Giamin nghe nói là các bạn lớp cậu học cũ quyết định tổ chức một buổi tối khiêu vũ. Côlia đã nói điều này với cậu khi giờ nghỉ trưa kết thúc, mà Côlia thì do gặp Nhura ngoài phố, cô bé vẫn nhanh mồm nhanh miệng như mọi khi, đã kể cho cậu nghe tất cả những tin tức mới mà cô biết. Cô giáo dạy toán Nhina Mikhailốpna, sơ tán từ Lêningrat tới, nhận được giấy báo tử: chồng cô là phi công đã hi sinh. Còn học sinh lớp trên sẽ đến nông trang tập thể lao động một tháng kể từ ngày mồng một tháng chín.
- Các cậu tới khiêu vũ nhé, - lúc chia tay, Nhura mời - đến đấy sẽ biết cả. Chứ không, chỉ rặt bọn con gái. Bọn nữ mình chán nhảy với nhau lắm rồi.
Học sinh lớp trên thường đi tới những buổi khiêu vũ, mà thực ra cũng chẳng còn nơi nào hơn mà đi nữa. Phim ở câu lạc bộ công nhân thì hoạ hoằn lắm mới có. Nếu có nghệ sĩ nào đó tới biểu diễn thì cũng không tài nào vào xem được. Còn trên sân khiêu vũ thì mọi người có thể nghỉ ngơi, giải trí, tạm quên chiến tranh.
Thấy Giamin bảo là muốn đi khiêu vũ, mẹ cậu gật đầu:
- Tất nhiên rồi, nên đi, con ạ. Suốt mùa hè thậm chí con chẳng vào rạp chiếu bóng lần nào.
- Nhưng con biết mặc gì mà đi bây giờ? – Giamin đỏ mặt hỏi.
Thấy vậy, mẹ cậu lấy ra một bộ com-lê đen của anh cậu, khâu vén tà áo lên, sửa lại ống áo và thân lưng rồi là lại cẩn thận. Chiếc quần thì được kéo lên gần tới ngực, lấy thắt lưng thắt chặt, còn hai ống thì được nhét vào ủng.
- Chà, trông con diện quá! – bà mẹ âu yếm nói và nhìn con trai như đã lâu lắm không gặp – Con lớn hẳn lên rồi đấy, giống anh con như đúc…
Và thế là, lần đầu tiên trong suốt cả mùa hè, Giamin đi dự buổi khiêu vũ tổ chức trong vườn, cạnh câu lạc bộ. Thậm chí đây cũng chẳng phải là vườn nữa, mà chỉ là một khu đất con, có hàng rào màu xanh, với dăm cây dương, hè đến lại nở bông trắng xoá, và một ít bụi cây thấp bị dê gặm trụi. Giữa vườn là sân khiêu vũ, được ngăn bằng những thanh gỗ mỏng. Cạnh cửa ra vào thường có thím Masa ngồi soát vé. Thím là một người đàn bà cao to, chẳng thua gì một thủ trưởng lực lưỡng. Thím thường cất giọng oang oang hỏi:
- Này, định đi bừa vào đâu thế? Không thấy người ta đang ngồi đây à? Chìa vé ra! Ghê nhỉ! Không thì xì tiền đây.
Ít người cãi lại thím. Ngay cả Lênca cũng phải gờm vì lần đầu tiên cậu định đi chui không vé đã bị thím cho biết tay, phải bẽ mặt.
- Này, định đi bừa đâu thế? – Thím Masa hỏi, vẫn cái giọng oang oang như mọi khi – Chìa vé ra!
- Cái gì, cái gì? Vé nào? - thằng Rỗ trâng tráo hỏi lại
- Đừng có giở cái giọng ấy ra! Còn trẻ lắm, con ạ! – Thím Masa gằn giọng nắm chặt tay áo hắn – Vé đâu, đưa đây! Tao bảo! Nếu không thì biết tay đấy! – và thím dơ nắm tay hộ pháp của mình trước mặt hắn.
- Có buông ra không? - thằng Rỗ gầm gừ, cho tay trái vào túi vẻ hăm doạ.
- A, định doạ tao đấy hả? – thím Masa hét lên rồi nhẹ nhàng lấy chân gạt hắn ngã xuống đất – Không có tiền mua vé thì hỏi xin tử tế, không được giở trò lếu láo…
Sau vụ này, lần nào thằng Rỗ cũng mua vé tử tế, và thím Masa cũng chẳng bao giờ nhắc lại với hắn cái lần gặp gỡ đầu tiên ấy.
Cạnh sân khiêu vũ là bệ dàn nhạc, linh hồn của cả buổi khiêu vũ. Nhạc công là những thanh niên bề ngoài trông khoẻ mạnh nhưng một số thì bị bẹt chân nặng. Một số khác làm việc ở đường sắt, thuộc vào diện không thể điều đi đâu được. Họ ăn mặc khá diện; ủng cao cổ, áo ngắn bó chẽn, mũ lưỡi trai bé không đủ che mái tóc. Nghe nói loại mũ này đang là mốt thịnh hành ở tất cả các thành phố lớn.
Thường thì một lúc chỉ bốn người chơi, còn những người khác thì xuống nhảy. Ít ai có thể bằng họ về khoa nhảy. Trông họ ôm các cô gái quay những vòng tuyệt đẹp thì không người nào không lấy làm khâm phục. Khi có máy hát thay nhạc thì đám nhạc công hoàn toàn làm chủ sân khiêu vũ. Các cô gái sung sướng vì được mời. Những cô xinh nhất mỉm cười ngoan ngoãn theo họ ra sân.
Giamin cũng thích nhảy, nhất là điệu van-xơ “Trên núi đồi Mãn Châu Lí”. Mặc dù các nhạc công chơi sai bét, nghe nhạc Giamin nhớ tới cụ Cudia, người vẫn hay lẩm bẩm hát điệu van-xơ ấy. Kể ra, nghe nó và nhớ tới cụ Cudia đã khuất có làm cậu thoáng buồn thật. Nhưng cậu vẫn thích điệu nhạc quen thuộc này. Người nhảy với Giamin bao giờ cũng là một cậu nào đấy trong số các bạn trai. Cậu xấu hổ không dám mời các cô gái nhảy, và lấy làm ghen tị khi thấy bọn con trai bằng tuổi thản nhiên, không hề bối rối là gì, cầm tay các cô gái dắt ra chính giữa sân.
Hôm nay, tới dự khiêu vũ Giamin mong ước được mời Tamara cùng nhảy.
Cậu chững chạc đi qua trước mặt thím Masa, đàng hoàng chìa vé cho thím rồi đưa mắt nhìn quanh. Mới chỉ có ít người tới. Giamin lấy làm mừng khi thấy Tamara chưa tới, nghĩa là cậu sẽ có đủ thời gian suy nghĩ nên mời cô nhảy thế nào và nói với cô những gì. Thậm chí, cậu còn muốn dàn nhạc bắt đầu chơi ngay bây giờ để cậu mời thử một cô gái nào đấy trước đã. Giamin đã để ý thấy một ốc, nhìn lên dàn nhạc, nhưng ở đấy cả nhạc công lẫn nhạc cụ đều chưa có. Chỉ bây giờ Giamin mói chú ý nhìn các cô gái vẫn hay nhảy với cánh nhạc công. Cô nào mặt cũng hơi buồn. Đã bắt đầu có tiếng người nói, vẻ không hài lòng:
- Nổi nhạc lên thôi!
- Dàn nhạc đâu rồi?
- Chủ tịch câu lạc bộ?
Thím Masa móc khoá vào cửa, bước ra chính giữa sân khiêu vũ, cất giọng oang oang:
- Xin các đồng chí bình tĩnh. Sẽ bắt đầu ngay bây giờ, không phải về đâu mà sợ. Sẽ múa đến một giờ sáng.
- Sao dàn nhạc vẫn chưa thấy?
- Bây giờ tôi sẽ giải thích. Các nhạc công ấy à? Các bạn thân mến ạ, họ đã được động viên vào quân đội sáng nay rồi. Ông chủ tịch câu lạc bộ suốt từ trưa tới giờ đang tìm xem có ai biết chơi loại đàn nào không.
- Thế thì cho vặn máy hát lên!
- Cả người phụ trách máy hát cũng nhập ngũ. Nhưng không sao, lát nữa ông chủ tịch tới. Ông ấy biết làm việc này. Tôi chỉ biết sử dụng máy quay tay thôi.
Tiếng xì xào bực tức lại nổi lên trên sân khiêu vũ. Giamin lấy làm tiếc là đã gặp một buổi tối như thế này. Cậu đã định bỏ về thì ông chủ tịch tới. Theo sau ông là một người thọt chân trái, mang một chiếc đàn phong cầm đựng trong chiếc hộp cũ kĩ. Có tiếng cười chế giễu. Anh này đỏ mặt, ngồi xuống chiếc ghế cạnh góc, lấy từ chiếc hộp ra một miếng vải nhung phủ lên đầu gối.
- Kìa, xem kìa! Tội nghiệp anh chàng, lại còn mang cả vải giải giường theo nữa! – có người nào đó thốt lên – Hay là quẳng cho anh ta chiếc khăn lau mũi nhỉ?
Không để ý tới những lời nhạo báng người nghệ sĩ kì lạ này để chiếc đàn lên gối, đưa ngón tay sờ nhanh phím đàn từ trên xuống dưới, và từ dưới lên trên rồi bắt đầu chơi bài “Chiếc khăn xanh”. Trước đây ở Taisét chưa có ai biết chơi bài này cả, nên bây giờ ai cũng phải đứng lặng người mà nghe.
Sau này ông chủ tịch đã kể lại cho mọi người nghe ông đã tìm được một người chơi phong cầm giỏi như vậy ra sao. Mà người này chẳng bao lâu đã trở thành một người hết sức cần thiết không thể thay thế được trong đời sống của dân Taisét.
- Một lần tôi vào ga, - ông chủ tịch kể - thấy cạnh lò sưởi có một người gầy gò mặc áo ấm có chiếc đàn phong cầm. Anh ta ngồi trên ghế hơ hơ đôi tay của mình. Mọi người bảo anh ta chơi thử, - có chơi mới hòng người ta cho tiền. Ai cũng muốn nghe một bản nhạc nào đấy thật hay, nhưng anh ta vẫn ngồi im, tiếp tục hơ tay như trước. Có người đã bảo: “Anh ta chắc không biết chơi, bảo anh ta làm gì. Ai có nửa lít rượu muốn đổi lấy chiếc đàn thì có lẽ anh ta xin giơ cả hai tay”.
“Cho tôi miếng bánh mì, tôi sẽ chơi” – anh ta bỗng nói
“Nghe anh ta nói kìa, khôn không? Đưa bánh mì cho anh ta!”
Lúc ấy, một quân nhân chống nạng ngực đeo hai sọc vàng đi tới, nói:
“Bánh mì thì không có, anh bạn nghệ sĩ ạ, chỉ có hai miếng bích cốt thôi. Có chơi không?”
“Đưa đây!” – anh ta chìa tay
“Không được, trước hết phải chơi đã rồi nhận bánh sau! Dân nhà lính không lừa ai bao giờ. Hay định chơi khăm bọn này đấy?”
“Thôi được, chơi bài gì nào? Có điều, phải giữ lời đấy nhé!”
Và anh ta cầm đàn, lấy tay nhẹ nhàng vuốt mặt phím rồi bắt đầu chơi, hay đến nỗi cả đám đông đang ầm ĩ trước cửa bán vé cũng phải đứng lặng mà nghe. Lúc đầu anh ta chơi bài “Chiếc khăn xanh”, rồi đến bài “Cô gái tiễn người yêu ra mặt trận” và nhiều bài khác nữa. Anh ta chỉ ngừng chơi khi nghe người lính bảo:
“Anh bạn ạ, hay lắm, khỏi phải nói. Này, ăn đi, thịt hộp đấy, mở nắp rồi đấy. Đừng giận mình nhé. Cậu là một người chơi đàn tuyệt diệu, cứ như là xoáy vào lòng người ta ấy. À, mà sao cậu phải lang thang thế này?”
“Thế đấy, đời người lúc thế này, lúc thế nọ, - anh ta ngượng nghịu nói và đưa mắt nhìn xung quanh – Đã hai ngày nay tôi chưa được miếng nào vào bụng. Đây là tuần thứ hai từ khi tôi lên đường về nhà. Tiền hết…” Anh ta thận trọng cho chiếc đàn vào hộp và đứng dậy.
Ngày hôm sau vẫn thấy anh ta ở nhà ga. Người ta trò chuyện với anh ta. Thì ra anh ta đã tốt nghiệp trường trung cấp âm nhạc….
Thấy tất cả nhạc công của ta đã nhập ngũ, tôi liền nhớ tới anh ta và đi ngay ra ga. Anh ta vẫn còn ở đây… Tôi nói đúng không, Misa? – ông chủ tịch hỏi anh ta.
- Đúng cả, có điều ông quên nói đến việc cho tôi tắm và quần áo mới…
- Điều ấy, Misa ạ, không liên quan gì đến việc ta đang nói đây – ông chủ tịch nhíu mày.
Các chàng trai và cô gái quay tròn dưới điệu nhạc đượm buồn. Thậm chí, Giamin không nhận thấy Tamara đã cùng các bạn gái đến từ bao giờ.
Trong khi cậu đang suy nghĩ có nên đến với cô ta hay không thì Nhura giật tay Tamara, gật đầu về phía cậu, liếng thoắng nói với Tamara một điều gì đó.
“Điệu nhảy sau thế nào mình cũng mời Tamara. Mình sẽ đi tới và nói: “Cho phép tôi được mời chị cùng nhảy?”… Thế thôi, có gì mà phải sợ…” – Giamin nghĩ vậy và cảm thấy hồi hộp hơn trước.
Sau điệu van-xơ, Giamin rụt rè đi lại chỗ các cô gái. Chào xong, cậu hỏi họ bây giờ đang làm gì, lúc nào thì năm học bắt đầu. Rồi cậu nói về các vì sao, rằng các vì sao mới đẹp làm sao, - nhiều lần xem phim cậu thấy các chàng trai vẫn bắt đầu nói chuyện với các cô gái như vậy. Tamara và các bạn nhìn nhau cười. Giamin đỏ mặt, không biết nói gì nữa. Cậu có cảm giác như tất cả đang nhìn và lắng nghe những lời nói ngốc nghếch của cậu.
Cuối cùng, Misa đã chơi đến bài “Anđriusa”. Ai mà chẳng thuộc lời của bài hát chân thành và hơi có phần lả lơi này: Ơi, Anđriusa, tại sao chúng ta phải buồn?
Chớ vội cất đàn, hãy chơi to lên nào
Chơi lên cho núi đồi phải nhảy
Và các vườn cây xanh tươi phải xào xạc!...
Giamin vẫn đỏ mặt, lo lắng nghĩ: “Mong sao Nhura không mời Tamara nhảy trước mình”. Cuối cùng, cậu lấy hết can đảm, lại gần Tamara khẽ nói:
- Ta ra nhảy đi…
Mấy giây mà Giamin chờ Tamara trả lời đối với cậu lâu như hàng thế kỉ. Nếu cô từ chối thì cậu sẽ nói to cho mọi người nghe: “Tôi muốn thử cô ấy đấy thôi…”
- Mình đã nghĩ là cả điệu này cậu cũng không mời mình đấy. Đi hái quả cũng có cho theo đâu… - Tamara mỉm cười rất cởi mở làm Giamin lập tức quên hết những gì cậu vừa nghĩ.
Cậu hoàn toàn ngây ngất vì hạnh phúc. Cậu nghe thấy hơi thở của cô, mái tóc quăn của cô đã mấy lần chạm má cậu. “Cô ta bé và mảnh dẻ làm sao” - cậu nghĩ và tưởng như có thể nâng cô lên hai tay mà nhảy cũng được.
- Sao trước đây cậu không mặc bộ quần áo này? – Tamara đột ngột hỏi - Cậu mặc vừa lắm, - cô nói tiếp, chân thật.
- Thật chứ?
- Tất nhiên rồi, - cô gái lại mỉm cười
- Mình tiễn Tamara về nhà nhé? - cậu hỏi rồi dừng nhảy, hoảng sợ vì chính câu hỏi của mình. Cậu không nhận thấy người khác đang va vào mình, trách cậu đứng cản họ nhảy.
- Thế nào tất cả chúng ta cùng về cùng nhau. Nhà chúng ta ở gần nhau cả mà. Một mình, mình sợ lắm, - cô gái trả lời, vẻ như lúng túng.
- Không, mình muốn tiễn Tamara về một mình kia, - Giamin nói, giọng đã tự tin hơn
- Được, - nghĩ một lúc, Tamara khẽ đáp
Ban đêm trời đã rét, báo hiệu một mùa thu đang đến. Hơi lạnh. Giamin và Tamara đi bên nhau, ngón tay họ lúc thì khẽ chạm vào nhau, đan chéo vào nhau, lúc thì gỡ ra, xa nhau. Rồi bỗng Giamin bắt đầu nói, nói nhanh về việc cậu sẽ học và làm việc, sau này cậu sẽ tới Mátxcơva. Cậu rất muốn thấy thành phố này, dù chỉ thấy một lúc thôi…
- Đây là ước mơ thứ hai của mình, - Giamin nói
- Thế ước mơ thứ nhất là gì? – Tamara tinh nghịch hỏi
- Bây giờ mình không thể nói… Một ngày nào đó, tự Tamara sẽ hiểu.
Hai người lại im lặng.
Họ đứng rất lâu cạnh nhà Tamara. Giamin cởi áo ngoài khoác lên vai cô. Chiếc áo che kín cô gái như một chiếc bành tô. Nghe có tiếng chân đang bước, họ đứng khuất sau bóng một cây dương cổ thụ cạnh cổng nhà.
- Mình ấm rồi, cầm lấy – cô gái thì thầm nói và cởi chiếc áo ra - Chắc cậu rét lắm?
- Hoàn toàn không. Mình là dân Xibêri mà, - và Giamin lại khoác chiếc áo lên vai cô gái
- Ngày mai cậu phải đi làm, về đi!
- Không. Tamara về trước.
- Nếu vậy, mình tiễn Giamin nhé. Được không? – Tamara nói
- Được, - Giamin cầm tay Tamara.
Họ chậm rãi đi dọc đường làng
- Nhà Giamin đây rồi, về đi. Cầm lấy áo này. Mình chạy về nhà đây.
- Khoan, gượm đã, thế không được, - Giamin khẽ giật tay cô gái – Bây giờ mình sẽ tiễn Tamara. Có thể Tamara sẽ gặp điều không hay, biết đâu đấy. Đêm đã khuya. Còn ở đây thì có con chó nào mà không biết mình?
- Không, không cần. Gần đây thôi mà. Việc gì phải sợ cho mình? – Tamara từ chối – Thôi, thế cũng được - cuối cùng cô đồng ý.
Cứ thế, họ tiễn nhau cho đến khi mặt trời bừng sáng ở phương đông, giấu kín các vì sao ở một nơi nào đấy.
Năm nay, năm học ở trường bắt đầu từ giữa tháng Mười, khi mặt đất đã hoàn toàn đóng băng. Mùa thu, học sinh các lớp trên làm việc ở nông trang tập thể một tháng rưỡi, dùng xe chở lúa từ đồng về nhà, đập lúa, thu hoạch bắp cải, đào khoai tây…
Bây giờ mọi người ngày càng ít phàn nàn về khẩu phần ăn ít đi của mình, về việc thiếu xà phòng, muối, diêm…
Người ta đã quen dần với khó khăn, thiếu thốn và mất mát. Ai cũng hiểu, cũng cảm thấy thực sự là muốn thắng kẻ thù nham hiểm, không thể không hi sinh, mất mát được. Nhưng chính trong những khó khăn ấy, người ta đã trở nên vững vàng hơn, cứng rắn hơn, và sống bằng hi vọng, niềm tin vào thắng lợi đang đến.
Khi các đoàn tàu chở đầy khí tài của bọn Đức bị phá huỷ từ phía Tây về thì cả những người ở các đường xa nhất của Taisét cũng chạy tới xem. Tranh thủ giờ nghỉ trưa, công nhân các xưởng sửa chữa đầu máy và toa xe, nhân viên bẻ ghi và các nhân viên bàn giấy cũng kéo đến…
Mọi người xem chiếc xe tăng Đức bị phá hỏng như xem một vật sống:
- Thế nào ông bạn, người ta nện cho ông bạn ở đâu thế?
- Ở đâu, ở đâu! Ở trên đất của ta chứ ở đâu! Không thấy răng xích còn dính đất đen đấy à?
- Chắc ông bạn không lấy làm hài lòng lắm khi bị người ta lật tung tháp tăng ra một bên thế này nhỉ? Đáng lẽ không nên dẫn xác vào nơi người ta không mời đến thì hơn. Đáng đời lắm. Không hiểu mày đã giết bao nhiêu người rồi trước khi người ta kịp hỏi tội mày thế này?
Mấy người công nhân cơ khí chui vào trong xe, lấy ta gõ gõ vào thành xe, lắng tai nghe, vừa ngắm nghía các lỗ thủng, vừa trò chuyện với nhau.
- Không hiểu dao cắt thép có cắt được nó không?
- Sao lại không? Thì nó cũng từ thép mà ra thôi. Cứ cho vào lửa một tí là cắt được tuốt. Thép nó kể cũng không đến nỗi tồi lắm…
- Không hiểu loại đạn gì mà lại bắn thủng được bụng nó thế này?
Một hôm các cậu bé tìm được trong xe tăng những mảnh mũ vỡ bị cháy xém và mấy mẩu vải của một chiếc áo sơ mi màu xám. Chúng được chuyền xem từ tay người này sang tay người khác như bằng chứng của một sự báo thù.
Sau đó một đoàn đại biểu mang quà và các đồ ấm như giầy, quần áo, mũ của tỉnh Ircrútxcơ ra mặt trận đã chở về. Mấy ngày liền ở câu lạc bộ, các đại biểu đã kể về cuộc tấn công của quân ta, về các cuộc gặp gỡ giữa họ và các chiến sĩ. Họ cho mọi người xem những huân chương của bọn Đức - những hình chữ thập bằng nhựa và huy chương bằng nhôm.
- Hítle bây giờ cay cú lắm. Bị nếm đòn đau, hắn đã bắt đầu vung tay phát những loại huy chương.
Một tối, khi mọi người đang nín thở lắng nghe các đại biểu kể chuyện thì phía đường sắt bỗng có tiếng ầm ì, sèn sẹt rồi một chốc sau, một tiếng nổ lớn vọng lại, làm rung kính các cửa sổ. Còi tàu được kéo lên inh ỏi.
- Tai nạn rồi! – trong phòng có ai đó kêu to, và mọi người chen nhau ùa ra cửa, chạy ra đường. Đã có nhiều nhân viên nhà ga chạy về hướng xưởng cơ khí.
- Tàu quân sự chở hàng! - họ kêu to
Lúc này đội của Giamin đang thu dọn các thanh ốp bị hỏng. Bên kia bờ rào, cách khoảng 100 mét đã là đường sắt. Các cậu thấy một đoàn tàu chở hàng chạy về phía tây, kéo từng hồi còi dài, vẻ lo lắng. Một chốc sau, có tiếng tàu hãm sèn sẹt, tiếng ầm ầm, tiếng kim khí va vào nhau và cuối cùng là tiếng nổ.
Các cậu bỏ việc, chạy bổ ra cổng. Những gì các cậu thấy, có thể làm ngạc nhiên cả những người từng trải nhất: gần hai chục toa hàng năm lăn bên mép đường. Các toa còn ở trên mặt đường thì chồng chất lên nhau, tạo thành những đống hình chóp quái dị. Các cậu nghe tiếng những thanh kim khí trên toa va vào nhau gãy, kêu ken két và thấy bộ khung các toa bị ép co rúm lại một cách dễ dàng.
Chiếc đầu máy “FEĐ” bị dựng đứng, toà than lăn xuống vệ đường nồi hơi nổ tung, phía trong còn phì phì phụt ra. Bánh xe vẫn còn quay nhanh như muốn bấu víu vào một cái gì đấy. Trước đầu máy là một toa bị ép co rúm như hộp hơi đàn phong cầm. Toa này cũng bị thủng mấy chỗ và than sạch, loại tốt, từ phía trong ào ào tuôn ra. Phía sau nó là một thùng chứa chất lỏng loại 60 tấn bị uốn cong, hai bên phồng lên. Khi mọi người đứng tụ xung quanh khá đông, chiếc thùng bỗng nứt ở giữa và từ đó phun ra một dòng chất lỏng màu vàng, sủi bọt. Có người kêu to:
- A-xít đấy! – và tất cả chạy dạt ra.
Đúng lúc này các cậu thấy người phụ trách toa tàu đang bị vùi dưới tuyết. Anh ta đã chết, đôi mắt bình thản nhìn lên trời.
- Ở đây có người! – các cậu kêu to, sợ không dám lại gần xác chết.
Một người nào đó trong đám người lớn, nói:
- Các đồng chí ơi, phải cứu người bị nạn. Sao lại đứng nhìn thế? Hãy đi tìm đi, cứ đi dọc theo đoàn tàu! – bây giờ thì anh ta ra lệnh thực sự. Thấy Giamin và các bạn vẫn lúng túng đứng quanh người phụ trách tàu đã chết, anh ta gọi lại gần, bảo: - Các cậu hãy nhanh chóng kiểm tra các toa bị bắn ra xa xem có ai cần cứu không, - Và dặn thêm – Có điều phải cẩn thận đấy nhé!
Các cậu khập khễnh đi dọc theo đoàn tàu méo mó, nằm lăn bên đường, leo lên thành toa xem xét bên trong. Không ở đâu thấy người nữa. Nhưng bỗng từ chiếc đầu máy bị lật đứng, các cậu nghe như có tiếng ai đang rên.
- Các cậu có nghe gì không? – Gôga hỏi
- Có…
- Hay có thể là người lái tàu?
- Không phải người lái tàu đâu. Người ta đã tìm thấy anh ta cách đây 30 mét. Toàn thân bị bỏng – Côlia đáp
- Hay thợ đốt than hoặc phụ máy? – Gôga lại hỏi - Người ta chưa tìm thấy họ
- Dễ họ chết đuối trong nồi hơi chắc? - thằng Rỗ khinh khỉnh cười và chỉ về chiếc nồi hơi bị lật ngược vẫn còn bốc khói. Rồi hắn hít hít mũi như chó – Các cậu xem ở đây nhé, để mình đi lại đằng này, - Lênca chỉ tay vào khoảng không rồi vội đi về hướng chiếc thùng chứa.
Lúc này tiếng rên nghe đã rõ, như từ dưới mặt đất lên.
- Các cậu ơi, hay anh ta bị than vùi lấp nhỉ? – Côlia hỏi
- Đúng đấy, tiếng rên nghe từ chiếc toa trước đầu máy – Giamin đồng ý với bạn – Ta thử tìm trong toa ấy xem sao.
Các cậu bắt đầu đi quanh toa xe. Bỗng Gôga nhìn thấy dưới một đống than có cái gì đang động đậy.
- Đây rồi! - cậu hoảng sợ nói
Mọi người lắng nghe. Đúng thế, tiếng rên vọng lại từ phía ấy. Các cậu chạy xô lại đống than rồi lấy tay vội vàng moi than ra.
- Mũ đấy, - Gôga thì thào, quan sát vật vừa đào được lên.
- Thế thì đầu anh ta cũng phải gần đây thôi, - Côlia khẽ nói
- Đừng nói đùa. Đào nhanh lên – Giamin nói và ngay lúc đó, cũng sợ sệt như Gôga, kéo dài giọng.
- Ta-ay…
Côlia và Gôga đứng lặng người, nhìn Giamin, chờ đợi. Trong đống than, các cậu thấy những ngón tay dính đầy dầu ma dút khẽ động đậy như muốn bám vào than.
- Nhanh lên các cậu ơi, nhanh lên! – Giamin kêu lên, vẫn còn thấy sợ vì ấn tượng những ngón tay đen gây nên – Chà, giá có xẻng nhỉ! Lênca đâu rồi?
Không có ai trả lời cậu.
Cuối cùng các cậu đã moi được người bị nạn lên. Anh ta nằm sấp, hổn hển thở, chiếc áo ấm dính đầy mỡ, hai ống quần bông bỏ trong ủng. Vất vả lắm mới lật được anh ta nằm ngửa mặt lên trời. Anh ta định nhổm dậy, hắt hơi mạnh.
- Anh nằm yên, nằm yên. Chúng em sẽ làm ngay, - Giamin dỗ dành anh ta như với một đứa trẻ - Côlia, chạy đi gọi mọi người lại.
Lúc này các nhân viên chữa cháy đã đánh xe ngựa tới. Công an cũng xuất hiện. Những con ngựa mồ hôi ướt đẫm giận dữ nhìn đám người và muốn kéo những chiếc thùng nặng đầy nước chạy xa hơn. Các nhân viên cứu hoả, người mặc áo khoác vải bạt rộng thùng thình được thắt chặt bằng nhiều thắt lưng to bản có dây xích đang làm việc tích cực và trật tự. Đã lâu ở Taisét không có cháy nên bây giờ họ làm việc hăng lắm. Vòi rồng được nhanh chóng dỡ ra, gắn vào máy bơm rồi cắm vào thùng đựng nước.
- Nào, các đồng chí tránh ra, tránh ra! Đừng cản trở người khác làm việc! Giúp chúng tôi bơm nước có tốt hơn không? - một người rậm râu vừa kêu to, vừa luôn luôn sửa chiếc mũ sáng loáng trên đầu.
- Yêu cầu mọi người tránh ra xa hơn nữa! - một đồng chí công an khẽ đẩy mọi người về một phía, nói - Ở đây nguy hiểm. Bất cứ lúc nào một tàn lửa nhỏ cũng có thể làm nổ tung tất cả... Nào, đứng tránh ra…
Một số bộ đội cũng đã đến. Họ vừa khẽ nói chuyện với nhau, vừa thận trọng xem xét đầu máy và các toa.
- Các cậu làm gì ở đây? - một đồng chí đại uý dong dỏng cao thấy các cậu nghiêm khắc hỏi – Ai đấy? – và chỉ vào người bị nạn đang nằm.
- Có lẽ người trên đầu máy. Chúng em vừa đào anh ta lên, - Côlia trả lời.
- Có trời mà biết được thế này là thế nào! - đồng chí sĩ quan quay lại những người cùng đi, giận dữ nói – Tàu quân sự chở hàng mà lại nhận vào đường đang bận, vì sao?
Thật chẳng ai hiểu. Các cậu ấy vừa đào được một người.
Sợ những người tò mò chú ý, anh ta nói nhỏ, giọng bình tĩnh hơn:
- Cám ơn các em. Bây giờ về nhà đi. Ở đây tự các anh cũng giải quyết được việc. Cần phải gửi ngay người bị nạn vào bệnh viện.
Thằng Rỗ bỗng xuất hiện, mỗi tay xách một chiếc xô dúm dó mà công nhân ở xưởng rèn vẫn hay dùng để múc nước bẩn.
- Trong khi các cậu hí hoáy đào bới anh này lên thì xem mình đã kiếm được gì này! - hắn phấn khởi nói, vẻ sung sướng lộ ra mặt, nhưng thấy có người lạ vội im bặt, định chuồn.
- Lại đây, - đồng chí đại uý vẫy ngón tay ra hiệu bảo hắn lại gần - Lại đây cho xem đã “kiếm” được gì nào!
Lênca rụt rè lại gần người sĩ quan và miễn cưỡng chỉ vào những cái hắn mang đến. Trong một xô là dầu thực vật, còn trong xô kia là một thứ bột màu vàng.
- Cái gì thế này? - người sĩ quan nghiêm khắc hỏi
- Dầu..
- Còn đây?
- Bột trứng…
- Lấy ở đâu?
- Trong các hòm đằng kia… Nhiều lắm…
- Cái gì? - đồng chí đại uý đỏ bừng mặt - Cậu có biết là đang cầm cái gì trong tay không?
- Bột trứng… - thằng Rỗ nhắc lại, càng lúng túng hơn trước.
- Thứ bột trứng này có thể cho cậu về chầu diêm vương đấy! Đây là thuốc nổ! Đồ ngốc!
Thằng Rỗ tái mặt:
- Em còn giấu hai hòm nữa ở đằng kia… Em… tưởng… là bột trứng - hắn lắp bắt nói, lúng túng không biết đặt chiếc thùng đựng thuốc nổ ở đâu.
- Xamôkhin, đi theo cậu này và lấy ngay “bột trứng” của cậu ta đi - đồng chí đại uý nghiêm khắc bảo người trung uý đi cạnh – Và xem xem còn ai giấu bột này nữa không. Chứ cứ để họ nấu “bột trứng” này lên thì có ngày… Nhân tiện, làm thế nào đừng để những người như cậu này lấy hết dầu.
- Nào đi, và chỉ cho biết cậu đã kịp dấu “bột trứng” của mình ở đâu, - đồng chí trung uý nói rồi theo thằng Rỗ đi về phía xưởng cơ khí.
Cái tin đoàn tàu gặp tai nạn và có dầu đổ làm xao động dân Taisét. Người ta mang thùng, mang chậu, mang bì đi lấy “bột trứng”. Có tiếng đồn là bộ đội không muốn mọi người lấy hết “bột trứng” nên đã nói đó là thuốc nổ. Nhưng rồi, thấy xung quanh đoàn tàu đổ có nhiều công an đứng gác, dù sao họ cũng không thể không lo ngại.
Thứ bột vàng thì người ta tránh, nhưng tuyết thấm mỡ thì được xúc từng xẻng cho vào thùng, vào chậu. Về nhà, cái thứ hỗn hợp ấy được đem đốt nóng, dầu nổi lên trên, còn xỉ, than và đá thì lắng xuống. Chờ lắng xong, dầu được múc từng thìa cẩn thận đổ sang một cái lọ khác. Cứ làm thế ít lần là có được một thứ dầu có thể đem dùng, mặc dù kể ra vẫn còn ít mùi dầu tây và xỉ than. Nhưng bây giờ có ai thèm chú ý tới cái điều vụn vặt ấy.
Một hôm, không hiểu sao Côlia tới xưởng làm việc có vẻ buồn, lúc nào cũng muốn tách riêng ra một chỗ. Khi Nunhikianốp khen cậu:
- Làm việc khá lắm, Côlia ạ. Con giống bố. Dạo này Xtêpan có khoẻ không? Không buồn chứ? – Côlia chỉ khịt khịt mũi im lặng.
- Côlia, làm sao chỉ khịt mũi? Miệng ngậm hột thị rồi hay sao? - Nunhikianốp lại hỏi - Bố dạo này thế nào, không nghe à? Định đến chơi đã lâu nhưng chẳng có một phút nào rỗi cả.
- Thì chuyện gì có thể xảy ra với bố cháu? Vẫn sống… - Côlia lúng búng trong miệng, không nhìn bác thợ nguội.
- À, mày nói về bố mày thế hả? Bằng này tuổi đã bướng rồi thì hơi sớm đấy, cháu ạ! - Nunhikianốp nghiêm khắc nói. – Hay mày nghĩ bố mày bây giờ không trị được mày nữa… Thế thì tao có thể giúp ông ấy một tay. .. Ghê nhỉ!
Côlia lúng túng bỏ chiếc búa xuống bàn
- Thôi, hãy nhìn thẳng và nói cho bác nghe nào, bố đánh à? - Nunhiakianốp dịu giọng hỏi và đặt tay lên vai cậu – Không được trách bố, cháu ạ. Có chuyện gì xảy ra à?
- Cháu hút thuốc, thế là bố cháu… Cháu bảo cháu có quyền, chưa gì bố cháu đã cầm lấy roi…
- Chỉ có thế mà bị ăn đòn, ha ha! - thằng Rỗ nói chen vào - Từ năm mười hai tuổi tớ đã phì phèo, có ai làm gì tới được đâu? Mà giả sử có định làm gì đi nữa thì mình sẽ…
- Không ai nói chuyện với cậu! Nhà ai có phép tắc luật lệ nhà ấy! - Nunhiakiacốp ngắt lời hắn rồi quay sang Côlia. – Đau lắm hả?
- Đau. Bác đã biết cánh tay bố cháu rồi đó. Đánh mấy người vẫn không mệt…
- Tớ mà thế thì thế nào tớ cũng… - thằng Rỗ lại chêm vào - Cậu làm việc có phiếu lương thực công nhân…
- Đã bảo là không được nói leo, khi người lớn đang nói chuyện với nhau! - Nunhikianốp xẵng giọng, - Còn cháu, Côlia ạ, đừng giận bố cháu. Xtêpan làm thế là để giữ cho cháu đấy thôi.
- Lúc nhỏ bố cháu có đánh cháu bao giờ đâu, thế mà bây giờ…
- Bác hiểu, bực mình lắm chứ! Nhưng cần hiểu bố cháu. Thần kinh căng thẳng, cháu là người biết điều, phải hiểu bố cho đúng. Một người bố như thế chẳng bao giờ muốn điều xấu cho con mình đâu… Còn hút thuốc thì không nên. Sau này còn kịp dùng cái của nợ ấy.
Khi Nunhikianốp đi khỏi, Giamin mơ màng nói:
- Nếu mình có bố, Côlia ạ, bố mình làm gì mình cũng sẽ chịu được hết. Cậu biết không, thấy mọi người có bố, mình rất thèm! Hầu như mình không nhớ gì về bố mình cả. Khi bố mình mất, mình hãy còn rất bé…
… Một lần, cách đây đã lâu nhưng Giamin vẫn còn nhớ rất rõ, mặc dù lúc ấy cậu mới hơn năm tuổi. Cậu cùng bố đi trên một đoàn tàu dài, rất dài, màu sặc sỡ, toa đỏ, toa xanh lẫn lộn nhau, không hiểu sao được gọi là “Maxim Goócki”. Giamin rất thích ngồi bên cửa sổ toa tàu nhìn ra những làng mạc, thành phố đang chạy nhanh về phía sau như sợ người ta bốc bỏ lên đoàn tàu dài, rất dài này mà chở đi, nhìn ra những ngôi nhà nhỏ màu vàng vụt thoáng qua, những người nhân viên đường sắt tay cầm những lá cờ bé tí vẫy đoàn tàu.
- Này bố, mấy bác kia có biết con không? - cậu hỏi khi thấy họ, và lần nào cậu cũng rụt rè giơ tay vẫy lại
- Sao lại không? Nếu các bác ấy không vẫy cờ với con thì nghĩa là đường không đi được. Con đã biết là gặp người quen thì phải chào, mà mấy bác này thì biết hết tất cả những ai đi trên tàu.
- Vâng! – Giamin đáp, gật đầu ra chiều suy nghĩ, cái đầu khá to, hai tai vểnh lên. Đôi mắt xanh của cậu long lanh sung sướng.
Lần nào Giamin cũng cố nhìn thấy người nhân viên cầm cờ trước và gọi to:
- Bác ơi, chào bác! – và vẫy tay cho tới khi người này khuất hẳn mới thôi.
Không hiểu sao ở các ga người ta gọi tất cả hành khách đi trên tàu cùng bố cậu là những người đi di cư. Giamin thích điều đó vì thế nghĩa là cả tàu đều là bà con. Tuy nhiên, không ít “người bà con” của Giamin hay cãi lộn với nhau vì nước sôi, vì củi vụn, than đốt lò sưởi, hay chửi, giơ xô, giơ ấm lên doạ nhau, hay thậm chí còn đánh nhau nữa. Thấy vậy, các bác đội cát két đỏ mặc áo có hàng cúc trắng doạ sẽ cho họ xuống tàu và tống vào nhà giam. Có lẽ nhà giam là cái gì đáng sợ lắm vì những người đang đánh nhau nghe thế liền lặng lẽ ai về toa người ấy. Nhưng tàu vừa chuyển bánh, họ đã thò đầu qua cửa sổ tiếp tục chửi nhau, người này cầu mong người kia phải chết sặc, chết nghẹn vì nước sôi và củi vụn đáng nguyền rủa kia… Giamin không hiểu sao nước lại đáng nguyền rủa? Vì nó làm hại ai đâu. Và làm sao người ta có thể chết sặc, chết nghẹn vì nước?
Tới các nhà ga lớn, những “người bà con” của Giamin ùa ra khỏi toa và toả đi các góc hẻm vắng vẻ.
- Phải cho tàu đi ngay thôi, mấy bác đội cát két đỏ nói - kẻo không, họ lại gây dịch ở đây mất. Nhìn xem họ đang làm gì kìa, - rồi chỉ tay về phía những người di cư đang ngồi chồm hổm dưới các toa tàu, sau các nhà, trong góc vườn…
Nói rồi mấy bác này rung chuông to giống như chiếc mũ của một chiến binh ngày xưa. Đầu đấm của các toa chạm vào nhau ầm ầm rồi đoàn tàu từ từ chuyển bánh.
Đoàn tàu nấn ná như không muốn đi tiếp.
Giamin rất thích ngồi trên đùi bố nghe người lớn nói chuyện. Tối tối, người lớn thường hay mở cửa sổ rồi ngồi xuống giường và bắt đầu nói với nhau đủ mọi chuyện. Mọi người cùng nhớ lại quê hương cũ Baskiria, làng xóm, những người ở lại… Không hiểu sao họ nói chuyện rất khẽ dù chưa ai ngủ. Mặt trăng như một quả bóng vàng nhợt lăn trên bầu trời, chạy theo như được cột với đoàn tàu bằng một sợi dây vô hình. Họ ngồi im, mơ màng nhìn theo mặt trăng và kể cho nhau nghe câu chuyện về một cô bé mồ côi bị dì ghẻ đang đêm bắt đi lấy nước và nhất định phải đi qua sông, theo con đường do ánh trăng trải trên mặt nước. Cô bé hoảng sợ, khóc van, xin dì ghẻ đừng bắt mình đi vào chỗ chết như vậy. Nhưng mụ kia không nghe, đưa cho cô bé chiếc đòn gánh, hai chiếc thùng gỗ nặng rồi nắm tay cô lôi ra bờ sông.
“Theo đường ánh trăng này mà sang bờ bên kia múc nước mang về đây!” - mụ nói và đẩy cô bé về phía trước.
Cô bé nức nở khóc, nhắm mắt bước xuống sông. Nhưng lạ chưa kìa! Cô bé bước trên đường, ánh trăng trắng bạc như đi trên cầu. Cô bước nhẹ nhàng, không nghe thấy tiếng mụ dì ghẻ gọi cô quay lại.
Và thế là cô bé lên mặt trăng…
Một người thò đầu ra khỏi cửa, còn những người nằm tầng trên giường thì nhìn lên mặt trăng qua mặt kính cửa sổ bé tí, và khẽ nói chuyện với nhau, vẻ huyền bí.
- Mình thấy, mình thấy rồi. Cô ta đấy kìa!
- Chiếc đòn gánh và đôi thùng vẫn ở trên vai cô bé đáng thương.
- Trông mặt cô ta buồn không.
Còn Giamin thì dù có cố tìm cô bé và chăm chú nhìn lên mặt trăng đến đâu cũng vẫn không thấy gì cả. Mặt trăng trêu cậu, chạy rất nhanh, như thi với đoàn tàu.
Mọi người đã đi nằm, đang thiu thiu ngủ. Một chốc sau, người thì ngáy, người thì rên, có người còn giận dữ chửi nhau.
Cậu bé Giamin lay bố hỏi:
- Này bố, bố, sao cô bé kia biết được mụ dì ghẻ không phải là mẹ của mình?
- Có lẽ người ta nói cho cô ấy biết. Ngủ đi!
- Thế người ta có nói cho con biết không?
- Cái gì? Thôi ngủ đi!
- Thế mẹ con bây giờ là mẹ đẻ hay dì ghẻ?
- Hừ, con nói vớ vẩn gì thế, ngủ đi. Nghe cho lắm chuyện vào… - Rồi bố cậu đưa tay âu yếm xoa đầu cậu, ghì vào lòng, khẽ nói – Con là con cưng của cả nhà. Con út mà.
Giamin lặng thinh, nhưng một chốc sau lại thì thầm hỏi bố.
- Sao mọi người thấy cô bé trên mặt trăng mà con thì không, hả bố? Hay con không biết nhìn?
- Biết chứ, sao lại không. Ngủ đi. Trên mặt trăng có ai đâu mà con thấy được. Con không thấy gì là đúng. Mong sao sau này lớn lên con thấy hết mọi chuyện…
Ngày hôm sau, bố cậu đã không dậy được nữa, người nóng bừng, lúc nào cũng đòi uống nước. Mẹ cậu luôn ở bên cạnh, nhưng không cho cậu lại gần bố.
- Mẹ ơi, cho con nằm với bố, con nằm yên mà. Người bố ấm, ấm lắm…
- Để nó lại đây nằm với tôi, kẻo sau này lại… - bố cậu nói.
Đoàn tàu vẫn tiếp tục đi về hướng đông. Tiếng bánh đập đều trên đường ray. Công nhân phục vụ đầu máy thay nhau một ngày đêm mấy lần… Giamin cảm thấy tất cả các ga và những người làm việc trên ga đều giống nhau. Và cậu lấy làm khó hiểu sao cả tàu là “bà con” với cậu mà bố cậu ốm, không thấy ai đến thăm.
Mấy ngày sau, tàu đỗ lâu hơn thường lệ trên một nhà ga nhỏ cạnh rừng taiga. Những “người bà con” của Giamin vẫn nhốn nháo, ầm ĩ tranh nhau lấy than, lấy củi như trước. Trên sân ga, các bà bán bánh khoai tây rán rao inh ỏi. Các cậu bé mập mạp, vẻ cứng cáp mời mọi người mua kẹo nhai bằng nhựa thông. Một mẩu bằng ngón tay út mà các cậu đòi những một rúp. Hành khách tò mò ngắm nhìn mẩu kẹo màu nâu còn bốc mùi nhựa cây. Một số cho vào miệng thử nhưng vội nhổ ra ngay, không chờ cục nhựa mềm và tan trong miệng.
- Xi gắn chứ kẹo đâu mà kẹo!
- Có cái gì ngon lành đâu?
- Đây là kẹo nhựa thông, phải nhai chứ ai bảo ăn – các cậu bé Xibêri giải thích.
Ở ga này, Giamin thấy các bác mặc áo trắng tới toa cậu, đặt bố cậu người mềm nhũn như một đứa bé lên một chiếc cáng rồi khiêng đi. Sau đó người ta vây toa cậu lại, phun một thứ thuốc gì đấy mùi sặc sụa, những người trong toa được chuyển đến một chỗ cách li…
Một thời gian sau, gia đình Giamin dọn đến ở một ngôi nhà bé tí, có hai cánh cửa sổ lâu nay vẫn để trống, ở ven làng. Sau vườn đã là rừng taiga, nhiều khi đến dễ sợ, nhất là ban đêm, khi thời tiết xấu, những cây thông lâu đời điên cuồng cọ lá vào nhau, rên rỉ như những người khổng lồ thực sự.
Một sáng đầy nắng, anh của Giamin thăm bố ở bệnh viện về. Anh của cậu như một hành khất cứ nấn ná bên ngưỡng cửa, rồi Giamin không hiểu sao anh cậu lại nhăn mặt, khó nhọc nói:
- Bố chết rồi…
Nghe hai tiếng “chết rồi” này, mẹ cậu đứng lặng người rồi ngã xuống đất. Và Giamin cảm thấy hai tiếng đó đã mang vào nhà cậu một sự im lặng ghê sợ…
Trong nhà mọi người bỗng oà lên khóc. Còn Giamin thì như một con bê lạc mẹ, hết đi lại chỗ các chị lại đến với các anh nhưng chẳng ai để ý đến cậu. Thấy vậy, cậu ngồi xuống ngưỡng cửa, cũng thút thít khóc, vì cậu ấm ức lắm. Nhưng cũng chẳng ăn thua gì, mọi người vẫn thờ ơ với cậu như trước. Cậu thút thít khóc thêm chốc nữa rồi nằm xuống chiếc phản trần, ngủ thiếp đi.
Cậu chợt tỉnh vì tiếng ồn ào chung quanh. Nhà cậu đầy người lạ, Giamin chạy ra đường, thấy bố cậu đang nằm trên xe ngựa, người quấn đầy vải giải giường trắng, và đang ngủ say, mặc dù mặt trời chiếu thẳng vào mặt.
- Bố ơi! – Giamin sung sướng kêu lên chạy ra gần chiếc xe - Bố ơi! Dậy đi! Dậy đi - cậu lay bố, rồi vuốt chòm râu màu hung, sờ cái mũi nhọn lạnh buốt của bố rồi bỗng rụt tay lại như bị bỏng.
Người lớn từ trong nhà đi ra. Các anh cậu dìu mẹ cậu. Mẹ cậu im lặng đứng trước người chết, nức nở khóc rồi ngã xuống, ôm lấy ngực bố cậu.
Vẫn như cũ, không ai để ý tới Giamin. Hình như không ai nhìn thấy hay nghe tiếng cậu, mặc dù mấy lần cậu khẽ gọi bố và mẹ.
Cậu không hiểu cái gì đã xảy ra với người lớn. Một số thì lặng lẽ đi lại trong sân, số khác im lặng đứng bên bố cậu, buồn rầu nhìn mẹ, các anh và chị cậu.
Sau đấy, năm người đàn ông lạ mặt cầm xẻng, thúc ngựa gióng xe đi ra khỏi sân. Còn những người phụ nữ tất cả đều ở lại nhà cậu.
- Tôi… để tôi cùng đi… - mẹ cậu chạy theo chiếc xe.
- Không được, bà chị ạ - một người vấn khăn trên đầu nghiêm khắc nói – Bà chị biết đấy, kinh côran không cho phép phụ nữ đạo Hồi có mặt khi chôn người chết. Bà chị có thể làm mộ người ấy mất linh thiêng…
- Không đâu.. Thánh Alakhơ sẽ tha lỗi cho tôi - mẹ cậu nức nở, cố giãy khỏi những vòng tay của các bà láng giềng đang giữ chặt.
Giamin, với tư cách là nam giới, đã có mặt khi người ta chôn bố cậu xuống đất. Cậu đứng ra xa một chỗ, ngơ ngác nhìn người ta chôn xác bố cậu xuống lỗ huyệt và những gì đang xảy ra xung quanh. Cậu tin chắc đây chỉ là một trò chơi kéo dài và khó hiểu nào đó của người lớn. Các anh cậu khóc, Giamin cũng đi lại, thút thít:
- Em muốn về… Sao người ta lại giấu bố ở đây? Kéo bố lên khỏi hố đi.. Ở đây không tốt đâu. Em muốn về nhà…
Mấy người đàn ông lạ mặt không hề để ý tới Giamin, miệng luôn lẩm bẩm một cách đều đều cảm ơn thánh Alakhơ đã cho gặp chỗ đất mềm nên huyệt đào không đến nỗi vất vả lắm
- Cứ xem thì biết, người chết là một người nhân đức - một người nhỏ nhắn, mặt nhăn nheo, lấy tay bóp vụn một mẩu đất, nói.
Các anh của Giamin không nghe tiếng cậu đang đứng cạnh khóc thút thít và luôn miệng đòi về. Các anh cậu đứng lặng nhìn xuống đất như những pho tượng. Giamin bước lại gần lỗ huyệt, và hết sức ngạc nhiên vì lúc nãy người ta cho bố cậu xuống đó mà bây giờ không thấy bố đâu. Dưới ngách, cậu thấy một vật gì trăng trắng và một người đàn ông đang cẩn thận đóng chặt cái ngách ấy bằng những thanh gỗ đều, phẳng. Khi người này leo lên khỏi huyệt, mọi người cầm xẻng, vội xúc đất lấp lại.
Giamin ngạc nhiên nhìn mọi người và không biết nên làm gì tiếp. Rõ ràng là không ai cần đến cậu, nhưng một người lạ mặt bảo cậu cũng lấy đất ném xuống hố.
- Để làm gì? – Giamin hỏi và liền nói thêm – Không, cháu không ném đâu… Tại sao các bác lại làm thế? Chắc bố cháu đau lắm… - rồi cậu vừa khóc vừa chạy ra đứng một bên. Cậu không thể hiểu nổi tại sao người ta lại xử tệ với bố cậu như thế, tại sao lại lấp đất vào hố để không cho bố cậu dậy nữa. Dưới ấy chắc khó chịu lắm. Thế mà đất cứ đầy dần lên miệng hố. Một thoáng sau, đã nổi lên một ụ đất sét màu đỏ.
Mọi người lặng lẽ rời khỏi nghĩa địa. Về đến cổng nhà, Giamin dừng lại:
- Sao để bố ngoài ấy?
- Đi thôi, nào cháu, đi thôi - một người nào đấy nói rồi lấy tay ẩy nhẹ Giamin về phía trước.
- Không, cháu quay lại với bố cháu đây! - cậu kêu to và chạy ngược trở lại.
Anh cả cậu chạy theo và bế cậu trên tay dỗ:
- Nào, về nhà, mẹ đang chờ. Còn bố, sẽ về sau… Về nhé, Giamin…
- Bố về thế nào được? Người ta lấp bố xuống hố rồi.. Bố chết rồi… Em muốn đến với bố… - Giamin giãy giụa trên tay anh.
Hôm sau Giamin ốm.
Sau này, ít khi cậu nói về bố với những người khác. Cậu giữ gìn những kỉ niệm về người bố như giữ gìn một báu vật, và bao giờ cũng cảm thấy rõ thế nào là cuộc sống của một người con thiếu bố. Và nếu có ai trong số các bạn cậu nói về bố mình là cậu liền lẳng lặng bỏ đi chỗ khác. Cậu không muốn người ta biết cậu vẫn thường thấy bố trong mơ, và bao giờ đến, bố cậu cũng cưỡi ngựa.
Lần nào bố cũng hỏi về cuộc sống của cậu. Cậu trả lời là mọi cái đều tốt, có điều thiếu bố, cậu thấy hết sức bỡ ngỡ… Và không hiểu sao, lần nào mơ đến đây cậu cũng chợt tỉnh dậy. Cậu còn nằm hồi lâu, không dám động đậy, từ từ mở mắt, hi vọng bố cậu sẽ trở lại với cậu. Nhưng bố cậu vẫn cứ ở một nơi nào đấy, mờ mờ ảo ảo, chỉ làm cậu thêm đau đớn. Giamin lại nhắm mắt, nói rất khẽ, rất khẽ:
- Bố ơi, trở lại với con. Con chờ bố lâu lắm rồi… Con rất cần có bố.
Xamôrucốp Xôcôlốp đến phân xưởng rèn một cách đột ngột. Qua những ô cửa sổ ám khói và bụi, những người thợ rèn bỗng nhiên thấy chiếc xe của bác.
- Không lẽ Xtêpan thật à?
- Anh ta đến đây làm gì thế nhỉ?
Xtêpan không chịu ngồi yên ở nhà.
- Chắc suốt ngày quanh quẩn bên vợ, buồn quá nên định lại đây chuyện trò xả hơi một chốc, - mọi người bảo nhau
Xtêpan cho xe lăn đến chiếc cửa nặng nề của phân xưởng, đấm mạnh vào cửa gọi:
- Các cậu ơi, mở cửa ra! Có thêm người làm đến nữa đây!
Lập tức, một lúc mấy người chạy về phía cửa:
- Mời vào, mời vào! Cơn gió nào mang anh lại đây thế này? - vừa bắt tay, các bác thợ rèn vui mừng hỏi.
- Thế nào, không ngờ à? Lại nghĩ là Xôlôcốp chẳng bao giờ có thể đến xưởng nữa chứ gì? Thế mà hắn đến được đấy, phải không?
Công nhân giúp Xtêpan đẩy xe lại lò rèn, cho thổi lửa. Xtêpan nhìn than cháy trắng, tan dần như tuyết dưới mặt trời nói:
- Trông kìa, cháy ghê không? Mùi dễ chịu quá! Thật hít mãi không thấy chán!
Sau đấy, khéo léo lăn xe giữa các thùng nước, dụng cụ, các đoạn ray nằm ngổn ngang, bác đi lại chỗ chiếc đe, cầm búa lên tay. Bác ngắm nó cẩn thận như sắp múa, đưa ngón tay to sờ cạnh rồi khẽ đập đập lên mặt đe. Tiếng búa vang lên lanh lảnh khắp phân xưởng. Xtêpan lắng nghe rồi hỏi các bạn mình đang im lặng đứng cạnh:
- Nghe vang đấy chứ, phải không?
Mọi người im lặng. Không ai biết nên nói gì với người mà trước đây khoẻ nhất, làm việc giỏi nhất, nhưng bây giờ là người tàn phế. Mọi người hiểu Xtêpan đến đây không phải không có việc, vì đây là lần đầu tiên từ ngày ở mặt trận trở về bác ta đến xưởng.
- Búa này chắc là của Viđônốp làm chứ gì? Tiếng hơi nặng một chút. Misa ạ, bao giờ cậu cũng để quá lửa. – Xtêpan cầm chiếc búa khác, to hơn một tí rồi nhẹ nhàng để nó lên mặt đe bóng loáng. Tiếng búa nghe nhẹ, dài hơn.
Những người thợ rèn nhìn Xtêpan cố đoán xe bác ta đến đây làm gì. Và ai cũng cảm thấy hình như mình có lỗi vì bác ta về nhà đã lâu mà mình đến thăm ít quá. Công việc ở xưởng và việc gia đình bận rộn đã làm họ hầu như chẳng còn lúc nào để nghĩ tới Xtêpan Xôlôcốp nữa, và rồi số người bị thương trở về ngày một nhiều hơn. Nếu không ngày đầu người ta còn hay hỏi Côlia về bố cậu, về việc nhà, xem có cần giúp đỡ gì không, thì dần dần người ta ít hỏi hơn, và thời gian gần đây thì thậm chí hầu như đã quên hẳn bác ta.
Nhưng bản thân Xôlôcốp cũng chẳng yêu cầu gì, chẳng viết đơn nhờ cơ quan giúp đỡ. Khi anh còn khoẻ, ai cũng cần, người ta nhớ đến anh, người ta nhờ anh giúp đỡ… Bây giờ từ mặt trận trở về, cụt chân, người ta thốt lên những lời thương tiếc, thông cảm, các bà láng giềng đỏ mắt khóc (mong sao cho người thân của mình không phải trở về thế này) rồi tất cả có vẻ như bị quên đi…
Đọc được câu hỏi trên nét mặt mọi người, Xtêpan phá lên cười to, kiểu cười chỉ mình bác mới có, đầu hất về phía sau, mắt lim dim, cái cổ to lớn đỏ bừng:
- Mà sao các cậu lại nhìn mình thế? Như thể không nhận ra mình là ai ấy. Tại sao im lặng, mất lưỡi cả rồi à? – Xtêpan thôi cười, nghiêm túc nói – Hôm nay tôi đến đây với các anh là để làm việc - Rồi ranh mãnh nói tiếp – Các anh nghĩ thế nào?
- Bác định làm việc à?
- Làm gì mới được chứ? - một vài người rụt rè hỏi
- Thì tôi có thua ai đâu. Tôi sẽ tới phân xưởng dụng cụ, - Xtêpan nhìn mọi người nói - Với cán bộ phụ trách thì các anh nhớ ủng hộ nhé. Các anh biết đấy, thế nào mà người ta chẳng lôi ra hàng mớ luật lệ, nguyên tắc, điều khoản, điểm này điểm nọ để bắt tôi ở nhà…
Cả phân xưởng cảm thấy như nhẹ nhõm hẳn đi. Xtêpan không yêu cầu giúp đỡ gì hết, bác chỉ đề nghị được giúp đỡ người khác. Nếu thế thì tất cả đâu sẽ vào đấy. Thậm chí cũng chẳng trách họ ít đến thăm mình nữa, chỉ yêu cầu ủng hộ bác như những người ngang hàng với nhau…
Những người thợ rèn bắt đầu sôi nổi nói chuyện với nhau. Bác Misa chen lên phía trước, chùi tay vào chiếc tạp dề bằng vải bạt, nói:
- Thế mà mình cứ nghĩ, Xtêpan ạ, thôi chết rồi, thế nào cậu ấy cũng sẽ quát tháo om xòm lên. Mình sợ cậu sẽ vớ lấy chiếc búa tạ rồi… Thế mà hoá ra… Cái xe của cậu đi khá nhẹ.
- Cậu cho mình điên hay sao, Misa? Hay là một thằng dở hơi? – Xtêpan khoát tay hỏi – Còn chiếc xe là do con trai và các bạn của nó làm đấy. Thôi, các ông quỉ sứ Diêm Vương làm việc đi. Mình còn đi gặp Xamôrucốp
Rồi Xtêpan lăn xe sang phân xưởng nguội.
- Thế mới gọi là khoẻ chứ! Cứ như là không có chuyện gì xảy ra với bác ta. “Mình sẽ làm việc!” - một anh thợ phụ gầy gò nói theo, thán phục.
Xtêpan tìm thấy đốc công trong phòng họp, một phòng nhỏ đầy mùi thuốc lá với một cửa sổ, không hiểu sao được lắp song chắn bằng sắt cẩn thận, mặc dù trong phòng không có gì đáng giá ngoài chiếc giá đựng bút mực to nặng và một cây đa héo rũ trong góc. Nhiều chiếc lá nhẵn bóng của nó đã bị những người hút thuốc đốt cháy. Trên bàn, cạnh giá mực là một chiếc vỏ đồ hộp đựng các mẩu thừa thuốc lá.
“Hình như mình chưa xa đây một ngày nào, - Xtêpan nghĩ bụng rồi đưa mắt liếc nhìn phòng họp - vẫn cây đa ấy, vẫn chiếc ghế dài, và cả chiếc vỏ đồ hộp cũ này nữa.” - thấy mọi vật vẫn y nguyên như lúc mình ở nhà, Xtêpan lấy làm yên tâm.
Đốc công ngồi quay lưng ra cửa, đang giận dữ nói chuyện với một người nào đấy qua điện thoại.
- Chào anh, Piốt Pêtrovích, - Xtêpan cho xe lăn vào phòng.
- Ồ, Xtêpan đấy à? Chào anh, hay lắm! – Xamôrucốp mừng rỡ đáp lại, một tay bịt ống nghe, nói tiếp: - Chờ tôi tí nhé, - rồi quay sang quát vào ống nghe – Không một người nào hết! Thế chỉ có gọi là ăn cướp! Không thế người ta cũng gọi tôi là giám đốc nhà trẻ rồi. Cái gì? Thế nào? Tôi có thể mất thẻ đảng à? Tôi chẳng sợ. Thẻ của tôi bây giờ là một bộ phận của cơ thể tôi!... Anh bảo những người cộng sản không làm thế phải không? Thế thì làm thế nào? Anh muốn đình chỉ công việc lại à? Không được! Vâng, vâng! Tôi cũng chịu trách nhiệm trước đảng, trước nhân dân! Đấy, anh xem, đã bao lâu nay tàu vẫn chạy liên tục… Còn tai nạn? Thì anh cũng thừa biết là không phải do tình trạng đường sắt! Anh biết rõ hơn tôi! Có tai nạn là do người bẻ ghi nhận tàu vào đường đã có đoàn tàu rồi. Tại sao à? Tại vì anh ta đã ba ngày ba đêm không ngủ một tí nào. Chính anh chẳng bảo tôi nhân viên bẻ ghi ngồi không và đã rút đi một số đó ư… Anh không cần phải doạ tôi! Một khi công việc được giao cho tôi, tội chịu trách nhiệm về nó! – Xamôrucốp mệt nhọc treo ống nghe vào máy, quay lại – Chào anh, Xamôrucốp! - rồi từ bàn bước ra, cầm hai tay Xtêpan lắc mạnh – Hay lắm! Xin lỗi là tôi đã bắt anh chờ nhé. Có anh chàng định gây sự với tôi – ông quay đầu về phía máy điện thoại - Người ta giao quyền hành cho mà không biết sử dụng thế nào. Anh ta bảo anh ta làm nhiệm vụ đảng. Còn chúng ta thì không? Thế đấy… Không biết đâu là đâu mà cứ bắt người khác theo mình, - Xamôrucốp nói, vẫn còn tức giận – Lúc nào cũng giở các chỉ thị và qui định từ thời kì trước chiến tranh ra, cái mà anh ta bảo anh ta đặt ra, mà chúng ta thì không chấp hành. Tôi bảo lỗi không phải tại chúng ta, mà là cuộc sống, là chiến tranh, nhưng anh ta không chịu nghe… Vấn đề phức tạp thế đấy. Sao anh ngồi im thế? – Xamôrucốp bỗng hỏi.
“Không biết bây giờ anh ta có giở qui chế, chế độ ra không?” – Xtêpan nghĩ bụng và bắt đầu bình tĩnh nói.
- Tôi đến gặp anh, Piốt Pêtrôvích ạ, để nhờ anh nhận tôi vào làm việc.
- Hừm!... Tất nhiên, Xtêpan ạ, thế là tốt… - Xamôrucốp đi đi lại lại trong phòng – Nhưng anh làm tôi khó nghĩ quá. Thế anh định làm gì?
Xôlôcốp cho xe lăn về chiếc lò sưởi kiểu Hà Lan đang đứng trong góc phòng như một chiếc cột đèn lớn.
- Vào phân xưởng dụng cụ… Lúc đầu có thể với tư cách là người học việc, nếu anh chưa tin tôi…
- Khó đấy, - Piốt Pêtrôvích ngồi xuống chiếc ghế dài.
Xtêpan chờ đợi, căng thẳng đến nỗi cổ bác đỏ ửng
- Thôi được, Xtêpan ạ, - Xamôrucốp đặt tay xuống đầu gối của mình - Luật lao động không cho phép, nhưng tôi sẽ tìm cách thu xếp. Bây giờ thêm người nào làm việc, hay người ấy. Và rồi anh sẽ thấy mình như sống lại! Đúng thế không, Xtêpan?
- Cảm ơn anh, Piốt Pêtrôvích
- Anh cảm ơn tôi đã vi phạm luật lao động à? - đốc công cười lớn
- Không, cảm ơn anh đã hiểu tôi…
- Sao anh lại nói thế được, tôi mà không hiểu anh thì hiểu ai, - Xamôrucốp bối rối nói.
Ngày hôm sau bác đi làm. Trước bữa ăn trưa, bác làm quen với trách nhiệm công tác không lấy gì làm phức tạp lắm của người công nhân phân phát dụng cụ. Bác nhớ thuộc lòng dụng cụ nào để ở đâu, và hình dung trong đầu nên xếp nó thế nào để có thể làm việc mà không cần người khác giúp đỡ.
Giờ nghỉ trưa, bác lại cho xe lăn sang phân xưởng rèn. Bạn bè chuyện trò với bác như người ngang hàng, yêu cầu bác chú ý trong khi lắp các mũi khoan, giũa, vì chúng hay gẫy và chóng cùn quá…
Cuối ngày làm việc, Xtêpan cảm thấy rất mệt, nửa người phía dưới bị tụ máu phù lên. Qua ô cửa sổ mà bác vẫn giao dụng cụ cho phân xưởng nguội, bác gọi con trai và Giamin đến, bảo các cậu giải chiếc áo ấm lên bàn làm việc và đặt bác nằm lên đó. Nằm nghỉ khoảng 15 phút, Xtêpan lại ngồi vào xe, làm việc một mạch đến tan tầm.
Tháng Mười sắp hết, tuyết phủ đầy khắp nơi. Trời hơi lạnh, làm tai và má buôn buốt, đầu óc tỉnh táo hẳn lên. Giữa buổi hoàng hôn, tuyết trắng ngả màu tím một cách kì lạ.
Xtêpan về nhà cùng các bạn của con trai và một số công nhân già. Những người kia cảm thấy ngượng ngùng bên chiếc xe chở người tàn phế, nhưng không để lộ ra mặt. Thậm chí cả những khi xe rơi xuống ổ gà, tuyết che không thấy, họ cũng làm ra vẻ không để ý, kéo xe lên, tiếp tục nói chuyện công việc, về nhà ăn của xưởng, về mùa thu đến sớm, về việc năm nay được mùa khoai tây… Vẫn những câu chuyện thường ngày. Không ai hỏi Xtêpan sức khoẻ thế nào, và bác ta rất cảm ơn về điều đó.
Ở nhà, người ta cũng không hỏi han làm phiền Xtêpan. Mấy đứa bé sung sướng chạy ra đón bố, leo lên xe ôm bố, cười nói ầm ĩ. Côlia nhanh chóng bảo bọn em im lặng trở lại. Xtêpan rửa ráy và ăn xong, lần đầu tiên trong thời gian gần đây, ngủ một giấc say như chết, thậm chí không nghe hết câu chuyện của con trai về những gì mới xảy ra trong đội cậu. Trong đội đã xảy ra một chuyện bất thường.
Đã ba ngày nay không thấy Lênca đi làm. Theo luật thời chiến, bỏ việc như thế, hắn phải bị đưa ra toà. Các cậu hỏi thì biết được Lênca không đến trạm y tế, không có giấy nghỉ của bác sĩ. Nhưng chuyện gì xảy ra, cậu ta ở đâu thì không ai biết. Hai ngày đầu, Giamin còn giấu chuyện Lênca bỏ việc, cả đội phải gánh phần việc của nó. Có ai hỏi về nó, khi thì các cậu bảo là nó đang mài đục, khi thì nói là đang đi nhặt các thanh ốp hỏng để sửa.
- Này Giamin, hai ngày qua đội các cậu thế nào mà vất vả lắm mới làm hết định mức? Có chuyện gì xảy ra à? – Xamôrucốp hỏi
- Chúng cháu vẫn cố đấy ạ. Mấy hôm nay không hiểu sao lại thế… Không đủ nguyên liệu, phải mất nhiều thời gian chọn thanh ốp…
- Xem đấy, đừng chán nản! - thấy Giamin lúng túng, Xamôrucốp nói – Làm lãnh đạo không dễ đâu, cháu biết đấy, - Ông vỗ vào lưng cậu - Chịu trách nhiệm không chỉ riêng về mình mà cả người khác nữa.
Nói chuyện với các bạn xong, Giamin quyết định sau giờ làm việc sẽ đến nhà Lênca.
Lênca cùng mẹ sống với một ông già ở đường Giao thông sau ngõ cụt đường sắt, nơi người ta vẫn rửa buồng đốt thông nồi hơi, đầu máy.
Giamin tìm đến nhà Lênca, đi vào cái sân ngập tuyết. Theo một đường mòn nhỏ, cậu bước lên bực thềm. Cửa đóng kín. Giamin cầm quả đấm, khẽ giật rồi đứng chờ. Không thấy ai trả lời. “Không lẽ lại ngủ sớm thế à?” - Cậu tự hỏi rồi lại gõ cửa. Phía nhà để đồ đạc từ sau đống cỏ, một con chó màu hung đỏ, cụt đuôi chạy ra, vươn mình cất tiếng sủa giận dữ. Thấy người lạ không định rút lui, nó lại càng sủa mạnh, và từ từ tiến lại gần, thỉnh thoảng lại nhe răng đe doạ. Giamin đã định bỏ chạy ra sân nhưng thầm ước lượng thấy chưa kịp vượt qua khoảng sân đầy tuyết đến cổng thì con chó cụt đuôi kia sẽ cắn vào người cậu rồi. Con chó có lẽ cũng chỉ chờ cậu bỏ chạy. Nó giận dữ sủa, nhưng vẫn đứng yên một chỗ.
- Thôi đi đi, ngoan nào… - Giamin bình tĩnh nói với nó
Hình như con chó đã cảm thấy ưu thế của mình, nó lại gần Giamin, cong người, sủa càng khoẻ hơn trước. Giamin lấy chân đạp không ngớt vào cánh cửa, miệng vẫn nói nhỏ nhẹ:
- Giỏi lắm, mày ngoan lắm, tao có phải là kẻ trộm đâu…
- Ai đấy? - từ trong nhà có một người phụ nữ giọng khàn khàn hỏi ra.
Con chó chồm lên sủa từng hồi như muốn để bà chủ thấy lòng tận tuỵ của mình
- Tôi đây… bà mở cửa hộ… Tôi là bạn của cậu Rỗ - Giamin đáp rồi vội nói chữa lại – Tôi là bạn cùng làm việc với Lênca…
- Thế thì mời vào. Mà sao con Giunbaxơ nó chưa xé xác cậu ra nhỉ? - người phụ nữ hé tấm cửa nặng ra.
Giamin bước vào phòng ngoài tối om, theo tiếng chân bà kia đi về phía trong.
Một chiếc đèn dầu, bóng ám khói, để trên bàn. Bên cạnh là chai rượu vốt ca. Mùi thịt và khoai tây rán dầu thực vật bay ra thơm ngậy.
Bà ta nom khoảng 40 tuổi.
- Lạnh lắm hở? Hay uống cốc rượu nhé?
- Không, tôi không uống. Tôi đến để gặp Lênca…
- Hoá ra cậu không phải từ chỗ nó lại đây à? Thế cậu là ai? – bà ta cầm chiếc đèn lại gần sát mặt Giamin – Lính mới à?
Lênca giống bà ta, có lẽ là mẹ cậu ấy
- Bà đang nói gì? Tôi cùng làm việc với con bà, nhưng đã ba hôm nay không thấy cậu ấy, - Giamin chậm rãi nói, cố cho bà ta hiểu cậu là ai
- Hắn không có nhà, - bà ta đặt cây đèn lên đít chiếc chảo bị lật sấp rồi ngồi xuống chiếc giường ọp ẹp
“Cậu con trai không ở nhà, bà mẹ thì say rượu” – Giamin nghĩ bụng rồi hỏi:
- Thế cậu ấy ở đâu?
- Thằng Lênca,… bị công an bắt rồi…
Có tiếng chân người bước trên sàn gỗ cọt ket. Từ sau tấm chắn làm bằng nhiều thanh gỗ ghép lại, một lão già đầu tóc rối bù, mặt gian xảo, mình mặc độc chiếc quần ngủ, bước ra.
- Bà đang nói chuyện với ai đấy? - hắn vươn vai đến nỗi xương kêu răng rắc
- À, có cậu bạn của con trai…
- Công nhân hả?
- Vâng…
- Đến một mình à? – Lão già xoi mói nhìn Giamin, hỏi rồi ngồi xuống chiếc ghế bẩn thỉu cạnh bàn.
- Có mấy người đang chờ ngoài kia, - Giamin nói dối. Cậu thấy sợ hắn.
- Mày không nói dối đấy chứ? - hắn đưa tay nhấc cằm Giamin, - Mày cũng biết là nói dối thường sẽ bị trừng phạt thế nào rồi chứ?
- Sao tôi phải nói dối? – Giamin hất mạnh tay hắn ra
- Để cậu ấy yên, Aphônia, quả cậu ấy không đến một mình thật. Ông không nghe con Giunbaxơ đang sủa đấy à? – bà kia uể oải nói
- Mày làm tao thích đấy, nhưng kể ra giết mày cũng không thừa, - lão già phá lên cười, cái cười của người say.
Giamin thấy lạnh khắp người
- Thôi đi, Aphônhia! - người phụ nữ nghiêm giọng bảo hắn - Nốc vào cho lắm, bây giờ nói lung tung. Còn cậu đi đi, kẻo bọn bạn chờ lâu rồi đấy… - bà ta đứng dậy, đẩy Giamin về phía cửa.
Giamin không nhớ trong phòng ngoài tối om cậu đã tìm ra cửa và đi tới cổng thế nào. Chỉ khi chiếc cổng đã khép lại sau lưng và tiếng sủa giận dữ của con chó đã xa, cậu mới tin là có thể về nhà an toàn được. Suýt ngạt thở vì lạnh, cậu chạy một mạch không nghỉ, và như trêu cậu, suốt dọc đường cậu không hề gặp một người nào. Cậu chạy bổ vào nhà Côlia, mệt suýt chết. Mọi người đã đi ngủ, chỉ còn thím Grunhia đang ngồi cạnh bàn vá áo lót của một người nào đấy.
- Có chuyện gì thế? – thím Grunhia hỏi - Mẹ cháu vừa lại đây hỏi cháu
- Lênca bị bắt rồi! – Giamin vừa nói vừa thở hổn hển.
- Thật thế à?
- Cháu vừa ở đằng ấy… Mẹ cậu ta là một người say rượu… Một lão đàn ông đầu tóc bù xù… Sợ lắm bác Grunhia ạ, - Giamin vô tình tự thú nhận như vậy và nói thêm: Hay báo cho bác Xtêpan biết?
- Bác ấy vừa mới ngủ. Đánh thức dậy bây giờ không nỡ. Thôi để sáng mai cũng được. Cháu về nhà đi. Bác không thích thằng Lênca của cháu đâu. Sao lại cho một thằng như thế vào đội?
Giamin ra về. Cậu thấy bối rối và tự trách mình đã ba ngày giấu chuyện thằng Rỗ trốn việc. Cậu tưởng làm thế tốt hơn. Ai ngờ bây giờ lại phiền phức đến thế.
Ngày hôm sau thì mọi chi tiết đều đã rõ.
Người ta bắt thằng Rỗ khi hắn đang bán dầu thực vật có trộn sơn. Lần xảy ra tai nạn đổ tàu, tuy thế thằng Rỗ vẫn lấy được bốn thùng dầu. Hắn đem đổ vào một chiếc thùng sắt dùng đựng dầu xô-li-đon. Hắn giấu cả một ít thuốc nổ nữa. Lúc đầu hắn tin thật đó là bột trứng nhưng sau thấy đồng chí đại uý bảo là thuốc nổ, hắn chợt nghĩ là: “Phải lấy một ít, sau có thể dùng để đánh cá”.
Một hôm mẹ hắn dẫn Aphônhia từ chợ về. Lão già vẫn thích tự gọi mình như vậy. Hắn nói hắn bị thương ngoài mặt trận, cả gia đình đều bị giết ở Rôxtốp. Mẹ Lênca thương hại hắn. Lúc đầu hắn tìm mọi cách làm vừa lòng bà chủ nhà, giúp đỡ việc gia đình. Ở chưa được một tháng, hắn đã hiểu được tính tình của Lênca, thấy ngay được cái thói hay tắt mắt của nó, biết được nó giấu dầu và thuốc nổ. Anphônhia dạy hắn cách bán các hàng này.
Thằng Rỗ không đồng ý ngay vì nó còn nhớ lời của đồng chí đại uý.
- Thế cậu tưởng nếu biết cậu giấu thuốc nổ thì người ta sẽ xoa đầu cậu à? – Aphônhia bảo hắn, - Tốt hơn hết là phải bản ngay, tâm hồn thoải mái mà lại có tiền tiêu. Phải thông minh một chút, chú mày ạ… - Họ mua, lên toa ngồi - thế là xong. Họ sẽ cảm ơn cậu đã giúp họ khỏi chết đói, mà cậu thì cứ việc đứng mà vẫy tay theo.
Lần đầu bán dầu trót lọt, thằng Rỗ mừng lắm, thầm cám ơn lão già và lại càng thêm cởi mở với lão.
Thấy con trai thậm thụt với Aphônhia, một hôm nhân Lênca đi vắng, bà kia nói:
- Aphônhia, ông dạy cho con tôi những điều xấu… - rồi bà suýt khóc – Tôi cho ông đến ở nhờ như một người đồng hương, một người gặp nạn…
- Vâng, đúng thế, thưa bà. Con bà giỏi lắm và hoàn toàn không ngoan như bà nói đâu. Chính bà cũng biết giá trị của con bà. Thưa bà, cậu nhà bán lậu dầu hướng dương trộn lẫn dầu sơn. – đôi mắt màu vàng của lão già nheo nheo như muốn cười – Thế nào, bà không tin à?
Bà kia muốn đứng dậy khỏi ghế, nhưng lại khoát tay vẻ hoảng sợ.
- Không thể thế được…
Như bộ không nghe thấy gì, lão già nói tiếp:
- Và bà hãy nhớ cho một điều này nữa, là trong một thời gian dài bà đã che giấu một tên ăn cắp chuyên nghiệp. Bà cho hắn ăn, hắn uống… Thành ra bây giờ chúng ta là một bộ ba tuyệt đẹp…. Mỗi người đều có tội cả. Vâng, vâng, thưa bà, bà cũng có tội… Mà theo pháp luật, bà cũng khó hình dung nổi điều này có thể dẫn bà tới đâu. Cho nên, tốt hơn hết là bà hãy im lặng. Bà đừng nghĩ là tôi dạy nghề cho con trai bà. Lâu nay cậu nhà cũng đã hoạt động rồi, có điều chưa làm cái gì lớn lắm. Tôi chỉ giúp cậu ta thôi. Mà chính bà cũng biết là con bà giấu dầu, làm giả giấy phép nghỉ việc. Chính bà khuyên cậu ta làm thế… Rồi bà đã bày cho cậu ta làm thế nào để tăng nhiệt độ cơ thể lên… Chính cậu ta bảo tôi thế…
- Đồ khốn nạn, tao là mẹ của nó. Nó là con tao, còn mày, mày có quyền gì mà dám thế? – bà ta oà lên khóc.
- Thì tôi có cướp cậu ấy đi đâu, thưa bà. Tôi chỉ gọt giũa, làm cho cậu ấy trở nên đẹp hơn, tinh xảo hơn thôi, như gia công đồ trang sức ấy mà…
Sau lần ấy, thằng Rỗ công khai làm mọi việc Aphônhia giao. Còn mẹ hắn thì làm ngơ như không biết gì. Vốn trước đã quen nhấp nháp, bây giờ dần dần bà càng hay tìm đến chai rượu hơn.
Chỉ ngay trước khi con trai bị bắt, bà mới hỏi nó hai ngày vừa rồi đã cùng ông khách trọ đi đâu, và lấy đâu ra nhiều thịt thế.
- Lấy tiền bán dầu mua, - thằng Rỗ nói dối.
- Tao hỏi mày đã đi đâu hai ngày? - mẹ hắn nghiêm mặt hỏi lại
- Ở Nhigiơnheuđinxcơ. Ở đấy dễ bán hơn, - hắn lại nói dối.
Aphônhia bước vào, người đầy tuyết. Thời gian gần đây do ăn nhiều, đôi má trễ của hắn nhầy mỡ. Hắn xử sự như một ông chủ thực sự. Hắn đã làm bạn được với ông lão cho mẹ Lênca thuê nhà. Ông cụ mù, nặng tai, không ngớt cảm ơn Chúa đã gửi đến cho bà thuê nhà mình một người bạn tốt bụng như thế. Nốc rượu xong, ông cụ thường leo lên lò sưởi nằm, lè nhè nói xuống:
- Con là một người tốt. Aphônhia ạ. Bố chết sẽ để lại cho con tất cả. Nhà này, con Giunbaxơ này… Nào, lại đây con, bố muốn hôn con…
Bây giờ ông cụ đang nằm say ở đây, vừa ngủ vừa khịt khịt như trẻ con khóc.
- Hai mẹ con mày vắng tao vừa nói chuyện gì thế? – Aphônhia hỏi vẻ đe doạ, chủ yếu là Lênca.
- Mẹ tôi hỏi chúng ta đã đi đâu hai ngày và lấy đâu ra nhiều thịt thế?
- Và tao hi vọng là mày đã nói hết cả rồi, phải không? Bà ấy muốn giữ cho tâm hồn mày trong sạch mà! – lão già nghiến răng nói
- Vâng, cháu nói là ta đi Nhigiơnheuđinxcơ và lấy tiền bán dầu mua thịt…
- Thì các anh đi đâu, mua gì, tôi chẳng cần biết, - bà kia đang say rượu nói vọng vào.
- Đấy, tôi thích như thế! – Aphônhia cười khà khà – Đáng lẽ bà phải nói thế từ lâu rồi cơ - Hắn rót một cốc rượu lậu, chóp chép nhai mấy chiếc nấm dưới chân có màu xanh nhạt. Hắn lại gần mẹ Lênca, thô bạo đặt bàn tay nặng của hắn lên vai bà – Ê, em yêu, rồi tất cả sẽ theo ý anh.
- Này, Aphônhia, tốt hơn là ông đừng sờ vào người mẹ tôi - thằng Rỗ giận dữ nhìn hắn, hất tay lão ra khỏi vai mẹ.
Aphônhia hằn học nhìn thằng Rỗ từ đầu đến chân, suy nghĩ một lát rồi mỉm cười độc ác, nói:
- Còn mày thì ngang bướng, giỏi lắm…
Trưa hôm ấy, một đồng chí công an đến bắt thằng Rỗ đem đi, sau khi bảo mẹ hắn là người ta nghi ngờ con bà một vài việc.
Những ngày đầu Lênca còn tỏ vẻ cứng rắn, nói là chỉ bán dầu ở ga, ngoài ra không biết gì hơn. Nhưng khi người ta đem thuốc nổ tìm thấy trong khi khám nhà hắn đặt lên bàn, hắn buộc phải thú nhận. Lúc này người hỏi cung hỏi hắn:
- Thế ông già có râu người ta thấy đi cùng anh ở ga là ai? Nhìn bề ngoài ông ta không phải là người ở đây.
Lênca sợ không dám khai Aphônhia, nhún vai đáp:
- Tôi làm sao biết được! Ngoài ga thì thiếu gì người quanh tôi?
- Được.. Thế còn cái này anh biết không? – anh kia hỏi tiếp và đặt lên bàn một chiếc rìu dính máu.
Thằng Rỗ tái mặt, cúi đầu nói:
- Lần đầu tiên tôi thấy nó…
- Chúng tôi cũng cho là thế, vì khó mà tin nổi anh có thể làm được điều này, nhưng… vết tay lại là của anh. Kể ra ở đây còn có vết tay của người khác nữa… Hay là của người lạ mặt ở sân ga?
Thằng Rỗ khịt mũi, đưa nắm tay lên chùi nước mắt nói:
- Của ông ta…
- Nghĩa là các anh làm thịt bò ở Acunsét, rồi pha thịt bằng chiếc rìu này?
- Vâng…
- Nếu lúc ấy chủ bò đi ra thì sao?
… Aphônhia trốn ngay đêm Giamin đến. Người ta kết án Lênca Crítsốp ba năm tù. Mẹ hắn bị một năm tù treo. Giamin cũng bị vạ lây. Cậu đã bị kiểm điểm ra trò trong cuộc họp đoàn. Người ta nghiêm khắc báo cho cậu biết là nhờ được chiếu cố làm việc tốt, chứ không, khó mà biết trước cậu sẽ bị rầy rà đến mức nào, vì cậu đã làm cho vụ án thêm phức tạp. Mà thời chiến, điều này cũng quan trọng như tội phạm.
Ở phân xưởng rèn suốt ngày đêm không bao giờ ngớt tiếng búa đập, lửa trong lò không tắt giờ nào. Hoạt động của đường sắt không thể dừng lại. Suốt ngày đêm cứ 15 phút lại có một đoàn tàu quân sự lao về phía Tây.
Từ lâu người ta đã bỏ nghỉ giải lao dài để lần lượt mời nhau những điếu thuốc “hảo hạng”.
Thường thì mọi người hay tụ tập quanh Viđônốp, một người không lấy gì làm xinh trai, lưng còng, vẻ mặt cau có. Viđônốp không già hơn người khác nhưng không hiểu sao vẫn được gọi là bác, bác Misa. Chỉ có một mình bác ta – bác Misa – là làm được những chi tiết phức tạp nhất, đòi hỏi phải có trình độ của một người thợ kim hoàn, mà làm đúng bản vẽ thiết kế. Những giờ nghỉ trưa, bác Misa tranh thủ ăn nhanh rồi ngồi vào làm những chiếc dao cạo râu.
Cán bộ phụ trách xưởng vẫn thường nhân nhượng và bỏ qua những cái kì cục của Viđônốp vì khâm phục và đánh giá cao nghệ thuật rèn của bác.
Nguyên liệu làm dao là những thanh nhíp toa tàu bị hỏng. Viđônốp kiên nhẫn hồi lâu nung nóng nó trong lò, chặt lấy một mẩu cần thiết rồi cẩn thận đem cất phần còn lại vào chiếc hộp đồ nghề của mình. Có lúc nhiều anh đến xin sắt, bác ta ngoảnh mặt đi, bảo:
- Bác Misa có phải là nhà máy luyện thép đâu. Đi mà tìm lấy, nung đỏ, rồi cứ làm đi… Như thế thì sản phẩm sẽ tốt hơn.
Thấy tính tình Viđônốp như vậy, nhiều người xa lánh bác. Nhưng khi bác làm dao cạo thì bao giờ người ta cũng lại xem, rồi truyền tay nhau con dao, không ngớt lời khen ngợi. Họ hà hơi lên mặt dao, kiên nhẫn chờ khi nào hơi nước tan mới thôi, để tóc lên lưỡi dao, cạo cạo vào má mình. Những lúc ấy, bác Misa đi ra xa, lấy những ngón tay rung rung của mình vụng về cuốn thuốc hút. Thế nào cũng có người không kìm được phải rụt rè nài nỉ:
- Bác Misa, hay bán cho tôi được không?
- Cái gì, cái gì? - vẫn chăm chú cuốn thuốc Viđônốp nói.
- Tôi bảo bác có bán không?
- Không, làm theo đơn đặt hàng đấy, - Viđônốp ranh mãnh cười, cầm con dao, lấy mảnh dẻ cẩn thận bọc lại.
Nhiều người thợ rèn khác cũng bắt chước bác định làm những con dao như thế; chọn cùng một loại thép, tôi thép cùng theo một công thức, lúc đầu cho dầu xola, sau rắc một lớp bột xương có lẫn bột thuỷ tinh, nhưng đạt đến độ cứng, độ sắc của Viđônốp thì ai cũng chịu thua.
- Bác Misa này, tại sao dao cạo của bác cứ như là bôi mỡ lên má, mà dao của chúng tôi thì cào xước cả mặt mày thế này? - một lần Phuát Acmétdianốp hỏi. Anh ta là thợ quai búa của Viđônốp, người Tacta, 20 tuổi, rất khoẻ mạnh, có đôi tay dài quá cỡ.
- Đúng đấy, Viđônốp, bí quyết nằm ở chỗ nào thế? - một số thợ khác đi lại nói thêm.
Bác Misa lấy áo tạp dề phủi mặt đe còn ấm rồi ngồi xuống, cắm chiếc que cời vào lò.
- Tôi nghĩ thế này, các cậu ạ, cái quan trọng là phải để cả tâm hồn vào đấy mới được, - Viđônốp không nói mà lúng búng trong miệng, đưa mắt nhìn mọi người như muốn xem họ có hiểu không - Chứ có người cứ nghĩ là đã làm việc với sắt thì người ta cũng có thể trở thành gang thép mất… - đôi môi mỏng của bác cong lại, làm thành một nụ cười hóm hỉnh.
- Thì chúng tôi cũng cố làm cho mình chứ, - một người thợ rèn tóc hung tên là Brukhanốp lên tiếng. Anh này vốn thích làm thêm những cái cào và lưỡi dao để cạo sàn nhà để bán, - Thử hỏi ai muốn vác cái mặt thế này đi ra đường? – anh ta chỉ những vết dao cắt trên má mình – Tôi cạo bằng dao tôi đấy.
- Cậu nói thế cũng đúng. – đôi môi của Viđônốp lại uốn thành một nụ cười nữa. – đúng thế. Nhưng cố gắng thì cũng có lắm cách. Cậu làm cào, đập đập mấy cái là xong, còn đây cần phải… Nói thế nào để cậu hiểu được nhỉ? Thời gian gần đây cậu làm được mấy cái dao cạo? – Viđônốp nheo mắt hỏi.
- Ba chiếc, bác Misa ạ - Brukhanốp vội đáp – Nhưng có ra gì đâu, chỉ đem mổ gà là tốt.
- Đấy, đấy, vấn đề là ở chỗ ấy. Còn tôi thì mãi vẫn chưa xong một chiếc. Hay như thế này nhé. Hai bà nội trợ, một bà nấu ăn ngon, còn bà kia nấu thì không ai buồn đụng đũa. Tại sao?
- Rõ ràng là bà kia không muốn hay không biết nấu ăn ngon.
- Còn tôi thì nghĩ là do bà ta không để hết tâm hồn vào đó. Không biết tâm hồn là gì, không thấy nó. Nó không phải là muối, là hạt tiêu, nhưng tôi thì tôi lại nghĩ nó chính là muối, là hạt tiêu đấy. Tâm hồn là cái gì đấy rất tế nhị, khó hiểu. Cũng như độ sắc của dao cạo ấy mà. Không thể nhìn mà chỉ cảm thấy thôi…
Trước chiến tranh là thế đấy. Người ta nói với nhau về những việc bình thường, nhỏ nhặt nhất, thế mà lúc ấy họ tưởng không còn gì quan trọng hơn chúng.
Trong tất cả những chuyện ấy, có cái gì trần tục, thông minh, vĩnh cửu. Tất nhiên, con người không thể luôn luôn ở mãi trạng thái căng thẳng được. Và anh ta đã tích luỹ sức dẻo dai chịu đựng ngay từ thời bình. Như một tia chớp, chiến tranh đã ập vào tâm hồn mọi người làm họ lo lắng và buộc họ phải thay đổi cách nhìn đối với bản thân, với người khác, với những việc mình làm. Và người ta đã nhìn thấy trong cuộc sống nhiều cái quan trọng hơn, nghiêm túc hơn những cái mà trước kia họ không nhìn thấy. Chỉ sau giông tố, người ta mới thấy quí một ngày nắng đẹp…
Như nhiều nhân viên khác trong ngành đường sắt, công nhân rèn của xưởng cơ khí Taisét cũng có người vào diện “không thể rút đi được”, nhưng mặt trận vẫn ngày một cần thêm người.
Cả thợ quai búa của Viđônốp là Phuát Ácmétdianốp cũng được gọi ra mặt trận. Cạnh các toa tàu chở những người nhập ngũ là người thân và bạn bè của họ đi tiễn. Phụ nữ thút thít khóc, có lẽ vì theo thói quen thì nhiều hơn - lặng lẽ, bình tĩnh nhưng không khóc to và nức nở như hồi đầu chiến tranh. Đàn ông chỉ khịt khịt mũi, thỉnh thoảng mới dặn những người ra đi:
- Ngoài ấy nên cẩn thận… Chẳng còn bao lâu nữa.
- Nhớ chong chóng cho cái thằng Hítle chầu trời, không thì cái thằng trời tru đất diệt ấy cứ làm trận tuyến thẳng dần ra mãi.
Mẹ Phuát, một bà già đa cảm, dựa vào ngực rộng của con trai không sao nhấc nổi khuôn mặt đẫm nước mắt của mình khỏi đó nữa. Những ngón tay xương xẩu, trắng nhợt của bà lão cứ bám chặt lấy chiếc áo ấm của con trai. Phuát im lặng ngước mắt tìm Viđônốp. “Chẳng nhẽ bác ta không đến?” Có lẽ anh ta là người vui sướng nhất khi nghe lệnh: “Tất cả vào toa!”
- Thôi, tạm biệt mẹ! Mọi việc sẽ êm đẹp mẹ ạ! – Phuát nhấc bổng mẹ lên một cách nhẹ nhàng rồi đặt bà ra xa toa tàu. Vào ngồi trong toa, anh nghe người ta nói chuyện với nhau:
- Cái bác làm cùng với cậu ấy không đến tiễn…
- Lão ta thế đấy, bủn xỉn, không muốn mở ví bao giờ…
Phuát nghe nói thế về Viđônốp, thấy bực bội, khó chịu thay cho bác ta.
Bỗng Phuát nghe có giọng khàn khàn quen thuộc của Viđônốp:
- Này các cậu ơi, Phuát của tôi ở đâu?
- Tôi ở đây, bác Misa ơi! – Phuát thò đầu ra khỏi toa.
- Mình đến chậm một tí, cậu ạ - Viđônốp dúi vào tay anh ta một cái hộp và một cái bọc nhỏ, hổn hển nói - Cậu thông cảm, mình làm cái gì cũng chậm, được cái chắc chắn… Có thể chiến tranh sẽ chữa khỏi cái tật ấy cho mình… Trong hộp là rượu ngâm quả rừng, còn trong bọc là con dao cạo. Chú ý lấy thắt lưng da tốt mà miết! Mặt cậu rậm râu…
Viđônốp bước từng bước ngắn dọc theo đoàn tàu đang tăng dần tốc độ, miệng còn lẩm bẩm một điều gì đấy…
Giamin được cử đến thay Phuát. Sau ngày hôm sau, Xamôrucốp cho gọi người đội trưởng trẻ tuổi lên phòng họp, và vẫn không ngẩng đầu lên khỏi bàn, bác chậm rãi nói:
- Chúng tôi đang suy nghĩ nên chọn ai làm thợ phụ cho Viđônốp, và quyết định chọn cậu…
- Thế còn đội và các bạn?
- Tạm thời, Côlia Xôcôlốp làm đội trưởng, sau sẽ hay… - vẫn bằng giọng đều đều, thủ trưởng cơ khí nói tiếp - Cậu khoẻ, hơn nữa cũng chẳng còn ai. Đi đi, Samiliép, đi lại chỗ Viđônốp đi.
Tất cả đột ngột đến nỗi Giamin chẳng còn biết nói gì. Cậu không sợ công việc mới, nhưng chỉ nghĩ đến việc phải làm với Viđônốp cậu cũng đã thấy lạnh sống lưng rồi.
- Cậu làm gì ở đây? – Viđônốp cau có hỏi khi thấy Giamin lại gần chiếc đe của mình – Đáng lẽ phải làm việc thì cậu lại lang thang thế này. Không ai trị được các cậu…
- Cháu à? … Cháu được cử lại đây quai búa thay Phuát, bác Misa ạ - Giamin đáp
- Nhưng tôi biết làm ăn cái quái gì với cậu? – Viđônốp cáu kỉnh nói - Cậu tưởng đây là vườn trẻ à? Mà cũng chẳng phải là xưởng nguội đâu. Ngoài cái đầu ra, ở đây còn cần sức lực nữa.
Các lò khác bắt đầu làm việc, mặc dù họ cũng có thợ phụ quai búa là thiếu niên, còn Viđônốp vẫn chưa thôi càu nhàu văng tục chửi Hitle.
… Giamin không thể diễn tả bằng lời cái cảm giác khi cậu vào phân xưởng rèn.
Tiếng búa gõ liên tục, lanh lảnh của người thợ cả như đánh thức anh thợ phụ, đưa anh ta vào nhịp điệu công việc, ra hiệu cho anh ta khi nào thì phải thả sức quai búa thật mạnh, hay khẽ đập và rồi khi nào thì đập nghiêng, vừa đập vừa giữ, hay đập búa thật phẳng. Khi thợ cả gõ một tiếng giòn, vui tai là lúc thợ phụ phải chuẩn bị sức quai búa thật lực. Thanh sắt còn nằm trong lò nhưng anh ta đã hình dung trước cả quá trình công việc phải làm. Bây giờ thợ cả lôi từ lò ra như lôi từ miệng một núi lửa nhỏ thanh sắt rắc các bọt như bọt tuyết màu đỏ rồi đập khẽ xuống đe. Bụi tuyết đỏ bay tung khắp nơi, bắn cả vào mắt. Trong giây lát, mắt loá cảm thấy tối đi. Nhưng ngay lúc đó, người thợ quai búa đã hạ búa xuống đe, cẩn thận như hạ xuống mặt kính, và rồi tiếng đập vang lên khắp phân xưởng như tiếng một chiếc hạc cầm sai dây. Tiếng búa con của thợ cả phụ theo, như muốn yêu cầu anh ta giữ đúng nhịp của mình. Sau mỗi lần đập, từ dưới mặt búa tạ lại vang lên những tiếng, lúc đầu nghe nặng nề, sau thanh hơn, gần giống tiếng búa con của thợ cả.
Miếng kim loại vặn vẹo dưới sức nặng của búa, đỏ bừng vì giận dữ, ùn lên mặt những vẩy nhỏ màu xanh đen. Sau đó, thợ cả nhúng các chi tiết đã hoàn thành vào một chiếc thùng đựng nước, nó kêu xèo xèo, sủi bọt rồi nằm im. Ngón tay người thợ quai búa luôn căng thẳng, vất vả bám chặt vào cán búa. Khuôn mặt mệt mỏi, mồ hôi nhễ nhại của thợ cả để lộ vẻ hài lòng. Lửa trong lò đã ngả sang màu hồng nhạt như màu hoàng hôn. Thợ cả nhanh nhẹn quấn một điếu thuốc, châm lửa rồi cắm vào miệng thợ quai búa. Anh này rít một hơi thật sâu, đưa những ngón tay run run đỡ lấy nó… Lần nào cũng thế…
- Có biết quai búa tạ không? - cuối cùng Viđônốp hỏi - Phải cho thêm tí nước vào lò. Nhiệt độ tăng, lửa tập trung hơn, nhiều ôxy hơn, lại đỡ tốn than. Tiết kiệm hơn. Ở nhà chắc cháu cũng tiết kiệm củi chứ?
- Cháu biết rồi, bác Misa ạ. Mấy anh thợ quai búa vẫn hay kể chuyện với cháu, - Giamin vội đáp
- Thôi được, để xem sao. Nhưng với cậu, chiếc búa này cán hơi dài đấy. Phải thay cán khác mới được. - vừa cho những chiếc đinh ray vào lò, Viđônốp vừa nói.
- Không sao bác ạ, cháu dùng cũng được.
- Thế à, nghĩa là cũng đã lớn, phải không?
Viđônốp từ từ lôi từ lò ra một chiếc đinh đã ngả màu sáng trắng, nóng bừng như trong nhà tắm ra, rồi vứt lên mặt đe.
- Nào, bắt đầu! – Viđônốp thét lên và lập tức bác ta trở nên sôi nổi, linh lợi, người thẳng ra, giọng trẻ lại, vẻ mặt ảm đạm biến mất trong đôi mắt đang toả sáng. Giamin hăng hái quai búa tạ xuống chiếc đinh đang bắn các tia lửa như nện xuống kẻ tử thù của mình
- Đập gì mà như muốn phá búa thế? Khẽ thôi, - Viđônốp nói qua kẽ răng rồi đặt nghiêng trên đe chiếc đinh bây giờ có hình lưỡi chó. Giamin không nghe bác nói. Chiếc búa tạ giáng mạnh xuống mép mỏng của chiếc đinh nhưng không trúng, đập mạnh vào mặt đe.. làm thành một tiếng chói tai, đắc thắng nổi hẳn lên trong tiếng ồn ào chung của toàn phân xưởng. Chiếc búa tạ gặp mặt đe bóng loáng, bật trở lại như một chiếc lò xo…
Viđônốp và những người thợ rèn khác chạy tới đứng quanh Giamin đang nằm sõng xoài trên mặt đất.
- Thế này thì chẳng mấy chốc về chầu ông tổ…
- Kìa, sao xúm lại cả đây thế này? Cho cậu ấy thở nữa với chứ? – Viđônốp nói một cách vụng về nhưng đầy vẻ sốt sắng. Bác ta lại trở nên già nua và còng lưng như cũ.
Giamin hé mắt, ngạc nhiên nhìn những người công nhân đứng quanh mình. Cậu định mỉm cười, nhưng trong đầu ù ù, rồi lại nhắm mắt. Tiếng ù ù biến mất, cậu nghe rõ tiếng Viđônốp đang nói:
- Có lẽ ổn cả, nằm chốc nữa sẽ khỏi…
Cách một ngày sau, Viđônốp đến thăm người thợ phụ của mình. Hồi lâu bác đứng ở phòng ngoài cẩn thận phủi tuyết khỏi đôi ủng. Bác vào nhà sau khi thím Samsura hé cửa, nói:
- Ai đấy? Mời vào!
Viđônốp vội nói ngay với vẻ của một người có lỗi:
- Rất tiếc là chuyện đã xảy ra như thế…
- Mời vào, mời vào… Công việc thì bao giờ chẳng vậy. Nó còn trẻ, dần sẽ khôn lên. Mời bác vào trong này.
Giamin nằm trên chiếc giường gỗ, trên chăn có đắp thêm một chiếc áo ấm. Thấy thợ cả của mình đến, cậu định nhỏm dậy.
- Nằm yên, nằm yên, bác đến một chốc thôi. Thế nào, không sao chứ? – Viđônốp nói, tay vò nhàu chiếc mũ bịt tai
- Đầu cháu váng lắm… Nhỏm dậy một chút là tất cả quay tròn hết. Mời bác ngồi xuống, bác Misa – Giamin chỉ tay vào chiếc ghế.
- Bác cũng đã từng bị thế này. Phải nằm yên một thời gian…
Cả hai đều im lặng, Viđônốp quay chiếc cổ gầy gò, nổi gân xanh, nhìn các bức ảnh trên tường.
- Bác vội à, bác Misa?
- Không, vội gì đâu. Bác mang cho cháu cái này đây, - Viđônốp cho tay vào ngực, rút ra một chiếc hộp dao cạo tự làm – Cái này thì tha hồ dùng suốt đời. Bác rèn nó từ khi còn làm việc với thầy của bác là Curơghin. Bác có ba cái tất cả. Hai cái đã cho những người nhập ngũ… Chiến tranh thì chiến tranh nhưng chiến sĩ mà râu ria xồm xoàm kể cũng khó coi…
- Ôi, bác Misa, không… - Giamin ngắm con dao, nói - Một con dao quí thế này…
Mẹ Giamin đi lại:
- Bác cho cháu làm gì? – bà ngạc nhiên. Cháu đã có râu đâu mà dao với kéo. Hơn nữa, quí thế này. Mà bác cũng cần có cái mà dùng chứ.
Viđônốp đỏ mặt, thậm chí đôi má lâu nay ám khói và lửa lò rèn cũng ửng đỏ, nhưng rồi mặt bác trở lại ảm đạm ngay.
- Cầm lấy, Giamin, cầm lấy! Chúng ta sẽ làm cái khác cho những người nhập ngũ, để họ cạo râu mà nhớ đến chúng ta! - Rồi bác sôi nổi nói tiếp – Cháu biết không, người ta định để thằng Phêdia thay cháu. Cái thằng mặt đầy tàn nhang ấy mà. So với cháu thì hắn chẳng đáng một xu. Bác bảo đốc công thế này: “Không, nhất định không! Tôi phải làm việc giúp mặt trận mà anh định giao cho tôi một thợ phụ như thế này à? Rồi búa tạ cũng làm nó gãy cột sống mà chết thôi. Không, tôi sẽ giữ nguyên Giamin, cương quyết không cho ai thay cả!...”
- Cảm ơn bác, bác Misa, - Giamin định nhỏm dậy – Cháu sẽ cố gắng và làm việc không kém Phuát đâu… Cháu sắp khỏi rồi…
- Này, này… - Viđônốp bảo cậu – Nằm nghỉ đã…
Viđônốp ra về cũng bất ngờ như khi đến. Thím Samsura lặng lẽ nhìn theo ông khách và lắc đầu.
- Hoá ra thế đấy, con ạ. Mẹ biết bác ta hơn chục năm nay. Ai cũng bảo là người không chan hoà, cáu kỉnh, bủn xỉn… Và chính mẹ, của đáng tội, cũng vẫn cho là thế. Ấy vậy mà thực tế bác ta là một người hoàn toàn khác. Con tiếp xúc với một người tốt, dù người ấy suốt ngày chỉ tiếp xúc với gang, với sắt.