Ánh nắng rắc lên người Dương Lăng, sắc mặt của y vẫn điềm đạm nhưng trong lòng lại hơi hiu quạnh. Y khẽ cụp đôi mi không nhìn thẳng vào lão, chỉ khẽ đáp lại:
- Độ hết chúng sinh, mới chứng cõi Phật. Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật. Thiên đường, không đi cũng được! Lưu đại nhân, dụng tâm sâu xa của bản quan, thật sự khó lòng bộc bạch trước mặt đại nhân... Ôi! Đại nhân đi đường bảo trọng.
Dương Lăng chậm rãi chắp tay vái thật sâu, thật lâu sau mới thẳng lưng lại. Trước mặt y trống trơn, chung quanh bá quan thinh lặng, Lưu Đại Hạ đã giũ áo bỏ đi.
Ý chỉ Hoàng hậu trừng phạt hai vị công chúa vừa được truyền khắp hậu cung, đám công chúa, phi tần, thái giám và cung nữ trông thấy lầu gác trong cung điện của công chúa Vĩnh Thuần và Vĩnh Phúc đèn đóm ảm đạm, có kẻ lắc đầu thở dài, có kẻ hả hê vui sướng. Nhưng chẳng mấy chốc, một ý chỉ khác của Hoàng thượng lại được truyền tới, phủ công chúa lại rực rỡ sáng trưng, mọi chi tiêu bị cắt giảm và thị tì bị rút đi đều được trả lại, còn đại tổng quản La Tường của phủ Nội vụ thì bị người của thống lĩnh thân quân Hoàng đế là Dương Lăng bắt đi, cách chức để điều tra.
Không ai nghĩ ra được Dương Lăng đã dùng cách nào mà phản kích nhanh như vậy. Nhưng khắp trên dưới hậu cung đều biết rằng hai vị công chúa và Uy Vũ hầu gia của ngoại đình qua lại thân mật, mà Uy Vũ hầu gia là tâm phúc số một của Hoàng thượng. Vì vậy trong trận đấu này, Hoàng hậu đã thua.
Sai người tức tốc vào cung truyền chỉ xong, Chính Đức vẫn chưa nén được giận, hắn căm hận mắng tiếp:
- Đồ khốn kiếp! Ngự muội của trẫm muốn dùng mấy ngọn nến đều phải đếm lên đếm xuống, vậy mà mấy vạn lượng bạc hắn nói tham ô là cứ tham ô, uổng cho trẫm luôn coi hắn là người tốt.
Dương Lăng vội khuyên nhủ:
- Hoàng thượng! Ngài cũng không cần phải quá tức giận. Hai vị công chúa bị nhốt trong cung nhiều năm, nỗi buồn khổ ấy Hoàng thượng ngài là người hiểu rõ nhất. Hoàng thượng thương cảm công chúa, dẫn các ngài ra ngoài giải khuây vốn là có ý tốt, cũng do thần không để ý đến những lễ nghi rườm rà dẫn đến việc vi phạm luật lệ trong cung...
Chính Đức vẫn chưa hết giận, khoát tay bảo:
- Chuyện này không can hệ gì tới khanh, chính là Hoàng hậu muốn làm trẫm bị mất mặt thôi. Cũng tốt, không làm vậy thì trẫm đã không nhìn thấy được lòng muông dạ thú của La Tường!
Dương Lăng thừa dịp vội thưa:
- Hoàng thượng! Hoàng hậu nương nương mới vừa hạ ý chỉ liền bị bác bỏ như vậy, mặt mũi nhất định sẽ rất khó coi. Nương nương là bậc mẫu nghi thiên hạ, là chủ nhân của sáu cung nên cũng không thể khiến Hoàng hậu nương nương bị khó xử được. Lúc thần cung thỉnh hai vị công chúa, vì ngại Hoàng thượng phải đợi lâu, đằng trước cổng cung lại đông mệnh phụ, trong lúc lo vội nên thần đã sơ sót chưa kịp xin phép nương nương, chung quy vẫn là lỗi ở thần.
Vả lại, mấy ngày nay tấu chương tố cáo thần cũng không ít, hai vị đại nhân Lưu Đại Hạ và Mã Văn Thăng bị mất chức, số người bất mãn trong quần thần nhất định rất nhiều. Chi bằng Hoàng thượng hạ chỉ trách phạt vi thần, một là giữ được thể diện cho nương nương, hai là có thể dẹp yên cơn giận của quần thần một chút, ba...
Chính Đức vừa nghe liền nổi ngạo khí, trợn mắt bảo:
- Đâu lại có lý lẽ như vậy! Trẫm đưa ngự muội ra ngoài du ngoạn, cô ta làm khó trẫm mà trẫm lại phải cẩn thận bồi thường ư? Phạt cái gì mà phạt?! Trẫm sẽ không phạt, ngược lại trẫm muốn xem coi ai dám động vào khanh!
Dương Lăng vội khuyên:
- Hoàng thượng, ngài đã quên rồi sao? Đợi khi tổng binh tứ trấn dẫn quân vào kinh, thần còn phải theo hoàng thượng diễn võ luyện binh nữa đó! Hoàng thượng tín nhiệm vi thần, giao phó cho thần rất nhiều chức vụ, nhưng như vậy một khi công việc bộn bề khó tránh sẽ xuất hiện sai lầm, vậy chẳng phải sẽ phụ lòng tín nhiệm của Hoàng thượng, khiến người ngoài nhìn thấy mà chê cười sao? Ý của thần là... giao ti Thuế Giám ra, để Bộ Hộ và ti Lễ Giám cùng cai quản, điều thứ ba đó... là để thần mới có thể theo Hoàng thượng luyện binh, phò tá Hoàng thượng hoàn thành bá nghiệp chứ.
Nghe y nói xong, Chính Đức chuyển giận thành mừng, bảo:
- Nói đúng lắm! Ta thực quên mất. Nếu để Dương khanh bận tâm đủ chuyện thì sẽ không có thời gian giúp trẫm luyện binh. Nhưng mà... ti Thuế Giám vốn thuộc sự quản hạt của ti Lễ Giám, trước đây vì lão thất phu Vương Nhạc lừa trên gạt dưới, trẫm không yên tâm mới chuyển giao cho khanh, nay cớ gì cần có Bộ Hộ nhúng tay vào, chẳng lẽ Lưu Cẩn cũng không đáng tin sao? Ái khanh có điều không biết, mỗi lần trẫm đòi tiền ở chỗ Hàn Văn, lão ấy lúc nào cũng than nghèo tố khổ với trẫm, trẫm thật không muốn để ý tới lão ấy.
Lúc này vẫn chưa phải là thời cơ để lật đổ Lưu Cẩn, từ chuyện Chính Đức xử lý Cốc Đại Dụng là có thể thấy ngay. Mối họa mà Cốc Đại Dụng gây nên còn lớn gấp mười lần La Tường mà chẳng phải tiểu hoàng thượng còn muốn che chở lão ta sao? Vị hoàng đế này trọng tình hơn là trọng lý, trừ khi anh làm tổn thương đến người thân thiết và tin cậy nhất của hắn, phản bội sự tín nhiệm của hắn, bằng không với tính tình của hắn, cho dù anh có phạm phải tội lỗi tày trời hắn cũng sẽ gánh vác thay cho anh.
Biết rõ điểm này, Dương Lăng bèn nghiêm mặt đáp:
- Thần không dám cam đoan cho mai sau, nhưng có thể khẳng định rằng hiện tại Lưu công công hết dạ trung thành làm việc cho Hoàng thượng. Thần có gì mà không tin ông ấy chứ? Thần làm vậy là để đôi bên cân bằng và kềm chế lẫn nhau, phòng tai họa mai sau thôi.
Cái gốc của việc trị nước nằm ở chỗ pháp luật công bằng, chế độ nghiêm minh, chính sách rõ ràng, cân bằng chu đáo. Thần hi vọng Hoàng thượng làm vậy, không phải là vì Lưu công công không đáng tin, mà do cần tính toán cho lâu dài mai sau mà hình thành chế độ kềm chế nhau. Như vậy mai sau sẽ không xảy ra chuyện lỡ việc do người, cũng không sợ có kẻ dối gạt Hoàng thượng, lại xuất hiện những kẻ như La Tường vậy.
Rồi y mỉm cười nói tiếp:
- Cứ lấy thần ra làm ví dụ, Hoàng thượng ăn thịt, thần cũng muốn húp được chút canh. Chúng thần phò tá Hoàng thượng đến lúc đầu bạc chân run, có con, có cả cháu rồi, không chừng cũng sẽ nảy lòng tham, không chừng cũng sẽ ăn chặn tiền bạc của Hoàng thượng, xà xẻo trên người Hoàng thượng. Nhưng nếu như có một đám người cứ nhìn thần trừng trừng, lúc nào cũng chuẩn bị tố cáo với Hoàng thượng thì thần làm sao còn dám làm bậy chứ?
Chính Đức bị y chọc cười, cười nói:
- Đừng làm ra vẻ đáng thương với trẫm, con của khanh cũng là con nuôi của trẫm đó, còn lo nó sẽ chịu uất ức hay sao? Ừm... Có điều khanh nói vậy cũng có lý, Bộ Hộ của ngoại đình và ti Lễ Giám của nội đình giám sát lẫn nhau, thuế khoá của thiên hạ sẽ không chảy vào túi của riêng ai, sau này có giao công việc này cho người khác, khi trao lại giang sơn này cho con cháu cũng sẽ không sợ có kẻ thủ lợi từ trong ấy. Cứ làm như vậy đi, ngày mai giao cho nội các thương nghị, xem thử quyền bính này phân chia như thế nào. Có điều...
Chính Đức áy náy nhìn Dương Lăng, rồi vỗ vai y an ủi:
- Có điều ái khanh chịu tội thay trẫm. Ôi! Thật uất ức cho khanh rồi.
*****
Dương Lăng và Tiêu Phương ngồi cùng xe ngựa đi đến Ngọ môn.
Sắc trời chưa sáng, xuân lạnh se sắt. Chiếc xe được chăm sóc cực tốt, trục xe chỉ hơi phát ra tiếng cút kít, đi trên con đường rộng lớn và bằng phẳng của kinh sư không hề bị xóc nảy.
Tiêu Phương vận chiếc quan bào màu đỏ thắm, ngồi trên chiếc đệm lót mềm, vân vê chòm râu:
- Đại nhân! Hôm qua môn hạ cũng không được ngủ ngon, tuy rằng rất nhiều việc hiện vẫn đang trong giai đoạn bàn bạc, nhưng có quá nhiều việc cần làm, tỉ như việc giao dịch thông thương cùng Đoá Nhan Tam Vệ, nuôi ngựa, tiếp đãi sứ giả Nhật Bản, chọn người thương nghị cùng sứ giả. Ngoài ra, những việc như vạch kế hoạch thành lập thủy quân, ti Thị bạc và hải quan, chọn người phụ trách cùng với những việc như thiết lập nha môn, xây dựng xưởng thuyền, vân vân..., đại nhân giao gửi xuống, môn hạ chỉ lo chỗ nào đó có sơ suất, cho nên không dám qua loa chút nào.
Dương Lăng đã thấy vẻ mệt mỏi trên mặt lão, trong mắt lão cũng đã hơi đo đỏ do thiếu ngủ, nghe xong bèn khuyên nhủ:
- Các lão phải biết bắt lớn thả nhỏ, lấy nặng bỏ nhẹ. Ôm đồm tất cả mọi việc là bầy tôi hiền, nhưng tuyệt không phải là bầy tôi tài giỏi. Nếu muốn thúc đẩy chính sách này của chúng ta, để quan viên địa phương đừng đi lạc hướng, thì phải dựa vào một đám quan viên đáng tin cậy.
Dương Lăng khẽ liếc Tiêu Phương, mỉm cười nói:
- Nghiêm Tung có chính tích xuất sắc, sớm nên được thăng chuyển. Lần này dâng sớ lập thêm công to, nhưng Các lão lại vẫn không trọng dụng hắn. Ha ha... phải chăng bởi hắn là người Giang Tây?
Tay Tiêu Phương chợt cứng đờ, khuôn mặt già nua đỏ lên, lão ấp úng:
- Đại nhân, môn hạ...
Dương Lăng vỗ nhẹ lên tay lão, khuyên giải:
- Bản quan cũng có nghe chuyện hoạn lộ của Các lão ba chìm bảy nổi, uất ức lâu năm. Phương nam vốn đông tài tử, kẻ làm quan cũng rất nhiều, đúng lúc gặp phải mấy đại thần đố kị kẻ hiền tài, thích chọn dùng người đồng hương, cũng khó trách Các lão căm phẫn. Nhưng Các lão đã trải nghiệm sâu sắc sự việc tai hại ấy, cớ gì hôm nay quyền cao chức trọng lại cũng làm giống những kẻ mà mình khinh thường và căm hận năm xưa?
Đoạn y mỉm cười nói tiếp:
- Các lão là tể tướng đương triều, thì nên mang lòng dạ của tể tướng. Nay chính là lúc dùng người, đừng nói Nghiêm Tung là người của chúng ta, cho dù không phải đi chăng nữa, chỉ cần hắn hết lòng vì nước, một lòng vì dân, nghiêm túc chấp hành nghiệp lớn của chúng ta, thì Các lão cũng nên trọng dụng hắn.
Y dừng lại, thoáng trầm ngâm, rồi nói tiếp:
- Theo ý bản quan, việc xây dựng xưởng thuyền và thủy quân có thể mạnh dạn giao cho bộ Công, bộ Binh và ti Nam trấn phủ phụ trách, chỉ cần chọn lấy một người đáng tin cậy làm thượng thư bộ Binh. Còn việc chọn chỗ, dùng người, thiết lập nha môn quan lại, đặt ra điều lệ quy định này nọ, Các lão hoàn toàn có thể buông tay, chỉ cần nắm lấy đại cục là được, bằng không sẽ tự khiến mình mệt đến thổ huyết thôi. Cho dù là kế hoạch được vạch ra cẩn thận đến đâu, nếu không có quan lại tài giỏi thúc đẩy thì cũng khó mà làm đến nơi đến chốn.
Y tự tin mười phần:
- Xưởng thuyền Tùng Hoa Giang liền kề rừng rậm nguyên sinh, xưởng thuyền Kim Lăng đã trồng nghìn mẫu cây to hơn trăm tuổi, hai nơi ấy đều có thể sử dụng vật liệu tại chỗ. Còn khung thuyền cỡ lớn cho xưởng thuyền Tuyền Châu có thể sẽ cần phải vận chuyển từ phương bắc về. Những việc này cứ giao cho bộ Công đi làm, Các lão cũng không cần lo lắng.
Dương Lăng có thể định liệu trước như vậy là vì y đã xem qua bản đồ hàng hải của Trịnh Hoà mà Lưu Đại Bổng Chùy lục được từ kho vũ khí của bộ Binh.
Ban đầu y tưởng rằng bản đồ hàng hải của Trịnh Hoà chỉ là mấy tấm giấy ghi lại những tuyến đường biển đi đến Tây Dương mà thôi, nào ngờ tài liệu mà Lưu Đại Bổng Chùy tìm được từ bộ Binh lại chứa đầy trong chín rương to. Sau khi xem xong tư liệu trong mấy cái rương đó, Dương Lăng mới biết rằng Lưu Đại Bổng Chùy đã đào được một núi vàng đem về.
Ban đầu y đã suy nghĩ quá đơn giản về việc xây dựng thủy quân, hơn nữa còn hăng hái một cách hồ đồ. Nếu không nhìn thấy những tài liệu này, không hiểu biết được về kết cấu công năng của từng chiến hạm và chiến đội phối hợp, thì có thể thấy trước được rằng cái gọi là thủy quân của y một khi tạo thành sẽ phải đổ biết bao xương máu và thậm chí là có nguy cơ dẫn đến toàn quân bị diệt mới có thể trưởng thành và hoàn thiện.
Trong chín cái rương đó, ngoại trừ bản đồ những tuyến đường hàng hải, tài liệu trân quý về điều kiện tập quán, chính trị và khu vực của các quốc gia dọc đường, còn có cách chế tạo các loại bảo thuyền (*), thuyền đô đốc, thuyền chở ngựa, thuyền chở lương thực, chiến thuyền, thuyền canh gác, thuyền truyền lệnh cho cả một hạm đội tàu chiến khổng lồ có các công năng chỉ huy, chiến đấu, cấp dưỡng lẫn vận chuyển. Ngoài ra còn có các bản vẽ chi tiết cho các loại khí giới cho thủy chiến và lục chiến, cùng với các kiều phối hợp bộ đội tác chiến và phương thức liên lạc thông tin ban ngày lẫn ban đêm khi tác chiến trên biển.
(*):宝船 [bǎo chuán]: loại thuyền buồm lớn nhất trong hạm đội vượt biển của Trịnh Hòa.
Hiện tại không những Đại Minh không có nhân tài toàn năng để có thể chế tạo một hạm đội tàu chiến đủ các loại công năng, và cũng không có một tướng lĩnh thủy quân hiểu rành mạch toàn bộ các loại tàu chiến mà hạm đội cần để ra khơi tác chiến. Song thông qua những bản vẽ về các loại tổ chức hạm đội và trang bị, một tướng lĩnh chỉ huy có kinh nghiệm sẽ có thể dễ dàng đoán ra tác dụng của chúng, và có thể mau chóng nắm bắt kinh nghiệm tác chiến ngoài khơi đã được tích lũy một cách phong phú. Nếu như hết thảy những thứ này phải bắt đầu từ con số không tròn trĩnh, phải học từ đầu, thì phải bỏ ra biết bao xương máu mới có thể tích lũy được những kinh nghiệm và tri thức như thế này?
Thế nên Dương Lăng thực vui mừng quá đỗi. Trong những tài liệu này thật sự có quá nhiều những kỹ thuật mà chỉ cần thay đổi một chút là có thể sử dụng được. Vốn dĩ y đã đánh giá thấp tính phức tạp trong việc xây dựng thủy quân. Sau khi xem xong kỹ lưỡng những tài liệu này y mới biết rằng nếu không có những tấm bản vẽ, sơ đồ hàng hải này, thì việc chế tạo từ đầu một đội thủy quân có thể ra khơi tác chiến và huấn luyện những nhân viên thích hợp sao cho kỹ thuật, thông tin và chỉ huy hàng hải cùng với việc tạo đội hình chiến thuật đạt tới mức độ khoa học sẽ phải cần tới ít nhất cả chục năm mò mẫm mới có thể hoàn thiện.
Điều mà y không biết là, vào trăm năm trước những kỹ thuật này đã đi trước thế giới bảy tám mươi năm, cho dù hiện tại đem ra sử dụng y nguyên, tuy không dám nói là tiên tiến hơn, nhưng quyết không lạc hậu hơn so với thế giới. Có được những tấm bản đồ bị "đánh mất" này sẽ tiết kiệm được cho Đại Minh ít nhất mấy nghìn vạn lạng bạc trắng. Hiện Dương Lăng đang tập trung bộ Công, cục Quân Khí cũng như một số nhân viên Nội xưởng tham gia vào việc sửa sang, phân loại sổ sách đồng thời sao chép lại từ đầu.
Nhờ có những tài liệu đầy đủ và chi tiết này, Dương Lăng mới tự tin nói chuyện với Tiêu Phương như vậy.
Y suy nghĩ một chút, rồi nói:
- Các lão nên nhớ kỹ rằng, ngài chỉ cần nắm chắc ba chuyện, hơn nữa tuyệt đối không được buông tay: một là nhân sự cho thủy quân, ti Thị Bạc, ti Thuế Giám, hải quan, và nha môn buôn bán; nhất thiết phải có người chúng ta tin tưởng được, dùng được và đứng vững được!
Hai là về ti Thuế Giám. Trách nhiệm thiết lập quy định thuế khoá, luật về thuế, các loại thuế, giám sát thu thuế nhất định phải giao cho bộ Hộ, còn việc thu thuế và nộp thuế thì giao cho ti Lễ Giám; việc xử lí tố tụng trong giao dịch, hàng hải và thu thuế thì giao cho bộ Hình. Ba bộ phận này sẽ kiềm chế lẫn nhau, quyền hạn cân bằng.
Thứ ba, đối với thuế giao dịch. Có thể áp theo hạn ngạch giao dịch, số lượng giao dịch và sản phẩm đặc thù của từng vùng hoặc có quan hệ đến quốc kế dân sinh mà phân định ra một phần do quan phủ nơi đó trưng thu sử dụng trực tiếp mà không cần phải nộp lên triều đình rồi mới phân phát trở lại. Một là tránh khỏi sự phiền phức trong việc thu nạp và vận chuyển; hai là có thể đạt được sự ủng hộ và yêu thích của quan viên vùng ấy, để bọn họ tận sức mà làm, tránh cho quan phủ địa phương bằng mặt mà không bằng lòng; ba là thông qua việc chia tách trưng thu thuế khoá cho các loại hàng hoá khác nhau mà dẫn lối cho quan phủ địa phương phát triển hàng hoá sản phẩm tương ứng, do đó việc thực thi chính sách tại nơi ấy đều sẽ phát sinh ảnh hưởng tương đối.
Làm được việc này, sẽ nắm được toàn cuộc, nắm được bánh lái con thuyền. Nắm được bánh lái con thuyền, thì mặc sóng to gió lớn, thuyền cũng sẽ khó mà chệch hướng.
Tiêu Phương nghe mà tinh thần chấn động, trong lòng rất đỗi ngạc nhiên. Có lúc vị Dương đại nhân này trên quan trường hết sức ấu trĩ, có những cạm bẫy mà chỉ cần lăn lộn trên quan trường vài năm liền thấy được lợi-hại, thiệt-hơn, thậm chí có thể nhận thấy bẫy rập rất rõ ràng, song vị đại nhân này lại hết sức ngây thơ; nếu không nhờ Hoàng thượng không bớt tin yêu, thì y sớm đã bị người ta hại đến ngóc đầu lên không nổi. Nhưng có lúc chính kiến, tính toán mà y thuận miệng nói ra lại có tầm nhìn rất xa, nói trúng trọng tâm, chú ý đến rất nhiều khía cạnh, suy xét tỉ mỉ không chút sơ hở, ngay cả bầy tôi lâu năm như lão cũng tự thẹn không bằng.
Tiêu Phương liên tục gật đầu khen phải. Không lâu sau xe đến ngự đạo, Dương Lăng xuống kiệu, cưỡi ngựa rồi cùng đi đến trước cổng Ngọ môn. Trước cổng Ngọ môn đã có không ít quan viên đang đứng tụm ba tụm bảy nói chuyện trên trời dưới đất trong lúc chờ vào chầu.
Trời vừa tờ mờ sáng, không biết ai nhanh nhẩu thạo tin đã nghe nói đêm qua trong cung Hoàng hậu nương nương vì rung cây nhát khỉ, sai khiến La Tường trong nhóm Bát hổ chế tài hai vị công chúa, Dương Lăng phản kích lột bỏ chức vụ của La Tường, nhưng bản thân cũng không ngăn nổi nội đình và ngoại đình đồng thanh chỉ trích, bất đắc dĩ đành giao trả đại quyền khống chế thuế khoá của thiên hạ.
Tin tức lập tức được rất nhiều quan viên nhanh chóng truyền bá ra ngoài. Việc này khiến cho đám quan viên đang ủ rũ bởi hai vị thượng thư bị miễn chức cũng như quốc sách mở biển thông thương được thi hành đã trở nên phấn khởi, cực kì sảng khoái trong lòng.
Thế nhưng ngay cả nguyên lão bốn đời như Lưu Đại Hạ và Mã Văn Thăng cũng đều bị bãi quan miễn chức cho nên bọn họ ít nhiều cũng kiêng kị, trông thấy Dương Lăng cưỡi ngựa tới, Tiêu Các lão cũng từ trong kiệu bước ra, bọn họ bất giác thu lại vẻ tươi cười, âm thanh trò chuyện cũng nhỏ đi.
Hôm nay Dương Lăng vào triều là để đi cùng Thượng thư Vương Hoa của bộ Lễ ra ngoài thành nghênh tiếp sứ thần quốc vương Nhật Bản, cho nên y cũng đến rất sớm. Dương Lăng phát hiện ra rằng quan viên sĩ tử Đại Minh đều có một tâm lý hết sức lạ lùng, một mặt bọn họ tự cho mình là thiên triều thượng quốc, bốn rợ (gọi chung Nhung Di Man Địch - ND) đều là dân tộc biên hoang, nhỏ bé và thấp hèn trước mặt thiên triều, như thể vốn không đáng để được xem trọng, thế nhưng bọn họ lại đối đãi phiên bang đến triều cống hết sức lễ phép: bất kể là chỗ ở, ăn uống, hay lễ vật biếu tặng đều gấp mười lần số triều cống, nhằm biểu thị sự giàu sang sung túc và đại nghĩa của thiên triều.
Bọn họ thà chịu vì chuyện sứ giả phiên bang nên quỳ hai gối hay một gối mà tranh luận đến đỏ mặt tía tai, quyết không nhượng bộ, nhưng lại ngại không muốn so đo với những yêu sách của sứ giả đòi tăng quà biếu lên đến mấy lần.
Khi lật xem tiền lệ tiếp đãi sứ giả các nước An Nam, Lưu Cầu và Cao Ly và thấy thái độ ngoại giao của những nước này đối với Đại Minh "thực dụng" như vậy, Dương Lăng thật sự nghĩ nát óc cũng không biết bọn họ đã suy nghĩ như thế nào, bèn vịn cớ rằng do sau này dân chúng được tự do buôn bán giữa các nước, phái đoàn sứ giả mai kia đến viếng ắt hẳn là vì mục đích mậu dịch thương mại. Nếu đã không phải là kỳ hẹn triều cống do Đại Minh quy định, nhân số sứ giả không theo quy định triều cống, vậy hết thảy không thể lấy lễ quốc khách mà tiếp đãi.
Vương Hoa cũng không phải là kẻ ngu dốt hủ lậu, cũng biết rằng một khi Dương Lăng trình kiến nghị lên ắt sẽ được Hoàng thượng chấp thuận, bèn sảng khoái đồng ý. Có điều vì để có chứng cứ khi tra xét, lão vẫn lấy danh nghĩa bộ Lễ dâng sớ lên cho Hoàng thượng.
Đến trước cổng cung, trông thấy Vương Hoa đang đứng ở một góc trò chuyện cùng mấy vị đại thần, Dương Lăng vừa định bước sang chợt thấy tình hình bỗng dưng khác thường. Quan viên đứng rải rác khắp nơi đều cảm nhận thấy không khí chợt nhiên yên tĩnh lại, ánh mắt đồng loạt hướng về một phía.
Dương Lăng chăm chú nhìn theo. Y thấy một lão già áo vải tóc bạc, thân thể cường tráng hiên ngang bước về phía Ngọ Môn.
Trong đám quan viên đang đứng bên cạnh to nhỏ thì thầm có người khẽ thốt:
- Là Thượng thư bộ Binh Lưu đại nhân.
- Ông ấy vẫn chưa rời kinh ư? Chẳng phải nghe nói Hoàng thượng hạ chiếu rất nhanh, bộ Lễ đã đặt lệnh ban ơn, hôm qua đã sai sở Dịch thừa đưa về quê nhà rồi sao?
- Xì! Biết ngay là ông không đi đưa tiễn rồi. Đó là Mã đại nhân. Mã đại nhân tuổi đã bát tuần, vốn không được khỏe, mấy ngày nay phiền muộn mà sinh bệnh. Nghe nói lúc đến trường đình nghỉ chân cũng không xuống xe, chỉ trò chuyện với mấy người bạn tri giao vài câu qua rèm rồi giũ áo đi luôn. Than ôi, thượng thư đứng đầu lục bộ đó, chậc chậc chậc!
- Cũng phải, với phẩm trật và chức hàm này của tôi, hơn nữa lại không phải là quan viên do Mã đại nhân đề bạt, tôi đi làm gì, có đi người ta cũng sẽ chẳng thèm để ý tới tôi. Ôi! Nói vậy ông có đi à?
- Tôi...., suỵt! Lưu đại nhân tới rồi, đừng ồn ào, có trò hay xem đây! Không chừng lão đại nhân sẽ cùng Dương đại nhân... hừm hừm...
Quần thần rầm rì bàn tán.
Dương Lăng chăm chú nhìn Lưu Đại Hạ. Ông lão này vận áo vải, chân mang đôi giày mũi tròn đế vải, râu tóc bạc trắng, mặc cho hai bên có không ít đồng liêu hảo hữu gật đầu chào hỏi, ân cần hỏi thăm, lão vẫn chăm chăm nhìn thẳng, không nói lời nào.
Lão rảo bước tới trước cổng cung, nheo mắt ngẩng đầu nhìn lên, cung điện nguy nga, tường cung lầu điện nối nhau san sát, một tia nắng sớm vén mây hiện ra, rọi lên bức tường và nóc cổng cung điện màu đỏ ở phía trước. Ngói lưu ly vàng, bình phong và đầu thú bằng đồng lấp lánh ánh vàng rực rỡ dưới ánh mặt trời ban mai, huy hoàng chói lọi.
Lưu Đại Hạ sụp người quỳ xuống, vái lạy trước cổng cung to lớn, đầu chậm chạp chạm xuống bụi đất...
Thực hiện xong đại lễ ba quỳ chín lạy, Lưu Đại Hạ chợt trào lệ, khóc không ra tiếng:
- Tiên hoàng...
Quỳ sấp người nức nở hồi lâu, Lưu Đại Hạ mới cất cao giọng:
- Tình cảm và ơn nghĩa của tiên đế to lớn biết dường nào, lão thần có dốc hết mạng này cũng khó mà báo đáp một phần. Sao mà trời không toại lòng người, tiên hoàng ơi...
Rồi lão gạt lệ đứng lên, cung tay nói:
- Các vị đồng liêu! Lão phu tiết tháo trung trinh, người và trời cùng chứng giám, mà sao nay không đường báo quốc? Lão phu nay chỉ là một kẻ áo vải mà thôi, nhưng một kẻ áo vải vẫn có thể nói có đầu có đuôi, làm tới nơi tới chốn, nghèo hèn không đổi thay, vinh nhục không sợ hãi. Các vị đồng liêu hãy tự giải quyết cho ổn thỏa, lão phu đi đây!
Lưu Đại Hạ vái chào một vòng, quắc mắt nhìn Dương Lăng, mày ngài xếch ngược, chợt nạt lớn:
- Mọt nước sâu dân, đất trời không dung thứ. Thiện ác đều có quả báo, nhân quả tuần hoàn, lão phu sẽ mở to hai mắt xem ông trời trừng trị ngươi như thế nào!
Dương Lăng nghe vậy chỉ biết cười gượng gạo. Mọi việc làm, hành động lẫn suy nghĩ của ông lão ở trước mặt y đây thật khiến người ta không biết nên khóc hay nên cười. Nhưng thái độ và tính cách của lão lại khiến người ta hết sức tôn kính. Mưu tính sâu xa khổ sở của mình, lão ấy hiểu được sao?
Cái sách lược chính trị của mình mà trong mắt lão ấy là đại nghịch bất đạo, hại nước hại dân ấy, có lẽ phải mất rất nhiều năm sau mới có thể nhận được sự nhất trí công nhận của dân chúng Đại Minh. Có lẽ suốt cuộc đời này, trong mắt Lưu Đại Hạ, cụ già đáng nhận được sự tôn kính tự đáy lòng của mình song lại bất đắc dĩ bị mình trục xuất khỏi triều đình để ngăn trở hành vi ngu xuẩn của lão, mình sẽ mãi là một tên nịnh thần lộng quyền.
Ánh nắng rắc lên người Dương Lăng, sắc mặt của y vẫn điềm đạm nhưng trong lòng lại hơi hiu quạnh. Y khẽ cụp đôi mi không nhìn thẳng vào lão, chỉ khẽ đáp lại:
- Độ hết chúng sinh, mới chứng cõi Phật. Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật. Thiên đường, không đi cũng được! Lưu đại nhân, dụng tâm sâu xa của bản quan, thật sự khó lòng bộc bạch trước mặt đại nhân... Ôi! Đại nhân đi đường bảo trọng.
Dương Lăng chậm rãi chắp tay vái thật sâu, thật lâu sau mới thẳng lưng lại. Trước mặt y trống trơn, chung quanh bá quan thinh lặng, Lưu Đại Hạ đã giũ áo bỏ đi.
Dương Lăng và Vương Hoa ngồi trong trường đình chờ đoàn sứ giả. Tuy có kẻ cho rằng nghi thức nghênh tiếp như thế này quá long trọng, nhưng xét thấy sứ giả là đại biểu cho quốc vương của một nước, vả lại lần triều cống này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Chính Đức. Từ khi hắn chính thức kế vị đến nay đã một quốc gia từ lâu không thần phục nay đến triều cống trở lại, thừa nhận địa vị mẫu quốc của thiên triều; đây chính là thành tích chính trị trọng đại của hoàng đế Chính Đức, khó trách hắn rất đỗi hài lòng và coi trọng.
Thám mã hồi báo rằng phái đoàn sứ giả đã đến ngoài hai mươi dặm, Dương Lăng vung tay bảo lui, cười nói với Vương Hoa:
- Thượng thư đại nhân, đại sứ của Nhật Bản đã sắp tới rồi. Lần này nhờ thượng thư đại nhân hết sức chống đỡ mà việc dỡ bỏ cấm biển mới có thành quả ngày hôm nay. Dương mỗ thật phải cảm tạ ngài.
Vương Hoa cười đáp:
- Dương đại nhân chớ nên khách sáo. Lão phu nhà ở Giang Nam, biết rõ tuy triều đình cấm biển cả trăm năm nay, nhưng thế gia vọng tộc hai tỉnh Chiết-Mân cùng Nhật bản đã buôn bán qua lại từ rất lâu. Sau khi triều đình ngưng việc cấp phép mậu dịch, nạn buôn lậu ở dân gian càng hoành hành thêm tợn, cấm biển sớm đã không còn giá trị gì, ngược lại chỉ khiến cho lượng lớn thuế khoá triều đình rơi vào tay các gia tộc phú hào địa phương mà thôi.
Vương Hoa thở dài nói tiếp:
- Chỉ có điều... Vương mỗ tự biết một cây làm chẳng nên non, không cách nào xoay chuyển được lệnh cấm; chỉ mong có ngày thời thế thay đổi, phát triển để triều đình có thể hưởng ứng ý dân mà dỡ bỏ cấm biển. Không ngờ đại nhân lại có sự kiên quyết như vậy, lão phu đương nhiên dốc sức giúp đỡ.
Dương Lăng biết vị Vương học sĩ này mặc dù bác học đa tài nhưng tính tình đạm bạc, có phần an phận. Tuy nhiên những điều ông nói cũng là sự thật, nếu không phải vì mình phải giở ra muôn vàn thủ đoạn, mà để cho một vị "quân tử thanh cao" như ông đi đầu đề xuớng bỏ cấm mở biển, thì mười phần hết chín sẽ không thành công, không khéo lại sẽ giống như Hoàng Kỳ Dận năm xưa, bị giai cấp thống trị hiện tại vứt bỏ.
Vương Hoa mỉm cười:
- Những nhu yếu phẩm mà Nhật Bản cần đều phần lớn được sản xuất từ triều ta. Tỉ như đồ gốm ở Nhiêu Châu, bông tơ ở Hồ Châu, mũ ô sa ở Chương Châu, vải bông ở Tùng Giang, cùng với sách vở, tiền đồng, tranh chữ, buôn tới Nhật Bản thu được lãi lớn, so với giao dịch cùng Lữ Tống(*) phải cao hơn gấp bội, quả thật là chuyện tốt cho nước cho dân.
(*): Đảo lớn thuộc quần đảo Philippin. Xưa, người Trung quốc gọi Lũ Tống thay cho Philippin.
Vì để chuẩn bị cho việc mở biển, không biết Dương Lăng đã thực hiện biết bao cuộc điều tra và chuẩn bị, cho nên y rất tường tận những chuyện này. Nghe vậy y bèn cười đáp:
- Đúng vậy! Nhật Bản chỉ có lác đác mấy loại hàng hoá như đao, kiếm, lưu huỳnh và quạt giấy để giao dịch với Đại Minh ta, còn lại đều chỉ có thể dùng bạc mà đổi lấy. Triều ta thiếu hụt bạc trắng, lượng lớn vàng ròng bạc trắng mà Nhật Bản sản xuất sẽ có thể vì vậy mà chảy vào triều ta, làm dịu nhu cầu dùng bạc của dân chúng. Hơn nữa vàng thật và bạc trắng tự có giá trị của nó, có thể lưu hành khắp thiên hạ, hết sức có ích trong việc tích góp sức nước cho triều ta đấy.
Hai người nói chuyện hết sức hợp, sau khoảng hai nén nhang mới trông thấy một đội nhân mã thong dong đi tới. Thấy thế, Dương Lăng nhíu mày:
- Người đưa tin của bản quan không nói cho bọn họ là thượng thư Bộ Lễ và bản quan nghênh tiếp ở đây hay sao? Sao lại chậm trễ như vậy?
Vương Hoa liếc đội kị mã hơn sáu chục người trước mắt, mỉm cười:
- Bọn lùn vẫn luôn tự cao tự đại, tự coi mình là cao quý, xưa nay đều vậy. Hơn nữa còn hết sức hám lợi, tâm cơ xảo quyệt, chớ cho bọn chúng cậy nhờ triều ta nên từ xa đến để triều cống; đến dưới chân thiên tử rồi mà bọn chúng vẫn còn muốn ra vẻ ngạo mạn đấy.
Đám người Nhật Bản ra vẻ cao quý, cố ý đi thật chậm rãi, Dương Lăng và Vương Hoa cũng không đứng dậy thu xếp đội nghi trượng chuẩn bị nghênh đón mà vẫn ngồi đó trò chuyện cười đùa. Vương Hoa liếc đội kị mã, hậm hực:
- Ắt vì triều ta thiếu hụt thuỷ quân, để giặc lùn hoành hành trên biển khiến ta bó tay chịu thua nên mới khiến đám lùn này mang lòng khinh rẻ.
Năm xưa bọn lùn sai trình quốc thư cho sứ giả nhà Tùy, từng tự xưng là "Thiên tử nơi mặt trời mọc" mà gọi vua Tùy là "Thiên tử nơi mặt trời lặn", ngoài mặt là để phân chia hai vùng đông tây, còn xem như đối đãi bình đẳng. Nhưng đến lần sau lại tự xưng là "Đông thiên hoàng" mà gọi vua Tùy là "Tây hoàng đế". Ha ha, một kẻ là Thiên hoàng, một người là Hoàng đế, chỉ đổi có một chữ liền đã đè lên đầu vua Tùy rồi.
Về sau nhà Đường phù trợ Tân La, còn nước chúng thì phù trợ Bách Tế(1). Hai bên đánh một trận lớn, hơn nghìn chiếc chiến thuyền lớn nhỏ của chúng lại bị một trăm bảy mươi chiếc tàu chiến của thủy quân Đại Đường đánh cho đại bại, từ đó chúng cam tâm xưng thần. Đại Đường lấy vị thế thượng quốc mà ban cho chúng quốc hiệu là "Nhật Bản", chúng cũng vui vẻ tiếp nhận, đủ thấy người nước chúng chỉ biết ức hiếp kẻ yếu mà e sợ kẻ mạnh.
Dương Lăng nghe vậy bật cười. Hoá ra sự thù ghét giữa hai bên đã bắt nguồn từ xa xưa chứ không phải đến thời cận đại mới có.
Lúc này đội kị mã đã đến gần, trong đội ngũ có vài chiếc xe ngựa chở lễ vật. Biết Thành Khởi Vận có mặt trong phái đoàn sứ giả, Dương Lăng bèn căng mắt lên nhìn. Y thấy trên mấy thớt ngựa dẫn đầu có hai vị là quan viên do Bộ Lễ phái ra, mà hình dáng của một vị thư sinh vận áo dài trắng đi bên cạnh lại vô cùng quen thuộc, liền không khỏi mừng rỡ.
Những người trong đoàn sứ giả theo hai quan viên bộ Lễ xuống ngựa bước tới. Khi còn cách tầm hơn chục trượng, Dương Lăng và Vương Hoa mới đứng dậy bước ra khỏi trường đình, mỉm cười nghênh đón.
Dương Lăng không nhìn về phía sứ giả Nhật Bản đi về phía mình, ánh mắt của y bất giác hướng về phía thư sinh áo dài trắng ở phía sau. Tuy người ấy bận nam trang, nhưng cặp mắt đa tình dịu dàng thật thân thuộc xiết bao.
Dương Lăng bỗng phát hiện thấy trong mắt nàng hiện lên hai đốm sáng trong vắt, là ánh nắng phản chiếu trong mắt nàng ư?
Dương Lăng đang chờ để nhìn cho kỹ thì Thành Khởi Vận chợt cúi đầu, ngón tay thon dài láng muốt như ngọc nhón lấy góc áo trắng tinh phẩy nhẹ lên má và dừng lại bên môi. Dương Lăng không nhìn thấy môi nàng, nhưng từ biểu hiện trên khuôn mặt nàng y lại có thể cảm nhận rõ cánh môi xinh đẹp của nàng khẽ nhếch lên cười ngọt ngào với y. Bất chợt một cảm giác choáng ngợp chạm vào tâm hồn như một hòn đá ném xuống mặt nước hồ; mặt hồ chợt lăn tăn gợn sóng.
(1) Tân La (Silla) và Bách Tế (Baekje) là hai trong số ba nước Hàn Quốc xưa. Nước còn lại là Cao Câu Li (Koguryo)
Đã có 7 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Lôi Đế
Thành Khởi Vận đáp:
- Đại nhân! Lúc Sở Linh về gặp ngài, chẳng lẽ chưa từng báo rằng ti chức muốn dâng tặng cho ngài một lễ vật cực lớn hay sao? Ha ha, xem ra lễ vật này lớn quá, đại nhân không đoán nổi hay là không dám đoán?
Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:
- Lễ vật lớn à? Tôi đã đoán được rồi mà, chẳng phải là cô mang Liên Nhi... Ý cô nói không phải là nàng ấy? Chẳng lẽ lại có liên quan đến những sứ thần này?
Trong lòng hơi chua chát, Thành Khởi Vận hứ yêu một tiếng rồi nói:
- Mang Liên Nhi cô nương về đây thì có gì mà khó, ngược lại nếu ngài muốn danh chính ngôn thuận mà cưới cô ấy về mới khó xử đấy. Còn lễ vật to lớn mà ti chức nói đến là đại nhân hồng phúc tề thiên, cát tinh chiếu trúng, ngài muốn làm gì ông trời cũng đều giúp cả.
Lúc này đoàn sứ giả Nhật Bản đã đi đến trước mặt, Dương Lăng dời ánh mắt về phía những kẻ đi đầu. Người đi đầu cao hơn những kẻ khác khá nhiều, chỉ thấp hơn Dương Lăng độ nửa cái đầu, dung mạo đoan chính, khí chất trang nghiêm. Gã mặc một bộ y phục trang trọng bằng chất liệu sang trọng với màu tím lợt làm chủ đạo, cổ áo và tay áo thêu đầy hoa văn hướng dương màu vàng lợt, tóc tết ra sau buộc bằng dây vải màu tím lợt; thật là một bộ trang phục võ sĩ đúng chuẩn.
Mặc dù gã ăn vận nho nhã nhưng khắp người, từng cử chỉ và hành động của gã không chỗ nào không toát ra một áp lực khiếp người. Dương Lăng quét mắt, chợt chú ý đến thanh Dã Thái Đao (1) giắt bên hông gã, có thể sử được thanh trường kiếm cỡ lớn như thế này ắt hẳn phải có cánh tay rất khỏe, võ nghệ siêu quần.
Nhìn khí thế thì hắn ta hẳn là thủ lĩnh đoàn sứ giả, song lại có một võ sĩ trẻ tuổi khôi ngô tuấn tú khác đứng ngang hàng cùng gã, xem ra địa vị cũng không kém gì.
Người thanh niên đó mặc áo chẽn lụa hai lớp màu trắng thuần, lưng thắt đai gấm, bên hông giắt chéo một thanh ka-ta-na (kiếm Nhật) và một thanh kiếm ngắn, mặc dù vóc người không cao nhưng bởi tứ chi cân đối, ăn mặc vừa người, nên trông cũng cao lớn rắn rỏi.
Khi còn cách nhau tầm một trượng, Vương Hoa chợt dừng bước lại, mỉm cười đứng yên, không lạnh nhạt mà cũng không quá nhiệt tình. Dương Lăng cũng từng đọc và biết rõ kiểu ứng đối ngoại giao không lời này qua những truyện ký của chính trị gia thời hiện đại, bèn cũng khẽ mỉm cười đứng lại.
Tước vị và quan chức của y không dưới quan lớn của lục bộ, nhưng dẫu sao Vương Hoa cũng là lãnh đạo cao nhất của bộ Lễ, là quan đón khách chính, cho nên y phải biểu thị sự tôn trọng đúng mực. Hai gã võ sĩ đó quả nhiên có địa vị tương đương, hai người đồng thời giơ tay ra hiệu cho cận vệ đằng sau ngừng lại, sau đó cùng sóng vai bước đến. Hai quan viên bộ Lễ cùng đi theo hai bên.
Lang trung bộ Lễ là Tả đại nhân vượt lên trước giới thiệu:
- Vị này là Thượng thư bộ Lễ của Đại Minh ta, Vương Hoa đại nhân; vị này là Trụ Quốc tướng quân Dương Lăng đại nhân.
Hai sứ giả Nhật Bản sớm đã nghe nói hoàng đế Hoằng Trị thích dùng lão thần, nhưng vẫn không rõ tác phong của tân đế. Vừa thấy Dương Lăng trẻ tuổi lại đứng sau người mà lễ quan gọi là Thượng thư Bộ Lễ này nửa bước nên hiển nhiên vị thượng thư này có chức vị cao nhất, hẳn là thủ lĩnh nghênh đón sứ giả hôm nay. Cả hai liền vội chống hai tay lên gối, khom người vái thật sâu:
- Ra mắt thượng thư đại nhân!
Lời thốt ra không ngờ lại là Hán ngữ.
Chưa kịp ngước đầu lên chợt nghe thấy hai chữ “Dương Lăng”, thân thể cả hai người thoáng run lên, cứng đờ, sau đó mới đứng thẳng lưng lên, đánh giá Dương Lăng với ánh mắt kinh ngạc, song cũng không quên mất lễ nghi mà khom người vái chào lần nữa. Vương Hoa và Dương Lăng cũng ôm quyền đáp lễ, sau đó hai người cùng bước lên đỡ tay bọn họ dậy và cười bảo:
- Sứ giá hãy bớt lễ tiết, xin hãy mau đứng dậy!
Tả đại nhân trỏ vào người trạc ba mươi tuổi, mặt mày đoan chính, nét người cương nghị mặc đồ tím giới thiệu:
- Vị này là sứ thần tiến cống của quốc vương Vĩnh Chính điện hạ nước Nhật Bản, Đại Nội Nghĩa Dũng (Yoshitake Dainai?),- rồi lại trỏ vào thanh niên mặc áo dài trắng giới thiệu tiếp - Vị này là sứ thần tiến cống Tế Xuyên Trừng Minh (Choumei Hosokawa).
Dương Lăng lấy làm lạ, làm thế nào mà Thành Khởi Vận tìm được hai vị sứ giả này? Y vừa cùng Vương Hoa chắp tay khách sáo vừa liếc sang Thành Khởi Vận. Như thể sớm biết y sẽ nghi ngờ, khi thấy ánh mắt y hướng về phía mình, khoé môi Thành Khởi Vận khẽ vểnh, mi mắt hơi cong, nửa như đang cười nửa như không phải; vừa mang vẻ nghịch ngợm khó tả thành lời lại lộ vẻ cao thâm đắc ý.
Dương Lăng thầm hừ một tiếng: "Nha đầu này, lại sắp khoe khoang đây". Tuy rằng Thành Khởi Vận lớn hơn y mấy tuổi nhưng tuổi tác thật của y lại lớn hơn nàng, thêm vào Thành Khởi Vận khôn lanh hoạt bát không hề giống một thiếu phụ nhã nhặn thanh tao, cho nên lúc nào Dương Lăng cũng vô thức thầm gọi nàng hai tiếng “nha đầu” mà không nhận ra rằng ngữ khí đó mang theo mấy phần trìu mến.
Biết rằng tám chín phần mười thứ mà Thành Khởi Vận khoe khoang là để lấy lòng y, cho nên y cũng không coi hành động đó là ngỗ nghịch, chỉ định bụng chờ sau khi về rồi hỏi nàng là được. Nào ngờ khi đưa ánh mắt lướt qua người những võ sĩ mặc áo chẽn xanh, y chợt cảm có cảm giác hơi quen quen.
Những võ sĩ nọ đều mặc áo chẽn hai lớp màu đen hơi rộng, tóc dài tết thành đuôi ngựa, đa số đều là thiếu niên mười sáu mười bảy, ai nấy tuấn tú bất phàm. Từ tư liệu do Nội xưởng và Cẩm Y Vệ trình đưa y biết được rằng nước Nhật "nam phong" đang thịnh, hơn cả Trung Hoa, có thể nói là "cúc nở khắp nơi, muôn hồng nghìn tía."
Phần lớn các tướng quân, lãnh chúa và những võ sĩ có địa vị nuôi dưỡng rất nhiều thị đồng mười bảy mười tám, thậm chí là mười lăm mười sáu. Người Nhật gọi chúng là "tiểu tính", thực tế cũng chính là luyến đồng. Những luyến đồng này là tử sĩ bên người chúa công đồng thời cũng là nam sủng của chúa công bọn họ, thế nên bọn họ trẻ tuổi tuấn tú cũng chẳng có gì là lạ.
Nhưng khi ánh mắt Dương Lăng lơ đãng lướt qua khuôn mặt của những "bông hoa cúc" đó, y chợt phát hiện một thiếu niên đang đứng đằng sau đám người, thân mặc áo chẽn võ sĩ, bụng hơi to, nhưng da như ngọc, mặt như hoa, thuần khiết mà xinh đẹp, quyến rũ mà nhu mì. Tuy chàng ta chỉ đứng yên một chỗ, không hề có dáng vẻ rụt rè, song khắp người lại dào dạt một vẻ kiều mị không nói nên lời.
Ánh mắt Dương Lăng vừa chạm với đôi mắt nóng rực ấy, liền chợt thấy như nắng trời rực rỡ, lòng vụt ấm lên... Liên Nhi! Đó là Liên Nhi!
Thành Khởi Vận đã dùng cách nào mà có thể mang nàng ấy theo đến đây vậy? Trong khoảnh khắc hàng vạn cảm xúc dâng trào trong lòng y. Ánh mắt Dương Lăng không thể rời đi, trong mắt Liên Nhi cũng trào ra những giọt lệ vui mừng.
Nhất thời Dương Lăng như rơi vào cơn say, mặc dù y cố tập trung sự chú ý lên hai vị sứ thần Nhật Bản nhưng cũng chỉ ậm à ậm ừ khi nghe những lời tâng bốc về công tích diệt trừ hải tặc của y khi thủy triều rút ở Tiền Đường, bộ dạng không hề quan tâm. Điều này khiến cho Vương thượng thư không biết nội tình thầm lấy làm hổ thẹn: “ Vị Dương đại nhân này xem ra còn chuộng sĩ diện hơn cả mình. Phải chăng vừa rồi mình đã biểu hiện lễ độ quá mức với các vị sứ giả này?”
****
Trên đường cưỡi ngựa vào thành, trông thấy bến tàu rộng lớn xa hoa của kinh sư, trong đội ngũ sứ thần tiến cống thỉnh thoảng lại phát ra những tiếng khen. Dương Lăng chỉ đặt ánh mắt về phía sau, phát hiện lúc đoàn xe khởi hành Mã Liên Nhi liền chui vào trong xe ngồi chứ không cưỡi ngựa thì y mới yên tâm.
Hồng Lô Tự đã chuẩn bị chỗ ở rộng rãi cho sứ thần tiến cống Nhật Bản từ sớm. Khi đến nhà trọ, Vương Hoa và Dương Lăng liền niềm nở bố trí cho đám sứ thần đi vào. Danh phận công khai của Thành Khởi Vận là thông dịch viên kiêm hướng đạo viên do phái đoàn sứ giả Nhật Bản thuê mướn, vì ở kinh sư đã có thông dịch viên do Hồng Lô Tự bố trí riêng cho nên sứ mạng của nàng cũng đã hoàn thành.
Mặc dù mọi sự việc đều có Thành Khởi Vận âm thầm sắp xếp và thảo luận, nhưng Đại Nội Nghĩa Dũng và Tế Xuyên Trừng Minh đều hết sức nhanh nhạy, cả hai không hề tiết lộ lai lịch thật sự của Thành Khởi Vận, thậm chí còn trả tiền thuê cho nàng như thật. Thành Khởi Vận leo lên một chiếc xe ngựa, một mình rời khỏi quán trọ của sứ thần đi ngay, bộ dạng trông như muốn tự tìm chỗ trọ, chọn ngày trở về Giang Nam.
Nhìn gã đánh xe lẫn hai tên to con đi theo trên xe của nàng toát ra khí thế hung hãn, Dương Lăng cũng không biết bọn họ là phiên tử của Nội xưởng hay là hải tặc Giang Nam được Thành Khởi Vận thu phục cho nên cũng không tiện biểu lộ điều gì khác lạ trước mặt mọi người. Y đành làm thinh để cho nàng rời đi, song cũng đoán ắt hẳn Thành Khởi Vận sẽ trở về phủ hầu tước. Bởi sứ thần tiến cống đến từ phương xa cho nên Dương Lăng còn phải ở lại tham dự bữa tiệc chào khách xã giao. Kiên nhẫn ngồi hầu rượu hai vị sứ thần mà tâm trí y lại đã chắp cánh bay về nhà tự bao giờ.
- Đằng trước đã là... là nhà của muội rồi đó, Uy Vũ hầu phủ... Chao ôi, lúc tỉ rời kinh thành y vẫn còn là bá tước, thế mà nay đã được phong hầu, được gọi là Trụ Quốc thượng tướng quân rồi.
Vừa vào đến thôn, Thành Khởi Vận liền xuống xe ngựa, vừa thong thả cất bước giữa thôn xóm đang chìm trong sắc xuân vừa cảm khái nói với Mã Liên Nhi.
- Tỷ tỷ đang cảm khái hay là đang thấy hài lòng thỏa dạ thế?
Bước đi chầm chậm bên cạnh, Mã Liên Nhi nghe vậy liền đảo mắt, nụ cười tuy ranh mãnh song vẫn mang theo vài phần quyến rũ yêu kiều.
- Tỷ... hài lòng thỏa dạ gì chứ? Ồ... ha ha, thân là thuộc hạ của đại nhân, tỷ đương nhiên là thấy vinh quang rồi.
Thành Khởi Vận chợt cảm thấy gò má nóng rần: "Tiểu hồ ly này thực không dễ đối phó đây! Trong mấy vị phu nhân của Dương Lăng, e rằng cô nàng này chính là người thông minh nhất. Đôi mắt sắc sảo đó..., sao cả tâm sự của mình mà cô ả cũng đoán ra được mấy phần nhỉ?"
Mã Liên Nhi nhoẻn miệng cười duyên muôn phần xinh đẹp:
- Hôm nay sứ thần đến triều cống, mọi việc diễn ra êm thắm như nước chảy thành sông, song mấy ai biết tỷ tỷ bôn ba vất vả ở Giang Nam, đã trải qua biết bao gian khổ? Tỷ tỷ tài cao như vậy, thế gian có mấy người đàn ông sánh bằng? Ôi! Chàng chỉ mới bấy nhiêu tuổi nhưng chức quan đã mỗi lúc một cao, nguy hiểm cũng vì vậy mà càng lúc càng lớn hơn.
Tỷ tỷ bụng chứa binh thư, tài cao mưu lớn, là trợ thủ đắc lực của chàng. Thảng như Khởi Vận tỷ tỷ thật sự chỉ vì vị trí đáng đầu của Nội xưởng mà không có mưu cầu nào khác, vậy chốc nữa muội muội có thể sẽ góp chút lời với chàng.
- Muội muội định góp lời gì?
Lúc này đây, trước mặt cô nương Liên Nhi mà bất luận sánh về dung nhan hay cơ trí đều ngang sức ngang tài với mình, Thành Khởi Vận mỗi lúc mỗi thêm chột dạ. So với nàng, thứ mà con bé thiếu chỉ là lịch duyệt và kinh nghiệm mà thôi, thực không thể xem thường.
Mã Liên Nhi duỗi bàn tay ra, bàn tay nhỏ nhắn như búp non lộ ra khỏi ống tay áo trong suốt dưới ánh dương quang. Nàng khẽ siết nắm tay lại, khéo cười xinh đẹp:
- Muội sẽ nói với chàng rằng, nếu không thể nắm giữ lấy tỷ tỷ hoàn toàn thì thứ nhất không thể kết oán với tỷ, thứ hai quyết không thể để tỷ bị phe đối đầu đoạt được. Bằng không... chỉ đành trừ khử tỉ để tránh họa hoạn về sau.
Thành Khởi Vận giật mình thất kinh, gượng cười bảo:
- Liên Nhi muội muội, muội... thực đánh giá tỷ quá cao rồi đó.
Mã Liên Nhi kéo nhẹ tay Thành Khởi Vận, dịu dàng:
- Tỷ tỷ cùng muội xưa nay không hề quen biết. Nếu việc đưa đón và hộ tống muội còn có thể bảo là chịu mệnh lệnh của chàng, nhưng dọc đường tỷ hết lòng trông nom, chăm sóc; sự che chở ấy rõ xuất phát từ tấm lòng chân thành, tuyệt không có nửa điểm giả tạo. Do tỷ và muội đã chẳng phải bạn bè, vậy nó hiển nhiên là vì "yêu ai yêu cả đường đi lối về" rồi. Có gì mà muội còn nhìn không hiểu chứ?
Dọc đường nghe được nhiều chuyện của chàng, có chuyện nào mà không khiến người ta hãi hùng khiếp vía? Quan trường chìm nổi, nguy hiểm trùng trùng, muội thật không hiểu chàng làm thế nào mà vượt qua những khó khăn trắc trở đó! Chàng đã bước trên con đường này, nếu bên cạnh không có mưu sĩ như tỷ tỷ vậy thì sớm muộn cũng sẽ bị người ta chèn ép. Tỷ bảo muội sao có thể yên tâm đây?
Đoạn nàng khẽ thở dài, rồi chợt nhoẻn miệng cười nói tiếp:
- Liên Nhi từng kể với tỷ nghe chuyện cũ của muội và chàng. Tính cách người ấy như thế nào tỷ cũng đã biết rồi đó, chàng thuộc loại lừa cứng đầu, dắt chẳng chịu đi, lại còn đá ngược! Cho dù tỷ tỷ có đốt ba nén nhang mỗi ngày, chàng vẫn sẽ chỉ là bồ tát bằng gỗ, mãi mãi không bao giờ hiển linh. Tỷ mà không vứt bỏ thẹn thùng, chủ động xuất thủ thì sẽ còn phải chờ đợi dài dài.
Thành Khởi Vận thoáng nhướng mày, chực nói lại thôi, má hồng chợt ửng đỏ, tựa như ngấm sắc hoa đào, rực rỡ mà thơm ngát.
Lúc rời phủ, Dương Lăng từng báo hôm nay Thành Khởi Vận sẽ trở về Dương phủ. Thành Khởi Vận thủ đoạn vô cùng cao minh, cho dù nàng không cần phải cố ý ra vẻ, song lúc ở trong Dương phủ vẫn giữ được hoà khí cùng với mọi người, huống hồ nàng vì chuyện của tưóng công nhà mình mà bôn ba nam bắc, lao tâm khổ trí.
Cho nên khi hay tin nàng tới, các cô Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi và Cao Văn Tâm rất đỗi cao hứng. Ấu Nương căn dặn nhà bếp chuẩn bị rượu và thức ăn, lại hạ lệnh cho người đứng đón trước cổng. Trong phủ chỉ có mỗi Đường Nhất Tiên không biết người sắp đến là thần thánh phương nào, rất lấy làm hiếu kì trong bụng.
Ấu Nương nghe người truyền báo Thành Khởi Vận đã đến, liền vội dẫn mọi người ra ngoài nghênh đón. Bọn họ sớm đã quen với việc Thành Khởi Vận cải trang bán nam bán nữ cho nên liếc mắt liền nhận ra ngay. Hàn Ấu Nương lộ rõ vui mừng, đương định mở miệng gọi, chợt trông thấy người thiếu niên đứng cạnh Khởi Vận. Nàng không khỏi ngẩn người, sau thoáng kinh ngạc liền mừng rỡ kêu lên:
- Liên Nhi!
Mã Liên Nhi cũng vội bước tới, ôm chầm lấy Hàn Ấu Nương, mừng rỡ thút thít:
- Ấu Nương...,
Hai người ôm nhau một chốc, Mã Liên Nhi mới quệt nước mắt, rưng rưng cười nói:
- A! Tỷ... sao tỷ lại... Phải là ra mắt phu nhân chứ!
Hàn Ấu Nương trừng mắt với nàng, hờn trách:
- Tỷ nói những lời gì vậy, lúc ở Kê Minh chúng ta đối đãi với nhau như thế nào thì sau này vẫn sẽ như thế nấy. Nếu như tỷ xem muội như người ngoài, thực sẽ khiến muội không biết phải làm thế nào đây.
Mã Liên Nhi khẽ mỉm cười, gọi lại:
- Ấu Nương muội muội!
Hàn Ấu Nương mới đổi giận thành mừng, lại bước tới nắm tay thân thiết với Thành Khởi Vận. Trông thấy cảnh tượng này, cặp mắt của Đường Nhất Tiên đảo tới đảo lui, nàng hỏi thầm Ngọc Đường Xuân:
- Liên Nhi? Chính là vị tẩu tẩu của muội ở Kim Lăng đó hả? Đẹp thật, nếu đeo nữ trang vào, thật sự sẽ như hoa thơm thêm sắc. Vả lại... hì hì...
Mã Liên Nhi và Thành Khởi Vận đều chưa gặp Đường Nhất Tiên bao giờ. Dương Lăng lo toan bao nhiêu chuyện song lại quên dặn trước bọn họ mỗi chuyện này. May mà Thành Khởi Vận và Mã Liên Nhi đều không hiểu rõ lắm về thân quyến của Dương Lăng, cho nên sau khi nghe giới thiệu về Đường Nhất Tiên xong cũng không biểu lộ điều gì khác thường.
Dặn dò Cao quản gia bố trí chỗ ở cho mấy thị vệ và thị nữ Sở Linh xong xuôi, Hàn Ấu Nương phấn khích tự mình dắt tay Mã Liên Nhi và Thành Khởi Vận đi vào phòng khách sau nhà, hớn hở bảo Vân Nhi:
- Em hãy mau dọn đồ trong thư phòng choThành tỷ tỷ, dọn đồ căn phòng đầu chái đông trong sân của chị ra cho Liên Nhi tỷ tỷ ở.
Mã Liên Nhi kéo tay nàng, cười tươi nói:
- Không vội không vội! Lâu rồi không gặp nhau, tỷ nhớ em lắm. Đêm nay tỷ muốn chung giường với muội, thắp nến trò chuyện thâu đêm.
Hàu Ấu Nương mừng rỡ:
- Chuyện đó đương nhiên là được. Có điều phòng ốc vẫn cần phải dọn dẹp.
Đoạn nàng bảo nhà bếp đun nước chuẩn bị cho hai người tắm rửa. Sau đó mọi người tập trung ở phòng khách, kể lại những chuyện xảy ra sau lúc chia ly; khu nội viện nhà họ Dương ríu rít tiếng cười đùa, quả thật hết sức náo nhiệt.
*****
Vương Hoa và Dương Lăng chiêu đãi sứ thần tiến cống của Nhật Bản ở ty Nghênh Tân. Cáo từ xong y lại đến bên ngoài Hồng Lô Tự vội vã thương thảo, gấp rút bố trí cho quan viên ty Lễ Nghi huấn luyện sứ thần Nhật Bản những nghi lễ liên quan đến việc bái kiến Hoàng đế và dâng hiến lễ vật, cùng lịch trình đàm phán cụ thể về việc hợp tác quân sự diệt trừ hải tặc và thông thương của hai nước. Xong xuôi y liền phóng ngựa phi như bay về phủ.
Dương Lăng dự tiệc hơi lâu, lúc trở về nhà thì đèn lồng đỏ đã treo cao, trời sao lấp lánh.
Dương Lăng vội vã chạy vào nhà trong, trông thấy trong sảnh chỉ có Vân Nhi và hai nha hoàn đang quét dọn, y liền vội hỏi:
- Thành cô nương đã đến rồi chưa?
Vân Nhi là tiểu nha đầu do chính tay Dương Lăng mua về, luôn ở bên hầu hạ Ấu Nương. Tuy tuổi còn nhỏ nên không được xem là quản sự khu hậu viện, song vì được Ấu Nương sủng ái nên bình thường đám nha đầu các phòng cũng chỉ nghe lệnh nó. Thấy lão gia sốt sắng truy vấn, hai nha hoàn đều nhìn sang phía cô nàng.
Vân Nhi vội cúi người vái chào, rồi mỉm cười đáp:
- Thành cô nương đã đến từ hồi chiều, Liên Nhi phu nhân cũng đến cùng. Hai vị đã cùng đại phu nhân trò chuyện rất lâu, dùng bữa tối xong thì đều về phòng tắm rửa. Vừa nãy tiểu tì trông thấy mấy người Thúy Nhi tỷ mang thùng nước ra, hẳn là đã thay đồ xong rồi.
Dương Lăng ồ một tiếng, hỏi tiếp:
- Hai cô hiện đang ở đâu? Đã thu xếp chỗ nào vậy?
Vân Nhi đáp:
- Thành cô nương vẫn ở trong nội thư phòng; phu nhân Liên Nhi thì được thu xếp ở trong viện của đại phu nhân, căn phòng đầu chái đông. Lão gia tính đi gặp Liên Nhi phu nhân sao?
Dương Lăng hơi ngần ngử, đoạn phẩy tay đáp:
- Không, ta đi thăm Thành cô nương trước. Các em cứ làm việc đi.
Tuy rằng trong lòng y rất nhớ Mã Liên Nhi, nhất là nay nàng đang mang thai, nhưng dẫu gì thì đó cũng là chuyện nhà. Thành Khởi Vận đã bôn ba xuôi ngược, vất vả lo liệu đại sự của y. Sao lại có chuyện đi gặp nương tử trước mà gác việc thăm viếng thuộc hạ tâm phúc đã hoàn thành một công việc trọng đại như vậy sang một bên chứ?
Đến nội thư phòng, Dương Lăng vén rèm cửa, nhìn thấy Thành Khởi Vận đang ngồi trước bàn dài, trước mặt là chiếc đèn phủ lụa mỏng; quầng sáng của ngọn đèn rọi lên dung nhan sau khi tắm đẹp đến rạng ngời.
Thấy y bước vào, Thành Khởi Vận vội uyển chuyển đứng dậy, ôm quyền thi lễ rồi cười duyên dáng chào:
- Ti chức tham kiến đại nhân, ti chức cũng đoán ắt đại nhân sẽ đến.
Thành Khởi Vận mặc chiếc áo cân vạt bằng vải lĩnh trắng, cổ áo màu tím lợt, phía dưới là váy ngắn đai trắng ôm eo, sóng mắt đong đưa, dung quang phơi phới, đôi mắt hạnh long lanh sóng nước trên khuôn mặt xinh đẹp tuyệt trần thực khiến người ta phải rung động trong lòng.
Dương Lăng dằn lòng, bật cười hỏi:
- Sao? Nữ Gia Cát của ta lại đoán trúng nữa à? Ha ha, tại Liên Nhi đang tắm, nếu không thì... ngày mai bản quan mới tới.
Thành Khởi Vận gặp lại được y, trong lòng mừng vui khôn xiết, một loại cảm giác thỏa mãn kì diệu tràn ngập khắp tâm hồn, một cảm giác thực thư thái và yên bình. Nghe Dương Lăng nói dối, nàng không hề chớp cặp mi cong vút, chỉ nhoẻn miệng cười nói:
- Giang sơn dễ đổi, nhưng mới qua một hai tháng trời, đại nhân sẽ không thay đổi. A! Ti chức nói sai rồi.
Thành Khởi Vận che miệng cười, nói tiếp:
- Ít nhất thì quan chức của đại nhân lại đã đổi. Chúc mừng đại nhân tấn thăng tước hầu, vinh dự nhận được chức Trụ Quốc Long Hổ thượng tướng quân.
Dương Lăng chỉ biết lắc đầu cười trừ:
- Nha đầu nhà cô này...
Thành Khởi Vận khẽ nhíu đôi mày xinh, lấy làm lạ hỏi:
- Cớ sao đại nhân... đại nhân đôi lúc nói chuyện lại ra vẻ cụ non như vậy? Ha ha, nha đầu hử? Ti chức thế mà lớn... lớn...,
Chợt nàng mím môi, rốt cuộc vẫn không nguyện nói ra mình hơn tuổi Dương Lăng.
Dương Lăng cười hì hì đáp:
- Ta gọi cô là nha đầu, đương nhiên là vì cô nhỏ hơn ta. Cô đừng hỏi, ta sẽ không giải thích đâu. Tóm lại là cô nhỏ hơn ta.
Đại sự y muốn làm từ trước đến giờ nay đã đâu vào đấy, Mã Liên Nhi mà y vẫn luôn canh cánh trong lòng cũng đã rước về phủ, lại có chút rượu trong người, lúc này trông thấy vẻ nửa hờn nửa vui khiến người khác rung động của Thành Khởi Vận, Dương Lăng không kìm được lòng nên đã tiết lộ một ít bí mật vốn nàng không thể nào nghe hiểu được.
Quả nhiên Thành Khởi Vận nghe mà không hiểu ý của y. Nhưng nàng lại nghe lầm, cũng không biết hiểu lệch đi thế nào mà nhất thời gò má đỏ bừng, lòng hoa phơi phới. Nàng vội thở gấp một hơi dài, chậm rãi ngồi vào sau bàn, chống cằm cười nói:
- Đại nhân muốn gặp ti chức, ắt có chuyện muốn hỏi. Không biết đại nhân muốn hỏi chuyện công trước, hay là chuyện tư trước đây?
Lúc mà vưu vật trời sinh này muốn quyến rũ kẻ nào, thì quả thực từng cái giơ tay nhấc chân, từng cái nhăn mày nhíu mặt đều mang những vẻ gợi cảm khác biệt. Động tác lúc này lại có phần ngây thơ của thiếu nữ, nhưng ống tay áo trượt xuống, lộ ra cánh tay thon dài như cổ hạc, ngón ngọc xinh xinh chống nhẹ dưới cằm, vừa nhã nhặn vừa đáng yêu, lại có cả sự gợi cảm của thiếu phụ thành thục.
Dương Lăng đưa mắt nhìn rồi dời ánh mắt đi:
- Chuyện riêng thì... tôi có thể hỏi Liên Nhi, hỏi xong liền sẽ biết cô đã dùng cách nào để mang nàng ấy từ họ Mã về. Nói chuyện công trước đi!
Dương Lăng quay lại nhìn nàng, rồi trầm giọng hỏi:
- Cô tìm đâu ra những kẻ gọi là sứ thần tiến cống này vậy? Trông cử chỉ hành động và phong thái của bọn họ quả thực bất phàm. Có cô lo liệu tôi nghĩ hẳn mọi thứ sẽ đều được sắp xếp thỏa đáng, không gì sơ suất, nhưng mà... tìm vài ba sứ thần ra để làm gì? Không sợ đông người sẽ lộ chân tướng sao?
Thành Khởi Vận đáp:
- Đại nhân! Lúc Sở Linh về gặp ngài, chẳng lẽ chưa từng báo rằng ti chức muốn dâng tặng cho ngài một lễ vật cực lớn hay sao? Ha ha, xem ra lễ vật này lớn quá, đại nhân không đoán nổi hay là không dám đoán?
Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:
- Lễ vật lớn à? Tôi đã đoán được rồi mà, chẳng phải là cô mang Liên Nhi... Ý cô nói không phải là nàng ấy? Chẳng lẽ lại có liên quan đến những sứ thần này?
Trong lòng hơi chua chát, Thành Khởi Vận hứ yêu một tiếng rồi nói:
- Mang Liên Nhi cô nương về đây thì có gì mà khó, ngược lại nếu ngài muốn danh chính ngôn thuận mà cưới cô ấy về mới khó xử đấy. Còn lễ vật to lớn mà ti chức nói đến là đại nhân hồng phúc tề thiên, cát tinh chiếu trúng, ngài muốn làm gì ông trời cũng đều giúp cả.
Thành Khởi Vận kéo chén trà lại gần rót mời Dương Lăng, rồi mới kể đầu đuôi ngọn nguồn câu chuyện.
Hóa ra Trung Nguyên vốn không biết rõ lắm về nước Nhật. Năm xưa có khi giặc Oa làm loạn, Chu Nguyên Chương cả giận, phái sứ giả thiên triều đi đến Nhật Bản để mắng nhiếc quốc vương nước ấy, đã nhầm một thân vương được Thiên hoàng phong đất thành ra quốc chủ của Nhật Bản. Quốc thư hai nước qua lại nhiều lần mà vẫn không hay biết nội tình. Về sau Nhật Bản xuất hiện Nam-Bắc triều, lúc đó ngay cả ai là quốc vương thì Đại Minh lại càng không rõ, đến nỗi khi tướng quân Mạc phủ là Túc Lợi Nghĩa Mãn (Ashikaga Yoshimitsu) sai sứ giả đến triều cống, Đại Minh lại coi hắn là kẻ thống trị tối cao của Nhật Bản.
Cho đến hiện tại, Nhật Bản đang gặp loạn Ứng Nhân(2). Chẳng những địa vị của Thiên hoàng đã rơi xuống nghìn trượng mà ngay cả tướng quân Mạc phủ cũng đã không thể khống chế được cục diện, lãnh chúa các nơi đồng loạt phát động chiến tranh, bước vào thời kỳ chiến quốc, Đại Minh tìm ra được ai là quốc chủ Nhật Bản mới lạ. Cho nên Thành Khởi Vận mới to gan hiến kế "lý đại đào cương (mận chết thay đào)" và "man thiên quá hải (giấu trời qua biển)" với Dương Lăng.
Lực lượng trong triều do bọn họ dùng lợi ích để phân hóa và mua chuộc để mở biển thông chợ đã có hiệu quả khổng lồ, chỉ cần Dương Lăng đồng ý chia chác cho đám người đó một chén canh, sẽ không khó để biến bọn họ thành trợ thủ cho bản thân y. Thế nhưng đám hủ nho khăng khăng ôm lấy định kiến Đại Mình là thiên triều thượng quốc duy ngã độc tôn và xem những thương nhân là bọn thấp hèn đê tiện lại chính là những kẻ chân chính không dục vọng, không sa ngã; căn bản y không có cách nào lay động được bọn họ.
Thứ mà bọn họ muốn chỉ là cái tiếng "triều cống thượng quốc", còn lợi ích kinh tế thì có bị thiệt thòi bao nhiêu đi chăng nữa cũng chẳng quan tâm. Cho nên Thành Khởi Vận mới đề nghị cung cấp cho bọn họ một danh nghĩa: loạn chiến quốc ở Nhật Bản khiến cho dân chúng lầm than, địa bàn thống trị của rất nhiều lãnh chúa đang hết sức khốn cùng, cho nên bọn họ rất muốn mua bán cùng Đại Minh, tiếc là Đại Minh ngoảnh mặt làm ngơ. Nếu như nay Đại Minh có người chủ động liên hệ bọn họ, yêu cầu bọn họ cử sứ giả lấy danh nghĩa nước Nhật Bản tiến cống thiên triều để khai thông mậu dịch thì bọn họ nhất định sẽ vui mừng đồng ý. Chính Thành Khởi Vân sẽ liên lạc với một vài lãnh chúa Nhật Bản khai thông bế tắc, lấp được mồm miệng của đám hủ nho trong triều.
Thật ra trong quá khứ, hai bên cử sứ giả tới lui lắm phen và cũng đã từng xảy ra việc có kẻ giả mạo sứ giả Nhật Bản gạt lấy quà biếu của Đại Minh. Có điều lần này là trong ngoài cùng nhau tính kế để vượt qua ngọn núi "chế độ triều cống" cheo leo không thể vượt qua đang chẹn ngang công cuộc giải trừ cấm biển. Thế nên một khi sự tình bị lộ, nếu y không thể thoát khỏi trách nhiệm thì sẽ phạm tội khi quân. Do đó tuy Dương Lăng đồng ý mạo hiểm thử một phen song trong lòng cũng hơi lo âu thắc thỏm.
Nghe Thành Khởi Vận nói vậy, Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:
- Cô nói hồng phúc tề thiên gì đó, vậy đội sứ giả tiến cống này là do vị lãnh chúa nào phái tới?
Thành Khởi Vận bật cười khanh khách, rồi nhoẻn miệng cười đáp:
- Là Văn Quy (Kameyama)... à không, hiện tại đã đổi quốc hiệu lại thành Vĩnh Chính (Eishou) rồi, là đặc sứ của quốc vương Vĩnh Chính ạ.
Dương Lăng cả kinh:
- Cô liên lạc được với thiên hoàng chân chính của Nhật Bản?
Thành Khởi Vận mỉm cười đáp:
- Vâng! Thế nên mới nói đại nhân được cát tinh chiếu trúng đó. Thông qua hải tặc Đông Hải ti chức quen biết được một thương nhân, lại thông qua hắn mà liên lạc được với một vị lãnh chúa ở Cửu Châu. Vị lãnh chúa này đang bị nền kinh tế suy kiệt nơi mình quản hạt hành cho sứt đầu mẻ trán, hay tin liền mừng rỡ khôn xiết, lập tức đồng ý ngay.
Lãnh chúa này lại có quan hệ cực tốt với một vị thân vương, cho nên cũng không giấu giếm vị thân vương đó, lúc vị thân vương đến viếng liền nhắc đến chuyện này. Đương nhiên nguyên nhân chính là vì lúc này sức ràng buộc của hoàng thất đối với các lãnh chúa cực kì có hạn, cho nên căn bản hắn không sợ Thiên hoàng phản đối. Nào ngờ sau khi vị thân vương đó đề cập chuyện này với Thiên hoàng Vĩnh Chính, liền như ánh sớm ban mai rọi xuống đầu giường, vị Thiên hoàng ấy liền hành động quyết đoán. Vị này liền qua mặt các thế lực lãnh chúa địa phương mà phái luôn đặc phái viên tìm đến người liên lạc do ti chức phái đi, chủ động kết giao cùng Đại Minh.
Hóa ra kinh tế của hoàng thất Nhật Bản cũng đã túng bấn đến cùng cực, Hậu Thổ Ngự Môn (Go-Tsuchimikado) thiên hoàng tiền nhiệm tạ thế đã mấy năm mà vẫn không có tiền bạc để thu xếp an táng. Thiên hoàng Vĩnh Chính đăng cơ đã năm năm mà thậm chí cả nghi thức đăng cơ cũng lo liệu không nổi. Rất nhiều nghi thức triều đình đều bị ép buộc phải hủy bỏ. Nếu Đại Minh đã có ý định kết giao, bọn họ đương nhiên vui lòng liên lạc cùng Đại Minh.
Dương Lăng nghe thế cả mừng, vậy là lần này ngay cả chuyện triều cống cũng thành danh chính ngôn thuận, hàng thật giá thật rồi, sau này không cần phải lo nghĩ gì nữa. Thành Khởi Vận nói tiếp:
- Theo tình hình mà ti chức nắm bắt được, thì ngày nay ở Nhật Bản tướng quân Mạc phủ đã trở thành cờ hiệu. Hai thế lực lãnh chúa lớn nhất là dòng họ Đại Nội (Dainai) và dòng họ Tế Xuyên (Hosokawa).
Bọn họ đều có mật thám riêng của mình trong triều. Khi nghe nói Thiên Hoàng định cử sứ giả đến Đại Minh, hơn nữa còn hủy bỏ cấm biển toàn diện, cho phép bá tánh tự do buôn bán, đều là lợi ích khổng lồ của việc thông thương cùng Đại Minh. Do đó, cả hai vị lãnh chúa liền tranh nhau làm đại diện quốc vương để yết kiến thiên triều nhằm tranh thủ kiếm lấy lợi ích lớn nhất cho vùng đất mà bọn họ quản hạt.
Theo ti chức nghĩ, nếu đại nhân xây dựng thủy quân, phối hợp cùng thủy quân Nhật Bản để bắt tay diệt trừ giặc Oa, mau chóng quét sạch hải cương, hoàn thành đại kế mở biển thông thương, giao lưu vạn quốc, tất phải tìm đến những lãnh chúa có năng lực thì bọn họ mới có thể thật sự phát huy tác dụng.
Hai vị lãnh chúa đó đều có quân lực mạnh nhất, hơn nữa do tranh nhau làm sứ giả tiến cống mà cãi nhau túi bụi, cho nên ti chức đã kiến nghị bọn họ cử ra hai vị chánh sứ. Hì hì!
Thành Khởi Vận cười xảo quyệt nói tiếp:
- Đã là làm ăn, mà có hai người mua, vậy chúng ta sẽ có thể nâng giá. Nếu có hai người bán, vậy chúng ta sẽ có thể ép giá. Buôn bán mà đảm bảo không lỗ như thế, cớ sao lại không làm?
Dương Lăng nghe nàng nói xong, trong lòng mừng rỡ vô cùng, hiểu được những nội tình này sẽ nắm được quyền chủ động trong lúc đàm phán. Như chuyện ở Liêu Đông, vì cùng chống Thát Đát nên triều đình không thể không ban ơn với Đóa Nhan Tam Vệ để tính kế lâu dài. Nay xem ra bọn họ sẽ không cần phải nhượng bộ gì với sứ giả Nhật Bản sất.
Y lắc đầu cười, khen:
- Đáng sợ thật! May mà bản quan không phải là địch thủ của cô. Bằng không thì quả thực đã bị cô bán đi rồi còn phải kiếm tiền mang về cho cô nữa.
Thành Khởi Vận hé môi cười duyên:
- Vậy cũng không hẳn, ngay cả tường thành còn không đỡ nổi số đỏ của đại nhân nữa là! Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, đại nhân có ông trời chống lưng cho, nói không chừng kẻ tự bán thân giúp đại nhân kiếm bạc mới là thuộc hạ đó.
Dương Lăng cười to, bảo:
- Cô là nữ Gia Cát của tôi, có cho tôi nghìn vàng tôi cũng sẽ chẳng nỡ buông tay đâu!
Nghe vậy Thành Khởi Vận liền đảo tròng mắt, cũng duyên dáng đáp lại:
- Đại nhân cũng là tri kỷ Bá Nha của ti chức. Dẫu cho có người dốc cả thiên hạ ra mua, ti chức cũng sẽ không nỡ buông tay.
Hai người bốn mắt nhìn nhau, rồi bất thình lình đều đỏ mặt.
Ngày trước Thành Khởi Vận lõa thể gặp mặt Dương Lăng cũng vẫn mỉm cười thoải mái, tự nhiên như không, thế mà lúc này lại e thẹn bối rối không nói nên lời.
Nàng đứng dậy giấu thẹn, thướt tha đi đến bên giá sách tùy ý rút ra một quyển rồi ngồi xuống ghế dựa bên tường. Chân phải vắt nhẹ lên gối trái, hênh hếch chiếc giày thêu màu đỏ xinh xinh, nàng đằng hắng giọng:
- Đại nhân đã biết những gì muốn biết rồi, cũng nên đi gặp Liên Nhi cô nương đi. Bằng không e rằng Liên Nhi sẽ oán hận trong lòng, nghĩ sao ti chức lại không biết điều đó!
Nàng yêu kiều ngồi, nửa như lẳng lơ, nửa như nhàn nhã, ánh đèn dịu dàng như nước thấm vào, càng làm tôn lên bờ eo như thắt lụa của nàng. Dung nhan không tô điểm, thùy mị lả lơi, quyến rũ không lời tả xiết.
Nhớ lại cảnh tượng kiều diễm và lãng mạn cùng Mã Liên Nhi dưới tàn cây phong lá đỏ trên núi Tê Hà, trong lòng Dương Lăng không khỏi nóng bừng. Vị cô nương si tình đó, quả thực đã vì mình mà hy sinh rất nhiều. Mình thì xuôi nam ngược bắc, để lại người con gái đang mang thai như nàng ấy ở lại Kim Lăng một mình, quả thực cũng quá phụ bạc rồi. May mà nàng ta thấu tình đạt lý, người con gái cao ngạo đó vẫn trước sau không lời oán hận.
Ngữ khí tròng ghẹo của Thành Khởi Vận lại dường như hơi mang theo chút ghen hờn, nhưng gặp lúc Dương Lăng lại đang nghĩ đến Liên Nhi nên không cảm nhận được. Y mỉm cười, đứng dậy bảo:
- Đi đường xa về, chắc cô cũng đã mệt rồi, nghỉ ngơi sớm một chút đi. Ngày mai tôi sẽ đãi tiệc tẩy trần cho cô lần nữa.
Thành Khởi Vận gật đầu cười yếu ớt. Dương Lăng xoay người bước ra khỏi phòng, rèm châu đong đưa, nụ cười yếu ớt trên khuôn mặt của Thành Khởi Vận vụt tắt. Nàng đăm chiêu ngắm nghía lọn tóc rũ xuống trước ngực, thở dài ai oán: "Chờ thì vẫn phải chờ, còn hơn là ngay cả cơ hội để đợi chờ cũng không có. Ôi, thật là hận không thể bổ cái đầu gỗ của Dương bồ tát chàng ra làm củi đốt cho rồi..."
Góc tường mờ ảo ánh đèn, ánh sáng mờ ảo tạo nên một quầng sáng vàng nhạt mông lung. Dưới quầng sáng, Thành Khởi Vận xoa nhẹ cánh tay trắng muốt như lược ngà; thân thể mềm mại đang ngồi trông đặc biệt lung linh...
QC: Tinh Hoa Tam Quốc | Độc Cô Cửu Kiếm
[I]Chú thích:
(1) là loại kiếm nhật rất dài
(2) còn gọi là Chiến tranh Ōnin, là cuộc nội chiến từ năm 1467 đến năm 1477 thuộc thời kỳ Muromachi ở Nhật Bản. Nguyên cớ là cuộc tranh chấp giữa Hosokawa Katsumoto và Yamana Sōzen nhưng sau leo thang thành cuộc nội chiến, lôi cuốn theo Mạc phủ Ashikaga và rất nhiều lãnh chúa (daimyo) khắp nước Nhật. (trích từ wikipedia)
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Lôi Đế
Ngược Về Thời Minh Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)
-----oo0oo-----
Quyển 6: Thi Hành Đại Đạo, Sống Lối Phong Lưu.
Chương 238: Đại trượng phu vô vi mà trị.
Dịch: TheJoker
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: TTV
Đoạn y vỗ nhẹ lên vai Đường Nhất Tiên, giải bày:
- Liên Nhi và anh quen nhau từ rất lâu, sớm đã có đính ước chung thân, kết quả nay Ngọc Nhi và Tuyết Nhi đều được cưới trước nàng ấy, hơn nữa còn được ban cho danh phận Cáo Mệnh. Tuy ngoài miệng nàng ấy không nói ra, song trong lòng sao có thể không lo lắng? Cô ấy hoàn toàn không biết gì về tính tình của Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, chẳng lẽ không sợ vào nhà họ Dương rồi sẽ bị người ta ức hiếp sao?
Chuyện trong nhà ấy mà, khi mà thị phi chưa rõ ràng, chủ nhân gia đình có lúc phải nên khoan dung, có lúc cần giả bộ hồ đồ. Chỉ cần cân bằng sao cho khéo, đừng để xảy ra chuyện gì lớn, thì sẽ hoà hợp ấm êm thôi! Hà hà, đó gọi là vô vi mà trị.
Như một cô chim khách hạnh phúc, Mã Liên Nhi vừa ngâm nga một khúc hát vừa bận bịu lôi quần áo lót vốn để cho tôi tớ dọn dẹp ra khỏi bọc đồ, xếp ngay ngắn rồi đặt ở đầu gường.
Trong phòng bao phủ bởi một mùi thơm nhàn nhạt, Dương Lăng khép lại cửa phòng, mỉm cười ngắm bóng lưng nàng. Dáng người Mã Liên Nhi thon thả thướt tha, vai và lưng vẫn nhỏ nhắn, mặc dù đã cấn thai rất lâu song vẫn không mất được dáng người mảnh khảnh. Rõ ràng nàng mang thai trước Hàn Ấu Nương cả nửa tháng, ấy vậy mà khi nhìn từ phía sau lại không thấy bụng gồ lên lắm.
Người ta nói phụ nữ mang thai như mang lò lửa trên người, quả thật không sai chút nào. Cái rét đầu xuân chưa tan, vậy mà nay Mã Liên Nhi lại chỉ mặc độc một chiếc áo dài sốp nhẹ. Nàng khom người thu dọn quần áo, chiếc áo dài mềm mại ép sát vào người lộ bờ mông khá tròn trịa và săn chắc, chính giữa lõm vào một rãnh lờ mờ, như thể ẩn dưới lớp áo là một quả đào mật chín mọng trắng ngần đang chực phá lớp vỏ mỏng, ứa mật thơm lừng.
Dương Lăng nhìn mà thấy rung động trong lòng. Y nhỏ giọng gọi:
- Liên Nhi!
Thoáng run lên, Mã Liên Nhi thoắt xoay người lại, mừng rỡ nhìn Dương Lăng rồi chợt chạy ào tới sà vào lòng y, nước mắt không kìm được cứ trào ra.
Thấy nàng ôm cái bụng bầu chạy ào tới như vậy, Dương Lăng sợ giật nảy cả mình, liền vội kêu:
- Đi chậm thôi, đi chậm thôi! Nàng đang mang thai sao lại còn nhảy nhót lung tung như con nít thế, chẳng chín chắn chút nào cả!
Mã Liên Nhi ngừng khóc gượng cười, nhẹ nhàng đứng thẳng người lên, nguýt yêu y rồi nói:
- Chàng thật là vô tâm, người ta trông ngóng đến mòn con mắt chàng mới sai Thành tỷ tỷ tới. Nếu không chủ động dâng đến tận cửa thì không biết đến khi nào Dương đại hầu gia chàng mới chịu đi thăm thiếp đây.
Dương Lăng cười áy náy:
- Nàng tưởng ta không nhớ nàng sao? Chẳng qua vừa về kinh ta liền bận rộn bao việc, có mấy việc mà giao cho người khác thì ta thật không yên tâm. Còn ở bên Giang Nam đã có Thành đáng đầu chủ trì, ta không tin có việc gì có thể làm khó được cô ấy. À đúng rồi, Thành đáng đầu làm thế nào mà đưa nàng đi được vậy?
Dương Lăng nắm tay dìu Mã Liên Nhi đến ngồi xuống bên giường. Mã Liên Nhi khẽ dựa vào lòng y, kể lại sự tình đã qua. Thì ra sau khi nhận được truyền tin của Dương Lăng, Thành Khởi Vận liền giả làm bà con của hải tặc Vương Bành lão thái gia mà dời đến ở Trường Can Lý, âm thầm gặp mặt Mã Liên Nhi, sau đó công khai kết bái làm tỷ muội.
Thành Khởi Vận sắm một tòa trạch viện rộng lớn dưới chân núi Tê Hà. Lúc này bụng Mã Liên Nhi đã bắt đầu gồ lên, sắp giấu không nổi những người bên cạnh, Thành Khởi Vận bèn vịn cớ mời tỷ muội kết bái đến tiếp đãi để đưa Mã Liên Nhi về nhà. Lúc này Mã Ngang cũng đã được điều về Kim Lăng làm quan dưới trướng quan thủ bị, có hắn giúp đỡ che giấu càng khiến cho người khác không nghi ngờ gì. Lần này Thành Khởi Vận trở về kinh thành, Mã Liên Nhi khăng khăng đòi theo, nghĩ thấy cả đi lẫn về cùng lắm chỉ mất khoảng một hai tháng, Thành Khởi Vận bèn tự làm chủ mà đưa nàng theo. Song kế tiếp an bài thế nào thì nàng ta không dám tự quyết mà để cho Dương Lăng quyết định.
Nghe kể xong Dương Lăng cũng cảm thấy có phần khó xử. Liên Nhi vẫn phải chịu tang cha thêm gần hai năm, chẳng lẽ đến lúc đó để nàng dẫn thằng nhóc biết gọi "ba ba" đến kinh thành tìm chồng? Nhưng nếu kiên quyết giữ nàng lại, ở thời đại cực kỳ xem trọng đạo hiếu này y sẽ khó tránh bị hặc tội.
Tuy rằng Dương Lăng hiện đã quen với việc bị hặc tội, kiểu như lợn đã chết thì sợ quái gì nước sôi, song thật ra mỗi lần bị hặc tội y đều đã có sẵn kế sách để phản kích. Nay chuyện này tuy nhỏ nhưng những kẻ đang nhòm chằm chằm vào y lại đều đứng trên quan điểm đạo nghĩa cao vút. Đứng trước đạo hiếu vốn chỉ xếp sau "trung với vua", đối diện với mồm miệng văn chương lê thê và ngòi bút công kích mãnh liệt y sẽ hoàn toàn rơi vào thế bị động.
Dương Lăng không tin sóng to gió lớn gì y cũng đã vượt qua mà lại không bước qua được cái hố cỏn con này. Hai người mới gặp lại nhau nên y không muốn nói tới những chuyện phiền lòng này, bèn ôm lấy vai Mã Liên Nhi, xoa nhẹ bụng nàng, cười nói:
- Xem nàng đi đứng nhanh nhẹn khoẻ mạnh, tám chín phần mười sẽ sinh cho tướng công một thằng nhóc rồi.
Mã Liên Nhi dẩu miệng cười duyên:
- Chàng thật! Chẳng lẽ chàng biết xem tướng à? Thiếp thì lại nghe nói rằng bụng nhọn sẽ sinh trai, còn bụng tròn sẽ sinh con gái. Thế nhưng thiếp nhìn tới nhìn lui mà vẫn không nhìn ra được nó nhọn hay là tròn, còn phu quân thấy sao?
Nếu như Thành Khởi Vận muôn vẻ phong tình thì Mã Liên Nhi lại là trời sinh quyến rũ, bất kể là nàng thẳng áo ngồi ngay hay tẩy son xoá phấn thì vẫn không thể xoá bỏ được cái vẻ dịu dàng đáng yêu toát ra từ tận bên trong. Chỉ cần nàng đứng yên một chỗ, dịu dàng và thướt tha, thì khắp người nàng không chỗ nào sẽ không lập tức toát ra vẻ kiều mị ấy. Lúc này hai mắt rơm rơm chực trào trông càng tươi đẹp như thiên nhiên sẵn có.
Khuôn mặt kiều diễm áp gần đến nỗi mọi đường nét trở nên lờ mờ, chỉ có làn thu ba yêu kiều ập vào trong tầm mắt. Dương Lăng rung động trong lòng, chậm rãi kề mặt đến gần. Liên Nhi không hề cử động; bộ ngực phập phồng, bờ môi đầy đặn hé hờ.
Bốn môi chạm nhau, ngọt ngào, mềm mại. Hai người cứ dịu dàng tiếp xúc với nhau như vậy. Chốc sau Dương Lăng khẽ tách người ra, Mã Liên Nhi vẫn ép người theo, nhắm mắt rên lên một tiếng rồi lại nhào vào lòng y, hai cánh tay trắng nõn vuốt ve khắp người Dương Lăng, thì thầm:
- Phu quân, Liên Nhi nhớ chàng lắm. Lúc không gặp được chàng, thiếp chỉ hận không thể trừng trị được chàng một phen, nhưng khi gặp chàng rồi, thiếp lại chỉ muốn... chỉ muốn chàng thật yêu thiếp...
Dương Lăng nhẹ nhàng xoa nắn ngực lẫn mông nàng. Tay ngọc của Liên Nhi cũng vuốt ve khắp người y, rồi luồn xuống dưới đáy áo, nắm lấy một vật đang "nghểnh cao". Dương Lăng cứng đờ người, cảm thấy kích thích không thôi. Y run giọng bảo:
- Liên Nhi, đừng đùa nữa! Nàng... nàng chịu không nổi đâu. Muộn rồi, nàng đi ngủ trước đi...
Mã Liên Nhi chợt mở mắt ra, ánh mắt mê ly ngước nhìn y đầy trìu mến:
- Phu quân có muốn không? Liên Nhi đi ngủ, vậy còn phu quân thì sao?
Âm thanh của nàng như nỉ như non, khiêu gợi động lòng người. Tay ngọc chợt siết nhẹ, bộ phận mẫn cảm của Dương Lăng bất ngờ bị bàn tay mềm mại láng mịn của nàng bóp nhẹ, y bất giác rên lên một tiếng; lửa dục càng sôi lên sùng sục.
Mã Liên Nhi cười quyến rũ, thỏ thẻ:
- Phu quân định đi tìm hai nàng ái thiếp hoàng thượng ban thưởng cho chàng ư? Là Ngọc Nhi... hay là Tuyết Nhi... Còn lâu Liên Nhi mới cho chàng đi!
Hai má ửng lên như tô phấn, trong mắt đã lờ mờ hơi nước, nàng khẽ khàng đẩy nhẹ y xuống. Sợ nàng bị động thai, Dương Lăng không dám chống cự nên bèn thuận thế nằm dựa xuống lớp chăn gấm đã được xếp lớp. Mã Liên Nhi thè lưỡi liếm môi như một chú mèo, rồi chợt cuối người xuống, vùi trán vào trong đáy áo y.
Một tiếng xuýt xoa khẽ cất lên. Sau chút đùa nghịch, "con rồng trọc" căng mình chui vào trong một nơi ẩm ướt và chật chội, âm ấm, mềm mại, gấp gáp... mười ngón tay thon lúc thì như gảy đàn, lúc thì như thổi sáo. Dương Lăng chỉ cảm thấy giữa cặp môi mỏng manh đó như đang có những chú lươn lẫn cá chạch chen nhau nhảy lên, đớp mút nghịch đùa, khiến người ta không nhịn được mà bật ưỡn lưng cong, tê sướng.
Không biết bao lâu, tiếng thở hổn hển dịu lại, căn phòng ngập tràn một bầu không khí kiều diễm. Dương Lăng ôm giai nhân phơi phới trong lòng, cùng nằm song song trên chiếc chăn gấm, mỉm cười bảo:
- Giang Nam phong tục xa hoa, quả thật không sai chút nào. Nha đầu nàng cũng nhiễm thói hư rồi...
Mã Liên Nhi đã súc miệng xong, nghe vậy liền bĩu môi đáp:
- Mấy thứ sách truyện và tranh vẽ đó còn không phải do những kẻ đọc sách trang nghiêm và đạo mạo các chàng soạn ra ư? Chàng không thích à? Uổng công người ta bỏ sức lấy lòng hầu hạ phu quân chàng đây.
Dương Lăng vội đính chính:
- Thích mà, thích mà! Sau này nó sẽ là tiết mục làm vốn của chúng ta nhé?!
- Hử?
Mã Liên Nhi chớp chớp mắt, Dương Lăng đành cười hề hề, lướt qua chuyện đó.
Nằm kề tai nhau một lúc, Dương Lăng nhớ ra hôm nay nàng mới về tới, bèn bảo:
- Nàng nghỉ ngơi sớm đi! Ngựa xe cả một chặn đường dài, nhất định là rất mệt.
Mã Liên Nhi "ưm" một tiếng, uể oải ngồi dậy, tinh nghịch cười nói:
- Giờ phu quân muốn đi đâu ngủ thì đi đi. Đêm nay Liên Nhi phải hầu chuyện Ấu Nương muội muội. Lâu ngày không gặp, Liên Nhi có rất nhiều chuyện muốn nói, lúc nãy đông người nên có điều bất tiện.
Sớm muộn gì cũng sẽ đều là người một nhà, thấy nàng và Ấu Nương thân mật như vậy, tất nhiên là Dương Lăng mừng còn không được, nên lập tức đứng dậy đưa Liên Nhi đến phòng Ấu Nương. Cùng hai nàng trò chuyện một lúc, đưa hai vị ái thê lên giường ngủ xong Dương Lăng mới đi ra, tiện tay đóng cửa lại.
Lúc này sắc trời đã tối, các phòng đa số đều đã tắt đèn, chỉ còn mấy ngọn đèn treo dưới hành lang vẫn còn đong đưa, Dương Lăng tiện chân bước về phía phòng Ngọc Đường Xuân. Vừa mới đến dưới chái hiên, chợt y thấy một bóng người xinh đẹp từ trong phòng Ngọc Đường Xuân bước ra. Dương Lăng vẫn đứng tại chỗ, nhận thấy người đang lững thững đi đến là Đường Nhất Tiên, y bèn cười hỏi:
- Muộn như vậy rồi mà em còn chưa ngủ, lại đi tìm Ngọc Nhi để nói chuyện à?
- Biểu ca? - Đường Nhất Tiên cũng hơi bất ngờ, lấy làm lạ hỏi: - Sao anh lại đến vậy? Chẳng phải anh ngủ trong phòng đại tẩu sao, anh cũng nên bầu bạn với Liên Nhi tẩu tẩu mới phải chứ.
Dương Lăng cười đáp:
- Liên Nhi cách biệt Ấu Nương lâu ngày, nay mới được trùng phùng. Có chút chuyện riêng muốn tâm sự nên hôm nay chị ấy dọn sang ngủ chung với Ấu Nương rồi.
Đường Nhất Tiên xoay chuyển tròng mắt mấy lượt, chợt hừ khẽ một tiếng, lầu bầu:
- Tiên Nhi không thích Liên Nhi tẩu tẩu, chị ấy quá mưu mô.
- Ồ? - Dương Lăng chớp mắt, hỏi: - Hiếm khi thấy Tiên Nhi hằng ngày chỉ biết cười đùa nay cũng dẩu miệng chê bai à nha! Liên Nhi ức hiếp em à?
- Cái đó thì chưa, - Đường Nhất Tiên tức tối đáp - Dù sao cũng... cũng là Tiên Nhi không thích. Lẽ ra... đây là chuyện gia đình biểu ca, em không nên xía vào; chẳng qua em thấy chị ấy tính kế hai chị Ngọc Nhi và Tuyết Nhi nên cảm thấy bất bình thay cho hai chị mà thôi.
Dương Lăng bị tính khí trẻ con của nàng chọc cười, bèn ngồi xuống băng ghế đá dài dưới mái hiên, vỗ vỗ lên băng ghế bảo:
- Đến đây, ngồi xuống nói cho biểu huynh nghe, chuyện gì khiến cho em không vừa mắt vậy?
Đường Nhất Tiên bước đến ngồi xuống cạnh y, lẩu bẩu lầu bầu:
- Em nói ra rồi anh không được giận, nói là em đâm bị thóc chọc bị gạo đâu đó! Em có cảm giác là từ khi chị dâu Liên Nhi vào nhà chúng ta, chị ấy tỏ ra hết sức thân thiết với chị dâu cả, dường như cố ý lạnh nhạt với Tuyết Nhi và Ngọc Nhi vậy. Chị ấy đường xa mà tới, nếu nói nhớ thì cũng nên nhớ anh nhất chứ, cho dù anh ngủ lại trong phòng chị ấy thì cũng là lẽ đương nhiên. Chị ấy còn chạy sang phòng đại tẩu trò chuyện, vì sao? Còn chẳng phải là để thị uy với Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, nói cho bọn họ biết rằng quan hệ giữa mình và đại phu nhân là thân thiết nhất hay sao? Hừ! Gia đình người ta vốn vui vẻ thuận hoà, em... không thích! Anh nên nói với chị ấy một tiếng đi, tránh để xảy ra chuyện.
Dương Lăng đánh thịch trong lòng. Liên Nhi chí tình chí nghĩa, điều đó không sai, có điều với cá tính cao ngạo của cô nàng, nếu cô nàng giở chút trò ranh cũng không phải là không thể. Y lại nghĩ đến đêm nay Liên Nhi có dũng khí và nhiệt tình không kém gì lúc ở trên núi Tê Hà...
Dương Lăng khẽ cười, hỏi:
- Là Ngọc Nhi nói với em hả?
Đường Nhất Tiên cuống quít lắc đầu quầy quậy:
- Không phải! Không phải! Tính tình chị Ngọc Nhi điềm đạm nhất nhà, chị ấy mới là người không nói gì. Là em tự nhìn thấy thôi.
Dương Lăng bật cười:
- Vậy em nói thử xem Ngọc Nhi với em, ai thông minh hơn?
Đường Nhất Tiên thè lưỡi, cười hì hì đáp:
- Chị Ngọc Nhi thông minh hơn em nhiều lắm. Còn chị Tuyết Nhi ấy hả, cũng không kém hơn em là bao, có điều biểu muội em mới là người nhanh mồm nhanh miệng nhất.
Dương Lăng vuốt mũi nàng, mỉm cười nói:
- Cái tật nhanh mồm nhẩu miệng đó em nhất định phải sửa. Em đã sắp lớn rồi, không còn con nít con nôi nữa! Mai đây gả vào nhà chồng, nếu lúc nào cũng bốc đồng lỗ mãng thì sẽ tự hại chính mình đó! Ý anh không phải là muốn em là người suốt ngày giả lả vui cười, nhưng làm gì cũng nên suy xét, đứng dưới góc độ của đối phương mà suy nghĩ dùm người ta một chút, thì sẽ có lúc em cũng không để tâm vào những chuyện vụn vặt nữa.
Dương Lăng hít vào một hơi, nhỏ nhẹ giảng giải:
- Trước đây Liên Nhi vốn cởi mở hoạt bát, có tính cao ngạo của tiểu thư nhà quan, tiếc là thời vận không tốt. Ôi, cũng là do anh cả, nay nàng ấy còn chưa thành thân mà đã bụng mang dạ chửa, đến giờ anh vẫn chưa nghĩ ra làm thế nào để rước nàng ấy vào Dương phủ, lúc nào thì nàng mới có thể trở về đây? Cũng thật khổ cho nàng ấy.
Đoạn y vỗ nhẹ lên vai Đường Nhất Tiên, giải bày:
- Liên Nhi và anh quen nhau từ rất lâu, sớm đã có đính ước chung thân, kết quả nay Ngọc Nhi và Tuyết Nhi đều được cưới trước nàng ấy, hơn nữa còn được ban cho danh phận Cáo Mệnh. Tuy ngoài miệng nàng ấy không nói ra, song trong lòng sao có thể không lo lắng? Cô ấy hoàn toàn không biết gì về tính tình của Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, chẳng lẽ không sợ vào nhà họ Dương rồi sẽ bị người ta ức hiếp sao?
Chuyện trong nhà ấy mà, khi mà thị phi chưa rõ ràng, chủ nhân gia đình có lúc phải nên khoan dung, có lúc cần giả bộ hồ đồ. Chỉ cần cân bằng sao cho khéo, đừng để xảy ra chuyện gì lớn, thì sẽ hoà hợp ấm êm thôi! Hà hà, đó gọi là vô vi mà trị.
Liên Nhi là người con gái thông minh, vả lại không hề ngang ngược. Đến khi nàng ta hiểu rõ về tính cách của Ngọc Nhi và Tuyết Nhi rồi, tự nhiên sẽ dẹp bỏ được dè chừng thôi, em hiểu không? À, anh thì tin rằng, với sự thông minh vượt trội của bọn họ, ai lại không biết cái gì nên tiếp thu và cái gì nên bỏ qua, cho nên đương nhiên sẽ đối xử với nhau rất tốt. Ngọc Nhi không nói gì là bởi nàng ấy nhìn ra được điểm này, nha đầu ngốc ạ!
Đường Nhất Tiên há miệng muốn đáp nhưng chẳng nói được gì, mãi sau mới thiểu não:
- Hèn chi mà khi em nói với Ngọc Nhi, chị ấy chỉ cười mà không nói gì hết. Đáng ghét! Cả nhà mấy người đấu đá với nhau, kẻ này lại ranh ma hơn kẻ kia, hại em biến thành tiểu nhân đi châm ngòi thị phi rồi. Hôm nay may mà được nghe anh giải thích, bằng không về sau em tỏ ra bất mãn, đến khi người một nhà của các anh thân thiết nhau rồi thì em sẽ lại đắc tội với mọi người mất!
Nhìn thấy bộ dạng cười như kẻ trộm của Dương Lăng, Đường Nhất Tiên càng thêm tức giận. Nàng hừ lớn một tiếng, đứng phắt dậy, chống nạnh:
- Đương nhiên biểu ca vui rồi! Bọn họ thông minh nên mới sẽ không kèn cựa lẫn nhau, mới sẽ thi nhau lấy lòng biểu ca. Rốt cuộc em đã biết vì sao đám vương phi trong phủ Đại vương thì ai nấy lạnh nhạt với nhau như đá, còn cả phủ nhà anh đây lại trên dưới hoà đồng rồi.
Anh đó, giống hệt như cái tên giặc tai to Lưu Bị vậy. Văn võ chả thấy có bản lĩnh gì đặc biệt, song đều có kĩ năng như nhau, bất kể là quan văn tướng võ lợi hại tới đâu, vẫn cứ bị gạt cho ngoan ngoãn nghe theo, ai nấy đều hết mình phục vụ.
Thời đó "Tam quốc bình thoại(1)" và "Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa(2)" sớm đã được lưu truyền rộng rãi, Đường Nhất Tiên nghe riết nên quen. Nàng trừng mắt hạnh, tiếp tục cáu trách Dương Lăng:
- Hừ, uổng cho em còn lo lắng, lo lắng một khi vị Liên Nhi phu nhân này đến rồi, cuộc sống sau này của biểu ca sẽ gian nan vất vả. Cái đồ giặc tai to gian trá như quỷ nhà anh, thứ gì cũng đều không biết, chỉ biết làm cho người ta sợ thiên hạ chưa đủ loạn mà thôi!
Đoạn nàng chắp hai tay ra sau lưng, vùng vằng bỏ đi. Biểu cảm hồn nhiên và đáng yêu của Đường Nhất Tiên khiến Dương Lăng bò lăn ra cười.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Lôi Đế