Vụ ám sát đã giúp Kennedy giành được số phiếu cao nhất. Vào tháng Một, Francis Xavier Kennedy đã tái trúng cử nhiệm kỳ Tổng thống Hoa Kỳ. Chiến thắng quá lớn nên ông gần như đưa được toàn bộ số ứng cử viên của mình vào cả hai viện trong Quốc hội.
Trong thời kỳ trước khi nhậm chức, từ tháng Mười Một đến tháng Giêng, Francis Kennedy giao cho chính phủ của ông phác thỏa những dự luật mới dành cho Quốc hội mới và cũng nhau hợp tác. Hơn nữa ông được báo chí và vô tuyến hỗ trợ bằng cách dựng lên những câu chuyện tưởng tượng cho rằng Gresse và Tibbot đã dính líu với Yabril và vụ mưu sát Tổng thống.
Tổng thống Kennedy triệu tập Theodore Tappey, giám đốc CIA, tới họp bàn riêng tại phòng Yellow Oval. Cuộc gặp mặt chỉ có hai người, ông không muốn có nhân chứng thứ ba, không muốn ghi chép, thu băng lại.
Kennedy đi thẳng ngay vào vấn đề, không để mất thời gian xã giao vô ích. Ông ngắn gọn bảo Tappey.
- Anh Theo, chúng ta có một vấn đề lớn mà chỉ anh và tôi mới hiểu rõ. Và chỉ anh và tôi mới có thể giải quyết được.
- Thưa Tổng thống, tôi xin làm với hết sức mình. - Tappey nói. Kennedy nhận thấy trong ánh mắt ông ta để lộ một vẻ hung dữ.
- Tất cả những điều ta trao đổi đây phải giữ tuyệt mật. Anh tuyệt đối không nói lại với bất kỳ một ai, thậm chí cả với các thành viên trong bộ tham mưu của tôi.
Mãi lúc này Tappey mới hiểu rõ rằng vấn đề cực kỳ tế nhị, ngay cả không một ai trong bộ tham mưu được biết cả.
- Đấy là chuyện Yabril. - Kennedy bảo - Tôi tin chắc rằng Yabril sẽ phải ra trước tòa xét xử. Điều này sẽ khơi lại tất cả những nỗi oán giận của đất nước Hoa Kỳ. Hắn sẽ bị kết án và bị xử tù chung thân. Nhưng trong trường hợp xấu nhát thì sẽ xảy ra một hành động khủng bố, bắt mộg số con tin quan trọng. Một trong những yêu sách sẽ là đòi thả Yabril. Lúc đó có thể đã chấm dứt nhiệm kỳ Tổng thống của tôi và tôi không còn là Tổng thống, do đó Yabril sẽ được thả tự do. Hắn là một con người nguy hiểm.
Kennedy bắt gặp một vẻ hoài nghi trong ánh mắt Tappey, mà ông ta cố che giấu. Tappey là người dày dạn kinh nghiệm, thường không để lộ tình cảm của mình qua nét mặt, ánh mắt và qua đôi môi. Ông ta luôn giữ vẻ lạnh lùng, khó nhận rõ phản ứng trong lòng ông ta.
Nhưng lúc này Tappey mỉm cười :
- Chắc Tổng thống đã đọc bản tin thế giới do trưởng ban phản gián đã trao cho tôi. Sự việc này quả đúng như ông ta đã nói.
- Nếu vậy, ta sẽ ngăn ngừa toàn bộ vấn đề này bằng cách nào? - Kenneyd hỏi.
Nhưng đây là vấn đề hơi bị cường điệu nên Tappey im lặng không nói gì, Kennedy quyết định đã đến lúc phải nói thẳng ra :
- Tôi hứa với anh rằng tôi có thể thuyết phục Yabril chấp nhận làm một cuộc thử nghiệm kiểm tra não. Tôi sẽ thận trọng với hắn. Công chúng cần biết rõ kết quả kiểm tra xem Yabril có dính líu gì vào vụ đánh bom nguyên tử không và đồng thời chứng tỏ rõ toàn bộ những vụ việc này có nằm trong vụ âm mưu mang tính toàn cầu không.
- Chúng ta thực sự chẳng cần tới câu trả lời của Yabril, đúng không ạ?
- Không. - Kennedy đáp.
Tappey hỏi tiếp :
- Christian có tham gia việc này không?
Kennedy không biết trả lời ra sao. Đây là vấn đề khó xử nhất, ông chưa biết giải quyết ra sao. Mãi sau ông mới chậm rãi bảo :
- Hãy quên Christian đi.
Tappey đã vỡ lẽ. Tappey đưa mắt nhìn Kennedy như người đầy tớ trung thành nhìn chủ chờ được giao phó một công việc sẽ gắn bó mãi mãi chủ và tớ.
- Tôi hy vọng rằng sẽ không nhận được chỉ thị nào ghi bằng văn bản. - Tappey nói.
- Không. - Kennedy đáp - Tôi sẽ trao cho anh những chỉ thị đặc biệt ngay bây giờ.
- Rất đặc biệt, - Theodore Tappey nói - nếu Tổng thống thấy tin được, thưa Tổng thống.
Kennedy mỉm cười và bảo :
- Bác sĩ Annaccone chẳng đời nào chịu tiến hành cuộc kiểm tra.
- Thưa Tổng thống, tôi đã rõ ạ. - Tappey nói.
Kennedy nhận thấy rằng chẳng cần phải ngập ngừng ấp úng nữa, ông nêu thẳng vấn đề với Theodore Tappey :
- Sau khi Yabril chấp nhận chịu kiểm tra, tôi sẽ chuyển hắn sang bên y tế trực thuộc CIA các anh. Đội y tế của anh sẽ tiến hành cuộc thăm dò kiểm tra não.
Kennedy đọc được qua ánh mắt của Tappey để lộ một vẻ nghi ngờ, không phải vì dã xúc phạm trắng trợn đạo lý, mà ngại rằng mình không thể thực hiệnd dược.
- Chúng ta không nói đến chuyện giết chóc ở đây. - Kenneyd sốt ruột bảo - Tôi không đến nỗi ngu xuẩn hoặc mất đạo lý như vậy. Nếu muốn làm chuyện đó, tôi đã bảo Christian làm rồi.
Tappey ngồi giỏng tai chờ.
Kennedy biết rằng mình đã nói ra những lời tai hại.
- Tôi thề rằng đành phải hành động như vậy chỉ cốt để bảo vệ đất nước ta. Dù ngồi tù hoặc được thả ra, phải làm sao để Yabril không còn là mối nguy hại nữa. Tôi muốn đội y tế của anh sử dụng đến mức tối đa giới hạn cho phép trong nghị định thư. Sau khi bị tiêm thuốc vào não kiểm tra, người bị kiểm tra hoàn toàn không còn trí nhớ. Một người không còn trí nhớ, không niềm tin và không nhận thức được tội lỗi là một người vô hại. Hắn sẽ sống một cuộc đời bình lặng.
Kennedy đọc được những điều để lộ trong ánh mắt Tappey. Đó là ánh mắt của một con thú ăn mồi sống, vừa đánh hơi thấy những loài lạ khác cũng độc ác ngang nó.
- Anh có thể tập hợp được một đội có thẻ tiến hành công việc này không? Kennedy hỏi.
- Để tôi giải thích cho rõ tình huống. - Tappey nói - Họ sẽ không bao giờ được tuyển nếu họ không trung thành với tổ quốc.
Khuya hôm đó, Tappey giải Yabril tới khu vực của Kennedy. Cuộc gặp mặt không kéo dài và Kennedy rất tất bật. Không có trà, chẳng cần phép lịch sự. Kennedy đi thẳng ngay vào việc, ông trình bày lời đề nghị của mình.
Kennedy bảo Yabril :
- Điều cực kỳ quan trọng với Hoa Kỳ là chúng tôi muốn được biết rõ xem anh có đóng một vài trò nào đó trong vụ âm mưu đánh bom nguyên tử hay không. Cốt là để xua tan nỗi sợ của dân chúng thôi. Điều quan trọng đối với anh là tên tuổi của anh phải được xóa sạch trong vụ đặc biệt này. Bây giờ, sự việc rành rành là anh sẽ phải ra tòa vì các tội trạng khác của anh và sẽ bị kết án tù chung thân. Nhưng tôi hứa với anh rằng anh sẽ được liên lạc với bè bạn của anh ở bên ngoài. Chúng ta cứ coi như là họ khá có tình có nghĩa với anh nên sẽ tạo dựng nên một vụ bắt cóc và đòi đổi anh. Tôi sẽ chấp thuận yêu cầu đó. Nhưng tôi chỉ có thể làm được điều đó một khi anh đã rũ sạch tội trong vụ đánh bom nguyên tử... Tôi thấy anh còn có vẻ nghi ngờ.
Yabril nhún vai và nói :
- Tôi thấy lời đề nghị của ông thật quá rộng lượng.
Kennedy dồn toàn bộ sức mạnh để làm việc đáng phải làm. Ông nhớ lạiYabril ve vãn con gái ông, Theresa, trước khi gí súng vào cổ cô. Sự ve vãn tương tự sẽ không xong với Yabril. Ông chỉ có thể thuyết phục con người này bằng cách làm cho hắn tin vào giá trị đạo lý thật sự của chính bản thân ông.
- Tôi làm điều này để xóa bỏ nỗi sợ ra khỏi tâm trí đất nước tôi. - Kennedy nói - Đây là quan niệm lớn nhất của tôi. Niềm vui của tôi là được thấy anh mãi mãi bị cầm tù. Do đó, tôi đưa ra đề nghị này chẳng qua chỉ vì trách nhiệm của tôi.
- Nếu vậy tại sao ông phải có bộ mặt đau khổ như vậy để thuyết phục tôi? - Yabril hỏi.
- Bản chất của tôi không muốn trưng trách nhiệm, coi đó là một thủ tục. - Kennedy nói và ông nhận thấy Yabril bắt đầu tin ông. Ông lại thấy thoáng qua trong đầu hình ảnh Theresa và niềm tin của con gái ông vào lòng tốt của Yabril. Sau đó ông bảo Yabril - Ông đã bị thúc ép trước lời đề nghị cho rằng nhân dân ông bố trí vụ nổ một trái bom nguyên tử. Đây là một cơ hội để xóa sạch tên tuổi ông và các bè bạn của ông. Sao ông không chấp nhận? Ông sợ rằng sẽ không vượt qua được cuộc kiểm tra?
Yabril nhìn thẳng vào mắt Kennedy và nói :
- Tôi không tin rằng bất kỳ ai cũng có thể bỏ qua cho tôi những gì tôi đã gây ra cho ông.
Kennedy im lặng. Trông ông mệt mỏi. Nhưng ông đã không bị thất vọng. Đây đúng là bản chất mục nát của Hoa Kỳ khi đưa ra một lời đề nghị như vậy để thực hiện một mục tiêu chính trị phi đạo lý.
Yabril không biết tí gì về những sự việc đã xảy ra trong sáu tháng qua. Gã bị cách ly dấn mình sâu vào hết cuộc hỏi cung này đến cuộc hỏi cung khác. Kennedy giục :
- Chấp nhận cuộc kiểm tra các câu trả lời là hy vọng duy nhất của anh muốn được thả tự do. Tất nhiên là anh vượt qua được.
Kennedy thở dài rồi nói tiếp :
- Tôi không tha thứ cho anh. Nhưng tôi hiểu rõ những hành động của anh. Tôi biết rõ cảm nghĩ của anh khi cho rằng những việc làm của anh sẽ cứu giúp thế giới của chúng ta. Đúng như toi làm điều tôi đang làm lúc này. Và điều này nằm trong phạm vi những quyền hạn của tôi. Chúng ta là những con người khác biệt nhau, tôi không thể làm điều anh làm, còn anh, ý tôi muốn nói, do không có điều kiện, anh không thể làm nổi điều tôi đang làm bây giờ. Nghĩa là trả lại tự do cho anh.
Kennedy buồn bã nhận thấy ông đã thuyết phục được Yabril. Ông tiếp tục thuyết phục gã, ông giở mọi tài trí, mọi sức mê hoặc, tính chính trực của mình. Ông đã để lộ rõ mọi hình ảnh một thời ông đã từng có, để lộ rõ những gì Yabril đã biết về ông trước khi ông để mất toàn bộ bản thân mình để thuyết phục Yabril. Ông biết mình hoàn toàn thành công lúc nhìn thấy nụ cười trên mặt Yabril, một bộ mặt đáng thương và đáng coi khinh. Lúc đó ông hiểu rằng mình dã chiếm được niềm tin của Yabril.
Bốn ngày sau cuộc hỏi cung bằng biện pháp y học tiến hành trên não bộ Yabril, sau khi tên khủng bố được trao trả cho FBI canh giữ, gã đã tiếp hai vị khách. Đó là Francis Kennedy và Theodore Tappey.
Yabril hoàn toàn không bị kiềm khống chế và đã được tháo cùm.
Ba người ngồi thanh thản một tiếng đồng hồ uống trà và ăn bánh xănguých nhỏ. Kennedy ngắm kỹ Yabril. Bộ mặt gã xem ra đã thay đổi. Đấy là một khuôn mặt nhạy cảm; ánh mắt u sầu, nhưng vui vẻ. Gã nói ít nhưng chăm chăm nhìn Kennedy và Tappey tựa như muốn tìm lời giải đáp cho một điều bí ẩn nào đó.
Xem ra gã toại nguyện. Xem ra gã đã biết rõ mình là ai. Xem ra gã rạng rỡ trước vẻ trong trắng về tâm hồn làm Kennedy không dám nhìn gã và cuối cùng cũng bắt chước gã.
Quyết định về Christian Klee thậm chí còn đau lòng hơn đối với Francis Kennedy. Đây là điều ngạc nhiên bất ngờ cho Christian. Kennedy mời Christian tới Phòng Yellow họp riêng.
Nhưng Francis Kennedy bắt đầu cuộc họp bằng cách vội vã nói :
- Anh Christian, tôi đối với anh thân thiết hơn bất kỳ một ai ngoài gia đình tôi. Tôi cho rằng chúng ta hiểu rõ nhau rõ hơn bất kỳ ai biết về chúng ta. Do đó anh hiểu rằng tôi buộc lòng phải yêu cầu anh từ chức ngay sau lễ nhận chức.
Christian Klee đưa mắt nhìn khuôn mặt thanh nhã đang dịu dàng mỉm cười. Ông ta đã không tin rằng Kennedy thải ông mà không hề có lời giải thích nào. Ông ta vội nói :
- Tôi biết rằng tôi đã hơi đi ngang đi tắt nơi này chỗ khác một chút. Nhưng mục tiêu tối cao của tôi là bảo vệ anh khỏi bị hại.
- Anh để vụ âm mưu đánh bom hạt nhân bùng nổ. Anh có thể ngăn chặn vụ đó. Christian Klee rất lạnh lùng cân nhắc tình huống. Ông ta không bao giờ có thể yêu mến Kennedy như trước. Ông ta không bao giờ tin vào lòng nhân đạo của chính Kennedy, vào tính đúng mức của những việc Kennedy đã làm. Bỗng nhiên, ông ta nhận thấy rằng mình không bao giờ có thể chịu đựng nổi gánh nặng này. Lẽ ra Francis Kennedy phải chia sẻ trách nhiệm về những chuyện đã xảy ra, thậm chí cả những chuyện thầm kín.
Christian Klee nhìn thẳng vào cặp mắt xanh lơ mà ông ta đã biết quá õ và tìm kiếm một chút vẻ nhân từ.
- Anh Francis, - Christian Klee nói - anh đã muốn tôi làm những điều tôi đã làm. Cả hai ta đều biết rõ đấy là điều duy nhất có thể cứu anh - tôi biết anh không thể ban một quyết định như vậy. Vì nó sẽ diệt anh, anh đã quá yếu, anh Francis. Anh Francis, mong anh đừng kết tội tôi, phán xét tôi. Họ đã có thể cách chức anh và anh không bao giờ chịu đựng nổi điều đó. Anh đã rất thất vọng và tôi là người duy nhất nhận biết điều đó. Họ dã không để anh trả thù cho con gái anh. Họ đã có thể trả tự do cho Yabril, họ đã có thể để Hoa Kỳ bị lâm vào tình trạng nhục nhã.
Nói đến đây, Christian Klee ngừng lời, ông sửng sốt nhận thấy Francis Kennedy vẫn điềm tĩnh nhìn ông ta. Mãi sau Kennedy mới lên tiếng :
- Như vậy anh cho rằng tôi hành động chỉ là để trả thù thôi đấy.
- Không phải trả thù Yabril, - Christian Klee nói - mà để trả thù số phận.
- Anh có thể ở lại cho tới sau lễ nhậm chức. - Kennedy bảo - Anh giữ một chức vụ nguy hiểm, một chiếc bia đấy. Tôi muốn anh rời khỏi vị trí này để có thể dẹp đi những chuyện lộn xộn.
Kennedy ngừng lời một lát, rồi nói tiếp :
- Anh đã lầm khi cho rằng anh đã làm những điều tôi muốn anh làm, anh Chris. Anh đã lầm khi cho rằng tôi hành động chỉ vì ham muốn trả thù.
Christian Klee cảm thấy một sự sụp đổ chưa rõ nét cuốn ông ta bứt ra khỏi thế giới của mình, một nỗi đau mà ông ta thậm chí chưa xác định được. Ông ta nói :
- Anh Francis, tôi biết anh, tôi hiểu anh. Chúng ta luôn sống với nhau như hai anh em ruột. Tôi luôn cảm thấy như vậy, luôn cảm thấy chúng ta thật sự là hai anh em ruột. Và tôi đã cứu anh đúng như thể người anh em mới có thể làm vậy. Tôi đã quyết định, tôi có tội. Tôi có thể để thế giới lên án tôi, chứ không phải anh.
Christian Klee ngừng lời một lát, rồi nói tiếp :
- Anh Francis, anh càn có tôi. Thậm chí cả sau này, một khi anh đang đi theo chiều hướng hành động như anh đang tiến hành. Anh nên giữ tôi lại.
Francis Kennedy thở dài, rồi nói tiếp :
- Anh Christian, tôi đâu có vặn vẹo về lòng trung kiên của anh. Nhưng sau lễ nhậm chức, anh sẽ ra đi. Chúng ta sẽ không bao giờ tranh luận về vấn đề này nữa.
- Tôi đã làm vậy để cứu anh. - Christian Klee nói.
- Và anh đã làm. - Kennedy bảo.
Christian Klee nghĩ tới cái ngày đầu tháng Chạp bốn năm trước đây khi Francis Kennedy, vị Tổng thống vừa được bầu của Hoa Kỳ, đã đứng đợi ông ta ở bên ngoài tu viện tại Vermont. Kennedy biến mất tăm suốt cả một tuần lễ. Báo chí và các chính khách đối thủ của ông đã đoán rằng ông đi điều dưỡng tâm thần, ông đã bị suy nhược, họ thậm chí còn dựng chuyện ông đi lén lút dan díu. Nhưng chỉ có hai người - cha tu viện trưởng và Christian Klee - biết rõ sự thật. Francis Kennedy rút vào sống ẩn dật để được hoàn toàn tĩnh tâm chịu tang vợ.
Đúng một tuần sau khi trúng cử, Christian Klee đã phải tự lái xe đưa Kennedy đến nhà thờ Thiên chúa giáo nằm ngay ngoài White River Junction ở Vermont. Họ chào hỏi cha tu viện trưởng là người biết rõ Kennedy là ai. Khi chia tay, Christian Klee tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với Kennedy trong suốt một tuần lễ sắp tới. Ông ta suýt phát khóc. Ông ta ôm vai Kennedy và nói:
- Anh có muốn tôi ở lại với anh không?
Kennedy lắc đầu và bước vào trong cửa tu viện.
Hôm sau Neol là một ngày đẹp trời, cả thế giới như nằm gọn dưới một chiếc lồng kính, bầu trời trong vắt tựa gương soi, còn mặt đất rám nắng vàng ngả màu thép.
Khi Christian Klee đưa xe đến đón Kennedy, vừa tới cổng tu viện, ông ta đã thấy Kennedy đứng một mình đợi, không có hành lý gì, hai tay Kennedy giơ cao lên trời, người vươn thẳng. Ông gần như hân hoan sắp được tự do.
Christian Klee bước ra để chào Kennedy. Kennedy vội ôm chầm lấy ông ta, miệng hớn hở gào to lời chào nồng nhiệt. Kennedy tưởng chừng như đã trẻ lại sau những ngày sống tại tu viện. Ông mỉm cười với Christian và đây là nụ cười tươi ít khi thấy đã từng làm say mê dân chúng. Nụ cười làm yên lòng thế giới rằng hạnh phúc đã chiến thắng, con người tốt đẹp, thế giới mỗi ngày một tốt hơn. Đây là nụ cười làm ta thấy mén yêu Kennedy vì niềm vui trong ánh mắt ông đã lan tỏa sang ta. Christian Klee có đựoc cảm giác ấy khi nhìn thấy nụ cười đó. Francis Kennedy đã ổn rồi. Ông lại khỏe khoắn như trước đây. Ông sẽ là niềm hy vọng của thế giới, người vệ sĩ cường tráng và người bạn tốt của đất nước ông. Bây giờ hai người sẽ cùng nhau lập nên những kỳ công lớn.
Vẫn giữ nụ cười rạng rỡ trên môi, Kennedy cầm tay Christian Klee, mắt nhìn thẳng vao ánh mắt ông ta và hồn nhiên, nhưng dí dỏm nói :
- Thượng đế đã chẳng giúp được gì.
Vào buổi sáng mùa Đông trong sáng đó, Christian Klee đã nhìn thấy trong bản thân con người Kennedy cuối cùng đã có một sự đổ vỡ. Kennedy sẽ chẳng còn là con người như trước đây. Kennedy có thể hoàn toàn là con người như trước đây song trong ông đã nảy sinh một tí chút vẻ giả tạo chưa từng thấy có. Christian Klee nhận thấy chính bản thân Kennedy không nhìn nhận rõ và cũng chẳng một ai thấy được điều đó. Chỉ mỗi mình Christian Klee nhận rõ vì có mỗi mình ông có mặt tại đó vào chính thời điểm ấy để được nhìn thấy nụ cười rạng rỡ và nghe được những lời dí dỏm :
- “Thượng đế đã chẳng giúp gì được cả”.
Christian Klee đáp :
- Biết giúp gì, anh mới chỉ dâng Người có bảy ngày.
Kennedy cười rồi nói :
- Ông ấy là người bận rộn.
Sau đó hai người lên xe ô tô. Họ đã được hưởng một ngày tuyệt vời. Chưa bao giờ Kennedy ở tỏng tama trạng dí dỏm và phán chấn như vào ngày hôm đó. Ông đưa ra biết bao kế hoạch, lòng ông đầy lo lắng cố nghĩ cách tập hợp chính phủ của mình và tạo nên những điều kỳ diệu trong bốn năm sắp tới. Xem ra ông là một con người đã vượt qua được nỗi bất hạnh của mình, đã lấy lại được nghị lực. Christian đã gần như tin chắc như vậy.
Christian Klee bắt đầu thu xếp mọi việc để chuẩn bị rời khỏi chính phủ. Một trong những việc quan trọng nhất là phải xóa sạch mọi dấu vết mà ông ta đã vi phạm luật pháp khi còn đang bảo vệ Tổng thống. Ông ta xóa hết các tài liệu theo dõi bất hợp pháp những hội viên Câu lạc bộ Socrates lưu trong các đĩa vi tính.
Ngồi sau chiếc bàn to rộng trong văn phòng chưởng lý, Christian Klee đã sử dụng máy vi tính của mình để xóa những hồ sơ buộc tội. Cuối cùng, ông ta gọi cho hiện lên màn vi tính hồ sơ của David Jatney. Mình đã suy nghĩ không sai về anh chàng này. Christian Klee thầm nghĩ, y là quân bài J trong ván bài. Bộ mặt bảnh trai sẫm màu này không cân xứng với ánh mắt của một kẻ mất tâm trí. David Jatney có đôi mắt ngời sáng với ánh vẻ của một gã mà hệ thần kinh đang tự xung đột với chính bản thân con người mình. Thông tin mới nhất thông báo cho biết y đang trên đường đi Washington.
Tên này có thể sinh chuyện rắc rối. Sau đó Christian Klee nhớ lại lời tiên đoán của Oracle. Khi một con người đã vươn lên tới quyền lực tuyệt đối, người đó thường gạt loại những ai đã quá thân cận với mình, gạt loại những ai đã biết rõ những chuyện bí mật của mình. Christian Klee đã từng yêu mến Fancis Kennedy vì những đức tốt của ông. Từ rất lâu xảy ra những chuyện cần giữ bí mật. Christian Klee đã từng suy ngẫm điều này suốt một thời gian dài. Và sau đó, ông ta đã thầm nhủ, cứ để mặc số phận quyết định. Dù thế nào đi nữa, ông ta, Christian Klee, không thể bị ai chê trách được.
Christian Klee bấm một nút trên máy vi tính. David Jatney biến mất tăm không hề để lại dấu vết gì trong toàn bộ hồ sơ của nhà nước.
Đúng hai tuần lễ trước ngày Tổng thống Francis Xavier Kennedy nhậm chức, David Jatney rất bận rộn. Y muốn bỏ trốn ánh mặt trời quanh năm ở California, những giọng nói đầy thân thiện ở khắp nơi, ánh trăng, những bãi biển lồng lộng. Y cảm thấy như bị chìm ngập trong xã hội xung quanh, thế nhưng y chẳng muốn quay về nhà ở Utah và trở thành nhân chứng suốt ngày niềm hạnh phúc của bố mẹ y.
Irene đã dọn đến ở với y. Cô ta muốn tiết kiệm tiền thuê nhà để dành cho chuyến sang Ấn Độ. Một nhóm bạn của cô đã góp tiền thuê một chiếc máy bay và cô muốn đem cả con trai mình là Campbell đi theo họ.
David sửng sốt khi nghe Irene nói cho biết kế hoạch của cô. Cô đã chẳng hề hỏi ý y về chuyện dọn đến ở chung với y, cố chẳng qua chỉ muốn khẳng định quyền của cô được phép hành động như vậy. Quyền này dựa trên một sự thật là dạo này hai người gặp gỡ nhau một tuần ba lần để cùng đi xem phim và làm tình. Cô ta coi việc đó như chuyện bè bạn vẫn thường xử sự với nhau, cô ta coi y như bè bạn của cô ta ở California thường hay dọn đến ở chung với nhu tỏng một tuần lễ hoặc lâu hơn nữa. Đây không phải là thời kỳ đầu đầy hấp dẫn để rồi tiến tới hôn nhân mà chẳng qua chỉ là một hành động mang tính bè bạn. Cô ta không hề có ý áp đặt, làm cho cuộc sống hàng ngày của y bị một phụ nữ cùng đứa con trai nhỏ phá vỡ đảo lộn.
Điều David hoảng sợ nhất là Irene dự định cùng đem con trai sang Ấn Độ. Cô ta thuộc loại đàn bà nghĩ sao làm vậy. Cô ta tin chắc rằng số phận luôn mỉm cười với cô. David đã hình dung thấy trước đứa bé phải ngủ trên các đường phố ở Caltutta cùng hàng ngàn người nghèo mang đầy thứ bệnh tật ở thành phố đó.
David bị Irene và cách xử sự với con cô ta làm cho mê hoặc. Cô ta thường đưa con trai tới những cuộc hội họp chính trị, vì cô ta không thể lúc nào cũng bắt mẹ ngồi giữ cháu và cô ta quá kiêu hãnh không muốn thường xuyên phải nhờ vả mẹ. Đôi lúc Irene còn đem theo cả con đi làm, khi vườn trẻ phải nghỉ vì lý do nào đó. David thầm nghĩ rằng Irene hơi bị điên.
Nhưng Irene là một phụ nữ xinh đẹp và khi cô ta tập trung vào chuyện làm tình, cô ta thật nồng cháy. David được tận hưởng niềm vui khi sống bên Irene. Cô ta chăm lo chu tất mọi chi tiết trong cuộc sống hàng ngày và thực sự không gây chuyện rắc rối. Do đó David đã đồng ý để cô ta dọn đến ở với mình.
Đã xảy ra hai hậu quả hoàn toàn bất ngờ đối với David: y trở nên bất lực và y bắt đàu tháy mến bé Campbell.
Để chuẩn bị cho Irene về ở chung nhà, David đã mua một chiếc rương to để cất giấu các khẩu súng, giẻ lau súng và đạn dược của y. Y không muốn chú bé năm tuổi vô tình lục lọi vũ khí của y. Cho tới lúc này, David Jatney đã kiếm được bằng cách này cách khác khá đủ súng ống để trang bị cho một tên kẻ cướp siêu hùng; hai khẩu súng có nòng xẻ rãnh xoắn, một khẩu súng lục tự động và cả một bộ sưu tập súng khác. Có một khẩu rất nhỏ, cỡ đường kính 22 ly mà y giấu trong bao da nhỏ trông giống một chiếc găng tay y bỏ vào túi áo vét. Ban đêm, y nhét nó dưới gối. Khi Irene và Campbell dọn đến, y bỏ khẩu 22 ly vào rương cùng với các khẩu khác và khóa chặt rương.
Suốt mấy tuần sau khi Irene dọn tới nhà David, cô ta vô cùng bận rộn. Cô ta đã nhận việc làm thêm và thức khuya để tham gai vào chiến dịch tái cử của Tổng thống; cô ta là một người rất nhiệt thành với Francis Kennedy. Cô ta có thể trao đổi về những chương trình xã hội mà Kennedy có thiện ý, cuộc đấu tranh của ông chống lại bọn giàu có ở Hoa Kỳ, cuộc đấu tranh của ông đòi cải tổ hệ thống lập pháp. David thì lại cho rằng cô yêu chính bản thân, giọng nói của con người Kennedy. Y tin chắc Irene hoạt động tong ban chỉ đạo chiến dịch bầu vử là vì đã mê tít Kennedy chứ không phải vì niềm tin chính trị.
Ba ngày sau Irene dọn tới, y vô tình ghé vào trụ sở ban chỉ đạo chiến dịch bầu cử tại Santa Monica, y thấy Irene đang cặm cụi ngồi bên máy vi tính, còn bé Campbell nằm thu lu trên sàn dưới chân mẹ. Chú bé nằm trong chiếc chăn túi, mắt mở thao láo.
- Để anh đưa bé Campbell về nhà và đặt nó lên giường ngủ. - David nói.
- Nó nằm như thế này cũng được. - Irene đáp.
David lôi Campbell ra khỏi chiếc chăn túi. Chú bé mặc nguyên cả quần áo, chỉ cởi mỗi giày. Y nắm tay chú bé và cảm thấy làn da chú ấm áp và mềm mại, y thấy trong lòng mình rộn lên một niềm hạnh phúc.
- Anh đưa bé Campbell đi ăn pizza và bánh crem nhé, được không? - David bảo Irene.
Cô ta đang mải bận với chiếc máy vi tính, nên đáp cho qua chuyện :
- Anh đừng quá nuông chiều nó.
Nói xong Irene mỉm cười với David và ôm hôn Campbell.
- Anh thức đợi em nhé?
- Thức làm gì? - Irene vội nói, rồi nói tiếp - Em sẽ về muộn.
David cầm tay Campbell bước ra ngoài. Y lái xe tới Đại lộ Moutana, dừng lại trước một quán ăn của Italia, gọi món pizza. Y ngồi nhìn Capbell ăn. David sung sướng ngồi nhìn chú bé ăn ngon lành.
Về đến nhà, David đưa Campbell lên giường ngủ. Y chuẩn bị chỗ ngủ cho mình ở ghế tràng kỷ, rồi bật dài vô tuyến, mở nhỏ tiếng.
David ngưỡng mộ ngắm người đang phát biểu trên màn ảnh vô tuyến. Y mơ ước trở thành một vị anh hùng đầy quang vinh như Kennedy. Nhân viên An ninh mặt lạnh như tiền lởn vởn ở phía sau ông ta. Kennedy thật an toàn, thật là giàu sang, thật đáng yêu. David mơ ước là Francis Kennedy.
Y nghĩ tới Irene và tình cảm của y đối với cô ta. Y chưa bao giờ thực sự yêu cô ta. Y nghĩ tới Campbell. Chú bé bây giờ đã gọi y là chú Jat và thường đặt bàn tay nhỏ bé của chú vào lòng bàn tay y. Jatney đón bàn tay chú. Y yêu mến sự ngây thơ đầy tình cảm chú bé dành cho y mà Irene chẳng bao giờ thể hiện ra. Suốt hai tuần lễ này y quyến luyến Campbell và thực sự yêu mến chú.
David bị mất việc làm ở trường quay. Người ta không còn nhận kịch bản của y nữa. Trước khi cho y nghỉ hẳn, y nhận được một ngân phiếu năm ngàn đô la. David đưa Irene coi tờ ngân phiếu và có nhã ý muốn tặng Irene nửa số tiền để cô ta có thể đi ngay chuyến du lịch sang Ấn Độ, nhưng Irene đã từ chối.
- Em thường chỉ tiêu tiền của chính em làm ra, em lao động để sống. - Cô ta bảo - Nếu em nhận tiền của anh, anh sẽ nghĩ rằng anh có quyền hành đối với em. Hơn nữa, anh thực sự muốn làm điều đó với Campbell, chứ không phải cho em.
David ngạc nhiên khi thấy Irene từ chối và lại còn tuyên bố thẳng tình cảm của y đối với Campbell. Thực sự, y chỉ muốn giúp hai mẹ con Irene để được sống độc thân và mơ mộng về tương lai.
Sau đó Irene hỏi y sẽ làm gì nếu cô ta nhận nửa số tiền đó và đi Ấn Độ, y sẽ sử dụng nửa kia số tiền ra sao.
- Anh muốn được ngắm nhìn đất nước, muốn dự lễ nhậm chức của Kennedy. Lái xe đi dọc khắp đất nước, được tận mắt thấy đất nước Hoa Kỳ. Ngoài ra anh còn muốn được thấy tuyết và đwocj cảm thấy một cái lạnh thực sự. - David nói.
Irene suy nghĩ một lát rồi nói :
- Ý hay đấy. Em cũng muốn được thấy Kennedy. Đối với Campbell, được thấy đất nước, thấy tất cả các bang khác nhau thì cũng là điều hay đấy. Chúng ta sẽ cho xe của anh kéo theo xe tỏa của em, như vậy đỡ tốn tiền ngủ khách sạn.
Irene có một xe toa nhỏ chất đầy các giá sách và chiếc giường ngủ Campbell hồi nhỏ.
David cảm thấy như mình bị đánh bẫy khi họ khởi hành lên đường. Irene lái xe, cô ta thích lái xe. Campbell ngồi giữa hai người, một tay nắm tay David.
David đã chuyển nửa số tiền y dành cho Irene vào tài khoản của cô ta ở nhà băng để cô ta chi cho chuyến đi Ấn Độ, bây giờ số tiền hia ngàn rưởi đô la của y phải chi cho ba người chứ không phải chỉ riêng cho mình. Vật duy nhất an ủi y là khẩu 22 ly giấu kín trong chiếc găng da để trong túi áo vét. Miền Đông Hoa Kỳ có quá nhiều bọn trộm cướp và lũ mất trí, y phải che chở Irene và Campbell.
Bốn ngày đầu, David coi đấy là một thời gian tuyệt vời. Tối đến y ngủ ngoài trời còn Irene và Capbell ngủ trong toa xe. Sau đó do càng đi xa trời càng lạnh, tối đến họ phải thuê khách sạn ngủ. Nhưng, lúc tới ngủ tại một khách sạn ở Kentucky thì họ bắt đầu gặp chuyện rắc rối.
Tại đây Irene gặp một người bán hàng và bỏ đi chơi với anh ta và hai thanh niên mãi tận gần nửa đêm mới về. David nổi khùng đã dùng súng đuổi mấy tên kia. Bọn thanh niên hoảng sợ bỏ chạy vội. Y quay về mắng nhiếc Irene. Cô ta bình tĩnh đáp lại :
- Tôi phải đi kiếm một người nào để ngủ chứ, anh bất lực, ngủ sao được.
Sáng sớm ngày Neol hôm sau, y ngủ dậy sớm và đứng nhìn hai mẹ con Irene và Campbell nằm ôm nhau ngủ. Y vẫn mang khẩu súng nhỏ trong túi áo y đưa tay vào túi lần sờ lứp da mềm mại của chiếc “găng” - Bắn chết hai mẹ con lúc này thật dễ dàng, David thầm nghĩ.
Ba ngày sau họ tới thủ đô của đất nước. Chờ cho đến ngày lễ nhậm chức, họ còn khá nhiều thời gian. David vạch ra tuyến đường họ sẽ đi tham quan. Sau đó y vẽ bản đồ mà cuộc diễu hành nhậm chức sẽ đi qua. Cả ba người sẽ đi xem Francis Kennedy đọc lời thề nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ.
Vào ngày lễ nhậm chức, Jefferson đã đánh thức Tổng thống Hoa Kỳ, Francis Xavier Kennedy dậy lúc bình minh để chuẩn bị và ăn mặc chỉnh tề. Ánh sáng màu xám trong buổi ban mai thực sự bị nhuộm đỏ màu anh đào vì cơn bão tuyết bắt đầu nổi gió. Những bông tuyết trắng lớn rơi phủ bầu trời thành phố Washington và qua lớp kính chống đạn trên các ô cửa số phòng rửa mặt, Francis Kennedy thấy bản thân như bị cầm tù trong đám bông tuyết đó, tựa hồ như đang bị cầm tù trong một quả cầu thủy tinh. Ông hỏi Jefferson :
- Anh có mặt trong đoàn diễu hành không?
- Dạ, thưa Tổng thống không ạ - Jefferson đáp - Tôi phải cố thủ trong Nhà Trắng. - Anh ta nắn lại chiếc cravát của Kennedy - Mọi người đang đợi Tổng thống tại Phòng Red dưới nhà.
Khi Kennedy đã chuẩn bị xong, ông bắt tay Jefferson và bảo :
- Anh chúc tôi gặp may mắn đi!
Jefferson tiễn Tổng thống ra tận thang máy. Hai nhân viên An ninh đón ông đưa xuống lầu trệt.
Mọi người đang đợi ông ở Phòng Red. Phó tổng thống Helen Du Pray mặc bộ đồ xa tanh trắng cực kỳ lộng lẫy. Tham mưu của Tổng thống ăn mặc theo kiểu nghi lễ giống hệt như Tổng thống. Arthur Wix, Oddblood Gray, Eugene Dazzy và Christian Klee đứng quây quanh Tổng thống, vẻ mặt họ trịnh trọng và căn thẳng phù hợp với một ngày quan trọng như hôm nay. Francis Kennedy mỉm cười với họ. Phó tổng thống của ông và bốn người đàn ông này là gia đình của ông.
Khi Tổng thống Francis Kennedy bước ra khỏi Nhà Trắng, ông ngạc nhiên trước biển người trào đầy các đường phố. Ông chưa bao giờ thấy người đông đến như vậy, nên đã gọi Eugene Dazzy lại gần và hỏi :
- Có bao nhiêu người ở đây?
Dazzy đáp :
- Quá nhiều hơn chúng ta tưởng. Có lẽ phải cần tới cả tiểu đoàn hải quân mới có thể giúp ta giải quyết vấn đề giao thông.
- Không. - Tổng thống bảo. Ông ngạc nhiên thấy Dazzy trả lời câu hỏi của ông cứ như thể quần chúng là kẻ thù không bằng. Ông nghĩ rằng đây là một thắng lợi lớn, sự chứng minh về tất cả những điều ông đã làm kể từ sau những thảm họa ngày Chủ Nhật Phục Sinh năm ngoái.
Francis Kennedy chưa bao giờ cảm thấy tự tin như lúc này. Ông đã nhìn nhận thấy trước mọi việc xảy ra, cả thảm họa lẫn thắng lợi lớn. Ông đã có những quyết định đúng đắn và đã giành thắng lợi. Ông đã chế ngự được các kẻ thù của mình. Ông đưa mắt nhìn đám người rất đông và thấy vô cùng yêu quí nhân dân Hoa Kỳ. Ông sẽ giải thoát họ khỏi nỗi ưu phiền đau khổ của họ. làm tỏng sạch bản thân trái đất.
Chưa bao giờ Francis Kennedy cảm thấy đầu óc mình tỉnh táo, bản năng mình lại chân thành như lúc này. Ông đã chế ngự được nỗi đau về cái chết của vợ ông, về việc con gái ông đã bị giết. Nỗi buồn tích tụ trong cân não của ông đã được rửa sạch. Lúc này ông gần như hoàn toàn hạnh phúc.
Xem ra ông đã chế ngự được số phận và nhờ sự bền chí và cách nhìn nhận của chính bản thân đã làm cho cái hiện tại và cái tương lai vinh quang trở thành hiện thực.
David Jatney đã đăng ký tên mình và Irene cùng Campbell vào sổ tạm trú tại một khách sạn nhỏ nằm cách Washington trên hai chục dặm vì các khách sạn trong nội thành đã hết sạch phòng, không còn chen chân vào được. Hôm trước ngày lễ nhậm chức, họ đã lái xe vào Washington để tham quan các công trình kiến trúc, Nhà Trắng, Đài kỷ niệm Lincoln và tất cả các danh lam thắng cảnh khác ở thủ đô. Đồng thời David đã đi thăm dò trước lộ trình của đoàn diễu hành nhậm chức sẽ qua để tìm một chỗ đứng sẵn xem cho rõ.
Vào ngày lễ lớn, họ dậy vào lúc bình minh và ăn điểm tâm ở một quán ngoài đường. Sau đó họ quay về khách sạn, mặc quần áo đẹp nhất. Irene đã ăn mặc và chải đầu rất cẩn thận, trái với lệ thường. Cô ta mặc chiếc quần jin màu nhạt tuyệt nhất, chiếc áo sơ mi đỏ, bên ngoài khoác một chiếc áo len dài tay màu xanh lá cây. David chưa từng thấy Irene mặc bộ này bao giờ. Y tự hỏi không biết cô ta đã cất kỹ để dành hay mới mua nó ở Washington? Irene bỏ ra ngòai mấy tiếng đồng hồ, để Campbell cho y trông giữ.
Tuyết rơi cả đêm, mặt đất phủ đầy tuyết trắng xóa. Những bông tuyết lớn lởn vởn bay trên không. Sáng nay còn nhiều thời gian rảnh rỗi chờ cho tới lúc bắt đàu lễ nhậm chức nên David dẫn Campbell ra sân sau khách sạn chơi. Chú bé rất thích khi thấy tuyết nhiều như vậy. Chú gom tuyết lại, đắp một hình nhân.
Một lát sau Irene quay về, cô ta bảo David :
- Em có chuyện muốn trao đổi với anh. Em vừa đi thăm một số người ở Washington đây. Bè bạn của em ở California dặn em khi tới đây sẽ đến thăm họ. Mấy người này sắp sang Ấn Độ. em và Campbell sẽ cùng đi với họ. Em sẽ thu xếp bán chiếc xe toa, nhưng sẽ trao tiền đưa anh mua vé máy bay quay về Los Angeles.
David tình cờ đút tay vào túi áo chống gió. Tay y đụng phải chiếc “găng” da trong có giấu khẩu súng lục 22 ly và đúng lúc đó, y đã hình dung thấy Irene ngã sóng soài dưới đất, máu cô ta nhuôm đỏ tuyết.
Cơn tức giận đã làm cho y thấy bối rối khó xử.
- Anh chớ nên giở trò điên rồ. - Irene bảo - Anh đâu có thấy thích em ở điểm nào. Nếu không có Campbell, anh đã đá em rồi.
Nói xong, Irene mỉm cười, vẻ hơi nhạo báng như pha chút buồn bã.
- Đúng. - David Jatney bảo - Em chẳng nên đem theo thằng bé tới những nơi quỷ quái nào em thấy thích. Em nên ở lại trong nước chăm sóc nó thì hơn.
Mấy lời vừa rồi làm Irene nổi cáu :
- Campbell là con trai em. - Cô ta bảo - Em sẽ nuôi dậy nó khôn lớn thế nào là ý của em. Nếu em muốn, em có thể đưa nó lên tận Bắc Cực.
Irene ngừng lời một lát rồi nói tiếp :
- Anh chẳng hiểu gì về chuyện này cả. Và theo em, anh đã bắt đầu truyền cho nó tí chút cái tính kỳ quặc của anh rồi đấy.
David lại hình dung thấy lại cái cảnh Irene nằm sóng soài dưới đất, máu từ người tuôn ra như suối làm đỏ cả một khoảng tuyết trắng. Nhưng y cố ghìm nén và bảo :
- Chính xác ra, em định nói gì nào?
- Thì anh cũng thừa biết rằng anh là một con người hơi kỳ quặc. - Irene đáp - Chính vì vậy thoạt đầu em thấy mến anh. Nhưng em thực sự không biết đích xác anh kỳ quặc tới mức nào. Đôi lúc, giao phó Campbel cho anh, em thấy ngài ngại.
- Em dã nghĩ vậy, thế tại sao em vẫn trao nó cho anh? - David hỏi.
- Ồ, vì em biết rằng anh không có ý muốn hại nó. Nhưng em vừa chợt nảy ra ý nghĩ rằng em và Campbell sẽ chia tay anh để đi Ấn Độ.
- Thôi được rồi. - David đáp.
Lúc này Campbell đang dập tan hình nôm bằng tuyết chú vừa đắp. Sau đó, họ lên xe và vượt hai mươi dặm đi vào thành phố. Khi cho xe chạy qua đường quốc lộ, họ sửng sốt thấy một dãy dài vô tận các xe ô tô và xe buýt san sát nối đuôi nhau chảy vào Washington. Họ phải mất bố tiếng đồng hồ vất vả mới lách vào được trong thủ đô.
Cuộc diễu hành tới địa điểm tổ chức lễ nhậm chức chạy dài qua các đường đại lộ rộng ở Washington, đi đầu là đoàn xe Limousine của Tổng thống. Đoàn xe từ từ lăn bánh, tại một đôi chỗ, đám người hết sức đông đúc tràn qua những lớp hàng rào cảnh sát và gây cản trở đoàn xe đi tiếp. Hàng triệu người đã bắt đầu xô đổ bức tường cảnh sát.
Ba chiếc xe ô tô chở đầy nhân viên An ninh đi trước chiếc Limousine có chụp lồng kính chống đạn của Kennedy. Tổng thống đứng trong lồng kính chống đạn đó nên có thể nhạn rõ niềm vui của quần chúng khi ông đi qua các đường phố chính ở Washington. Những lớp sóng của biển người trao ra gần sát chiếc Limousine của Tổng thống sau đó bị các nhân viên An ninh ở vòng trong sát xe xô giạt ra. Nhưng những sóng nhỏ của những người nhiệt tình cứ bò tới sát dần, sát dần. Nhân viên An ninh ở trong trong bị đẩy giạt sát ngay bên xe Tổng thống.
Chiếc ô tô ở ngay sau xe Francis Kennedy chở toàn nhân viên An ninh vũ trang toàn súng tự động hạng nặng, ngoài ra chạy dọc hai bên xe còn có cả một đoàn nhân viên An ninh nữa. Tiếp đến là chiếc limousine chở Christian Klee, Oddblood Gray, Arthur Wix và Eugenen Dazzy. Đoàn xe Limousine chạy rong ruổi tới Đại lộ Pennsylvania thfi bị đám đông trào xuống đường chẹn tắc. Những bông tuyết trắng lớn rơi trông tựa như một tấm áo choàng trắng phủ trên đám đông.
Chiếc xe chở Tổng thống phải dừng lại và Oddblood Gray đưa mắt nhìn qua cửa kính xe chở ông ta.
- Trời, Tổng thống ra khỏi xe và đang cuốc bộ kìa. - Ông ta kêu lên.
- Nếu Tổng thống xuống xe đi bộ, ta cũng phải cùng đi với Tổng thống. - Eugene Dazzy bảo.
Gray đưa mắt nhìn Christian Klee và nói :
- Nhìn kìa, Helen Du Pray cũng ra khỏi xe. Thật là nguy hiểm! Anh Christian, anh phải ngăn Tổng thống lại, Anh hãy sử dụng quyền nghiêm cấm của anh đi!
- Tôi đầu còn quyền đó nữa. - Christian Klee đáp.
Arthur Wix bảo :
- Theo tôi, tốt nhất anh nên điều thêm nhân viên An ninh tới đây.
Mọi người xuống xe, bước tạo thành một bức tường che chắn phía sau Tổng thống.
Những bông tuyết lớn vẫn cuộn xóay trên không, nhưng chúng tan ngay khi đụng vào người Tổng thống, hệt như chiếc bánh thánh Francis Kennedy cảm nhận trên đầu lưỡi vào buổi lễ ban bánh thánh dạo ông còn nhỏ. Lần đầu tiên, ông muốn đích thân được đụng tay vào những con người đã từng mến mộ ông. Ông bước dọc theo đại lộ và bắt tay dám dân chúng dã lọt qua được những hàng rào cảnh sát và vòng vây của các nhân viên đứng quanh ông. Cứ từng đám, từng đám nhỏ ùa vào cuối cùng tụ lại tạo thành một khối đông tới cả triệu người kéo theo sau Tổng thống. Đám đông trèo cả lên đầu lên cổ các nhân viên An ninh cố gạt mọi người ra tạo thành một vòng tròn rộng quanh Tổng thống của họ. Francis Kennedy vừa đi vừa bắt tay những người đàn ông và phụ nữ đó. Ông thấy mái tóc mình bị tuyết tan làm ướt, nhưng ông thấy trong lòng hồ hởi trước hơi lạnh và sự nồng nhiệt của quần chúng. Ông không hề thấy mệt mỏi băn khoăn lo lắng, ty tay phải ông tê cứng vì luôn bị túm chặt và lắc mạnh. Nhân viên An ninh gần như phải xô mạnh những người ủng hộ quá nhiệt tình kéo ra xa Tổng thống. Một phụ nữ trẻ xinh đẹp mặc áo chống gió màu crem cứ nắm chặt tay Tổng thống làm ông phải cố kéo tay ra.
David Jatney dùng sức xô đám đông ra để giành một chỗ thoáng cho bản thân và Irene lúc này đang bế bé Campbell, vì nếu không y đã bị chen bẹp gí, đám đông cứ như một đại dương hất từng đợt, từng dợt sóng người ập tới. Họ đứng cách chỗ đoàn xe Limousin của Tổng thống phải dừng lại khoảng trên ba chục mét.
Irene bỗng kêu lên :
- Tổng thống bước ra ngoài xe. Tổng thống đang đi bộ. Ôi lạy Chúa, em phải đến sờ vào người Tổng thống mới được.
Irene giúi Campbell vào tay David và cố luồn lách vượt qua lớp hàng rào cảnh sát nhưng cô ta bị chặn lại. Cô ta cố thoát quá, rồi chạy dọc theo vỉa hè nhưng lại bị lớp các nhân viên An ninh ở vòng trong chặn lại. David theo dõi Irene và nghĩ bụng, nếu nhanh trí, Irene nên cũng bế bé Campbell theo. Làm vậy đám nhân viên An ninh sx an tâm không coi Irene là mối de dọa và dỡ bị xô đẩy giạt ra cùng đám đông. Y thấy cô ta bị đẩy bật ra sát vỉa hè. Sau đó, cô ta lại bị đám đông kéo theo vào sát bên Tổng thống và cô ta là một trong những người đã được cái may mắn là bắt tay Tổng thống, sau đó, cô ta còn kịp hôn má tổng thống trước khi bị thô bạo đẩy ra xa. David nhận thấy Irene không tài nào có thể quay về chỗ y và Campbell đang đứng. Cô ta chỉ là một cái chấm nhỏ giữa đám đông lúc này đang trào ra đầy đường đại lộ rộng. Mỗi lúc số người xô đẩy lớp cảnh sát bên ngoài và vòng nhân viên An ninh càng đông. Cả hai vành bảo vệ đã bị xô vỡ. Campbell òa khóc, do đó David phải thọc tay vào túi chiếc áo chống gió y đang mặc để lấy kẹo viên y vẫn thường mang theo cho chú bé.
Sau đó David Jatney cảm thấy người y nóng ran. Y nhớ lại mấy ngày vừa qua sống tại Washington, nhớ tới mấy tòa cao ốc đã được xây dựng lên để củng cố quyền lực cả đất nước: những hàng cột bằng đá cẩm thạch của Tối cao pháp viện và các đài kỷ niệm. David nhớ lại “chiến công” lớn của y khi đốt hình nộm Tổng thống Kennedy ở trường đại học. Sau đó y được coi là một người hùng, đấy là lần duy nhất trong đời y. Còn bây giờ y dang cố nhẹ nhàng vỗ về Campbell để chú nín khóc. Lúc thò tay vào túi, y thấy thanh kẹo viên nằm dưới lớp thép lạnh của khẩu 22 ly. Sau đó, y bế chú bé rời khỏi vỉa hè và luồn qua các lớp rào chắn.
David Jatney thấy lòng mình tràn ngập một nỗi kinh ngạc và đầy phấn khởi. Với y, mọi việc thật quá dễ dàng. Y chẳng phải vất vả như đám người tràn qua lớp cảnh sát vòng ngoài, cũng chẳng phải chen đẩy như những người cố lách qua lớp nhân viên An ninh ở vòng trong để bắt tay Tổng thống. Cả hai lớp hàng rào bảo vệ đó đã bị tan, những người xâm nhập đi hai bên Tổng thống và vẫy tay bày tỏ niềm thành tâm của họ. David Jatney chạy về phía Tổng thống đang đi về phía y: một làn sóng người phá vỡ những lớp người bảo vệ đờ đẫn và xô kéo y theo họ. Lúc này y đứng ngay bên ngoài vòng nhân viên An ninh đang cố sức gạt mọi người tránh xa Tổng thống. Nhưng sức họ cũng chỉ có hạn không thể cản nổi lòng nhiệt tình của nhân dân. Y sung sướng nhân thấy các nhân viên An ninh không hề xô y ra. Tay trái y vẫn ôm ghì bé Campbell, còn tay phải y vẫn đút trong túi áo chống gió chi đợi khi nào Campbell khóc thì lấy kẹo ra đưa cho bé. Đúng lúc đó, vòng đai nhân viên An ninh bị vỡ ra, và y lọt được vào trong vành đai diệu kỳ. Y thấy Tổng thống ở ngay trước mặt, đứng cách y có ba mét. Tổng thống đang bắt tay những người cuồng nhiệt. Tổng thống có dáng người rất thon mảnh, rất cao lớn và già hơn lúc xuất hiện trên màn ảnh vô tuyến. Tay vẫn ôm chặt bé Campbell vào lòng, David Jatney tiến đến bên Tổng thống.
Đúng lúc đó, một người da đen rất lịch sự đã chặn y lại. Ông ta dang rộng hai tay ra. Có tật giật mình, David Jatney hốt hoảng nghĩ rằng ông ta nhận thấy y có đem theo súng và yêu cầu y trao nộp. Sau đó y lại nghĩ rằng chắc ông ta trông y quen quen nên giơ tay cho y bắt. Hai người đưa mắt nhìn nhau hồi lâu, cuối cùng David Jatney đưa mắt nhìn bàn tay da đen chìa ra, khuôn mặt da đen đang mỉm cười. Sau đó y nhận thấy ánh mắt của người đàn ông kia để lộ một vẻ nghi ngờ, bàn tay chìa ra đột nhiên rụt ngay lại. David liền hoảng loạn tinh thần, hất Campbell xô và người da đen và tiện tay rút luôn khẩu súng để trong túi chiếc áo chống gió. Đúng lúc David nhìn vào mặt mình, Oddblood Gray biết ngay sắp xảy ra một chuyện khủng khiếp. Ông không đón chú bé mà để chú ngã xuống đất và vội bước chéo chân đứng ngay trước mặt Kennedy đang chậm rãi tiến bước, Oddblood Gray đã nhìn thấy khẩu súng.
Christian Klee đang bước ở phái bên phải Francis Kennedy, hơi lùi về đằng sau một chút. Ông ta đang dùng máy bộ đàm điều động thêm nhân viên An ninh đến dọn đường cho Tổng thống. Ông ta chợt thấy một thanh niên bế một cháu trai đang tiến sát lại gần vòng đia nhân viên bảo vệ Tổng thống. Đúng trong một giây, ông nhận ra ngay nét mặt của thanh niên đó.
Một cơn ác mộng thoáng vụt qua trong đầu ông, nhưng thực tế đã đập vào mắt ông ta. Bộ mặt mà ông ta đã từng gọi cho hiện lên trên màn vi tính chín tháng trước đây, cuộc đười mà ông đã dùng máy vi tính và các đội theo dõi giám sát theo dõi chặt chẽ đột nhiên như bóng ma trong thần thoại hiện về trong cuộc đời thực.
Christian Klee thấy bộ mặt không còn mang vẻ thư thái như trên các tấm ảnh theo dõi, mà nó bị biến dạng vì quá xúc động. Ông chợt thấy bộ mặt thanh nhã của gã nọ, lúc này trông xấu xí như bị nhìn qua một lớp gương biến dạng.
Christian Klee định bước vọi về phía David, vì bụng vẫn chưa thật tin vào mắt mình, ông thử kiẻm tra lại cơn ác mộng, đúng lúc đó, ông tháy Oddblood Gray dang rộng tay. Người kia không thể là David Jatney, y chỉ là một gã thanh niên đang bế một đứa bé và cố chìa tay để được bắt tay con người đi vào lịch sử.
Nhưng ngay sau đó, ông thấy đứa bé mặc áo chống gió và đội chiếc mũ len nhỏ màu đỏ bị hất tung lên không. Ông trông rõ khẩu súng trong tay David và rồi Oddblood Gray ngã xuống.
Đột nhiên, Christian Klee rùng mình trước tội ác của gã thanh niên, ông chạy vội tiếp cận David và nhận phát đạn thứ hai vào giữa mặt. Viên đạn xuyên qua hàm, làm máu túa ra, sau đó Christian Klê thấy mắt trái đau buốt nhức nhối. Ông vẫn còn tỉnh táo khi gục ngã. Ông định gào to, nhưng miệng đầy răng bị gẫy và thịt toác ra, sau đó ông thấy người lả đi. Những tế bào cuối cùng trong bộ não bị bắn vỡ của ông còn bừng nhớ tới Francis Kennedy. Ông muốn báo cho Tổng thống biết trước về cái chết của Tổng thống và muốn yêu cầu Tổng thống lượng thứ cho ông. Bộ não của Christian Klee sau đó bị bung ra và đầu ông bị móc mất một mắt ngã xuống gối lên chiếc gối tuyết dày mềm mại.
Đúng lúc đó, Francis Kennedy xoay hẳn người về phía David. Ông thấy Oddblood Gray ngã xuống, tiếp đến là Christian Klee. Và cũng đúng lúc đó, mọi cơn ác mộng của ông, mọi ký ức của ông về những cái chết khác, mọi nỗi khiếp sợ về lòng nham hiểm của số phận đông kết lại thành một nỗi kinh ngạc đờ cứng và cam chịu. Và cũng đúng giây phút đó, ông nghe thấy một tiếng động long trời lở đất, và chỉ cảm thấy trong một giây chất thép làm nổ tung bộ não ông. Ông ngã xuống.
David Jatney không thể tin vào chuyện vừa xảy ra. Người da đen nằm bất động sõng soài ngay tại chỗ ông ta ngã. Người da trắng đi bên Tổng thống Hoa Kỳ bỗng đứng khựng lại, chân khuỵu xuống hai tay chơi vơi trên không trước khi đầu gối chạm đất. Y vẫn bắn. Tay và người y rung lên vì súng giật. Y định bỏ chạy và khi quay người lại, y thấy đám đông quần chúng xông tới như một lớp sóng trào dâng và cơ man nào những bàn tay giơ ra chụp lấy y. Mặt y đẫm máu, y cảm thấy tai mình bị bứt ra khỏi đầu: và nằm trong một bàn tay. Đột nhiên có chuyện xảy ra với hai mắt y, y chẳng còn trông thấy gì nữa. Cơ thể y đau đớn ghê gớm trong một giây lát và rồi sau đó y chẳng còn cảm thấy gì nữa.
Người quay camêra vô tuyến lia ống kính để trên vai thu lại toàn bộ diễn biến vừa qua để nhân dân thế giới thấy được cảnh đó. Khi thấy khẩu súng nằm trong tay David, anh ta chỉ lùi lại một bước để không bị một ai che khuất ống kính. Anh ta quay được cảnh David Jatney nâng súng lên, cảnh Oddblood Gray hốt hoảng nhảy xéo đến đứng trước Tổng thống và ngã xuống, tiếp đến Christian Klee bị trúng đạn vào mặt và cũng ngã xuống. Anh ta đã ghi được cảnh quay người lại đứng đối mặt với tên sát nhân và sát thủ đã bắn, viên đạn đã bắn vỡ sọ Kenendy, làm đầu ông bị phạt vỡ. Anh ta quay được cảnh David định bỏ chạy, nhưng bị đám quần chúng túm chặt. Song người quay camêra không quay được cảnh chót mà suốt đời anh ta cứ tiếc đứt ruột. Đám đông đã xé tan xác David Jatney ra thành từng mảnh nhỏ.
Một tiếng than ai oán của hàng triệu con người sùng bái đã bị cướp đi mất giấc mơ của họ, nổi vang khắp thành phố.
Ba tháng sau khi Francis Kennedy qua đời, Tổng thống Helen Du Pray chủ trì tổ chức lễ mừng sinh nhật thứ một trăm của Oracle tại Nhà Trắng.
Helen Du Pray ăn mặc giản dị để che giấu bớt sắc đẹp của mình. Bà đứng ngòai vườn Rose Garden để đưa mắt lướt nhìn các khách tới dự. Trong số này có những thành viên trong bộ tham mưu cũ thuộc chính phu Kennedy, Eugene Dazzy đang đứng nói chuyện với Elizabeth Stone và Sal Troyca.
Tháng sau Eugene Dazzy sẽ bị sa thải.
Tổng thống Du Pray đã chọn Elizabeth Stone và Sal Troyca vào bộ tham mưu của bà. Cô ta là một phụ nữ rất có năng lực và hiểu rõ thực tế chính trị. Sau khi Du Pray đảm nhiệm chức vụ Tổng thống, bà đề nghị bộ tham mưu cũ của ông Kennedy và các thành viên khác trong chính phủ báo cáo lại công việc của họ. Bà đã nghiên cứu toàn bộ những quy định lập pháp mà Quốc hội mới sẽ thông qua. Một tháng sau, bà kinhngạc nhận thấy Francis Kennedy có thể trở thành nhà độc tài đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ.
Từ chỗ đang đứng trong khu vườn Rose Garden, cây cối thưa đâm lộc mọc đầy lá, Tổng thống Du Pray có thể phóng tầm mắt nhìn ra xa và thấy rõ tượng đài Lincoln và chiếc vòm màu trắng của Công trình kiến trúc Washington, những biểu tượng cao quý của thành phố xứng đáng là thủ đô Hoa Kỳ. Hiện đang có mặt trong khu vườn là những nhân vật tiêu biểu của Hoa Kỳ, mà bà đặc biệt mời tới dự. Bà đã làm lành với những người thù địch với chính phủ của Kennedy.
Có mặt tại đây là Louis Inch, một con người bà đã coi khinh, nhưng bà cần tới sự hỗ trợ của ông ta. Còn có cả George Greenwell, Martin Mutford, Bert Audick và Lawrence Salentine. Câu lạc bộ Socrates bỉ ổi. Bà sẽ quan hệ với tất cả bọn họ, chính vì vậy bà đã mời họ tới Nhà Trắng dự lễ sinh nhật của Oracle. Cuối cùng bà đã tạo cho họ cơ hội lựa chọn để góp phần xây dựng một đất nước Hoa Kỳ mới mà Kennedy chưa làm được.
Nhưng Helen Du Pray biết rằng đất nước Hoa Kỳ đó sẽ được tái dựng không thể bảo qua sự thích nghi cần thiết về mọi mặt. Bà cũng đồng thời biết rõ rằng trong một vài năm chỉ có thể bầu lại một Quốc hội bảo thủ hơn. Bà không hy vọng thuyết phục nổi đất nước như Kennedy đã làm vì ông là một nhân vật có uy tín và mơ mộng.
Bà đưa mắt nhìn về một góc khu vườn Rose Garden nơi Oddblood Gray và Arthur Wix đang ngồi trên những chiếc ghế đan bằng liễu gai và sôi nổi trò chuyện với nhau. Bây giờ ngày nào Gray cũng phải đến khám ở chỗ thầy thuốc điều trị bệnh tâm thần bảo rằng, sau những sự cố năm ngoái, lúc này ông ta đã hoàn toàn bình phục. Do đó có Trời mới biết tại sao ông ta cứ phải hàng ngày đi khám bệnh?
Tại khu vườn Rose Garden, lúc này Oracle là trung tâm của mọi sự chú ý. Một chiếc bánh sinh nhật to vừa kín cả mặt một chiếc bàn ở ngòai vườn. Trốc bánh điểm những ngôi sao trắng trên những vạch xanh và đỏ. Các máy camêra vô tuyến bắt đầu hoạt động, quay để đưa lên màn ảnh trong toàn quốc hình ảnh Oracle thổi tắt các ngọn nến tỏng buổi lễ sinh nhật trăm năm. Cùng tham gia thổi tắt nến với lão có cả Tổng thống Du Pray, Oddblood Gray, Eugene Dazzy, Arthur Wix và các hội viên Câu lạc bộ Socrates.
Oracle đón một miếng bánh và cho phép Cassandra Chut được phỏng vấn lão. Lawrence Salentine phải can thiệp nên mới có cuộc phỏng vấn này. Cassandra Chutt đã chuẩn bị mấy câu hỏi ngay từ lúc mấy người thổi tắt nến. Bây giờ, chị ta bắt đầu hỏi :
- Thưa cụ, cụ có suy nghĩ gì khi nhận thấy mình là một người thọ trăm tuổi?
Oracle đưa mắt nhìn trừng trừng Cassandra Chutt vẻ đầy ác cảm và Cassandra Chutt vui mừng rằng có thể thu được cái nhìn tai hại đó vào ống kính để phát vào buổi đưa tin buổi tối. Trời, ông lão quá xấu, đầu lão là một khối các đốm sáng, lớp da nổi vẩy nhẵn bóng như những vết sẹo, mồm như chẳng thấy đâu. Trong giây lát chị ta hoảng sợ tưởng lão đã chết. Chị ta đành phải hỏi lại :
- Thưa cụ, cụ có suy nghĩ gì khi nhận thấy mình là một ông lão đã sống qua một thế kỷ?
Oracle mỉm cười, lớp da mặt lão bị rạn ra thành vô vàn đường nứt nẻ :
- Chị có phải là một mụ ngu xuẩn không? - Oracle hỏi. Lão nhìn thấy bộ mặt mình trên máy quay vô tuyến, tim lão dường như tan vỡ. Đột nhiên, lão căm hận buổi lễ sinh nhật của mình. Lão nhìn thẳng vào ống kính và bảo :
- Christian đâu?
Tổng thống Helen Du Pray ngồi xuống bên chiếc ghế có lắp bánh xe của Oracle và cầm tay lão. Oracle đang ngủ gật, một giấc ngủ chập chờn của một ông lão đang chờ chết. Buổi lễ ở Rose Garden vẫn tiến hành không cần lão. Helen nhớ lại hồi bà còn là một phụ nữ trẻ, được Oracle đỡ đầu. Bà rất ngưỡng mộ lão. Lão thông minh, sáng trí, hoạt bát và vui vẻ, bản thân bà mến mọi điều ở lão.
Bà nhớ lại những năm trước đây và thấy đau lòng biết bao, khi nghĩ rằng tình bạn của hai người đã chuyển sang quan hệ mang tính phóng đãng. Bà lướt nhẹ tay trên lớp da nổi vẩy nơi bàn tay phù của lão. Bà đã đi theo vận mệnh của quyền lực, trong khi đó đại bộ phận phụ nữ đi theo vận mệnh của tình yêu. Chắc hẳn thắng lợi trong tình yêu dịu ngọt hơn?
Helen Du Pray nghĩ tới số phận của bản thân mình và của Hoa Kỳ. Bà vẫn còn ngạc nhiên rằng sau toàn bộ những sự kiện khủng khiếp xảy ra hồi năm ngoái, đất nước đã ổn định trong cảnh thanh bình như vậy. Thực ra, bà cũng phần nào có phần đóng góp vào chuyện này, sự tháo vát và trí thông minh của bà đã dập tắt được ngọn lửa ở trong nước. Nhưng, tuy nhiên...
Bà đã khóc trước cái chết của Kennedy; bà thực ra đã yêu mến ông. Bà đã yêu mến tấn bi kịch khắc vào xương cốt trên khuôn mặt đẹp trai của ông. Bà yêu mến chủ nghĩa lý tưởng của ông, sự nhìn xa trông rộng của ông về Hoa Kỳ. Bà yêu quý tính chính trực, lòng thành khiết, lòng vị tha của cá nhân ông, sự thờ ơ trước mọi của cải vật chất. Tuy vậy bà vẫn nhận thấy ông là một con người nguy hiểm.
Helen Du Pray nhận thấy rằng bây giờ mình phải giữ gìn niềm tin vào sự ngay thẳng của chính mình. Bà tin rằng trong xã hội loài người đầy nguy hiểm, không thể dùng biện pháp xung đột mà chỉ có thể thông qua tính kiên nhẫn vô hạn mới giải quyết nổi những vấn đề của nó. Bà sẽ làm hết khả năng tốt đẹp nhất của mình và lòng bà cố giữ không để vẩn nỗi căm giận những kẻ thù của bà.
Đúng lúc đó Oracle mở mắt ra và mỉm cười. Lão bóp nhẹ tay bà và nói. Giọng lão quá nhỏ nên Helen Du Pray phải ghé sát tai vào chiếc miệng nhăn nheo của lão để nghe cho rõ.
- Đừng sợ. Bà sẽ là một vị Tổng thống lớn.
Helen Du Pray cảm thấy trong một giây lát muốn òa khóc như một đứa trẻ được khen, nhưng trong lòng lại thấy sợ bị thất bại. Bà đưa mắt ngó nhìn xung quanh khu vườn Rose Garden đầy những nhân vật có quyền lực cực mạnh ở Hoa Kỳ. Bà có thể được đa số trong sô họ hỗ trợ, số ít bà phải đề phòng. Nhưng điều chủ yếu nhất là bà phải tự giữ gìn bản thân mình.
Bà lại nhớ tới Francis Kennedy. Lúc này ông đang yên nghỉ bên hai người bác nổi tiếng và cũng được mến mộ như họ. Và cô con gái ông. Thôi được, Helen Du Pray thầm nghĩ, mình sẽ cố học hỏi thực hiện được những gì tốt đẹp ở Francis, mình sẽ cố biến những giấc mơ tốt đẹp mà Francis ôm ấp nuôi bao hy vọng trở thành hiện thực. Sau đó, Helen Du Pray nắm chặt tay Oracle, bà đã cân nhắc suy nghĩ về những điều dễ hiểu của cái Ác và con đường quanh co khúc khủyu của cái Thiện.