Trên đồi, Ngũ Tử Tư tựa kiếm quỳ một chân xuống đất, khắp người đầy máu. Binh sĩ xung quanh hắn càng đánh càng ít, vòng tròn phòng thủ càng lúc càng bị thu hẹp, bại trận chỉ còn là vấn đề thời gian. Hắn liều chết cố thủ ở khe núi này, phía sau là một lối nhỏ, Ngô vương Cơ Quang đã bỏ chạy theo lối đó. Cơ Quang tức tối điên cuồng không chịu chạy tiếp bị Bá dẫn theo võ sĩ trung thành cứ thế mặc kệ kéo hắn đi, đó cũng là mệnh lệnh cuối cùng Ngũ Tử Tư giao phó cho Bá.
Bây giờ Cơ Quang bỏ chạy đã được một canh giờ, tuy nói toàn quân trốn chạy mất một phần, đầu hàng đi một phần, nhưng Ngũ Tử Tư thấy tất cả như thế cũng xứng đáng, ít đi đại quân vướng chân bận cẳng, Cơ Quang có thể cải trang làm thường dân, đường lớn lối nhỏ, núi sông kênh rạch đều có thể tùy ý chọn lựa, chỉ cần đại vương bình an trốn được về Cô Tô thành, đại sự chưa chắc đã hết cách.
Ai mà ngờ được, quân trấn thủ Vũ Nguyên đến cứu viện lại là một lũ sói dữ đến vồ mồi, trong lúc không hề phòng bị, lại mệt mỏi vì bị truy đuổi, cánh quân của Cơ Quang vốn đã không thể địch lại, đúng lúc này truy binh của Khánh Kỵ từ sau lưng đuổi kịp, đại quân trước sau đều bị đánh, nhanh chóng bị xẻ ra làm nhiều mảng, có người bỏ trốn, có kẻ đầu hàng, khí số đã tận, giờ đây chỉ còn cánh quân của Ngũ Tử Tư liều chết giữ lấy đường núi yểm trợ cho Ngô vương Cơ Quang tiếp tục trốn chạy.
Vết thương cũ trên người của Ngũ Tử Tư giờ đã toát ra, vì mất máu quá nhiều, trước mắt hắn là một màn sương đen, toàn thân dần dần lạnh toát, hắn biết sứ mạng của hắn sắp kết thúc, mối thù gia tộc đã được trả, bây giờ là lúc hắn dùng tính mạng đền đáp Ngô vương Hạp Lư, chết cũng coi như xứng đáng rồi.
Số binh sĩ còn kề cận chiến đấu đều là các dũng sĩ thề chết tận trung, số người này mặc dù đang liều mạng chém giết như cọp điên, nhưng đã là mũi tên bắn đến tận cùng không còn sức phóng, ngay cả quay qua lo cho tướng quốc đại nhân cũng có lòng không có sức.
“Xông qua đó! Cơ Quang không còn bao nhiêu vệ sĩ bên mình, đừng để hắn trốn thoát, nhất định phải bắt cho được hắn!” Chúc Dung hét lớn, quét mâu gạt ngang một kiếm một kích đâm tới ngang ngực, hùng hổ lao lên chém giết, Bình Bố dẫn theo binh sĩ theo sát đằng sau. Ngũ Tử Tư hít một hơi dài, lao lên đâm một nhát kiếm, bị Bình Bố giơ kích gạt phăng, sải bước lao nhanh vượt qua hắn.
Ngũ tướng quốc biết giờ như chim bay trong lồng, chức quan của hắn cao vốn là một công lao khá lớn khi lấy đầu hắn, nhưng so với sức hấp dẫn từ Cơ Quang thì vẫn kém xa. Bình Bố lúc này chỉ muốn bắt sống Cơ Quang, lập công lớn để được phong hầu bái tước, đâu cần để mắt tới Ngũ Tử Tư xưa nay hắn luôn cung kính không dám to tiếng giờ đang hấp hối ở đó.
Lại một đám người xông tới, Ngũ Tử Tư nhận ra người dẫn đầu là Xích Trung, bỗng nổi giận đùng đùng, gào to: “Phản đồ!”
Hắn đứng chưa vững lại cầm kiếm lao lên, Xích Trung thấy là tướng quốc, khuôn mặt thoáng lộ vẻ hổ thẹn, không tự chủ được bước lui vài bước, một tên lính kế bên thấy có cơ hội tốt, đâm một nhát kiếm xuyên qua lớp giáp da của Ngũ Tử Tư, dưới bụng Ngũ Tử Tư lập tức máu tuôn như suối.
“Á!” Ngũ Tử Tư rú lên đau đớn, tay trái nắm chặt chuôi kiếm chém phạt vào tên lính, tên lính trong lúc đang khoái chí vì đâm trúng Ngũ tướng quốc nên không hề đề phòng, bị Ngũ Tử Tư chém bay mất nửa cái đầu. Ngũ Tử Tư lảo đảo lùi lại, một cây kích lại đâm tới xuyên qua đùi trái của hắn, Ngũ Tử Tư trừng mắt nhìn lên, tên lính kia hoảng sợ run tay, cây kích dài bén nhọn không đâm tiếp nữa, chỉ thấy tay Ngũ Tử Tư khẽ động đậy, tên lính sợ hãi hét toáng lên bỏ cả kích chạy ra xa.
Ngũ Tử Tư cười như điên dại, nón giáp trên đầu hắn đã bị chém bay, mái tóc bạc phơ rối tung trong gió, vẻ uy nghi của hắn vẫn còn, tuy toàn thân đầy máu nhưng không ai dám lại gần, nhưng ai nấy nhìn thấy vết thương của hắn máu tươi không ngừng tuôn ra, đều biết vị tướng quốc đại nhân này không còn sống được bao lâu nữa.
Ngũ Tử Tư cười điên dại xong, ho lên vài tiếng, khóe miệng chảy ra máu tươi, hắn lảo đảo lui thêm vài bước, vấp ngã ra đất, mấy tên thị vệ cận thân đang ra sức chiến đấu với quân Khánh Kỵ, có người muốn đến cứu, hơi chút lo là phân tâm lập tức bị đâm chết, giờ đây xung quanh Ngũ Tử Tư là một đám binh sĩ của Khánh Kỵ đang lăm lăm trường mâu bao vây hắn ở giữa.
Mấy tên lính liếc mắt nhìn nhau, nổi lòng ham muốn lập công, đột nhiên cùng lúc hét lên, không ai bảo ai giơ binh khí đâm thẳng vào Ngũ Tử Tư.
“Hứ!” Ngũ Tử Tư chống kiếm xuống đất, gằn to một tiếng, ánh mắt dữ tợn, mười mấy cây trường mâu vốn đã đâm đến sát bên, bị hắn trừng mắt liếc nhìn, đám binh sĩ mất hết dũng khí, đều nhất tề ngưng lại.
“Đầu của Ngũ Viên, có thể đổi chức vạn hộ hầu, ai dám đến đây mà lấy?” Ngũ Tử Tư lại hét to, mười mấy tên lính không dám tiến lên mà cùng lui cả lại.
Ngũ Tử Tư giơ tay vận sức, phóng thanh kiếm trong tay ra, vì cố gắng phóng kiếm, hắn ngã chúi nhủi về phía trước, vì hắn đã không còn chút sức lực, kiếm phóng ra bay với tốc độ không cao, bị một tên lính giơ khiên lên đỡ, kiếm chạm cái mạnh vào tấm khiên bắn bật trở lại, rơi ngay trước mặt hắn.
Tiếng bước chân vang lên, Ngũ Tử Tư khẽ ngẩng đầu, chỉ thấy đại quân bao vây hắn tách ra nhường cho một lối đi, một nam tử mặc áo bào đen đi giầy vải đi đến trước mặt hắn, tay áo bào màu trắng của ánh trăng, trên có thêu họa tiết hoa mai, viền giầy vải cũng là màu trắng, bước chân đạp lên bãi cỏ xanh mướt dưới đất, vững vàng có sức.
Ngũ Tử Tư ngẩng đầu lên, màn sương đen nơi đôi mắt đã biến mất, mặt mũi của người này hiện lên rõ mồn một, đó là một nam tử tuấn tú, nhìn dáng vẻ chưa đến ba mươi tuổi, không mặc áo giáp, chỉ đeo một thanh kiếm ngang hông.
Ngũ Tử Tư không biết người này, nhưng hắn nhận ra người này phải là chủ tướng trong quân Khánh Kỵ, vì khi người này xuất hiện, tên Xích Trung phản bội lại cung kính lui lại, tỏ vẻ thần phục.
“Rút kiếm ra, đánh với ta!” Ngũ Tử Tư rít qua kẽ răng, đưa tay muốn nhặt kiếm.
Người kia khẽ cử động, chiếc giầy vải nhè nhẹ nhấc lên, sau đó đạp lên thanh kiếm dưới đất, cất tiếng ảm đạm: “Thắng thua đã rõ, đâu cần thiết tỏ ra ngoan cố.”
Ngũ Tử Tư ngước mặt nhìn hung tợn vào hắn, người kia thần thái ung dung, không thèm nhúc nhích.
Ngũ Tử Tư nhắm mắt hồi lâu, sầu não hỏi: “Ngươi là Tôn Vũ, hay là Anh Đào?”
“Tại hạ Tôn Vũ.”
“Ta…đã quá coi thường ngươi…”
“Tại hạ lại không dám coi thường tướng quốc đại nhân.”
“Hứ…, nên…ta mới thất bại…”
Tôn Vũ nghe hắn nói vậy, hình như có ý cho rằng hắn thua vì khinh địch chứ không phải thua vì tài dùng binh đánh trận, chỉ mỉm cười một cái, không lên tiếng cãi lại.
Ngũ Tử Tư cố sức muốn ngồi dậy, chỉ là toàn thân giờ không còn chút sức lực, cố gắng hồi lâu cũng chỉ lật mặt qua nằm ngửa lên trời, chóng mặt hoa mắt, một màn đen che kín mắt hắn.
Tôn Vũ từ từ ngồi xuống, Ngũ Tử Tư nhắm nghiền mắt, nghe giọng của Tôn Vũ văng vẳng bên tai, lúc rõ lúc không.
“Đại vương…đã chạy xa, sao ngươi không đuổi theo?”
“Cơ Quang rời khỏi đã lâu lắm rồi, đường núi khó đi, chắc đuổi không kịp.”
“Ha ha…Ngươi…không chịu phí thêm ít sức lực.”
“Ta chỉ là không muốn đi làm những chuyện không có cơ hội làm được.” Tôn Vũ bình tĩnh nói: “Sự thật là ta đã tiên liệu dù có đuổi kịp Cơ Quang cũng phải khổ chiến một phen. Quân trấn thủ Vũ Nguyên đầu hàng chúa công của ta, biến số này trước đó ta không dự liệu được.”
“Ngươi rất lợi hại, nhưng…nhưng…ta đã giữ được con đường núi này, các ngươi chưa bắt được đại vương. Đại vương hãy còn, ta…ta vẫn chưa…chưa thua…”
Ánh mắt Tôn Vũ lộ vẻ kính phục: “Phải, những gì tướng quốc muốn làm, đều đã hoàn thành rồi.”
Ngũ Tử Tư cười to: “Nếu không vì ai nấy có chủ nhân riêng, có thể chúng ta sẽ thành bằng hữu. Nào, chặt lấy cái đầu của ta đem dâng cho Khánh Kỵ, đó là một công lớn.”
Sức lực của Ngũ Tử Tư càng lúc càng cạn kiệt, hai mắt cũng không thể mở ra, mệt mỏi vô cùng, hắn chỉ muốn ngủ đi. “Tướng quốc cả đời anh hùng, không nên chết dưới tay người khác!” Trong lúc mơ màng, Ngũ Tử Tư cảm thấy có vật gì nhét vào tay hắn, dùng sức nắm chặt, mới biết đó là một thanh kiếm sắc bén.
“Cả đời anh hùng ư?...” Ngũ Tử Tư lẩm cẩm lặp lại câu nói đó của Tôn Vũ, tiếng bước chân đã đi xa, tiếng ra lệnh cho binh sĩ, tiếng binh sĩ rầm rập tập hợp thành đội ngũ, nhưng tất cả những thứ ấy dường như là âm thanh phát ra từ thế giới khác.
“Cả đời anh hùng ư?” Kí ức cả cuộc đời ùa về, Ngũ Viên từng là một công tử khôi ngô như ngọc, mang theo mối thù máu của gia tộc cô độc rời bỏ Sở quốc. Chính từ lúc đó, trong tim hắn chỉ có thù hận không thể hóa giải: Nửa cuộc đời lưu vong, nay đây mai đó, hận thù trong tim ngày càng trĩu nặng, máu hắn ngày càng lạnh căm, chính khách tâm địa nham hiểm ở Trịnh quốc, tướng quốc thủ đoạn ác độc ở Ngô quốc…
Đến hình ảnh đào mộ quất roi vào xác Sở vương ở Sở quốc, thứ đáng an ủi nhất, chính là khoảnh khắc ấy, lúc hắn trả được thù lớn, nét mãn nguyện nhanh chóng lướt qua trong lòng, sau đó lại rơi vào cõi hư vô…
Ngũ Viên cất lên hơi tàn cuối cùng: “Ta…Ngũ Viên ta…chưa bao giờ là một anh hùng. Ta chỉ là…chỉ là một… nam nhi tràn đầy thù hận…”
Hắn đưa kiếm từ từ kề lên cổ, hít một hơi sâu, năm ngón tay đầy máu nắm chặt chuôi kiếm, hồi lâu không thấy cứa xuống. Gió lay nhẹ mái tóc và chòm râu bạc của hắn, Ngũ Tử Tư đã tắt thở từ lâu…
Sau khi trốn khỏi vùng núi, Cơ Quang quay đầu lại nhìn vào dãy núi nhấp nhô sau lưng, nấc lên thảm thiết. Hắn biết rõ tướng quốc Ngũ Tử Tư không còn cơ hội sống sót, khi xưa dẫn theo bốn vạn đại quân đến Sở quốc, chiêu hàng nạp phản, quân đội tăng lên sáu vạn người, thế mà giờ đây bên cạnh chỉ còn hơn hai trăm quân. Từ vui đến buồn, từ thịnh đến suy, cứ như hoa quỳnh đêm khuya, quá trình hoa nở hoa tàn nhanh đến nỗi không cho ai có đủ thời gian nhìn cho rõ.
Bá vội an ủi: “Đại vương, đại vương không nên đau buồn quá, chúng ta có hai ba trăm người, mục tiêu vẫn còn khá lớn, đợi chạy đến làng mạc phía trước, mời đại vương tạm chịu đựng thay lấy trang phục thường dân, đám người này chia ra mười mấy đội làm nghi binh đánh lạc hướng. Tiểu thần dẫn theo mấy tên tâm phúc hộ tống đại vương lẻn về Cô Tô thành, đến lúc đó chúng ta vẫn còn cơ hội chỉnh đốn binh mã phản kích.”
Cơ Quang giậm chân giận dữ, ngửa mặt lên trời gào to: “Khánh Kỵ ơi là Khánh Kỵ, quả nhân không phanh thây ngươi ra làm trăm ngàn mảnh, tán xương cốt ngươi ra thành tro bụi, khó tiêu tan cơn hận trong lòng quả nhân!”
“Đại vương, chúng ta chạy mau thôi, nếu bị truy binh đuổi kịp, nhìn thấy con đường ta rút chạy thì khó thoát được lắm, sự hy sinh của tướng quốc đại nhân sẽ uổng phí, xin đại vương.”
Trong lúc vội vàng, Bá đưa tay kéo tay áo Cơ Quang, dáo dác nhìn quanh, Bá quyết định tránh xa lối mòn bên trái, chỉ tay sang dòng suối cỏ dại mọc um tùm bên phải nói: “Cứ đi men theo bờ suối che giấu tung tích, sau khi đi khỏi một đoạn ta băng vào rừng, trốn bọn truy binh…”
Cơ Quang thân là Ngô vương, chưa từng phải chịu khổ chịu nhục thế này, đoàn người vất vả lội xuống dòng suối tiến lên, đi được một dặm hơn, nhảy lên bờ chui vào rừng rậm đi tiếp.
Khu rừng hoang vu này ít có người qua lại, cỏ dại cao quá đầu người, đợi khi đám người Cơ Quang đi xuyên qua rừng, đến trước một cái hồ nhỏ, mồ hôi đã lấm tấm cả lưng, toàn thân rã rời, áo quần bị cỏ dại cứa rách bươm, dù là tướng lĩnh hay binh sĩ, lúc này nhìn vào không có gì khác biệt.
Chúng ùa vào bờ hồ uống lấy uống để, còn lấy nước rửa ráy vết thương, sau đó phấn chấn tinh thần vòng qua bờ hồ đi vào đường lớn.
Vừa đặt bước ra đường, thấy từ xa có một đám đông đang đi tới, Bá mới lủi thủi đi ra từ bìa rừng thất kinh hồn vía, như chim non sợ cành cong, hốt hoảng nói: “Đại vương mau chạy, chúng ta trốn vào rừng.”
Cơ Quang hứ một tiếng: “Hoảng cái gì? Ngươi không nhìn thấy chúng giơ cờ hiệu gì à?”
Bá nghe vậy đưa tay che mắt nhìn về hướng đó, đoàn người ngựa đang đi theo hướng ngược nắng, ẩn hiện lá cờ phấp phới trong gió có thêu hình rồng. Biểu tượng của Ngô quốc chính là rồng, trên cờ hay thêu hoa văn rồng, giơ cao cờ hiệu này rõ ràng là quân đội trung thành với Ngô vương, Bá nhìn thấy khấp khởi vui mừng.
Lúc này, đám người kia cũng đã phát hiện có một hai trăm người lúc nhúc ở bìa rừng, đứng đó nhìn về phía chúng, lập tức rút binh khí ra, ồ ạt xông lên.
“Đại vương, chúng, chúng không…không phải người của ta.” Một tên lính run lập cập nói.
“Cái gì?” Cơ Quang còn đang định chỉnh tranh một chút, tránh mất mặt trước thần dân, nghe vậy giật mình hốt hoảng, vội ngước mắt nhìn về phía đó. Gió thổi phất lá cờ lên, Cơ Quang lúc này mới nhìn rõ hình thêu trên lá cờ không phải là con rồng uy nghi to lớn, mà là một con rắn đang phun độc.
Ba nước vùng Giang Nam, người Sở thờ Phụng, người Ngô thờ Rồng, người Việt thờ Rắn. Ngũ Tử Tư xây dựng Cô Tô thành, trong số mười sáu cổng thành có Xà môn, Cô Tô thành theo thuyết phong thủy có nhiều cách giải thích, Ngô lấy rồng làm cổng chính, xung quanh Long môn xây dựng các cửa khác, Kinh Lâm tấn công vào Xương môn còn có tên gọi khác là Phá Sở môn, tỏ lòng quyết tâm phục thù Sở quốc của Ngũ Tử Tư. Ngoài ra, phía Bắc có Bình môn, Tề môn, mang ẩn ý diệt Tề, còn phía Nam dựng Xà môn, nằm ngay mé của vuốt rồng, ngụ ý trấn áp Việt quốc dùng rắn làm biều tượng. Lá cờ có hình rắn này…, chẳng lẽ cánh quân này lại là quân Việt đã tiêu diệt quân trấn thủ Ngự Nhi thành, sau đó đột nhiên không rõ tung tích?
“Cung thủ mau tiến lên trước, tiêu diệt tất cả bọn chúng, đừng cho chúng làm lộ hành tung quân ta!” Việt thái tử Câu Tiễn một tay cầm khiên, tay kia cầm kiếm, sát khí đằng đằng ra lệnh.
Câu Tiễn dẫn cánh quân Việt đến Ngô quốc thừa nước đục thả câu đã chọn con đường ít người qua lại này để không gây chú ý, tránh xa chiến trường quyết chiến của Ngô vương và Khánh Kỵ, vốn định vòng ra sau lưng kiếm chác lợi ích, không ngờ đến đây lại gặp phải một đội quân Ngô, lúc đầu hắn cũng ngạc nhiên hoảng sợ, nhưng nhìn kĩ thấy đám quân Ngô ít ỏi này không hề phòng bị, cũng không che giấu hành tung, chỉ đứng giữa đường nhìn vào quân của hắn, Câu Tiễn lập tức định thần lại, hiểu ra đội quân Ngô này còn chưa phát giác thân phận của hắn, đối phương có thể là một đội quân lạc mất đội ngũ của một trong hai phe Cơ Quang và Khánh Kỵ khi hỗn chiến.
Câu Tiễn thế mới an tâm hạ lệnh, lập tức tiêu diệt sạch đội quân Ngô này, tránh cho chúng tiết lộ hành tung đại quân của hắn. Câu Tiễn có mang theo một đội cung nỏ hơn ba trăm người, cũng được trang bị nỏ Sở. Sở quốc những năm gần đây chưa từng đánh trận lớn với các nước trung nguyên, ở giữa lại ngăn cách bởi một số quốc gia nhỏ phụ thuộc, nên sự lợi hại của nỏ Sở không được các chư hầu trung nguyên biết đến, cũng không được coi trọng. Còn Ngô và Việt nằm sát ngay Sở quốc, tất nhiên quá hiểu sự lợi hại của nỏ Sở trên chiến trường, vì thế Việt quốc thông qua nhiều cách khác nhau có được nỏ Sở, chỉ là Việt quốc quá nghèo, vũ khí đắt tiền này họ không trang bị nổi, chỉ đủ khả năng trang bị cho ba trăm người mà thôi. Lần này thái tử đích thân dẫn quân đánh vào Ngô quốc, Việt vương Duẫn Thường rất yêu thương con trai, bèn đưa đại đội ba trăm người được trang bị nỏ Sở cho Câu Tiễn dẫn theo.
Vừa thấy bên kia là quân Việt, Bá lập tức kéo tay Cơ Quang quay đầu bỏ chạy, quân Việt đuổi theo đến nơi thấy quân Ngô bỏ chạy tán loạn bèn giơ nỏ lên bắn tới tấp vào chúng, ba trăm mũi tên như cơn mưa ập vào cây chuối, phát ra tiếng loạt soạt khi bắn vào rừng, rất nhiều cây cối bị cắm đầy tên, còn nhiều mũi tên khác thì cắm phập vào đám lính Ngô tội nghiệp, cả đội quân Ngô vừa bước khỏi bìa rừng rú lên thảm thiết ngã xuống.
Bá kéo tay Cơ Quang vừa chạy được mấy bước, đột nhiên vai hắn bị chấn động, một luồng sức mạnh chia tách hai người ra, Bá nằm rạp người vào bãi cỏ, bị một cành cây cào xước mặt, lúc này một cơn đau nhói từ vai hắn truyền đến, hắn định thần nhìn kĩ, một mũi tên bắn xuyên qua vai hắn, Bá rít lên đau đớn, gục đầu xuống bãi cỏ.
“Xoạt xoạt xoạt!” mưa tên không ngừng bắn tới, sau lưng tiếng rú thảm thiết không ngừng vang lên, Cơ Quang cũng không còn lo nghĩ tới vẻ uy nghi của bậc quân vương nữa, xoay lưng lại chạy nhanh như tên bắn, tên xé gió bắn tới, Cơ Quang tựa như nghe thấy tiếng gió rít qua tai. Sau một hồi tên, trải qua một trận bắn giết đẫm máu, số quân Ngô may mắn giữ được tính mạng chỉ còn không quá ba mươi người, trong đó một nửa bị dính tên lăn ra đất kêu gào thảm thiết. Câu Tiễn cùng binh lính của hắn xông tới bìa rừng, bước chân vững vàng đuổi theo, người nào người nấy trên tay chỉ cầm một thanh đoản kiếm dài hơn một thước, độ dài này giống với dao găm trang bị cho binh chủng biệt kích thời hiện đại.
Việt quốc nghèo hơn Ngô quốc, điều kiện sinh sống của người Việt khó khăn hơn người Ngô, do đó kinh nghiệm sống của người Việt trong rừng rậm, đầm lầy và kinh nghiệm tác chiến cũng phong phú hơn người Ngô, số binh lính Câu Tiễn mang theo, có nhiều người phải để hở chân, bàn chân chỉ được lót một miếng gỗ kiển dày, giẫm lên bãi cỏ bước đi không hề mất thời gian, lại nhẹ nhàng linh hoạt không phát ra tiếng động.
Số quân Ngô trốn được vào rừng bị đám binh lính nhìn như dã nhân của Việt quốc đuổi kịp tiêu diệt từng tên, không một ai giữ được tính mạng. Câu Tiễn bước thoăn thoắt trên đôi giày cỏ lại gần, lạnh lùng hạ lệnh: “Kiểm tra kĩ vào, không được để tên nào sống sót!”
Binh lính cầm đoản kiếm ngắn như dao găm đó, kiểm tra từng xác chết nằm la liệt dưới đất, phát hiện ai còn hơi thở thì bồi cho một nhát kiếm ngay cổ họng. Một tên lính nhìn thấy trong bụi cây thấp lùn có một đôi chân lòi ra, bèn nhảy bổ qua đó kéo người kia ra, giơ kiếm định đâm xuống, người kia vội kêu lên: “Các ngươi không thể giết ta!”
Tên lính cười lạnh lùng: “Tàn binh bại tướng, có gì mà không thể giết?”
Người kia nén đau ngồi dậy, thở hổn hển: “Ta là thượng khanh của Ngô quốc, đâu thể để tên tiểu nhân như ngươi ức hiếp, thống soái của các ngươi là ai, mau kêu hắn đến gặp ta.”
Tên lính không nhịn được cười khanh khách: “Đám người các ngươi, tên nào tên nấy áo quần rách bươm, dáng vẻ thảm hại, chẳng qua chỉ là một đội quân bại trận chạy trốn, trong đó có thượng khanh Ngô quốc gì chứ?” Dứt lời giơ kiếm định đâm xuống.
“Khoan đã!” Câu Tiễn nghe người kia nói vậy, trong lòng nghi hoặc, vội bước tới lên tiếng ngăn cản. Hắn mới đầu không xem đội quân Ngô này ra gì, đám quân này số lượng quá ít, áo quần lếch thếch, hơn nữa lại hốt hoảng bỏ chạy, không có sức chống trả, trong quân đội Ngô quốc chắc cũng không phải thuộc đại quân tinh nhuệ gì, chỉ là một tên lính quèn không có giá trị, giết đi cho xong chuyện. Câu Tiễn không hề biết vì đám quân Ngô này ngộ nhận quân của hắn là người nhà, hơn nữa đám bại binh chạy trốn đường dài đã sức cùng lực kiệt, lại bị hắn dùng nỏ Sở uy hiếp, dù có ba đầu sáu tay e cũng khó làm nên chuyện vào lúc ấy. Lúc này nghe người kia dám tự xưng là thượng khanh Ngô quốc, không biết thật giả thế nào, phải hỏi cho rõ đã.
Câu Tiễn bước tới một bước, nói: “Túc hạ là thượng khanh Ngô quốc? Xin hỏi cao danh quý tánh, giữ chức quan gì?”
Bá nhìn hắn một hồi, thấy người này hãy còn rất trẻ, cổ rắn mỏ chim, khuôn mặt dài thoàng khá xấu xí, nhưng hành động cử chỉ lại oai vệ, hỏi ngược lại: “Ngươi là ai?”
“Bỉ nhân là thượng tướng quân Việt quốc Linh Cô Phù, không biết có tư cách nghe danh của túc hạ không?”
“Ồ!” Bá nghe vậy không khỏi bất ngờ: “Thì ra là Linh Cô Phù tướng quân, ta chính là thái tể Bá của Ngô quốc, tướng quân có từng nghe nói đến?”
Bá trong trận chiến Cửu Phụng cốc ở Sở quốc bắt giữ được nhiều công khanh quý tộc của Sở lập được đại công, đã được cất nhắc lên chức thái tể, thực quyền tuy không bằng Ngũ Tử Tư, nhưng chức quan lại tương đương. Câu Tiễn tất nhiên có nghe về Bá, nghe người này nói hắn chính là Bá cũng giật mình kinh ngạc: “Ngươi là Bá đại phu? Ngươi…ngươi…sao lại lưu lạc đến chốn này?”
Vừa nãy Bá bị trúng tên, vội chui vào bụi cây lánh tạm, tình hình tiếp theo hắn chỉ nghe được tiếng chứ không quan sát được tận mắt. Bá cũng biết cánh quân này của Linh Cô Phù đi vào Ngô quốc không mang ý tốt gì, chỉ là muốn thừa nước đục thả câu. Chỉ là với thân phận khanh sĩ đại phu cao quý, chức quan lại cao như hắn một khi bị bắt giữ, cho dù là quốc gia nào cũng ít khi giết chết nên mới nói rõ thân phận. Bá chỉ mong Cơ Quang có thể đoạt lại Ngô quốc, lúc đó sẽ chuộc hắn từ Việt quốc về, đương nhiên hắn không chịu nói mình đang hộ tống Ngô vương chạy trốn tận đây.
Bá suy ngẫm trong lòng một hồi mới nói: “Bá hộ tống Ngô vương về Cô Tô thành, Khánh Kỵ dẫn quân tấn công, cắt vụn trận địa đại quân của ta, Bá không thể tìm thấy chủ lực đại quân trong lúc loạn lạc, thế mới…”
Bá mới nói đến đấy, hai mắt sáng bừng lên, chỉ thấy rất nhiều binh lính Việt đang khiêng xác quân Ngô từ trong rừng ra, trong đó có một cái xác bị người ta nắm lấy vạt áo lôi sềnh sệt từ trong rừng, áo bào của cái xác rách te tua, dây lưng bị cởi tung, đầu tóc mặt mũi bê bết máu, tên lính đang lôi xác vẫn đang cầm miếng ngọc bội sáng bóng sang trọng chơi đùa ra vẻ khoái chí, rõ ràng là chiến lợi phẩm bị hắn lấy từ cái xác.
“Đại vương!” Bá như bị sét đánh, không để ý đến Linh Cô Phù kế bên nữa, hắn lăn lộn lê lết lao qua đó ôm lấy cái xác khóc to: “Đại vương, đại vương, Bá vô dụng, không thể bảo vệ an toàn cho đại vương, đại vương ơi…”
Theo như sử sách ghi chép, Ngô vương Hạp Lư với chỉ mấy vạn binh mã tây phá cường Sở, công vào Dĩnh Đô, chiến công hiển hách, lại trong lúc giao chiến với Việt quốc yếu hơn Ngô quốc nhiều bị đại tướng Việt quốc Linh Cô Phù ném mâu đâm trúng ngón chân, sau đó bị nhiễm trùng mà chết. Bây giờ cái chết của Hạp Lư có xảy ra thay đổi, nhưng kết cục đại thể cũng giống nhau, cũng là lật thuyền trong rãnh cống, thậm chí còn nhảm nhí hơn, trong cơn mưa tên bỏ mạng, rốt cục cũng không xác định được ai là người lấy mạng Ngô vương.
Câu Tiễn há hốc miệng kinh ngạc, tròng mắt muốn rơi cả ra ngoài: “Đại vương? Ngô quốc đại vương Cơ Quang? Mình đã dẫn quân bắn chết Ngô vương dễ dàng thế ư?” Trong một lúc, Câu Tiễn dường như không dám tin vào lỗ tai của mình.
Bá khóc lóc thảm thương, nước mắt giàn giụa, Câu Tiễn cuối cùng cũng lên tiếng hỏi: “Bá thái tể, ông nói…hắn…hắn chính là Ngô vương Hạp Lư?”
Đến lúc này Bá đâu còn gì phải che giấu nữa, hắn khẽ gật đầu, sau đó lại khóc to.
Câu Tiễn toát mồ hôi lạnh, cả thân người cứng đơ ra đó, đám binh lính Việt quốc đứng xung quanh cũng nghệch mặt ra, trong rừng bỗng chốc trở nên yên lặng, chỉ còn tiếng khóc thê lương của Bá cất lên.
Hồi lâu sau, Câu Tiễn từ từ tỉnh táo lại, đôi mắt hắn láo liên trong khoảnh khắc, một âm mưu đã nhen nhóm trong tim. Câu Tiễn hít một hơi sâu, bước tới hai bước, chắp tay cung kính hành lễ: “Bá thái tể!”
Bá ngẩng đầu lên nhìn hắn, Câu Tiễn vẫn cứ cung kính nói tiếp: “Bá thái tể tài trí hơn người, không ai sánh bằng. Ngô vương có được hiền sĩ tài trí song toàn như Bá thái tể đây phò trợ, mới có thể dẫn mấy vạn binh mã tây phá cường Sở, lập chiến công hiển hách. Câu Tiễn Việt quốc, ngưỡng mộ uy danh Bá thái tể từ lâu, bây giờ Ngô vương đã chết, hoàng tộc Ngô quốc nội chiến tranh đoạt vương vị chưa xong, nơi đây đã không phải chốn dung thân. Câu Tiễn kính nể tài học của Bá thái tể, nguyện lấy thân phận thái tử Việt quốc thay phụ vương mời túc hạ làm thái tể Việt quốc ta, phò trợ phụ vương, cùng mưu nghiệp lớn, mong Bá thái tể khẳng khái ưng thuận.”
“Cái gì?” Bá ngớ người ra.
Câu Tiễn mỉm cười lại hành lễ một cái: “Vừa rồi Câu Tiễn chưa nói rõ thân phận, vị tướng quân kế bên ta đây mới là thượng tướng quân Việt quốc Linh Cô Phù, còn ta chính là con trai của Việt vương, Câu Tiễn xin Bá thái tể bỏ qua cho tội cố tình che giấu thân phận.”
Linh Cô Phù đứng kế bên thấy thái tử có ý chiêu nạp Bá, bèn bước tới nói: “Bá đại phu, tại hạ là Linh Cô Phù, Bá đại phu phò trợ Ngô vương trị nước, chỉ trong một năm quốc gia hùng mạnh, giúp Ngô vương phạt Sở, tiến quân Dĩnh Đô, công phá Cửu Phụng cốc, công trạng hiển hách. Ngô vương Hạp Lư phong cho Bá đại phu quan to chức lớn, nhưng với công trạng của Bá đại phu, kể cũng xứng đáng với ban thưởng như vậy.
Giờ đây Ngô vương đã chết, hai bên giao chiến, đao thương không có mắt, vốn không hề dính dáng thù xưa oán cũ. Bá đại phu đã cố hết sức, không phụ Ngô vương, giờ ở Ngô, Phù Sai chỉ là một nhóc con, phụ vương hắn đăng cơ chưa được một năm, Phù Sai căn cơ thiển cận, Phù Khái dẫn quân dã tâm tự lập, Khánh Kỵ lấy danh nghĩa trả thù cho tiên vương mưu đoạt vương vị. Hạp Lư mà chết, trong hoàng tộc Ngô quốc không còn chủ nhân đáng để thờ, còn Việt vương ta, hùng tài thao lược, thái tử Việt quốc ta trọng người hiền tài. Có câu chim khôn chọn cành mà đậu, thần giỏi chọn chúa mà thờ, Bá đại phu sao không giúp sức cho Việt quốc chứ?”
Câu Tiễn tiếp tục thuyết phục: “Nam nhi tại thế, cuối cùng cũng nên hoàn thành chí lớn của mình, thăng quan tiến chức, công thành danh toại, mưu cầu vinh hoa phú quý, thê thiếp đầy đàn, mưu cầu danh tiếng lẫy lừng, lưu danh muôn thuở. Câu Tiễn thật lòng chiêu mộ Bá đại phu, trời cao chứng giám, xin Bá thái tể nể tấm chân tình của Câu Tiễn.” Nói xong vái lạy một cái.
Hai người thi nhau thuyết phục, Bá nghe xong, cúi xuống nhìn xác Hạp Lưu đang ôm trên tay, không nói tiếng nào. Ánh mắt Câu Tiễn khẽ lay động, cùng Linh Cô Phù liếc mắt nhìn nhau một cái, để lộ một nụ cười nham hiểm trên khóe môi…
Ngô vương Hạp Lư đã chết.
Khánh Kỵ dẫn đại quân tấn công Đông Điều Khê đại bại Ngô vương Hạp Lư, Hạp Lư trốn chạy sang Vũ Nguyên, bị phiến quân Vũ Nguyên giáp công cùng quân Khánh Kỵ, tử trận trên sa trường, tướng quốc Ngũ Viên cũng quyết chiến tử trận theo Ngô vương. Thái tể Bá phụng di mệnh của Hạp Lư, đến Việt quốc xin quân cứu viện trả thù cho chủ nhân, Việt vương Duẫn Thường lệnh cho thái tử Câu Tiễn đích thân dẫn tám ngàn đại quân, toàn quân đánh vào Ngô quốc.
Tin này nhanh chóng được lan truyền rộng rãi khắp Ngô quốc, truyền khắp thiên hạ. Lịch sử và sự thật là hai chuyện khác nhau, sự thật là sự thật, còn lịch sử chỉ là viết theo nhu cầu của người có quyền khống chế lịch sử mà thôi.
Người Việt đem cái chết của Hạp Lư đẩy trách nhiệm lên người Khánh Kỵ, điều đó có lợi cho họ thừa nước đục thả câu ở Ngô quốc. Còn phía Khánh Kỵ thì sao? Cho dù không có thái tể Bá làm nhân chứng cho Việt quốc, cũng không thể khiến kẻ địch tin hắn không phải là hung thủ giết chết Cơ Quang, hơn nữa kẻ địch không vì Cơ Quang có chết dưới tay Khánh Kỵ hay không mà thay đổi lập trường, số người còn phân vân do dự cũng vì tin này mà ngả sang phía hắn, trên thực tế tin này có lợi cho việc tạo dựng uy danh của Khánh Kỵ trong lòng người Ngô, nên dù biết rõ đấy là gian kế của Câu Tiễn, Khánh Kỵ vẫn buộc phải chấp nhận.
Lịch sử chính là trong mưu cầu lợi ích giữa hai phe địch và ta viết ra kết luận: Ngô quốc Khánh Kỵ, vì trả thù cho phụ vương Cơ Liêu, giết chết Ngô vương Hạp Lư mưu triều tán vị tại Vọng Hà cốc. Trong âm mưu phối hợp lợi ích của hai phe này, có lẽ người vui nhất chính là Hạp Lư nơi chín suối, người chết để danh, chết dưới tay một tên lính Việt vô danh tiểu tốt, đương nhiên không vẻ vang bằng chết dưới tay Khánh Kỵ.
Thế là, Khánh Kỵ im lặng nhận lấy công lao giết chết Cơ Quang, lập đàn tế vong linh phụ vương, khích lệ toàn quân thừa thắng bắc tiến, thề chiếm lấy Cô Tô thành, giành thắng lợi toàn vẹn. Còn bọn quân Việt vốn lén lút lẻn vào Ngô quốc kiếm chác lợi ích, nay bỗng hóa thân thành đội quân chính nghĩa phụng di chiếu của Ngô vương Hạp Lư đến thảo phạt Khánh Kỵ.
Hạp Lư chết đi, tình hình Ngô quốc lập tức biến động lớn, Phù Khái vốn đang hành quân chậm chạp tiến về Đông Điều Khê đột nhiên tăng tốc hành quân, toàn quân đeo khăn tang lao nhanh về hướng Cô Tô thành, lên tiếng đòi thảo phạt phản tặc, trả thù cho đại vương. Phía Cô Tô thành, Kinh Lâm nhận được tin báo lập tức lợi dụng địa hình đã đào sâu xây dựng công sự, chuẩn bị ứng chiến. Cùng lúc đó, Khánh Kỵ và Chúc Dung hợp binh lại với nhau tức tốc tiến về Cô Tô thành, tạm thời không rảnh đối phó với con rắn độc Việt quốc.
Phù Khái dẫn quân đến Kiền Toại, nghe tin Kinh Lâm bày trận đợi sẵn, liền một mặt chỉnh đốn binh mã chuẩn bị tấn công, mặt khác phái người vào thành liên lạc với Phù Sai, muốn trong ứng ngoài hợp. Trong lúc rối ren này, phú hộ giàu nhất Ngô quốc, gia tộc chế tạo binh khí lớn nhất vùng Giang Nam là Nhâm gia tạo phản, tất cả thợ rèn, thợ xây, thợ khuân vác, thêm vào gia tướng, gia nô ở Nhâm gia thành tổng cộng có hơn chín ngàn người, trang bị áo giáp của Nhâm gia, tay cầm binh khí của Nhâm gia chế tạo, đeo khăn tang vì gia chủ, dưới sự dẫn dắt của trưởng nữ Nhâm thị Nhâm Nhược Tích kéo đến chân thành Cô Tô, hạ trại ngoài Bàn môn, cùng với Kinh Lâm tạo thế gọng kiềm, trong kháng Phù Sai, ngoài cự Phù Khái.
Phù Khái nghe tin thất kinh hồn vía, vội vã thu quân, lấy Kiền Toại làm doanh trại, đối chọi với liên quân Nhâm gia và Kinh Lâm, một mặt phái người đi liên lạc với cánh quân Việt đã phụng di chiếu của Ngô vương đến cứu viện, mặt khác lo toan trường hợp bại trận chạy về Nam Vũ thành, các cứ một vùng tự lập làm vương.
Trong thành Cô Tô, Phù Sai nghe tin phụ vương chết thảm, lập tức muốn bất chấp tất cả dẫn quân ra thành quyết một trận tử chiến với Khánh Kỵ, bị tướng lĩnh thuộc hạ dưới trướng liều chết căn ngăn. Phù Sai khóc lóc thảm thiết, cuối cùng từ bỏ ý định lấy trứng chọi đá, quyết định dùng Cô Tô thành làm mồi nhử, thu hút Khánh Kỵ, Phù Khái, Câu Tiễn, các lộ nhân mã có dã tâm đến đây tàn sát lẫn nhau, hắn xem tình hình từ đó hưởng lợi.
Phù Sai lập tức đăng cơ, kế thừa ngôi vị Ngô vương, hắn ra một đạo nghiêm lệnh, tất cả dân chúng trong Cô Tô thành đeo tang, khắp nơi một màu trắng xóa, nghiêm cấm uống rượu ăn thịt, tiệc tùng vui vẻ. Phù Sai lại bắt tất cả nữ nhân trẻ khỏe, tất cả nam nhân dân thường từ mười bốn đến sáu mươi tuổi và gia tướng gia nô của các công khanh thế tộc trong thành biên vào quân ngũ thao luyện, trong một lúc toàn thành Cô Tô đều là binh lính, đội quân mới này có quân số năm vạn tám ngàn tám trăm người.
Khánh Kỵ trả thù cho cha, Phù Sai trả thù cho cha, Phù Khái, Câu Tiễn tuyên bố trả thù cho quân vương, Nhâm gia quân của Nhâm Nhược Tích muốn trả thù cho gia chủ. Khắp nước Ngô ai cũng đeo tang, ai ai cũng giương cao ngọn cờ trả thù chuốc hận, trong một đêm các lộ binh mã trong lãnh thổ Ngô quốc hóa thành đội quân thù hận. Từ khi Hạp Lư chết đến khi Khánh Kỵ đánh vào Cô Tô thành, giai đoạn lịch sử này từ đây bị người đời sau gọi là “Trận chiến thù nước hận nhà”.
Ngoài thành Cô Tô, Khánh Kỵ đăng cơ.
Đây là đại sự đầu tiên được các tướng lĩnh phe Khánh Kỵ hội họp bàn bạc quyết định.
Hạp Lư đã chết, Phù Sai xưng vương. Câu Tiễn Việt quốc và Phù Khái qua lại bí hiểm, họ không lập tức công nhận vương vị của Phù Sai, lòng riêng của Phù Khái không nói đã rõ, nhưng chúng vẫn giương cao ngọn cờ đòi trả thù cho Ngô vương Hạp Lư để đảm bảo cho tính hợp lí của sự tồn tại của đại quân Việt quốc trên lãnh thổ Ngô.
Trước tình hình này, trên dưới Ngô quốc không biết nghe ai, muốn nhanh chóng ổn định lòng dân, tranh thủ tối đa ủng hộ của dân Ngô, nắm bắt quyền chủ động, Khánh Kỵ là con trai duy nhất còn lại của Ngô vương Cơ Liêu, cũng là người thừa kế hợp pháp vương vị Ngô quốc, phải lập tức đăng cơ xưng vương. Chỉ khi địa vị hợp pháp của Khánh Kỵ được công nhận, mới có thể tập hợp tất cả lực lượng khả dụng. Bộ hạ của Khánh Kỵ đương nhiên không ai phản đối, trong các thành viên hoàng tộc Yểm Dư công tử cũng tỏ ý tán thành, Chúc Dung tuy có hơi không đồng ý nhưng ai cũng nhất chí, Khánh Kỵ có được các thế lực chính trị trong và ngoài nước ủng hộ, hắn chỉ có một lộ nhân mã, hắn buộc phải tỏ ý hoàng điệt Khánh Kỵ kế thừa vương vị là trên thuận ý trời, dưới hợp dân tâm.
Quyết định đăng cơ tuy hơi gấp gáp, các nước xung quanh hãy còn kịp tỏ thái độ. Việt quốc là người đầu tiên đưa ra kháng nghị, viết ra một bức tuyên cáo dài thoàng, kể tội Khánh Kỵ giết vua mưu đoạt vương vị, là hành động phi pháp. Bốn nước Sở, Tống, Lỗ, Vệ lại tỏ ý ủng hộ, Lỗ quốc và Vệ quốc góp nhiều sức giúp Khánh Kỵ phục quốc thành công, đương nhiên tán đồng Khánh Kỵ đăng cơ, còn phái người mang đến số lượng lớn lễ vật chúc mừng, tuy đường sá xa xôi chưa kịp thời vận chuyển đến Ngô được, nhưng sứ giả đã đưa danh sách lễ vật đến trước. Tống quốc vì lí do Vệ phu nhân Nam Tử là công chúa của Tống, cũng mang đến nhiều lễ vật. Các nước nhỏ Từ, Thái, Trần thì giữ thái độ trung lập không tỏ thái độ ủng hộ hay phản đối.
Ngày mai chính là ngày hoàng đạo các thuật sĩ chọn làm ngày đăng cơ của Khánh Kỵ, ngoài Bàn môn Cô Tô thành dựng lên một tòa đàn cao, công việc chuẩn bị đang gấp rút tiến hành. Khánh Kỵ thì đang tắm rửa trong lều, chuẩn bị các nghi thức cúng tế đăng cơ vào ngày mai. Đúng lúc này, Anh Đào đi vào bẩm báo: “Công tử, lại có sứ thần đến chúc mừng.”
Khánh Kỵ mở to mắt hỏi: “Ồ! Là sứ thần do quân vương nước nào phái đến?”
“Sứ thần tự xưng là tín sứ của nữ vương Đông Di là Doanh Thiền Nhi.”
Khánh Kỵ nhướn mày lên, cảm thấy ngạc nhiên: “Doanh Thiền Nhi, chính là Doanh Thiền Nhi tự xưng là hậu nhân của Thiếu Hạo, thừa lúc người Tề nam hạ liên kết bảy mươi mốt bộ lạc Đông Di tự lập xưng vương? Mau mời!”
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 213: Sứ giả Đông Di
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Vùng đất Hoài Di, Di Hổ, người Đông Di cai quản phần lớn cương thổ, số người Đông Di sống trên vùng đất này không có tổ chức thành bộ máy nhà nước chặt chẽ, do họ và người Sở là đồng tộc từ thời Tam hoàng Ngũ đế, dây mơ rễ má thâm sâu, lại dùng “Phụng” làm biểu tượng, do đó các bộ lạc Đông Di lớn nhỏ từ lâu đã giao hảo thân cận với Sở quốc.
Nhưng gần đây Sở quốc tự lo thân mình còn chưa xong, đã mất đi quyền kiểm soát khu vực này, Ngô vương Hạp Lư từng phái sứ giả đi Tề mật bàn với Tề phân chia vùng đất này, tin tức bị lộ ra ngoài, các bộ lạc Đông Di bắt đầu huấn luyện binh mã, chuẩn bị tử chiến một phen để giữ mảnh đất dung thân cuối cùng của mình. Dưới tình hình Tề quốc hùng mạnh sắp xâm chiếm, các bộ lạc liên minh hợp sức với nhau, tổ chức các bộ lạc vốn chia rẽ nay vì đối kháng ngoại xâm dần dần manh nha phát triển nên một quốc gia hoàn chỉnh.
Khánh Kỵ cũng có chú ý đến sự phát triển của các bộ lạc Đông Di, nhất là lần này Yểm Dư đến Lỗ và Đông Di mượn quân quấy nhiễu Phù Khái, người Đông Di ra sức ủng hộ, trong đó nữ vương Đông Di góp tiếng nói quan trọng trong việc này, có thể xem như một thủ lĩnh tương đối hảo hữu với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ từng hỏi Yểm Dư biết được đôi chút về vị nữ vương này, các bộ lạc Đông Di thấy đại địch trước mắt, vội liên minh chống ngoại xâm, lúc đó một cô gái đột nhiên đứng ra, nàng bỏ nhiều tiền của tiếp tế dân chúng, chiêu binh mãi mã, huấn luyện quân đội, chỉ trong thời gian ngắn, lấy cơ sở từ hai bộ lạc lớn Phong thị, Doanh thị phát triển, đã đoàn kết mấy mươi bộ lạc nhỏ khác đầu quân dưới trướng nàng ta.
Cô gái này tự xưng là hậu nhân đích truyền của Đông Di Thiếu Hạo đế Doanh Chất, dựa vào vị trí tối thượng của Thiếu Hạo đế trong lòng người Đông Di, cộng với mưu lược tài trí, thủ đoạn chính trị của nàng, nhanh chóng khiến các dũng sĩ bộ lạc vốn thuần hậu, dũng mãnh trở thành thần dân trung thành của nàng, từ đó vị thế đứng cao hơn cả các tộc trưởng bộ lạc, xưng là nữ vương Đông Di.
“Mau mời vào đây!” Khánh Kỵ sửa soạn áo bào chỉnh tề đứng lên, trong lòng nghĩ thầm: “Sứ giả Đông Di vượt sông đến đây, theo lẽ phải đi ngang Kiền Toại, họ lại không bị Phù Khái chặn bắt, nghĩ chắc là biết rõ tình hình Ngô quốc, nên mới đi đường vòng tránh chỗ nguy hiểm. Một liên minh các bộ lạc xưa nay chỉ biết đánh cá săn bắn, có thể hiểu rõ Ngô quốc ta như lòng bàn tay, vị nữ vương này quả nhiên không hề đơn giản.”
Khánh Kỵ chỉnh trang y phục, ngồi trong lều chờ đợi, một lát sau, Anh Đào dẫn theo tám sứ giả bốn nam bốn nữ vào trong đại doanh trung quân, kiểu dáng quần áo của tám người này giống với nữ nhân Đông Di khi Khánh Kỵ đại chiến với Triển Chích tại Lỗ từng được thấy, bốn cô thiếu nữ mặc áo hở vai và váy ngắn, dưới váy để lộ bắp đùi rắn chắc, dung mạo tuy không xinh xắn lắm, nhưng lại mang sức sống tràn trề của tuổi thanh xuân, bốn nam tử kiểu áo y chang, chỉ là cánh tay và đùi của họ màu đồng đen, càng thêm vạm vỡ rắn chắc.
Điều khác biệt là vải áo của họ tuy thô kệch nhưng rõ ràng nó thuộc trang phục truyền thống lễ nghi chính thức nào đó, trên áo có thêu các biểu tượng phụng hoàng, mặt trời sặc sỡ, nam tử đội mũ lông vũ đủ màu, nữ nhân thắt hai bím tóc dài sau lưng, trên đầu đeo vòng hoa có ít lông vũ trang trí làm trang sức, nam thì cương dương, nữ thì kiện mỹ, cách ăn mặc đúng là khác biệt so với lê dân bá tánh khắp thiên hạ của nhà Chu.
Ngang hông họ có đeo dao găm nhỏ, trên vai khoác một cây cung, sau lưng có một vò tên. Đông Di, trong tiếng cổ ngữ có nghĩa là “Đông phương cung tiễn thủ”, người Đông Di bất kể già trẻ lớn bé, ai ai cũng giỏi bắn cung, thần tiễn thủ nổi tiếng khắp thiên hạ lúc bấy giờ là Hậu Nghệ, chính là thủ lĩnh một bộ lạc của Đông Di.
“Đây là điện hạ của ta.” Anh Đào bước lên giới thiệu.
Đôi mắt to tròn, đen láy của một thiếu nữ Đông Di mở to ra nhìn vào Khánh Kỵ, bước tới hai bước, vái chào hành lễ: “Tám sứ giả Huyền Điểu, Đan Ô … dưới trướng nữ vương Đông Di Doanh Thiền Nhi bái kiến Ngô quốc Khánh Kỵ đại vương.”
Khánh Kỵ ha hả cười to, xua tay nói: “Các vị sứ giả không cần đa lễ, mời ngồi, mời ngồi, các vị cứ gọi ta là điện hạ là được rồi, Khánh Kỵ vẫn chưa đăng cơ, không dám xưng đại vương.”
Cô thiếu nữ tên Huyền Điểu chớp chớp mắt, nói: “Chẳng phải một hai ngày nữa là xưng vương sao? Sớm hơn hay trễ hơn một hai ngày có gì khác biệt? Hôm nay gọi điện hạ, mai gọi đại vương, sửa tới sửa lui cũng không khỏi phiền phức.”
“Ừm…” Khánh Kỵ bị cô sứ giả này dạy dỗ cho một chập, nhưng thấy bộ dạng nàng ta ngây thơ, có vẻ không biết lễ nghi phép tắc của người văn minh, chỉ còn cách cười trừ: “À, phải lắm, Huyền Điểu cô nương nói phải lắm, mời ngồi, mời ngồi.”
Vị Huyền Điểu cô nương cười hi hi, vui vẻ lên tiếng: “Nữ vương nói, chúng ta nên liên minh với Ngô quốc Khánh Kỵ, xem ra nữ vương chọn lựa đúng người rồi, các quan lại của các người, cho dù là tên hạ đại phu, thấy người Đông Di chúng ta đều làm ra vẻ cao sang, chỉ có đại vương ngài lại chịu nghe lời ta nói, tốt lắm, tốt lắm.”
Khánh Kỵ khóc không được cười cũng không xong, ngẩng đầu liếc Anh Đào một cái, Anh Đào đang cố nhịn cười, cũng không giúp Khánh Kỵ giải vây. Khánh Kỵ chỉ còn cách ho lên một tiếng: “Khụ khụ, phải rồi, các vị sứ giả mời ngồi. Nữ vương Đông Di có lòng thành khẩn, Khánh Kỵ cảm kích vô cùng, ngày mai là đại lễ đăng cơ của Khánh Kỵ, mời các vị sứ giả ở lại, đợi đăng cơ đại điển xong xuôi, Khánh Kỵ còn phải trả lễ cảm tạ nữ vương Đông Di.”
Huyền Điểu vỗ tay tươi cười khoái trá: “Hay quá, chúng ta đang muốn xem coi đại lễ đăng cơ của người Ngô là như thế nào. Phải rồi, Khánh Kỵ đại vương này, ta thấy ngài cao lớn vạm vỡ, lại anh tuấn bất phàm, người ta ai cũng nói ngài là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, tay bắt được chim bay, chạy nhanh hơn ngựa chiến, nhưng sao sức khỏe lại kém thế này, cứ ho lên ho xuống, cẩn thận kẻo bị cảm lạnh, ảnh hưởng đến đại lễ đăng cơ ngày mai.”
“Khụ khụ…ừm…” Khánh Kỵ thấy cô nương này ngây ngô khiển trách, lại còn tỏ ý quan tâm dặn dò, hình như không phải giả tạo, trong một lúc không biết nên khóc hay nên cười mới phải, chỉ còn biết lên tiếng cảm tạ tấm lòng quan tâm của Huyền Điểu cô nương.
Anh Đào đứng kế bên cố gắng nhịn cười, không dám tỏ ra mất lễ nghi trước mặt công tử, khuôn mặt hắn vì cố kiềm nén đỏ ửng cả lên.
Huyền Điểu nhìn trưng trưng vào Anh Đào: “Người Ngô các ngài hình như thể chất không được tốt cho lắm, ngài làm đại vương sức khỏe không tốt, sao đại tướng dưới quyền cũng có vẻ mang bệnh thế này? Sớm biết như vậy ta mang theo một xe thảo dược tới đây, thảo dược của người Đông Di chúng ta hiệu nghiệm lắm, chút phong hàn vặt vãnh này không cần lo đâu.”
“Không sao, không sao, cơ thể ta tốt lắm mà.” Anh Đào xua tay liên hồi, vội chắp tay vái lạy Khánh Kỵ, xin phép ra ngoài chuẩn bị nơi ăn chốn ở tiếp đón các vị sứ giả Đông Di, còn chưa đợi Khánh Kỵ gật đầu liền chạy như bay ra ngoài, trốn vào sau túp lều xa xa, thế mới ôm bụng cười một trận thỏa thích.
Huyền Điểu lại mở to mắt quay sang nhìn trưng trưng vào Khánh Kỵ: “Ta có nói sai gì à? Sao hắn chạy nhanh hơn cả con lừa thế?”
Khánh Kỵ vẻ e dè khó xử phân bua: “Anh Đào là người bên cạnh ta, xưa nay vẫn hay tính khí thất thường, xin Huyền Điểu cô nương đừng trách, cô nương ngây thơ trong trắng, cho dù có nói sai chuyện gì, Khánh Kỵ cũng thấy thích mà.”
Huyền Điểu nghe vậy, đỏ mặt e thẹn: “Khánh Kỵ đại vương, Huyền Điểu xin nói thẳng, ngài đừng trách cứ. Ta…ta chỉ là mang lễ vật đến, chứ không thích ngài đâu…”
Khánh Kỵ cũng thấy khó xử: “Ờ, cái này…cái này… Cô nương tính tình thẳng thắn, không biết mưu tính, quả là…quả là…”
Huyền Điểu chớp chớp mắt, hỏi: “Tính tình thẳng thắn, không biết mưu tính…, có phải ngài nói ta ngốc…”
Khánh Kỵ lập tức ngậm miệng, cô nương này đơn thuần không biết cách hành xử thế sự, lúc này lại có vẻ nghe hiểu ý hắn. Hắn cũng không phân biệt được cô nương này là ngốc thiệt hay ngốc giả, càng không biết tại sao nữ vương Đông Di lại phái đến một sứ giả ngây ngô thế này.
Tên võ sĩ tên Đan Ô lớn tuổi hơn, xem ra có vẻ trưởng thành hơn đôi chút, hắn thấy Huyền Điểu liên tiếp lộ điểm yếu ra, vội đứng ra can thiệp: “Huyền Điểu, Khánh Kỵ công tử đang khen cô mà, đừng nói lung tung nữa.”
“Thế à?” Huyền Điều xoay xoay tròng mắt, vẻ hoài nghi: “Mỗi khi ta nói sai câu nào, làm chuyện ngốc gì, nữ vương cũng nói với ta thế này, sao do miệng Khánh Kỵ đại vương nói ra thì thành biến khen ngợi rồi?” Đan Ô nghe cô nương này phân bua cũng thấy khó xử không biết phải làm sao.
Huyền Điểu suy nghĩ một hồi vẫn không hiểu ra, bèn tạm thời tin vào giải thích của Đan Ô, vui vẻ ra mặt: “Ngài không phải đang ẩn ý mắng ta là được, nữ vương chúng ta rất coi trọng đăng cơ đại điển của ngài, nếu không thì Huyền Điểu này thân là con gái của tộc trưởng, cũng không đích thân mang lễ vật đến Ngô quốc tặng ngài rồi.”
“Thì ra Huyền Điểu cô nương là con gái của tộc trưởng bộ lạc Phong, thất kính, thất kính.” Trong số các bộ lạc Đông Di, hiện nay thế lực của bộ lạc Phong là mạnh nhất, thứ hai là bộ lạc Doanh, giờ đây cái cô Doanh Thiền Nhi tự xưng là hậu nhân Thiếu Hạo gì đó lên làm nữ vương Đông Di, đương nhiên phải ra sức lôi kéo hai bộ lạc này, Huyền Điểu là con gái của tù trưởng bộ lạc Phong, cũng là người đứng đầu đoàn sứ giả Đông Di.
Cô nương Huyền Điểu nói chuyện huyên thuyên hồi lâu, lại lớ ngớ không rõ ràng, người ngoài không sao chen vào được, Khánh Kỵ phải mất khá lâu mới nắm rõ thông tin là cô nương Huyền Điểu này mang theo lễ vật tổng cộng có đến mười hai xe, món quà của người Đông Di không phải là vàng bạc châu báu, cũng không phải là gấm vóc lụa là, trên mười hai chiếc xe chỉ chứa một thứ duy nhất: hài cốt của cự long thời thượng cổ.
Khánh Kỵ nghe họ thuật lại bèn lập tức hiểu ra. Nghe nói xưa kia có người đào được vô số mảnh xương to lớn, vì Khổng Khâu học rộng hiểu nhiều, tri thức uyên bác, nên phái người đi thỉnh giáo ông ta, Khổng Khâu theo ghi chép từ sách cổ cho rằng đó là con rồng khổng lồ cai quản gió mưa năm xưa bị Đại Vũ giết chết, người đời nhờ thế tôn Đại Vũ làm Thánh nhân trị thủy. Thật ra đống xương đó chỉ là xương hóa thạch của con thú lớn thời thượng cổ mà thôi, bây giờ người Đông Di đào được nguyên bộ xương nguyên vẹn, Khánh Kỵ nghe họ miêu tả, liền đoán ra đó là một bộ xương khủng long hóa thạch.
Bộ xương này nếu nói vô dụng, thì cũng đúng là vô dụng, còn nói là quá có ích thì cũng đúng là góp công to lớn trong đại nghiệp của Khánh Kỵ, đối với người ngoài có thể vô dụng, còn với người Ngô lại mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vì người Ngô tôn thờ “Rồng”.
Hiện nay Khánh Kỵ đăng cơ, ở ngoài kia Tề, Tấn và hơn một nửa chư hầu trong thiên hạ vì lợi ích cá nhân đều không thừa nhận, còn ở nước Ngô những phe cánh thuộc về Phù Sai, Phù Khái cũng không thừa nhận địa vị hợp pháp của hắn.
Thế mà trước lúc hắn đăng cơ lại đột nhiên xuất hiện hài cốt của con cự long này, lại được đưa vào trong quân hắn. Thời đại đó là thời nào chứ? Mấy trăm năm sau một tên đình trưởng muốn làm hoàng đế phải chém bạch xà ra vẻ thuận theo ý trời (chính là Hán Cao tổ Lưu Bang), hơn một ngàn năm sau một tiểu hòa thượng muốn làm hoàng đế phải nổ vang trời rằng khi hắn sinh ra khắp phòng đỏ rực (Tống Cao tổ Triệu Khuôn Dẫn). Trong thời đại mê tín này, nếu vào đại lễ đăng cơ ngày mai, lập đàn tế lễ trang trọng an táng bộ hài cốt này, lúc đó số đông người dân đều tin vào thần thánh mệnh trời, làm vậy có tác dụng tuyên truyền thu phục nhân tâm lớn cỡ nào? Sẽ có bao nhiêu người vốn kiên định theo phò Phù Sai, Phù Khái dao động chuyển sang đầu hàng Khánh Kỵ?
Khánh Kỵ quá đỗi vui mừng, hạ lệnh long trọng tiếp đãi đoàn sứ giả Đông Di, bên ngoài Anh Đào đã thu xếp xong nơi ăn chốn nghỉ. Anh Đào dẫn đoàn sứ giả rời khỏi không lâu liền vội quay vào lều nói nhỏ với Khánh Kỵ: “Điện hạ, sứ giả Đông Di Đan Ô bí mật xin cầu kiến.”
“Hử? Mau mời!” Khánh Kỵ ngớ người, mới tỉnh ngộ nhận ra vị nữ vương Đông Di kia phí nhiều công sức sai sứ giả đến gặp, còn mang tặng hài cốt cự long, e là có ý đồ gì đó.
Một lúc sau, Đan Ô vừa thu xếp xong lại vội vã bước vào trong lều, nói: “Điện hạ, nữ vương Đông Di có một việc quan trọng cần bàn với ngài, chỉ vì Huyền Điểu ngây ngô, khó đảm nhận nhiệm vụ bí mật này, nữ vương đã sai tiểu nhân mang theo bức mật thư này, đến giao cho điện hạ.”
Đan Ô nói xong lấy từ dưới ngực ra một bức mật thư được dùng sáp nến niêm phong, thư viết trên thẻ tre Lỗ quốc, mỏng mà chắc chắn, xếp thành mấy lớp. Khánh Kỵ vội đón lấy mở ra xem, xem xong đập bàn kêu hay, hắn định thần lại, nói với Đan Ô đang đứng đó chờ đợi: “Sứ giả Đan Ô, mời về lều nghỉ ngơi trước, việc này cho phép Khánh Kỵ bàn bạc lại với các tướng lĩnh rồi hồi đáp sau.”
Đan Ô cáo từ lui ra, Khánh Kỵ lập tức triệu tập các tướng lĩnh Yểm Dư, Chúc Dung, Tôn Vũ, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử tề tựu trong lều. Trên thực tế lúc này Khánh Kỵ vẫn còn một lực lượng quân sự quan trọng, đó chính là Nhâm gia quân do Nhâm Nhược Tích thống lĩnh, nếu không phải Nhâm Nhược Tích dẫn đại quân kịp lúc kéo đến giúp Kinh Lâm cản đường tiến quân của Phù Khái, Phù Khái lúc này dù chưa vào Cô Tô thành, e rằng đại quân Kinh Lâm dưới sức ép trong ngoài thành đã bị tổn thất trầm trọng. Giờ có Nhâm gia quân tham chiến, thực lực hai bên tạo lập thế cân bằng, có thể nói công lao của Nhâm gia vô cùng lớn, vì thế lúc này đang giữ vị trí quan trọng trong đại quân Khánh Kỵ.
Nhưng hiện giờ Nhâm gia quân do Nhâm Nhược Tích thống lĩnh, Khánh Kỵ không biết sắp xếp chức vụ gì thích hợp cho nàng ta, nên lúc này không triệu nàng vào nghị sự. Hai người khi xưa đã sớm nảy sinh tình cảm, lúc ở Tề Nhâm Nhược Tích yểm trợ Khánh Kỵ trốn chạy, Khánh Kỵ còn hứa hẹn chuyện chung thân với nàng. Chỉ là chiến sự đang căng thẳng không tiện công bố tin này ra, hai người chỉ gặp mặt nhau một lần khi Khánh Kỵ quay về Cô Tô, sau đó thì ngay cả cơ hội hẹn hò riêng tư cũng không có nữa.
Vì muốn trấn an Nhâm gia quân, Khánh Kỵ sắp xếp cho Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man ở tại doanh trại bên kia, cùng ăn cùng ở với Nhâm Nhược Tích, trên dưới Nhâm gia quân đều biết hai cô nương này sau này sẽ là hoàng phi Ngô quốc, Khánh Kỵ đưa hai nhân vật quan trọng vào ở trong quân họ, rõ ràng là tuyệt đối tin tưởng và xem trọng họ rồi, hành động này có tác dụng khích lệ rất tốt với Nhâm gia quân.
Còn với Khánh Kỵ, làm như vậy một vốn bốn lời, một là thu phục nhân tâm Nhâm gia quân; hai là lúc này hắn chinh chiến ác liệt, qua lại với sứ giả các nước thường xuyên, đúng là không tiện mang theo hai thiếu nữ chưa xác định danh phận này bên mình; ba là cho Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man giao lưu với Nhâm Nhược Tích; bốn là…, giờ hắn bận đến nỗi không thể phân thân, lại không thể gặp riêng Nhâm Nhược Tích lựa lời an ủi, đem hai cô nương kia sắp xếp ở cạnh Nhược Tích, tránh cho nàng ta ghen tuông vớ vẩn…
Nghe Khánh Kỵ thuật lại xong, Yểm Dư kinh ngạc kêu lên: “Người Đông Di muốn lập quốc?”
Khánh Kỵ nói: “Đúng vậy, nhưng Đông Di không tồn tại quốc gia đã lâu, các bộ lạc giờ đây vì cùng cảnh ngộ chống ngoại xâm nên tạm thời đoàn kết với nhau, một khi mối nguy được giải trừ, các bộ lạc vốn quen tự do khó chấp nhận sự quản thúc của thể chế quốc gia, còn binh mã của vị nữ vương Đông Di này cũng đều đến từ các bộ lạc khác nhau, nàng ta thiếu cơ sở quyền lực tạo lập chính quyền, chỉ còn cách dựa vào một cường quốc làm hậu thuẫn.
Tề quốc xưa nay luôn giơ cao ngọn cờ thay Chu thiên tử dẹp yên man di xâm lấn lãnh địa của người Đông Di, từ thời Tề Hoàn Công đến nay, lãnh thổ Tề quốc mở rộng thêm gấp bội, diệt hơn bốn mươi quốc gia nhỏ, trong đó có khá nhiều quốc gia kiểu bộ lạc như người Đông Di, Tề và Đông Di thù oán sâu nặng, là quốc gia người Đông Di không chấp nhận nhờ cậy. Lỗ quốc sát cánh cùng Đông Di chiến đấu chống Tề, chẳng qua vì tự bảo vệ, người Lỗ muốn yên thân an phận, không muốn bành trướng, sẽ không đồng ý tiếp nhận người Đông Di mà gây thù với Tề, nữ vương Đông Di sai sứ đến đây bày rõ ý định của mình, đó là một khi chúng ta phục quốc thành công, muốn Đông Di dựa vào Ngô quốc, làm thuộc địa của Ngô, thành lập quốc gia. Tất nhiên đấy chỉ là một đề nghị, nếu chúng ta đồng ý mới tiến hành đàm phán bước tiếp theo.”
Yểm Dư phấn khích: “Hay lắm! Sao lại không đồng ý? Người Đông Di có lãnh thổ rộng lớn, tuy vùng đất của họ có hơi nghèo nàn, người Đông Di chỉ sống bằng săn bắn đánh cá, ít trồng trọt cày cấy, làm công vụ thương lái, có thu thuế má cũng không được bao nhiêu, nhưng người Đông Di xưa nay luôn tự cung tự cấp, cũng sẽ không gây cho ta thêm gánh nặng gì, một khi Đông Di làm thuộc địa của ta, về mặt quân sự, ngoại giao tất cả đều nằm trong tay Ngô quốc, còn dễ dàng quản lí hơn một vùng đất phong cho công khanh đại thần, lại nâng cao uy danh của Ngô quốc trong các nước chư hầu, đây là việc có lợi lớn nên làm.”
Tôn Vũ cũng nói: “Người Đông Di tuy hoang dã, nhưng lãnh thổ của họ rộng gấp bội Ngô quốc ta, miếng thịt này ta không ăn, sớm muộn cũng bị người khác nuốt vào miệng, bây giờ người Đông Di chủ động tìm đến, đâu có lý do gì phải từ chối? Hơn nữa người Đông Di tuy lạc hậu nhưng cũng vì Chu thất cố tình tạo ra cục diện này, chứ không phải vùng đất của họ nghèo nàn, con dân dốt nát.
Năm xưa khi quân của Hoàng đế lấy gậy gỗ làm vũ khí, người Đông Di đã biết thuật luyện kim, tạo ra vật dụng bằng đồng. Sau Chu thiên tử, người đầu tiên dám xưng vương không phải là Sở vương Tử Hùng, mà là Từ vương Đông Di, khi đó người Đông Di lập ra nước Từ quản hạch lưu vực Hoài Thủy, Tứ Thủy, Từ vương có đạo trị nước, nhân nghĩa vang danh thiên hạ, quốc gia cường thịnh, các nước thần phục xung quanh hơn ba mươi, mới dám thách thức trực diện với Chu thiên tử, hoàng thành của Từ được xây hùng vĩ hơn cả của Chu thiên tử. Chỉ là khi đó khí số Chu thất đang lên, phát động toàn thiên hạ khởi binh diệt trừ Từ quốc, từ đó không thèm cai trị bỏ mặc người Đông Di, trải qua mấy trăm năm bị tách biệt với văn minh nên người Đông Di mới thế, chỉ cần Ngô quốc ta quan tâm dạy dỗ, không mất nhiều thời gian sau Đông Di sẽ trở thành cơ sở vững mạnh của Ngô, giờ Đông Di chủ động nhờ cậy, điện hạ không thể lỡ mất dịp may này.”
Khánh Kỵ gật gù: “Các tướng nghĩ vậy cũng đúng với ý định của ta.”
Chúc Dung vốn cũng cảm thấy đây là dịp tốt trời ban, nhưng nghe Khánh Kỵ nói vậy thấy anh ách trong lòng, bèn lên tiếng phản đối: “Tiếp nhận Đông Di, chúng ta phải gánh chịu sức ép từ người Tề, giờ đây Ngô quốc nội chiến liên miên, giang sơn chưa ổn định, Tề quốc hùng mạnh chúng ta có chống lại nổi không? Hơn nữa các bộ lạc Đông Di xưa nay luôn giao hảo với Sở, chúng ta mà xen vào tiếp quản, lại kết oán với người Sở.
Chà! Nên nói là oán cũ chưa xong, lại kết thêm thù mới. Ngô quốc ta phạt Sở, giết người cướp bóc vô số, dân Sở không phải ai cũng phân biệt rõ chúng ta và Cơ Quang đâu, Cơ Quang lúc đánh vào Dĩnh Đô cướp hết của cải trong hoàng cung, nay đang chất đầy Cô Tô, chúng ta phục quốc xong cũng cần dùng số của cải này xây dựng lại quốc gia, sứ giả Tần quốc hôm qua nhắc nhở khi phá thành chúng ta nên trả lại cho Sở số của cải này, lúc đó nên trả hay không trả? Nếu không trả, người Sở tức giận, ta tiếp nhận Đông Di càng gây thù chuốc oán với họ, Sở xua quân đến đánh, vậy chẳng phải chúng ta cùng lúc chống với bốn cường quốc Tần Sở Tấn Tề sao?”
Tôn Vũ ung dung: “Tề quốc tuy mạnh, nhưng lại ở xa, nếu xua quân viễn chinh, hao tổn chắc lớn, hơn nữa hai phái Điền, Yến, năm họ tộc quyền cao chức trọng ở Tề khó đạt được đồng thuận ý kiến, nên tạm thời không đáng lo. Còn việc Đông Di đến nương nhờ ta ủng hộ lập quốc, đó là ý nguyện của người Đông Di, đâu phải chúng ta dùng vũ lực chiếm giữ, người Sở muốn trách cũng không được. Còn nói đến số của cải Cơ Quang cướp về từ Dĩnh Đô, chuyện đó càng dễ dàng hơn…”
Tôn Vũ hít một hơi dài, nói giọng bình thản: “Sau này công phá Cô Tô thành, ta chọn ra mấy căn nhà trong hoàng thành đốt trụi, cứ nói là trong lúc chiến loạn Phù Sai đã đốt lửa thiêu hết số của cải. Người Sở hiện đang lo lắng Tam Miêu phía Nam, phía Bắc phải chống trả với Tấn, phía Đông các nước phụ thuộc đang manh nha phản loạn, họ tự lo thân mình đã vất vả, nếu không có chứng cứ xác thực, lại có lý do giải thích hợp lý, Sở đâu dám xua quân đánh ta.”
Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào vị Binh thánh Tôn Vũ được sử sách miêu tả từ tài năng quân sự đến đối nhân xử thế đều hoàn hảo này, không dám tin vào mắt mình.
Tôn Vũ cười khoái trá, quay sang Khánh Kỵ: “Điện hạ thấy thế nào?”
Khánh Kỵ mỉm cười: “Ý ta cũng như ý Tôn tướng quân đây!”
Phía xa xa có hai người đứng trong bụi cỏ nhìn vào đại doanh của Khánh Kỵ.
Chuyên Nghị trầm giọng nói: "Thái tử điện hạ lệnh cho ta đi tìm đại vương, chúng ta còn chưa đến nơi, đại vương đã tử trận, giờ đây Khánh Kỵ xua quân vây thành, quân Việt lấy danh nghĩa phụng di mệnh đại vương thảo phạt Khánh Kỵ, nhưng đại quân giấu đầu lòi đuôi, giờ cũng chả biết đi đâu. Còn Phù Khái... Phù Khái tướng quân đóng quân tại Kiền Toại, không tiến cũng không lui, không biết đang toan tính gì, chúng ta quay về thành gặp thái tử phải hồi đáp sao đây?"
Lý Hàn sắc mặt hầm hầm đứng bên cạnh không nói tiếng nào.
Hắn hiện giờ đang cảm thấy vô cùng hối hận, hối hận không nên rời khỏi Lỗ quốc, chạy đến Ngô đầu quân Hạp Lư, cứ tưởng rằng nắm được thông tin Khánh Kỵ lén mai phục một đội quân tại Phi Hồ cốc là lập được công lớn, người Ngô có thể dựa vào tin đó mai phục tiêu diệt gọn quân Khánh Kỵ, tuyệt luôn đường lui của hắn, sau cùng ép hắn vào đường cùng phải bỏ mạng ven đường, còn Lý Hàn đây thì được tận hưởng vinh hoa phú quý, ai mà biết Tôn Vũ lại chơi một chiêu xưa nay chưa từng xuất hiện, đó là đem cả vạn đại quân vòng đường biển đến sau lưng quân Ngô, làm cho cục diện thay đổi, giờ lại đến kết cục thất bại này.
Khi đó nếu cứ ở lại Lỗ quốc , tuy không được người đẹp để ý, tuy không được thăng quan tiến chức, chí ít cũng là gia tướng đứng đầu gia tộc Thúc Tôn thị, chỉ cần chờ đợi cơ hội, chưa chắc không có ngày ngẩng cao đầu, còn bây giờ phải làm sao đây?
Tay Lý hàn từ từ di chuyển đến phía chuôi kiếm: "Ta lén lút rời khỏi Lỗ, Thúc Tôn thị không biết lý do ta rời khỏi, nếu ta giết tên Chuyên Nghị này... Không được, trong Cô Tô thành có không ít người biết thân phận và lai lịch của ta, sau này khó mà đảm bảo chúng không tiết lộ âm mưu của ta... Ây!"
Chuyên Nghị không thấy Lý Hàn trả lời quay đầu lại nhìn hắn, vừa đúng lúc thấy tay Lý hàn đang đặt vào chuôi kiếm, ánh mắt hung tợn. Bị hắn nhìn vào, Lý Hàn lập tức tránh tầm nhìn của hắn, cố giấu diếm ý định giết người. Chuyên Nghị lại hiểu lầm ý định của Lý hàn, hắn tiến tới vỗ tay vào vai Lý Hàn, mở lời khen: "Ta biết mà, ngươi cũng sẽ có ý định giống ta".
"Ơ...". Chuyên Nghị vừa nãyy tiến tới, Lý Hàn thấy nôn nao trong lòng, nhưng hắn vẫn chưa đoán ra có phải Chuyên Nghị nhìn ra ý định bỉ ổi của hắn không, hơi chút do dự nên cứng đờ ra, hơn nữa kiếm thuật của Chuyên Nghị cao siêu hơn hắn, cộng cả hai lý do lại nên Chuyên Nghị đưa tay ra vỗ vai, hắn không kịp né tránh. Nghe Chuyên Nghị nói ra câu đó, Lý hàn thế mới biết hắn không nhìn ra ý định của mình, chỉ là không biết tên Chuyên Nghị này đang toan tính gì, vẫn đứng nghệch mặt ra chờ đợi.
Chuyên Nghị phấn khích nói: "Vừa rồi ta cũng nghĩ như vậy, hai người chúng ta về thành, chẳng qua góp thêm sức của hai người, không giúp ích nhiều cho thái tử điện hạ. Ta thấy sứ giả các nơi mang lễ vật đến chúc mừng Khánh Kỵ không ngớt, ngay cả người Đông Di cũng mang lễ vật đến, được Khánh Kỵ nghênh đón vào doanh trại. Ta vừa nghĩ ra một cách.."
Hắn xoay đầu lại, chỉ tay về phía quân doanh Khánh Kỵ nói: "Ngươi xem, bao nhiêu túp lều, mấy vạn tướng sĩ dũng mãnh, chỉ chiến đấu vì một mình Khánh Kỵ, chỉ cần Khánh Kỵ mà chết, dựa vào uy danh của hai tên Yểm Dự, Chúc Dung, tuyệt đối không thể bảo đại quân này phục tùng bán mạng cho chúng được. Đại quân Khánh Kỵ tan rã, cục diện Ngô quốc lập tức thay đổi, chúng ta chỉ cần giết chết Khánh Kỵ, hơn cả việc mượn được mười vạn hùng binh mang về".
"huynh... chuẩn bị... mạo nhận làm sứ giả vào hành thích Khánh Kỵ?"
"Sao? Ngươi muốn tấn công thẳng vào quân doanh à?" Chuyên Nghị tự cảm thấy hắn nghĩ ra một diệu kế, trong một lúc quá phấn khích. Hắn quay qua Lý Hàn giải thích: "Làm vậy không hay đâu, chúng ta còn chưa gặp được Khánh Kỵ, đã bị phanh thây ra rồi, chỉ có mạo nhận thân phận sứ giả các nước, mởi có thể mang theo binh khí tiếp cận hắn được".
Lý Hàn khẽ co giật, hắn cũng biết đây là cách duy nhất có thể làm vào lúc này, hơn nữa cơ hội thành công khá cao, nhưng dù cho có xông thẳng vào quân doanh hay mạo nhận làm sứ giả, kết cục của thích khách cuối cùng cũng chỉ có một, đó là bị băm thành thịt vụn. Mà hắn thì... không muốn hy sinh vì bất cứ ai, không muốn chết chung với Khánh Kỵ, hắn chỉ muốn vinh hoa phú quý thôi.
"Ta... ta biết chứ, ta chỉ nghĩ đến xông thẳng vào quân doanh là vì, là vì... Khánh Kỵ nhận ra ta, nếu đóng giả làm sứ giả, chỉ cần gặp mặt, hắn hét to ra lệnh, chúng ta chưa kjp tiếp cận đã lập tức chết dưới đao kiếm của bọn thị vệ của hắn rồi".
Chuyên Nghị ngớ ra: "Không sai, ta quên mất chuyện này". Hắn suy ngẫm một lát, nói: "Hừ, ta cứ tưởng có nguơi giúp sức, cản đám thị vệ giùm ta, ta có thể rảnh tay giết tên Khánh Kỵ. Xem tình hình này, chỉ còn cách ta đi gặp hắn một mình vậy".
Hắn vỗ vỗ vai Lý Hàn, ra vẻ cảm động: "Ngươi tìm cách chuồn về trong thành đi. Dù cho thành công hay thất bại ta cũng đã cố hết sức tận trung, nói với thái tử giùm ta, cứ nói... phụ tử Ngô vương đãi ngộ tận tình, cha con Chuyên Chư lấy tính mạng đền đáp, không dám phụ Ngô vương và điện hạ".
Lý Hàn nghe xong không khỏi cảm động, hai người đi với nhau mấy ngày, hắn luôn không xem trọng tên thượng khanh dựa vào tính mạng phụ thân đánh đổi này, nhưng vào lúc này, cho dù là người ích kỷ hèn mạt như Lý Hàn, trong lòng cũng cảm thấy day dứt không yên.
Lý Hàn buột miệng nói: "Tư mã đại nhân, Khánh Kỵ từng bị hành thích một lần, sao lại không phòng bị cẩn thận chứ? Kế hoạch hành thích chưa chắc linh nghiệm, đại nhân đâu cần thiết hy sinh vô ích, hay là cùng ta quay về Cô Tô thành thôi".
Chuyên Nghị bừng bừng đôi mắt, lòng hắn đã quyết: "Không. Đây là một cơ hội xoay chuyển tình thế, nếu đã có cơ hội thì ta phải đi thực hiện. Người quân tử có chuyên nên làm có chuyện không nên làm, ta đã quyết định rồi, dù phía trước có thiên quân vạn mã, Chuyên Nghị cũng không cau mày sợ hãi. Thế tử Khánh Kỵ và ngô vương Cơ Liêu, hai người bị cha con Chuyên Chư và Chuyên Nghị hành thích, ha ha, có thất bại đi chăng nữa thì hành động này cũng lưu truyền mãi vào ngàn năm sau rồi!"
Lý Hàn tự lẩm bẩm: Người muốn tự tìm cái chết, có khuyên cũng vô ích".
Trong quân doanh, Kinh Lâm sai người đem đến rất nhiều thứ, đều là vật dụng trong đại lễ đăng cơ ngày mai, có quốc hiệu, niên hiệu, hoàng kì, văn tế quỷ thần, văn tế rồng thần, văn tế tổ tiên, hoàng bảo, mũ quán , vân vân...
Khánh Kỵ xem xét kiểm tra kĩ lưỡng từng món. Đột nhiên hắn nhìn vào lá cờ hoàng kì, trên nền màu xanh có thêu một con ngũ trảo kim long, Khánh Kỵ cầm hoàng kì lên xem xét tỉ mỉ một hồi, ngẩng đầu lên hỏi: "Nếu trong vòng một đêm, thêu thêm ít hoa văn trên hoàng kì có hoàn thành được khôgn?"
Kinh Lâm ngạc nhiên nói: "Điện hạ, những thứ này đã được quyết định từ trước, điện hạ còn muốn thêm gì nữa?"
Khánh Kỵ trải lá cờ ra trên bàn, chỉ lên đó nói: "Ngươi xem, phía trên xanh lợt, phía dưới đậm, ở giữa là một con ngũ trảo cự long, rìa tấm hoàng kì chỉ thêu một số hoa văn thôgn thường, ta muốn... dẹp các hoa văn này đi, thêu một con phượng hoàng ngay bốn góc, đầu phượng thêu góc trên bên trái, thân phượng thêu dọc theo lá cờ, đến góc bên kia hướng lên, đuôi phượng ở góc trên bên phải, mặt trên lá cờ thêu thêm chút hoa văn mây bay, rồng bay phượng múa, long phượng cát tường, ngươi thấy thế nào?"
Kinh Lâm ngớ người: "Điện hạ, Phụng... là... là thần thú người Sở tôn thờ, người Ngô chúng ta tôn thờ rồng thần mà".
Khánh Kỵ mỉm cười: "Không chỉ người Sở, từ biên thùy phía Tây trải dài ra biển đông, còn có người Tần, Di Hồ, Hoài Di, họ cũng lấy phụng làm biểu tượng..."
Kinh Lâm hình như hiểu ra đôi chút, nín thở chờ được giải thích thêm.
Khánh Kỵ hí hửng giải thích: "Người phương Bắc thờ rồng, người phương Nam thờ phụng, Ngô quốc ta vốn là dòng dõi Chu thất, nên cũng lấy rồng làm biểu tượng. Nhưng Ngô quốc lập quốc đã lâu, từ đó tách biệt với trung nguyên, sớm bị các chư hầu trung nguyên xem là nam man dị tộc. Sau mươi năm trước, thái tổ phụ ta bỏ danh hiệu công tước tự xưng vương tước, xem như đã đối địch với Chu thiên tử. Hô hô, nếu đã là vậy chúng ta sao phải bị người phương Bắc xem là dị tộc, bị người phương Nam cũng xem là dị tộc chứ?"
Ánh mắt Khánh Kỵ từ từ lóe sáng: "Tần, Sở, Ngô, Đông Di, từ Tây sang Đông, nếu liên kết lai với nhau thì..."
Kinh Lâm ngộ ra đạo lí kêu lên: "Chúa công muốn gia nhập vào trận địa phương Nam, cùng kháng cự với các chư hầu phương Bắc, hơn nữa... muốn từng bước phát huy ảnh hưởng trogn dân chúng phương Nam. Người Tần, người Sở đều là hậu duệ của Đông Di, làm vậy một khi người Ngô dung nạp Đông Di, áp lực đe dọa sau lưng giảm đến mức tối thiểu, muốn đối phó với Tề quốc hùng mạnh lại còn nhận được sự giúp đỡ từ họ , dung hòa Tần, Sở, Ngô, Việt, Đông Di lại với nhau, chiếm cứ lưu vực Trường Giang, xâm chiếm sang lưu vực Hoàng Hà, bao vây các chư hầu trung nguyên..."
Tấm bản đồ hùng vĩ đó được trải ra trong suy nghĩ, Kinh Lâm thấy sôi sục máu nóng, việc lớn thế này không thể ngày một ngày hai làm đuọwc, có lẽ cần trải qua mấy thế hệ ra sức mới xong, nhưng chúa công của hắn có hùng tâm tráng chí như vậy, kẻ làm thuộc hạ như hắn cảm thấy khâm phục vô cùng.
Kinh Lâm chà xát nắm đấm vào nhau, đang định hỏi chi tiết thêm về kế hoạch của Khánh Kỵ, bỗng một tên lính vội vã chạy vào lều, thở hổn hển bẩm báo: "Điện hạ, có sứ giả Từ quốc cầu kiến".
Khánh Kỵ khẽ nhăn mày: "Ngươi hoảng cái gì?"
Các nước nhỏ Từ , Trần xung quanh vẫn giữ thái độ trung lập trước việc Phù Sai, Khánh Kỵ lần lượt đăng cơ, chỉ vì quốc gia của họ quá nhỏ bé, khi chưa rõ tình hình nghiêng về phía nào, không dám tùy tiện tỏ ý ủng hộ một phe, điều này Khánh Kỵ đương nhiên hiểu rõ, cũng có thể thông cảm. Bây giờ Từ quốc phái sứ giả đến chức mừng, Khánh Kỵ cảm thấy có hơi bất ngờ.
Tên lính vẫn thở hổn hển: "Sứ giả Từ quốc lúc đi ngang Kiền Toại bị người của Phù Khái ngăn cản, đội nghi thức hộ tống bị đánh cho tan tác, bây giờ chỉ còn một sứ giả đến được đây, toàn thân máu me, đang hấp hối sắp chết ạ..."
"Cái gì?" Khánh Kỵ giệt nảy mình, vội ra lệnh: "Mau đưa ta đi xem".
Tuy hiện giờ Khánh Kỵ chưa nắm quyền kiểm soát cả Ngô quốc, các thế lực chống đối vẫn nhiều, những chuyện này các nước khác đều biết rõ, nhưng sứ giả bị giết, chứng tỏ quyền lực của hắn có hạn, đấy là một việc mất mặt tổn hại uy danh. Khánh Kỵ vội vàng bước ra lều, dặn dò Kinh Lâm: "Mau đi mời thầy lang tới đây, phải bằng mọi giá giữ lấy tính mạng cho sứ giả".
Kinh Lâm dạ một tiếng vội lui ra ngoài, Khánh Kỵ theo sau tên lính dẫn đường đi ra đại doanh hướng về phía Viên môn bước tới. Tên lính vừa đi vùa nói: "Sứ giả Từ quốc khắp mìnhd đầy máu, cũng không biết bị thương nặng cỡ nào, chúng tiểu nhân cũng không dám di chuyển sứ giả, để sứ giả nằm nghỉ tại Viên môn..."
Hai người vội vã bước tới Viên môn, chỉ thấy một người đang nằm sấp ở đó, xung quanh có mấy tên lính đang băng bó vết thương cho hắn, thấy Khánh Kỵ bước tới, có người gọi lên: "Điện hạ".
Khánh Kỵ xua tay, bước lên hai bước, chỉ thấy người này mới hơn hai mươi tuổi, mũi nhọn, khuôn mặt gầy gò trắng bệch, khắp mình máu me lấm lem, tay phải duỗi thẳng xuống đất, một ngón tay bị chặt mất, máu thịt be bét.
"Túc hạ chính là sứ giả Từ quốc?"
Người kia gắng gượng nhìn sang, hỏi: "Ngài là...?"
"Ngô quốc Khánh Kỵ".
Người kia khẽ kêu lên, cố gắng ngồi dậy: "Thì ra là công tử Khánh Kỵ, Tư Mã nghị cuối cùng cũng hoàn thành sứ mệnh, gặp được công tử".
Khánh Kỵ vội trấn an: "Sứ giả không cần ngồi dậy, thầy lang sẽ đến đây tức thì".
Tên Tư Mã Nghị tia tỏ ra bướng bỉnh: "Tư Mã Nghị lần này đến đây là thay mặt quốc quân Từ quốc đến gặp quân vương tương lai của Ngô quốc, lễ nghi quốc gia, sao lại.. sao lại bỏ được. Đợi sau khi Tư Mã Nghị dùng lễ nghi sứ giả tham kiến xong điện hạ, rồi băng bó chữa trị cũng chưa muộn". Tư mã Nghị nói xong, đẩy hai tên lính đang băng bó cho hắn ra, bước tới hành lễ, nhìn dáng vẻ hắn lảo đảo đứng không vững, hình như sắp tắt thở đến nơi.
Khánh Kỵ nghe vậy trong lòng nể phục, tên Tư mã Nghị bước đi xiêu vẹo đứng trước mặt Khánh kỵ, chỉnh trang y phục, sau đó cúi rạp người vái lạy: "Sứ giả Từ quốc Tư mã Nghị, bái kiến công tử Khánh Kỵ".
Khánh Kỵ vội bước lên đưa tay ra đỡ: "Quý sứ miễn lễ, mau mời đứng dậy".
Hai tay Khánh Kỵ vừa đụng vào người Tư mã Nghị, chỉ thấy hắn đột nhiên ngước mặt lên, tràn đầy sát khí: "Xoạt" một tiếng vang lên, thanh kiếm ngang lưng đã được tuốt ra khỏi vỏ, các vinh sĩ xung quanh biết chuyện không hay xảy ra, nhưng đang đứng cách xa không kịp cứu viện, chỉ kịp đồng thanh hốt hoảng hét lên: "Điện hạ cẩn thận".
Khánh Kỵ bước tới tính đỡ, Tư Mã Nghị liền lao người về phía trước, hai người chạm mặt, mũi ngang mũi, phà hơi thở vào nhau, đôi mắt trừng trừng nhìn vào đối phương, binh sĩ xung quanh kinh hãi quan sát hai người, bàn tay đều toát cả mồ hôi lạnh.
Kinh Lâm dẫn theo thầy lang chạy tới, vừa đúng lúc Tư Mã nghị ra tay hành thích, trong lòng lạnh toát, hai mắt phủ một màu đen: "Thôi rồi, nếu như điện hạ bị hành thích tử vong, đại nghiệp thế là tiêu tan!" Trái tim Kinh Lâm đập nhanh thình thịch muốn rớt cả ra ngoài, một tướng quân dũng mãnh trên sa trường nay đứng chết trân ra đó. Khánh Kỵ và Tư mã Nghị gườm nhau hồi lâu, không hề động đậy, xung quanh như có đại địch đang lan tỏa ra, các binh sĩ ở xa cũng cảm nhận được bầu không khí khác lạ, tất cả mọi người đều bất động theo, duy chỉ còn tiếng gió nhè nhẹ thổi lá cờ bay phất phơ trong gió.
Khánh Kỵ nheo mắt lại, khóe miệng nở nụ cười đắc ý, đẩy tay mạnh về phía trước một cái, Tư Mã Nghị lảo đảo bước lui lại, tay hắn đang ấn vào bụng mình, thanh kiếm sắc bén dài hơn một thước đã đâm thọt hoàn toàn vào bụng hắn.
"ngươi... ngươi sao có thể phát hiện ra ta là thích khách?"
"Là ai đã phái ngươi đến?"
"Không ai phái ta đến cả!" Chuyên Nghị muốn đứng thẳng người, nhưng trong bụng bị cắm một thanh kiếm, hắn làm sao đứng thẳng lên được, "Ta là... Chuyên Nghị, con trai của Chuyên chư, là ta... tự ý quyết định đến giết ngươi".
"Con trai của Chuyên Chư?" Khánh Kỵ im lặng hồi lâu, các binh sĩ xung quanh thấy lạnh cả sống lưng, nhưng Khánh Kỵ lại tỏ ra bình tĩnh khác lạ, không phải cứ nghe thấy tên này là con trai của kẻ thù giết cha, liền điên tiết lao lên phanh thây xẻ thịt hắn.
Chuyên Nghị đứng không còn vững nữa, hắn lảo đảo quỷ một chân chống tay xuống đất, vẫn không cam tâm luôn miệng hỏi: "Ngươi... sao ngươi phát hiện... ta là thích khách?"
Khánh Kỵ lạnh lùng đáp: "Vì ngươi dù cho có giữ chức thượng khanh đại tư mã, nhưng vẫn chỉ là một tên thích khách. Ngươi, chỉ xứng làm một tên thích khách, hơn nữa là một tên thích khách không hiểu biết, thứ ngươi duy nhất có được là kiếm thuật siêu phàm, nhưng chỉ cần ta đề phòng trước thì ngay cả cơ hội xuất kiếm ngươi cũng không có".
Chuyên Nghị mở to mắt nhìn trừng trừng vào Khánh Kỵ.
"Y phục và giầy của ngươi mang là kiểu dáng của người Ngô, có thể giải thích là ngươi thay y phục của Ngô để che dấu hành tung, cây trâm búi tóc của ngươi cũng là vật phẩm của Ngô, cái này miễn cưỡng cho qua vậy. Nhưng ngươi không nên làm cho áo mình rách bươm ra quá đáng, để lộ ngực ra, trước ngực ngươi có xăm hình rồng rắn và cây tảo, ta chưa từng nghe nói quý tộc người Từ cũng giống như dân Ngô dân Việt có thú vui xăm mình. Còn nữa, kiếm của ngươi, kiếm sứ giả đeo trên người là loại kiếm dài ba thước chỉ dùng trang trí thôi, còn ngươi lại mang theo cây kiếm dài một thước chuyên dùng để giết người này, cái này... đơn giản thế mà ngươi không hiểu sao?"
Chuyên Nghị đanh mặt lại không hề lên tiếng.
Khánh Kỵ nói tiếp: "Phụ thân của ngươi vì chuẩn bị cho kế hoạch hành thích đã phí mất thời gian nửa năm, tốn ba tháng đi học nướng cá ở Thái Hồ, thế mới tiếp cận được phụ vương ta, dù là tâm cơ, kiến thức, ngươi đều không bằng phụ thân ngươi".
Chuyên Nghị ngu ngơ trong giây lát, đột nhiên nhổ bặt thanh kiếm cắm trong bụng ra, máu tuôn như suối, binh sĩ xung quanh lập tức giơ binh khí bao vây hắn lại, đề phòng hắn giẫy chết làm liều.
Chuyên Nghị thở ra hơi thở cuối cùng, lẩm bẩm: "Thì ra, làm một thích khách, cũng không hề đơn giản..."
Khánh Kỵ cười lạnh lùng: "Ngày mai là ngày vui ta đăng cơ lên ngôi quân vương, cám ơn ngươi đã mang tặng lễ vật quý này!"
Khánh Kỵ phất tay áo quay lưng bước đi, chỉ để lại một câu lệnh: "Lấy thủ cấp hắn, cúng tế tiên vương!"
Last edited by _Gàviệttrì_; 22-04-2011 at 08:03 PM.
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 215: Đại lễ đăng cơ (Thượng Hạ)
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Khánh Kỵ xưng vương, nhưng trình tự bốn bước Trai, Mộc, Đàn, Tế (ăn chay, gội đầu, lập đàn tế lễ) cũng không rườm rà như bình thường. Hôm nay Ngô quốc chưa ổn định, Khánh Kỵ đăng cơ xưng vương ở ngoại thành quá trình thực hiện nghi lễ đã rút gọn đáng kể, cho dù như vậy, cũng diễn ra hết sức phứt tạp.
Đăng đàn thụ phong, phải có di chiếu của Tiên vương, bước này được bỏ qua. Chư hầu đăng cơ phải có sắc phong của chu Thiên Tử, nhưng Ngô quốc từ thời thái tổ của Khánh Kỵ là Thọ Mộng đã vượt qua bổn phận này mà xưng Vương, quyền thế ngang bằng với Chu Thiên Tử, Chu Thiên Tử không thể phái sứ tiết tới Ngô quốc sắc phong, trình tự này cũng bỏ qua.
Vừa sáng sớm, Nhâm Nhược Tích, Quý Tôn Tiểu Man, Thúc Tôn Diêu Quang đã xuất hiện trước mặt Khánh Kỵ. Kỳ thực từ tối qua khi nghe tin Khánh Kỵ gặp thích khách, ba người đã kinh hồn khiếp vía chạy tới. Nhâm Nhược Tích mang đến một loại nhuyễn giáp (áp giáp mềm) mà Nhâm gia tinh chế, đây là loại giáp hai tầng, ở giữa giáp trụ bó sát mình phủ một lớp ngũ kim mềm mại, chi phí chế tạo đắt đỏ, không thể chế tạo với số lượng nhiều được, tuy nhiên sản xuất vài bộ đem tặng quý nhân sử dụng thì có thể được.
Khánh Kỵ hôm nay bị ba người ép buộc mặc bộ nhuyễn giáp này để phòng thân. Đứng trước Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, Khánh Kỵ và Nhâm Nhược Tích không tiện nói gì, nhưng có vẻ như tình nhân gặp lại, lời nói hành động, thần thái có chút kì quái. Khánh Kỵ có vẻ khá hơn một tí, nhưng Nhâm Nhược Tích toàn thân mang bộ dạng giống như hoa lê sau mưa, khả năng che đậy không hoàn mỹ tí nào.
Thúc Tôn Diêu Quang quan sát thần sắc hai người có vẻ khác thường, trong lòng cũng hiểu rõ, nhưng hiện tại Nhâm gia quân không chỉ giúp Khánh Kỵ rất nhiều, Khánh Kỵ sau khi thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Ngô quốc, cũng cần ổn định giang sơn cơ nghiệp, cần sự giúp đỡ rất nhiều từ những bậc thế gia quyền quý như Nhâm gia. Huống hồ gì Khánh Kỵ hôm nay đăng cơ xưng Vương, quân chủ một quốc gia phi tần làm sao lại thiếu? Nàng đã được gia tộc đính hôn với Khánh Kỵ, địa vị thân phận của bản thân đã được bảo hộ, mặc dù nói trong lòng có chút đăng đắng, nhưng ngược lại thái độ biểu hiện ra của nàng cũng rộng lượng , không biểu lộ rõ ra ngoài.
Còn với Quý Tôn Tiểu Man, mặc dù đã từng lén lút kéo tai Khánh Kỵ hờn dỗi, chất vấn giữa hắn và Nhâm Nhược Tích có ngoại tình gì. Nhưng nàng từ đầu đã không hiểu Thúc Tôn Diêu Quang lấy ở đâu ra thân phận phu nhân của Khánh Kỵ mà ép nàng suốt ngày, đến nay đã có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn, sự uy hiếp đối với Thúc Tôn Diêu Quang so với nàng thì nhiều hơn nhiều, kỳ thật nàng lại muốn điều đó. Lại bị Khánh Kỵ phản công một trận, ôm nàng vào lòng, liều lĩnh có những hành động mơn trớn, thượng hạ kỳ thủ (vuốt ve từ trên xuống) , lời nói sâu sắc. Nàng lập tức buông xuôi trước khí thế mạnh mẽ dấy binh thảo phạt, thở hổn hển, cuối cùng nàng cài lại trâm tóc , khuôn mặt mãn nguyện thẹn thùng vén màn chạy ra khỏi trướng.
Quý Tôn Tiểu Man quay đầu suy nghĩ cẩn thận một lát, chưa từng làm khó dễ Khánh Kỵ, nhưng lại bị hắn chiếm đoạt không ít tiện nghi của bản thân, bất giác vô cùng nản lòng. Nản lòng thì nản lòng, tiểu ni tử lại cảm giác bị hắn bắt chơi trò chơi người lớn vuốt ve ôm ấp nàng vào lòng cũng rất ngọt ngào , vì vậy có lúc nàng trừng mắt tỏ vẻ tức giận, lại có lúc xoa cằm cười bẽn lẽn, nàng cũng chẳng để ý gì đến điệu bộ quái lạ của Thúc Tôn Diêu Quang và Nhâm Nhược Tích.
Hôm nay Khánh Kỵ đăng cơ, là một ngày trọng đại không gì sánh được, ba người bọn họ mặc dù đều mang những suy tính khác nhau, nhưng trong thời khắc trọng đại này thì không ai có biểu hiện gì cả. Bọn họ tự phát sắm vai là tì nữ theo cạnh Khánh Kỵ, giúp hắn thay y phục, trang điểm. Những phục trang phức tạp của đấng quân vương, khi mặc vào thì càng ngày càng lộn xộn. Ở đây không có cung nữ có nhiệm vụ thay y phục cho đấng quân vương như trong cung, đám tì nữ tầm thường này không hiểu y phục của bậc Đế vuơng, nên ba người bọn họ đành phải đương nhiệm.
Ngô vương và Chu thiên tử ngang nhau, đại lễ xưng Vương, lễ phục đều rất phức tạp với áo giữa mỏng, áo lông lớn, y phục đen, xiêm y, vương miện. Vài bộ y phục trong ngoài, có chiếc màu vàng, màu đỏ, lại có chiếc màu xanh, đen thâm thúy, tượng trưng cho sắc thái của trời và đất. Trên áo đính hoa văn tinh tế sáu loại tinh hoa của trời đất với mặt trời mặt trăng, sao, núi , rồng, bọ. Dưới xiêm y cũng được thêu sáu sản phẩm đất trời với tảo, lửa, bột gạo, rượu cúng, áo lễ , áo tế, tổng cộng mười hai hoa văn.
Đương thời đại lễ long trọng nhất, Công khanh đại vương đều phải diện xiêm y, đeo quan mão, đó cũng là chiếc mũ có mành che mà trên các bộ phim lịch sử sau này thường thấy. Lúc đó tuyệt không có quan mão chuyên biệt dành cho Đế vương, quan mão long trọng nhất dành cho các bậc công khanh đại phu cũng là những chiếc mũ như vậy, chỉ khác nhau ở chỗ trên mũ được đính nhiều hay ít ngọc châu và châu tử thôi.
Khánh Kỵ xưng vương , cúng trời tạ đất, là lễ tiết quan trọng nhất, do đó vương miện dùng mười hai tràng trọc lưu (chuỗi ngọc dành cho vua chúa thời xưa), mỗi tràng đính mười hai viên ngọc châu. Yểm Dư, Chúc Dung là công vương, dùng chín tràng ngọc và chín viên ngọc châu, Tôn Vũ, Lương Hồ Tử, Kinh Lâm là công khanh, chia quan vị cao thấp với sáu tràng ngọc, bốn tràng ngọc, hai tràng ngọc theo thứ tự chức vị, công khanh từ tam công trở xuống chỉ dùng dải tua. Trên y phục cũng tùy theo quan vị mà giảm dần hoa văn đính kém, Yểm Dư, Chúc Dung trên áo không đính mặt trăng mặt trời, còn lại đều giống với Khánh Kỵ, lần lượt các quan vị phía dưới y phục đều không đính hoa văn mặt trời mặt trăng, các vì sao và núi. Mặc dù đại lễ được cử hành tại doanh trại quân đội, nhưng những lễ chế tứ tiết này đều không dám làm qua loa, đại khái.
Khánh Kỵ đăng đàn thụ phong, hai bên trưng bày quốc bảo, hôm nay bảo vật của nước Ngô đều đặt ở Cô Tô, lại không thể lấy lễ vật chúc mừng của chư hầu ra làm quốc bảo của Ngô quốc được, ban đầu chỉ cần giản dị một chút, nhưng Nữ Vương Đông Di đem tặng bộ xương khủng long cực lớn cũng đã bổ khuyết sự thiếu sót này. Bộ xương khủng long lớn hóa thạch đó do không có nhà sinh vật học nào đến chỉ đạo bọn họ ghép xương vào một cái giá khủng long như thế nào, cho nên đám lính trong doanh trại đều mặc nhiên theo đuổi trí tưởng tượng của mình. Phía trước đàn được đào một cái hố sâu dùng để thở cúng, sau đó dựa vào hình dạng Kim long ngũ trảo trên Vương kì ghép ra bộ xương rồng cực lớn, sứ giả chư quốc tới dự lễ đứng ở trên vương đàn nhìn thấy đồ vật khổng lồ như vậy, hết thẩy đều tỏ vẻ ngạc nhiên kinh sợ.
Khánh Kỵ đăng cơ, được nhận các khí vật tượng trưng cho các lĩnh vực như Ngọc tỉ, Vương kỳ, Hoàng sách, Địa đồ..., tại ngày lành tháng tốt mà khấn thiên cáo địa, hiến tam sinh cúng trời đất (tam sinh - ba loại gia súc để cúng tế bò, dê, lợn), Khánh Kỵ đưa tay đốt đuốc châm lửa vào chiếc đỉnh bằng đồng tinh, ngọn lửa bùng lên, khói bay cao tới thiên đỉnh, các bậc nho sĩ đăng đàn cầu khấn, tuân theo phép tắt thờ cúng mà khấn bái nhật, nguyệt, phong, lôi, bốn mùa, y theo phép "Vọng" tuế mà khấn cầu giang sơn đất nước tứ phương.
Nghi lễ tiếp theo là tôn bái Thần Long, thắp hương mai táng thần long cốt; tôn bái tổ tiên, phụ vương, hiến tế đầu của đương kim Ngô quốc Đại tư mã Chuyên Nghị. Mỗi hồi cúng tế, lễ từ đều khác nhau, tất cả văn tế đều do Thúc Tôn Diêu Quang viết ra , để trích dẫn kinh điển, viết ra những bài văn tế này, nàng có thể mất vài ngày không ngủ soạn thảo chúng. Nhưng nhìn thấy Khánh Kỵ đăng cơ Hoàng đế, thân mang Vương phục cáo cáo thiên hạ, trong lòng nàng ngọt ngào tựa như mật ong, do đó so với những vất vả kia, cũng không cảm thấy gì cả.
Thời khắc mà Khánh Kỵ đăng đàn lúc đó, ánh mắt Quý Tôn Tiểu man từng hồi từng hồi hướng về Khánh Kỵ, mấy ngày qua lo việc quân cơ, khiến chotreen khuôn mặt Khánh Kỵ có vẻ chính chắn hơn nhiều, ánh mắt nàng quan sát kỹ hơn một tí, nhìn Vương bào Khánh Kỵ đang mặc, lại thấy hắn thấp thoáng hiện lên vài phần khí chất Vương giả, nhìn vậy Quý Tôn Tiểu Man bất giác thần sắc mơ hồ, miên man, ánh mắt nhìn Khánh Kỵ. Vị nam tử này cuối cùng cũng có ngày hôm nay khôi phục lại giang sơn, hiện tại mặc dù Cô Tô thành chưa công hạ, quân xâm lược của Việt quốc và Phù Khái vẫn chưa dẹp bỏ được, nhưng nàng tin rằng, với con người như Khánh kỵ, thì đó không phải là việc quá khó khăn.
Nhớ lại tình cảm của hai người trong hơn một năm qua, có vẻ như giữa họ có tình mà không có ý. Số mệnh có vẻ đã sớm được định đoạt.. Nghĩa lại những lời lẽ hùng hồn mà Khánh Kỵ từng nói với nàng: Ta Khánh Kỵ nếu có thể khôi phục lại giang sơn, sẽ tôn nàng là phi. Đến nay thế sự đã thay đổi, bất luận là tâm trạng của mình, hay là vận mệnh gia tộc của bản thân , đều đẩy nàng đến bên cạnh vị công tử này, nhưng bên cạnh chàng, đã có hai vô nương đẹp như hoa, đã từng ăn nằm với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ và nàng chưa bao giờ tâm tình với nhau, nhìn thái độ lúc gần lúc xa đó, có phải là chàng oán giận Nhâm gia ta đợi đến mọi chuyện rõ ràng minh bạch rồi mới đưa ra quyết định hay không? Nghĩ tới đây, Nhâm Nhược Tích ngán ngẩm thở dài một tiếng.
Khánh Kỵ theo tuần tự khấn bái thần linh, tổ tiên, sau khi hoàn tất, bước đến Vương tọa, tiếp nhận triều bái của quần thần, chư quốc sứ tiết chúc mừng, sau đó là màn nhảy múa theo nghi thức, trước văn sau võ, biểu thị lấy võ lực giành thiên hạ, lấy văn trị giành thái bình. Múa văn, múa võ, tượng trưng hai loại thể chế thống trị văn trị, võ công. Trong âm thanh của tiếng nhạc, lấy chìa khóa, lông gà, con cò làm hình tượng cho múa văn, tượng trưng cho văn đức.
Sau màn múa văn, đến lượt võ sĩ tay cầm thuẫn, thương, búa, giương cung tên lên đàn bắt đầu múa, tượng trưng cho võ công. Mỗi tư thế đều biểu diễn võ thuật đại diện cho một chữ, bài hát khi xướng lên một từ, nhạc cụ ngân lên một âm, thì màn biểu diễn thay đổi một động tác, mỗi hiến lễ là ba mươi hai thế múa, ba hiến lễ tổng thể chín mươi sáu thế, mỗi thế biểu diễn hiện lên, đều giống như một bức tranh điêu khắc độc đáo và tinh tế.
Màn biểu diễn này trong mắt Đông Di sứ tiết, những người đã mất nước từ lâu, đúng là đại khai nhãn giới. Vị Huyền Điểu cô nương kia say sưa thích thú đứng nhìn, Khánh Kỵ tranh thủ ngắm nhìn nàng một lúc, chỉ nhìn thấy vị cô nương này đôi khi chắp tay trước ngựa đứng nhìn sau đó lại mấp máy môi, đôi môi hồng kia lại được thể dao động, giống như đang ăn thứ gì vậy. Vì để lưu truyền lại cho hậu thế những hồi ức về Khánh Kỵ, nên hắn đối với đại lễ này tuyệt nhiên thập phần kính nể, nên cũng cố gắng đến ướt đẫm mồ hôi.
Đợi cho tất cả các lễ nghĩa đã hoàn tất, quần thần văn võ đến ngồi hai bên dưới trướng hoàng đế, yến tiệc của tân vương đăng cơ bắt đầu , tứ phương nghi trướng võ sĩ đứng cạnh nhau chỉnh tề bất động, mỗi đội hình vuông vức san sát, chiếc nồi lớn bên dưới lửa cháy hừng hực, bên trong chứa đầy thịt trâu, dê, heo. Dưới nhà bếp, những đầu bếp khuôn mặt thấm đẫm mồ hôi đang cật lực làm việc, chuẩn bị các món ăn để thiết yến.
Có Quý Tôn Tiểu Man từ nhỏ đến lớn đã sống tại Lỗ Quái Cư chỉ huy, nên lúc này tình hình dưới nhà bếp trong doanh trại đều trật tự không rối loạn, hơn nữa lại đăng cơ tại doanh trại, nên mọi chuyện rất đơn giản, thực phẩm trong doanh trại đều có giới hạn, nhưng hôm nay Quý Tôn Tiểu Man chỉ đạo, chế biến rất nhiều món ăn mới, ngoài những món chiên xào truyền thống, còn chế biến những món ăn mới rất đặc sắc, nên cũng bù đắp cho sự thiếu sót trong yến tiệc của đại lễ đăng cơ, chí ít đối với sứ giả các nước chư hầu mà nói, không ngờ sự giản dị này, lại có thể đem đến một hương vị mới mẻ như vậy.
Đến lúc thức ăn được mang lên, thì có Nhâm Nhược Tích giúp đỡ. Đối với yến tiệc trọng đại trang trọng thế này, thức ăn cũng phải được bố trí với các quy cách khác nhau. những món ăn có xương phải được đặt ở bên phải của chủ vị, những món thuần thịt được đặt bên trái, những món nướng được bố trí xa một tí, những món ngọt và nước tương đặt gần hơn, rượu các loại và các loại nước uống khác được đặt cạnh với các loại canh. Bố trí tinh tế và tỉ mỉ như vậy, nếu có thêm các loại thịt khô thì có thể tùy vị trí mà đặt ở bên phải, hoặc đặt theo hàng tuần tự ở bên trái. Thử nghĩ trong doanh trại của Khánh Kỵ đều là võ phu, cho dù đã tập luyện mười ngày , nhưng ai có thể nhớ hết những quy cách này chứ, nếu nhỡ đến lúc món ăn được mang lên, bọn họ lại bố trí lung tung, hỗn loạn, thì có thể gây trò cười cho thiên hạ, khiến cho đại lễ đăng cơ trang nghiêm như thế này bỗng chốc biến thành một mớ hỗn loạn thì khốn.
Nhân gia đại nghệp cực lớn, giàu sang không thể tả nổi, trong nhà luôn có kẻ hầu người hạ, hôm nay Nhâm thị tạo phản, đám gia nô này cũng tập trung vào trong doanh trại. Bọn họ đều biết rõ những quy cách rườm rà này, do đó có bọn họ sắp xếp món ăn, nên mọi việc hôm nay đều ngay ngắn rõ ràng, mọi việc đều đâu vào đấy, khiến cho sứ tiết các nước đều tấm tắc khen ngợi và ngạc nhiên không kém, không hiểu tại một đại lễ đăng cơ được tổ chức vội vàng ở bên ngoài thành, mà Khánh Kỵ lại kiếm đâu ra những gia nô tì nữ được huấn luyện kĩ càng thế này, nên đối với Khánh Kỵ vừa thống nhất được nước Ngô, bọn họ lạ càng tăng vài phần tin tưởng.
Khánh Kỵ tay nâng ly rựou, nói:
- Chư vị sứ tiết từ xa tới dự lễ , thịnh tình thành khẩn, Quả nhân mời chư vị một ly, thay lời cảm ơn của ta. Nguyện vọng của Ngô quốc ta, cùng với chư hầu quý quốc, hãy cùng nhau tương trợ, mãi mãi là hảo bằng hữu của nhau.
Chủ nhân cung tiến, là vì hiến lễ, chư quốc sứ tiết lần lượt nâng ly đáp lễ, Khánh Kỵ bước đến chỗ ngồi của Đông Di sứ tiết, vị cô nương Huyền Điều kia vội vàng đứng dậy, dường như muốn nâng ly cùng Khánh Kỵ, khiến cho Khánh Kỵ bất ngờ, vội vàng quay ngắt một trăm tám mươi độ.
Huyền Điểu ở phía sau Khánh Kỵ tấm tắc nói:
- Những hạt ngọc trên mũ ngài rất đẹp, độ tinh khiết rất cao. Nhưng tấm màn che mặt của ngài, không sợ bị té ngã hay sao?
Đơn Ô ở bên cạnh không chịu được cất tiếng gọi:
- Huyền Điểu...
Khánh Kỵ làm như không nghe thấy gì, vội vàng bước tám bước hướng về phía đối diện mà đi.
Khánh Kỵ mời rượu xong, quay về chỗ ngồi của mình, chư quốc binh khách mời rượu lại, Khánh Kỵ cười uống, gọi là tạc tửu (khách mời rượu chủ nhà) . Sau đó, Khánh Kỵ rót rượu vào ly, tự uống một ly, rồi hướng về chư vị binh khách mời rượu, đó là thù tửu (chúc rượu giữa chủ và khách - cho nên mới có câu chén tạc chén thù). Từ hiến lễ, lại đến thù tạc, sau đó đến chúc rượu, gộp chung lại được gọi là "Nhất hiến chi lễ". Trước nhị hiến , mọi người có thể tự do nói chuyện , tùy ý uống rượu, Khánh Kỵ nhận lời chúc rượu của hai vị Vương thúc Yểm Dư, Chúc Dung, sau đó lại đến Tôn Vũ, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử, Xích Trung, tiếp theo đến lượt A Cừu, Tái Cừu mời rượu...
Tửu ý chưa thấm tháp vào đầu, Khánh Kỵ nâng ly, từ từ bước tới phía trước vài bước, chư quốc sứ tiết đều không dám uống nhiều rượu tại buổi tiệc có tính lễ tiết này , do vậy thần thái đều rất tỉnh táo. Khánh Kỵ chỉ một cử động, bọn họ đều nhận biết được, đều chờ đến lúc Khánh Kỵ cử hành "Nhị hiến chi lễ", bèn vội vàng đi cầm ly của riêng mình, có vị mỹ tửu trong ly đã cạn, vội vàng đi châm rượu thêm, vị Huyền Điểu cô nương kia uống nhiều đến nỗi khuôn mặt ửng hồng như hoa đào, lúc này chỉ dựa vào một nữ tử Đông Di bên cạnh mà thì thầm to nhỏ, tuyệt không chú ý đến hành vi của Khánh Kỵ.
Last edited by _Gàviệttrì_; 22-04-2011 at 08:04 PM.