Về đến quê cũ Bình Đông, chàng chỉ ở lại ba ngày, liền dãi dầu gió bụi, lên thẳng Đài Bắc. Tạm thời ở nhà Từ Nghiệp Bình cũng vừa xuất ngũ, chàng bắt đầu điên cuồng tìm việc làm. Lúc đó, Phương Khắc Mai đã lấy chồng, Từ Nghiệp Bình lòng nguội lạnh, đang chuẩn bị thi để lấy học bổng, sửa soạn ra nước ngoài.
Không có ai điên cuồng giống như Hàn Thanh, chàng trước khi xuất ngũ gửi hai nghìn bức thư xin việc làm, mà trong một tháng tiếp theo đó, lại không ngừng xin ứng tuyển, thi vấn đáp, thi khảo ở mấy chục công ty. Từ Nghiệp Bình mắng chàng là “người cuồng”. Nhưng vào tháng tám năm 1981, chàng đã đồng thời được ba công ty xí nghiệp lớn nhận, chỉ đợi chàng tự lựa chọn, nên vào công ty nào làm việc.
Đà Đà và chàng gặp lại, cái mang đến là nỗi đau đớn nhói lòng. Chàng bắt đầu lĩnh hội sâu sắc tất cả mọi cái nói trong thư của Đà Đà: nàng biến đổi rồi, biến đổi được thành chín chắn, biến đổi được thành vững vàng, biến đổi được thành lo xa tính trước... biến đổi được nhiều đến nỗi chàng đau đớn cảm thấy, giữa nàng và chàng, đã xa lạ biết bao, xa lạ đến từng li từng tí, mọi việc trước đây, đều dường như trong mộng. Khi chàng cần chọn một trong ba công việc, ý niệm duy nhất của chàng, vẫn là “tìm một công việc lương cao, cùng Đà Đà lập tức kết hôn”. Nhưng, ở nhà họ Từ, Đà Đà cùng chàng đơn độc, khẩn thiết bàn kỹ một lần.
- Khi anh quyết định công việc, tốt nhất đừng suy tính đến em, chỉ nghĩ đến bản thân anh, thích hợp với công việc nào.
- Anh sao có thể không suy tính đến em? - Chàng ảo não kêu to - Anh là vì em mới chạy loạn khắp nơi như thế, vì em mới suy tính về đãi ngộ, tính chất công việc, hoàn cảnh công tác, và địa điểm công tác! - Chàng hít hơi sâu, không cần kêu, không thể kêu, cần bàn kỹ lưỡng với nàng, cần tỏ ra “chín chắn”. Chàng bắt đầu đau đớn nhìn thẳng nàng, nghiêm chỉnh hỏi - Đà Đà, em còn muốn lấy anh nữa không?
Đà Đà chăm chú nhìn chàng, chăm chú nhìn chàng:
- Em cho rằng trong thư em viết cho anh đã nói rõ ràng rồi!
- Không rõ ràng. - Chàng lắc đầu - Hoàn toàn không rõ ràng. Đà Đà, em nói hai khả năng, một là lấy anh, dùng đời sống bốn mươi năm của em để đền bù anh, hai là rời bỏ anh, đợi mệt mỏi lại quay đầu về nhìn tổ cũ. Bây giờ - chàng nắm lấy tay nàng - em rốt cuộc lựa chọn như thế nào?
Nàng muốn quay mặt đi.
- Hàn Thanh, em nghĩ... em không xứng với anh! - Nàng vùng vẫy, ấp úng nói - Anh... buông em ra!
Chàng đưa tay nắm cằm nàng, bắt nàng đối mặt với mình.
- Ý của em là em không xứng với anh, em cũng không yêu anh nữa, không muốn lấy anh nữa! Đúng không? - Chàng có phần tức giận - Ý tứ của em là, từng li từng tí một trong bốn năm, đều phải xổ toẹt đi, phải thế không? Nhìn anh đây! Trả lời anh thật chuẩn xác! Đừng lại dùng những câu lập lờ hai mặt để tắc trách với anh!
- Hàn Thanh! - Nàng la lên, đối mặt với chàng - Em vừa mới tốt nghiệp đại học, em vẫn chưa muốn kết hôn! Em nghĩ em từ đầu đến cuối cùng chưa ổn định! Em quá sợ hãi đối với cá tính hay biến đổi của em! Mà anh, Hàn Thanh, anh thuần khiết như thế, anh thuần khiết đến giống như một cậu học sinh nhỏ! Anh hãy nhìn thẳng vào tiền dồ của chúng ta, nếu quả thực kết hôn, có sẽ hạnh phúc không, có sẽ hạnh phúc không?
- Tại sao sẽ không? - Chàng bực tức hỏi - Chỉ cần chúng ta yêu nhau, tại sao sẽ không?
- Yêu nhau là không đủ! - Nàng nói một cách mạnh mẽ - Hàn Thanh, hai người sinh trưởng trong hoàn cảnh không giống nhau, muốn kết làm vợ chồng, chung sống với nhau mấy chục năm, không chỉ yêu nhau là đủ! Còn phải có hứng thú chung, mục tiêu chung, bè bạn chung, tầng lớp xã hội chung, mức sinh hoạt chung... nếu không, tình yêu ngăn không nổi thử thách ba năm, sẽ hóa thành tro bay! Hàn Thanh, anh đã nhìn thấy trường hợp yêu đến chết đi sống lại cuối cùng kết hợp làm vợ chồng, tại sao mấy năm trở mặt thành thù mà ly hôn hay không?...
- Thế thì, ý của em là chúng ta không có một chút điểm chung nào?
- Trước đây, em cho rằng chúng ta có. Lúc ấy chúng ta chỉ là những sinh viên đại học đơn thuần nghịch ngợm, chúng ta đúng là ở trên cùng một mức. Sở thích hứng thú của chúng ta đều rất gần gũi: đàn guitar, hát dân ca, phê bình giáo sư, trách oán xã hội, cái gì cũng không hiểu, lại coi thường tất cả! Thật thế đấy, Hàn Thanh, chúng ta lúc ấy là như vậy, cho nên chúng ta yêu nhau. Nhưng bây giờ, cái gì cũng đều không giống nhau.
- Sao lại không giống nhau? - Chàng hỏi - Trừ một việc, em biến thành thực tế! Em bắt đầu theo đuổi sinh hoạt vật chất!
Nàng ngước mắt nhìn chàng, nước mắt vọt ra.
Chàng lập tức hối hận.
- Tha lỗi cho anh! - Chàng nói, nắm chặt tay nàng - Em khiến anh lòng dạ rối bời, em khiến anh nói không chọn lời, anh không phải là muốn châm biếm em, anh chỉ muốn tìm ra mắc mứu của vấn đề giữa chúng ta!
- Anh nói đúng đấy! - Nàng ngậm lệ gật đầu - Em biến thành thực tế! Em biết sinh hoạt gạo củi tương cà mắm muối đều tuyệt đối không sánh kịp sinh hoạt cầm kỳ thư họa thi tửu hoa! Em biết tặng một bó hoa hồng cũng đòi anh phải có tiền để mua một bó hoa hồng! Em biết hai người lúc ngắm trăng giải tỏ tình yêu, cần trước hết ăn no bụng đã! Em biết anh cần một người vợ như thơ như mộng, phiêu dật mỹ lệ, tuyệt đối không cần một người đàn bà đầu bù mặt cáu giặt áo cọ sàn nhà...
- Ngừng! - Chàng nói - Vấn đề của chúng ta chung quy vào một chữ cuối cùng: tiền.
Nàng lắc đầu chầm chậm, ánh mắt nàng chăm chú nhìn chàng, giống như chăm chú nhìn một đứa trẻ ngây thơ, không hiểu việc đời.
- Không phải là chữ ấy, Hàn Thanh, hoặc giả nói, không chỉ là chữ ấy. Còn có rất nhiều cái khác. Thí dụ như, em tốn rất nhiều thời gian học Anh văn, học Pháp văn, em vẫn muốn đi Âu châu, vẫn muốn viết một chút gì. Em cho rằng, loại người như em.. em không phải nói là em rất cao sang, em chỉ là nhấn mạnh em là một con người như vậy, có thể đến một thị trấn nhỏ ở Bình Đông, đi làm một bà chủ cửa hàng tạp hóa nhỏ hài lòng thỏa dạ, đi làm con dâu ngoan của cha mẹ anh hay không?
Hàn Thanh sắc mặt trắng nhợt.
- Anh không bao giờ lấy gia đình anh làm sỉ nhục! - Chàng gằn từng tiếng một.
Sắc mặt Đà Đà cũng trắng nhợt.
- Giả sử anh cho rằng em nói câu đó là tỏ ý coi khinh gia đình anh, thế thì thế giới của hai chúng ta đã chênh lệch nhau quá xa! - Nàng đau đớn nặng nề đè tay lên trên bụng, dạ dày lại bắt đầu tác quái - Em chưa bao giờ coi khinh gia đình anh, em chỉ là nêu một ví dụ, giữa chúng ta, còn có rất nhiều vấn đề trước đây căn bản chưa hề nghĩ đến! Con người không phải là lìa đàn ở lẻ, con người là ngoài quan hệ vợ chồng ra, còn phải có cha mẹ, thân thích, bè bạn, và xã hội! Anh... anh... - Nàng nói không rõ tiếng, nước mắt vọt trào ra - Anh căn bản không hiểu em! - Nàng đứng lên, xông ra phía ngoài cửa.
- Khoan đã!
Chàng rảo bước lớn đi tới, ngăn nàng lại, mắt chàng sưng đỏ, ánh mắt nhìn sững nàng:
- Anh biết giữa chúng ta đã có khoảng cách, nhưng, trên thế giới, không có khoảng cách không thể vượt qua. Anh chỉ hỏi em một câu cuối cùng - Chàng hít sâu một hơi - Đà Đà, em còn yêu anh không?
Giọt nước mắt từ trên mặt nàng tới tấp lăn xuống.
- Đó là mối phiền não lớn nhất của em - Nàng thẳng thắn nói - Hàn Thanh, em chưa bao giờ ngừng yêu anh! Chưa bao giờ!
- Cám ơn em! Đà Đà. Cám ơn câu nói của em. Anh hoặc giả rất ngây thơ, rất non nớt, còn chưa chín chắn, anh không thể mang cho em cảm giác an toàn. Nhưng, chỉ cần có câu nói của em, lòng tin của anh vĩnh viễn không dao động. Đà Đà, em giúp anh có được một quyết định, hiện giờ có ba công việc đợi anh đến làm, trong số đó chỉ có một công ty ở miền Nam, anh quyết định về miền Nam. Anh nghĩ anh bây giờ cũng rất yếu đuối, anh muốn về một gia đình cưng chiều anh. Sau đó, anh mở ra thiên hạ của anh ở miền Nam, em mở ra thiên hạ của em ở miền Bắc, chúng ta tạm thời tách ra, để hai chúng ta đều nghiêm chỉnh suy tính một cái, chúng ta còn có hy vọng kết hợp nữa không - Chàng nghẹn trong cổ họng, bên môi lại hiện ra một cái mỉm cười - Đà Đà, em biết ba ngày sau là ngày gì không?
- Em biết! - Nàng cũng mỉm cười, tuy giọt nước mắt vẫn long lanh treo trên gò má - Ngày 24 tháng 8, chúng ta quen nhau chẵn 46 tháng.
- Khi chúng ta có một ngày, lúc ăn mừng bốn mươi sáu năm chúng ta quen nhau, anh hy vọng em sẽ nói với anh một câu: em chưa bao giờ hối hận đã lấy anh! - Chàng nói, mắt lại lóe sáng, trên khuôn mặt lại tỏa ra ánh sáng hy vọng - Đà Đà, còn nhớ đêm trước ngày anh đi quân dịch, em để lại bên gối anh một mảnh giấy, em viết: “Thanh, anh phải về lấy em, anh nhất định phải về lấy em! Em đợi anh! Em nhất đinh đợi anh!” Em còn viết: “Tôi một chữ một giọt lệ, nếu thần trên trời quả có biết, nguyện người thành toàn tâm nguyện của tôi, tôi nguyện bỏ danh lợi, vứt thế tục, chỉ nguyện cùng anh ấy chắp cánh cùng bay, đời này kiếp này”. Coi, anh đọ thuộc lòng được rồi. Đà Đà, em còn nhớ được không?
- Vâng, em nhớ được. - Mắt nàng lại rân rấn nước mắt, trong tiếng nói rạn nứt đau đớn - Nhớ được mỗi một câu thề, nhớ được mỗi một mảnh lời, nhớ được mỗi một chi tiết... nhớ được cả từng li từng tí một.
- Nhưng những lời thề non hẹn biển ấy, vẫn sẽ không theo gió bay đi chứ? Yêu đương của sinh viên đại học, dù không chín chắn chăng nữa, vẫn sẽ không chỉ là một trò trẻ chứ?
- Không, Hàn Thanh. - Nàng nghiến chặt răng, nhíu mày, muốn để cho chàng hiểu - Em không phủ nhận tình yêu đã qua của chúng ta, em không muốn chùi sạch bốn năm của chúng ta, anh cũng biết, trong bốn năm đó, em đã dâng hiến, anh vẫn là trọng tâm trong đời sống của em...
- Hiện giờ không là trọng tâm đời sống của em nữa! - Chàng cuối cùng nhịn không nổi vọt miệng nói ra - Đà Đà, - chàng thâm trầm nói, giọng trịnh trọng, đôi mắt buồn khổ - thẳng thắn nói với anh đi! Đừng dùng những thứ đề mục lớn như “trưởng thành”, “cảnh giới” “chín chắn” ngăn lấp đường nhìn của anh, thẳng thắn nói với anh, trong đời sống của em lại có người khác, phải thế không? Giữa chúng ta đã có người thứ ba, phải thế không?
Nàng hít sâu một hơi, trầm ngâm giây lát.
- Anh biết, giữa chúng ta vẫn cứ có người thứ ba, em không phủ nhận, hiện nay còn có người khác đang theo đuổi em. Nhưng vài năm nay, em không phản bội anh, cũng không giấu giếm anh cái gì, phải vậy không? Em vẫn cứ rất thành thực, phải vậy không? Nhưng người thứ ba ấy cũng chưa bao giờ tách nổi chúng ta ra, phải vậy không?
- Thế thì, - chàng nín thở nói - vấn đề của chúng ta đúng là ở chỗ “chưa đủ chín chắn”, “không khôn lớn lên được” “không thể mang cho em cảm giác an toàn”?
- Phải.
- Sau khi trải qua một đoạn yêu đương khắc cốt ghi tâm như vậy, dùng những lý do ấy để chia tay, có sẽ là quá khiên cưỡng hay không? - Chàng mạnh mẽ nói, lập tức, chàng lại hối hận nói mấy câu đó. Phải, chàng vẫn chưa đủ chín chắn, mới nói mấy câu hậm hực đó. Chàng hít sâu một hơi, tiếp tục nói - Được! Anh thừa nhận anh chưa đủ chín chắn! Nhưng, Đà Đà, - Anh nhấn mạnh - Đợi anh! Đợi anh! - Chàng nói khẽ, sôi nổi mà thành thật, mỗi chữ đều moi ở trong tim ra - Đợi anh, anh sẽ rất nhanh đuổi kịp thế giới của em! Đi vào cái thế giới người trưởng thành của em! Đợi anh về lấy em! Anh tin rằng, người mai đây mang em đi Paris, sẽ không là người khác! Nhất định là anh! Bây giờ, anh rời khỏi em, để em một mình suy xét, để anh một mình phấn đấu... Anh nghĩ, chúng ta đều cần bình tĩnh, đều cần “cô độc” một hồi...
- Giống như kỳ nghỉ hè ấy, anh cố sống chết đi làm thuê vậy - Nàng nhớ lại nói, bên môi hiện ra cái mỉm cười dịu dàng, đáy mắt lộ ra ánh sáng - Anh biết không? Hàn Thanh, đó là lần anh in dấu ấn vào lòng em sâu sắc nhất! Anh kiên cường, cao ngạo biết bao! Cả kỳ nghỉ hè, anh rời khỏi em, để em đi đối diện với chính mình!
- Bây giờ, lại là một lần nữa, anh nên kiên cường - Chàng buồn bã mỉm cười - Tối thiểu, anh còn hiểu được một việc “yêu” một người, đừng “quấn” lấy người đó, dâng hiến mình, mà đừng đi theo từng ý chí của đối phương!
Nàng ngẩng đầu nhìn chàng, mắt lóe lên ánh sáng.
- Anh biết không? - Nàng thực lòng nói - Anh quả thực vô cùng vô cùng đáng yêu!
Họ lại chăm chú nhìn nhau, họ đều nhìn thấy những năm tháng trôi qua, nhìn thấy những vui sướng đã qua, nhìn thấy những lời thề đếm không xuể, nhìn thấy từng li một từng chút một niềm yêu. Cuối cùng, Hàn Thanh đau đớn đặt tay trên tay nàng, nắm chặt lấy tay nàng, đau khổ bật ra một câu:
- Đà Đà, chúng ta là thế nào? Chúng ta rốt lại là thế nào? Nếu chúng ta còn yêu nhau, nếu chúng ta còn cần nhau, là cái gì ngăn cách chúng ta ra? Là cái gì?
- Em không biết. - Đà Đà yếu ớt mà thành thực - Em nghĩ, tên cái đó có thể gọi là “thử thách”, chúng ta còn cần một quãng thời gian thử thách, mới biết có thể chung hưởng tương lai hay không.
- Chẳng lẽ thử thách đến bốn năm còn chưa đủ?
- Bốn năm ấy, chúng ta không đối mặt với “thử thách”, chúng ta chỉ là bận đi “yêu đương”! Ngày nay, ngoài yêu đương ra, chúng ta phải đối mặt với cuộc đời chân thực, đó mới là cái quan trọng! Hàn Thanh, em trong thư đã viết, mỗi một bước của trưởng thành đều rất đau khổ, cái thử thách đó cũng là đau khổ, giày vò. Chúng ta trong thế giới cuộc đời, đích thực có thể bị vùi dập từ mọi hướng. Nhưng anh vẫn còn là sinh viên đại học! Mà em...
- Em đã không còn là một nữ sinh viên đại học nữa. - Chàng tiếp lời.
- Phải. - Nàng nuốt nước mắt gật đầu.
- Được! - Chàng kiên quyết nói - cho anh thời gian! Để anh khôn lớn! Để anh vượt qua cuộc thử thách này! Để anh chứng thực bản thân anh! Chàng lại nhìn nàng một hồi lâu, rồi đột ngột quay người, lớn tiếng nói - Trước khi anh “quấn” lấy em, mau đi đi!
Nàng gạt nước mắt, lại đăm đăm nhìn phía sau chàng một cái, quay người toan đi.
- Đà Đà. - Chàng nói sau lưng nàng - Anh yêu em! Vĩnh viễn yêu em!
Nàng ngừng bước, sững sờ. Rồi nàng chạy nhanh trở lại ôm lấy lưng chàng từ đằng sau, dán gò má ướt đầm đìa lên vai chàng, nói bên tai chàng vừa khẽ vừa nhanh:
- Cám ơn anh có thể hiểu em, cám ơn anh có thể tất cho em, cám ơn anh có thể vì em đi đơn độc phấn đấu, cám ơn anh có thể yêu em sâu sắc như vậy, cám ơn anh mang lại cho em bốn năm vui sướng nhất, cám ơn tất cả, tất cả là của anh!
Chàng nghiến chặt răng, không để mình quay đầu nhìn nàng, không để mình lại túm lấy nàng, mà nước mắt lại không nghe lời cứ trào ra từ mắt mình. Chàng thấy tim nát, tim hoàn toàn tan nát. Không biết sao chàng thấy cái cảnh này giống quyết liệt đến vậy! Một chuỗi liền “cám ơn” ấy của nàng khiến mỗi dây thần kinh chàng đều quặn thắt. Chàng quả thực muốn kêu to với nàng:
- Đừng cám ơn anh, chỉ cần lấy anh!
Không được! chàng biết. Nếu chàng nói như vậy, nàng sẽ coi khinh anh! Nàng sẽ cho rằng chàng nông cạn, ấu trĩ, không chín chắn. Mà bây giờ, một việc chàng sợ nhất, là bị nàng coi khinh.
Sống lưng chàng ưỡn thẳng, thân hình cứng đờ, đứng ở đấy. Chàng không động đậy giống như tượng đá vậy. Sau đó nàng lại nói khẽ bên tai chàng:
- Nếu lúc tai anh ngứa, cứ việc gọi điện thoại cho em! - Tiếp đó, nàng nói một câu sau cùng - Tạm biệt! Hàn Thanh!
- Tạm biệt, Đà Đà! - Chàng cũng khàn tiếng đáp, vẫn không quay đầu lại.
Nàng buông chàng ra, quay người chạy đi nhanh như bay.
Chàng vẫn đứng thẳng ở đấy, nghe tiếng bước chân nàng từng bước một biến mất, từng bước một biến mất, từng bước một biến mất... dường như từng bước một biến mất vào đầu tận cùng của thế giới. Mỗi một bước chân đều dẫm nát tim chàng, không biết sao, chàng thấy toàn thể trái tim mình đều vỡ nát, đều tan vụn.
Nỗi bi ai của loài người là vĩnh viễn không thể đoán trước tương lai. Giả sử Hàn Thanh lúc ấy có thể biết việc sẽ xảy ra về sau, e rằng chàng thà rằng bị nàng coi khinh, thà rằng “quấn” lấy nàng, chứ sẽ không buông cho nàng đi. Nhưng chàng không thể dự đoán tương lai, chàng vẫn cứ không thể dự đoán tương lai!
Hai ngày sau, Hàn Thanh về đến Bình Đông, bắt đầu nhận việc ở công ty hữu hạn sản xuất X. Sau khi được huấn luyện một tháng, lập tức được biên chế làm nhân viên chính thức, chịu trách nhiệm công tác thúc đẩy phương tiện nghiệp vụ.
Hàn Thanh lại giống như kỳ nghỉ hè, đi vào trong một thứ trạng thái làm việc “điên cuồng”. Từ tám giờ sáng vào ca, sau khi tan ca lại thêm ca, vẫn cứ phải bận rộn đến 10, 11 giờ đêm, về đến nhà, thường thường đã là nửa đêm. Cha mẹ Hàn Thanh dùng tấm lòng nhân ái đón tiếp đứa con trai đã lang thang nhiều năm ở bên ngoài. Hai ông bà không hỏi gì, chỉ lúc Hàn Thanh đêm về nấu cho chàng một tô mì, lúc sáng dậy luộc cho chàng hai hột gà. Mà trong đôi mắt thâm trầm đen tối của chàng, sự tôi luyện đã trải qua. Hai ông bà vĩnh viễn đọc không ra tâm sự của chàng, vĩnh viễn nhìn không thấy nỗi buồn rầu của chàng, càng không có cách nào đi vào nỗi lòng hiu quạnh của chàng, hiểu ý nghĩ, khát vọng, đau khổ và vật lộn mạnh mẽ trong tim chàng. Nhưng họ dùng sự yêu chiều đơn thuần, để lặng lẽ bao dung chàng, không nghi ngờ, không đòi hỏi, chỉ có đem cho. Hai ông bà không hề đòi Hàn Thanh “chín chắn” nhanh hơn một chút, “khôn lớn” nhanh hơn một chút.
Hàn Thanh làm việc vất vả biết bao, chàng dường như không có thời gian viết thư cho Đà Đà. Trong quãng thời gian này, thư gửi đến của Đà Đà cũng rất ít, mỗi bức thư đều rất ngắn rất ngắn. Tuy nhiên như vậy, Hàn Thanh vẫn có thể cảm thấy sâu sắc, trong trái tim mình giống như có sợi dây vô hình, nhỏ bé, vẫn dẫn qua già nửa Đài Loan mà vấn vít bên trái tim Đà Đà. Mỗi khi đêm khuya, sợi dây ấy sẽ bỗng rút chặt, chàng sẽ không ngăn nổi mình, mà gọi điện thoại đường dài đến Đài Bắc, chỉ nói với Đà Đà một câu:
- Không có chuyện gì, chỉ bởi vì tai ngứa.
Đầu bên kia sẽ truyền đến một tiếng thở dài khe khẽ, dằng dặc buồn. Nghe thấy tiếng thở dài đó, đủ rồi, chàng không muốn nghe gì khác nữa. Khi chàng còn chưa nắm vững đã đuổi kịp thế giới của nàng, đã đủ chín chắn, đã khiến nàng ngoài “yêu” chàng ra, còn có thể “tôn kính” chàng, chàng không muốn lại vì mình nói nhiều làm gì. Lời nên nói, dường như đều đã nói hết lần trước. Cái còn lại, chỉ là việc nên làm. Do đó, chàng sẽ lặng lẽ cúp điện thoại, khiến nỗi tương tư vô tận, trong đêm dài không ngủ, gậm nhấm tâm linh mình.
Tuy nhiên chàng cũng nghi ngờ, bên cạnh Đà Đà đã có người mới. Trong bốn năm trước đây, thứ việc ấy đã xảy ra nhiều lần. Nhưng nếu trải qua bốn năm yêu nhau long trời lở đất, nàng sau cùng còn có thể đi yêu người khác, thế thì đối với toàn thể cuộc đời, Hàn Thanh còn có thể tin cậy những gì! Không không, chàng thẳng thừng xóa sạch lớp nghi hoặc đó khỏi đáy lòng mình. Nhưng, trong tiềm thức, nghi hoặc đó lại cũng sâu rễ bền gốc. Trời, Đà Đà, Đà Đà, Đà Đà.. trong lòng chàng gọi khẽ hết lần này đến lần khác: chấm dứt thứ nung nấu này đi, chấm dứt sự nung nấu giữa chúng ta đi! Đà Đà, Đà Đà, Đà Đà! Để anh tin vào em! Để anh trăm phần trăm tin vào em!
Không, không thể nghi ngờ nàng. Đà Đà chỉ là đã khôn lớn, cho nên chàng cũng cần phải khôn lớn! Đà Đà sẽ đợi chàng, chàng tin chắc, Đà Đà sẽ đợi chàng. Chàng càng tin chắc, dù cho nàng đã có bạn mới, nàng vẫn sẽ trở về bên cạnh chàng. Bởi vì trên thế giới không có ai yêu nàng bằng chàng, không có ai có thể chiều nàng hơn chàng. Bốn năm nay, nàng đã muốn từ bên chàng bay đi, cuối cùng vẫn bay về tổ cũ. Đó là Đà Đà, một cô gái vĩnh viễn đang tìm cảm giác an toàn, đang tìm cảng tránh gió, mà vẫn đang tìm sóng gió, tìm khiêu chiến! Nhưng chàng có lòng tin, khi nàng bay mỏi, nhất định sẽ bay về tổ cũ, bất luận lúc nào, chàng đều sẽ dang hai cánh tay, đón nàng vào lòng, để nàng nghỉ ngơi đôi cánh bay mỏi của nàng.
Chàng chờ đợi, rất có lòng tin chờ đợi. Dù cho quãng thời gian chờ đợi đó tràn đầy nung nấu, chàng mỗi ngày đều phải kiềm chế lớn nhất, không gọi điện thoại cho nàng, không viết thư cho nàng. Nhưng chàng tạm coi là làm được một việc: không đến Đài Bắc “quấn” lấy nàng, đáy lòng chàng ngàn lượt vạn lượt gào thét lên:
- Đà Đà! chấm dứt thứ nung nấu này đi! Chấm dứt thứ nung nấu này đi!
Đà Đà không nói lời gì. “Vô tuyến điện” giữa hai người bỗng “chập mạch”. Chàng nghe không được tiếng lòng của Đà Đà, cảm giác bất an vây chặt lấy chàng, Đà Đà ơi, em tại sao im lặng không nói lời gì?
Một năm mới đến trong nung nấu. Hoa bông gạo đã nở lại tàn.
Công việc điên cuồng của chàng được trả giá, từ nhân viên thẳng lên trưởng phòng. Không chứng minh được gì, chàng không biết thế giới của mình có đuổi kịp Đà Đà hay không? Hai thế giới rất trống rỗng, là một bài thi không có cách nào được đủ điểm! Đà Đà ơi! Tối thiểu, em xem bài thi này! Tuy chưa chắc là đủ đậu, anh đã dốc hết sức trả lời đầu đề. Đà Đà ơi, em xem bài thi đi!
Đà Đà không có lời gì. Đà Đà ơi, em tại sao im lặng không có lời gì?
Bất an và bối rối trói chặt lấy chàng, mà chàng còn lo sợ, lo sợ đến không dám gọi điện thoại cho nàng, không dám viết thư cho nàng, không dám đi đối mặt với “sự thật” mà mình không biết.
Sau đó, trong tháng tư, chàng nửa đêm bỗng sực tỉnh. Giống như có một người dùng dây kéo mạnh trái tim chàng, chàng đau đến nỗi từ trong mộng kinh hãi nhảy nhổm lên. Ngồi trên giường, chàng đột nhiên cảm ứng mãnh liệt tiếng lòng của Đà Đà: Hàn Thanh, anh đang ở đâu? Hàn Thanh, anh đang ở đâu?
Chàng khoác áo xuống khỏi giường, lập tức xông về phía điện thoại.
Chuông reo hồi lâu, thời gian trên đồng hồ là hai giờ rưỡi sáng. Không được! Nhất định phải nghe được tiếng nói của Đà Đà! Đà Đà, nghe điện thoại đi! Nghe điện thoại đi! Nghe điện thoại đi! Van em đấy.
Cuối cùng người nghe điện thoại không phải là Đà Đà, mà là Tiểu Tam đang ngái ngủ.
- Hàn Thanh? - Tiếng của Tiểu Tam kỳ quái - Anh... tìm chị tôi? Chị ấy... chị ấy... - Giọng nói của Tiểu Tam hết sức mờ ám - Chị ấy không có nhà, chị... chị ấy đi nghỉ rồi.
- Đi nghỉ? - Chàng khẩn trương kêu - Nghỉ gì?
- À, à, - Tiểu Tam ấp úng - Chị ấy bắt chúng tôi đừng nói với anh! Chị... chị ấy đi Nhật Bản, ra nước ngoài rồi. Đại khái một tháng sau mới trở về! Sau khi chị ấy về sẽ liên lạc với anh!
Điện thoại cúp.
Chàng đờ người ngồi ở mép giường. Giờ lâu không có ý thức. Sau đó, đau đớn đánh gục chàng, chàng dùng tay ôm chặt lấy đầu. Tàn nhẫn quá, Đà Đà! Em sao có thể tàn nhẫn như thế? Đi Nhật Bản, ra nước ngoài rồi! Một mình em ra nước ngoài ư? Hay là có người cùng em đi? Đương nhiên, em không thể đơn độc ra nước ngoài nghỉ, thế thì, là có người cùng đi! Đà Đà, em đã quên, em đã nói chỉ có cùng anh chắp cánh bay đôi! Em từng nói! Chàng lắc đầu, đầy lòng cay đắng, mặt đầy nước mắt.
Khá lâu, chàng mới lấy lại tinh thần. Bỗng nhớ đến Đà Đà ôm mười hai bông hoa hồng, Đà Đà cười tươi tắn, Đà Đà ôm lưng chàng vừa cười vừa nhảy, Đà Đà ở bờ biển hát muôn sự muôn vật, chàng đưa ngón tay vào răng, cắn chặt tay mình. Không, anh không hận em! Anh không oán em! Anh không có cách nào hận em! Anh không có cách nào oán em! Đi chơi đi! Đi nghỉ đi. Chơi mệt rồi, nơi đây vẫn là tổ của em, dù cho có người cùng bay đi với em, anh cũng không oán. Chỉ cần em trở về, anh không oán gì hết, không hỏi gì hết, không trách gì hết! Chỉ cần em trở về!
Thứ chờ đợi này, như lửa đốt lòng chàng.
Hàn Thanh suốt đêm suốt đêm không ngủ được, trong mỗi một ý nghĩ đều là Đà Đà, đuổi không đi, xua không đi. Nàng thướt tha mềm mại đứng đấy: cười, khóc, nói... Đà Đà của chàng, Đà Đà khiến chàng đau lòng như vậy, chua xót như vậy, yêu đương như vậy! Chàng sao có thể yêu nàng như vậy? Sao có thể như vậy?
Ngày 24 tháng 4, lại là ngày kỷ niệm.
Suốt ngày, nỗi lòng của Hàn Thanh đều không yên đến cực điểm: nhớ nhung điên cuồng Đà Đà. Chàng đến hiệu sách, mua một tấm carte nhạn về tổ, bên trên viết hai dòng chữ:
Cựu sào y cựu tại,
Chỉ đãi cố nhân quy.
(Tổ cũ vẫn như cũ, chỉ đợi người cũ về)
Nhìn tấm carte, chàng không gửi đi. Trên tấm carte có một con nhạn, một con nhạn đang bay. Chàng nhìn trừng trừng nhạn, nhớ đến một bài hát, tên là “Hỏi nhạn”:
Hỏi nhạn, em vì sao lang thang?
Hỏi nhạn, em vì sao bay lượn?
Nhạn ơi, nhạn ơi,
Ta muốn dùng tình dịu êm vạn trượng
Xây cho em tường cung điện yêu
Lại sợ chiếc tổ nho nhỏ
Không thành nổi thiên đường của em!
Hỏi nhạn, em có bằng lòng lưu lại
Hỏi nhạn, em có bằng lòng thành đôi?
Nhạn ơi, nhạn ơi,
Ta muốn ở bên mình em
Che cho em mưa móc tuyết sương
Lại sợ em bay xa hút
Để cô độc cười ta điên cuồng!
Lòng chàng chua chát khổ sở, trong óc chỉ là vấn vít hai câu cuối của bài hát giống như điên cuồng: “Lại sợ em bay xa hút, để cô độc cười ta điên cuồng!”. Chàng ném tấm carte vào ngăn kéo, khóa lại. Nhưng chàng có thể khóa Đà Đà lại chăng? Cái tình thương xót buồn khổ, đè nặng lên chàng, đè đến chàng suốt ngày không thở được. “Lại sợ em bay xa hút, để cô độc cười ta điên cuồng!” Trời! Chàng mê mẫn choáng váng từng phút, từng giây một, đáy lòng là một nỗi buồn khổ vô tận. Đà Đà ơi, xin đừng bay xa hút, để cô độc cười ta điên cuồng!
Đêm đó, chàng lại không sao ngủ được.
Nhìn trừng trừng gian nhà, ý nghĩ của chàng lang thang trong bầu trời đêm phía ngoài cửa sổ. Trong lòng lặp đi lặp lại lời kêu Đà Đà. Trong óc, có một hình ảnh trước sau bồi hồi không đi: một con nhạn bay cô độc, cô độc, cô độc, cô độc! Có một đoạn thời gian, chàng thể hội được cô độc đến như vậy. Sau đó, bỗng nhiên, bên tai chàng vang lên tiếng nói của Đà Đà, rõ ràng làm sao, rõ ràng đến dường như Đà Đà đang ghé sát bên tai chàng, tiếng nói ấy trong trẻo êm tai, giống như đang hát lên:
Vô nhất tàng trung vô nhất vật, Hữu hoa hữu nguyệt hữu lâu đài!
Đà Đà đã trở về! Nàng đã từ Nhật bản trở về! Chàng biết! Đà Đà đang kêu gọi chàng! Nhất định là nàng đang kêu gọi chàng! Bốn năm nay, mỗi lần lúc nàng cần chàng, giác quan thứ sáu của chàng đều sẽ cảm ứng được. Mà hiện tại, giác quan thứ bảy thứ tám, thứ chín, thứ mười.. đều đang cảm ứng mãnh liệt như vậy, Đà Đà đang kêu gọi chàng!
Chàng khoác áo xuống khỏi giường, bất kể là mấy giờ, chàng lập tức gọi điện thoại đường dài đến nhà họ Viên, chuông reo mười lăm lần, vẫn không có người nghe! Chẳng lẽ cả nhà họ đều dọn sang Nhật Bản rồi? Không thể! Chàng lại gọi một lần điện thoại nữa, chuông reo hai mươi hai lần, vẫn không có người nghe.
Chàng bước nhấp nhổm trong nhà: có việc gì không bình thường? Nhất định có việc gì không bình thường! Tại sao không có ai nghe điện thoại? Chàng lại gọi lần thứ ba, vẫn không có ai nghe. Không bình thường rồi! Quá không bình thường rồi! Chàng đi giở sổ điện thoại, tìm ra địa chỉ Phương Khắc Mai sau khi kết hôn, cũng bất kể đêm khuya như thế, gọi đến có sẽ dẫn tới sự nghi ngờ của người khác hay không, chàng cứ lay tỉnh Phương Khắc Mai từ trong giấc mộng:
- Hàn Thanh. - Phương Khắc Mai nói - Con người anh quả thật có chút bệnh thần kinh. Anh biết bây giờ là mấy giờ hay không?
- Xin lỗi. – Chàng lầm bầm nói - Chỉ hỏi cô một việc, Đà Đà trờ về chưa?
- Gia Bội ư? - Phương Khắc Mai hết sức sửng sốt - Từ đâu về?
- Nhật Bản! Cô ấy không đi Nhật Bản ư?
- Ủa! - Phương Khắc Mai ngạc nhiên - Ai nói cô ấy đi Nhật Bản?
- Em gái cô ấy nói! Thế nào, cô ấy không đi Nhật Bản ư? - Trái tim chàng đang chìm xuống bỗng như được nâng lên.
- À, à, cái đó... cái đó... - Phương Khắc Mai ấp a ấp úng.
- Thế là thế nào? - Chàng kêu to - Phương Khắc Mai! Nhân danh Trời, nói cho tôi biết chuyện thực! Cô ấy kết hôn rồi? Lấy chồng rồi? Lấy anh chàng họ Kha rồi...
- Ồ, không không, Hàn Thanh, anh đừng khẩn trương như vậy - Phương Khắc Mai nói - Gia Bội không lấy chồng, không kết hôn, cô ấy chỉ là bệnh rồi.
- Bệnh rồi? Bệnh gì? Dạ dày ư?
- Là viêm gan, nằm ở Tổng viện Vinh Dân, tuần trước tôi đến thăm cô ấy, anh đừng nóng ruột, cô ấy vẫn khá!
- Cô tại sao không thông báo cho tôi biết? - Chàng rống to lên vào điện thoại.
- Hàn Thanh, đừng phát điên nữa có được không! Cô ấy chẳng qua là mắc viêm gan, bác sĩ nói chỉ cần nghỉ ngơi lại thêm hàng ngày chích chút thuốc, rất nhanh sẽ xuất viện! Cô ấy bắt tôi chớ có nói cho anh biết. Cô ấy nói cô ấy bây giờ rất xấu, không muốn gặp anh, sau khi xuất viện, chính cô ấy sẽ điện thoại cho anh! Anh hiểu được tính nết mạnh của cô ấy, nếu tôi nói cho anh biết, cô ấy sẽ giận tôi đến chết! cô ấy còn nói, anh đang nỗ lực công tác, mỗi ngày phải làm việc hơn mười tiếng đồng hồ, đừng quấy rối anh.
- Nhưng, nhưng... - Chàng rống to kêu to vào ống nghe - Cô ấy cần tôi. Lúc cô ấy mắc bệnh rất yếu đuối, cô ấy cần tôi.
- Hàn Thanh. - Phương Khắc Mai phẫn nộ nói - Anh là một thằng điên! Nhà người ta có cha mẹ em trai em gái săn sóc, tại sao lại cần đến anh! Anh điên rồi! - Phương Khắc Mai cúp điện thoại.
Hàn Thanh vẫn cứ còn nắm ống nghe, đờ người ngồi ở đấy. Lát sau chàng máy móc gác ống nghe lên, dùng đôi tay thọc sâu vào trong tóc, chàng ôm đầu, nhắm chặt mắt để ngăn cản một cơn đau đớn quặn thắt tâm can của mình. Ý nghĩ là một mớ hỗn loạn. Phương Khắc Mai nói Đà Đà bệnh rồi. Thật thế ư? Hoặc giả là lấy chồng rồi? Không, nhất định là bệnh rồi. Viêm gan, Tổng viện Vinh Dân, không có gì nghiêm trọng, không có gì nghiêm trọng! Viêm gan, viêm gan, Đà Đà bệnh rồi! Đà Đà bệnh rồi! Chàng bỗng thấy trái tim nhắc lại khiến chàng đau đớn. Chàng dường như lại nghe thấy tiếng Đà Đà, ở nơi ấy đang trong trẻo kêu:
- Hàn Thanh, đừng quên hoa bông gạo của em!
Hoa bông gạo? Chàng kinh hoàng nhìn bốn chung quanh nhà, trên tường treo tấm ảnh chàng và Đà Đà chụp chung: Đà Đà mắt sáng, răng trắng, cười tươi tắn. Đà Đà em khỏe không? Em khỏe không? Đà Đà, em đương nhiên không khỏe, em bệnh rồi, anh không ở bên cạnh em, ai có thể chống đỡ cho em? Ai có thể an ủi em? Ai có thể chia gánh đau khổ cho em? Chàng chạy đến trước cửa sổ, sao chi chít đầy trời, trong óc bỗng hiện lên lời thư Đà Đà viết cho chàng:
.. Nguyện chàng là trăng sáng, em là sao lạnh theo kề, sớm sớm chiều chiều, chiều chiều sớm sớm. Bỗng thấy nước hồ dập dềnh, bóng trăng trong nước, như hư như thực..
Chàng rùng mình một cái, dự cảm chẳng lành chộp lấy chàng mạnh mẽ biết bao. Chàng nhịn không nỗi kêu lên:
- Đà Đà! Anh đến đây! Anh lập tức đến bên cạnh em! Anh đến đây!
Cùng một thời gian, Đà Đà nằm trên giường bệnh, cha mẹ em trai em gái, đều vây quanh trước giường. Buổi chiều, sức khỏe của nàng còn rất tốt, nàng từng muốn tắm rửa, đòi đổi một bộ y phục thời học sinh: áo sơ-mi màu vàng mượt, quần dài nhung kẻ màu xanh, ngoài thêm một chiếc ghI- lê nhỏ màu xanh viền vàng. Nằm ở đấy, nàng giống như một bông hồng vàng nhỏ xinh xắn, được lá xanh non mướt nâng lên. Cha mẹ Đà Đà không biết, ngày 24 tháng 10 mấy năm trước, nàng từng mặc bộ y phục ấy, ôm mười hai bông hoa hồng, đứng trước cửa nhà một cậu trai. Mà sau đó, nàng nhận một chiếc nhẫn vàng, dâng hiến cho cậu trai, thành vợ mới của cậu trai ấy. Cậu trai ấy tên là Hàn Thanh!
Vào phút này, không ai biết Đà Đà đang nghĩ gì. Nàng nằm bình tĩnh, mắt nửa mở nửa nhắm, có phần mê mẩn, bối rối, dường như nàng không hiểu mình đi đến nơi nào. Trên mặt nàng cái buồn rầu dịu dàng kín đáo, cái buồn rầu trang nghiêm, khiến bộ mặt trắng bệch gầy quắt của nàng tỏ ra càng thêm đáng thương. Nàng rụt bả vai, giống như một con chim nhỏ sau khi trải qua bay đường dài trong mưa mù, đang thu lại đôi cánh bay, không ngăn nổi run rẩy vì lạnh. Sau đó, đầu mày nàng khẽ nhíu lại, tựa hồ muốn tập trung thần trí đã bắt đầu rệu rã của mình. Nàng mấp máy môi khẽ gọi một cái tên, không ai nghe rõ người nàng gọi là ai. Sau đó nàng thở dài thì thào nói:
- Duyên đã tận, tình chưa dứt!
Tiếp đó, nàng dùng tay trái nắm lấy tay mẹ, tay phải nắm lấy tay cha, nhắm mắt lại nói khẽ:
- Không lại lang thang nữa, không lại lang thang nữa!
Đó là câu nói cuối cùng của nàng.
Viên Gia Bội, tên tục nàng, hấp hối ngày 24 tháng 4 năm 1982, chết vì ung thư gan ngày 25, không phải viêm gan. Chỉ mới hai mươi bốn tuổi.
Hai mươi bốn! Con số này dường như vẫn cứ có duyên với nàng: ngày hai mươi bốn gặp được Hàn Thanh, ngày nàng hấp hối, chính là ngày kỷ niệm năm mươi bốn tháng họ quen nhau, gắng gượng sống qua ngày ấy, nàng liền lặng lẽ ra đi.
Hàn Thanh đến Đài Bắc, Đà Đà đã ra đi. Chàng vẫn không kịp gặp mặt nàng lần cuối.
Chàng không khóc, không nói ý nghĩ, không có ý thức, từ cửa lớn Tổng viện Vinh Dân ra, chàng chỉ muốn đến một nơi: bờ biển. Đà Đà rất thích xem biển. Từ khi biết nhau đến nay, chàng từng mang nàng chạy khắp bờ biển ngoại ô gần Đài Bắc. Một lần cuối cùng mang nàng đi xem biển, là lúc chàng còn chưa xuất ngũ, hôm ấy chàng được nghỉ, nàng đến Tân Trúc thăm chàng, lại đòi đi xem biển. Chàng chí ít hỏi mười người, mới biết bờ biển gần nhất tên là “Nam Liêu”, chàng một đời chưa đến Nam Liêu, lại dẫn Đà Đà đi. Đà Đà hôm ấy rất vui: cười trong gió, cười trong ánh mặt trời, cười trong bóng buồm sóng biển. Chàng hôm ấy cũng rất vui: cười trong cái vui của nàng, cười trong cái phấn khởi của nàng, cười trong tình cảm êm dịu của Đà Đà... Chàng từng vừa cười vừa đối mặt nàng hát:
A Mỹ A Mỹ bao giờ sắm của hồi môn?
Anh nóng ruột đến sắp cuống lên...
Phải. Bờ biển, nơi Đà Đà thích đến nhất. Chàng nhớ đến bờ biển.
Trên bãi cát chàng ngồi cô độc, nhớ Đà Đà: lần đầu tiên cùng chàng xem biển, nàng nói với chàng, trong lòng nàng chỉ có một mình chàng! Lần cuối cùng nàng xem biển, chàng đối nàng hát “A Mỹ A Mỹ bao giờ sắm của hồi môn?”. Bây giờ, chàng ngồi cô độc trên bãi cát, nhìn biển cả mênh mông không bờ không bến, toàn thể tâm linh thần trí đều bị đông cứng lại, ồn ào của sóng biển, gầm rú của gió biển, đối với chàng đều là ngưng lặng. Cái gì cũng ngưng lặng: thời gian, không gian, ý nghĩ, tình cảm, cái gì cũng ngưng lặng.
Chỉ sợ em bay mất hút
Để cô độc cười ta điên cuồng.
Bỗng nhiên, hai câu ca từ từ trong ngưng lặng vọt ra. Sau đó chàng lại có thể nghĩ, ký ức đầu tiên, lại là mấy năm về trước, Đinh Hương cũng từng ngồi trên bãi cát, trong tay ôm chặt cái trống tay của Từ Nghiệp Vỹ.
Chàng vùi đầu vào trong đầu gối vồng lên, hai tay nắm chặt. Chàng ngồi như vậy, không động, không nói.
Gió biển không thương xót thổi táp vào chàng, hạt cát đập trên người trên gáy chàng từng hồi nhức buốt. Chàng tiếp tục ngồi, không biết ngồi bao nhiêu lâu, mãi đến hoàng hôn, giò thổi trên người đã se se lạnh, nước triều dần dâng, làn sóng biển đầu tiên ùa đến, tung ướt người chàng, nước biển lạnh ngắt khiến toàn thân chàng run lên, chàng bỗng tỉnh lại.
Chàng đã tỉnh, ngẩng đầu lên, chàng nhìn trừng trừng biển, nhìn trừng trừng trời, nhìn trừng trừng vũ trụ, nhìn vòm trời chàng không hiểu. Sau đó, chàng đứng dậy, tay chân cứng đơ tê bại và từ từ lùi lại mấy bước về phía sau bờ biển. Đứng vững rồi, chàng lại nhìn biển, nhìn trời, nhìn vũ trụ, bầu trời chàng không hiểu. Đột nhiên, chàng nổ tung! Dùng hết sức mạnh toàn thân, cuối cùng chàng kêu lên với sâu thẳm trời mây:
- Đà Đà! Tại sao lại là em? Tại sao lại là em? Tại sao lại là em? Em còn có bao nhiêu việc cần làm! Nước Pháp của em thì sao? Paris của em thì sao? Đại Lộ Champs - Élysées và khu Latin? Còn hoa bông gạo của em thì sao? Sáng tác của em thì sao? Đà Đà! Em sao có thể ra đi? Em yêu nồng nàn sinh mệnh như thế! Em trẻ trung như thế! Em nhận lời anh muốn sống đến bảy mươi tám tuổi! Bảy mươi tám tuổi! Chẳng lẽ em đã quên? Em đã hứa với anh, muốn dùng bốn mươi năm đời sống để bầu bạn với anh! Bốn mươi năm! Em đã quên? Em đã quên? Em từng nói muốn cho con cháu chúng ta biết, chúng ta từng biết nhau và yêu nhau như thế nào! Chẳng lẽ em đều quên? Đều quên? Tại sao lúc anh đang liều mạng phấn đấu như vậy, em lại có thể tàn nhẫn rời bỏ anh đi xa? Đà Đà! Đà Đà! Đà Đà... - Chàng nhìn trời gào to, tiếng nói rè đi, kêu mãi đến phía ngoài tầng mây - Đà Đà! Đà Đà! Đà Đà!
Chàng kêu một chuỗi liền vài trăm tiếng “Đà Đà”, mãi đến khi phát không ra tiếng, sau đó chàng lao gục trên một tảng nham thạch. Trong khoảnh khắc này, rất nhiều chuyện cũ chợt ùa đến: vũ hội đầu tiên, điện thoại tám chữ số, bữa trưa ở Tiểu Phong Phàm, lần đầu dắt tay, lần đầu hôn, lần đầu xem biển, lần đầu đến nhà Triệu Bồi, ngày kỷ niệm tròn năm.. quá nhiều, quá nhiều, đếm không xuể, tính không xuể. Bao nhiêu ân ái, bao nhiêu lời thề, bao nhiêu chờ đợi, bao nhiêu kế hoạch.. bao nhiêu nung nấu trong đoạn thời gian sau cùng! Chẳng nhẽ đều thành hồi ức? Trời! quá không công bằng, thế giới này quá không công bằng! Chàng cho rằng toàn thế giới không có người nào có thể tách chàng và Đà Đà ra, nhưng chàng làm sao đi tranh giành với thần chết? Chàng từ trên nham thạch từ từ bò dậy, quay đầu đi, chàng chăm chú nhìn ráng chiều bên trời, ánh sáng vẫn xán lạn! Vẫn xán lạn! Vì ai mà xán lạn? Chàng lại lần nữa ngửa mặt lên trời gào to:
- Thượng đế, ngài ở đâu? Ngài ở đâu?
Mấy năm trước, chàng từng vì Từ Nghiệp Vỹ gào to. Lúc ấy, Đà Đà còn ở bên cạnh chàng, chia gánh buồn khổ với chàng. Mà nay, chàng vì Đà Đà đã gào to, bên cạnh lại không có một người nào. Chàng ngẩng đầu hỏi trời, trời cũng không nói, chàng cúi đầu hỏi đất, đất cũng không lời. Chàng dựa ngửa người trên nham thạch cứng rắn, dùng tay vô thức nắm chặt một khối măng đá lồi ra, nham thạch sần sùi sắc nhọn đâm buốt lòng bàn tay chàng, chàng nắm chặt, lại nắm chặt..
Nhớ đến căn nhà nhỏ đường Thủy Nguyên, nhớ đến chân trần chạy xuống ba tầng lầu mua thuốc đau dạ dày, nhớ đến cầm dao cứa ngón tay viết huyết thư, nhớ đến Đà Đà ôm mười hai bông hồng đứng trước cửa phòng chàng... Chàng không thể nghĩ nữa, nghĩ tiếp nữa. Chàng sẽ theo với nàng chạy xuống biển cả. Ý nghĩ đó, vừa dấy lên, chàng nhìn trừng trừng sóng biển, mỗi một làn sóng lớn cuồn cuộn mà đến ấy, đều đang lớn tiếng gào lên với chàng.
- Không thể cùng sống, chỉ mong cùng chết!
- Không thể cùng sống, chỉ mong cùng chết!
- Không thể cùng sống, chỉ mong cùng chết!
- Không thể cùng sống, chỉ mong cùng chết!
Chàng đã bị thôi miên, trong óc một mảng hỗn độn.
Rời khỏi nham thạch đằng sau, chàng bắt đầu đi chầm chậm về phía biển, từng bước một, từng bước một, từng bước một... chân chàng dẫm lên hạt cát ẩm ướt, bọt sóng tấp lên cổ chân chàng, lại nhanh chóng lùi lại đằng sau. Chàng sải bước, về phía trước, lại về phía trước, lại về phía trước...
Bỗng nhiên, chàng nghe thấy tiếng nói của Đà Đà trong trẻo, dịu dàng ở đằng sau chàng:
- Có tức là không! Thật tức là giả! Tồn tại tức là kkhông tồn tại! Gần nhất tức là xa nhất...
Chàng vụt quay đầu, lần theo tiếng tìm kiếm.
- Đà Đà! – Chàng kêu – Đà Đà!
Tiếng Đà Đà vang vọng trong hang núi phía sau, mừng rỡ, vui sướng, hài lòng kêu:
- Của anh, của em, tất cả, tất cả, là tất cả của hai ta: Paris của hai ta, hoa bông gạo của hai ta!
- Trời! Đà Đà! – Chàng cắn môi, mãi đến khi môi chảy máu. Chàng hấp tấp rời khỏi sóng biển ấy, chạy về phía bờ biển, chạy về phía bãi cát, cứ chạy, cứ chạy. Khi chạy đến gần mỏi sức kiệt, chàng gục trên bãi cát, dùng tay ôm chặt lấy đầu. Khóc đi! Chàng bắt đầu khóc. Không chỉ vì Đà Đà khóc, vì rất nhiều việc mà chàng không hiểu như Tiểu Vỹ, Đà Đà, Tiểu Mai Mai, và những năm tháng thanh xuân ngờ nghệch không biết gì của họ! Khi những năm tháng ấy ở trong tay họ, có mấy người quý tiếc. Mà nay, cái đi đã đi, cái tan đã tan, Đà Đà như thơ như họa, lại từ giã cõi đời.
Chàng dường như lại nghe thấy tiếng trongnhư chuông bạc của Đà Đà, đang hát bài ca nàng yêu thích nhất “All kind of everything” (Muôn sự muôn vật).
Hoa tuyết và hoa thủy tiên rụng rơi
Bướm và ong bay múa
Thuyền buồm, người đánh cá và mọi sự vật trên biển
Giếng nguyện cầu, tiếng chuông hôn lễ
Và hạt móc trong buổi sớm mai
Muôn sự muôn vật, muôn sự muôn vật
Đều khiến em nhớ đến anh... nhớ đến anh......
Chàng dùng tay bịt tai lại. Muôn sự muôn vật, muôn sự muôn vật đều vì Đà Đà mà tồn tại. Mà nay thì sao? Không tồn tại coi như tồn tại ư? Tồn tại coi như không tồn tại ư? Đà Đà ơi! Em muốn nói với anh cái gì?
Hoặc giả, anh vĩnh viễn đuổi không kịp thế giới của em! Thế giới của em quá xa, quá cao! Đà Đà! Anh vốn bình thường! Anh vốn bình thường! Anh chỉ muốn hỏi: em ở đâu? em ở đâu?
Gió gào, sóng vỗ, đỉnh núi thông reo, hải âu kêu réo, sóng gầm rống... Muôn sự muôn vật, cuối cùng, đều hòa thành một bản đại hợp xướng vạn người, ào ào cuồn cuộn, lật non dốc biển cuốn tới với chàng.
Trong cái gạt tàn thuốc trên bàn, đã chất đầy đầu mẩu thuốc, khói thuốc tiếp tục tan loãng trong không khí, thời gian đã là tảng sáng mồng một tháng tám.
Người anh dựa vào chỗ sâu của ghế tựa, đầu anh ngửa lên, mắt vô thức nhìn trần nhà của thư phòng tôi. Trên trần nhà ấy lắp một dãy kính màu, bên trong lọt qua ánh đèn. Nhưng, tôi biết anh không nhìn kính màu, anh ngửa đầu, là bởi vì giọt nước mắt đang lăn trong mắt anh, nếu anh cúi xuống, nước mắt sẽ chảy xuống.
Trong nhà lặng lẽ một thời gian khá dài. Trên giấy bản thảo của tôi ghi lộn xộn câu chuyện của anh. Anh khiến bút tôi vạch không ngừng trên giấy, chỉ vì tôi không thể ngăn nổi mắt mình ươn ướt.
Một lúc sau, tôi nghĩ, hai chúng tôi đều tương đối bình tĩnh. Tôi ngước nhìn anh, trải qua câu chuyện dài, cảm giác xa lạ đã không tồn tại. Anh lắc đầu, cuối cùng không che giấu nước mắt nữa, anh dùng mùi xoa chùi mắt. Tôi chú ý đến một góc mùi xoa, thêu hai chữ “Đà Đà”.
- Mỗi chiếc mùi xoa của anh đều có cái tên này? – Tôi hỏi.
- Vâng.
Tôi thở dài. Không biết nên hỏi những gì nữa. Trên thực tế, câu chuyện của Hàn Thanh kể hết sức lộn xộn, thường thường do một liên tưởng nào đó, mà đem đầu đề câu chuyện từ “giai đoạn” đang nói, nhảy sang một “giai đoạn” khác. Do đó thời gian, sự kiện, và địa điểm, thậm chí nhân vật đều có phần lẫn lộn. Mà lúc đang kể chuyện, anh từng nhiều lần cắn môi, ngẩng đầu nhìn trần nhà (bởi nước mắt lại đến), mà lời kể ngừng lại. Tôi rất ít chen vào, rất ít hỏi điều gì, chỉ để anh nói. Lúc anh không nói tiếp được, tôi liền dựa trong ghế tựa, lặng lẽ đợi anh qua được cơn đau khổ.
Kết cục của câu chuyện, là tôi sớm đã biết, lại nghe anh nói một lần, khiến tôi càng thương xót. Tôi than thở với anh:
- Ung thư gan, tôi quả không tin một người trẻ tuổi lại mắc ung thư gan!
- Tôi vẫn cứ cho là viêm gan, Tiểu Phương cũng cho là viêm gan – Anh nói, chớp chớp đôi mắt đã ướt đầm - Kỳ thực, ngay cả Tiểu Tam Tiểu Tứ đều không biết nàng mắc chứng nan y, chỉ có cha nàng biết, mọi người đều giấu. Lúc tôi đến thăm nàng, tôi nằm mộng cúng không ngờ nổi nàng đã chết! Nằm mộng cũng không ngờ nổi! – Chàng nhấn mạnh lặp lại, tôi tự trádch tôi ngàn ngàn vạn vạn lần, Đà Đà vẫn cứ nhiều bệnh, dạ dày của nàng... tôi dẫn nàng đi chiếu X. quang, so với người bình thường dạ dày nhỏ mất một nửa, mà rủ xuống, cho nên nàng cần phải ăn nhiều bữa. Trong thân thể nàng không có chút sức đề kháng nào, bệnh cúm đến, nàng vẫn là người thứ nhất bị lây... Lúc đó ở Đài Bắc, tôi thường lôi nàng đi khám bác sĩ, vừa dỗ, vừa lừa vừa nói khéo, van xin nàng đi. Chưa từng thấy một người không biết bảo vệ mình như nàng! Nếu nàng sớm chú ý đến thân thể mình, không làm sao có thể bỏ mạng được, nàng quả thực là bị để lỡ, bị bỏ sót. Nếu tôi ở Đài Bắc, nếu tôi ở bên cạnh nàng, nếu tôi không vì mình mà đi miền Nam... – Chàng nghiến chặt răng, từ trong kẽ răng bật ra một câu – Nàng nhất định sẽ không chết! Nàng nhất định sẽ không chết!
- Đừng nghĩ như vậy! – Tôi thử an ủi chàng, trong nhà không khí buồn rầu đã chứa chất quá nặng - Hoặc giả, nàng đi được đúng lúc. Hai mươi bốn tuổi, lứa tuổi đẹp nhất, thanh xuân nhât, đáng yêu nhất. Ra đi, cái lưu lại, là hồi ức đẹp nhất, thanh xuân nhất, đáng yêu nhất.
- Bà nói như vậy, bởi vì...
- Bởi vì tôi không phải là người trong cuộc! – Tôi nói tiếp thay anh, nhìn thẳng vào anh – Sao anh biết tình huống lúc lâm chung của Đà Đà?
- Sau đó tôi đến nhà họ Viên, gặp lại cha mẹ Đà Đà... – Chàng nghẹn ngào – Tôi gọi hai vị ba, má.
Tôi gật đầu, hiểu sâu sắc nỗi đau buồn mất con gái yêu của vợ chồng họ Viên, và tình cảm “yêu nhau yêu cả đường đi” của họ. Họ nhất định biết được trái tim đang rỏ máu của Hàn Thanh giống như của họ.
- Hàn Thanh, chúng ta đều không hiểu được cái chết là gì – Tôi nói – Nhưng tôi nghĩ, Đà Đà nếu chết mà có thiêng, nhất định hy vọng nhìn thấy anh phấn chấn lên, vui vẻ lên mà không phải là nhìn thấy anh suy sụp như thế.
- Bà hiểu được ý tứ, ý niệm đều nguội lạnh hay không? – Anh hỏi.
- À, tôi hiểu.
Anh trầm tư một lát, bỗng bất thần lại hỏi một câu:
- Bà biết bài hát All kinds of everything không?
Không đợi tôi đáp, anh bắt đầu dùng Anh văn hát bài ca:
Muôn sự muôn vật, muôn sự muôn vật
Đều khiến anh nhớ đến em... nhớ đến em!
Anh ngừng lại, lại ngẩng đầu nhìn trần nhà, giọt nước mắt lăn trong mắt.
- Tôi không dám oán hận Thượng đế - Anh nói – Tôi không dám oán hận số mệnh! Tôi chỉ là không hiểu, những chuyện này tại sao xảy ra ở chúng tôi. Năm trước, tôi cùng Đà Đà đi dạo chơi Công ty Bách hóa, nàng ở ao hứa nguyện, cầu nguyện cho ba điều, cho ba đôi chúng tôi. Kết quả, Từ Nghiệp Bình và Phương Khắc Mai tan! Tiểu Vỹ chết đuối, Đinh Hương vào bệnh viện tâm thần. Cuối cùng còn lại một đôi chúng tôi, bây giờ ngay cả Đà Đà cũng ra đi. Ba đôi! Không có một đôi nào đoàn viên! Tại sao như vậy? Tại sao như vậy? Con người, đều sẽ chết, mỗi một người đều sẽ chết! Tôi không khóc vì bà già ở đối diện, tôi không khóc vì thái sư mẫu... nhưng, tôi khóc vì Tiểu Vỹ, tôi khóc vì Đà Đà rời khỏi tôi, vì sự ngờ nghệch không biết gì của lớp người chúng tôi!
Anh càng nói càng khích động, anh không giữ ý rơi lệ trước mặt tôi. Tôi cũng không giữ ý rơi lệ trước mặt anh.
- Hàn Thanh! - Rất lâu tôi mới nói - Đối với sinh mệnh, mỗi một người chúng ta đều ngờ nghệch không biết gì.
- Bà hiểu sinh mệnh không? – Anh hỏi.
Tôi trầm tư và lắc đầu.
- Tôi không bao giờ dám nói tôi hiểu bất kỳ chuyện gì. – Tôi từ chỗ sâu của đáy lòng mình nói ra, thẳng thắn, thành khẩn nhìn Hàn Thanh – Càng đừng nên bàn đến sinh mệnh. Tôi chỉ thấy, bản thân sinh mệnh có thể là một bi kịch, lúc mình không đòi hỏi có sinh mệnh thì nó đến, lúc không muốn đi lại đi Nhưng, - Tôi nhấn mạnh – con người lúc đang sống, vẫn cứ nên sống cho tốt, không vì mình, mà vì những người yêu mình! Bởi vì nỗi đau buồn mà cái chết để lại không thuộc về mình, mà thuộc về những người còn sống còn yêu tha thiết mình! Thí dụ như anh và Đà Đà! Đà Đà đã không còn hay biết gì, anh lại đau khổ như thế!
Anh lại trầm tư. Ý nghĩ của anh thường đang dời chuyển, đang từ một thời không này, chuyển vào một thời không khác, từ chuyện này sang chuyện khác. Bỗng nhiên, anh lại hỏi tôi:
- Bà có sẽ viết câu chuyện này không?
Tôi nghĩ một chút.
- Không biết. – Tôi nhìn bản thảo bên tay – Câu chuyện này mang cho tôi cảm giác rất thê lương, lâu nay, tôi tránh viết bi kịch! Cái đó... đối với bản thân tôi mà nói, là một việc rất tàn nhẫn, bởi vì tôi sẽ sa vào. Nhất là câu chuyện của hai anh chị... Kỳ thực, câu chuyện của hai anh chị rất đơn thuần, không khúc khuỷu, viết ra có thể viết được tốt hay không, tôi không nắm chắc. Mà còn... – Tôi trầm tư, bỗng hỏi lại anh một câu – Anh đã xem tiểu thuyết của tôi chưa?
- Xem rồi, bởi vì xem rồi, mới đến tìm bà. Vẫn cứ thấy được rằng, chỉ có bà mới có thể lĩnh hội sâu sắc tình yêu này.
Tôi gượng cười.
- Cứ coi là, cũng có người đến giúp tôi chứng thực, thế nào là tình yêu. Anh biết, trong tác phẩm của tôi, đó là một điểm thường xuyên bị công kích, rất nhiều người nói, tình yêu dưới ngòi bút tôi toàn là bịa đặt. Còn có rất nhiều người nói, tôi đem tình yêu tả quá đẹp, quá mạnh mẽ, cho nên không hiện thực. Vài năm nay tôi đã rất mệt nhọc đi tranh biện với người khác về tình yêu có tồn tại hay không. Mà anh lại mang cho tôi một câu chuyện mạnh mẽ thắm thiết như thế.
- Vâng. – Anh nhìn tôi, ánh mắt thiết tha – Tôi không chỉ đích thân đến kể với bà, mà ngay cả nhật ký của tôi... Một cái tôi chân thực nhất, tốt có, xấu có, các phương diện, đều hiện ra trước mặt bà. Còn có những thư này, tôi có thể giữ thư tôi viết cho Đà Đà, là bời vì mối quan hệ với Phương Khắc Mai. Đà Đà không dám mang thư về nhà, đều gửi nhờ chỗ Tiểu Phương. Sau khi Đà Đà chết, Tiểu Phương đem chúng giao cho tôi. Cho nên, bà có cả tư liệu của đôi bên chúng tôi.
Tôi vẫn do dự.
- Bà còn có điều e ngại gì không?
- Không phải là vấn đề của anh, là vấn đề của tôi. – Tôi nói, thử muốn để anh hiểu nỗi khó khăn và tâm trí của tôi lúc này - Một vài năm nay, câu chuyện của tôi thường chấm dứt ở giai đoạn người cuối cùng thành quyến thuộc. Trên thực tế, câu chuyện của loài người, không phải là “cuối cùng thành quyến thuộc” liền chấm dứt. Giữa nam nữ từ gặp nhau, đến yêu nhau, đến kết hôn, có thể chỉ có mấy năm ngắn ngủi. Mà nam nữ sau khi kết hôn, muốn đi chung một con đường dài dằng dặc, dài đến mấy chục năm. Trong khoảng mấy chục năm đó, bao nhiêu sóng gió sẽ đẻ ra, bao nhiêu câu chuyện sẽ đẻ ra. Có một số người trong sóng gió trăm năm đầu bạc, cũng có một số người trong sóng gió mỗi người một ngả. Nhưng, câu chuyện viết đến cuối cùng thành quyến thuộc liền chấm dứt, là chấm dứt ở một giai đoạn tốt đẹp nhất. – Tôi chăm chú nhìn anh – Anh hiểu không?
Chàng lắc đầu.
- Không hiểu cho lắm.
- Câu chuyện của anh và Đà Đà... – Tôi tiếp tục nói - khiến tôi cảm động. Ở thời đại hiện nay, còn có một đôi người trẻ tuổi, yêu được long trời lở đất như vậy, tôi quả thực rất cảm động. Chỉ là, tôi rất sợ viết bi kịch, tôi rất sợ viết chết chóc, bởi vì trong tất cả mọi bi kịch, chỉ có chết chóc là không thể bù lấp được! Câu chuyện của hai anh chị, khiến tôi rất khổ tâm, là.. – Tôi rất nhấn mạnh nói – nó chấm dứt ở chỗ không nên chấm dứt!
Anh ngước mắt nhìn tôi, trong mắt bỗng tràn đầy tự tin. Anh mạnh mẽ, rất sôi nổi nói:
- Nó tuy chấm dứt ở chỗ không nên chấm dứt, nhưng nó bắt đầu ở chỗ đáng bắt đầu! Quen biết Đà Đà, yêu Đà Đà, tuy mang lại cho tôi đau khổ rất sâu sắc, nhưng tôi suốt đời không hối hận!
Tôi ngạc nhiên nhìn anh, bị nhiệt tình mạnh mẽ của anh hoàn toàn làm cảm động.
- Được! Tôi sẽ thử xem! - Cuối cùng tôi nói – Dù sao chăng nữa câu chuyện này làm tôi rất cảm động, quá cảm động! Tôi nghĩ, tôi sẽ nghiêm chỉnh suy tính việc viết nó. Nhưng... – Tôi trầm ngâm một chút - Tại sao phải viết lại? Tại sao bản thân anh không viết?
- Bà cho rằng tôi trong thứ tâm tình này, có thể viết ra một chữ được ư? – Anh hỏi lại tôi, chăm chú nhìn tôi – Bà nhớ được hoa bông gạo của Đà Đà không?
- Có.
- Cô ấy vẫn cứ muốn viết một cuốn sách, viết về sinh mệnh, viết về hoa bông gạo. Cô ấy không thể viết gì được nữa, mà hoa bông gạo năm năm vẫn như cũ. Tôi chỉ muốn nhờ bà, vì tôi, vì Đà Đà, viết một chút gì, tựa như hoa bông gạo.
- Hoa bông gạo. – Tôi trầm ngâm – Ngoài cửa sổ phòng tôi có ba cây bông gạo. Rất cao rất lớn.
- Tôi nhìn thấy rồi.
- Nhưng, hoa bông gạo của hai anh chị đại biểu cho cái gì?
- Đà Đà nói nó có sức sống. Tôi thấy được rằng, hoa diễm lệ như vậy, nở ở trên cành cây trần trụi, có một thứ đẹp thê lương, đẹp bi tráng.
Thật thế ư? Tôi trầm ngâm, đi đến trước cửa sổ, tôi kéo màn cửa sổ ra. Trong sắc đêm, ba cây bông gạo sừng sững, đó chính là mùa lá biếc lòa xòa, lá rậm rạp đầy cây, lay lắc. Dưới ánh đèn đường phố chiếu, mỗi cành mỗi lá, đều tựa hồ xanh tốt vô cùng, dồi dào vô cùng.
- Hoa bông gạo rất kỳ lạ, nó nở hoa trước, đợi bông hoa đều tàn lá mới liền ló ra – Tôi nhìn ba cái cây nghĩ ngợi – Đà Đà của anh, hoặc giả cũng là đóa hoa bông gạo, sau khi tàn héo, vẫn không đại biểu cho sự chấm dứt của sinh mệnh. Bởi vì lá của cây bông gạo, đều phải đợi sau khi hoa tàn mới lại mọc ra, sự xanh tốt của cây, đều là sau khi hoa tàn mới đến.
Anh nhìn tôi, nghi ngờ.
- Thật thế ư? Đà Đà chỉ là một cô cái không tên tuổi, dù cho thông minh thế nào, có tài hoa thế nào, cô ấy không lưu lại bất kỳ cái gì! Tôi tìm không ra lá thuộc về cô ấy! Cô ấy là như vậy, tàn héo rồi, không còn gì nữa.
- Thật thế ư? – Tôi nhìn anh, hỏi lại – Xem chừng, anh đem đề tài này giao cho tôi ư? Được rồi, để chúng ta cứ thử xem, xem có thể vì Đà Đà lưu lại một số cái gì, dù chỉ là vài chiếc lá!
Anh nhìn tôi, hết sức chân thật, hết sức thành khẩn, mà anh còn bình tĩnh lại.
- Cám ơn bà! – Anh nói.
Lúc anh cáo từ sắc trời đã mờ mờ sáng. Tôi tiễn anh ra cổng, nhìn cái bóng cô độc của anh, nhịn không nổi tôi hỏi một câu:
- Về sau chuẩn bị làm những gì?
- Về sau? – Anh ngoẹo đầu nghĩ một chút, bỗng mỉm cười, đó là cái mỉm cười đầu tiên suốt đêm hôm ấy – Lúc tôi có năng lực, thể nào cũng có một ngày, tôi sẽ đi Paris, đi đại lộ Champs-Élysées, đến điện Louvres, đến khu Latin... Sau đó, tôi sẽ nói: Đà Đà, anh cuối cùng đã mang em đến!
Anh đi. Đi cho được thanh thản.
Tôi còn đứng trong vườn hoa một lúc, phát hiện có vài bông hoa hồng sa mạc khô héo. Tôi máy móc đi lại, hái đi bông hoa đã tàn ấy, trong lòng mông lung ùa đến câu trong bài từ nổi tiếng của Lý Hậu Chủ:
Lâm hoa tạ liễu xuân hồng, thái thông thông (hoa rừng tàn tạ xuân hồng, vội vàng sao)
Vô nại triêu lai hàn vũ, vãn lai phong (Đoạn đành mưa lạnh đến sớm, gió đêm thâu)
Yên chi lệ, tương lưu túy, kỷ thời trùng? (Lệ phấn son, say nán lại, bao thuở trùng phùng)
Tự thị nhân sinh trường hận thủy trường đông. (Tựa đời người hận dài nước chảy dài về đông. )
Mắt tôi lại ươn ướt. Đời người là như vậy. Sao lại trách tôi vẫn cứ lặp lại những câu chuyện giống nhau? Nỗi buồn đau và bất lực của người trước, ở ngày nay của thời hiện đại, há chẳng phải là cũng tồn tại lặp lại như vậy hay sao? Há chẳng phải sao?
Tôi đi vào trong nhà, để sự ấm áp của cả ngôi nhà bao vây lấy tôi, con người, nên vì những người yêu mình sống cho tốt, nhất định, nhất định, nhất đinh.
Bản thảo đầu hoàn thành khuya ngày 7.9.1982 ở Khả Viên, Đài Bắc.
Sửa lại khuya ngày 10.9.1982 ở Khả Viên, Đài Bắc.
Sửa lại lần nữa chiều ngày 15.9.1982 ở Khả Viên, Đài Bắc.
Sau khi Hàn Thanh đến thăm ngày 31 tháng 7, tôi biết, tôi nhất định phải viết câu chuyện này.
Hoặc tôi cũng nên cất giữ câu chuyện này trong ký ức của tôi dăm ba năm, hãy cầm bút viết. Nhưng tôi ngay một ngày cũng không lần lữa, vào khoảng tối mồng một tháng tám, lập tức cầm bút viết cuốn sách này. Đối với tôi mà nói, đó cơ hồ là một “kỳ tích”. Tôi vẫn cứ không chịu viết “câu chuyện như được”, tôi cần một quãng thời gian để nghiền ngẫm nó, để tiếp thu nó, đến khi tôi xác nhận nó có thể cảm động tôi, thuyết phục tôi, cũng công nhận bản thân nó có sức mạnh có thể giúp đỡ tôi từ một chữ đầu, viết đến một chữ cuối cùng, tôi mới sẽ bắt đầu đi viết nó.
Không biết là sức mạnh gì, là sự khẩn thiết của Hàn Thanh, là Đà Đà trong u minh giúp đỡ, tôi lại cầm bút nhanh như vậy, không chút do dự như vậy, mà còn lập tức đưa toàn bộ cái tôi vào. Tháng tám, khí trời đang nóng, vùi đầu trên bàn viết hết giờ này đến giờ khác, không phải là chuyện “hưởng phúc”. Nhưng giống như lệ thường, tôi cảm động trong nhân vật dưới ngòi bút tôi, tôi cảm động trong nhiệt tình của Đà Đà và Hàn Thanh, tôi cảm động trong các thứ chi tiết nhỏ: gặp nhau, biết nhau, yêu nhau của họ, do đó, tôi lại quên cái tôi.
Trong “lời vào sách” và lời “cuối sách” cuốn sách này, tôi đều đã giới thiệu kỹ càng người cung cấp câu chuyện và nguồn tư liệu của nó. Ở đây, tôi không nhiều lời gì nữa. Độc giả cũng sẽ không truy hỏi tính chân thực của câu chuyện này. Nhưng tôi sớm đã nói một câu, bất luận câu chuyện chân thực đến bao nhiêu, trải qua tôi chỉnh lý, biên tập lại, bỏ hay giữ lại, tính tả thực của câu chuyện, hoặc nhiều hoặc ít bị tước bỏ. Xét cho cùng, tôi không viết “truyện ký”, tôi chỉ viết một “truyện” khiến tôi cảm động. Tôi nhấn mạnh để miêu tả, chỗ tôi không thể tiếp thụ được trong câu chuyện, tôi liền sẽ xóa bỏ đi. Nhân thế mà, bất luận tiểu thuyết chân thực nhiều đến đâu, trải qua tác giả viết lại nó ra, vẫn sẽ có một khoảng cách với sự thực. Nhưng tất cả những thư từ, nhật ký, thơ nhỏ, mảnh thư... dẫn dụng trong sách này, đều từ thủ bút của Đà Đà và Hàn Thanh, tiến triển của câu chuyện nó hoàn toàn dựa theo ghi chép tư liều của họ.
Chưa bao giờ có một câu chuyện mang lại cho tôi sức “lay động” lớn như câu chuyện này. Thứ “lay động” đó khkông đơn thuần đến từ chuyện yêu đương của Hàn Thanh và Đà Đà, mà càng sâu sắc hơn đến từ bản thân “sinh mệnh”. Tôi chưa hề có một cuốn sách nhiều lần đối mựt với vấn đề sinh mệnh như vậy. “Sinh mệnh” không nên đến thường thường đến, “sinh mệnh” không nên đi thường thường đi. Tôi rất nhỏ bé, tôi cũng rất bối rối. Trong cuốn sách này, từ cái chết của bà già ở đối diện Hàn Thanh, cái chết của thái sư mẫu, cái chết của Tiểu Vỹ, đến cái chết của Đà Đà... tôi quả thực viết không ít cái chết. Đó là khuyết điểm của câu chuyện chân thực, “ngẫu nhiên” không thể hiểu nhiều như vậy đều họp lại trong cùng một cuốn sách, mà những cái đó đều là thật! Đối với những “cái chết”, tôi rất bối rối. Tôi thương tiếc Tiểu Vỹ, tôi thương tiếc Đà Đà, không sao hình dung nổi tôi thương tiếc sâu sắc đến nhường nào. Ngoài sự bối rối đối với “cái chết” ra, tôi cũng không kiêng dè nói tới sự bối rối đối với “sinh mệnh”, thí dụ như Tiểu Mai Mai có tồn tại hay không, và sự hoang mang của người trẻ tuổi thế hệ này “đương nhiên, chỉ là một bộ phận nhỏ trong sách của tôi, tuyệt đối không đại biểu cho toàn thể). Trời, kỳ thực, chẳng trách người trẻ tuổi là hoang mang, trên thế giới này rất nhiều người đều như thế...
Trước đây không lâu, từng nghe thấy một cái tin trên truyền hình, căn cứ vào thống kê, người trẻ tuổi ở Đài Loan, tỷ lệ tử vong cao hưn người già gấp nhiều lần! Con số thống kê này khiến tôi giật mình, không dám tin! Nghe nói, “cái chết bất ngờ” của người trẻ tuổi quá nhiều, thí dụ như tai nạn xe cộ, trèo núi, đi bơi hoặc đánh nhau... Tôi quả không hiểu, người trẻ tuổi thế hệ này tại sao không quý tiếc mình như vậy, không bảo vệ mình như vậy? Cứ coi như không vì mình mà quý tiếc sinh mệnh, cũng nên “ơn dưỡng dục, đức cù lao” của cha mẹ! Cũng nên nghĩ cả cho những người yêu mến mình!
Truyện này nhân cơ duyên khéo gặp, bản phát hành ở Mỹ của “Trung Quốc thời báo” đòi tôi bản thảo rất gấp. Cho nên trước khi toàn bộ bản thảo còn chưa hoàn thành, bắt đầu đăng liền kỳ ngày 27 tháng 8, tạp chí Hoàng Quan số tháng 9 cũng đồng thời tung ra. Ở đây, tôi phải đề cập một chút, từ khi truyện này bắt đầu đăng liền kỳ, có rất nhiều thân thích bạn bè của Đà Đà hồi sinh tiền, đều liên hệ với tôi, và chủ động đề xuất càng nhiều tư liệu có liên quan đến Đà Đà. Tôi ở đây xin gửi lời chung cám ơn thân thích bạn bè của Đà Đà. Bởi tư liệu nguyên thủy đến từ Hàn Thanh, càng bởi vì khi tư liệu mới cung cấp, cuốn sách này đã hoàn thành chín mươi phần trăm, cho nên tôi không lại sử dụng tư liệu mới nữa, để tránh khỏi trong cuốn sách này cành nhánh quá nhiều, mà sa vào vụn vặt. Nhưng đối với những người cung cấp tư liệu, tôi vẫn cảm kích sâu sa.
Viết lách của tôi rất khổ cực. Nhiều người nhìn thấy tôi mỗi năm vẫn cứ có hai cuốn sách mới giao nộp, liền cho rằng tôi nhất định viết được rất “dễ dàng”. Trên thực tế, viết lách của tôi rất vất vả mà lại rất đau khổ, thứ “vật lộn” đó cũng chỉ có người ở bên cạnh tôi mới lĩnh hội được. Cuốn truyện này cũng như vậy. Đối mặt với thư từ, nhật ký, tư liệu... đầy nhà, tôi vừa viết, vừa phải tra tư liệu, có những chỗ, quả thật không hiểu, đành gọi điện thoại đường dài cho Hàn Thanh. Sự hợp tác của Hàn Thanh rất đến nơi đến chốn, dường như cái biết không gì không nói, nói thì nói đến hết. Chỉ có khi câu hỏi của tôi đụng đến cái đau ngầm trong lòng anh (thí dụ như Đà Đà mấy lần toan tung cánh bay đi ), nhưng anh vẫn cố hết sức làm được thẳng thắn. Khi anh biết tôi quả thực viết câu chuyện này, anh lại vừa sợ vừa mừng vừa thích thú, anh nói:
- Tôi dường như trút hết được một mối tâm sự. Ngày hôm nay khi tôi đi làm, lại chú ý đến mạ gieo trên đồng, đều là một mảng xanh mướt, tràn đầy sự sống. Khá lâu, tôi không chú ý đến sự vật bên mình tôi.
Tôi nghe thế cũng có phần an ủi. Tôi lo ngại khi anh đọc cuốn sách này, có sẽ gợi lại vết thương trong lòng anh không? Cái tôi lo lắng nhất, là người nhà thân hữu của Đà Đà (hoặc người tôi không biết mà chưa đề cập đến), có sẽ thấy sách mà đau lòng hay không? Và những nhân vật có liên quan khác trong sách, có sẽ nhớ lại chuyện cũ mà tăng thêm buồn bã? Quả thật như thế tôi rất bất an, tôi rất áy náy, tôi cũng rất khổ tâm. Dù như thế nào khi tôi viết sách này, là mang tất cả lòng nhiệt thành để viết. Tôi yêu Đà Đà, tôi yêu mỗi một người trong sách! Tôi hy vọng biết bao họ sống được tốt, sống để yêu, sống để được yêu, sống để nắm chặt “hạnh phúc”!
Viết xong câu chuyện này, bản thân tôi cảm xúc rất sâu. Sự ngắn ngủi của sinh mệnh, sự vội vã của năm tháng, đời người, có “vội vã quá vội vã” nhiều biết bao! Không biết tính sao nhiều biết bao! Thanh xuân, tình yêu, sinh mệnh... cái mà mỗi một người đều có thể có được, lại chưa chắc mỗi một người đều có thể quý tiếc chúng. Do đó, tôi cũng cảm khái, tôi cũng hoài nghi, tôi cũng muốn hỏi một câu: “Vĩnh hằng” ở đâu? cái gì tên là “vĩnh hằng”. Hai ngày trước trên báo đọc được một bài văn ngắn của ông Nghê Khuông, mấy câu kết là:
Cái vĩnh hằng là mặt trời, trăng, sao; con người quá yếu đuối, đừng khao khát vĩnh hằng.
Tôi có đồng cảm, quả thật có đồng cảm! Con người, quá yếu đuối!
Cuốn sách này coi như là hoàn thành bản thảo. Viết xong, trong lòng càng nặng chình chịch. Không biết Đà Đà suối vàng có hay, có hiểu được sự nhiệt thành khi tôi viết hay không? Không biết hoa bông gạo dưới ngòi bút tôi, có phải là hoa bông gạo trong lòng Đà Đà hay không? Một số ngày này, xem thư của Đà Đà, xem lời văn như mây bay nước chảy của nàng, xem những câu vạn mối thâm tình, ngàn niềm ân ái của nàng, xem sự phơi bày đối với biến thiên tâm lý của tự ngã, xem các thứ kiến giải của nàng đối với “trưởng thành” và “đời người” “xã hội”... tôi không chỉ một trăm lần ngậm ngùi than thở một cô gái tràn đầy chí tuệ, tràn đầy tài hoa, tràn đầy nhiệt tình như vậy, lại bỗng tàn héo trong tuổi hoa niên như vậy, chẳng lẽ là trời ghen ghét với tài hay sao?
Thật vậy, con người, nên vì người yêu mình, quý tiếc sinh mệnh, nên vì người yêu mình, quý tiếc tình cảm.
Viết xong cuốn sách, tôi lại quả thật muốn nói một câu với đời người, sinh mệnh và tình cảm mà tôi không hiểu: