Ngày 11 tháng 10, buổi tối
Jonathan Harker đề nghị tôi ghi lại những diễn biến xảy ra tiếp theo. Anh bảo tôi rằng chỉ mình anh ghi nhật ký thôi thì chưa đủ, và anh muốn tất cả phải được phản ánh thật chính xác.
Tôi nghĩ chẳng ai trong chúng tôi ngạc nhiên khi được mời đến bên Mina ngay trước lúc chiều buông. Chúng tôi chỉ vừa được biết mặt trời mọc hoặc lặn đối với cô là những lúc diễn ra hiện tượng giải thoát kỳ lạ, tức là cái tôi thực sự của cô được thể hiện với một sức mạnh ngự trị vô hình nào đó hoặc là cản trở cô hành động, hoặc ngược lại, bắt buộc cô phải hành động. Trạng thái này xuất hiện trước lúc mặt trời mọc, hoặc lặn chừng nửa giờ đồng hồ và kéo dài cho đến khi mặt trời lên cao hoặc có những đám mây kéo tới che khuất những tia nắng còn vương vất cuối chân trời. Đó là hiện tượng bắt đầu của một tác động tiêu cực, giống như một sợi dây được tháo gỡ nút, rất nhanh sau đó là một trạng thái tự do tuyệt đối. Khi cái tự do ấy bị gián đoạn thì trạng thái cũng sẽ lặp lại lại đến rất nhanh với hiện tượng báo trước ngắn ngủi là sự im lặng của cô.
Chiều này, khi chúng tôi ngồi bên nhau, trông cô có vẻ hơi miễn cưỡng với những dấu hiệu bộc lộ sự đấu tranh nội tâm khá rõ. Tôi cho nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng chính là nỗ lực ghê gớm đòi hỏi ở cô ngay trong lúc đầu tiên cô trở lại trạng thái tự do. Tuy nhiên, chỉ cần ít phút cũng đủ để cô tự kiểm soát hoàn toàn bản thân. Cô chỉ tay, ra hiệu cho Jonathan ngồi bên cạnh mình trên ghế tràng kỷ, nơi cô đang nửa ngồi nửa nằm, rồi bảo mọi người kê ghế ngồi lại gần. Cô nắm chặt tay Harker nói :
- Có thể đây là lần cuối cùng chúng ta quây quần tự do bên nhau. Anh yêu, em biết anh sẽ luôn ở bên em đến cùng.
Nhìn đôi bàn tay nhỏ đang nắm chặt bàn tay người chồng khốn khổ của cô, chúng tôi biết cô đang rất xúc động.
- Ngày mai, - Cô tiếp tục - chúng ta sẽ lên đường vì sứ mệnh của mình, và chỉ có trời mới biết sứ mệnh ấy sẽ dành sẵn cho chúng ta một kết cục như thế nào. Mọi người thật tốt bụng khi cho phép tôi cùng đi. Tôi biết tất cả những gì người đàn ông can đảm có thể làm vì một người phụ nữ xấu số đã để mất tâm hồn vì quỷ dử, - không, chưa hẳn là như vậy, nhưng dù sao thì cũng gần như vậy... - thì các bạn sẽ làm. Nhưng xin nhớ là tôi không giống mọi người. Tâm hồn tôi, dòng máu chảy trong tôi, đều đã bị ô uế cả rồi. Tôi có thể chết vì điều đó, ít nhất trong trường hợp mọi người không cần đến tôi nữa. Cũng như tôi, chắc các bạn đều hiểu rằng tâm hồn tôi như đang bên bờ vực thẳm. Tôi biết, bây giờ đúng là có một con đường rộng mở trước mắt mình, nhưng đó không phải là con đường của các bạn...
Cô nhìn chúng tôi khắp lượt, người đầu tiên và cuối cùng chính là Jonathan, ánh mắt như muốn dò hỏi từng người.
- Con đường nào? - Van Helsing sốt ruột hỏi lại, giọng khàn khàn.
- Chết ngay lập tức bởi chính bàn tay của chính mình hoặc bàn tay của một người khác, trước khi chết bởi bàn tay của kẻ tà ác. Tôi biết, và các bạn cũng vậy, nếu tôi chết, các bạn có thể và cũng rất muốn giải thoát cho linh hồn bất tử của tôi, giống như các bạn đã làm cho cô bé Lucy tội nghiệp hôm nào. Nếu điều duy nhất cần bận tâm là bản thân cái chết hoặc ý nghĩ sợ chết, thì tôi sẽ không chần chừ trước thần chết, giữa những người luôn coi tôi là người bạn thân thiết nhất. Nhưng chết đâu phải là tất cả. Tôi không tin việc tôi chết vào lúc này là hợp với ý Chúa, trong khi các bạn còn một sứ mệnh hệ trọng cần phải hoàn thành. Nhưng tôi vẫn đang tiến dần đến cái đen tối này, cái đen tối mà tôi cho là có thể đẩy lùi những điều đen tối trên thế giới và trái đất này.
Chúng tôi lặng thinh ngồi nghe, vì ai cũng hiểu đây chỉ là khúc dạo đầu của những điều không hay. Ai nấy mặt tái nhợt, nghiêm trọng và căng thẳng, trong khi sắc mặt của Jonathan xám xịt như màu tro bụi. Có lẽ anh sẽ hiểu những gì sẽ diễn ra tiếp theo hơn chúng tôi. Mina tiếp tục :
- Đó chính là phần đóng góp của tôi cho cuộc đời đầy oan nghiệt này. Mỗi người trong các bạn sẽ đóng góp được gì? Cũng chính là cuộc đời của mỗi người, tôi biết. Quả là một việc không khó làm với những người đàn ông dũng cảm. Cuộc sống của các bạn được Chúa ban cho, vì vậy các bạn có thể hoàn trả lại cho Ngài một cách xứng đáng nhất. Nhưng các bạn sẽ cho tôi được cái gì?
Tôi vẫn nhận ra ánh mắt dò hỏi của cô, nhưng lần này ánh mắt ấy chỉ hướng vào Jonathan. Dường như Quincey đã hiểu ý người con gái xấu số, bởi tôi thấy anh vừa gật đầu vẻ rất thông cảm. Cử chỉ của anh khiến khuôn mặt Mina rạng rỡ hẳn lên. Cô nói :
- Vâng! tôi sẽ nói điều tôi muốn với mọi người. Các bạn, từng người một, phải hứa với tôi rằng nếu tới lúc, các bạn phải ra tay kết thúc cuộc đời giúp tôi, cả anh cũng vậy, người chồng thân yêu của em ạ.
- Lúc nào? - Quincey hỏi lạc cả giọng.
- Vào cái giờ mà mọi người thấy sự thay đổi trong con người tôi cũng như cái chết đối với tôi trở nên cần thiết cho cuộc đời này. Khi thể xác tôi thực sự lìa đời, mọi người hãy đừng ngần ngại đóng cho tôi một cái cọc vào giữa con tim, hoặc làm một điều gì cần thiết đại loại như vậy, để tôi được đến với cái chết vĩnh hằng như bao người bình thường khác?
Căn phòng tưởng như sẽ im lặng mãi mãi nếu Quincey không là người đứng dậy đầu tiên. Anh quỳ xuống cầm đôi bàn tay nhỏ bé của người đàn bà bất hạnh, nét mặt nghiêm trang :
- Tôi chỉ là một kẻ thô kệch, có lẽ tôi sống không xứng với sự trọng vọng của bà, nhưng có thể lấy danh dự mà hứa với bà rằng bao giờ thời khắc ấy đến, tôi sẽ không chùn tay khi thực hiện cái điều mà bà đang mong đợi.
- Quả là một người bạn thực sự của tôi! - Mina nói trong dòng nước mắt giàn giụa và cúi xuống hôn lên bàn tay người bạn.
- Tôi xin cam kết với bà, Mina à? - Đến lượt Van Helsing lên tiếng.
- Tôi cũng vậy! - Huân tước Godalming xúc động nói. Tôi cũng quỳ gối hứa với cô.
Người cuối cùng là Jonathan. Anh quay sang nhìn người vợ yếu đấu, ánh mắt thẫn thờ, sắc mặt tái xanh càng như nhợt nhạt hơn dưới mái tóc pha sương :
- Còn anh, anh có phải hứa như vậy không, em yêu?
- Cả anh cũng phải vậy, Jonathan à. - Cô nói, ánh mắt và giọng nói chan chứa niềm yêu thương - Anh không được chùn bước. Anh là người gần gũi và thân thiết nhất, là cả thế giới của em. Tâm hồn hai ta đã hòa quện vào nhau trong cuộc đời này để trở thành bất tử. Anh cứ nghĩ mà xem, anh yêu, trên đời này từng có lúc những người đàn ông can đảm đã giết chết vợ và những người phụ nữ trong gia đình mình để cứu họ khỏi bàn tay kẻ thù. Bàn tay những con người dũng cảm ấy đã không hề run rẩy, bởi những người họ hằng yêu thương đã đòi họ phải làm như vậy. Đó là bổn phận của đấng nam nhi đối với những người yêu đấu của họ trong chiến tranh tàn khốc. Vậy đấy! Anh yêu, nếu em phải chết bởi bàn tay của một người, thì đó hẳn phải là bàn tay của người mà yêu nhất. Bác sĩ Van Helsing ơi, chắc là ngài vẫn chưa quên những giờ phút thảm thương của Lucy chứ? Ngài đã được chứng kiến một tình cảm thực sự dành cho người cô ấy hằng yêu thương - cô bỗng đỏ mặt ấp ủng và sửa lại câu nói của mình - ... dành cho người xứng đáng có quyền được cô ấy gửi gắm niềm tin giúp mình an nghỉ. Nếu một khoảnh khắc như vậy đến với tôi, thì xin ngài hãy động viên nhà tôi cho tôi được an nghỉ vĩnh hằng bởi bàn tay của anh ấy. Tôi muốn bàn tay thân thương của anh ấy giúp tôi tháo bỏ cái ách khủng khiếp mà tôi đang mang nặng trên người.
- Một lần nữa tôi xin hứa với bà! - Van Helsing nói, giọng trầm hẳn xuống.
Mina mỉm cười, vâng, một nụ cười thật sự, và ngả người ra sau thở phào một tiếng rồi nói tiếp :
- Còn bây giờ, tôi xin được nhắc một điều mà mọi người phải cảnh giác, phải không bao giờ được quên: cái thời khắc đó, nếu xảy ra, có thể sẽ đến rất nhanh và bất ngờ. Trong trường hợp này, các bạn đừng bao giờ phí thời gian chờ đợi một cơ hội thích hợp nào khác. Bởi khi đó, có thể tôi sẽ... Vâng, nếu thời khắc ấy xảy ra, tôi phải nhập bọn với kẻ thù để chống lại các bạn. Tôi cầu xin các bạn một điều nữa, - Cô nghiêm mặt lại nói - một lời cầu xin ít sống còn và ít cấp thiết hơn, nhưng lại là một ân huệ mà tôi xin mọi người ban cho nếu có thể.
Chúng tôi không ai nói câu nào, bởi bây giờ không cần thiết phải làm như vậy.
- Tôi xin mọi người hãy cầu siêu cho tôi ngay bây giờ.
Jonathan bỗng nấc nghẹn một tiếng, khiến cho vợ anh bị ngắt lời. Cô nắm tay anh đặt vào lòng và nói tiếp :
- Sẽ có ngày anh phải đọc lời cầu siêu cho em. Cho dù cuộc phiêu lưu này có kết cục như thế nào đi nữa thì đó cũng chỉ là một tín ngưỡng mà thôi. Người chồng thân yêu của tôi ơi, em hy vọng chính anh sẽ là người đọc lời cầu siêu cho em, chính giọng nói thân thương của anh sẽ khắc sâu trong hồi ức vĩnh cửu của em - cho dù đó là một vĩnh cửu như thế nào.
- Nhưng em yêu, - Jonathan thảng thất - cái chết còn ở xa em lắm mà.
- Không đâu! Em bây giờ chỉ còn bị khâm liệm và chôn vùi xuống mồ bất cứ lúc nào.
- Ôi người vợ bé nhỏ của anh, anh phải đọc thật sao?
- Vâng, điều đó sẽ mang lại cho em thêm sức mạnh, anh yêu ạ Jonathan run rẩy nhìn người vợ chìa ra trước mặt quyển kinh thánh.
- Làm sao tôi có thể... trong tâm trạng rối bời, ủ ê, lơ sợ và đau đớn, phải làm thế nào để tả lại cảnh đời chua xót, trớ trêu này đây? Trái tim tôi như tan nát trước những người bạn đang quỳ gối bên người con gái bất hạnh, trước một người chồng đang nén lòng khó nhọc đọc những lời cầu siêu đơn giản bằng một giọng đứt đoạn, nát vụn trong những tiếng nấc kia. Tôi không thể... từng lời, từng chữ không thể thấm vào đầu tôi...
Bản năng một con người đã thôi thúc anh làm theo ý người vợ... Nếu như hành động của anh là không thể tin được thì chúng tôi hẳn sẽ phải là những người ngạc nhiên đầu tiên. Nhưng dường như chính cảnh xúc động trước mắt đã giúp chúng tôi lấy lại sức mạnh và quyết tâm của mình. Sự im lặng bất chợt của Mina cho thấy rằng linh hồn cô đang một lần nữa bị cưỡng chế...
Nhật ký của Jonathan Harker
Varna, ngày 15 tháng 10
Chúng tôi rời Charing Cross sáng ngày 12, tới Paris cùng ngày và lên tàu nhanh Phương Đông đi tiếp. Tàu đi ngày đêm, đưa chúng tôi đi tới đây lúc khoảng năm giờ. Vừa xuống ga, huân tước Godalming vội chạy tới Tòa lãnh sự để hỏi xem có bức điện nào gửi cho chúng tôi không, trong khi những người còn lại tìm đến khách sạn Odessus để thuê phòng.
Chuyến đi có một vài trục trặc, nhưng vì quá sốt ruột nên tôi cũng chẳng còn bụng dạ nào để ý đến những chuyện vớ vẩn. Từ nay cho tới khi con tàu Tsarine Catherine cập bến, sẽ chẳng có gì trên thế gian mênh mông này làm tôi chú ý. Ơn Chúa, Mina vẫn yên ổn và dường như còn khỏe ra, gương mặt hồng hào lên đôi chút. Cô ngủ nhiều, ngủ hầu hết cuộc hành trình. Ngược lại, trước những lúc rạng Đông hoặc hoàng hôn, cô trở nên tỉnh như sáo và có vẻ hoạt bát hơn hẳn. Đó là những lúc giáo sư Van Helsing có thể làm thôi miên. Lúc đầu, ông đã gặp một số khó khăn, phải huơ tay rất nhiều lần, nhưng bây giờ, có vẻ như Mina chịu ngay. Những lúc như vậy, dường như có một quyền lực nào đó áp đặt lên cô và các ý nghĩ chỉ dẫn của ông buộc cô phải làm theo. Ông hỏi cô theo nhiều cách khác nhau về những gì cô có thể trông và nghe thấy. Và lần này, cô trả lời :
- Không thấy gì cả. Tất cả đều tối om.
Rồi thì :
- Tôi nghe thấy những tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền oàm oạp rồi tan ra. Tôi thấy họ đang kéo dây, những cánh buồm, những cột buồm nghiến răng rắc và cả trụ buồm nữa. Gió thổi rất mạnh, tôi nghe có cả tiếng dây néo xé gió và mũi tàu rẽ sóng.
Rõ ràng tàu Tsarine Catherine còn lênh đênh trên biển và đang hướng về Varna. Huân tước Godalming tìm về với chúng tôi khá nhanh, trên tay cầm bốn bức điện được gửi trong mấy ngày liền nhau kể từ khi chúng tôi lên đường. Các bức điện chỉ cung cấp cho chúng tôi cùng một thông tin. Công ty Hoyd chỉ thông báo cho chúng tôi một vài điểm mà Tsarine Catherine đi qua. Trước khi rời Luân Đôn, huân tước có chuẩn bị sẵn tiền nong, giấy tờ cho một người ủy thác để hàng ngày anh ta có thể đánh điện thông báo những nơi con tàu đã đánh tín hiệu về đất liền.
Chúng tôi ăn tối và đi nằm thật sớm. Ngày mai, chúng tôi phải tới gặp viên phó lãnh sự rồi về chuẩn bị một số việc cần thiết để sẵn sàng hành động ngay sau khi con tàu cập bến. Cơ hội của chúng tôi, nói như Van Helsing, sẽ chỉ có thể xảy ra trong khoảng thời gian từ lúc mặt trời mọc và lặn. Cho dù có đội lốt một con dơi, lão bá tước cũng không thể vượt qua một quãng đường dài trên biển sóng cồn bằng các quyền năng của mình. Vậy là lão không thể rời khỏi con tàu. Nếu muốn núp trong dáng hình một con người mà không gây chú ý nghi ngờ - điều lão luôn muốn tránh - thì lão phải nằm yên trong chiếc hòm gỗ. Tóm lại, chúng tôi có thể leo lên tàu sau lúc mặt trời mọc, và lão sẽ nằm trong tầm tay chúng tôi, bởi chúng tôi có thể mở nắp hòm và ra tay hành động, giống như những gì chúng tôi đã làm với Lucy, trước khi lão kịp thức dậy. Lòng thương hại của chúng tôi đối với lão rõ ràng không phải là một trở ngại. Ơn Chúa, ở chỗ nào trong xứ sở này cũng tràn lan nạn tham nhũng, mà thực ra chúng tôi đâu có thiếu tiền. Chúng tôi chỉ cần bảo đảm làm sao để con tàu cập bến giữa khoảng thời gian mặt trời mọc và lặn, và có sự báo trước. Cầu Chúa hãy sắp xếp mọi việc cho ổn thỏa!
* * * * *
Ngày 16 tháng 10
Mina vẫn bắt được những tín hiệu tương tự trong lúc thôi miên: tiếng nước vỗ mạn tàu oàm oạp, mũi tàu rẽ sóng, bầu trời tối đen...
Các tin tức về Tsarine Catherine vẫn đến đều đều với chúng tôi.
* * * * *
Ngày 17 tháng 10
Tôi nghĩ tất cả coi như đã được chuẩn bị chu đáo để nghênh tiếp chuyến trở về của bá tước Dracula. Kế hoạch đã được chuẩn bị: chúng tôi sẽ nói với các thủy thủ trên tàu rằng chiếc hòm gỗ chứa đồ mà một kẻ đạo trích đã ăn cắp của một người bạn chúng tôi, Godalming là người chịu trách nhiệm xin phép mở hòm kiểm tra. Từ Luân Đôn, ông chủ tàu đã trao cho anh một lá thư tay gửi viên thuyền trưởng, đề nghị ông ta tạo điều kiện để anh được toàn quyền thực hiện công việc của mình. Ông chủ cũng trao quyền tương tự cho tay nhân viên ở Varna. Chúng tôi đã gặp nhân viên này và nhờ cái vẻ quý tộc của Godalming, chúng tôi dễ dàng thuyết phục anh ta giúp đỡ trong chừng mực có thể nhất. Chúng tôi cũng nhất trí các biện pháp chuẩn bị cho việc mở nắp hòm. Nếu lão bá tước ở trong đó, Van Helsing và Seward sẽ lập tức ra tay chặt đứt đầu lão và đâm một cây cọc nhọn vào giữa tim lão. Qulncey Moriss, Godalming và tôi sẽ đứng ngoài hỗ trợ, đề phòng phải sử dụng các vũ khí cần thiết. Giáo sư bảo đảm với chúng tôi rằng nếu làm được như vậy, toàn thân lão bá tước sẽ biến thành bụi mờ ngay lập tức. Trong trường hợp đó, sẽ chẳng ai có bằng chứng kết tội chúng tôi là giết người. Thậm chí, nếu kết cục có xảy ra không đúng như ý muốn đi nữa thì chúng tôi vẫn dám đứng ra chịu mọi hậu quả và biết đâu sẽ có một ngày, cuốn sách này sẽ minh oan cho chúng tôi khỏi đoạn đầu đài. Về phần mình, tôi vẫn rất lấy làm vinh hạnh khi được ra tay hành động nếu có cơ hội. Chúng tôi quyết định sẽ khuấy đảo trời đất để đạt được thành công bằng mọi cách. Dẫu sao thì mọi việc cũng đã được bố trí chắc chắn, bây giờ chỉ còn đợi một thông điệp đặc biệt ngay sau khi con tàu Tsarine Catherine xuất hiện trong tầm mắt chúng tôi.
Ngày 24 tháng 10
Đã một tuần chờ đợi trôi qua. Các bức điện hàng ngày gửi cho Godalming luôn lặp lại một câu: “Vẫn chưa có tin gì mới.” Câu trả lời của Mina trong mỗi lần thôi miên cũng không có gì thay đổi: “tiếng sóng oàm oạp, tiếng gió ù ù, tiếng cột buồm nghiến ken két. ..”
Điện của Rufus Smith, Lloyd’s, Luân Đôn, gửi Huân tước Godalming, kính nhờ ngài Phó lãnh sự H.B.M tại Varna chuyển giúp
“Ngày 24 tháng 10.
Sáng nay, tàu Tsarirle Catherine đánh tín hiệu ở Dardanelles.”
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 24 tháng 10
Tôi thật lấy làm tiếc vì không mang theo chiếc máy hát. Quả là chẳng có gì khiến tôi thấy cực hơn việc phải viết nhật ký bằng ngòi bút, nhưng Van Helsing lại bảo cần phải viết. Sáng nay, chúng tôi tưởng có thể phát rồ khi huân tước Godalming nhận được một bức điện từ Hoyd. Bây giờ tôi mới hiểu các chiến binh phải chịu đựng một cảm xúc như thế nào khi chờ đợi tín hiệu tấn công. Trong số chúng tôi, duy nhất có Mina không có biểu hiện gì, bởi chúng tôi vẫn cố gắng không để cô biết gì và cố gắng không để cô nhận thấy sự sốt ruột của mọi người. Ngày trước, tôi chắc thế nào cô cũng sẽ nhận ra biểu hiện trên nét mặt từng người, nhưng kể từ ba tuần nay? mọi chuyện đều đã đổi khác. Nhiều lúc trông cô thẫn thờ như kẻ mất hồn và mặc dù cô có vẻ khỏe ra, nhưng tôi và Van Helsing vẫn không thấy hài lòng. Chúng tôi thường xuyên nói về cô nhưng không kể cho người khác biết, vì sợ mọi chuyện lại đến tai Jonathan khiến anh thêm phiền lòng. Lúc thôi miên, Van Helsing đã kiểm tra rất kỹ hai hàm răng cô và bảo lâu lâu rồi không thấy chúng dài thêm nữa, có nghĩa là hiện tại vẫn chưa có sự thay đổi nào chứng tỏ một hiểm họa cấp bách đang lơ lửng trên đầu chúng tôi Nếu nhận thấy dấu hiệu biến chuyển bất ổn, chúng tôi phải có biện pháp đề phòng ngay. Chúng tôi hiểu đó là những biện pháp nào, cho dù không ai nói ra suy nghĩ trong lòng. Sẽ không ai trong chúng tôi hèn nhát lùi bước trước nhiệm vụ, kể cả khi đó là nhiệm vụ đáng sợ nhất. Chết thanh thản là một từ tuyệt vời tiếp thêm nghị lực cho chúng tôi!
Từ Dardanehes đến đây phải mất khoảng hai mươi tư giờ nếu tính theo chiều gió từ Luân Đôn. Như vậy, sáng mai Tsarine Catherine mới xuất hiện. Biết con tàu không thể đến sớm hơn, chúng tôi quyết định về nghỉ sớm và sẽ dậy vào lúc một giờ để chuẩn bị.
* * * * *
Ngày 25 tháng 10, buổi trưa
Vẫn chưa có tin gì mới về bóng dáng con tàu. Thông tin truyền đạt từ Mina trong lúc nhập đồng cũng không có gì khác, đến nỗi chúng tôi có thể biết ngay ý nghĩa trong từng câu nói của cô. Chúng tôi như lên cơn sốt cả lượt, ngoại trừ Jonathan vẫn bình thản như không. Đôi tay lạnh như nước đá, anh lừ lừ bỏ ra ngoài và hì hục ngồi mài con đao nhọn hiệu Kukri, sau đó không thấy anh rời con dao ra nữa. Quả là một viễn cảnh tồi tệ cho lão bá tước: mũi dao kia sẽ chọc thẳng vào cổ lão một nhát ngọt lịm bởi một bàn tay dứt khoát và lạnh lùng.
Hôm nay, tôi và Van Helsing đều thấy lo lo về Mina. Gần trưa, cô bỗng rơi vào trạng thái ngủ lịm. Chúng tôi thấy buồn nhưng không nói gì cho những người bạn còn lại biết. Buổi sáng, cô cứ luôn chân luôn tay làm đủ thứ việc không tên, có lúc còn tỏ thái quá. Chúng tôi thực sự cảm thấy hài lòng khi thấy cô về phòng nghỉ. Tuy nhiên, khi được Jonathan thông báo cô ngủ say đến nỗi gọi đủ cách vẫn không tỉnh, chúng tôi đã phải lập tức tìm đến kiểm tra xem tình hình ra sao. Cô vẫn thở tự nhiên và dường như còn đều đặn, nhẹ nhàng đến nỗi chúng tôi đều nghĩ rằng đối với cô lúc này, sẽ không có gì tất lành hơn là một giấc ngủ vùi. Tội nghiệp cô bé, giấc ngủ dài sẽ giúp quên đi tất cả? Không có gì đáng ngạc nhiên nếu như giấc ngủ là một điều tự nhiên và phù hợp với cô lúc này.
* * * * *
Một lúc sau
Cảm giác của chúng tôi hoàn toàn chính xác, bởi lúc Mina tỉnh dậy sau nhiều giờ chìm đắm trong giấc ngủ, cô lại năng nổ và thậm chí còn khỏe ra sau bấy nhiêu ngày. Lúc hoàng hôn xuống, trong trạng thái bị thôi miên, cô cho chúng tôi biết trên Biển Đen, con tàu của bá tước Dracula đang lao nhanh tới đích. Lao nhanh về nơi có lời phán quyết đối với lão, vâng, tôi biết!
* * * * *
Ngày 26 tháng 10
Thật là lạ khi lại thêm một ngày nữa không có tin tức gì về Tsarine Catherine. Lẽ ra lúc này nó phải về đây rồi. Chắc chắn là nó vẫn đang lênh đênh ở đâu đó, bởi trong lúc nhập đồng buổi rạng Đông, Mina vẫn nhắc lại những gì cô đã nói những hôm trước. Có thể con tàu đang tạm dừng một chỗ vì sương mù. Những thủy thủ trên mấy con tàu hơi nước vừa cập cảng cho biết hôm qua trên biển, ở cả hướng bắc lẫn hướng nam, có rất nhiều sương mù. Vậy là không còn cách nào khác, chúng tôi phải tiếp tục chờ đợi rình rập, bởi con tàu có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.
Ngày 27 tháng 10, buổi trưa
Kỳ lạ? Vẫn không có tin gì mới về con tàu.
Chiều hôm qua và sáng nay, Mina tiếp tục nói những lời như mọi khi: “Sóng vỗ mạn tàu oàm oạp, tàu rẽ nước”, và rồi thì: sóng vỗ rất yếu”. Van Helsing có vẻ lo lắng kinh khủng, ông nói ông đang nghi lão bá tước đã thoát khỏi tầm tay chúng tôi và nhấn giọng :
- Tôi không thích cái kiểu ngủ lịm của Mina: Có thể tinh thần và trí nhớ của cô ấy sẽ gây một số trục trặc trong lúc bị thôi miên.
Tôi đang định hỏi thêm vài câu thì ông xua tay lia 1ịa ra hiệu im lặng, vì Jonathan vừa xuất hiện. Chiều tối nay, chúng tôi sẽ cố gắng khai thác cô nhiều hơn trong lúc thôi miên.
Điện của Rufus Smith, Lloyd’s, Luân Đôn, gửi Huân tước Godalming, kính nhờ ngài Phó lãnh sự H.B.M tại Varna chuyển giúp
“Ngày 28 tháng 10, tàu Tsarine Catherine đánh tín hiệu ở cửa cảng Galatz, lúc một giờ ngày hôm nay.”
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 28 tháng 10
Khi nhận được bức điện thông báo con tàu đang ở Galatz, chúng tôi bị sốc thì ít mà nghi ngờ thì nhiều. Không hiểu sự thay đổi đột ngột này bắt đầu xảy ra từ đâu và khi nào. Chúng tôi chờ đợi một điều bất ngờ nào đó xảy ra. Sự chậm trễ muộn màng của con tàu buộc chúng tôi phải tin mọi sự việc diễn ra đều không giống như những gì chúng tôi đã dự tính. Chúng tôi chỉ còn cách tự nhủ có thể con tàu đã đổi hướng đi. Thực tế cho thấy mọi việc đã diễn ra theo đúng như cách chúng phải diễn ra, chứ không giống như những gì chúng tôi đoán chúng sẽ diễn ra. Thay đổi đột ngột khiến mỗi chúng tôi tỏ thái độ phản ứng theo một cách. Van Helsing giơ hai tay lên trời như muốn phân trần một điều gì đó nhưng lại không nói được nửa lời, một lát sau ông mới hạ tay xuống, nét mặt vẫn rất bình tĩnh. Huân tước Godalming ngồi bệt xuống đất, mặt tái xanh, hơi thở đứt đoạn. Tôi choáng váng nhìn hết người này đến người khác. Quincey Moriss thì giật cục thắt lại dây lưng; trong lúc vất vưởng nơi đất khách quê người như thế này, tôi hiểu động tác của anh có nghĩa: “cần phải ra hành động!” Còn Mina thì mặt nhợt nhạt như một kẻ chết rồi, vết sẹo trên trán cô Chợt như hồng lên, cô chắp hai tay lại như đang cầu nguyện. Trong khi Jonathan cười phá lên, vâng, một tiếng cười gằn chua xót, chảy nước mắt như không còn hy vọng ở bất cứ một điều gì nữa, nhưng tay anh vẫn quờ tìm con dao Kukri và nắm chặt lấy chuôi dao trong tâm trạng của một kẻ nuôi lòng uất hận chưa có cách nào giải tỏa.
- Chuyến tàu gần nhất đi Galatz chạy vào mấy giờ không biết? - Van Helsing hỏi trống không.
- 6 giờ 30 sáng mai.
Chúng tôi giật mình, bởi người trả lời chính là Mina.
- Chúa ơi, làm sao bà biết được? - Arthur hỏi.
- Có lẽ anh đã quên - hoặc cũng có thể là anh không biết rằng em luôn có cái thú thích đi tàu. Khi còn ở nhà, ý em muốn nói là ở Exeter, em có thói quen tìm hiểu giờ chạy của các chuyến tàu để giúp Jonathan trong công việc. Chuyện diễn ra thường xuyên đến nỗi bây giờ em vẫn chưa bỏ được thói quen đó. Hơn nữa, em cũng hiểu nếu buộc phải tìm đến lâu đài Dracula, chúng ta phải đi qua Galatz hoặc dù thế nào cũng phải qua Bucarest, chính vì vậy em đã để ý rất kỹ các giờ tàu chạy. Nhưng cũng chẳng có gì phải mệt óc, bởi ngày mai chỉ có một chuyến duy nhất khởi hành vào cái giờ em vừa nói.
- Bà lại làm chúng tôi ngạc nhiên đấy! - Van Helsing khẽ nói.
- Thế chúng ta không thể thuê một chuyến tàu riêng được sao? - Huân tước Godalming hỏi.
Van Helsing lắc đầu trả lời :
- Tôi e là không. Đất nước này không giống với Anh quốc và cũng chẳng như ở nước tôi. Mà giả thử nếu có một chuyến như thế đi chăng nứa thì chắc chắn chúng ta cũng không thể tới đó trước chuyến tàu thường kia. Đó là chưa kể chúng ta còn khá nhiều thứ phải chuẩn bị. Phải thư thư suy nghĩ và thu xếp ổn thỏa mọi việc rồi hãy đi. Anh bạn Arthur này, có lẽ anh tới nhà ga đi, phải mua vé và bố trí đâu ra đấy thì sáng mai mới lên đường được. Jonathan, cậu phải tới đại lý vận tải biển để nói với họ gửi thư cho nhân viên của hãng ở Galatz, hãy nêu lý do kiểm tra chiếc hòm gỗ đúng như chúng ta đã dự kiến ở Varna nhé. Quincey Moriss, cậu tới gặp tay Phó lãnh sự và đề nghị ông ta nhờ một đồng nghiệp ở Galatz đi tiền trạm giúp chúng ta, để khi tới Danube không mất thêm thời gian vô ích. Còn John, anh hãy ở lại với Mina và tôi, chúng ta sẽ cân nhắc mọi chuyện. Có tôi trông coi Mina đây rồi, chẳng có gì phải lo lúc chiều xuống đâu.
- Còn em, - Cô nói như reo, giọng hân hoan như đúng tính cách của cô ngày trước - em sẽ cố gắng giúp mọi người bằng mọi cách, em sẽ nghĩ và viết như em từng làm. Trong em đang có một thay đổi rất kỳ lạ, em không còn cảm thấy bị ép buộc như bấy lâu nay.
Nét mặt của ba anh bạn trẻ như chợt sáng lên khi hiểu những câu nói của Mina có ý nghĩa gì. Nhưng tôi và Van Helsing thì không. Hai chúng tôi đưa mắt nhìn nhau đầy nỗi niềm. Tuy nhiên, lúc này chúng tôi thể bàn luận được điều gì.
Khi ba anh chàng đã chia nhau đi thực hiện nhiệm vụ của mình, Van Helsing đề nghị Mina kiểm tra toàn bộ tập bản sao nhật ký và lấy cho ông những trang nói về thời gian lưu đày của Jonathan ở lâu đài Dracula. Cô gái chào chúng tôi rồi đi làm ngay. Đợi cô đi khuất, Van Helsing mới bảo tôi :
- Anh có chung suy nghĩ như tôi. Vậy thì nói đi!
- Có một điều gì đó không bình thường đang xảy ra, một sự kỳ vọng khiến tôi không mấy dễ chịu, bởi có thể nó sẽ dẫn tôi đến chỗ suy luận sai lầm.
- Đúng thế. Vậy anh có biết tại sao tôi bảo cô ấy đi tìm đống bản sao nhật ký không?
- Không, nếu không phải ông bảo cô ấy đi để có dịp nói chuyện với riêng tôi.
- Cũng có thể là như vậy, nhưng chỉ phần nào thôi. Tôi có chuyện muốn nói với anh. John này, có vẻ như tôi hiểu ra một nguy cơ thật nghiêm trọng và khủng khiếp. Lúc Mina nói những lời vừa rồi, không hiểu sao trong đầu tôi lại nảy ra một gợi ý quái lạ như vậy. Cách đây ba ngày, trong lúc tôi đang thôi miên, lão bá tước đã nhập vào hồn cô để đọc ý nghĩ trong đầu cô, hay nói chính xác hơn, lão đã gọi hồn cô tới gặp lão trong chiếc hòm gỗ đặt trên tàu Tsarine Catherine, vào lúc lão được giải phóng bởi rạng Đông hoặc hoàng hôn. Bây giờ lão đã biết chúng ta đang ở đây. Bởi vì rõ ràng cô, người còn có điều kiện đi lại thoải mái để mắt thấy tai nghe, luôn biết nhiều điều hơn một kẻ chịu gò bó trong hòm đất tù túng như lão. Lão đang cố gắng bằng mọi cách thoát khỏi sự truy đuổi của chúng ta. Lão chưa cần đến cô ngay tức khắc vì lão tin rằng trước sau gì thì cô cũng sẽ đến theo tiếng gọi của lão. Lão cắt đứt liên lạc với cô, rút bỏ quyền năng nhằm vào cô để tạm thời cô không còn thuộc quyền sở hữu của lão nữa. Điều đó, vâng, điều đó giải thích tại sao tôi hy vọng bộ óc từ lâu đã thuộc về nhân loại của những người đàn ông chúng ta lại hơn hẳn bộ óc trẻ con của lão, một kẻ từ nhiều thế kỷ nay chỉ biết rúc trong nhà mồ và không đủ khả năng đạt đến trình độ của chúng ta bây giờ, một kẻ bị giới hạn mình trong những ham muốn ích kỷ và nhỏ mọn. Mina đang ở đây. Đừng nhắc lại những gì dính dáng đến trạng thái nhập đồng của cô ấy Chúng ta cần cô ấy hy vọng, can đảm, có một óc suy nghĩ có thể sánh với bộ óc của một người đàn ông, nhưng vẫn là mang thuộc tính của một người phụ nữ hiền dịu có tư chất, và của một sức mạnh mà lão bá tước đã truyền cho cô nhưng chưa thể thu hồi lại ngay tức khắc, cho dù lão có tưởng tượng là đã làm được như vậy. Suỵt? Cứ im lặng nghe tôi nói, rồi anh cũng hiểu ra thôi. John ạ, đúng là chúng ta đang đâm vào một ngõ cụt tối như hũ nút! Tôi đang sợ như chưa bao giờ sợ vậy Chúng ta chỉ có thể tin ở Chúa. Đừng nói gì nứa nhé, cô ấy đang tới đấy.
Tôi cứ tưởng Van Helsing lại sắp sửa suy sụp vì căng thẳng thần kinh như lần ông chứng kiến cái chết của Lucy, nhưng ông vẫn rất cố gắng tỏ ra là người thực sự có bản lĩnh và hoàn toàn làm chủ được bản thân khi Mina hớn hở bước vào Công việc bận bịu mà giáo sư vừa giao dường như đã làm cô quên đi nỗi bất hạnh trong lòng. Cô trao ngay một xấp giấy cho Van Helsing. Vị giáo sư già chăm chú lần lượt xem lại từng tờ, gương mặt như sáng bừng lên với những nét chữ đánh máy đều đặn. Rồi ông nhón xấp giấy giữa ngón tay trỏ và ngón cái :
- John ạ, anh là người có nhiều kinh nghiệm, và bà cũng vậy, Mina ạ. Tôi xin được nêu ra đây một bài học cho tất cả chúng ta: đừng bao giờ sợ mình phải nghĩ nhiều quá. Thỉnh thoảng lại có một ý nghĩ nửa vời như một con vật có cánh bay rào rào trong đầu tôi, nhưng ngày xưa tôi rất sợ để nó bị... gãy cánh. Giờ đây, khi đã từng trải hơn, tôi biết mình phải đi ngược đến xuất phát điểm của mọi ý nghĩ nửa vời, và tôi khám phá ra rằng đó là một điều hoàn toàn khác, một ý nghĩ thực sự, cho dù nó còn quá manh nha để có thể làm những đôi cánh nhỏ. Vâng, nó tựa như một con vịt nhỏ xấu xí của anh bạn Hans Andersen nhà tôi, nhưng đó lại không phải là ý nghĩ - con vịt hoàn toàn, mà là một ý nghĩ - thiên nga biết lướt đi uyển chuyển trên mặt nước hồ bằng đối cánh lớn của mình khi có cơ hội được thử sức. Tôi sẽ đọc cho hai người nghe một đoạn viết của Jonathan: “...đến những gì thuộc hậu duệ của lão mà sau này, một lần nữa buộc các đội quân phải vượt sông sang xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ? Kẻ hưu chiến tiếp tục tấn công trở lại nhiều lần và để lại đằng sau mình một bãi chiến trường với những xác người nằm la liệt, bởi lão biết rằng cuối cùng thì chỉ có một mình lão chiến thắng?” Qua đó chúng ta học được điều gì? Chẳng lẽ không có gì quan trọng? Không! Đầu óc trẻ con của lão bá tước không hiểu được điều gì to tát cả, chính vì vậy nên lão mới ăn nói vô tội vạ đến thế. Không! Nhưng đây lại là câu trả lời khác của một kẻ nói mà không nghĩ do không biết điều đó có nghĩa gì hoặc có thể có ý nghĩa gì. Vâng, cứ để tôi giải. thích. Nhưng các bạn đã nghiên cứu triết học tội phạm chưa nhỉ? Rồi và chưa. Anh bạn John, rồi, bởi bộ môn này là một phần không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu bệnh tâm thần. Còn Mina, chưa, bởi tội phạm chẳng liên quan gì đến bà, trừ một lần. Nhưng bộ óc của bà luôn đi theo đường thẳng và có cách suy luận riêng về thế giới. Trong con ngườ!
những kẻ phạm tội có một đặc tính ổn định, đâu cũng thế và thời nào cũng thế, đến nỗi ngay cả những cảnh sát chẳng biết gì nhiều về triết học cũng có thể dựa vào kinh nghiệm để khẳng định điều đó. Kẻ phạm tội thường theo đuổi một tội ác duy nhất, ít nhất là đối với những tội phạm không định trước kế hoạch tội ác của mình và không theo đuổi một điều gì khác. Kẻ phạm tội không có một bộ óc hoàn toàn người lớn.
- Hắn tỉnh táo, khôn khéo và đầy sức mạnh. Nhưng nếu nói về khối óc thì sự phát triển của hắn chưa phải là hoàn thiện. Xét dưới nhiều mối quan hệ, hắn vẫn đang ở vào một thời kỳ phát triển của trẻ con. Nói một cách khác, tên tội phạm của chúng ta phạm tội do tiền định, bộ óc của hắn vẫn còn ngây thơ bởi những gì hắn gây ra chỉ là trò trẻ con. Cánh chim non, con cá bột và những cầm thú nhỏ không được nuôi dạy theo các nguyên tắc, mà chỉ căn cứ vào kinh nghiệm. Và những gì chúng được học sẽ tạo đà giúp chúng làm tiếp những gì chúng đã làm theo một lối mòn. Archimed từng nói: hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả trái đất lên. Lần thử đầu tiên chính là điểm tựa mà nhờ đó bộ não của đứa trẻ phát triển thành người lớn và tới lúc định thử làm tiếp, nó lại bắt đầu làm lại những gì đã làm trước đó. Mina thân mến ạ, tôi thấy đôi mắt của bà đang mở to và ánh mặt trời đang soi sáng cho bà thấy khắp chốn của xứ sở?
Quả thực là Mina đang khua tay lia lịa, ánh mắt sáng long lanh. Van Helsing nói tiếp :
- Bây giờ, bà hãy nói đi, hãy nói cho chúng tôi biết bà thấy những gì trong ánh mắt long lanh kia đi.
Ông khẽ đặt ngón tay cái và ngón trỏ lên cổ tay cô gái để bắt mạch, một cử chỉ như vô thức và theo bản năng của một thầy thuốc.
- Lão bá tước là một tội phạm thuộc loại điển hình - Cô bắt đầu nói - Thuyết Nordau và Lombroso xếp lão vào dạng như vậy, và do phạm tội mà đầu óc lão mãi vẫn chưa hoàn thiện. Bởi vậy, nếu gặp khó khăn, lão sẽ tìm cách giải quyết vấn đề theo một lối mòn. Nguồn gốc cách xử sự duy nhất của lão thuộc về quá khứ của chính bản thân lão. Trang duy nhất mà chúng ta biết - và cũng do chính lão nói ra - về lão là trong một lần thiếu may mắn, lão đã trở về xứ sở của mình sau âm mưu xâm lược một xứ sở khác. Về nhà, lão không chịu từ bỏ mục đích của mình và vẫn luôn rắp tâm chuẩn bị tấn công xứ người một lần nữa. Quả thực lão đã xâm lược trở lại một lần nữa, với trang bị tất hơn, và đã giành được chiến thắng. Cũng bằng cách tương tự, lão đã tới Luân Đôn để chinh phục một xứ sở mới. Lão đã chiến thắng, nhưng khi mọi hy vọng bỗng chốc tiêu tan, sự hiện diện bị đặt vào một tình huống nguy hiểm, lão lập tức tìm đường ra biển để trở về nhà, đúng như ngày xửa ngày xưa lão đã từng làm khi vượt sông Danube sang xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ.
- Hay lắm, hay lắm, thật không ngờ. Mina, bà thông minh tuyệt vời. - Van Helsing reo lên thán phục và cúi xuống hôn lên bàn tay cô.
Rồi giáo sư lại trầm lặng như đang khám cho một bệnh nhân, sau giây lát im lặng, ông quay sang bảo tôi :
- Bảy mươi hai nhịp, không hơn, và có vẻ hưng phấn lắm! Tôi rất hy vọng.
Rồi ông quay lại giục Mina, vẻ sốt ruột :
- Mina, tiếp tục đi chứ, tiếp tục đi chứ. Bà có thể nói thoải mái nếu muốn. Không việc gì phải sợ hết.
- Tôi sẽ cố gắng, nhưng xin hai người đừng chấp nếu tôi chỉ nói về bản thân.
- Không, đừng lo ngại gì hết. Bà nên nói về mình, bởi vì bà chính là người chúng tôi đang nghĩ đến.
- Thế này nhé, xét dưới góc độ tội phạm thì lão quả là một kẻ rất ích kỷ. Khi sự thông minh còn có hạn và hành động chỉ biết dựa vào tính ích kỷ, lão đã tạm bằng lòng với một mục đích duy nhất và không hề tỏ ra ăn năn hối lỗi. Ngay cả khi tái vượt sông Danube tấn công nước Thổ Nhĩ Kỳ một lần nữa, - khiến không biết bao nhiêu người lính của mình phải bỏ mạng nơi chiến trường - cho đến thất bại vừa rồi, lão cũng chỉ nghĩ đến việc làm sao trốn thoát và không hề nghĩ đến những việc còn lại. Chính sự ích kỷ đó đã ít nhiều giải phóng hồn tôi khỏi thứ quyền năng khủng khiếp mà lão đã ám vào tôi đêm nọ. ơn Chúa, lúc này, tâm hồn tôi quả thực đã được tự do hơn. Chỉ còn một nỗi lo ám ảnh tôi: không hiểu trong lúc co vòi tìm nơi ẩn náu này, lão có tìm cách lấy thông tin qua tôi trong lúc tôi bị thôi miên không?
- Có chứ, lão đã làm như vậy. - Van Helsing đáp lại. – Chính vì thế lão mới bỏ rơi chúng ta ở đây, giữa xứ Varna này, trong khi con tàu - bị chìm trong màn sương mù do lão tạo nên - lại đưa lão về Galatz. Chắc chắn là khi tới đó, lão đã chuẩn bị mọi việc để thoát khỏi sự theo đuổi của chúng ta. Nhưng đầu óc còn trẻ con của lão lại không vượt ra ngoài phạm vi đó. Lão không thể ngờ điều lão coi là ưu thế tuyệt đối lại trở thành một nỗi bất hạnh lớn nhất. Và nói như Psalmiste vĩ đại thì người thợ săn đã có thể giăng chiếc dây thòng lọng ra chờ sẵn. Quả thực là lúc này, lão cứ tưởng đã thoát khỏi tầm truy nã của chúng ta và đi trước chúng ta nhiều giờ đồng hồ. Đầu óc trẻ con của lão mách bảo lão rằng lão đã có thể nghĩ ngơi. Hơn nữa, lão còn nghĩ vì đã cắt đứt sợi dây liên lạc giữa linh hồn lão với linh hồn bà, nên bà không biết gì về lão la. Vậy là lão lại phạm phải sai lầm. Lão đã truyền dòng máu khốn nạn vào người bà để buộc bà, mặc dù có thể đi lại tùy thích, phải luôn nghĩ về lão như bà đã phải làm khi mặt trời mọc và lặn. Nhưng thật may mắn, vào những lúc như vậy, bà lại nghe theo chỉ dẫn của tôi chứ không phải của lão. Món quà này càng trở nên quý giá hơn khi lão không hề hay biết và khi lão lầm tuởng đã cắt đứt mối liên lạc qua chúng ta thông qua bà. Ngược lại, chúng ta không phải là những kẻ ích kỷ và chúng ta tin rằng Chúa sẽ cùng đi với mọi người vượt qua khoảnh khắc đen tối này. Chúng ta sẽ truy nã bằng được con quỷ, kể cả khi đứng trước nguy cơ trở thành những kẻ như lão. Anh bạn John ạ, đây chính là một thời điểm trọng đại, cực kỳ quan trọng với chúng ta. Anh hãy làm công việc của một viên thư lại và ghi lại tất cả những gì vừa diễn ra, để khi mấy anh bạn kia xong việc trở về, anh có thể dễ dàng thuật lại cho họ biết những gì chúng ta đã biết.
Trong lúc chờ đợi mấy người bạn trở về, tôi viết những dòng này thuật lại những việc xảy ra kể từ khi Mina cầm nhật ký của chồng mình dưa cho Van Helsing, sau đó tôi sẽ lại nhờ cô đánh máy.
Ngày 29 tháng 10
Tôi viết những dòng này trong chuyến tàu từ Varna đến Galatz. Chiều hôm qua, trước lúc mặt trời lặn một chút, chúng tôi lại được ngồi quây quần bên nhau. Ai cũng đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất. Suy ngẫm, táo bạo và thời cơ sẽ giúp chúng tôi chuẩn bị thật tất cho một chuyến đi xa, thậm chí đến tận lâu đài Dracula. Như thường lệ, Mina tiếp tục chuẩn bị cho một lần thôi miên mới. Van Helsing phải mất khá nhiều thời gian để đưa cô vào trạng thái nhập đồng. Nói chung, cô bắt đầu nói ngay từ biểu hiện nhập đồng đầu tiên, nhưng giáo sư phải hỏi tương đối nhiều và thật chính xác trước khi hiểu ra vấn đề. Cuối cùng, Mina trả lời đại loại như thế này :
- Tôi chẳng phân biệt được gì cả. Chúng tôi đang đứng im một chỗ. Không phải những tiếng sóng vỗ dập dềnh, mà là một vùng nước xoáy liên tục và nhẹ nhàng cuốn quanh sợi dây chão. Tôi nghe có những tiếng gọi tới của đám đàn ông, lúc gần, lúc xa, rồi tiếng cột trèo nghiến ken két. Đâu đó vang lên một tiếng nổ, tiếng vọng đến từ rất xa. Tiếng những bước chân vang lên phía trên đầu tôi, có cả tiếng kéo dây cháo, dây xích. Cái gì vậy? Kia là một vệt sáng. Tôi cảm thấy có một làn gió vừa tràn qua.
Cô nói không gì thêm, mà ngồi bật dậy khỏi chiếc tràng kỷ như vừa bị một người đẩy bất ngờ, hai tay giơ lên, lòng bàn tay để ngửa như thể đang đỡ một vật nặng lắm. Tôi và Van Helsing đưa mắt nhìn nhau, bởi chúng tôi hiểu đang xảy ra chuyện gì. Quincey nhíu mày quan sát, trong khi Jonathan Harker, như một bản năng, lại đưa tay lần mò con dao Kukri của mình. Tất cả im lặng một hồi lâu. Ai cũng hiểu có nói gì bây giờ cũng vô ích. Mina chợt đứng bật dậy, hai mắt mở to và khẽ hỏi :
- Có ai muốn làm một tách trà không? Chắc mọi người phải mệt lắm!
Chúng tôi chỉ còn biết gật đầu. Đợi cô bước vào buồng trong lấy trà quay ra, Van Helsing mới lên tiếng :
- Các bạn ạ, chắc ai cũng đã hiểu cả rồi. Lão đang ở gần một bờ biển và đã chui ra khỏi hòm đất. Lão cần lên bờ. Buổi tối, lão có thể ẩn náu ở bất cứ chỗ nào. Nhưng nếu lão không được đưa lên bờ hoặc nếu con tàu không thể cập bờ, lão sẽ chưa thể lên bờ bằng cách thông thường được. Trong những tiếng huống như vậy, khi đêm xuống, lão có thể thay hình đổi dạng để nhảy hoặc bay lên bờ như lão đã từng làm ở Whitby trong cái lốt của một con chó. Nhưng nếu mặt trời thức dậy trước khi tàu ghé bờ, thì lão chỉ có thể tiếp tục trốn chúng ta nếu như còn nằm trong hòm gỗ. Nếu cứ nằm trong đó, thế nào lão cũng bị hải quan phát hiện. Nói tóm lại, nếu như không kịp nhảy lên bờ vào đêm nay, cụ thể là trước lúc rạng Đông, lão sẽ phải phí mất cả một ngày và vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể xuất hiện kịp thời. Bởi vì nếu như lão không thể trốn thoát vào ban đêm, chúng ta sẽ đến gặp lão vào ban ngày, khi lão còn bị nhốt trong hòm và số phận đang tùy thuộc vào chúng ta. Lão sẽ không dám tự bộc lộ mình dưới một cái vỏ thực chất cụ thể của mình vì sợ bị phát hiện.
Không còn gì để nói thêm. Chúng tôi sốt ruột chờ đợi tới lúc rạng Đông, khi Mina Harker có thể nói cho chúng tôi biết thêm một vài chi tiết nào đó. Vào lúc đầu ngày, trong một tâm trạng lo lắng không yên, chúng tôi lại tụ tập để nghe cô nói khi Van Helsing thôi miên. Lần này, giáo sư phải vất vả lắm mới đưa được cô vào trạng thái nhập đồng. Cuối cùng thì Mina cũng phải tuân theo sự chỉ bảo của ông :
- Tất cả đều tối mò. Tôi nghe thấy tiếng sóng vỗ oàm oạp rồi tiếng gỗ va gỗ lộc cộc.
Không thấy cô nói gì thêm, hơn nữa mặt trời cũng vừa xuất hiện đỏ chói. Lại phải đợi đến chiều vậy.
Chúng tôi đến Galatz trong một tâm trạng lo lắng và sốt ruột như vậy. Lẽ ra chúng tôi phải đến đó vào tầm hai, ba giờ sáng. Nhưng từ Bucarest, chúng tôi đã khởi hành chậm mất ba tiếng, vì vậy, chắc chắn chúng tôi sẽ đến nơi sau khi mặt trời đã mọc. Một trong hai thông điệp thôi miên của Mina, hoặc cả hai, có thể rọi một vài tia sáng vào các sự kiện đang xảy ra.
* * * * *
Một lúc sau
Lại thêm một lần mặt trời lặn nữa, cũng may nó xảy ra vào lúc chúng tôi không hề bị quấy rầy bởi bất cứ một điều gì. Nếu mặt trời lặn trùng vào lúc tàu tạm dừng ở một ga, chắc chắn chúng tôi không thể yên tĩnh để làm thôi miên với Mina: lần này cô còn khó nhập đồng hơn nhiều so với lần trước. Tôi sợ khả năng giải mã cảm giác của lão bá tước trong cô sẽ biến mất đúng vào lúc chúng tôi cần đến nó nhất. Cho đến lúc này, khả năng của cô vẫn chỉ giới hạn trong các sự việc đơn giản nhất, nếu điều này cứ tiếp diễn mãi, rất có thể cô sẽ dẫn chúng tới đến chỗ sai lầm. Nếu như nghĩ quyền năng mà lão bá tước áp đặt nơi cô giảm đi trùng hợp với khả năng nhìn thấu vấn đề của cô thì tôi không có lý do gì để không vui cả. Nhưng thú thực, tôi vẫn nghi ngờ trường hợp đang diễn ra với cô. Cuối cùng, cô chỉ giải mã đơn giản thế này :
- Có một cái gì đó vừa biến mất. Tôi cảm thấy một cơn gió lạnh thoảng qua. Có những tiếng động mơ hồ vẳng đến từ xa, hình như có mấy người nói tiếng nước ngoài, có cả tiếng một dòng chảy rất dữ và cả tiếng tru thê thảm của loài sói nữa.
Cô đột ngột dừng lại, rùng mình giây lát rồi toàn thân chợt run bần bật như lên cơn động kinh. Không thấy cô trả lời những câu hỏi của Van Helsing. Lúc bừng tỉnh, trông cô có vẻ mệt lử, rã rời, người lạnh như nước đá, nhưng may mà còn làm chủ được bản thân. Cô nói không nhớ gì cả và muốn biết điều cô vừa phát hiện được. Khi hiểu ra vấn đề, cô ngồi im lặng và suy nghĩ rất lâu.
* * * * *
Ngày 30 tháng 10, 7giờ sáng
Chúng tôi đang tiến gần tới Galatz, và lát nữa, có thể tôi sẽ không còn thời gian để viết nữa. Tất cả chúng tôi đều tỉnh táo chờ đợi buổi rạng Đông. Biết càng ngày càng khó làm thôi miên đối với Mina, nên Van Helsing bắt đầu các động tác huơ tay sớm hơn thường lệ. Chỉ đến trước lúc mặt trời mọc khoảng một phút, Mina mới chịu nhập đồng. Không để phí thời gian vào những chuyện vớ vẩn, giáo sư đi luôn vào các câu hỏi cần thiết nhất. Cô trả lời cũng rất nhanh :
- Tất cả tối om. Tôi nghe có tiếng nước xoáy tầm ngang tai, tiếng gỗ va gỗ lộc cộc. Thấp hơn là tiếng súc vật kêu từ xa vọng tới. Còn một âm thanh khác, kỳ lạ... phải nói là...
Cô lại chợt im bặt, mặt mày mỗi lúc một xanh mét.
- Còn gì nữa, âm thanh gì nữa? Nói tiếp đi, tôi ra lệnh nói tiếp đi! - Van Helsing thúc giục, giọng nghe thật thống thiết và khẩn khoản, nét mặt lộ rõ vẻ thất vọng, bởi ngoài kia mặt trời đã bừng sáng soi đỏ cả nước da xanh mét của Mina.
Cô mở tròn mắt run run khẽ nói với chúng tôi, nét mặt không giấu nổi sự lo lắng :
- Thưa giáo sư, tại sao ngài lại hỏi tôi những điều mà ngài thừa biết là tôi không thể trả lời? Tôi không còn nhớ gì hết!
Cô quay sang nhìn bộ mặt còn lộ rõ vẻ ngơ ngác của chúng tôi và tiếp tục :
- Tôi đã nói những gì rồi? Tôi đã làm những gì? Tôi chẳng còn biết gì cả, nếu không phải là tôi đang nằm đây nửa tỉnh nửa mê, và nghe thấy tiếng ai nhắc: “Còn gì nữa? Nói tiếp đi, tôi ra lệnh nói tiếp đi!” Mọi người nói cứ như thể coi tôi là một đứa trẻ có lỗi không bằng!
- Nhưng Mina à, - Giáo sư đáp lại, giọng buồn buồn – đó chính là một bằng chứng, nếu có thể nói như vậy, về tình bạn mà tôi dành cho bà. Thực ra tôi đã nói nghiêm túc hơn bao giờ hết, trong một tình thế rất khó khăn, mong bà đừng chấp.
Một hồi còi bất ngờ rú lên thê thảm. Thế là đã tới Galatz. Chúng tôi như ngồi trên đống lửa vì lo lắng và sốt ruột.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 30 tháng 10
Quincey Moriss dẫn tôi đến một khách sạn mà anh đã đặt trước bằng điện tín. Đây là một khách sạn rất dễ chịu, ít nhất cũng vì ở đây người ta không nói bất cứ một thứ tiếng xa lạ nào. Cũng như ở Varna, huân tước Godalming phải đến gặp viên Phó lãnh sự để được nhận chế độ bảo đảm an toàn dành cho chúng tôi, ngay cả trong tình huống khẩn cấp nhất. Jonathan cùng hai bác sĩ đến đại lý hàng hải xem có tin gì mới về con tàu Tsarine Catherine.
* * * * *
Một lúc sau
Huân tước Godalming vừa quay về. Viên Tổng lãnh sự đi vắng, trong khi Phó bị ốm. Nhưng mọi việc đều được giải quyết nhanh gọn nhờ một nhân viên được ủy quyền, tính tình rất dễ chịu và tận tụy với công việc thuộc thẩm quyền của mình.
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 30 tháng 10
Đã 9 giờ sáng. Bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward cùng tôi đến nhà Mackenzie ở Steinkoff, đại lý của công ty hàng hải Hapgood ở Luân Đôn. Nhắc đến huân tước Godalming, họ liền cho biết họ đã nhận được đề nghị giúp đỡ của anh và dẫn ngay chúng tôi đến tàu Tsarine Catherine đang thả neo ở một cảng sông. Chúng tôi gặp vị thuyền trưởng có tên là Donelson, người đã kể cho chúng tôi nghe lại toàn bộ cuộc hành trình của con tàu. Ông nói cả đời ông chưa bao giờ gặp phải một chuyến đi kinh dị và quái đản đến như vậy.
Chuyến đi đã làm chúng tôi sợ khiếp vía, bởi chúng tôi cứ ngỡ mình sẽ phải trả giá sau các nỗ lực đưa con tàu về hải trình đúng của nó. Lênh đênh giữa Biển Đen đâu phải là chuyện đùa. Dường như có một con quỷ nào đó đã thổi gió làm các cánh buồm đưa con tàu đi theo hướng nó đã định thì phải. Làm gì có cách nào để nhận biết thực hư ra sao. Cứ mỗi lần chúng tôi định ghé sát vào một con tàu khác, hoặc vào một cảng biển, mũi đất là y như rằng lại có một màn sương mù dày đặc không hiểu từ đâu bỗng nhiên ập xuống, rồi cứ thế bám theo con tàu suất chặng đường mới chết chứ lị. Tới gần vùng này, cái cảnh địa ngục quái gở ấy mới chịu buông tha chúng tôi. Chúng tôi qua Gilbraltar mà không làm sao đánh tín hiệu về đất liền được. Rồi thì khi tới Dardanelles, lẽ ra chúng tôi phải ghé bến trình giấy phép mới được đi tiếp, ấy thế mà con tàu vẫn cứ tiến mà chẳng thấy một nhà chức trách nào gọi hỏi cả. Lúc đầu tôi cũng định giảm áp suất không khí và cho tàu đi vát gió cho tới khi sương mù tan hẳn, nhưng sau lại thôi, vì tôi nghĩ rằng một khi trong đầu con quỷ đã muốn con tàu phải chạy hết tốc lực ra Biển Đen thì chắc chắn nó sẽ làm như vậy, cho dù chúng tôi có muốn hay không cũng thế thôi. Và con quỷ hẳn đã thỏa nguyện mà không phải bực mình vì sự chống đối của chúng tôi.
Tính khí pha tạp giữa thật thà, hóm hỉnh nhưng cũng không kém phần tinh quái và mê tín kiểu con buôn của viên thuyền trưởng như càng kích thích Van Helsing. Ông nói :
- Ông bạn ạ, ma quỷ nhiều khi còn táo tợn hơn cả những gì mà một số người vẫn nghĩ về nó ấy chứ, và nó hoàn toàn biết mình đang đứng trước ai?
Câu đùa gợi ý của vị giáo sư đã không gây hứng khởi cho viên thuyền trưởng.
- Sau khi rời Bosphore, - Viên thuyền trưởng nói tiếp - trên tàu bắt đầu có những lời càu nhàu của hành khách. Một số người Rumani đã đến tìm tôi và đòi vứt khỏi tàu một chiếc hòm gỗ khá lớn do một lão già quái gở gửi theo tàu từ lúc chúng tôi rời Luân Đôn. Lúc đó, tôi thấy họ liếc nhìn lão già và giơ vội hai ngón tay như muốn tránh xa một điều gì đó thật xúi quẩy khi trông thấy lão bước đến gần: Đúng là tín ngưỡng của người nước ngoài nhiều khi cũng kỳ lạ thật đấy!. Tôi đã phải vài lần xua họ đi chỗ khác. Nhưng ngay sau đó, một màn sương mù chẳng hiểu từ đâu lại đổ ập xuống con tàu, đến nỗi tôi phải tự hỏi không biết bọn người Rumani kia nói có đúng hay không nữa, mặc dù tôi thấy không có gì phải kỳ thị với chiếc hòm gỗ kia. Mặc kệ, chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Màn sương mù bao bọc con tàu suốt năm ngày liền. Tôi phó mặc hải trình cho những cơn gió, bởi nếu ma quỷ muốn con tàu phải đến một nơi nào đó thì chúng tôi chỉ còn cách cứ để cho nó làm, chúng tôi có làm khác đi cũng không được kia mà! Thế rồi con tàu cứ băng băng tiến, rất an toàn và không có bất cứ một va. chạm nào hết. Ngày hôm kia, khi mặt trời thức dậy xuyên thủng màn sương mù đáng ghét, tôi chợt nhận ra con tàu đã đến một dòng sông, đối diện với Galatz. Đám người Rumani lại một lần nữa nổi cơn điên đòi quẳng ngay lập tức chiếc hòm gỗ xuống sông. Tôi đã phải nói chuyện với họ bằng gậy gộc, và khi tay cuối cùng ôm đầu nhảy khỏi sàn tàu, tôi mới đến thuyết phục họ rằng dù có xúi quẩy xúi kiếc gì thì tôi cũng vẫn đặt tài sản và niềm tin của hành khách lên trên hết. Cũng nên lưu ý trước đó, mấy thằng cha Rumani này đã lôi chiếc hòm chết tiệt đó đặt lên boong tàu để chuẩn bị quẳng xuống nước rồi. Tôi định khi nào dỡ hàng xuống cảng sẽ quẳng nó xuống luôn thể. Nhưng tới sáng, khoảng một tiếng đồng hồ trước lúc mặt trời mọc, bỗng dưng có một người đàn ông xuất hiện và leo lên tàu trình giấy ủy quyền, được gửi từ Anh quốc, để nhận chiếc một chiếc hòm đề địa chỉ người nhận là bá tước Dracula. Mọi giấy tờ của anh ta đều hợp lệ nên không có lý do gì tôi không giao cho anh ta chiếc hòm, hơn nữa tôi cũng bắt đầu cảm thấy không yên với cái của nợ ấy. Nếu quỷ dữ gửi hành lý lên con tàu của tôi, thì đó hẳn phải là chiếc hòm gỗ chứ chẳng phải là một cái gì khác!
- Thế người đến nhận hàng tên là gì nhỉ? - Van Helsing sốt ruột hỏi.
- Tôi sẽ nói để ngài biết ngay đây...
Viên thuyền trưởng bước xuống cabin lấy một tờ giấy biên nhận có chữ ký Emmanue! Hildesheim, số 16, Burgenstrasse.
Biết là không thể biết thêm được thông tin nào từ viên thuyền trưởng, chúng tôi bèn cảm ơn ông rồi tiếp tục lên đường.
Chúng tôi gặp Hildesheim ở văn phòng của ông. Đó là một người Do Thái có bộ mặt đỏ như gà chọi. Chẳng khó dễ gì trước đề nghị của chúng tôi, ông thuật lại ngay tất cả những gì ông biết. Ông nói đã nhận được một lá thư gửi từ Luân Đôn của Ngài De Vilie, trong thư đề nghị ông tiếp nhận - nếu có thể trước lúc mặt trời mọc thì càng tất, để tránh sự soi mói của hải quan - một hòm gỗ được gửi theo tàu Tsarine Catherine đến bến Galatz; sau đó, ông phải giao chiếc hòm cho tay Petrof Skinsky nào đó. Đây là một người có quan hệ với những người Slovaki chuyên buôn bán trên sông. Ông được trả công bằng một tờ giấy bạc Anh và được Nhà băng Quốc tế ĐanuÝp trả chuyển đổi bằng vàng. Ông dẫn Skinsky lên tàu và giao hàng luôn tại đó để tránh phải trả phí giao chuyển hàng. Tất cả chỉ có vậy, ông không thể nói gì hơn.
Vậy là chúng tôi chỉ còn cách đi tìm người có tên là Skinsky, nhưng rất cục cũng chẳng tìm được. Một người hàng xóm của anh ta cho biết anh ta đã bỏ đi từ hôm kia, nhưng không biết đi đâu. Ông chủ nhà trọ cũng cho chúng tôi biết anh ta đã nhờ một bưu tá gửi lại chìa khóa phòng và tiền thuê nhà trọ cho ông. Chuyện này xảy ra trong khoảng từ mười đến mười hai giờ tối hôm qua. Vậy là chúng tôi đang đi vào một điểm chết.
Chúng tôi đang nói chuyện với ông chủ quán trọ thì có một người bỗng hớt ha hớt hải chạy xộc vào và kêu toáng lên rằng người ta vừa tìm thấy xác Skinsky trong nghĩa địa Saint - Pierre trong tình trạng cổ bị cắn phanh ra bởi một vết răng nanh của một con thú hoang nào đó. Những người tiếp chuyện chúng tôi đều đứng bật cả dậy và lập tức chạy nháo nhác đi xem cảnh tượng hãi hùng mà họ vừa nghe kể, trong khi mấy phụ nữ hét với theo: “Gây ra chuyện đó chính là một thằng Slovaki đấy?” Chúng tôi bỗng thấy bủn rủn hết cả người vì sợ có thể bị dính dáng vào vụ việc và như vậy sẽ hỏng hết kế hoạch.
Trở về khách sạn, chúng tôi không sao đưa ra nổi một kết luận chính xác nào. Mọi người chỉ dám nghĩ có lẽ chiếc hòm tiếp tục được chuyển đi bằng đường thủy, nhưng về đâu chứ? Đây là một câu hỏi hóc búa mà chúng tôi phải trả lời. Chúng tôi gặp lại Mina trong một tâm trạng trĩu nặng lo âu. Lúc ngồi hội ý, chúng tôi đặt vấn đề tiếp tục thôi miên cô một lần nữa. Đây có lẽ sẽ là cơ hội cuối cùng của chúng tôi. Bấp bênh quá!
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 30 tháng 10, buổi chiều
Trông họ có vẻ mệt mỏi và nhụt chí quá! Cứ kiểu này thì chẳng ai làm được gì nếu không đi nghỉ một chút. Bởi vậy, tôi phải giục họ ngả lưng khoảng nửa giờ, trong thời gian đó tôi sẽ ghi lại tất cả những gì đã xảy ra cho đến nay. Tôi thật biết ơn người nào đã phát minh ra chiếc máy chữ xách tay và Quincey Moriss, người đã mất công mang nó hộ tôi tới đây! Hẳn là tôi sẽ đứt mạch suy nghĩ nếu cứ phải mài ngòi bút hoài trên trang giấy...
Tất cả thế là hết. Jonathan đang nằm dài trên ghế tràng kỷ, toàn thân rã rời bất động như một kẻ bại liệt, mặt mày nhăn nhúm chán chường. Hẳn là anh đang nghĩ ngợi ghê lắm. Ước gì tôi có thể giúp được anh! Tôi sẽ cố gắng làm điều mình có thể làm.
Theo đề nghị của tôi, bác sĩ Van Helsing đã trao lại cho tôi toàn bộ các ghi chép mà tôi chưa được biết. Trong lúc ông đi nghỉ, tôi định. sẽ đọc kỹ lại tất cả và nếu có thể, sẽ rút ra một kết luận nào đó. Tôi cố gắng noi gương giáo sư và suy ngẫm một cách thật khách quan về các sự việc phơi bày trước mắt. Tôi tin mình sẽ có một khám phá thực sự sau khi suy nghĩ cân nhắc và quan sát thật cẩn thận các tấm bản đồ địa phương.
Vâng, càng ngày tôi càng cảm thấy mình không nhầm. Tôi sẽ họp những người bạn của mình lại và nói cho họ biết suy nghĩ của mình. Họ sẽ phán xét giải pháp của tôi. Tất cả đều phải chính xác. Mỗi phút trôi qua đều rất đáng quý.
Bản tóm tắt đánh giá trong nhật ký của Mina Harker
Khởi điểm điều tra. Vấn đề: bá tước Dracula đang trên đường về nhà.
a) Chắc hẳn phải có người mang lão về. Đó là điều hiển nhiên, bởi nếu cớ quyền năng đi lại tùy ý thì lão phải làm như vậy dưới cái lốt thực sự của một con người, con sói, con dơi hoặc một bất cứ một cái lốt nào khác. Rõ ràng lão đang cảm thấy nghi ngờ mình bị bại lộ hoặc bị gây phiền phức trong trạng thái dễ bị tổn thương hiện nay, khi bị gò bó trong chiếc hòm đất giữa lúc mặt trời mọc và lặn.
b) Lão có thể được chuyển đi bằng cách nào? Hãy làm phép loại trừ sau đây :
1. Bằng đường bộ. Điều này sẽ gây ra vô số khó khăn cho lão, nhất là khi ra khỏi các thành phố.
a) Gặp phải nhiều người. Dân tình sẽ tò mò và tìm cách soi mói. Một dấu hiệu, một sự ngờ vực đối với những gì được cất giấu trong hòm, và thế là lão toi mạng.
b) Có thể hoặc chắc chắn chạm trán với các nhân viên hải quan hoặc thuế quan.
c) Các đối thủ theo đuổi lão có thể lần theo dấu vết của lão. Đó chính là nỗi lo sợ lớn nhất của lão và chính vì muốn tránh bị lộ mà lão đã tìm mọi cách để chạy xa nhất trong khả năng cỏ thể, kể cả đối với nạn nhân của lão - đó là tôi!
2. Bằng đường sắt. Nếu sử dụng loại phương tiện này, sẽ không có ai đứng ra để trông nom chiếc hòm gỗ vốn lúc nào cũng có nguy cơ bị chậm trễ, và chính sự chậm trễ sẽ là cơ hội chí tử để kẻ thù lần theo dấu vết lão. Tất nhiên, lão có thể chạy trốn trong đêm tối, nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu lão bị tống xuống một nơi xa lạ không có chỗ nào ẩn náu thích hợp. Đó không phải là ý định của lão, và cũng không phải một rủi ro mà lão có thể chấp nhận dấn thân vào.
3. Bằng đường thủy. Một mặt chính là phương tiện chắc chắn nhất, nhưng mặt khác lại là nguy hiểm nhất. Trên mặt nước, lão không có quyền năng, ngoại trừ trong đêm. Đồng thời lão chỉ có thể sai khiến sương mù, bão tố, băng tuyết và đàn sói của mình. Và nếu bị đắm tàu, lão sẽ bị hà bá nhấn chìm mà chẳng thể làm gì được, vậy là lại thêm một khả năng thất bại nữa.
Nếu lão nằm trên một con tàu, thì đương nhiên chúng tôi phải xác định cho được con tàu đang lênh đênh ở vùng nước nào.
Mục tiêu đầu tiên của chúng tôi là phải xác định chính xác việc lão đã làm cho đến nay, điều này sẽ chỉ cho chúng tôi thấy những gì cần tiếp tục cần phải làm.
Trước hết, chúng tôi sẽ cân nhắc các hành động ở Luân Đôn của lão như một phần toàn bộ kế hoạch của lão, trong khi lão phải gấp gáp từng phút và muốn rút chạy ngay lập tức.
Sau đó, chúng tôi sẽ cố gắng suy luận những gì lão đã làm ở đó với những sự việc mà chúng tôi đã biết.
Để bắt đầu, hiển nhiên là lão định đến Galatz. Đối với chúng tôi, trật tự liên quan đến Varna đã bị chệch hướng nếu chúng tôi hiểu lão đã rời khỏi nước Anh và chúng tôi phải ra sức xác định điểm đến thực sự của lão. Mục đích duy nhất, trước mắt của lão là tìm cách thoát khỏi sự đeo bám của chúng tôi. Bằng chứng chính là lời chỉ dẫn, ghi trong thư gửi Emmanuel Hildesheim, nhận và bốc dỡ chiếc hòm trước lúc mặt trời mọc - cũng như chỉ dẫn dành cho Petrof Skinsky. Đến đây, chúng tôi chỉ còn biết đoán mò. Chắc chắn phải có một lá thư hoặc một thông điệp liên lạc nào đó, vì đích thân anh ta đến tìm Hildesheim.
Theo chúng tôi biết thì tính đến đây, mọi kế hoạch của lão đều đã được hoàn thành. Tàu Tsarine Catherine đã có một cuộc hành trình nhanh khủng khiếp, đến nỗi viên thuyền trưởng Donelson phải sinh nghi. Tại sao con tàu lại có thể thuận buồm xuôi gió đến Galatz giữa màn sương mù quái đản mà không xảy ra bất cứ một trục trặc hay va chạm nào? Mọi sự chuẩn bị của lão bá tước đều phát huy hiệu quả. Hildesheim đã đến nhận chiếc hòm gỗ và giao cho Skinsky. Đến lượt mình, Skinsky cũng đã xoay xở với chiếc hòm - nhưng chúng tôi chỉ biết đến thế thì mất dấu vết. Hẳn là những người mang chiếc hòm đã tìm cách tránh chạm trán với các nhân viên hải quan hoặc thuế quan trên đường đi.
Bây giờ chúng tôi phải suy ngẫm xem lão bá tước đã làm gì sau khi đến đất Galatz.
Chiếc hòm gỗ đã được trao cho Skinsky trước lúc rạng đông. Vào lúc mặt trời mọc, lão bá tước có thể xuất hiện dưới hình dạng thật của mình. Chúng tôi phải tìm hiểu tại sao Skinsky lại được chọn như một người phụ trợ. Theo nhật ký của chồng tôi, Skinsky có quan hệ với đám người Slovaki đang buôn bán trên thượng nguồn cảng. Và thủ phạm giết người được đồn thổi chính là một người Slovaki; chi tiết đáng chú ý này cho thấy dân tình thường xuyên nghĩ tới những người này. Lão bá tước định đánh lạc hướng sự chú ý của mọi người.
Đó là phỏng đoán của tôi. Từ Luân Đôn, lão bá tước quyết định trở về lâu đài Dracula bằng đường thủy, một con đường chắc chắn nhất và cũng bí mật nhất. Trước đây, những người Digan đã cho mang lão đi và có thể đã nhờ người Slovaki mang các thùng đất đến Varna rồi chuyển tiếp bằng tàu thủy đến Luân Đôn. Như vậy, lão bá tước thừa biết ai là người đủ khả năng tổ chức giùm lão dịch vụ này. Bây giờ, khi chiếc hòm được đưa lên mặt đất, lão sẽ chui ra trước lúc mặt trời mọc hoặc sau khi mặt trời lặn và rồi chỉ dẫn cho Skinsky tiếp tục vận chuyển chiếc hòm theo đường sông. Chắc chắn là lão đã giết chết tay này để bịt đầu mối và xóa dấu vết của mình.
Xem lại bản đồ, tôi nhận ra rằng con sông gần nhất thuận tiện cho người Slovaki đi ngược dòng chỉ có thể là sông Pruth hoặc sông Sereth. Tôi thấy các ghi chú của Van Hesing có nhắc đến những tiếng nước xoáy ngang tầm tai, tiếng gỗ kêu lộc cộc mà tôi cảm nhận được trong lúc bị thôi miên. Như vậy, có thể lão bá tước vẫn đang nằm trong quan tài, nhưng được đặt trong lòng một con thuyền không boong và di chuyển bằng mái chèo hoặc bằng sào.
Tất nhiên, chưa hẳn con thuyền đã đi trên sông Pruth hoặc Sereth, nhưng chúng tôi có thể xác định được điều này. Trong hai con sông nhỏ này, việc đi lại trên sông Pruth có vẻ dễ hơn nhiều, nhưng con sông Sereth, ở đoạn Fundu, lại tiếp nhận dòng Bistriza vốn là con sông nhỏ chảy quanh đèo Borgo. Khúc quanh bên chân đèo chính là điểm dễ tiếp cận lâu đài Dracula nếu tính đi bằng đường thủy.
Nhật ký của Mina Harker (tiếp theo)
Nghe tôi đọc xong, Jonathan lao tới ôm chầm lấy tôi. Những người bạn còn lại cũng nắm chặt đôi bàn tay tôi, vẻ hồ hởi lắm. Còn bác sĩ Van Helsing thì thất lên :
- Một lần nữa, Mina lại chứng tỏ mình xứng đáng là người đưa đường chỉ lối của nhóm chúng ta. Cô thực sự là người sáng suất, còn chúng ta chỉ là những kẻ có mắt như mù. Chúng ta lại tìm ra dấu vết và nếu gặp được kẻ thù giữa ban ngày ban mặt, trên mặt nước, thì nhiệm vụ của chúng ta coi như đã xong. Đúng thế, lão đi trước chúng ta, nhưng lão không thể nhanh chân được, làm sao lão dám rời khỏi chiếc quan tài kia chứ? Những người hộ tống chiếc hòm thế nào cũng sẽ sinh nghi, và chỉ cần phát hiện ra dấu hiệu khả nghi đầu tiên là họ sẵn sàng quẳng ngay cái của nợ ấy xuống sông. Lão thừa hiểu điều đó và chắc chắn sẽ chẳng dám bày trò gì dại dột. Còn bây giờ, cần phải hội ý một chú vì chúng ta không thể không bàn ngay việc cần phải làm của từng người.
- Tôi sẽ đi tìm mua một chiếc xuồng và các phụ tùng kèm theo. - Huân tước Godalming nói.
- Còn tôi, tôi sẽ tìm mua ngựa để đuổi theo lão dọc bờ sông nếu thuyền của lão ghé vào bờ. - Quincey Moriss tuyên bố.
- Tốt rồi. - Giáo sư tiếp tục. - Cả hai nói đều có lý, nhưng cũng đừng nên đi một mình. Hai người cần phải có sức mạnh nếu chạm trán phải sức mạnh. Người Slovaki nói chúng đều rất khỏe và hung hăng, hơn nữa lại thường mang đầy đủ vũ khí.
Tất cả cùng bật cười, bởi ai nấy đều sẵn sàng mang theo một hộp đạn nhỏ.
- Tôi có mang theo vài khẩu súng. - Moriss nói. - Đó là loại vũ khí rất tiện dụng để chống lại các cuộc tấn công của đám đông, không loại trừ có cả những đàn sói nữa. Mọi người nên nhớ lão bá tước lúc nào cũng có các biện pháp đề phòng. Lão có những trò mèo mà bà Harker đây không thể nghe hoặc hiểu được hết. Chúng ta phải cảnh giác với mọi bất trắc có thể xảy ra.
- Tôi nghĩ tôi có thể đi cùng Quincey. - Bác sĩ Seward nói xen vào. - Cả anh nữa, Arthur ạ, anh cũng không nên đi một mình như thế. Có lẽ anh sẽ phải chạm trán với những người Sovakia, và chỉ cần một sai lầm thôi cũng đủ làm cho mọi kế hoạch của chúng ta bị phá sản. Lần này đừng để xảy ra bất cứ một sơ suất nào. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ chỉ dừng tay khi lão bá tước phả! chịu cảnh đầu lìa khỏi cổ và phải đảm bảo rằng lão không thể đầu thai được nữa.
Anh vừa nói vừa nhìn Jonathan, trong khi Jonathan lại đưa mắt nhìn tôi như khó nghĩ một điều gì đó. Tôi hiểu anh đang rất day dứt trong lòng. Tất nhiên là lúc nào anh cũng muốn được ở bên tôi, nhưng có điều chỉ những người ngồi trên xuồng mới có cơ hội hủy diệt... ma cà rồng. (Tại sao tôi cứ phải do dự khi nhắc đến từ này chứ?) Anh đứng lặng im và không thấy nói câu nào. Van Helsing phải lên tiếng để phá tan bầu không khí im lặng :
- Anh bạn Jonathan thân mến ạ, có hai lý do để anh phải nghe theo chúng tôi. Thứ nhất, anh còn trẻ và can đảm không kém, lại có khả năng chiến đấu, trong khi sức bình sinh của tất cả chúng ta đều buộc phải tập trung cho trận đánh cuối cùng. Hơn nữa, anh chính là người xứng đáng được trực tiếp ra tay hủy diệt... cái... đã gây cho anh và những người thân của anh biết bao nhiêu đau khổ. Còn đối với Mina lúc này, anh không cần phải lo lắng gì cả, tôi sẽ hết sức chăm sóc cô ấy trong chừng mực có thể. Dẫu sao thì tôi cùng già rồi, đôi chân không còn nhanh nhẹn như xưa, tôi không quen cưỡi ngựa đường dài, cũng chẳng giỏi cầm vũ khí. Nhưng nếu cần, tôi có thể chết như một thanh niên thực sự. Biết nói thế nào với anh điều tôi đang mong muốn bây giờ nhỉ! Thế này nhé, anh sẽ cùng huân tước Godalming đi xuồng ngược dòng sông, còn anh bạn John và Quincey đi trên bờ bám theo đề phòng trường hợp Tsarine Catherine bất ngờ cặp bến. Trong khi đó, tôi sẽ dẫn Mina đến sào huyệt của kẻ thù. Trong lúc con cáo già còn nằm ườn trong chiếc quan tài trên con tàu ngược lên thượng nguồn mà chưa thể bò lên mặt đất - hoặc không dám mở nắp vì sợ những người Slovaki quẳng xuống nước trong cơn hoảng sợ - chúng tôi sẽ bám theo con đường mà Jonathan đã từng đi, từ Bistritz đến Borgo, và tìm đường đến lâu đài Dracula. Khả năng nhập đồng của Mina chắc chắn sẽ còn giúp chúng tôi tìm được đường đi nơi xứ lạ - ngay sau lần mặt trời mọc đầu tiên trên chặng đường cần phải đi. Còn quá nhiều việc phải làm trước khi hang rắn độc bị xóa sổ.
Jonathan sốt sắng ngắt lời :
- Sao cơ, bác sĩ Van Helsing? Ngài định dẫn Mina của tôi đi trong một tâm trạng ảo não đến sào huyệt của thần chết sao? Không thể như vậy được, như thế chẳng có ích lợi gì hết! ...
Anh lặng thinh một lát rồi mời tiếp tục :
- Ngài có biết đó là một nơi như thế nào không? Ngài đã bao giờ thấy một địa ngục khủng khiếp đến như vậy chưa?. Nơi thậm chí cả ánh trăng cũng hiện thành những hình thù quái đản? Rồi từng hạt bụi đảo điên cuồng loạn trong gió lúc nào cũng có thể là mầm mống hiện hình thành những con quỷ cái nữa? Đã bao giờ ngài cảm thấy làn môi bẩn thỉu của một bóng ma cà rồng ngập vào cổ chưa?
Rồi anh quay sang nhìn trân trân vào trán tôi, hai tay giơ cao kêu trời :
- Trời ơi! Chúng tôi làm gì ai mà giờ phải chịu nông nỗi này kia chứ?
Không thể chịu đựng dược nỗi thất vọng trào dâng trong lòng, anh thả người ngã phịch xuống tràng kỷ. Nhưng như mọi khi, giọng trầm ấm và dịu dàng, tự tin của vị giáo sư già đã phần nào làm dịu nỗi cay đắng trong lòng anh và chúng tôi.
- Nhưng anh bạn ạ, nếu tôi có mong đến tận hang hùm ổ rắn thì chẳng qua cũng là để cứu chính Mina thân thương của chúng ta mà thôi. Cả đám đàn ông chúng ta đều nhận ra những gì cần phải làm trước khi cái nơi ghê tởm ấy bị loại bỏ. Nên nhớ rằng chúng ta đang bị dồn vào bước đường cùng. Nếu lần này vẫn thoát khỏi bàn tay chúng ta, có thể lão bá tước - một kẻ thông minh, có sức mạnh vô biên và cũng cực kỳ xảo quyệt - sẽ quyết định nằm im hàng trăm năm. Và sẽ tới lúc cô gái đáng thương dây - Vừa nói, ông vừa cầm tay tôi - trở thành quỷ cái giống như những ả đàn bà anh đã từng nhìn thấy trong lâu đài Dracula, Jonathan ạ. Anh nghe có đáng sợ không? Tôi hiểu điều đó! Xin lỗi vì lại làm anh khó chịu, nhưng điều tôi nói là cần thiết, anh bạn ạ. Theo anh thì có nên để xảy ra một sự thật phũ phàng như vậy không? Tuy nhiên, nếu điều phũ phàng ấy xảy ra, tôi sẵn sàng lấy cả mạng sống của mình để ngăn cản nó. Nếu có ai phải đến để rồi nằm lại nơi địa ngục của Dracula, thì người đó hẳn phải là tôi.
- Vậy thì ngài cứ làm theo ý mình đi. - Jonathan nói trong tiếng nấc nghẹn ngào. - Chúng ta đều nằm trong vòng tay của Chúa mà!
* * * * *
Một lúc sau
Quả là tôi đã được an ủi rất nhiều khi được làm việc với những người đàn ông can đảm như những người bạn của vợ chồng tôi! Một người phụ nữ dịu dàng không thể không ngưỡng mộ những người đàn ông nghiêm túc, trung thực và dũng cảm như vậy! Nhưng thú thực là tôi cũng thầm cảm ơn khả năng về tiền bạc của họ. Nếu không có tiền, chúng tôi có thể làm nên trò trống gì vào lúc này chứ? Tôi rất biết ơn sự giàu có của huân tước Godalming và cả anh chàng Quincey Moriss nữa. Nếu họ nghèo, chúng tôi chẳng thể khởi hành đến đây, đến rất nhanh nứa là khác. Phần công việc của mỗi chúng tôi đều được sắp xếp ổn thỏa và ai cũng cố gắng hoàn thành tất cô nhiệm vụ của mình. Chỉ trong có ba tiếng đồng hồ, huân tước Godalming và Jonathan đã có trong tay một chiếc xuồng chạy hơi nước xinh xắn, có thể lên đường ngay từ tín hiệu đầu tiên. Bác sĩ Seward và Moriss đã tìm mua được nửa tá ngựa nòi đóng sẵn yên cương. Chúng tôi cũng mua đủ các loại bản đồ và trang thiết bị cần thiết. 11 giờ 40 tối nay, tôi cùng bác sĩ Van Helsing đi Veresti, nơi chúng tôi cớ thể mua một chiếc xe ngựa để đến đèo Borgo. Dĩ nhiên, chúng tôi phải mang theo nhiều tiền mặt để mua xe và vài con ngựa. Chúng tôi phải tự xoay xở một mình, bởi chẳng quen biết ai khác đáng tin để mà nhờ vả trong công việc mua bán. Giáo sư là người thông thạo nhiều thứ tiếng nên không cần lo gì về chuyện này. Chúng tôi ai cũng được trang bị vũ khí. Ngay cả tôi cũng có một khẩu súng ngắn cỡ lớn. Jonathan chỉ bình tĩnh khi thấy tôi cũng có vũ khí như những người khác. Bác sĩ Van Helsing bảo khẩu súng có thể giúp ích cho tôi nếu gặp chó sói. Thời tiết mỗi lúc một lạnh hơn với những trận mưa tuyết quần đi đảo lại như muốn thách thức chúng tôi.
* * * * *
Một lát sau
Tôi phải hết sức can đảm để lời vĩnh biệt với người chồng yêu dấu của mình. Chưa chắc chúng tôi có cơ hội gặp lại nhau. Mina ơi, can đảm lên nhé? Vị giáo sư già đang nhìn mi như muốn nhắc đừng mềm lòng trong lúc này. Đừng nhỏ lệ nếu chưa phải là lúc khóc vì niềm vui và hạnh phúc.
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 30 tháng 10
Tôi viết những dòng này dưới ánh sáng hắt qua cửa nồi hơi trên xuồng, trong lúc huân tước Gođalming nhận trách nhiệm vận hành lò hơi, bởi anh hoàn toàn có kinh nghiệm sau nhiều năm gắn bó với con xuồng nhỏ của mình trên sông Thêm và trên các vùng hồ ở Norfolk. Sau khi nghiên cứu các loại bản đồ, chúng tôi quyết định làm theo giả thiết của Mina: nếu có một tuyến đường thủy đưa Dracula về lâu đài của lão, thì đó chỉ có thể là sông Sereth, rồi từ ngã ba tiếp tục đi theo dòng Bistritza. Chúng tôi cho nơi lý tưởng nhất để đi xuyên xứ sở, giữa con sông và rặng Carpates, nằm ở 47 độ vĩ bắc. Chiếc xuồng của chúng tôi cớ thể phóng hết tốc lực mà không lo gì hết: dòng nước sông chỗ nào cùng sâu và khoảng cách giữa hai bờ bãi luôn đủ rộng để chúng tôi có thể lướt thoải mái trên mặt nước, kể cả vào ban đêm. Huân tước Godalming khuyên tôi ngủ một giấc, anh bảo lúc này chỉ cần một người cũng đủ để quán xuyến mọi việc Nhưng làm sao tôi có thể ngủ được khi trong đầu lúc nào cũng trĩu nặng nỗi lo sợ về một mối nguy hiểm mơ hồ đang lơ lửng trên đầu vợ mình trên đường tới cái nơi khủng khiếp ấy? Niềm an ủi duy nhất đối với là phải biết tự nhủ mình và những người bạn đang nằm trong vòng tay che chở của Chúa. Không có niềm tin này, cách đơn giản nhất để tôi giải thoát mình khỏi bao nỗi đắng cay là tìm đến cái chết. Moriss và bác sĩ Seward đã cưỡi ngựa lên đường trước chúng tôi vì đoạn đường họ phải đi sẽ rất dài và không ít gian truân. Họ đi bám ngược theo dòng Sereth cất để giữ được một tầm nhìn nhất định với con sông và đỡ đụng phải những quãng đường gập ghềnh khúc khuỷu. Có hai kỵ sĩ mang ngựa dự phòng đi cùng họ trong những chặng đường đầu tiên để tránh gây sự chú ý. Hai kỵ sĩ này sẽ sớm quay về, và khi đó hai người bạn tôi phải tự lo liệu lấy mọi việc. Có thể sẽ tới một lúc chúng tôi phải gặp họ để cùng nhau đi nốt đoạn đường trên lưng ngựa.
Hành trình của chúng tôi quả là một chuyến đi phiêu lưu mạo hiểm! Chúng tôi lặng lẽ đi xuyên màn đêm, dưới cái lạnh mỗi lúc một thấu xương buốt thịt, giữa vô vàn những âm thanh bi ai dọc hai bờ bãi, trên những đoạn đường xa lạ đầy hiểm họa, bất trắc lơ lửng trên đầu, về một thế giới của địa ngục với bao điều khủng khiếp đang chờ đợi từng người.
Huân tước Godalming vừa đóng cửa nồi hơi lại.
* * * * *
Ngày 31 tháng 10
Vẫn trên hành trình truy nã. Một ngày mới đang đến.
Huân tước Godalming vừa thức dậy sau một giấc ngủ ngon lành. Tiết trời buổi sáng lạnh quá. Chúng tôi vượt qua mấy chiếc xà lan chở hàng nhưng không thấy có chiếc nào mang một chiếc hòm gỗ như chúng tôi cần tìm. Ánh đèn pin của chúng tôi đã làm các thủy thủ hoảng sợ, họ quỳ xụp xuống sàn tàu cầu nguyện và vái lạy lia lịa.
* * * * *
Ngày 1 tháng 11, buổi chiều
Ngày hôm nay không có gì mới. Chúng tôi chẳng phát hiện dược điều gì cần tìm, dù đã để mắt tới hết thảy các thuyền lớn, thuyền nhỏ gặp trên sông. Bây giờ chúng tôi đang ở Bistritza. Nếu giả thiết cả nhóm đã đưa ra là sai thì coi như chúng tôi đã mất hết cơ hội. Sáng nay, chúng tôi đã được các thủy thủ trên một con tàu của chính phủ đón tiếp rất tử tế và đã xin được một chiếc cờ hiệu Rumani để cắm lên xuồng. Chính chiếc cờ đã tạo điều kiện để chúng tôi tiếp cận và hỏi thăm thuyền bè đi lại trên sông mà không gặp bất cứ một trở ngại nào. Một số người Slovaki cho chúng tôi biết có một tàu lớn, với mấy thủy thủ trông như những bóng ma trên boong, đã vượt qua họ bằng một tốc độ không bình thường chút nào. Họ nhìn thấy con tàu này ở gần ngã ba Fundu, nơi dòng Bistritza chảy vào sông Sereth, nên không biết nó định rẽ theo ngả nào. Chúng tôi tới Fundu nhưng không biết thêm tin gì, chắc là con tàu đã vượt sông vào ban đêm. Tôi buồn ngủ díp cả mắt, có lẽ cái lạnh cắt da cắt thịt đã kích thích cái bản năng đang mỗi lúc một trỗi dậy trong tôi. Godalming cứ nằng nặc đòi thức ca đầu tiên. Chúa sẽ ban phước lành cho anh, một người bạn đang hết lòng vì vợ chồng tôi.
* * * * *
Ngày 2 tháng 11, buổi sáng
Mặt trời đã lên cao, nhưng anh bạn tôi vẫn không muốn đánh thức tôi dậy. Anh bảo nếu làm vậy là có lỗi, vì giấc ngủ bình yên sẽ làm tôi tạm quên nỗi ưu phiền trong lòng. Tôi có cảm giác mình hơi ích kỷ khi đã ngủ quá lâu như vậy. Nhưng dẫu sao thì Gođalming cũng có lý bởi rõ ràng là sáng nay tôi đã cảm thấy mình trở thành một người khác hẳn, hoàn toàn có thể điều khiển được chiếc xuồng và theo dõi mọi sự việc xảy ra xung quanh. Dường như tôi đã lấy lại được sức mạnh và nghị lực của mình. Không hiểu giờ này Mina và bác sĩ Van Helsing đã đến đâu rồi. Hẳn là họ đã tới Varesti vào tra thứ tư theo dự kiến. Họ sẽ phải mất ít nhiều thời gian để mua xe và vài con ngựa. Vậy thì nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, chắc chắn bây giờ họ đã phải tới đèo Borgo. Cầu Chúa hãy che chở cho họ! Người tôi bỗng run lên khi hình dung ra những gì có thể xảy ra với họ. Ước gì chúng tôi đi nhanh hơn nữa? Nhưng động cơ trên xuồng đều đã chảy ở tốc độ tối đa. Làm sao đuổi kịp bác sĩ Seward và Moriss đây?... Có rất nhiều dòng suối nhỏ đổ từ trên các vách núi xuống dòng sông chúng tôi đang đi, nhưng sẽ chẳng có trở ngại gì đáng kể với các kỵ sĩ - ít nhất là ngay hôm nay, khi không có tuyết rơi. Tôi hy vọng sẽ gặp lại họ trước khi đến Strasba. Bởi nếu chưa phát hiện ra lão bá tước trong lúc này, chúng tôi sẽ phải gặp nhau để cân nhắc lại vấn đề.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 2 tháng 11
Ròng rã suốt ba ngày trên đường, không có bất cứ một tin tức gì, và nếu có tôi cũng không tìm được lúc nào để mà ghi lại, bởi mỗi phút đối với chúng tôi lúc này cũng đều rất quý. Chúng tôi chỉ dám dừng lại khi buộc phải để cho mấy chú ngựa được nghỉ ngơi chốc lát, nếu không chúng tôi vẫn thừa sức để đi tiếp. Những cuộc phiêu lãng ngày xưa của chúng tôi không ngờ lại hữu ích đến thế, nếu không từng trải, chắc gì chúng tôi đã bền bỉ được nhừ bây giờ? Chúng tôi chỉ có thể vui khi gặp lại chiếc xuồng chở huân tước Godalming và anh bạn Jonathan.
* * * * *
Ngày 3 tháng 11
Tới Fundu, có người nói với chúng tôi rằng chiếc xuồng đã vào sông Bistritza. Cầu mong họ đừng chết cóng vì rét! Dường như sắp có tuyết rơi thì phải. Nếu tuyết rơi dày, chúng tôi sẽ bị cản bước đáng kể. Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ phải mua một chiếc xe trượt tuyết để chạy như người Nga vẫn làm.
* * * * *
Ngày 4 tháng 11
Hôm nay, sau khi hỏi thăm, chúng tôi được biết chiếc xuồng đã bị hỏng và biến dạng vì ra sức băng ghềnh vượt thác. Các tàu thuyền của người Slovaki đều vượt lên dễ dàng nhờ sự trợ giúp của một sợi dây kéo và tài chèo lái không ai bằng của từng người trên thuyền. Cũng may Godalming là một thợ cơ khí tài tử, nên anh đã sửa lại nguyên trạng chiếc xuồng của mình.
Cuối cùng anh và Jonathan đã vượt qua các ghềnh thác và tiếp tục lên đường nhờ sự giúp đỡ của người địa phương. Tôi nghĩ thế nào vụ tai nạn cũng làm cho chiếc xuồng bị hỏng khá nặng, bởi mấy người nông đân bảo chúng tôi rằng sau khi được sửa chữa, nó đã dừng lại không ít lần trong tầm nhìn của họ. Vậy thì chúng tôi phải phóng thật nhanh lên mới được. Sự giúp đỡ của chúng tôi là điều rất cần thiết trước khi sự việc trở nên quá muộn.
Nhật ký của Mina Harker
Chúng tôi đến Veresti vào buổi trưa. Giáo sư bảo tôi rạng Đông hôm nay, vất vả lắm ông mới thôi miên được tôi, đã thế tôi lại không thể nói được một điều gì khác: “Tối om, yên tĩnh”. Ông đã đi mua một chiếc xe và vài con ngựa tăng viện - nếu có thể - để thay phiên kéo trên đường. Chặng đường chúng tôi đi dài dằng dặc. Xứ sở này quả là tươi đẹp và nhiều điều thú vị. Giá như chúng tôi được đi dưới bầu trời này trong một hoàn cảnh khác thì hay biết bao? Giá như tôi và Jonathan cùng được sánh bước trên đường thì lãng mạn biết nhường nào?
Ôi những con người xa lạ, những cảnh vật thần tiên và hoang dại kia?...
* * * * *
Một lúc sau
Bác sĩ Van Helsing quay về với một chiếc xe và vài chú ngựa. Ngoài ra ông còn mua thêm một lô chăn dạ và vài chiếc áo lông thú để chuẩn bị cho cái rét thấu xương. Chúng tôi phải ăn uống cho thật no rồi lên đường trong một tiếng đồng hồ nữa. Nhưng ông chủ quán trọ lại bưng ra một rổ thức ăn hỗn tạp như người ta vẫn dành cho những người lính. Giáo sư phải nói nhỏ vào tai tôi rằng trong một tuần nữa, chưa chắc chúng tôi đã tìm được một thứ đồ ăn dễ chịu nào khác, vì vậy phải cố mà ăn.
Một lúc nữa thôi, chúng tôi sẽ lên đường. Người tôi bỗng run lên khi nghĩ đến những gì đang chờ đợi dọc đường đi. Nhưng thực tình mà nói, tôi vẫn tin ở sự che chở của Chúa. Chỉ có Ngài mới biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng dù thế nào thì tôi cũng cầu mong cho người chồng yêu dấu của mình được quay trở về bình yên. Ước gì Jonathan hiểu được tình cảm chân thành tôi luôn dành trọn cho chàng tự đáy lòng mình!
Ngày 1 tháng 11
Chúng tôi phi nước kiệu ròng rã suốt cả ngày. Đàn ngựa dường như cũng hiểu được sự đối đãi tử tế của các chủ nhân nên đã không phụ lòng chúng tôi. Chúng được thay thường xuyên và con nào con nấy đều tỏ ra phục tùng các chủ nhân của mình, khiến chúng tôi cảm thấy mình như đang được động viên, tiếp sức. Dọc đường đi, Van Helsing có vẻ rất kiệm lời, ông chỉ nói với người địa phương rằng chúng tôi đang vội đến Bistritza và đã trả rất hậu để họ đổi ngựa giùm. Chúng tôi chỉ tạm dừng chân để giải khát hoặc ăn uống qua loa rồi lại tiếp tục lên đường ngay. Xứ sở này thật là tuyệt diệu, cảnh vật đẹp như mơ vút tầm mắt. Cả con người ở đây cũng đáng trân trọng: họ can đảm, cường tráng, giản dị và không kém phần nhiệt tình với các vị khách. Nhưng họ cũng là những người rất, rất mê tín. Tới ngôi nhà chúng tôi dừng chân đầu tiên, bà chủ nhà đã làm dấu thánh và giơ hai ngón tay về phía tôi như để tránh một sự xúi quẩy khi trông thấy tì vết trên trán tôi. Tôi nghĩ thậm chí bà ta còn cố tình bỏ tỏi vào món ăn của tôi cũng vì một mục đích như vậy, mà tôi đâu phải là người chịu được mùi tỏi? Do vậy, tôi thầm nghĩ mình phải rút kinh nghiệm cho những lần sau, không bỏ mũ hoặc khăn voan ra khỏi mặt để khỏi bị kỳ thị.
Chúng tôi vẫn phi thật nhanh về phía trước. Trông giáo sư có vẻ không biết mệt là gì, ông nói ông chẳng cần nghỉ suất cả ngày cũng không sao, tôi cứ việc đánh một giấc li bì trên xe. Lúc mặt trời lặn, ông lại thôi miên tôi đế nắm bắt tin tức.
Tôi trả lời như thường lệ: “Tối om, tiếng sóng nước óc ách, tiếng kêu kẽo kẹt của sàn ván”. Vậy là kẻ thù của chúng tôi vẫn đang ở dưới nước. Suy nghĩ về Jonathan bất chợt hiện lên trong đầu khiến tôi không khỏi run, cho dù lúc này tôi chẳng nghi ngờ gì về những điều tai hại đối với anh và chính mình. Tôi viết những dòng này trong lúc chờ đợi người ta chuẩn bị ngựa xe trong một trang trại. Cuối cùng thì bác sĩ Van Helsing cũng phải ngả lưng một chút, trông ông già sọm hẳn đi và có vẻ đã thấm mệt. Lúc tiếp tục lên đường, tôi sẽ thuyết phục ông để tôi được cầm cương, còn ông cứ việc nghỉ cho lại sức. Tôi nói chúng tôi còn hơn một ngày đường nữa nên ông không thể kiệt quệ vào cái lúc cần đến sức bình sinh nhất... Tất cả lại sẵn sàng. Chúng tôi tiếp tục thượng lộ.
* * * * *
Ngày 2 tháng 11, buổi sáng
Tôi đã thành công khi thuyết phục ông: chúng tôi đổi ca nhau cầm cương suất đêm. Đã sang một ngày mới, trời sáng nhưng lạnh. Tiết trời nặng nề đến kỳ lạ, tôi nói nặng nề vì không thể tìm được một lời nào chính xác hơn, vì cả hai chúng tôi đều cảm thấy tức thở rất khó tả.
Phải nói trời rất lạnh, nếu không có những chiếc áo lông thú thì không hiểu chúng tôi sẽ đi như thế nào. Lúc rạng Đông, Van Helsing tiếp tục thôi miên tôi một lần nữa. Theo ông kể thì tôi đã trả lời: “Tối om, có tiếng sóng gầm, tiếng sàn ván kêu ken két”. Vậy là dòng sông đang có sự thay đổi diện mạo khi chiếc hòm gỗ được đưa ngược dòng chảy nào đó. Hy vọng chồng tôi sẽ không gặp nguy hiểm... Nhưng dẫu sao chúng tôi vẫn đang nằm trong vòng tay che chở của Chúa.
* * * * *
Ngày 2 tháng 11, buổi chiều
Liên tục đi trên đường, thậm chí không nghĩ giải lao. Phong cảnh trải rộng trước mặt, các đỉnh hoành sơn thuộc rặng Carpates ở Veresti lúc này bỗng sừng sững hiện lên xung quanh chúng tôi và dường như đang chắn ngang con đường chúng tôi phải đi. Chúng tôi cố gắng động viên nhau và cũng là để động viên chính mình, không để rơi vào tình trạng bi quan. Giáo sư Van Helsing bảo chúng tôi sẽ tới đèo Borgo vào lúc mặt trời mọc. Vùng này không có nhiều ngựa thay nên ông định sẽ giữ lại những con mới mua để đi tới cùng. Chúng tôi có hai con dự phòng và đó toàn là những chú ngựa nòi có đủ kiên nhẫn đi những đoạn đường dài. Không có trục trặc gì xảy ra với chúng tôi trên đường đi, đến nỗi tôi cũng có thể dễ dàng cầm cương điều khiển bầy ngựa kéo. Chúng tôi sẽ đến đèo Borgo vào sáng sớm ngày mai và khi đó có thể nghỉ ngơi một chút. Điều gì sẽ đến với chúng tôi ngày mai? Lâu đài ma quái mà người chồng yêu dấu của tôi từng hứng chịu bao điều khủng khiếp đang tới gần. Cầu Chúa cho chúng tôi đi đúng hướng? Cầu Chúa hãy để mắt tới chồng tôi và tất cả những người bạn mà tôi yêu mến, những người đang đối mặt với một hiểm họa đang lơ lửng trên đầu? Còn tôi, sẽ không hề gì nếu Người không che chở cho tôi. Lạy Chúa? Con là một kẻ dơ bẩn trong mắt Người và còn dơ bẩn cho tới khi Người cho phép con được đứng trước Người như những người bạn trung thực của con.
Ghi chép của Abraham Van Helsing
Ngày 4 tháng 11
Tôi viết những dòng nhắn nhủ này dành cho người bạn chung thủy John Seward, bác sĩ vùng Purfleet, Luân Đôn, đề phòng trường hợp không còn được gặp lại anh nữa. Trời đã sáng rồi, tôi viết gần ngọn lửa khêu suốt đêm thâu nhờ bàn tay của Mina. Trời lạnh, lạnh lắm, lạnh đến nỗi bầu trời xám xịt lại vì những bông tuyết đầu đông. Khi rơi xuống, những bông tuyết ấy sẽ ngự trị đèo Borgo trong suốt mùa đông ảm đạm. Mĩna dường như cũng tê tái vì giá rét. Cái băng giá đã biến cô thành một con người hoàn toàn khác. Cô ngủ, ngủ và ngủ. Bình thường cô linh hoạt là thế, vậy mà cả ngày hôm qua cô chẳng làm việc gì cả. Ngay cả ăn cũng không ngon miệng. Và cũng không thấy cô động đến cuốn sổ nhỏ mà cô luôn mang theo mình để có thể ghi chép mỗi khi nghỉ dọc đường. Tôi cảm thấy bên tai luôn văng vẳng một điều gì đó không bình thường. Tuy nhiên, chiều hôm qua, cô đã phần nào lấy lại được sự lanh lợi vốn có của mình. Giấc ngủ dài trong ngày dường như đã làm cô đỡ mệt và khiến cô trở nên vui vẻ và đáng mến như mọi khi. Lúc hoàng hôn buông xuống chân đèo, tôi định thôi miên cô xem có điều gì mới mẻ, nhưng trời ạ, tôi cố mãi mà chẳng có kết quả gì. Khả năng của tôi đang giảm đi từng ngày và chiều tối nay, tôi đã thất bại hoàn toàn.
Bây giờ tôi xin kể tiếp những sự việc tiếp theo. Mina không còn dùng phép tốc ký để viết nhật ký, vì vậy tôi phải viết đỡ cho cô, dù không thạo việc này lắm, để những ngày trôi qua không bị đi vào lãng quên.
Chúng tôi đến đèo Borgo vào bình minh ngày hôm qua. Vừa nhìn thấy ánh rạng đông, tôi lập tức dừng xe bảo Mina chuẩn bị thôi miên. Tôi lấy những chiếc áo lông thú làm tạm một chiếc giường: Mina sẽ nằm trên đó để nhập đồng, nhưng quả thực lần này tôi cũng rất vất vả. Câu trả lời vẫn không có gì mới: “Tối om, nước xoáy”. Chỉ nói đến đây là cô bừng tỉnh, nét mặt có vẻ vui và rạng rỡ hẳn lên. Chúng tôi tiếp tục lên đường và chẳng mấy lâu đã vượt qua đèo. Sự nhiệt tình đã biến cô thành một người thật hăng hái. Rõ ràng có một sức mạnh mới soi đường chỉ lối cho cô, bởi tôi thấy cô bỗng chỉ tay về phía con đường trước mặt và bảo :
- Đúng là con đường kia rồi.
- Làm sao bà biết?
- Cũng tự nhiên thôi.
Cô im lặng một lát rồi nói tiếp :
- Anh Jonathan của tôi đã chẳng qua đó rồi sao? Anh chẳng viết như vậy trong nhật ký là gì?
Lúc đầu tôi thấy cũng lạ, nhưng rồi cũng kịp định thần lại vì thực ra ở đây chỉ có duy nhất một cơn đường liên xứ kiểu này. Có vẻ như đây là một con đường rất ít người qua lại, khác hẳn với đường từ Bukovine tới Bistritza vốn rộng hơn, được rải sỏi đá và không ngớt bóng người. Chúng tôi đi theo con đường Mina vừa chỉ. Khi bắt gặp những lối đi khác, chúng tôi bỗng tỏ ra nghi ngờ. Có đúng là những con đường này không? Tôi không dám chắc, bởi tất cả đều lổng chổng và ít nhiều vương vãi tuyết rơi. Đàn ngựa của chúng tôi đã dấn bước vào và chỉ có chúng cặm cụi trên đường mà thôi. Tôi thả cương mặc chúng phi nước kiệu. Chúng tôi dần nhận ra tất cả những gì Jonathan đã tả lại trong cuốn nhật ký đáng nể của anh. Đàn ngựa tiếp tục gõ móng đều đều trên những nẻo đường tưởng chừng như kéo dài đến vô tận. Lúc đầu, tôi phải bắt Mina nằm ngủ. Cô đã cố gắng và cuối cùng thì cũng chìm vào giấc nồng. Cô ngủ suốt, ngủ say đến nỗi tôi phát hoảng và phải đánh thức cô dậy. Nhưng cô vẫn ngủ như không có chuyện gì xảy ra. Tôi không dám gọi giật cục thô bạo vì biết cô đã chịu đựng quá nhiều và nói chó cùng thì giấc ngủ chán chê hẳn sẽ làm cô thấy khỏe hơn. Tự nhiên tôi thấy mình như một kẻ có lỗi với cô. Bởi vậy, tôi lại rón rén trở về thế ngồi cầm cương thúc ngựa đi nhanh hơn. Mina vẫn ngủ.
Ánh chiều tà dần buông, để đọng trên những bông tuyết một ánh vàng như mỡ gà và những cái bóng dài nghêu của chúng tôi trên các sườn núi dựng đứng. Xe chúng tôi lên cao dần, cao dần, giữa một khung cảnh hoang vu, heo hút, lởm chởm nhấp nhô, như thể đang lên tận cùng của thế giới vậy!
Đó cũng chính là lúc tôi đánh thức Mina đậy chẳng mấy khó khăn, nhưng chỉ có điều tôi không còn dễ dàng thôi miên được cô Cô không những không nhập đồng mà còn xử sự như không có tôi tồn tại trên đời này. Tôi cố mãi, cố mãi và cuối cùng thì cả tôi và cô cũng chìm vào bóng tối. Tôi sực nhận thấy mặt trời đã chìm nghỉm sau các dãy núi. Mina chợt bật cười khiến tôi phải quay lại nhìn. Cô vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Tôi ngạc nhiên, cảm thấy một điều gì đó không ổn. Tôi đứng dậy lấy củi dự trữ trên xe và tìm chỗ đất lên một đống lửa. Cô chuẩn bị bữa tối trong khi tôi tháo ngựa cho chúng ăn. Khi tôi quay trở lại bên đống lửa, bữa ăn đã được chuẩn bị xong. Tôi định dọn cho Mina, nhưng cô mỉm cười và bảo rằng cô đã ăn rồi, vì đói quá nên không chờ tôi được. Tôi cảm thấy không vui, trong lòng nghi cô nói dối nhưng không đả động gì vì sợ làm cô động lòng. Tôi ngồi ăn một mình cho xong chuyện, rồi quay lại xe lấy áo lông khoác lên người và ngồi bên đống lửa. Tôi bảo Mina ngủ trước, để tôi thức trông nom mọi chuyện. Nhưng thực ra tôi đã thức rất nhiều, và khi sực nhớ ra điều này, tôi quay phắt sang nhìn cô: cô đang nằm dài trong chiếc áo lông thú tôi vừa mang đến, mắt vẫn mở thao thao nhìn tôi. Ánh mắt ấy sao mà long lanh thế! Tôi cứ ngồi vậy và chỉ chợp mắt được một lúc khi trời đã tảng sáng. Tôi định quay sang thôi miên một lần nữa, nhưng kìa! dường như cô vẫn thức thì phải. Mặt trời lên cao và chỉ tới lúc này cô mới chìm vào giấc ngủ. Dù đã quá muộn, nhưng cô vẫn cứ ngủ li bì và nặng nề đến nỗi tôi không có cách gì để gọi cô dậy. Cuối cùng, tôi phải bế cô đặt lên xe sau khi đã đóng cương xong cho đàn ngựa. Mina vẫn ngủ. Trông cô có vẻ hồng hào hẳn lên. Hiện tượng ấy không mách bảo tôi một điều gì tất đẹp cả. Tôi sợ, sợ và sợ Tôi sợ tất cả, sợ cả ý nghĩ nữa. Nhưng dù sao tôi vẫn phải đi tới cùng. Ván bài chính là canh bạc giữa sự sống và cái chết, hoặc có thể còn hơn thế nữa. Chúng tôi không thể lùi bước được nữa rồi.
* * * * *
Ngày 5 tháng 11
Có lẽ tôi phải kể lại chính xác từng chi tiết mới được?
Bởi vì mặc dù tôi và anh đều cùng tận mắt trông thấy nhiều điều kỳ lạ, nhưng anh vẫn có thể đi từ suy nghĩ của tôi để mà kết luận rằng có biết bao nhiêu điều khủng khiếp và tình trạng căng thẳng thần kinh kéo dài đều đã chấm dứt bởi sự điên rồ trong đầu óc tôi.
Chúng tôi vẫn đi ròng rã suất cả ngày đông và đang tiến gần đến những đỉnh núi chắn ngang một xứ sở càng lúc càng trở nên hoang vu và man rợ trước mắt kẻ đi đường. Tôi không thể kể xiết bao hang cùng hốc thẳm nằm câm lặng xen với những thác nước chảy ào ào như thể thiên nhiên thỉnh thoảng lại chơi trò hóa trang trước Mùa chay của riêng mình. Mina vẫn chìm sâu trong giấc nồng.
Thấy đói cồn cào, tôi phải ngồi ăn một mình vì không sao đánh thức được cô để chia sẻ bữa ăn. Tôi bỗng đâm lo. “Nếu cô ấy cứ ngủ li bì suốt cả ngày - tôi nghĩ bụng - thì có lẽ tôi sẽ phải ngủ suất cả đêm mất thôi.” Chúng tôi đang đi trên một con đường xấu, được làm thô thiển đại khái theo kiểu cũ. Dù rất cố gắng, song tôi vẫn gục đầu ngủ gà ngủ gật. Khi tôi choàng tỉnh dậy với một cảm giác có lỗi trong lòng thì Mina vẫn ngủ? Mặt trời đã ngả hẳn sang chiều rồi. Nhưng tất cả đều đã thay đổi. Những đỉnh núi đáng ngờ dường như đã xa hơn và chúng tôi đang ở gần một ngọn đồi dốc đứng, trên đó mọc lên một lâu đài cổ kính u tịch, giống như lâu đài Jonathan đã kể trong nhật ký của anh. Niềm vui và nỗi lo gần như quấn lấy tôi cùng một lúc, bởi bây giờ, dù tất đẹp hay tồi tệ thì đoạn kết cũng đang đến gần. Tôi gọi Mina dậy để thử thôi miên một lần nữa, nhưng kết quả vẫn là sự thất bại. Bóng tối bắt đầu đổ ập xuống bao trùm mọi nẻo đường heo hút, tôi tháo dây cương dắt đàn ngựa ra một chỗ kín gió cho chúng ăn, và đất lên một đống lửa để Mina có thể ngồi sưởi ấm trong chiếc áo choàng lông.
Trông cô tỉnh như sáo và hồng hào, xinh tươi hơn bao giờ hết. Tôi lọ mọ chuẩn bị bữa tối, nhưng cô không chịu ăn với lý do đơn giản là không cảm thấy đói.
Tôi không nài nỉ vì biết có làm vậy cũng vô ích. Về phần mình, tôi phải ăn, bởi tôi cần có sức chuẩn bị đương đầu với mọi thử thách nguy hiểm. Để đề phòng điều bất trắc có thể xảy ra, tôi ngồi bật dậy vẽ một vòng tròn mà tâm điểm là chỗ Mina đang ngồi, rồi tôi bóp vụn những miếng bánh thánh ra thành những hạt mịn như bột và rắc đều lên vòng tròn sao cho chỗ nào cũng được bảo vệ thật chắc chắn. Trong suốt thời gian đó, Mina chỉ ngồi lặng câm như một xác chết, sắc mặt cô càng lúc càng chuyển thành một màu tái dại, nhợt nhạt như ánh tuyết về đêm. Nhưng khi tôi bước lại gần, cô bỗng bám chặt lấy tôi. Tôi có cảm giác người cô đang run lên bần bật. Cuối cùng, đợi đến khi cô bình thường trở lại, tôi mới dám hỏi :
- Bà không muốn xích lại gần đống lửa thêm một chút ?
Thực ra, tôi định thử xem cô có thể làm được điều đó không. Cô ngoan ngoãn đứng dậy nhưng vừa bước được một bước đã thấy cô khựng lại như đang bị xích chân.
- Tại sao không bước nữa đi? - Tôi gặng hỏi.
Cô lắc đầu và quay về ngồi đúng chỗ vừa ngồi, hai mắt mở to nhìn tôi hệt như ánh mắt của một người đang ngủ say thì bị gọi giật dậy.
- Tôi không thể! - Cô trả lời ngắn củn rồi câm bặt.
Nhưng tôi lại thấy vui, bởi tôi hiểu cái không thể đó của cô, bất cứ những gì tôi nghi ngờ đều không còn là chính bản chất của nó nữa.
Nhưng những tiếng hí bất ngờ vang lên thành một chuỗi dài của đàn ngựa đã buộc tôi phải nghĩ khác. Tôi giật thót người trước khi kịp nghĩ phải đến gần vỗ về chúng. Cảm thấy có người đến gần, chúng lập tức liếm nhẹ lên bàn tay tôi nhưng vẫn không quên hí thêm một tràng trước khi im lặng trở lại. Nhưng chỉ được một lúc, chúng lại hí ầm lên không ngớt. Tôi phải rất nhiều lần đến vỗ về chúng trong đêm, trước cái thời khắc lạnh giá mà nhịp đập của đất trời rơi xuống độ yếu nhất. Vào thời điểm lạnh nhất ấy, đống lửa bắt đầu tàn, khiến tôi không thể không khơi thêm một lần, bởi tuyết bắt đầu rơi dày đặc giữa màn sương mù lạnh buốt sương. Dù trời tối, song tối vẫn loáng thoáng nhìn được xung quanh. Nhưng cơn lốc tuyết và sương mù dường như đang tạo nên hình hài những bóng đàn bà thấp thoáng trong tà áo trắng bồng bềnh quét đất. Tất cả toát lên một âm hưởng của chết chóc, sầu bi và im ắng đến ghê người. Đàn ngựa lại hí dài thê thảm như chờ đợi một điều tồi tệ nhất sắp xảy ra. Tôi rùng mình ớn lạnh trong tâm trạng lo sợ mơ hồ, cho tới khi sực nhớ ra vòng tròn an toàn mình vừa vẽ. Tôi bắt đầu nghĩ rằng mọi ảo ảnh đều là do bóng đêm, sự khiếp nhược, nỗi mỏi mệt dai dẳng của chính tôi mà ra. Chẳng lẽ hồi ức về tất cả những điều khủng khiếp mà Jonathan từng trải qua đã biến tôi thành một kẻ tâm thần rồi sao? Vâng, sương tuyết mù mịt, quay cuồng điên đảo cho tới khi làm tôi nhận ra bóng những ả đàn bà mặc bộ đồ trắng toát chập chờn, lởn vởn như sắp sửa lao tới vồ lấy tôi. Đàn ngựa co rúm lại và thỉnh thoảng lại rít lên lí nhí trong họng vì khiếp sợ, giống như cử chỉ của con người vậy. Tôi chợt thấy lo cho Mina, khi những bộ mặt kỳ quái bắt đầu chập chờn đến gần chúng tôi, nhưng cô vẫn ngồi thản nhiên và cười với tôi như không có chuyện gì xảy ra. Lúc tôi đứng dậy định bước ra khêu lại đống lửa, cô chợt níu tôi lại :
- Đừng, đừng, đừng bước ra khỏi vòng tròn. Ngài chỉ có thể an toàn nếu còn ở trong này! - Cô nói, giọng nghe yếu ớt, mơ hồ như vọng về từ cõi xa xăm.
Tôi quay lại nhìn thẳng vào mắt cô :
- Thế còn bà? Chính bà làm tôi sợ đấy!
Nghe vậy, cô bật cười, một nụ cười nhỏ nhẹ nhưng cũng siêu thực như giọng nói của cô.
- Sợ vì tôi ? Tại sao chứ? Không ái trên thế gian này che chở cho những kẻ bị săn đuổi an toàn hơn tôi đâu, thưa ngài.
Tôi định hỏi ý cô nói là thế nào thì có một trận gió lớn bất ngờ thổi mạnh tới làm bừng lên ngọn lửa đang sắp tàn. Chỉ tới lúc này tôi mới để ý tới vết sẹo đỏ hỏn trên trán cô. Chúa ơi! vậy là đã rõ ràng đối với tôi. Tôi chợt hiểu tất cả, bởi những bộ mặt quay cuồng chập chờn của sương tuyết đang tiến lại rất gần nhưng dường như đều khựng lại trước. Vòng tròn thiêng của tôi. Rồi chúng hiện hình ngay trước mắt tôi nếu như không phải là Chúa đã lấy mất lý trí của tôi – bằng xương bằng thịt; đó chính là ba ả đàn bà mà Jonathan đã từng giáp mặt trong lâu đài khi chúng sán đến vuốt ve mơn trớn và hôn vào cổ anh hôm nào.
Tôi nhận ra những thân hình tròn lẳn, lắc lư khêu gợi, những ánh mắt lúng liếng ác nghiệt, những hàm răng trắng và làn da hồng hào căng mọng, rồi những làn môi đỏ chót đầy bám muốn khoái lạc. Chúng cười ngây ngô nhìn Mina, tiếng cười xuyên thủng cái câm lặng của đêm đen. Chúng quấn chặt lấy nhau, tay chỉ thắng vào cô và nói một tràng dài, giọng trong và nhỏ nhẹ như giọng pha lê, đúng như những gì Jonathan đã tả trong nhật ký.
- Lại đây với chúng ta đi, người em bé nhỏ, lại đây đi nào, lại đây!
Tôi bủn rủn quay lại nhìn Mina, nhưng trong lòng lại cảm thấy vui như được nhìn thấy ánh lửa. Bởi ánh mắt sợ sệt cảm giác ghê tởm và sự khiếp đảm của cô cho tôi biết rằng tôi vẫn có thể tràn trề hy vọng. Đơn giản là cô vẫn chưa trở thành một kẻ đồng bọn của những ả đàn bà đó. Tôi cầm mấy thanh củi gần mình và chìa ra một chiếc bánh thánh rồi lừ lừ tiến lại gần chúng. Chúng lập tức lùi lại, nhưng vẫn không quên buông những tiếng cười lanh lảnh ghê người. Tôi tiếp tục nhóm lửa song không còn sợ hãi nữa, vì tôi hiểu chúng tôi sẽ không hề hấn gì nếu không thò ra ngoài thành lũy vô hình của mình. Và với một thứ vũ khí như tôi đang có, mấy ả đàn bà kia sẽ không thể tiến lại gần tôi và cả Mina.
Vả lại, khi còn ngồi trong Vòng tròn thiêng, cô sẽ không thể bước ra ngoài giống như chúng không thể lọt vào trong. Đàn ngựa thôi không còn hý và gõ móng điên loạn, chúng nằm phủ phục xuống đất hết lượt, mặc cho những bông tuyết rơi rơi hoài lên người, khiến chúng chẳng khác nào những mỏm núi tuyết con con. Tôi hiểu chúng đã không còn khiếp sợ những bóng hình ma quái nữa.
Chúng tôi cứ ngồi yên một chỗ cho tới khi nhận ra những á nh hào quang hồng tươi của mặt trời xuyên thủng cái màu u buồn của tuyết trắng. Cả đêm qua, tôi đã sống trong tâm trạng trĩu nặng lo lắng, ưu phiền và khiếp sợ, Nhưng cuộc sống đã thực sự trở lại trong tôi khi những tia nắng mặt trời bừng lên phía chân trời. Ngay sau khi mặt trời ló rạng, những tà ma lẩn khuất đâu đây lập tức tan biến theo những trận lốc xoáy tuyết và sương mù. Những cái bóng chập chờn, trong suốt dần dần bi cuốn về hướng tòa lâu đài cổ và mất bút trong đó.
Như một bản năng, tôi quay lại nhìn Mina, đinh bảo cô chuẩn bỉ thôi miên thử một lần nữa xem sao. Nhưng cô đã chìm vào giấc ngủ lìm từ khỉ nào chẳng hay. Biết là không thể đánh thức cô dậy, tôi thử liều thôi miển ngay cả trong lúc cô ngủ. Nhưng không thấy cô trả lời câu nào. Tôi lặng lẽ đi chuẩn bỉ xe ngựa để tiếp tục lên đường, nhưng lạy Chúa! cảnh tượng trước mặt khiến tôi muốn rụng rời chân tay: đàn ngựa của chúng tôi đã chết cứng từ lúc nào. Tôi hiểu một ngày mới sẽ mang đến cho tôi bao điều cực nhọc. Tôi sẽ đợi cho tới khi mặt trời lên thật cao, bởi chỉ khi đó, dẫu có tuyết rơi, sương sa mù mịt, tôi mới yên tâm đến những nơi tôi phải đặt chân đến. Bữa trưa sẽ mang lại sức bình sinh cho tôi trước khi bắt tay vào một thử thách khó khăn. Mina vẫn đang chìm trong giấc ngủ yên bình. Cầu Chúa ban phước lành cho cô?
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 4 tháng 11, buổi tối
Tai nạn xảy ra trên sông quả là một bất ngờ khủng khiếp đối với chúng tôi. Nếu không, chúng tôi đã có thể đuổi kịp con tàu từ lâu và khi đó, chắc chắn Mina đã được giải phóng rồi. Tôi chỉ dám nghĩ cô đang băng qua những mảnh rừng mọc ven cái nơi đáng sợ ấy. Chúng tôi đã tìm được ngựa và đang trên đường lần theo các dấu vết của quỷ dữ. Tôi tranh thủ viết những dòng này trong lúc Godalming đang cặm cụi sửa soạn. Chúng tôi có mang theo vũ khí. Néú muốn gây lộn vôi chúng tôi thì đám người Digan hãy coi chừng. Ôi! giá như Moriss và Seward có mặt ở đây với chúng tôi thì hay biết bao? Nhưng dù sao chúng tôi cũng phải biết hy vọng. Và nếu như anh không còn dịp nào để viết nữa, thì Mina ơi, anh xin được vĩnh biệt em! Chúa sẽ ban phước lành và che chở cho em!
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 5 tháng 11
Ánh bình minh giúp chúng tôi nhận ra đám người Digan đang hối hạ rời xa dòng sông cùng với một chiếc xe kéo. Tuyết rơi nhẹ và không khí bỗng có sức kích động đến lạ kỳ. Có thể chỉ là cảm giác chủ quan, nhưng sự nhụt chí của chúng tôi dường như lại bắt nguồn từ một cái gì đó không bình thường. Tôi nghe rõ những tiếng hú dài thê thảm của bầy sói vọng tới từ một nơi xa xa, tuyết rơi đầy đang xua chúng chạy giạt xuống núi để đe dọa chúng tôi từ mọi phía. Bầy ngựa đã sẵn sàng cùng chúng tôi dấn thân vào một chặng đường đầy trắc trở. Và ở cuối chặng đường ấy, có thể sẽ có người trong chúng tôi phải nằm lại mãi mãi. Chúa mới biết người đó là ai, ở đâu, khi nào và như thế nào...
Ghi chép của Van Helsing
Ngày 5 tháng 11, buổi chiều
Ít nhất thì tôi cũng còn lành lặn và phải cám ơn Chúa, cho dù sự thực diễn ra trước mắt thực là khủng khiếp. Để Mina ngủ yên trong Vòng tròn thiêng, tôi lò dò tiến về phía lâu đài. Lúc tới Veresti, tôi đã mua một chiếc búa rèn và quẳng vào trong xe. Tôi vừa đặt chân đến lâu đài.
Mọi cánh cửa đều mở, nhưng tôi phải cẩn thận nhấc từng cánh ra khỏi những chiếc bản lề gỉ nhoèn vì sợ có sự cố hoặc âm mưu nào đó sẽ bất ngờ đóng sập chúng lại, chặn lối thoát ra ngoài của tỏi. Tôi học được điều đó qua cái thực tế phũ phàng của Jonathan, Những trang nhật ký cay đắng của anh giúp tôi tìm ra lối đi dẫn đến nhà thờ cổ, nơi tôi biết nhiệm vụ đang chờ đợi mình. Không khí ngột ngạt khiến tôi chống mặt, như thể vừa chui vào một luồng khói lưu huỳnh.
Không hiểu tôi bi ù tai hay tiếng rền hú của bầy sói vọng về từ một nơi xa? Tôi bỗng giật mình lo sợ khi nghĩ tới Mina: tôi đang rơi vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Tôi không dám dẫn cô cùng tới đây vì nghĩ Vòng tròn thiêng sẽ giúp cô khỏi rởi vào nanh vuốt của ma cà rồng. Nhưng còn bầy sói? Tôi quả quyết rằng nhiệm vụ của mình phải ở đây, trong tòa lâu đài u tối này; còn lũ sói, chúng tôi sẽ phải gánh chịu nếu đó là ý Chúa? Dù theo cách nào thì cũng phải chọn giữa cái chết và sự tự do, và tôi là người lựa chọn cho người bạn trẻ của mình. Còn với bản thân, tôi thấy chẳng có gì là khó khăn cả: nơi chui rúc của ma cà rồng đối với tôi còn tệ hơn là mõm chó sói. Vì vậy, tôi vẫn tiếp tục công việc của mình.
Tôi biết mình phải phát hiện ra ít nhất là ba nấm mồ - ba nấm mồ có người nằm. Vì thế, nhiệm vụ đầu tiên là phải xục xạo, xục xạo, cho tới khi phát hiện ra một... ả đang nằm ườn trong giấc ngủ của ma cà rồng, thân xác tràn đầy nhựa sống và toát lên một vẻ đẹp nhục dục khiến tôi rùng mình như tưởng mình sắp phạm tội đến nơi. Thế đấy! Tôi dám chắc rằng nếu rơi vào tình cảnh như tôi, thế nào cũng có kẻ rạo rực trong lòng để rồi đánh mất cả lý chí của một người đàn ông. Anh ta sẽ chần chừ, chần chừ, chần chừ cho tới khi bị cái sắc đẹp quyến rũ đầy ma lực của ả đàn bà kia hút hết hồn; rồi anh ta sẽ đờ đẫn, đờ đẫn, đờ đẫn cho tới khi ông mặt trời chìm vào giấc ngủ và thế là bóng ma tỉnh đậy. Người đàn bà trẻ đẹp sẽ mở to đôi mắt chan chứa khát vọng yêu đương, đôi môi mọng đỏ nhục dục sẻ đặt vào đâu đó trên cơ thể anh ta một nụ hôn đê mê, và thế là gã đàn ông trong anh ta sẽ biến mất dần. Vậy là thêm một nạn nhân trở thành kẻ đồng lõa của quỷ dữ, thêm một kẻ trong đội quân hắc ám đáng sợ của những kẻ không chết!...
Vâng, tôi như bị mê hoặc bởi những người đàn bà đang nằm dài trong một ngôi mộ bị ổ bẩn bởi bụi thời gian nhiều thế kỷ, bất chấp cái mùi xú uế tỏa ra từ khắp mọi nơi trong sào huyệt của lão bá tước. Vâng, tôi, Van Helsing, đang bị kích thích hưng phấn, mặc dù đã quyết định ra tay với sự căm thù đang trào lên trong lòng và bị ám ảnh bởi một ham muốn kéo dài hành động của mình, khiến cho mọi khả năng chiến đấu trong lòng hoàn toàn bị tê liệt. Tôi chìm vào một cơn buồn ngủ, mơ màng bởi sự quyến rũ mê hồn của ả đàn bà, nhưng rồi lại giật mình choàng tỉnh bởi một tiếng kêu rên xiết thê lương trong bầu không khí tĩnh lặng như một hồi kèn đưa đám. Tiếng kêu ấy chính là của Mina. Tôi gồng mình kết thúc nhiệm vụ tìm kiếm đầu tiên của mình. Trong lúc vần mấy tảng đá sang một bên, tôi phát hiện ra ả đàn bà thứ hai, cũng có mái tóc sẫm màu như ả đầu tiên. Tôi không đám chần chừ đứng ngắm vì sợ cái cảm giác nao lòng nhụt chí hồi nãy. Cuộc tìm kiếm được tiếp tục cho tới khi tôi tìm ra dưới một ngôi mộ rộng, cao, dường như được dành cho một kẻ rất được lão bá tước yêu quý - đó chính là ả đàn bà tóc vàng mà tôi, sau Jonathan, đã có lần được gặp tận mắt trong màn sương mù. Trông ả đẹp, hấp dẫn và gợi dục đến nỗi bản năng sâu thẳm của thằng đàn ông đã khơi dậy trong tôi một tình cảm muốn bảo vệ cho một người khác giới tính và một cảm xúc thật khó tả. Nhưng ơn Chúa, tiếng kêu tựa hồ như sự đau đớn của Mina còn vẳng mãi bên tai tôi và trước khi bị cái bùa ngải sắc đẹp của ả đàn bà kia làm u mê đờ đẫn, tôi đã kịp hoàn hồn để thực hiện cái công việc ghê gớm của mình. Tôi có cảm giác mình đã tìm hết các ngôi mộ trong nhà thờ cổ và có lẽ chẳng còn một chỗ nào như vậy nữa. Nhưng không, vẫn còn một ngôi mộ nữa, lớn hơn, uy nghi và có vẻ quý tộc hơn những ngôi mộ tôi đã gặp trước đó, được khắc gọn lỏn một cái tên :
DRACULA
Đó chính là nơi cuối cùng Vua - Ma cà rồng che giấu cái sự bất tử của lão.
Sự trống rỗng bên trong ngôi mộ chứng giám điều tôi đã biết. Trước khi bắt tay vào việc đưa những ả đàn bà kia về với cái tôi quá cố của chúng, tôi cẩn thận đặt vào trong ngôi mộ của Dracula những mẩu Bánh Thánh để vĩnh viễn đẩy lão ra khỏi chốn an toàn này. Tôi phải bắt đầu cái nhiệm vụ khủng khiếp như vậy trước khi rút lui. Nếu chỉ có một cái xác để ra tay thôi thì chẳng có gì khó khăn lắm. Nhưng đằng này lại có tới những ba thây ma! Như vậy, tôi sẽ phải lặp lại từ đầu công việc đến hai lần nữa! Bởi đối với tôi, nếu như công việc hành hình đó thật là đáng sợ khi phải đứng trước Lucy, thì cảm giác sẽ khủng khiếp đến mức nào khi phải đứng trước ba kẻ xa lạ, đã sống qua nhiều thế kỷ, với sức mạnh ngày càng ghê gớm nhờ dòng chảy của thời gian và nhờ đó mà bảo vệ được cuộc đời phi lý của mình?
Thế đấy, anh bạn John ạ? Liệu đó có phải công việc của một tên đồ tể không nhỉ? Nếu không cương quyết nhờ ý nghĩ về một cái chết đích thực, và một cuộc đời bị đặt trong một gọng kìm khủng khiếp như vậy, thì có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ đám đi tới cùng. Tôi vẫn còn run, nhưng cho tới khi kết thúc toàn bộ công việc, cầu Chúa hãy cho tôi trở lại với chính mình! Tôi trở lại với ả đàn bà đầu tiên và chợt có cảm giác vừa được chứng kiến sự mãn nguyện vừa thoáng hiện trên nét mặt ả ngay trước lúc được siêu thoát, như muốn thừa nhận rằng linh hồn ả đã hoàn toàn bị chinh phục: nếu không có cảm giác như vậy, chắc chắn tôi chẳng dám làm cái công việc của một tên đồ tể. Tôi không thể chịu đựng nổi cái âm thanh dựng tóc gáy khi đóng ngập mũi cọc vào thân xác người con gái. Tôi khiếp sợ đến nỗi bỏ dở cả công việc. Nhưng cuối cùng thì mọi chuyện cũng kết thúc! Bây giờ thì tôi đã có thể khóc than cho những tâm hồn khốn nạn kia, những kẻ đã có thể an lành trong giấc ngủ mãn nguyện của một cái chết thật sự, cho dù cái khoảnh khắc an lành ấy chỉ kịp thoảng qua trước mặt tôi trong tích tắc trước khi biến thành cát bụi để trở về với quá khứ, tưởng như những cái chết bị kìm hãm bao thế kỷ nay cuối cùng cũng khẳng định được cái quyền chính đáng của chúng mà nói to lên ràng: “tôi đây”.
Trước khi rời khỏi lâu đài, tôi phải đảm bảo phong tỏa bằng hết các lối đi để lão bá tước không bao giờ vào mà bất tử được nữa.
Một lát sau khi tôi trở về Vòng tròn thiêng, nơi Mina đang chìm trong giấc ngủ, cô chợt bừng tỉnh nhìn tôi.
- Lại đây đi, - Cô bảo tôi, giọng đau đớn khiến tôi không thể cầm lòng - chúng ta sẽ cùng nhau rời khỏi cái nơi đáng sợ này. Cần phải tới gặp nhà tôi. Tôi biết anh ấy đang hướng về phía chúng ta mà.
Trông cô gầy rộc, nước da xanh mét, tiều tụy hẳn đi, chỉ còn đôi mắt là vẫn trong sáng long lanh. Tôi cảm thấy vui khi nhận ra cái xanh xao và nỗi ưu phiền của cô, bởi chỉ mới đây thôi, tôi còn bị ám ảnh bởi nỗi ghê sợ giấc ngủ li bì của ma cà rồng trong cô.
Vậy là trong tâm trạng ngập tràn niềm tin và hy vọng, nhưng cũng không kém phần lo lắng, chúng tôi cùng nhau đi về phía đông để tìm gặp những người bạn của mình và cả anh ấy, người sẽ tới gặp chúng tôi theo như Mina đã khẳng định.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 6 tháng 11
Buổi chiều tàn dần khi tôi và Van Helsing cùng nhau đi về phía đông, nơi tôi biết Jonathan cũng đang đi ngược lại phía chúng tôi.
Chúng tôi không thể đi nhanh, mặc dù đang bước xuống dốc đồi, bởi chúng tôi còn phải mang theo những chiếc áo lông khá cồng kềnh đề phòng cái lạnh và tuyết rơi khi phải nghỉ lại dọc đường. Chúng tôi cũng phải gùi theo một phần đồ dự trữ. Quả thực là chúng tôi đang rơi vào tình trạng đơn độc và trong chừng mực còn sức xuyên qua bức màn tuyết, có lẽ chúng tôi sẽ khó có thể tìm được một chỗ trú ẩn. Chưa đi nổi một dặm, tôi đã buộc phải ngồi phệt xuống đất nghỉ vì đôi chân mỏi rã rời. Phía sau chúng tôi, lâu đài Dracula đang vạch nên những đường nét trắng toát trên chân trời. Chúng tôi đã xuống được một quãng dài mà dường như ngọn đồi mang tòa lâu đài vẫn sừng sững che gần hết rặng Carpates hoang vu lạnh lẽo. Chỉ đến lúc này chúng tôi mới lại để ý tới những tiếng hú dài thê thảm của bầy sói vọng đến từ phía xa xa. Chúng còn ở xa lắm, nhưng những tiếng hú man rợ kia, dù đã bị những bông tuyết rơi rơi chi chít chặn bớt lại, vẫn vọng đến như muốn hăm dọa những kẻ bộ hành đơn chiếc trên đường dài. Nhìn giáo sư Van Helsing vừa đi vừa ngó nghiêng, tôi hiểu ông đang định tìm kiếm một điểm trú ẩn nào đó có thể giúp chúng tôi ít bị phơi lưng ra nhất trước một cuộc tấn công. Chúng tôi vẫn nhận ra con đường gập ghềnh chạy dài hút tầm mắt, dù dưới kia tuyết đã rơi đầy.
Được một lúc, giáo sư ra hiệu cho tôi đứng dậy bước lại chỗ ông. Ông vừa tìm được một chỗ khá lý tưởng, một hang đá có lối vào giống như một tiền sảnh nằm giữa hai đầu mút hang. Ông đưa tay kéo tôi vào.
- Thử nhìn xem, có thể ở đây bà sẽ được an toàn đấy. - Ông bảo. - Nếu đàn sói mò đến, tôi hoàn toàn có thể hạ từng con một cho bà xem.
Rồi ông quay ra lấy mấy chiếc áo lông thú mang vào dọn cho tôi một cái ổ khá gọn, vừa đủ cho tôi nằm và lấy lương khô ép tôi phải ăn. Nhưng nào tôi có ăn được. Tôi thực chẳng còn thiết gì ngoài việc ngồi thở một lúc cho lại hơi, dù rất muốn làm ông hài lòng. Ông có vẻ buồn nhưng không nỡ trách tôi nửa lời.
Tôi thấy ông lẳng lặng ra đứng trên một mỏm đá, rút ống nhòm nhìn về phía chân trời. Bỗng nhiên, ông reo lên gọi tôi :
- Nhìn kìa, bà Mina? Ra đây mà xem này?
Tôi đứng bật dậy, vội vàng bước lại gần ông và cầm lấy chiếc ống nhòm ông vừa đưa cho. Những bông tuyết bắt đầu rơi dày đặc và quay cuồng rối tung bởi những ngọn gió rét mướt đang ào ạt thổi tới. Tuy nhiên, thỉnh thoảng những trận cường phong lại ngừng thổi để lại cho tôi một tầm nhìn khá xa. Từ mỏm đá đang đứng, tôi thấy chân trời rộng mở trước mắt. Tôi có thể nhận ra phía xa xa, bên kia bình nguyên tuyết dày đặc, là một dòng sông chảy dài uốn lượn như một dải lụa mềm. Không xa lắm trước mặt chúng tôi - thực ra là rất gần, gần đến nỗi chúng tôi phải ngạc nhiên khi không nhận ra sớm hơn - là một đám người đang cắm đầu cưỡi ngựa leo đốc. Giữa đám người là một chiếc xe dài, thỉnh thoảng lại chúi về phía trước giống như một con chó bị người ta thúc vào đít mỗi lần đi chệch đường. Nhóm người này hiện rõ trên thảm tuyết trắng, đến nỗi tôi nhận ngay ra đó là những nông dân, hoặc những người Bôhêm, nhờ kiểu trang phục khoác trên người họ.
Trên xe chở một chiếc hòm lớn hình khối chữ nhật. Tim tôi như trực nhảy khỏi lồng ngực, bởi cảnh trước mặt làm tôi nghĩ đến đoạn kết của một câu chuyện ma quái liên quan đến chính cuộc đời mình. Chẳng mấy chốc một ngày nữa sẽ lại qua đi, và tôi thừa hiểu rằng ngay sau lúc mặt trời lặn, cái giống đang nằm trong chiếc hòm kia sẽ được đi lại tự do trong một cái lốt phù hợp nào đó để lẩn trốn mọi cuộc săn đuổi. Lo sợ trong lòng, tôi quay lại nhìn giáo sư, nhưng không hiểu ông đã biến đi đâu từ lúc nào, khiến tôi sợ hết vía. Lát sau mới thấy ông trở lại dưới chân tôi, tay rắc những mẩu bánh thánh thành một vòng tròn an toàn xung quanh mỏm đá, giống như vòng tròn đã bảo vệ chúng tôi đêm qua.
Xong việc, ông leo lên ngồi gần tôi và bảo :
- Ít nhất thì ở đây bà cũng chẳng sợ gì lão.
Ông cảm lại ống nhòm nhìn về phía chân trời trước mặt :
- Xem kìa, hối hả quá nhỉ, chúng đang thúc ngựa chạy hết khả năng.
Ông lặng im một hồi rồi tiếp tục bằng một giọng trầm ngâm :
- Chúng đang đua tốc độ với mặt trời... Có lẽ chúng ta đã đến quá muộn! Mong sao ý Chúa trở thành hiện thực?
Một trận cuồng phong nữa bất thần ập đến, xóa nhòa đi tất cả nhưng sự việc này chỉ diễn ra trong một thời gian rất ngắn. Khi bầu trời êm dịu trở lại, cặp ống nhòm trên tay giáo sư được chĩa xuống phía bình nguyên. Ông chợt reo lên :
- Xem kìa! Nhìn dưới kia mà xem! Có hai kỵ sĩ đang từ phía nam tức tốc đuổi theo. Chắc chắn là Quincey và John rồi. Bà cầm lấy ống nhòm mà xem, nhanh lên, nếu không trời lại nổi cuồng phong bây giờ.
Tôi cầm ống nhòm. Quả thực, hai người đàn ông kia hẳn phải là bác sĩ Seward và anh chàng Quincey Moriss. Tôi tin là như vậy, bởi không có ai trong hai người mang bóng dáng quen thuộc của Jonathan. Nhưng tôi cũng biết Jonathan không còn xa chúng tôi là mấy. Tôi nhận thấy cách điểm hai kỵ sĩ kia đang đi một chút về phía Bắc, có hai bóng người đàn ông khác cũng đang hối hả thúc ngựa phi nước đại. Tôi nhận ngay ra Jonathan và đương nhiên người còn lại là huân tước Godalming. Họ cũng đang bám đuổi theo chiếc xe và đoàn người hộ tống. Nghe tôi thuật lại, Van Helsing reo to “hoan hô” hồn nhiên như một cậu bé học trò và sau khi chăm chú quan sát về phía trước cho đến khi bị một trận gió tuyết mới che khuất tầm mắt, ông cầm khẩu Winchester sẵn sàng chiến đấu.
- Tất cả đang tiến về cùng một điểm. - Ông nói. - Sẽ đến lúc chúng ta bao vây bọn người Bôhêm kia.
Tôi cũng quờ tìm khẩu súng, bởi trong lúc chúng tôi nói chuyện, tiếng hú của bầy sói đã gần hơn và rùng rợn hơn nhiều. Thêm một lần lặng gió nữa giúp chúng tôi nhìn rõ hơn. Trước mắt chúng tôi là một khung cảnh kỳ diệu và huyền bí, những bông tuyết nặng nề rơi rất đỗi gần chúng tôi trong khi ông mặt trời đang tỏa những tia sáng cuối ngày và lặn dần xuống những đỉnh núi xa xa. Cầm ống nhóm lia qua lia lại về phía chân trời, tôi nhận ra đó đây là những nhóm hai, ba chấm đen, hoặc nhiều hơn, đang chuyển động trên thảm tuyết trắng: đó chính là đàn sói đói đang lao tới tranh giành những con mồi xa lạ.
Mỗi phút chờ đợi đối với chúng tôi chẳng khác nào một thế kỷ. Gió lạnh gầm rít thổi thành những trận cuồng phong dữ dội, giận dữ xua đuổi những bông tuyết bay ào ạt và chất chứa thành những dải băng bán nguyệt kế tiếp nhau. Thỉnh thoảng chúng tôi còn không nhận ra chính cánh tay đang duỗi thẳng của mình; nhưng mỗi khi trời tạnh gió, chúng tôi lại được dịp phóng tầm mắt ra thật xa. Từ rất lâu rồi chúng tôi đã có thói quen quan sát chú ý những thời khắc mặt trời mọc và lặn. Và lần này cũng vậy, mặt trời sẽ lặn mất hút sau rặng núi chỉ trong chốc lát nữa. Không có đồng hồ, chúng tôi chẳng dám tin mình đã đứng chờ ba nhóm người kia gần một tiếng rồi. Gió bắc vẫn thổi mỗi lúc một dữ dội và cấp tập hơn. Nhưng dường như sau những cơn lốc ngắn, tuyết lại thôi rơi và nếu có thì cũng bạt ra rất xa chúng tôi. Bây giờ thì chúng tôi đã có thể nhận điện rất rõ từng thành viên của mỗi nhóm, những kẻ săn đuổi và bị săn đuổi.
Hình như đám người Bôhêm không nhận ra có kẻ đang tức tốc bám đuổi theo mình, hoặc ít nhất là không hề quan tâm đến điều đó. Tuy nhiên, chúng vẫn hối hả phi tới phía trước khi ánh mặt trời đang chìm dần xuống các ngọn núi.
Trong lúc đoàn người tiến lại gần, tôi và giáo sư Van Helsing lui vào náu mình sau mỏm đá, vũ khí vẫn sẵn sàng trên tay. Rõ ràng ông không muốn để họ đi qua mặt. Có vẻ như không có tên nào nghi ngờ gì về sự có mặt của chúng tôi.
Chợt có giọng hai người cùng thét lên: “Đứng lại?” Tôi nhận ra tiếng của Jonathan, anh hét lạc cả giọng vì một cảm xúc khó tả. Giọng còn lại, cương quyết và bình tĩnh hơn, chính là của Quincey Moriss. Mặc dù không hiểu hai người nói gì, đoàn người Bôhêm vẫn không thể nhầm lẫn cảm xúc hàm chứa trong giọng nói của họ, cho dù đó là một thứ ngôn ngữ xa lạ. Chúng lập tức ghìm cương theo bản năng. Ngay lúc đó, huân tước Godalming và Jonathan phóng ngựa tới áp sát một bên, phía còn lại là bác sĩ Seward và Moriss. Thủ lĩnh đám người Digan, một thanh niên đẹp lộng lẫy cưỡi một con ngựa thuộc dòng nhân mã, lừ mắt ra hiệu cho những người bạn tôi lùi lại và tức giận ra lệnh cho đám tùy tùng tiếp tục tiến bước. Chúng chùng cương, thúc ngựa chồm về phía trước. Bốn người đàn ông lập tức đặt tay vào cò súng - một hành động mà không ai có thể hiểu khác ý định của họ - ra lệnh cho đám người Digan dừng lại.
Cùng lúc đó, tôi và Van Helsing bước ra tử sau mỏm đá, tay lăm lăm vũ khí.
Thấy mình bị bao vây, toán người Digan lại ghìm cương bắt ngựa dừng lại. Tay thủ lĩnh nói một câu gì đó tôi không hiểu, chỉ biết rằng đám người tùy tùng cùng lúc cầm lấy vũ khí, chỉ toàn là dao và súng lục, để chuẩn bị giao chiến. Có vẻ như kết cục sẽ chỉ diễn ra trong vòng vài phút.
Tay thủ lĩnh giật dây cương thúc ngựa tách ra khỏi nhóm và tiến lên đầu chỉ tay về phía mặt trời - đang xuống rất gần các đỉnh núi - và tòa lâu đài rồi nói một câu gì đó. Đáp lại, từng người trong nhóm bốn đồng minh của chúng tôi lập tức nhảy xuống ngựa và lao về phía chiếc xe. Lẽ ra, nhìn thấy Jonathan lao vào vòng nguy hiểm, người tôi phải sợ run lên bần bật, nhưng cái gay cấn của một cuộc chiến đã làm cho tôi và các bạn tôi quên đi tất cả. Tôi không hề tỏ ra sợ hãi, mà chỉ có một mong muốn man dại, ấy là dược chiến đấu Trước hành động bất ngờ của chúng tôi, tay thủ lĩnh lại quát lên ra lệnh một lần nữa. Đám người Bôhêm lập tức hùa nhau bao vây quanh chiếc xe thành một vòng tròn hỗn độn.
Trong cái cảnh lộn xộn đó, tôi thấy Jonathan một bên, Quincey ở bên kia, cùng lao thục mạng mở một đường vào chiếc xe. Họ cần phải tiếp cận bằng được chiếc xe để kết thúc nhiệm vụ của mình trước khi mặt trời lặn. Dường như chẳng có gì có thể ngăn cản được hai người trong lúc này. Tiếng gươm đao khua chát chúa với những ánh chớp loang loáng, rồi tiếng tru hú man rợ của bầy sói đang đến gần dường như chẳng làm họ quan tâm. Sự dũng mãnh và quyết tâm không gì đảo ngược được của Jonathan rõ ràng đã làm nhụt trí những kẻ đang đứng chặn đầu anh, chúng bắt đầu giạt sang hai bên bỏ ngỏ một lối vào cho anh. Chỉ cần một tích tắc thôi cũng đủ để anh nhảy lên chiếc xe và quẳng chiếc hòm đất xuống đất bằng tất cả sức mạnh và sự điên cuồng. Cùng lúc đó, Moriss cũng dũng cảm mở lối đi cho mình. Trong hơi thở thổn thức gián đoạn, tôi đưa mắt dõi theo Jonathan, nhưng tiếng thét tuyệt vọng của Moriss đã làm tôi giật mình thảng thốt: những lưỡi dao sáng loáng của đám người Digan liên tục vung lên như một màn lưới thép biết bay nhảy xung quanh anh và thanh đoản kiếm của anh. Lúc đầu tôi cứ nghĩ sẽ chẳng có vấn đề gì, nhưng khi anh lao về phía Jonathan - người vừa nhảy từ trên xe xuống - tôi mới chợt nhận ra bàn tay trái anh đang ôm chặt vào mạng sườn để vô ích che đi một dòng máu đang rỉ ra các kẽ ngón tay. Mặc dù vậy, với một sức mạnh của một kẻ đang rơi vào tuyệt vọng, anh vẫn quên mình lao vào dùng dao cậy một bên nắp hòm gỗ cùng lúc với Jonathan ở phía bên kia. Nỗ lực của hai người đàn ông đã buộc chiếc nắp hòm phải dần dần chịu nhượng bộ, những chiếc đinh bị nhổ bật kêu ken két và cuối cùng, chiếc nắp gỗ bị quẳng mạnh xuống đất.
Nhìn những họng súng đang lăm lăm chĩa về phía mình, phó mặc tính mạng cho huân tước Godalming và bác sĩ Seward, đám người Bôhêm đều khựng cả lại, không tên nào dám động thủ chống cự. Mặt trời bắt đầu khuất núi nhường chổ cho bóng tối bao trùm dần lên thế gian phủ đầy tuyết trắng. Tôi được tận mắt chứng kiến lão bá tước đang nằm dài trên lớp đất bẩn thỉu trong chiếc hòm gỗ định mệnh, dưới những mạt mùn gỗ bị tróc lở từ lúc chiếc hòm bi quẳng từ trên xe xuống đất. Trông lão xanh nhợt như một tàu lá, đúng hơn là một xác người bằng sáp. Hai mắt lão mở trợn ngược hằn rõ một sự thù hận đáng sợ.
Lúc tôi nhìn thấy lão cũng là lúc hai mắt lão ánh lên vẻ đắc thắng khi thoáng nhận ra ánh hoàng hôn muộn mằn. Nhưng cũng chính khoảnh khắc đó, lưỡi dao của Jonathan đã kịp vung lên như một tia chớp loang loáng. Tôi thảng thốt kêu lên một tiếng khi nhận ra nhát dao ấy vừa chặt đứt cái cổ ngẳng của lão. Cũng lúc ấy, mũi đoản kiếm của Quincey Moriss cũng kịp đâm một nhát vào giữa tim lão già khốn kiếp.
Như một cảnh tượng kỳ diệu, vâng, ngay trước mắt chúng tôi, khi mọi người chỉ vừa kịp trút một tiếng thở phào, toàn thân lão bá tước bỗng biến thành những lớp mụi mờ và tiêu tán rất nhanh.
Trong tôi bắt đầu trào dâng một niềm vui khôn tả vào cái khoảnh khắc kỳ diệu ấy, đúng hơn là một cảm giác thanh bình, êm ái chưa từng có lan tỏa dần dần trên khắp gương mặt tôi.
Lúc này, lâu đài Dracula sừng sững đứng giữa một nền đỏ thẫm của chân trời hoàng hôn.
Được tận mắt chứng kiến chúng tôi là nguyên nhân dẫn đến một kết cục kỳ lạ của kẻ nằm trong hòm, đám người Bôhêm lập tức giật cương thúc ngựa quay ngược trở lại, chẳng tên nào nói với tên nào nửa lời, cứ như thể cả cuộc đời của chúng chỉ phụ thuộc vào cái thây ma đó vậy. Những tên không kịp nhảy ngựa vội vàng nhảy lên chiếc xe và gọi với theo những tên phi trước đừng bỏ rơi mình. Bầy sói cũng lặng lẽ rút lui theo con đường cũ, để lại chúng tôi một mình giữa một thế giới tĩnh mịch đến lạ thường...
Quincey Moriss ngã khuỵu xuống, khuỷu tay chống đất, bàn tay vẫn ôm chặt vết thương còn rỉ máu. Tôi bàng hoàng chạy tới, bởi lúc này Vòng tròn thiêng đã không còn giữ được tôi nữa. Hai bác sĩ cũng vội vàng lao tới bên anh.
Jonathan quỳ xuống đỡ vội người bạn. Chàng trai quờ nắm lấy bàn tay tôi trong hơi thở yếu ớt. Nét mặt tôi hẳn phải lộ rõ sự lo âu tột độ vì tôi thấy anh mỉm cười và nói vôi mình :
- Tôi cảm thấy rất vinh hạnh vì đã làm được một điều gì đó. Ôi! Chúa ơi, - Anh thốt lên và chợt dựng người dậy chỉ vào tôi - cho dù tôi có phải chết cũng không có gì phải hối tiếc! Xem kìa, mọi người nhìn xem kìa?
Ánh hoàng hôn hắt những những sáng cuối cùng khiến gương mặt ánh lên như một chùm hào quang. Tất cả những người bạn của tôi cùng xụp xuống và thất lên amen khi nhìn theo ngón tay anh chỉ. Anh thều thào :
- Chúa đã ban phước lành cho chúng ta: vậy là tất cả đã không vô ích! Mọi người cứ nhìn mà xem, đến những bông tuyết cũng chẳng thể tinh khiết hơn vầng trán của cô ấy. Vậy là lời nguyền đã được xóa bỏ rồi.
Anh ra đi trong niềm thương yêu và đau đớn mênh mông của chúng tôi: trên môi anh, một chàng trai hào hoa, còn in mãi một nụ cười lặng lẽ.
Ghi chép
Vậy là đã bảy năm trôi qua kể từ ngày chúng tôi thoát khỏi những cơn ác mộng ấy. Chúng tôi là những người được hưởng hạnh phúc bằng cái giá. của những đau đớn trong chính cuộc đời mình. Việc con trai chúng tôi được sinh ra đúng vào ngày giỗ của Quincey Moriss càng mang lại niềm vui cho Mina và tôi.
Tôi biết, cô đã giữ trong lòng trọn một niềm tin thầm kín mà một nét nào đó về người bạn anh hùng của đã được thổi vào đứa con của chúng tôi. Cậu bé được chúng tôi đặt cho những cái tên của tất cả các thành viên trong nhóm bạn mình, nhưng Quincey vẫn là cái tên được chúng tôi gọi nhiều nhất.
Mùa hè năm ngoái, trên đường trở lại thăm Transylvanie, chúng tôi đã trở lại vùng đất mang đầy những kỷ niệm khủng khiếp không thể nào phai trong ký ức mỗi người. Chúng tôi không thể tin những điều mắt thấy tai nghe một thời vẫn còn sống động đến thế, dù mọi dấu vết đều đã bị xóa sạch. Tất cả chỉ còn lại tòa lâu đài đứng uy nghi, trầm mặc, lẻ loi một mình trên một đỉnh đồi gió hú.
Chúng tôi nhắc lại chuyện xưa mà lòng không khỏi bùi ngùi xúc động, vì huân tước Godalming và bác sĩ Seward đều đã lấy vợ và có một cuộc sống thật hạnh phúc. Tôi mở lại số giấy tờ cất trong hòm sắt sau lần trở về đầu tiên, từ lâu lắm rồi. Có điều lạ là trong số toàn bộ giấy má làm nên hồ sơ câu chuyện này, sẽ rất khó nếu phải tìm ra một phần xác thực: tất cả chỉ còn những bản đánh máy, trừ những trang nhật ký cuối cùng của tôi, Mina, Seward và mấy dòng ghi chép của giáo sư Van Helsing. Nói vậy thôi, chứ làm sao chúng tôi có thể bắt người khác phải thừa nhận số tờ giấy này như một bằng chứng về một câu chuyện bi thương và huyền ảo bây giờ? Có một lần Van Helsing ôm con trai chúng tôi vào lòng và nói mấy câu thật ngắn gọn :
- Bằng chứng? Chúng ta chẳng cần ai phải tin mình. Điều quan trọng là sẽ có ngày cậu nhóc này hiểu mẹ nó là một phụ nữ dũng cảm như thế nào. Bây giờ nó đã biết cô ấy là một người mẹ thu hiền và giàu tình thương yêu. Rồi sau này nó cũng sẽ biết rằng đã có những người đàn ông thực sự thương yêu nó, và đã dám làm tất cả cho ngày chào đời của nó.
Jonathan.
HẾT