Pháp dĩ nhiên không phải là lãnh thổ Trung Quốc.
Phi Yến Đa La đáp:
- Công gia nói đúng lắm!Vi Tiểu Bảo nâng chung rượu lên nói:
- Mời quý sứ xơi rượu.
Người La Sát quý rượu như tính mạng. Chung rượu đặt ở trước mặt Phi Yến Đa La đã lâu, mùi thơm tho xông lên mũi hắn từng hồi, nhưng chủ nhân chưa nâng chung, hắn không dám thiện tiện uống trước.
Bây giờ Phi Yến Đa La thấy Vi Tiểu Bảo nâng chung, hắn mừng quá cầm chung rượu uống một hơi cạn sạch.
Bọn tùy viên bên Thanh lại rót rượu vào chung cho hắn rồi lấy đồ nhắm trong hộp ra và toàn là những món do đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng.
Thời bấy giờ nước La Sát mới được khai hóa, nên cách ăn mặc hãy còn thô sơ. Về sau Bỉ Đắc đại đế lớn lên, đoạt lại quyền hành ở tay tỷ tỷ là Tô Phi á Công chúa rồi giam nàng vào ni am. Bỉ Đắc đại đế từ đó mới thâu nhập phần lớn văn hóa Tây Âu.
Hồi nước La Sát giao thiệp với Vi Tiểu Bảo, nhất thiết khí vật, chế độ, văn hóa đều kém Trung Quốc nhiều. Về cách nấu nướng thì cho tới ngày nay La Sát so với Trung Quốc vẫn còn cách xa vạn dặm.
Đây là lần đầu tiên Phi Yến Đa La được nếm những thức ăn tuyệt hảo của nước Trung Hoa ở ngoài thành Ni Bố Sở, dĩ nhiên hắn phải trợn mắt há miệng, cơ hồ muốn nuốt luôn cả cái lưỡi của mình vào bụng.
Vi Tiểu Bảo bồi tiếp Phi Yến Đa La nếm đủ các món ăn và giải thích cho hắn nghe vây cá là thế nào? Yến sào là gì? Chân vịt làm thế nào cho thành món trân quý? Gan gà chế hóa làm sao cho thành món tối hảo trong bữa ăn?...
Phi Yến Đa La ăn ngon miệng quá vui mừng khôn xiết, khen không ngớt miệng.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
- Qúy sứ dời thành Mạc Tư Khoa ngày nào?
Phi Yến Đa La đáp:
- Tệ nhân vâng chỉ dụ của Công chúa điện hạ ngày 12 tháng 4 ở thành Mạc Tư Khoa ra địVi Tiểu Bảo nói:
- Hay lắm! Qúy sứ cạn chung này đi! Đông Công gia ở bên bản sứ tửu lượng cũng khá lắm. Hai vị hãy đối ẩm mấy chung.
Đông Quốc Cương liền kính tửu Phi Yến Đa La, đối ẩm ba chung.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Phải chăng quý sứ mới tới Ni Bố Sở trong tháng này?
Phi Yến Đa La đáp:
- Tệ nhân đến đây ngày rằm tháng bảy.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Ồ! Qúy sứ ra đi ngày 12 tháng 4 đến đây ngày rằm tháng bẩy, tức là mất hơn ba tháng lộ trình.
Phi Yến Đa La đáp:
- Dạ. Đi mất hơn ba tháng là may nhờ tiết trời ấm áp, dọc đường không bị điều gì khó khăn cản trở.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Phen này quý sứ nói thật đi! Chịu thừa nhận thành Ni Bố Sở không phải ở trên đất nước La Sát.
Phi Yến Đa La uống rượu mười mấy chung rượu, đã ngà ngà say. Hắn nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy ngạc nhiên hỏi:
- Tệ nhân... tệ nhân có thừa nhận hồi nào đâu?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
- Từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp đi mất hơn ba tháng, lộ trình xa quá, nên Lão Miêu Lạp Thi Pháp không phải đất Trung Quốc. Từ Mạc Tư Khoa đến Ni Bố Sở, quý sứ cũng phải đi hơn ba tháng, tức là đường đất chẳng gần gũi gì.
Cái đó chứng tỏ Ni Bố Sở dĩ nhiên không phải là đất nước La Sát.
Phi Yến Đa La dương to cặp mắt. Trong lúc nhất thời không biết nói sao.
Hắn ngẩn người ra hồi lâu mới đáp:- Nước Nga La Tư bên tệ nhân đất rộng bao la, không phải như những nước khác.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Nước Đại Thanh bên bản sứ phạm vi cũng không nhỏ hẹp.
Phi Yến Đa La cười gượng đáp:
- Trung Quốc đại nhân khéo nói giỡn. Hai vụ đó... không thể... nghị luận giống nhau...
Vi Tiểu Bảo nói:
- Nếu quý sứ nhất định bảo Ni Bố Sở là lãnh thổ nước La Sát thì chúng ta làm một cuộc trao đổi. Bản sứ tới Mạc Tư Khoa xin Công chúa điện hạ phong quý sứ làm Ni Bố Sở Bá tước, và phong bản sứ làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước.
Thành Lão Miêu Lạp Thi Pháp được kể là đất Trung Quốc.
Phi Yến Đa La đỏ mặt lên đáp:
- Cái đó... nhất định không được...
Trong lòng hồi hộp, hắn nghĩ bụng:
- Công chúa là tình nhân của gã, nếu lúc đầu gối tay ấp nàng bị gã cho ăn thuốc mê mà ưng thuận cuộc trao đổi thì thật là nét bét. Lạc Nặc Sa Phạt là ấp phong tổ truyền của ta, sản vật rất phong phú. Nếu Công chúa cải phong cho ta đến Ni Bố Sở là một nơi khí hậu rét mướt, dân cư thưa thớt, thì có khác gì giết ta không? Huống chi ta đang làm Hầu tước mà lại cải phong làm Ni Bố Sở Bá tước thì ra bị giáng cấp hay sao?
Hắn nghĩ tới điểm này, bất giác nét mặt lộ ra rất khó coi.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
- Tâm địa của quý sứ tệ hại quá chừng! Qúy sứ đã muốn chiếm cứ cả thành Nhã Tát Khắc là đất phong của bản sứ, khi đó bản sứ không còn là Lộc Đỉnh Công thì bản sứ biết làm thế nào? Đành là làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước vậy.
Tuy ấp phong của quý sứ mang cái tên *** mèo, *** chó gì đó thật khó nghe, bản sứ cũng cam chịu vậy.Phi Yến Đa La tính thầm trong bụng:
- Gã là người Trung Quốc mà muốn chiếm thành Lạc Nặc Sa Phạt của ta quyết không thể được, nhưng gã đã được phong tước ở nước La Sát mà lại mưu lấy ấp phong của ta tất không khỏi rắc rối cho ta. May ở chỗ Công chúa đã dặn có thể lui cương giới về đến Ni Bố Sở. Sự thực chúng ta cũng không cần đòi Nhã Tát Khắc. Thành Nhã Tát Khắc đã bị bọn họ hạ rồi mà bảo họ rút lui, dĩ nhiên họ không chịu.
Gã tính vậy liền lộ vẻ tươi cười đáp:
- Thành Nhã Tát Khắc đã là ấp phong của đại nhân, thì bọn tệ nhân xin thoái nhượng một bước. Hai nước vẫn lẫy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, nhưng thành Nhã Tát Khắc và phạm vi chung quanh thành này trong vòng mười dặm thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đây là bọn tệ nhân hoàn toàn nể mặt quý sứ và đã làm một cuộc nhượng bộ rất lớn rồi đó.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:
- Bọn ngươi thua trận mà còn lên mặt như vậy. Nếu trận đánh vừa rồi quân La Sát các ngươi thắng thì đại nhân rằng các ngươi đòi cả thành Bắc Kinh cũng là lãnh thổ của các ngươi nữa.
Gã nghĩ vậy liền hỏi:
- Chúng ta đã trải qua một trận giao phong. Không hiểu các vị thắng hay là bản sứ thắng?
Phi Yến Đa La chau mày đáp:
- Đó mới là cuộc đụng độ nhỏ bé, chưa đáng kể ai thắng ai bại. Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã ra nghiêm lệnh không cho tướng sĩ được chính thức giao phong để duy trì hòa hiếu giữa hai nước. Vì thế lúc quân đội quý quốc tấn công, tướng sĩ bên tệ quốc không phản kích. Nếu cuộc giao binh thật sự diễn ra thì cục diện sẽ khác hẳn.
Vi Tiểu Bảo nghe nói cả giận hỏi:
- Té ra quân La Sát đã nổ súng mà chưa kể là phản kích ư?
Phi Yến Đa La đáp:- Đây bất quá là tướng La Sát hành động để bảo vệ lãnh thổ cho bản quốc chứ không phải phản kích. Nếu người La Sát đánh trận thực sự thì chẳng khi nào chỉ thủ chứ không công. Một khi cuộc đại chiến xảy ra giữa hai nước thì đội hỏa thương thủ La Sát và đội kỵ binh kha Tát Khắc đã đến tấn công thành Bắc Kinh rồi.
Vi Tiểu Bảo tức quá mắng thầm:
- Tổ bà nó! Bọn quỷ sứ lông lá các ngươi chuyên nói khoác để hăm người. ta mà sợ các ngươi hăm dọa thì sẽ theo họ ngươi mà làm con ngươi. Ta chẳng phải Vi Tiểu Bảo nữa mà là Tiểu Bảo Phi Yến Đa La.
Gã đến thành Mạc Tư Khoa đã biết tập quán của người La Sát đặt tên trước họ. Phi Yến Đa La là họ chứ không phải tên.
Gã liền nói:
- Vậy thì hay lắm! Thưa Hầu tước đại nhân đáng kính đáng sợ! Hầu tước đại nhân có biết trong lòng bản sứ mong mỏi điều gì nhất không?
Phi Yến Đa La đáp:
- Tệ nhân không rõ. Xin đại nhân chỉ giáo.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Hiện nay bản sứ mới là Công tước, trong bụng chỉ mong mỏi được gia quan tấn tước thăng làm quận vương hay thân vương.
Phi Yến Đa La nghĩ bụng:
- Gia quan tấn tước thì ai mà chẳng muốn?
Hắn mỉm cười đáp:
- Công tước đại nhân tinh minh mẫn cán lại được Hoàng đế quý quốc đem lòng tin yêu sủng ái thì chỉ lập tiếp mấy vụ công lao là nhất định sẽ thăng đến quận vương, thân vương chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Tệ nhân chân thành kính chúc đại nhân sớm đặng thành công.
Vi Tiểu Bảo khẽ nói:- Vụ này cần được Bá tước đại nhân giúp đỡ, nếu không thì chẳng còn cơ hội nào khác.
Phi Yến Đa La ngạc nhiên hỏi:
- Dĩ nhiên tệ nhân hết sức, nhưng chưa hiểu tệ nhân giúp đại nhân bằng cách nào?
Vi Tiểu Bảo cúi xuống ghé vào tai Phi Yến Đa La khẽ nói:
- Theo lề luật nước Đại Thanh bên bản sứ thì chỉ khi nào đánh trận đại thắng, lập nhiều quân công mới được phong vương. Nhưng hiện giờ trong nước thái bình vô sự, bao nhiêu quân phản nghịch đã bị dẹp tan. Phải chờ hai ba chục năm nữa đại nhân rằng cũng chưa chắc đã xẩy chiến tranh. Như vậy việc phong vương của bản sứ khó quá...
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:
- Vậy việc phân chia cương giới, nghị định hòa ước này, rất mong quý sứ đừng nhượng bộ chút gì. Hay hơn là quý sứ phái binh khiêu chiến với tệ quốc, giết chết một hai vị đại thần bên bản sứ. Hai nước chúng ta xẩy cuộc đại chiến rồi, quý sứ phái đội hỏa thương thủ La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến tấn công thành Bắc Kinh, bản quốc sẽ cùng Thụy Điển liên minh phái binh đến đánh Mạc Tư Khoa. Có đánh nhau cái bụi mịt mù, trời sầu đất thảm, máu chảy thành sông thì cuộc phong vương của bản sứ mới mong thành tựu. Đây là một điều bản sứ ký thác ở nơi quý sứ. Xin quý sứ hết lòng giúp cho. Qúy sứ nói gì xin hạ thấp giọng xuống, đừng để người ngoài nghe thấy.
Tài sản của ngocvosong1986

  #239  
Old 02-06-2008, 03:24 PM
ngocvosong1986's Avatar
ngocvosong1986 ngocvosong1986 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 960
Thời gian online: 1 ngày 14 giờ 25 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 156 Times in 8 Posts
Hồi 238


Cuộc đàm phán phân chia cương giới

Phi Yến Đa La càng nghe càng kinh hãi, nghĩ thầm:
- Gã thiếu niên này lớn mật làm càn. Vì mong được phong vương, gã không quản gây cuộc chiến tranh giữa hai nước. Trận đánh này rồi ai thắng ai bại tuy không thể biết trước, nhưng hiện giờ bên họ đông người mà ta ít, lực lượng hai bên chênh lệch quá xa thì cái thua thiệt trước mắt nhất định mình phải hứng chịu.
Hắn càng nghĩ càng hối hận là đã huênh hoang hăm dọa nói những gì dẫn đội hỏa thương La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh, ai ngờ gã thiếu niên lại cho là sự thực. Chẳng những gã không sợ mà còn hoan hỷ vô cùng.
Phi Yến Đa La thấy mình đã trót khéo quá hóa vụng, nhưng nếu để lộ vẻ khiếp nhược thì không khỏi bị đối phương khinh nhờn.
Trong lúc nhất thời, hắn không biết làm thế nào, đâm ra luống cuống.
Vi Tiểu Bảo lại nói:
- Mạc Tư Khoa cách đây xa quá. Quân Đại Thanh kéo đến tấn công thực ra cũng chẳng nắm chắc được phần thắng. Nếu bại trận, Hoàng đế còn thống trách bản sứ...
Phi Yến Đa La nghe chừng có cơ xoay chuyển, hắn lộ vẻ vui mừng vội nói:
- Dạ dạ! Tệ nhân kính cẩn khuyên can đại nhân đừng mạo hiểm là hơn.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Bản sứ chỉ muốn lập công để được phong vương chứ không muốn diệt nước La Sát. Đất đai bên quý quốc rất rộng, nhất định bản sứ không đủ bản lãnh để trừ diệt.
Phi Yến Đa La luôn miệng khen phải.
Vi Tiểu Bảo khẽ nói:
- Bây giờ chúng ta đành làm thế này. Qúy sứ phát binh đi đánh Bắc Kinh.
Bản sứ phát binh đánh Ni Bố Sở. Anh em mình đường ai nấy đi. Đánh được Bắc Kinh là công lao của quý sứ. Hạ được Ni Bố Sở là công lao của bản sứ. Qúy sứ thử tính xem có phải kế này tuyệt diệu không?
Phi Yến Đa La ngấm ngầm kêu khổ. Trong tay hắn chỉ có hơn hai nghìn nhân mã, muốn phản công lấy lại Nhã Tát Khắc cũng chưa đủ lực lượng, còn nói chi đến chuyện đi đánh Bắc Kinh?
Hắn nghĩ bụng:
- Nếu mình không nhận lỗi thì gã thiếu niên này lộng giả thành chân cũng chưa biết chừng.
Hắn liền nhăn nhó cười nói:
- Xin Công tước đại nhân bất tất phải quan tâm. Vừa rồi tệ nhân bảo kéo đội hỏa thương thủ và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh chỉ là câu chuyện hồ đồ chứ không phải sự thực. Tệ nhân đã đưa ra ý kiến lầm lẫn, bây giờ xin thu về.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Qúy sứ đã tuyên bố rồi còn thu về sao được?
Phi Yến Đa La đáp:
- Tệ nhân xin Công tước đại nhân vì tình mà quên câu chuyện này đi.
Vi Tiểu Bảo cười khanh khách hỏi:
- Qúy sứ nói vậy thì ra bãi việc dẫn quân La Sát đến đánh Bắc Kinh hay sao?
Phi Yến Đa La đáp:
- Không đi đâu. Nhất định là không đi.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Các vị còn muốn cưỡng chiếm thành Nhã Tát Khắc của bản sứ nữa hay thôi?
Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:- Không có đâu. Không có đâu.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Cả thành Ni Bố Sở các vị cũng không được đụng đến chứ?
Phi Yến Đa La sửng sốt đáp:
- Thành Ni Bố Sở này là lãnh thổ của Sa Hoàng bên tệ quốc. Xin Công tước đại nhân lượng cho.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:
- Người ta thường nói:
•Bạn hàng nói thách, khách mua giá cao•. Ta mà đòi hắn lấy thành Ni Bố Sở, nhất định là không được rồi. Vậy ta thử đòi từ chân thành Ni Bố Sở lăn về phía Tây xem sao?
Gã liền hỏi:
- Cuộc nghị hòa của chúng ta phen này nhất định phải cho công bằng, đừng lừa già dối trẻ, không để ai thua thiệt. Phải vậy không?
Phi Yến Đa La đáp:
- Đúng thế. Hai nước cùng chân thành hoạch định cương giới, dựng nên nền hòa bình vĩnh cửu.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Thế là hay lắm! Nếu biên giới cắt gần thành Mạc Tư Khoa quá thì người La Sát phải thiệt thòi. Ngược lại, gần Bắc Kinh qua thì người Trung Quốc thua thiệt.
Cách hay nhất là chia biên giới quãng giữa, theo phép •Nhị nhất thiêm tác ngũ•.
Phi Yến Đa La hỏi:
- Nhị nhất thiêm tác ngũ là thế nào?
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
- Phải chăng từ Mạc Tư Khoa đến Bắc Kinh lộ trình mất ước hơn ba tháng?
Phi Yến Đa La đáp:
- Phải rồi.
Vi Tiểu Bảo hỏi:- Ba tháng chia đôi là bao nhiêu ngày?
Phi Yến Đa La không hiểu ý gã, cũng đáp:
- Một nửa là tháng rưỡi.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Vậy chúng ta khỏi cần đàm thoại nữa. Bên nào về kinh thành bên ấy. Các vị từ Mạc Tư Khoa đi sang phía Đông. Bọn bản sứ xuất phát từ Bắc Kinh, tiến về phía Tây. Hai bên cùng đi một tháng rưỡi rồi đụng đầu nhau, phải không?
Phi Yến Đa La đáp:
Đúng thế! Nhưng chưa hiểu đại nhân làm như vậy với dụng ý gì?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Đó là cách chia ranh giới công bình nhất. Chỗ hai bên giáp nhau dùng làm biên thùy của hai nước. Các vị không chiếm phần tiện nghi mà bên bản sứ cũng chẳng dành phần hơn. Bên bản sứ thắng trận vừa rồi coi như bỏ đi. Đã là hảo bằng hữu với nhau, việc mua bán lại cần sòng phẳng.
Phi Yến Đa La mặt mũi đỏ bừng, miệng ấp úng:
- Cái đó... cái đó...
Rồi hắn đứng lên.
Vi Tiểu Bảo cười hỏi:
- Qúy sứ cũng nhận thấy phương pháp này là rất công bình phải không?
Phi Yến Đa La xua tay lia lịa đáp:
- Không, không! Nhất định là không được! Phân chia địa giới như vậy há chẳng là đem nửa phần đất nước Nga La Tư cắt cho quý quốc?
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Có đâu mà một nửa? Phía Tây Mạc Tư Khoa quý quốc còn rất nhiều đất đai, phần ấy khỏi phải dùng phép "Nhị nhất thiềm tác ngũ" cắt cho Trung Quốc nữa.
Hà tất quý sứ còn khách sáo như vậy?
Phi Yến Đa La tức quá, râu tóc dựng đứng cả lên hồi lâu mới nói:- Công tước đại nhân! Nếu đại nhân thành tâm nghị hòa thì nên đưa ra chủ trương thông tình đạt lý. Cách này... là cắt lấy nửa phần lãnh thổ của tệ quốc.
Thật là... thật là khinh người thái quá!
Hắn vừa nói vừa thở hồng hộc, đặt đít đánh bình một cái ngồi xuống, làm ghế rung động vang lên những tiếng lách cách.
Vi Tiểu Bảo khẽ hỏi:
- Nói tình thực với quý sứ thì nghị hòa hay phân chia cương giới chẳng có chi thú vị. Chúng ta hãy đánh nhau một trận đã. Qúy sứ bảo có nên không?
Phi Yến Đa La vẫn chưa hết thở hồng hộc, phẫn nộ cơ hồ nhịn không nổi, những muốn đập bàn đứng lên quát lớn:
- Đánh nhau thì đánh nhau chứ sợ gì?
Nhưng hắn nghĩ tới nếu xảy cuộc chiến tranh, hậu quả sẽ cực kỳ nghiêm trọng! Bên mình tuyệt không hy vọng thủ thắng.
Hắn đành ráng nhịn, lẳng lặng không nói gì.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên vỗ tay xuống bàn, cười nói:
- Có rồi, có rồi! Bản sứ còn một biện pháp khác rất công bằng.
Gã luồn tay vào bọc móc ra hai con xúc xắc, ghé miệng vào thổi một hơi rồi liệng xuống bàn nói:
- Qúy sứ đã không muốn đánh nhau, lại không thích dùng phép •Nhị nhất thiêm tác ngũ•. Vậy chúng ta gieo xúc xắc...
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:
- Từ Bắc Kinh tới Mạc Tư Khoa hãy kể là một vạn dặm đường. Chúng ta chia làm mười phần. Mỗi phần một ngàn dặm. Chúng ta liệng xúc xắc xuống mười bàn, mỗi bàn đặt cuộc ngàn dặm quốc gia. Nếu quý sứ thắng cả mười bàn thì giải đất từ đây cho đến chân thành Bắc Kinh thuộc về nước La Sát.
Phi Yến Đa La đằng hắng một tiếng rồi hỏi:
- Thế nhỡ tệ nhân thua cả mười bàn thì sao?
Vi Tiểu Bảo cười nói:- Có lẽ để quý sứ tự nói ra hay hơn.
Phi Yến Đa La hỏi:
- Chẳng lẽ giang sơn muôn dặm của tệ quốc về mé Đông thành Mạc Tư Khoa lại thuộc hết về Trung Quốc?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Bản sứ đoán vận khí của quý sứ không đến nỗi xúi quẩy như ngài nghĩ. Đâu có lý nào không ăn một bàn? Qúy sứ chỉ thắng được một bàn là giữ được nghìn dặm lãnh thổ, hai bàn được hai nghìn dặm. ¡n đến bốn bàn là chiếm phần tiện nghi rồi.
Phi Yến Đa La hỏi:
- Sao như thế lại chiếm tiện nghi? Từ Mạc Tư Khoa đi về phía Đông đến Bắc Kinh đa phần là đất của nước Nga. Bảy nghìn dặm, tám nghìn dặm là thuộc về lãnh thổ Nga Quốc.
Hai bên tranh luận hồi lâu. Giáo sĩ phiên dịch đứng bên khẽ dịch sang Trung Quốc thoại.
Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương nghe ngóng, ban đầu còn tưởng Phi Yến Đa La ngang ngạnh vô lý, đòi lấy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, uy hiếp tỉnh Liêu Đông của Trung Quốc. Thế thì Mãn Châu là nơi phát tích gây dựng nghiệp rồng cũng để bọn di dịch uy hiếp hay sao? Trong lòng bọn họ đều cực kỳ phẫn nộ.
Sau họ nghe Vi Tiểu Bảo kéo dằng kéo dọ. Nào là trao đổi ấp phong, nào là dùng phép Nhị nhất thiêm tác ngũ, nào là gieo xúc xắc để hoạch định cương giới, mỗi bàn ăn nghìn dặm thổ địa, họ mới biết là gã nói nhăng nói càn, đối phương quyết chẳng ưng thuận.
Nhưng họ thấy Phi Yến Đa La khí thế chùn nhụt, lại nghe Vi Tiểu Bảo nói chỉ ham đánh trận lập công để mong cắt đất phong vương. Còn sứ thần nước Nga hiển nhiên ngoài mặt hung hăng mà trong lòng mềm nhũn không dám đối lời. Ai nấy đều nghĩ bụng:Người La Sát ngang ngược dã man, quả nhiên danh bất hư truyền. Nếu đàm phán một cách nghiêm chỉnh với chúng là mình bị kém thế. Đức Hoàng thượng phái Vi Công tước chủ trương hòa nghị, quả là có tài dùng người một cách rất sáng suốt. Bọn quỷ phiên bang là hạng người dã man, chỉ có Vi Công gia bất học vô thuật nhưng đủ điều dân dã lưu manh mới dư bản lĩnh đối phó với chúng. Thật là vỏ quít dày gặp móng tay nhọn.
Nên biết bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương lên mặt đại thần, tuy bề ngoài họ tỏ ra cực kỳ lễ độ cung kính đối với Vi Tiểu Bảo, mà thực ra trong lòng coi gã rất tầm thường.
Họ đều cho Vi Tiểu Bảo bất quá là thằng hề được Hoàng thượng sủng ái làm nên quan lớn. Hành động cùng ngôn từ bình nhật của gã biểu lộ xấu xa hèn hạ mà chính gã không biết xấu hổ.
Họ còn đinh ninh chuyến này gã đụng chạm với sứ thần ngoại quốc tất để ngoại bang cười cho và làm mất thể diện của Quốc gia.
Ngờ đâu đức Hoàng thượng liệu tài bổ chức, thu dụng gã vào việc trọng đại này thật xứng đáng.
Giả tỷ Hoàng thượng không sai phái một nhân vật chuyên nói chuyện trò bậy và cãi chầy cãi cối là Vi Tiểu Bảo vào công cuộc hòa đàm, thì trong các văn võ đại thần đầy rẫy chốn triều đường, thực không tìm được nhân vật thứ hai nào làm nổi.
Các đại thần càng nghe càng khâm phục và càng tôn sùng đức Hoàng thượng anh minh tài trí, chúng thần chẳng ai bì kịp.
Sách Ngạch Đồ nghe tới đây đột nhiên xen vào:
- Mạc Tư Khoa nguyên trước cũng là đất của Trung Quốc.
Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi nghĩ bụng:
- Thằng lỏi kia giở giọng thiên hô bách sát đã đành. Sao cả lão già này cũng nhắm mắt nói mò như tuồng vô sỉ? Hắn bảo thành Mạc Tư Khoa của nước mình là đất Trung Quốc mới thật là kỳ?
Lại nghe Sách Ngạch Đồ nói:- Theo lời quý sứ thì người La Sát tạm thời chiếm cứ nơi nào là nơi ấy cũng thuộc lãnh thổ La Sát hay sao?
Phi Yến Đa La đáp:
- Như vậy cũng còn có lý. Qúy sứ nói là Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc thì, hà hà... tức cười đến nẻ ruột.
Sách Ngạch Đồ nói:
- Nhân dân La Sát gồm nhiều chủng tộc:
Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, lại còn Kha Tát Khắc, Thát Đát gì gì nữa cũng đều là người La Sát?
Phi Yến Đa La đáp:
- Nhất định là thế. Đất đai tệ quốc rộng bát ngát, nhân dân dưới quyền thống trị cũng nhiều lắm.
Sách Ngạch Đồ nói:
- Trăm họ bên tệ quốc cũng gồm rất nhiều chủng tộc:
Người Hán có, người Mông có, người Mãn có, người Miêu có, người Hồi có, người Tạng có...
Phi Yến Đa La đáp:
- Chính thế! Nga La Tư là nước lớn. Trung Quốc cũng là nước lớn. Hai nước chúng ta là nước lớn nhất trong những nước lớn.
Sách Ngạch Đồ nói:
- Chuyến này quý sứ đem đội vệ binh đi, dường như toàn là kỵ binh Kha Tát Khắc?
Phi Yến Đa La mỉm cười đáp:
- Kỵ binh Kha Tát Khắc nổi tiếng anh hùng vô địch. Có thể họ là những dũng sĩ lợi hại nhất thiên hạ.
Sách Ngạch Đồ hỏi:
- Kỵ binh Kha Tát Khắc còn lợi hại hơn cả người Nga La Tư nữa ư?
Phi Yến Đa La đáp:- Câu chuyện không phải như vậy. Người Kha Tát Khắc là trăm họ của nước La Sát, người Nga La Tư cũng là trăm họ trong nước La Sát, chẳng có gì phân biệt. Tỷ như người Mãn Châu cũng là bách tính của Trung Quốc, người Mông, người Hán...
cũng là bách tính của Trung Quốc, chẳng có gì phân biệt.
Sách Ngạch Đồ gật đầu nói:
- Thế thì phải rồi. Vì vậy mà thành Mạc Tư Khoa cũng là lãnh thổ của Trung Quốc.
Vi Tiểu Bảo nghe hai người nói tới đây, còn chưa rõ chỗ dụng ý của Sách Ngạch Đồ. Gã biết đích Mạc Tư Khoa cách đây xa hàng vạn dặm, quyết chẳng phải lãnh thổ Trung Quốc, nhưng nghe lý thuyết của Sách Ngạch Đồ thì dường như có chứng cứ. Còn Phi Yến Đa La trán nổi gân xanh, sắc mặt lúc xám lại, lúc đỏ bừng. Hiển nhiên trong lòng hắn tức giận như phát điên, gã liền xen vào:
- Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc là đúng lắm, tuyệt không sai lầm. Đức Hoàng đế Trung Quốc khoan hồng đại lượng cho các vị mượn ở đã lâu. Bản sứ tưởng bây giờ nên trả lại là phải, đừng bắt chước kiểu Lưu Bị tá Kinh Châu rồi muốn chiếm cứ vĩnh viễn, chẳng bao giờ hoàn lại.
Dĩ nhiên Phi Yến Đa La chẳng hiểu tích Lưu Bị tá Kinh Châu ý nghĩa thế nào, mà chỉ biết bọn Man tử Trung Quốc này không hiểu đạo lý, ăn nói hoàn toàn khác hẳn người văn minh. Hắn cười lạt nói móc:
- Trước kia tệ nhân nghe nói đến lịch sử Trung Quốc và tưởng là người Trung Quốc học vấn sâu rộng. Không ngờ... ha ha... toàn nói những chuyện mù tịt chẳng có chứng cứ gì.
Sách Ngạch Đồ đáp:
- Qúy sứ là một đại thần nước La Sát, dù chẳng có học vấn gì mấy, nhưng ít ra cũng biết lịch sử nước La Sát chứ?
Phi Yến Đa La đáp:
- Lịch sử bên tệ quốc đều có sách vở chứng minh rõ ràng, quyết chẳng khi nào căn cứ vào những lời loạn thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy.
Sách Ngạch Đồ nói:- Thế thì hay lắm! Trước kia Trung Quốc có một vị Hoàng đế tên gọi Thành Cát Tư Hãn...
Phi Yến Đa La vừa nghe đến bốn chữ Thành Cát Tư Hãn, bất giác la lên một tiếng:
- ái chà!
Hắn than thầm:
- Hỏng bét, hỏng bét! Sao ta lại hồ đồ đến thế, quên khuấy cả việc lớn đó?
Sách Ngạch Đồ nói tiếp:
- Vị Thành Cát Tư Hãn này, bên Trung Quốc kêu bằng Nguyên Thái Tổ, vì ngài là Hoàng đế dựng ra cơ nghiệp nhà Nguyên ở Trung Quốc. Ngài là người Mông Cổ. Qúy sứ vừa nói:
Người Mãn Châu, người Mông Cổ hay người Hán đều là người Trung Quốc chẳng có gì phân biệt.
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
- Ngày ấy đạo kỵ binh Mông Cổ lên đường chinh Tây đã cùng quân La Sát đánh mấy trận lớn. Lịch sử quý quốc có chép rõ ràng. Quyết chẳng phải loạn thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy. Không hiểu trong mấy trận đó người Trung Quốc thắng hay người La Sát thắng?
Phi Yến Đa La lặng thinh, hồi lâu mới đáp:
- Người Mông Cổ thắng.
Sách Ngạch Đồ hỏi vặn:
- Người Mông Cổ có phải là người Trung Quốc không?
Phi Yến Đa La đành phải gật đầu.
Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không hiểu ngày trước đã có vụ này. Gã vừa nghe nói bất giác nở mặt nở mày, lên tiếng:
- Người Trung Quốc mà đánh với người La Sát thì người La Sát tất phải thất bại không còn nghi ngờ gì nữa. Bản lĩnh của các vị còn kém một bậc. Lần sau có đánh nhau, bên bản sứ chỉ dùng một tay đánh nhau cũng đủ. Nếu không thế thì lực lượng hai bên chênh lệch nhau quá, cuộc chiến đấu chẳng còn thú vị nữa.Phi Yến Đa La tức quá trợn mắt lên nhìn, miệng lẩm bẩm:
- Nếu không phải Công chúa điện hạ ban nghiêm lệnh lần này chỉ cho hòa chứ không cho đánh, thì gã buông lời nhục mạ người La Sát ta thế này, ta quyết đấu với gã một phen.
Vi Tiểu Bảo cười ha hả hỏi Sách Ngạch Đồ:
- Sách đại ca! Ngày trước Thành Cát Tư Hãn đánh bại quân La Sát sự tích thế nào? Đại ca kể lại nghe chơi.
Sách Ngạch Đồ đáp:
- Hồi đó Thành Cát Tư Hãn phái hai đội quân đi chinh Tây, mỗi đội một vạn người, cộng là hai vạn nhân mã mà đánh cho mười mấy vạn quân La Sát phải thua chạy thất điên bát đảo.
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
- Sau đó bên xứ Mông Cổ của chúng ta lại sản xuất một vị đại anh hùng tên gọi Bạt Đô, Bạt Đô thống lĩnh quân đội đánh binh tướng La Sát đến tơi bời hoa lá chiếm tòa thành Cơ Phụ rất lớn của nước La Sát rồi chiếm thành Mạc Tư Khoa.
Thế vẫn chưa hết, quân ta còn tràn đến Ba Lan, Hung Gia Lợi, vượt sông Đa Não Hà (Danube). Sau đó mấy trăm năm, vương công quý tộc người La Sát đều thích nghe chuyện người Trung Quốc. Hồi ấy vị anh hùng Mông Cổ bên tệ quốc đóng ở trong trướng bồng dát vàng. Đại Công tước ở Mạc Tư Khoa thường thường đến dập đầu lạy người Trung Quốc. Người Trung Quốc muốn đá đít là đá đít, muốn tát tai là tát tai. Người La Sát chỉ cười hề hề, lại reo hò "đánh hay quá!". Nếu không thế thì chẳng thể làm đến tước Công.
Vi Tiểu Bảo nghe nói cặp lông mày dương lên như nhảy múa, gã không ngớt vỗ bàn hô:
- Hay thật! Hay thật! Té ra thành Mạc Tư Khoa ngày trước quả thuộc về Trung Quốc.
(Lời chú của tác giả:
Đại tướng Mông Cổ là Bạt Đô tấn công vây hãm Mạc Tư Khoa và Cơ Phụ vào năm 1238. Từ năm 1240 đến 1480, người Mông Cổ thống trị nước Nga La Tư đất cát bao la trong hai trăm bốn mươi năm, đã dựng lên tòa "Kim trướng Hãn Quốc".Trong pho Đại anh bách liệu toàn thư ở mục "Nga La Tư" có ghi chép:
Những vương tử phong Công tước ở thành Mạc Tư Khoa phải đến triều kiến Hoàng kim trướng của Mông Cổ Khả Hãn tại thành Tát Lai ở cửa sông Phục Nhĩ Gia để tiếp thụ phong hiệu. Bọn họ thường nhẫn nại chịu đựng những điều khổ nhục. Nhưng sau khi làm lễ triều bái trở về Mạc Tư Khoa họ có thể thu thuế người Thát Đát và lấn át những tiểu bang chư hầu lân cận.) Phi Yến Đa La sắc mặt lúc xanh xám lúc trắng bợt.
Những điều thuật lại của Sách Ngạch Đồ theo đúng sử sách, quyết không giả trá. Có điều người La Sát trước nay không nhận người Mông Cổ là người Trung Quốc. Trong lúc nhất thời, Phi Yến Đa La không nhớ tới thành Mạc Tư Khoa trước kia đã thuộc quyền thống trị của người Mông Cổ một quãng thời gian khá lâu. Hiện nay Mông Cổ thuộc về Trung Quốc. Do đó mà suy luận thì bảo thành Mạc Tư Khoa thuộc về Trung Quốc cũng không phải là lời nói hàm hồ.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Hầu tước các hạ! Bản chức nhận thấy việc hoạch định biên giới chúng ta bất tất phải đàm phán nữa. Xin các hạ trở về hỏi lại Công chúa bao giờ quý quốc sẽ đem thành Mạc Tư Khoa và thành Cơ Phụ hoàn lại Trung Quốc. Bản sứ cũng trở về Bắc Kinh lấy da bò và Hoàng kim để dựng Hoàng kim trướng bên bờ sông Phục Nhĩ Gia chờ Tô Phi á Công chúa đến ngủ. Ha ha! Ha ha!
Phi Yến Đa La nghe tới đây không thể nhịn được nữa, hắn đứng phắt dậy xông ra ngoài trướng.
Lại nghe hắn tức giận gầm lên như sấm và lớn tiếng quát tháo để truyền mệnh lệnh.
Kế đó tiếng vó ngựa dồn dập vang lên. Mấy trăm con ngựa nhất tề xông tới.
Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi la lên:
- Trời ơi! Quân mao tặc muốn đánh nhau. Chúng ta phải trốn cho lẹ.
Đông Quốc Cương trải qua chiến trận đã nhiều, nét mặt vẫn bình tĩnh. Lão nói:- Vi Công gia bất tất phải hoang mang. Chúng muốn đánh thì đánh. Chẳng lẽ bọn ta lại sợ chúng sao?
Phía ngoài doanh trướng, hai trăm sáu chục tên kỵ binh Kha Tát Khắc hò reo rầm trời.
Vi Tiểu Bảo sợ quá toàn thân run bần bật. Gã cúi đầu chui vào gầm bàn.
Đông Quốc Cương và Sách Ngạch Đồ ngơ ngác nhìn nhau, trong bụng cũng hơi hoang mang.
Cửa trướng mở ra, một tướng rảo bước tiến vào. Chính là Hồng Triều thống lĩnh đội quân đằng bài. Hồng Triều lớn tiếng hô:
- Khải bẩm đại soái!...
Nhưng hắn không nhìn thấy đại soái đâu.
Vi Tiểu Bảo nằm dưới gầm bàn lên tiếng:
- Ta... ta... ta ở đây. Anh em... mau mau trốn đi.
Hồng Triều cúi xuống gầm bàn nhìn Vi đại soái nói:
- Khải bẩm đại soái! Quân La Sát thanh thế hùng dũng. Chúng ta chẳng thể khiếp nhược. Muốn làm con con mẹ nó thì làm.
Vi Tiểu Bảo nghe lời nói dũng cảm, liền trấn tĩnh tâm thần. Gã ở dưới gầm bàn bò ra.
Vừa rồi sự việc xẩy đến đột ngột, gã hoang mang chui vào gầm bàn, nhưng thực ra không phải gã khiếp đảm sợ chết.
Vi Tiểu Bảo vỗ ngực đáp:
- Phải lắm! Tổ bà nó muốn làm gì thì làm! Lão gia phải thân tiến sĩ tốt, dũng...
dũng... Dũng quản tam quân, nhưng gã quên mất.
Gã dắt tay Hồng Triều chạy ra ngoài trướng.
Tài sản của ngocvosong1986

  #240  
Old 02-06-2008, 03:27 PM
ngocvosong1986's Avatar
ngocvosong1986 ngocvosong1986 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 960
Thời gian online: 1 ngày 14 giờ 25 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 156 Times in 8 Posts
Hồi 239


Triều đình đại kế chủ hòa bình

Vi Tiểu Bảo vừa ra đến cửa doanh trướng, liền ngó thấy hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Kha Tát Khắc trường đao tuốt trần, đưa lên cao. Chúng cưỡi toàn tuấn mã bao vây trướng hồng đang diễu võ dương oai đi vòng quanh chạy rất mau.
Phi Yến Đa La hạ lệnh một tiếng đoàn kỵ binh chạy ra xa. Chúng xếp thành đội ngũ đứng ngoài hai trăm trượng. Cứ hai mươi sáu tên là một hàng. Cả trước sau cộng thành mười hàng. Hàng ngũ rất chỉnh tề.
Đột nhiên chúng lớn tiếng reo hò lao rất mau về phía Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo la lên:
- Má ơi là má ơi!
Gã toan chạy vào trướng, nhưng lại nghĩ:
- Bọn quỷ La Sát đã muốn giết ta thì ta có vào trướng cũng bị chúng lôi ra lại càng thêm nhục.
Mặt xám như tro tàn, người run bần bật, gã đứng yên không nhúc nhích.
Hồng Triều hô:
- Đằng bài thủ! Chuẩn bị bảo vệ đại soái! Tiến lên.
Hai trăm sáu mươi quân đằng bài đồng thanh hô:
- Tuân lệnh!
Rồi chúng rầm rộ chạy tới đứng ở phía trước Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần.
Vi Tiểu Bảo rút đao trủy thủ ở ống giầy ra tự nhủ:
- Nếu bọn quỷ La Sát thực sự nổi tính man rợ, tất xảy một trường chiến đấu ác liệt, ta không thể phế bỏ điều nghĩa khí.
Gã liền mạnh dạn tiến ra đứng ở phía trước Sách Ngạch Đồ. Miệng gã hô:
- Sách đại ca đừng sợ. Đã có tiểu đệ bảo vệ cho đại ca.
Sách Ngạch Đồ là một văn quan, lão sợ quá chẳng còn hồn vía nào nữa, ấp úng đáp:
- Tiểu huynh... hoàn toàn... trông cậy vào huynh đệ.
Mười hàng kỵ binh Kha Tát Khắc xông tới rất lẹ. Khi chúng còn cách đội quân Thanh chừng năm sáu trượng thì tên đội trưởng đi trước vung trường đao chém dứ một đòn. Hắn quát to một tiếng. Đoàn kỵ binh lập tức dừng ngựa. Hai trăm sáu chục con tuấn mã đều dừng bước lại.
Tên đội trưởng lại hô một tiếng. Bọn kỵ binh rẽ ra chia làm hai toán. Một trăm ba chục tên quay về phía Bắc, một trăm ba chục tên quay về hướng Nam.
Chúng chạy ra mấy chục trượng quây lại thành vòng tròn và đứng cách xa trướng hồng ngoài hai trăm trượng. Đội ngũ vẫn tề chỉnh, không rối loạn chút nào.
Hai trăm sáu chục tên cưỡi hai trăm sáu mươi con ngựa đều răm rắp như một người cưỡi một ngựa. Quả nhiên chúng đã được huấn luyện rất tinh thục.
Phi Yến Đa La nổi lên tràng cười khanh khách, lớn tiếng hỏi:
- Công tước đại nhân! Đại nhân coi đội quân La Sát bên tệ quốc thế nào?
Vi Tiểu Bảo bây giờ mới hiểu hắn bất quá muốn khoa trương quân đội để thị uy. Trong lòng tức giận gã la lên:
- Đúng là một lũ khỉ làm trò, nếu đem dùng vào việc đánh trận thì toàn là đồ vô dụng.
Phi Yến Đa La tức giận hô:
- Chúng ta lại xông vào!
Miệng hắn lẩm bẩm:
- Lần này thử coi gã có chạy trốn không?
Hắn hô tiếp:
- Hãy lột hết nón đội trên đầu binh sĩ Trung Quốc!
Đội trưởng trong đội kỵ binh Kha Tát Khắc lại hô hiệu lệnh. Hai trăm sáu mươi tên quân kỵ liền xông vào.
Vi Tiểu Bảo quát:- Chém vào chân ngựa bọn chúng!
Hồng Triều hô:
- Xin tuân lệnh. Chặt chân ngựa, đừng giết người.
Tiếng vó ngựa rầm rầm như sấm nổ. Hai trăm sáu chục con ngựa chạy tới mỗi lúc một gần. Những thanh trường đao dưới ánh mặt trời lấp loáng có ánh sáng.
Đoàn kỵ mã chỉ còn cách ba chục trượng... hai chục trượng... mười trượng...
vẫn chưa dừng bước.
Khi còn cách bốn, năm trượng, Hồng Triều hô:
- Cổn Đường đao! Tiến lên!
Hai trăm sáu chục tên đằng bài thủ nhảy vọt lại, lăn mình dưới đất xông vào.
Hai trăm sáu chục tên quân này đều do Lâm Hưng Châu thân hành rèn dậy môn Địa Đường đao pháp rất thuần thục. Chúng dùng lá mộc bằng giây leo để hộ vệ, không hở ra chút đao quang nào.
Quân kỵ binh Kha Tát Khắc đột nhiên thấy Thanh binh lăn mình dưới đất rất lấy làm kinh dị.
Bọn thủ quân ở Nhã Tát Khắc đã nếm mùi đau khổ của bọn đằng bài thủ, nhưng kẻ thì chết rồi, kẻ thì bị bắt. Cánh thủ quân hoàn toàn tan vỡ. Đội kỵ binh Kha Tát Khắc này mới từ Mạc Tư Khoa hộ tống Phi Yến Đa La trong cuộc công du.
Trước nay chúng chưa được chứng kiến phép đánh trận của đằng bài binh, đều cho là bên địch ngu xuẩn quá mới lăn mình dưới đất. Chúng có bị ngựa xéo chết cũng không trách ai được.
Chỉ trong chớp mắt hàng đầu đội kỵ binh đã đụng phải quân đằng bài.
Đột nhiên tiếng ngựa thét vang, tới tấp ngã lăn ra.
Quân đằng bài vung lợi đao lên. Cứ mỗi đao là chém đứt một đôi chân ngựa.
Đã có đằng bài hộ thân, chúng lăn xả vào đâm chém.
Quân La Sát la ó vang trời pha lẫn với tiếng ngựa thét.
Đội đằng bài đã lăn vào tới hàng thứ mười bên địch và chém đứt một trăm bảy, tám chục đôi chân ngựa rồi xếp hàng ở phía sau đội kỵ binh Kha Tát Khắc.Có đến quá phần nửa quân Kha Tát Khắc bị ngã xuống còn mấy chục tên liền quay ngựa chạy trốn. Thế là đội quân tan vỡ.
Hồng Triều dẫn đội đằng bài binh chạy về thật mau đứng xếp hàng trước Vi Tiểu Bảo. Toàn đội hai trăm sáu chục người chỉ có mười mấy người bị ngựa dẫm lên hay đá bị thương, nhưng thương thế rất nhẹ. Chúng vẫn nhịn đau đớn và đứng nguyên trong hàng ngũ.
Hai trăm sáu chục tên kỵ binh Kha Tát Khắc, một số bị ngựa đè lên, nằm dưới đất rên rỉ kêu la, một số phóng ngựa chạy tán loạn ra tận đằng xa. Còn phần lớn đứng xuống đất, chân tay luống cuống.
Bọn kỵ binh này suốt đời kỵ mã, có ngồi trên lưng ngựa mới phát huy được tài kiêu dũng. Một khi hai chân đứng xuống đất là chẳng khác gì cá mất nước, không còn chỗ nương tựa để vùng vẫy.
Vi Tiểu Bảo hô:
- Chia quân lấy phân nửa bao vây đại quan La Sát!
Hồng Triều truyền hiệu lệnh ra. Một trăm quân đằng bài liền kéo đến bao vây bọn Phi Yến Đa La và bọn đại quan La Sát hơn chục người. Một trăm thanh đại đao tổ hợp thành một vòng tròn đao. Mũi đao hướng vào phía trong. Chỉ cần hô một tiếng hiệu lệnh là cả trăm thanh đại đao nhất tề phóng vào. Bọn Phi Yến Đa La sẽ lập tức bị đâm nát ra như tương.
Mấy tên chánh phó đội trưởng đoàn kỵ binh Kha Tát Khắc thấy tình trạng này vội chạy lại lớn tiếng la:
- Đừng có giết người! Đừng có giết người!
Vi Tiểu Bảo quay lại nhìn Song Nhi hiện cải trang làm thân binh , ra lệnh:
- Lại điểm huyệt chúng đi!
Song Nhi dạ một tiếng tung mình vọt tới sau lưng tên đội trưởng kỵ binh Kha Tát Khắc, thị điểm huyệt vào huyệt đạo sau lưng hắn, rồi lại điểm huyệt tên phó đội trưởng.
Một tên tiểu đội trưởng thò tay vào bọc rút súng lục ra quát:
- Không được nhúc nhích!Song Nhi chụp một tên quân La Sát đứng bên để che đỡ phía trước. Thị đẩy gã tiến lên mấy bước.
Tên tiểu đội trưởng kia không dám nổ súng, lại la lên:
- Không được nhúc nhích!
Song Nhi chụp tên La Sát đó nhấc bổng lên liệng tới.
Tên tiểu đội trưởng giật mình kinh hãi nghiêng mình né tránh.
Song Nhi thừa cơ nhảy lại điểm vào những huyệt dạo trước ngực và sau lưng gã rồi đoạt lấy khẩu súng lục trong tay đối phương. Thị trỏ súng lên trời bắn chỉ thiên đánh •đoàng• một tiếng:
Vi Tiểu Bảo hô lớn:
- Hay lắm! Hai bên đã hứa không được đem theo hỏa khí. Bọn quỷ La Sát các ngươi không kể gì đến chữ tín.
Gã tiến lại mấy bước nhìn Phi Yến Đa La nói:
- Này! Đại nhân bảo bọn thủ hạ liệng binh khí trong tay đi, xuống ngựa hết, xếp thành hàng ngũ. Tên nào còn dắt hỏa khí trong mình phải lôi ra hết.
Phi Yến Đa La nhận thấy mình không thể nào kháng cự được đành nghe theo lời Vi Tiểu Bảo truyền lệnh xuống.
Bọn kỵ binh Kha Tát Khắc đành liệng đao kiếm rồi xuống ngựa, xếp thành đội ngũ.
Vi Tiểu Bảo lại sai một trăm sáu chục tên đằng bài thủ bao vây bốn mặt ra sục tìm trong mình bọn quân La Sát.
Chúng lấy được hơn hai trăm tám chục khẩu súng lục vì trong đoàn kỵ binh hai trăm sáu mươi người, nhưng một số đem theo hai khẩu.
Bọn quân La Sát ở dưới chân thành Ni Bố Sở ngó thấy tình thế xảy biến cố liền từ từ tiến ra.
Mé Đông quân Thanh cũng lập tức tiến vào.
Hai bên cách nhau mấy trăm bước thì dừng lại dàn trận đối lập.Đoàn quân La Sát thấy chủ soái bị vây đành ngấm ngầm kêu khổ, không dám tự động.
Vi Tiểu Bảo hỏi Phi Yến Đa La:
- Hầu tước đại nhân! Đại nhân cho đem nhiều hỏa khí đến làm gì vậy?
Phi Yến Đa La cúi đầu đáp:
- Xin lỗi Công tước đại nhân! Bọn vệ binh thủ hạ của tệ nhân không theo mệnh lệnh, ngầm đeo hỏa khí. Tệ nhân sẽ trọng phạt bọn chúng.
Vi Tiểu Bảo hô:
- Đằng bài thủ! Các ngươi cởi hết y phục ra để họ coi có ngầm dấu hỏa khí không?
Hai trăm sáu chục tên đằng bài thủ bỏ lá mộc xuống. Tay mặt giơ đại đao lên cao để đề phòng đối phương hành động bất trắc. Chúng dùng tay trái để cởi áo.
Mọi người cởi áo rồi, mình trần trùng trục, nhảy lên mấy cái. Quả nhiên không một ai đeo súng.
Phi Yến Đa La trong lòng hổ thẹn, cúi đầu xuống không dám nói gì.
Vi Tiểu Bảo lại lớn tiếng:
- Bọn người La Sát mặt dầy không thủ tín, chẳng thể tin được. Lột quần áo bọn chúng ra khám kỹ lại xem có còn hỏa khí không?
Phi Yến Đa La kinh hãi vội nói:
- Công tước đại nhân! Xin đại nhân rộng ơn cho. Đại nhân... đại nhân... mà lột quần tệ nhân, thì tệ nhân... đành chịu tự sát...
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Cái gì thì được, còn việc cởi quần thì không thể khoan miễn.
Phi Yến Đa La năn nỉ:
- Xin đại nhân khoan thứ cho một lần. Nhất thiết mọi điều gì khác, tệ nhân đều xin tuân theo ý kiến của đại nhân.
Vi Tiểu Bảo hỏi:- Vừa rồi đội kỵ binh của Hầu tước đại nhân xông lại làm cho bản sứ khiếp quá phải chui vào gầm bàn, như thế còn chi là thể diện của Công tước đại nhân?
Vụ này Hầu tước đại nhân tính sao đây?
Phi Yến Đa La mắng thầm:
- Cái đó tự ngươi nhát gan, ta biết làm thế nào?
Nhưng ngoài miệng hắn đáp:
Tệ nhân xin nguyện ý bồi thường những sự tổn thất của đại nhân.
Vi Tiểu Bảo trong lòng hoan hỷ nghĩ thầm Đến lúc làm tiền được rồi đây.
Nhưng trong lúc nhất thời gã nghĩ không ra bắt đối phương bồi thường bằng cách nào, liền hạ lệnh:
- Hãy cắt đai quần từ đại quan cho đến tiểu binh La Sát.
Bọn đằng bài thủ hô lớn:
- Xin tuân lệnh!
Chúng giơ đao lên thò vào sau lưng bọn người La Sát, quay lưỡi ra ngoài kéo một cái. Lập tức đai lưng bị đứt liền.
Bọn người La Sát từ Phi Yến Đa La trở xuống chẳng một ai là không sợ hết hồn, hai tay giữ chặt cạp quần chỉ sợ tụt mất.
Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười khanh khách ra lệnh:
- áp giải bọn người La Sát, nổi hiệu đắc thắng đưa về doanh trướng.
Lúc này quan binh La Sát ai cũng chỉ lo tụt quần, tuyệt không dám kháng cự, riu ríu theo bọn Thanh binh giữ nguyên đội ngũ đi về phía Đông.
Đông Quốc Cương cười nói:
- Trí kế của Vi đại soái quả là thần diệu. Ai cũng phải khâm phục. Chỉ trong khoảnh khắc mà •Cột• được hai tay của hết thảy ba trăm quan binh La Sát.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:- Bọn nam nhân La Sát sợ nhất là bị tụt quần. Trái lại, bọn nữ nhân không ngán vụ đó. Thế có lạ không?
Bọn Đông Quốc Cương híp mắt lại mà cười một cách mê ly.
Đoàn người và đại quân hội họp rồi, đoàn quân Thanh đẩy hơn hai trăm cỗ súng lớn ra, bỏ áo súng đi, miệng súng chĩa về phía quân La Sát.
Thời bấy giờ tuy hỏa khí nước La Sát đã lợi hại lắm, nhưng ở phía Đông cũng không đem đến nhiều bằng Vua Khang Hy đã chuẩn bị cho một cuộc đại chiến.
Có đến phân nửa súng ống được điều động cho trận tuyến Ni Bố Sở. Bất luận về binh lực hay hỏa khí bên quân Thanh cũng nhiều hơn gấp mấy lần.
Cánh quân La Sát đột nhiên ngó thấy rất nhiều súng lớn, đều ngơ ngác nhìn nhau, lộ vẻ cực kỳ khiếp sợ.
Các tướng thống lĩnh quân đội vội truyền lệnh đóng cổng thành lại. Nhưng quân Thanh cũng không đánh thành.
Lúc này đội trưởng, phó đội trưởng và một tên tiểu đội trưởng đoàn kỵ binh Kha Tát Khắc đã bị Song Nhi điểm huyệt không nhúc nhích được. Ba tên này đứng ở chỗ đất trống coi chẳng khác gì nhưng pho tượng gỗ.
Các binh tướng La Sát hối hả chạy vào thành, chưa kịp lưu tâm đến. Bây giờ đứng trên mặt thành nó thấy đều lấy làm kinh dị, nhưng chẳng ai dám chạy ra cứu viện.
Sau chừng nửa giờ họ thấy ba người vẫn đứng trơ không nhúc nhích, một đội kỵ binh Kha Tát Khắc mở cửa thành đến cứu.
Nhưng đội kỵ binh này mới đi được hơn mười trượng, bỗng nghe quân Thanh nổ mấy phát súng lớn.
Tướng thủ thành vội nổi hiệu lui quân. Đội kỵ binh Kha Tát Khắc lại lật đật quay về. Chúng sợ quân Thanh kéo đến thì cả đội quân đi cứu viện cũng bị vây hãm.
Quân hai bên cách nhau đến mấy trượng. Ở đằng xa ngó thấy ba người đứng không nhúc nhích, tư thế rất quái dị rất lấy làm kỳ, bỗng nghe quân Thanh nổi lên tràng cười ho hố, hết thảy La Sát binh càng kinh hãi hơn.Vi Tiểu Bảo đưa bọn Phi Yến Đa La vào trong doanh trướng.
Chủ khách an tọa rồi, bọn thân binh bưng trà ra mời.
Vi Tiểu Bảo chỉ cười hì hì chứ không nói gì.
Phi Yến Đa La tức giận lên tiếng:
- Công tước đại nhân! Đại nhân đừng đem tệ nhân ra làm trò cười nữa. Đại nhân muốn giết thì giết quách đi cho rồi!
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
- Bản sứ cùng Hầu tước đại nhân là chỗ bạn hữu, sao lại giết nhau được? Bây giờ chúng ta lại bàn đến chuyện phân chia cương giới.
Gã cho là lúc này các đại thần bên đối phương đã lọt vào tay mình thì bất luận mình đưa ra điều khoản gì, họ cũng khó lòng chống lại.
Không ngờ Phi Yến Đa La là một quân nhân xuất thân bản tính rất quật cường. Hắn ngang nhiên đáp:
- Tệ nhân là tù binh của đại nhân, không còn là sứ thần ngang hàng để thương nghị việc hoạch định cương giới nữa. Tệ nhân đã ở dưới sự uy hiếp của đại nhân thì điều khoản gì cũng không thể đàm phán được. Dù đàm phán thành tựu, kiềm chữ rồi, cũng coi là vô hiệu.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Sao lại vô hiệu?
Phi Yến Đa La đáp:
- Nhất thiết mọi điều khoản đều do đại nhân định đoạt thì còn đàm phán cái gì? Đại nhân không thể bức bách tệ nhân đàm phán được?
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Sao lại không bức bách đại nhân đàm phán được?
Phi Yến Đa La đáp:
- Nói tóm lại là tệ nhân không chịu khuất phục. Đại nhân vung đao chém hay nổ súng bắn chết tệ nhân thì cứ việc động thủ đi!Vi Tiểu Bảo cười hỏi:
- Nếu bản sứ kêu người lột trần Hầu tước thì sao?
Phi Yến Đa La tức giận đến cùng cực, đứng phắt dậy quát:
- Ngươi...
Hắn vừa nói được tiếng ngươi, đột nhiên quần tụt xuống, vội đưa tay nắm lấy.
Nguyên đai quần hắn đã bị đứt. Lúc ngồi trên ghế, không cần để tay giữ cạp quần. Trong cơn thịnh nộ, hắn đứng phắt dậy, quên mất vụ này. May mà hắn còn cứu vãn kịp thời, chưa đến nỗi hở hang làm cho xấu mặt.
Các đại quan và bọn tùy tùng bên Thanh ở trong trướng không sao nhịn được đều nổi lên tràng cười rộ.
Phi Yến Đa La tức giận đến sắc mặt lợt lạt mà hai tay vẫn phải nắm giữ cạp quần, bộ dạng coi rất tức tưởi.
Hắn toan đưa ra những lời khích ngang khẳng khái một phen cho bõ tức. Khốn nỗi hai tay còn bận việc, không thể chỉ trỏ vung múa cho thêm uy thế. Hắn muốn hiên ngang cũng chỉ đến được hạn độ nào mà thôi.
Phi Yến Đa La hắng giọng mấy tiếng, ngồi xuống nói:
- Ta là Khâm sứ của Sa Hoàng bệ hạ nước La Sát, ngươi không làm nhục ta được. Bậc đại trượng phu thà chết chứ không chịu nhục.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Hầu tước đại nhân cứ yên lòng. Bản sứ không làm nhục đâu. Chúng ta hãy hòa hảo mở lại cuộc đàm phán phân chia cương giới.
Phi Yến Đa La móc túi lấy khăn bịt cửa miệng buộc quanh ra sau gáy để tỏ ý không lên tiếng về cuộc hòa đàm.
Vi Tiểu Bảo sai thân binh đem rượu ngon nhắm tốt bày lên bàn. Gã rót rượu ra chung, cười nói:
- Mời đại nhân! Đại nhân bất tất phải khách sáo.
Phi Yến Đa La ngửi thấy mùi rượu thơm ngát không nhịn được, cởi khăn tay, nâng chung lên uống.Vi Tiểu Bảo cười hỏi:
- Hầu tước đại nhân lại dùng đến miệng ư?
Phi Yến Đa La uống rượu ăn thịt, vẫn không trả lời, tỏ ra dùng miệng để ăn uống chứ không để nói.
Vi Tiểu Bảo tiếp tục khuyên mời. Gã nghĩ bụng cho hắn uống say hoặc giả làm cho hắn phải khuất phục.
Không ngờ Phi Yến Đa La uống mười mấy chung rồi, cầm khăn lau miệng xong bịt lại buộc chằng ra sau như trước.
Vi Tiểu Bảo thấy tình trạng này không khỏi bật cười. Gã sai thân binh dẫn hắn vào hậu trướng nằm nghỉ và ra lệnh canh giữ nghiêm mật.
Vi Tiểu Bảo cùng bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương ngồi lại bàn cách đối phó.
Đông Quốc Cương nói:
- Thằng cha này quật cường như vậy, hắn kiên quyết không chịu cùng chúng ta mở cuộc hòa đàm mà chịu tha hắn về thì thật chẳng cam tâm chút nào.
Sách Ngạch Đồ hiến kế:
- Hãy giam giữ hắn mươi ngày hay nửa tháng, mỗi bữa làm thịt mấy tên quỷ La Sát trước mặt hắn, thử xem hắn có quật cường mãi không?
Đông Quốc Cương đáp:
- Nếu chúng ta bức bách quá, hắn tự tử thì thật rầy rà! Chúng ta dùng võ lực bắt đại thần của đối phương ép việc nghị hòa, không chừng Hoàng thượng còn gia tội bọn mình nữa.
Sách Ngạch Đồ gật đầu nói:
- Đông Công gia nói thế là phải. Mình cứ một mực dùng cương cũng không được.
Các đại thần thương nghị hồi lâu vẫn chưa tìm ra diệu sách.Bữa nay bắt được Phi Yến Đa La tuy là một phen thắng trận, nhưng không hợp với chủ ý của Vua Khang Hy trong cuộc mưu hòa, mà còn phản bội đại kế của triều đình. Nếu không khéo xử lý sẽ phạm vào trọng tội vi chỉ.
Sau các đại thần đều khuyên Vi Tiểu Bảo nên buông tha Phi Yến Đa La.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Được rồi! Chúng ta hãy giữ hắn lại một đêm, sáng mai sẽ thả về cũng chưa muộn.
Gã vào tẩm trướng bước lui rồi lại bước tới để suy nghĩ kế hoạch, đột nhiên gã lẩm bẩm:
- Bữa trước ta đã theo bài học của Gia Cát Lượng phóng hỏa đốt hang Bàn Xà và đại thắng ở Nhã Tát Khắc. Nay ta lại học Chu Du chơi Tưởng Cán ở Hội Quần Anh.
Gã tính toán hồi lâu sắp đặt kế hoạch rồi trở ra quân trướng.
Vi Tiểu Bảo truyền thân binh đi mời vị giáo sĩ Hà Lan tới để dặn dò mật kế.
Gã lại sai người kêu Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào trướng khẽ dặn làm như thế, như thế...
Gã còn gọi bốn tướng và đội trưởng đội thân binh vào bảo làm như vậy như vậy...
Mọi người lãnh mạng lui ra.
Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nắc Phu tuy biết vụ này cực kỳ ngoắt ngoéo, nhưng ngó thấy bốn tên thân binh tay cầm đại đao lăm lăm đứng ở phía sau dĩ nhiên chúng chỉ còn cách vâng dạ luôn miệng, không dám phản bội.
Phi Yến Đa La nằm nghỉ trên giường trong hậu trướng, những luồng tư tưởng nổi lên như sóng cồn. Lúc thì kinh hãi, lúc lại hối hả, hắn trằn trọc không sao ngủ được.
Bỗng nghe tiếng ngáy như sấm ở ngoài cửa trướng. Ba tên lính canh đều là thân binh ngủ say cả rồi.
Phi Yến Đa La nghĩ bụng:- Ta đã lọt vào tay bọn Man tử Trung Quốc mà không chịu những điều khoản của chúng đưa ra, tất khó bề thoát thân. Sáng mai tên tiểu quỷ kia không chừng nổi nóng vung đao chém giết mình, há chẳng oan uổng ru? May mà trời còn thương:
Ba tên quân canh ngủ cả rồi. Chi bằng ta mạo hiểm trốn đi.
Hắn liền rón rén ngồi dậy, cởi sợi dây da đeo trên vai xuống để thắt lưng cho khỏi tụt quần.
Phi Yến Đa La cất bước nhẹ nhàng lần về phía cửa trướng, vẫn thấy ba tên thân binh tựa vào cột trướng ngủ say. Hắn vươn tay ra sau lưng một tên thân binh định rút lấy thanh bội đao. Ngón tay hắn sắp đụng vào đốc đao thì đột nhiên tên thân binh này ngáp dài một cái.
Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi, vội rụt tay về.
Sau một lúc, hắn không thấy động tĩnh gì, lại toan cử động rút bội đao của tên thân binh khác.
Giữa lúc ấy tên thân binh kia vươn vai một cái, miệng nói mấy câu mơ ngủ.
Phi Yến Đa La không dám chần chừ, rón rén bước ra cửa trướng, mừng thầm ba tên thân binh đều không phát giác.
Phi Yến Đa La ra ngoài trướng rồi, đứng thu mình trong bóng tối.
Bỗng thấy bên ngoài có bọn vệ binh tay cầm đèn lồng, tay cầm đơn đao đi tuần tiễu.
Phi Yến Đa La đảo mắt nhìn quanh thấy ba mặt Bắc, Đông, Nam đều có quân lính đi tuần, chỉ một mặt Tây là tối mò, dường như không người. Hắn liền từ từ cất bước tiến về phía đó. Mỗi khi thấy đội quân tuần phòng tới gần, hắn lại co mình đứng nép vào sau trướng bồng. May mà dọc đường đi về phía Tây, hắn được bình yên vô sự.
Phi Yến Đa La vừa đến phía sau tòa đại trướng, đột nhiên mé Tây có đội tuần tiễu đi tới, hắn vội ẩn vào sau trướng.
Phi Yến Đa La đột nhiên vẳng nghe trong trướng có người nói chuyện mà nói bằng tiếng La Sát.
Tài sản của ngocvosong1986

Ðề tài đã khoá

Từ khóa được google tìm thấy
�������, �����, ��������, ������, ����������, �������, �����, ������, �������, ������, �����������, �����, ������, ��������, ������, �����, �������, �������, ����������, ����������


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™

Tự độngTELEXVNITắtChính tảKiểu cũ