Khi chúng tôi ra khỏi khu phố trở về San Pedro, Milo bật đèn và xem khuôn mặt xác định ban nãy.
Tôi hỏi:
- Có đáng tin cậy không?
- Không đáng tin lắm. Nhưng dù sao khi mọi điều còn chưa chắc chắn thì nó cũng có ích.
Tôi dừng lại ở chỗ đèn đỏ và liếc nhìn miếng hình ghép:
- Không được rõ lắm.
- Đúng.
- Đó có thể là Huenengarth, ngoại trừ bộ râu.
- Vậy sao?
- Huenengarth trẻ hơn người mà anh ta miêu tả, khoảng ba mươi thôi và mặt đầy đặn hơn. Nhưng anh ta béo và nét mặt cũng giống như vậy. Ria mép anh ta có thể rậm hơn từ tháng Ba đến giờ và cũng khó có thể nhận ra anh ta từ xa. Và anh ta có vẻ là một gã tội phạm cũ.
Đèn xanh và tôi rẽ vào đường về nhà.
Milo cười một mình.
- Có gì vậy? - Tôi hỏi.
- Không có gì, tôi chỉ đang suy nghĩ thôi. Nếu như giả thuyết về có kẻ đã giết chết Herbert là đúng thì rắc rối của chúng ta mới chỉ bắt đầu thôi. Tôi sẽ phải đi lấy tài liệu về cô ta, phải dẫm chân vào lãnh thổ của Trung ương, rồi phải bảo vệ Gabray và bản thân tôi không đủ thẩm quyền để ra lệnh. Tôi quả là một nhân viên đáng nguyền rủa.
- Điều tra một vụ giết người không gây ấn tượng được với Sở cảnh sát hay sao?
- Không bằng sự phục tùng, nhưng khỉ gió, tôi nghĩ là tôi có thể làm được gì đó trong vụ này. Tôi sẽ đến gặp Gomez và Wicker, đút lót cho họ thứ gì đó vậy, phải làm cho họ thấy được vinh quang và một nửa cái huy chương vàng mới được. Có thể trong quá trình điều tra ta phải đặt Gabray vào vòng nguy hiểm. Thằng cha này cũng không hẳn là vô tội đâu. Phải xoay cho y ra bã mới được. Nếu những thông tin y đưa là thật thì y sẽ được yên.
Milo đặt hộp đựng ảnh xuống sàn xe:
- Nghe tôi nói chuyện cứ như một chính khách đáng nguyền rủa ấy nhỉ?
Đường chúng tôi trở về vắng tanh không một bóng xe cộ qua lại.
Chúng tôi về đến nhà đồng hồ đã điểm hơn ba giờ sáng. Milo lái chiếc Porsche về còn tôi nhẹ nhàng lên giường, cố gắng không để Robin thức giấc nhưng nàng vẫn tỉnh và lần tìm tay tôi. Chúng tôi cầm tay nhau và cùng ngủ.
Robin thức dậy, ra khỏi nhà trước tôi, không quên chuẩn bị cho tôi ổ bánh mỳ và ly trái cây vắt.
Trong khi ăn sáng, tôi chuẩn bị những công việc trong ngày của mình.
Buổi sáng nói chuyện điện thoại.
Buổi chiều đến nhà Jones.
Nhưng chuông điện thoại reo trước khi tôi hoàn thành kế hoạch của mình. Đó là Lou Cestare gọi.
- Chào Alex, anh đang đầu tư kinh doanh ngân hàng đó à?
- Chưa, thế chuyến đi du sơn của ông ra sao?
- Một chuyến du sơn thật dài. Tôi cứ nghĩ thằng bé nhà tôi sẽ mệt nhưng không phải vậy. Tại sao anh muốn tìm hiểu về Chuck Jones?
- Ông ta là Chủ tịch bệnh viện nơi tôi từng làm việc. Ông ta cũng quản lý danh mục vốn đầu tư của bệnh viện. Tôi rất thích vị trí này nhưng vấn đề tài chính của bệnh viện không được xuôi chèo mát mái. Đã có tin đồn Jones muốn phá quấy ban đó để giải tán nó nhằm chiếm dụng đất.
- Nghe không có vẻ gì là kiểu người của ông ta.
- Ông biết ông ta à?
- Tôi có gặp ông ta vài lần trong khi dự tiệc. Chúng tôi chỉ chào hỏi qua loa. Ông ta chắc là không nhớ tôi, nhưng tôi thì nhớ phong cách con người ông ta.
- Đó là gì?
- Kiểu người muốn xây dựng chứ không muốn phá bỏ mọi thứ. Ông ta là một trong những người quản lý tiền giỏi nhất đấy, anh Alex ạ. Ông ta không thèm quan tâm tới những gì người khác làm và chỉ theo đuổi để mua được những công ty với giá rẻ mạt - một con người giỏi đàm phán, một tay đầu óc chứng khoán mà ai cũng mơ có được.
- Làm thế nào mà ông ta lại có được khả năng ấy chứ?
- Ông ta biết cách phân tích và đánh giá tình trạng làm ăn của một công ty. Nghĩa là ông ta biết cách tìm thông tin ngoài những báo cáo hàng quý của doanh nghiệp. Khi đã nhận thấy một cổ phiếu mất giá trị có khả năng sẽ tăng lên thì ông ta lập tức bỏ tiền ra mua và chờ, sau đó bán, rồi lại mua và chờ, cứ như vậy. Thời gian ông ta căn thật hoàn hảo.
- Liệu ông ta có tìm cách moi tin nội bộ không?
- Ồ, mới buổi sáng mà anh đã nghĩ đến điều xấu rồi.
- Vậy là đúng thế rồi.
- Alex này, trong việc kinh doanh thì không có định nghĩa nào được xem là chuẩn mực cả.
- Thôi nào, ông Lou.
- Anh có định nghĩa chuẩn mực nào chăng?
- Có - Tôi nói - Sử dụng những dữ liệu mà người bình thường không có được để đưa ra quyết định có nên bán hay mua.
- Vậy thì nhà đầu tư đãi ngộ một công nhân then chốt của một công ty để biết được công ty đó làm ra sao thì anh gọi là gì? Một người thực sự dành thời gian để nghiên cứu những điểm mạnh yếu của công ty thì sao? Anh gọi đó là tội lỗi hay là sự cặn kẽ?
- Nếu sử dụng tiền để mua chuộc thì tôi xem đó là tội lỗi.
- Gì cơ, chỉ có đãi ngộ ăn uống thôi mà? Có khác gì một phóng viên chiêu đãi người cung cấp thông tin cho mình đâu? Mà kể cả cảnh sát cũng dùng tiền hay cà phê để khuyến khích nhân chứng nói ra sự thật đó thôi. Tôi không thấy có luật nào cấm việc ăn uống, chiêu đãi nhau giữa các doanh nhân. Về lý thuyết, tất cả mọi người đều có thể làm như thế nếu họ muốn. Không ai để ý cả đâu, Alex ạ. Đó là vấn đề đáng nói đấy. Ngay cả những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp cũng dùng những biểu đồ, thống kê, con số mà doanh nghiệp cung cấp cho họ. Không mấy ai trong số họ đi tìm hiểu thực tế về doanh nghiệp mà mình đang nghiên cứu.
- Tôi cho rằng điều đó còn tuỳ thuộc vào những gì mà nhà đầu tư rút ra được từ việc chiêu đãi và mời rượu.
- Chính xác. Nếu giám đốc một công ty mà lại tiết lộ thông tin ai đó chuẩn bị mua một lượng lớn cổ phiếu vào ngày này hoặc ngày khác thì điều đó là bất hợp pháp. Nhưng cũng chính người đó nói rằng công ty đang trong tình trạng tài chính tồi tệ cần phải được sáp nhập thì điều đó lại là hợp lệ. Sự khác biệt ở đây rất mong manh, anh hiểu ý tôi muốn nói gì không? Chuck Jones chỉ làm công việc thông thường thôi. Ông ta quả là tay lì lợm.
- Tiểu sử ông ta thế nào?
- Tôi không nghĩ ông ta từng bước chân đến trường đại học. Chúng ta đang nói chuyện làm ăn. Tôi nghĩ ông ta đã từng chăn ngựa hay làm công việc gì đó tương tự khi còn là một đứa trẻ. Ông ta trở thành người anh hùng vì đã bán đổ bán tháo cổ phiếu trước khi nó hạ giá và chuyển sang đầu tư trái phiếu hay kim loại ngay cả khi ở thời điểm đó giá cổ phiếu của ông ta đang lên. Nếu ai đó biết chuyện họ có thể nghĩ rằng ông ta là lão già lẩm cẩm nhưng khi thị trường đổ bể thì ông ta đã có thể mua lại cổ phiếu và chuẩn bị cho phi vụ làm ăn mới.
- Tại sao không ai biết?
- Ông ta là con người bí mật. Chiến lược của ông ta chủ yếu dựa vào yếu tố này. Ông ta mua bán liên tục tránh những khoản giao dịch lớn và tránh giao dịch qua máy tính. Tôi cũng chỉ mới phát hiện ra điều này mấy tháng trước đây thôi.
- Làm thế nào mà ông phát hiện ra?
- Mọi người thường nhận ra muộn nhưng bọn tôi đã kịp hồi lại được.
- Làm thế nào ông ta lại biết sẽ có đợt tụt giá mạnh?
- Đó là do ông ta có khả năng dự đoán trước. Những tay chơi lão làng thường có được điều này. Đó là sự kết hợp giữa cơ sở dữ liệu khổng lồ và giác quan đặc biệt mà anh chỉ có thể có được khi đã chơi lâu năm. Đôi lúc tôi tưởng mình cũng có khả năng ấy nhưng tôi đã lầm. Nhưng Chuck Jones có đấy. Tôi không nói là ông ta không bao giờ bị thua. Tất cả mọi người đều bị thua nhưng ông ta thắng nhiều hơn thua rất nhiều.
- Hiện tại ông ta đang làm phi vụ gì?
- Tôi không biết, như tôi đã nói đấy, ông ta rất bí mật. Ông ta chỉ đầu tư một mình thôi. Nhưng tôi không nghĩ ông ta đầu tư bất động sản đâu.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì bất động sản đang là thị trường kém sôi động. Tất nhiên là không phải với một người như anh mong muốn tìm được một khoản thu nhập ổn định và mua nhà để dành. Tôi cũng mới rút khỏi thị trường này và chuyển qua cổ phiếu. Nhưng Jones khôn ngoan hơn tôi và ông ta còn rút trước cả tôi nữa cơ.
- Con trai ông ta sở hữu một khu đất rộng ở vùng Thung lũng.
- Ai nói sự khôn ngoan là bản năng di truyền chứ?
- Con trai ông ta là giáo sư trường đại học. Tôi không nghĩ ông ta có thể mua được đến năm mươi lô đất cho chính mình.
- Có thể đó là quỹ tín thác của anh ta - tôi không rõ lắm. Nhưng anh sẽ phải đưa thêm bằng chứng thì tôi mới dám tin Chuck đang đầu tư lớn vào bất động sản. Khu đất của bệnh viện là ở Hollywood có phải không?
- Vài mẫu được mua từ lâu rồi. Bệnh viện đó tồn tại đã được bảy mươi năm và có thể việc thanh toán đã hoàn tất. Vậy thì kể cả khi đất xuống giá thấp đi nữa thì bán vẫn cứ lãi chán.
- Chắc chắn rồi Alex, nhưng đó là về phía bệnh viện, còn động cơ của Jones thì sao?
- Ông ta hưởng hoa hồng từ số tiền bán đất.
- Khu đó có bao nhiêu mẫu và chính xác là ở đâu?
- Khoảng năm mẫu - Tôi nói luôn cho ông ta địa chỉ của Bệnh viện Nhi đồng miền Tây.
- Được rồi, thế thì vào khoảng mười lăm triệu, có thể là hai mươi. Khoảng đất này rất lớn và cần phải chia nhỏ ra thì mới bán được. Vậy là sẽ phải mất thời gian, sẽ phải điều trần, phải xin giấy phép của nhà quản lý, sẽ phải liên quan đến vấn đề môi trường. Phần lớn nhất mà Chuck có thể dành cho mình mà không gây ra tranh cãi là khoảng hai mươi lăm phần trăm - có lẽ mười phần trăm thì đúng hơn. Như vậy cũng có nghĩ là khoảng hai đến năm triệu sẽ rơi vào túi ông ta. Không, tôi không nghĩ là Chuck lại phải cậy cục như vậy để có được số tiền ít ỏi đó đâu.
- Vậy chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ta có thể có ý khác với mảnh đất ấy? Nếu ông ta không chỉ đóng cửa một bệnh viện mà còn mở ra một bệnh viện mới trên phần đất của con trai mình thì sao?
- Có nghĩ là ông ta chuyển qua kinh doanh bệnh viện? Tôi nghi ngờ điều đó Alex ạ. Tôi không có ý chê bai nhưng lĩnh vực y tế cũng là một thị trường tồi. Bệnh viện cũng đang phơi bụng ra đấy thôi.
- Tôi biết, nhưng biết đâu Jones lại nghĩ ông ta có thể làm được tốt việc này, lội ngược dòng một cách ngoạn mục. Ông chẳng đã bảo rằng ông ta không quan tâm tới những việc mà người khác đang làm là gì.
- Tất cả mọi điều đều có thể Alex, nhưng anh phải chứng minh cho tôi điều đó. Do đâu mà anh lại có được những lý lẽ đó?
Tôi kể cho ông ta nghe về phát biểu của Plumb trong bài báo.
- A, một cái tên khác trong danh sách mà anh đưa cho tôi. Tôi chưa bao giờ nghe nói đến anh ta. Vì vậy tôi đã lần tìm trong tất cả các danh bạ mà tôi có. Nhưng tôi nhận thấy anh có xu hướng tìm tới những nhà kinh doanh lớn: anh ta có bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh, học cao học để lên tiến sỹ, từng làm nhiều công việc quản lý bây giờ lại biết kinh doanh, quả thật anh ta đang trên đà thăng tiến đó. Công việc đầu tiên của anh ta là ở Hãng kế toán quốc gia Smothers & Crimp. Sau đó anh ta chuyển đến trụ sở chính ở một nơi khác.
- Ở đâu?
- Chờ tý, tôi đã ghi vào đâu đó... Đây rồi. Plumb, George Haverford: Ba mươi tư tuổi, lấy mary Ann Champlin; năm 1958 có hai con; năm 1960 có bằng cử nhân và làm cho Smothers & Crimp; từ 1960 đến 1963 chuyển công việc sang làm đối tác điều hành của Hãng Hardfast Steel ở Pittsburgh; 1963 đến 1965 là nhân viên điều hành và quan chức phụ trách hoạt động của Hãng sản xuất Readlite ở Pennsylvania, từ 1965 đến 1968 làm việc cho Hãng kế toán Baxter và ở đó đến tận năm 1971; từ 1971 đến 1974 làm cho Hãng quản lý chuyên gia Advent, thành lập nhóm Plumb; từ 1974 đến 1977 trở lại công việc kinh doanh; năm 1978 làm việc ở Hãng kế hoạch y tế Vantage cho đến tận năm 1981.
- Ông ta thay đổi rất nhiều công việc nhỉ.
- Không hẳn vậy đâu Alex, thay đổi liên tục thể hiện xu hướng kinh doanh của anh ta đấy. Đó cũng là lý do tại sao tôi rời bỏ gia đình sớm. Gia đình quả là địa ngục. Tôi cũng đã thay đổi rất nhiều công việc từ Vantage Health sau đó làm cho Hãng an toàn thực phẩm, ba năm làm cho hãng Arthur-McClennan, ba năm làm cho Neo Dyne Biologicals, sau đó là Hãng tư vấn sức khoẻ MGS-Pittsburgh là nơi anh làm tôi để ý đó.
- Ông thấy nơi đó thế nào?
- Một bệnh viện cỡ nhỏ đến trung bình chuyên điều trị các bệnh cấp tính ở những thành phố nhỏ và vừa, được thành lập năm 1982 bởi một nhóm bác sĩ, chính thức hoạt động năm 1985, lục đục nội bộ, hoạt động kém hiệu quả và năm sau bán lại cổ phần - một tay đầu cơ mua lại tất cả và đóng cửa bệnh viện.
- Tại sao tay đầu cơ đó lại mua nó và dừng hoạt động?
- Có nhiều lý do. Có thể họ phát hiện ra mua nó là một sai lầm và muốn giảm thiểu một cách nhanh chóng các thua thiệt. Hoặc có thể họ muốn các nguồn lực của công ty hơn là bản thân công ty đó.
- Đó là nguồn lực gì?
- Phần cứng, đầu tư, quỹ lương hưu. Còn hãng BIO-DAT mà anh hỏi đến chỉ là một chi nhánh của MGS thôi, đó là cơ quan phân tích dữ liệu. Trước khi được mua lại nó đã được bán cho Hãng Northern Holdings ở Missoula, Montana.
- Đó là một doanh nghiệp nhà nước à?
- Không, tư nhân.
- Còn những công ty khác mà Plumb đã từng làm việc? Ông có biết công ty nào không?
- Không phải một.
- Có công ty nào của nhà nước không?
- Chờ một lát tôi sẽ nói cho anh nghe... Anh muốn bắt đầu từ đâu? Từ Hãng Smothers hay hãng nào?
- Tùy ông nếu ông có thời gian.
- Hôm nay tôi rảnh hơn thường lệ. Chờ tôi một lát.
Tôi chờ và nghe rõ tiếng gõ bàn phím.
- Được rồi, chúng ta sẽ tìm kiếm... đây rồi... Không có gì trên thị trường New York. Không có tên nào như vậy được niêm yết cả. Để tôi tìm trên thị trường Nasdaq xem thế nào.... Cũng không có gì cả. Chờ một lát nữa Alex, để tôi kiểm tra danh sách các công ty tư nhân... Hình như không có hãng nào cả, Alex ạ.
- Có nghĩa là không hãng nào trong số đó còn hoạt động?
- Có thể như vậy.
- Ông có thấy điều đó bất thường không?
- Lạ thật, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải đóng cửa chiếm tỷ lệ rất cao và dường như gã Plumb này đến đâu thì nơi đó đều bị đóng cửa.
- Chuck Jones thuê ông ta điều hành bệnh viện đó Lou ạ. Ông nghĩ gì về ý đồ của ông ta?
- Tôi nghĩ anh ta là tên phá hoại.
- Thế còn những hãng mà Plumb đã từng hợp tác?
- Sẽ khó tìm đấy. Đó toàn là những hãng nhỏ, và nếu là của tư nhân thì sẽ không có chi nhánh về cổ phiếu, có rất ít hoặc không có thông tin trên các báo thương mại.
- Thế còn báo địa phương?
- Nếu đó là hãng lớn của địa phương sa thải nhiều công nhân thì có thể có. Dù sao thì cũng chúc anh may mắn sớm tìm được thông tin này.
- Được rồi, cảm ơn ông.
- Có thực sự quan trọng không Alex?
- Tôi cũng không rõ.
- Nếu biết được những manh mối rồi thì đối với tôi việc tìm kiếm sẽ dễ hơn nhiều - Ông ta nói - Thôi, tôi chơi Tarzan cái đã.
Sau khi nói chuyện với Lou, tôi gọi điện đến Virginia và có số điện thoại của Viện nghiên cứu y tế Ferris Dixon. Một giọng phụ nữ trả lời:
- Viện Ferris Dixon đây, tôi có thể giúp gì được ông không?
- Tôi là bác sĩ Schwietzer của Bệnh viên Nhi đồng miền Tây ở Los Angeles. Tôi là cộng sự của bác sĩ Laurence Ashmore.
- Xin ông vui lòng chờ một lát.
Tiếng nói trở lại:
- Vân thưa bác sĩ Schweitzer, ông cần gì ạ?
- Viện của cô tài trợ cho nghiên cứu của bác sĩ Ashmore?
- Vâng.
- Tôi rất buồn thông báo là ông ấy đã qua đời rồi.
- Ô... vậy sao? - Cô ta thốt lên nhưng nghe giọng nói thì không có gì ngạc nhiên cả - Nhưng tôi nghĩ người có thể giúp ông thì lại không có mặt ở đây.
Tôi không định yêu cầu giúp đỡ nhưng thuận chiều tôi nói luôn:
- Thế ai có thể giúp được tôi?
- Ồ xin lỗi, tôi không rõ, để tôi kiểm tra lại.
- Phiền cô.
- Không có gì, xin ông vui lòng chờ giây lát. Nếu không ông có thể cho tôi số và tôi sẽ gọi lại.
- Tôi phải đi ngay bây giờ. Tôi có thể đến chỗ cô được không?
- Rất hân hạnh được gặp ông, thưa bác sĩ.
- Ồ, xin lỗi, cô có thể cho tôi biết một chút về Viện được không? Tôi muốn làm công việc nghiên cứu của riêng mình.
- Ông muốn biết gì thưa bác sĩ Schweitzer?
- Những dự án nào thì Viện của cô ưu tiên tài trợ?
- Câu hỏi này vượt quá phạm vi của tôi, thưa ông, xin lỗi tôi không thể trả lời câu hỏi đó được.
- Cô có thể gửi cho tôi một cuốn sách nhỏ giới thiệu không? Ví dụ như danh sách các dự án trước đây mà Viện của cô đã tài trợ?
- Tôi e là cũng không được. Cơ quan của chúng tôi mới thành lập.
- Vậy sao? Được bao lâu rồi?
- Xin chờ một lát, thưa ông.
Lại có tiếng nhạc chuông, rồi cô ta quay trở lại:
- Xin lỗi vì quá lâu, thưa ông. Tôi không thể tiếp tục được nữa, tôi còn mấy cuộc điện thoại đang gọi đến. Hay là lát nữa ông gọi lại vậy nhé, tôi nghĩ sẽ có người có thể giúp được ông đấy.
- Người có thể giúp được tôi sao? - Tôi hỏi lại.
- Vâng thưa bác sĩ. Chúc ông một ngày vui vẻ.
Cô ta gác máy. Tôi gọi lại nhưng đường dây bận. Tôi yêu cầu cô nhân viên tổng đài nối cho tôi vào đường dây khẩn cấp và chờ cho đến khi cô ta xuất hiện trở lại:
- Xin lỗi, thưa ông, số máy đó đang bị hỏng.
Tôi tiếp tục nghe được giọng nói dễ chịu của cô nhân viên. Giọng nói thật êm... chắc là phải luyện tập khá nhiều.
Một thông tin mà cô ta cung cấp khiến tôi thấy gờn gợn: "Cơ quan chúng tôi mới thành lập".
Dù từ "cơ quan" để gọi một doanh nghiệp tư nhân thì thật là hơi lạ.
Tôi thử quay lại số đó nhưng vẫn không liên lạc được.
Tôi kiểm tra lại những nghiên cứu đã được Viện này tài trợ.
Zimberg, Walter William. Đại học Maryland, Baltimore.
Có gì đó liên quan tới thống kê khoa học.
Hay ông này ở trường y, khoa Toán hay khoa Y tế cộng đồng gì đó?
Tôi lấy số điện thoại của trường đại học này và liên lạc. Không có tên Zimberg nào trong khoa Y cũng như khoa Toán của trường.
Tôi liên lạc với khoa Y tế cộng đồng. Một giọng nam trả lời:
- Xin cho tôi gặp giáo sư Zimberg?
- Xin lỗi, không có ai là giáo sư Zimberg ở đây.
- Xin lỗi, có lẽ tôi đã nhầm thông tin. Xin hỏi chỗ anh có danh sách nhân viên các khoa không?
- Xin chờ một lát... Có, ở đây có giáo sư Zimberg nhưng ông ấy làm việc ở khoa Kinh tế.
- Xin anh vui lòng nối máy cho tôi nói chuyện với ông ấy.
Một tiếng tách nhỏ vang lên và một giọng phụ nữ trả lời:
- Khoa kinh tế xin nghe.
- Xin cho tôi gặp giáo sư Zimberg.
- Xin ông chờ một lát.
Lại một tiếng tách và giọng phụ nữ khác:
- Văn phòng của giáo sư Zimberg xin nghe?
- Phiền cô cho tôi gặp giáo sư Zimberg.
- Giáo sư Zimberg ra khỏi thành phố rồi thưa ông.
Tôi đoán bừa:
- Liệu ông ta có ở Washington không?
- Xin lỗi, ông là ai ạ?
- Tôi là giáo sư Schweitzer, đồng nghiệp cũ của giáo sư Zimberg. Xin hỏi có phải ông ấy đi họp rồi không?
- Họp gì cơ, thưa ông?
- Cuộc họp của Hội những nhà thống kê sinh học bên đồi Hilton. Tôi có nghe nói ông ấy chuẩn bị trình bày vài dữ liệu mới về phí giới hạn. Nghiên cứu do Viện Ferris Dixon tài trợ.
- Hừm. Giáo sư có thể sẽ sớm gọi lại cho ông. Xin ông vui lòng để lại số của ông, tôi sẽ nói giáo sư gọi lại cho ông.
- Rất cảm ơn cô nhưng tôi sắp phải lên máy bay rồi. Vì vậy tôi không đến cuộc họp được. Xin hỏi giáo sư có để lại bản tóm tắt trước khi ông ấy đi không?
- Xin ông vui lòng hỏi giáo sư về chuyện đó.
- Khi nào ông ấy trở lại?
- Ông ấy đang nghỉ phép thưa ông.
- Ông ấy không báo trước à? Tôi không nghe nói về chuyện đó... Ông ấy nghỉ ở đâu vậy?
- Rất nhiều chỗ, thưa giáo sư...
- Tôi tên là Schweitzer.
- Rất nhiều chỗ, thưa giáo sư Schweitzer. Tuy nhiên, ông ấy thường xuyên gọi điện lại. Ông nên để lại số và tôi sẽ nói với ông ấy gọi cho ông.
Cô ta nhắc lại từng câu từ vừa nói trước đây mấy phút.
Tôi quyết định trực tiếp đến một địa chỉ. Có một chỗ đậu xe miễn phí thuộc khu đất của trường đại học. Tôi đi đến văn phòng đăng ký và hỏi nhân viên gốc Ấn Độ tra tên Dawn Kent Herbert.
- Xin lỗi ông, chúng tôi không cung cấp thông tin cá nhân.
Tôi đưa tấm thẻ của trường y trong thành phố ra và nói:
- Tôi không cần thông tin cá nhân. Tôi chỉ muốn biết cô ấy thuộc khoa nào. Tôi có việc muốn kiểm tra về học vấn.
Cô nhân viên kiểm tra thẻ, hỏi lại tôi cái tên Herbert và đi ra.
Một lúc sau cô ta xuất hiện:
- Herbert là nhân viên của khoa Y tế cộng đồng nhưng cô ta không còn học ở đây nữa rồi, thưa ông.
Tôi biết khoa Y tế cộng đồng ở trong toà nhà này nhưng chưa bao giờ đến đó. Tôi đi xuống phía nam khuôn viên trường đại học đến Trung tâm ở đầu phía nam gần khoa Nha.
Trung tâm Y tế cộng đồng nằm gần thư viện nơi tôi đã tra cứu về Ashmore. Trên tường có treo ảnh của tất cả các khoá học đã tốt nghiệp. Các bác sĩ mới tốt nghiệp trông mặt non nớt như những đứa trẻ. Khi tôi đến nơi thì hành lang đã vắng. Một nhân viên đang rời văn phòng hành chính, tôi giữ cửa cho cô ta và bước vào.
Nhân viên thu tiền và nhân viên văn phòng làm việc trong một khoảng không chật hẹp.
- Tôi là bác sĩ Delaware của Bệnh viên Nhi đồng miền Tây. Một sinh viên đã tốt nghiệp ở trường bạn đã từng làm việc ở chỗ tôi và tôi muốn biết cố vấn khoa của cô ấy là ai?
- Được thôi, thưa ông. Tên cô ấy là gì?
- Dawn Herbert.
Không có phản ứng gì.
- Cô ấy thuộc khoa nào?
- Y tế cộng đồng.
Cô ta cười ngoác miệng:
- Đây là Trường Y tế cộng đồng thưa bác sĩ. Chúng tôi có rất nhiều chuyên ngành và mỗi chuyên ngành lại có thể có nhiều khoa - Cô ta đưa ra một cuốn sổ tay và chỉ vào bảng mục lục.
Các chuyên ngành của trường:
Thống kê sinh học
Khoa học sức khoẻ cộng đồng
Khoa học sức khoẻ môi trường
Khoa học môi trường và kỹ thuật
Khoa dịch tễ học
Khoa dịch vụ y tế
Dựa trên công việc mà Ashmore đã làm tôi nói:
- Có thể là khoa Thống kê sinh học hoặc khoa Dịch tễ.
Cô ta đến chỗ giá hồ sơ lấy ra một tập bìa màu xanh gáy ghi dòng chữ: Thống kê sinh học.
- Có đây rồi. Cô ấy là nghiên cứu sinh về thống kê sinh học và người hướng dẫn là tiến sỹ Janosh.
- Tôi có thể tìm tiến sỹ Janosh ở đâu?
- Xuống tầng dưới, văn phòng B, số 345. Ông có cần tôi gọi điện trước không?
- Vâng, phiền cô.
Cô ta nhấc máy điện thoại và gọi:
- Tiến sỹ Janosh à? Xin chào chị, tôi là Merilee đây. Có một bác sĩ muốn gặp chị nói chuyện về sinh viên của chị, cô Herbert... Ồ được thôi... - Cô ta cau mày quay sang hỏi tôi - Tên ông là gì thưa ông?
- Delaware từ Bệnh viên Nhi đồng miền Tây.
Cô ta nhắc lại tên tôi qua điện thoại và nói tiếp:
- Vâng, được rồi. Tôi có thể xem giấy chứng nhận của ông được không, bác sĩ Delaware?
Tôi đưa cho cô ta tấm thẻ.
Cô ta gác máy và quay sang nói với tôi:
- Chị ấy không có nhiều thời gian nhưng có thể gặp ông ngay bây giờ.
Nghe giọng nói của cô ta có vẻ bực tức.
Khi tôi đi ra đến cửa, cô nhân viên hỏi với:
- Cô Herbert bị ám sát à, thưa ông?
- Tôi e là như vậy.
- Thật tồi tệ.
Tôi đi xuống tầng bằng thang máy và đến phòng B-345. Cửa phòng đóng và khoá trong. Bên trên có biển hiện ghi: Alice Janosh, Tiến sỹ tâm lý.
Tôi gõ cửa và có tiếng nói ở trong vọng ra:
- Xin chờ một phút.
Có tiếp dép và cửa mở. Một phụ nữ trạc năm mươi tuổi hỏi tôi:
- Ông là bác sĩ Delaware?
Tôi chìa tay ra, bà ta bắt tay nhanh và mời tôi vào phòng.
Bà ta hơi thấp, mập, mái tóc hung búi gọn gàng, mặc váy đỏ trắng, đi giầy đỏ và đeo trang sức bằng vàng. Mặt bà ta nhỏ và khá xinh xắn. Khi còn trẻ có lẽ bà ta phải là hoa khôi của trường.
Tôi bước vào phòng, bà ta để cửa mở và vào sau tôi. Căn phòng thoảng mùi nước hoa, trên tường treo các bức tranh nghệ thuật của các tác giả như Miró, Albers, Stella và một tác giả nữa tôi không nhớ tên nhưng ông ta đã có triển lãm ở bảo tàng Boston.
Một hộp sôcôla đặt trên bàn kính và cạnh đó là hộp kẹo bạc hà. Trên bàn làm việc của bà ta có máy vi tính, máy in và hộp đựng hồ sơ. Trên máy in là chiếc ví da đỏ.
Bà ta ngồi cạnh hộp sôcôla, chân bắt chéo, bắp chân khá to.
- Ông là bác sĩ?
- Không, tôi là nhà tâm lý.
- Ông có quan hệ gì với cô Herbert?
- Tôi đang tham khảo một trường hợp ở bệnh viện. Dawn đã lấy bệnh án của người nhà một bệnh nhân và không trả lại. Tôi nghĩ cô ấy để lại nó ở đây.
- Tên của người nhà bệnh nhân ấy?
Tôi hơi do dự và bà ta nói luôn:
- Tôi không thể trả lời câu hỏi của ông mà không biết phải tìm kiếm cái gì.
- Tên là Jones.
- Charles Lyman Jones đệ tứ?
Hơi ngạc nhiên tôi hỏi:
- Bà có nó sao?
- Không. Nhưng ông là người thứ hai hỏi nó. Liệu có vấn đề gì về gen khiến các ông khẩn cấp đến thế không? Mẫu mô của người họ hàng chẳng hạn?
- Đây là trường hợp phức tạp - Tôi nói.
Bà ta thả chân xuống và nói:
- Người thứ nhất cũng không cho tôi lời giải thích hợp lý.
- Người ấy là ai?
Bà ta nhìn tôi có vẻ nghi ngờ:
- Xin lỗi bác sĩ, tôi có thể xem tấm thẻ mà ông cho Merilee xem ban nãy không?
Lần thứ ba trong vòng hơn một giờ tôi phải trình tấm thẻ khoa của mình.
Bà ta đặt lên bàn rồi đeo kính kiểm tra. Số chứng minh của bệnh viện có vẻ làm bà ta quan tâm.
- Người kia cũng có tấm thẻ thế này. Anh ta nói là phụ trách an ninh của bệnh viện - Bà ta nói và trả lại tôi tấm thẻ.
- Anh ta tên là Huenengarth?
Bà ta gật đầu:
- Tôi nghĩ hai vị làm việc trùng nhau rồi.
- Anh ấy đến đây khi nào?
- Thứ Ba trước. Bệnh viên Nhi đồng miền Tây có dịch vụ này cho tất cả các bệnh nhân, thưa ông?
- Như tôi đã nói, đây là trường hợp phức tạp, thưa bà.
Bà ta mỉm cười:
- Về mặt y tế văn hoá xã hội?
- Xin lỗi, tôi không thể nói chi tiết được.
- Sự bí mật của người làm công tác điều trị tâm lý ư?
Tôi gật đầu.
- Tôi hoàn toàn tôn trọng điều đó, bác sĩ Delaware. Huenengarth dùng cách giải thích khác để giữ bí mật của anh ta: thông tin riêng. Nghe có vẻ hơi trinh thám và tôi đã nói thế với anh ta. Tôi thấy thái độ của anh ta nghiêm túc.
- Bà có đưa cho anh ta bệnh án đó không?
- Không, bởi vì tôi không có nó, thưa bác sĩ. Dawn không hề để bất kỳ bệnh án nào ở đây. Xin lỗi vì đã làm ông thất vọng nhưng những việc cô ấy làm gần đây khiến tôi chú ý, tất nhiên là cả việc cô ấy bị ám sát. Khi cảnh sát đến đây kiểm tra, tôi đã đưa tất cả các tài liệu liên quan đến việc học của cô ta. Chỉ có một vài quyển vở ghi, vài đĩa vi tính.
- Bà đã mở những đĩa đó chưa?
- Câu hỏi đó có liên quan đến trường hợp bệnh nhân phức tạp của ông không?
- Có thể.
- Có thể - Bà ta nhắc lại - ít nhất thì ông cũng không huênh hoang như Huenengarth bắt tôi phải mở chúng.
Bà ta bỏ kính ra, đứng dậy trả tôi tấm thẻ và ngồi trở lại ghế:
- Dawn liên quan đến điều gì không tốt hay sao, thưa ông?
- Có thể.
- Huenengarth thẳng thắn hơn ông, thưa bác sĩ. Anh ta nói luôn là Dawn đã đánh cắp bệnh án và yêu cầu tôi phải có trách nhiệm trả lại. Thật thô thiển. Tôi đã mời anh ta ra về.
- Anh ta không phải là một người có sức quyến rũ đâu.
- Ông đang bệnh vực cho anh ấy đấy. Anh ấy hệt như một tên KGB. Theo tôi thì anh ấy có vẻ là một nhân viên cảnh sát điều tra thực sự vụ ám sát Dawn. Tôi tiếp chuyện anh ta được vài câu rồi tạm biệt. Vài tuần sau tôi gọi điện hỏi xem anh ấy làm được đến đâu rồi nhưng không ai nghe máy, tôi để lại tin nhắn và từ đó đến giờ cũng không có hồi âm.
- Anh ta hỏi những gì về cô ấy?
- Bạn bè cô ấy, cô ấy đã bao giờ phạm tội chưa, cô ấy có sử dụng ma tuý không. Thật không may, tôi không thể trả lời câu hỏi nào. Mặc dù cô ấy là sinh viên của tôi bốn năm, nhưng tôi hầu như không biết gì về cô ấy. Ông đã từng dạy ở trường nào chưa?
- Một số.
- Vậy chắc ông rõ, có những sinh viên thì gần gũi, có những sinh viên thì thậm chí ta không nhớ cả mặt họ nữa. Tôi e rằng Dawn thuộc trường hợp thứ hai. Không phải vì cô ấy không thông minh. Cô ấy học toán rất giỏi vì vậy tôi nhận lời hướng dẫn mặc dù có do dự đôi chút về động cơ của cô ta. Tôi luôn thích phụ nữ không ngại con số nhưng chúng tôi lại không gần gũi nhau bao giờ.
- Có chuyện gì không ổn về động cơ của cô ta?
- Cô ta không hề có động cơ. Tôi luôn có cảm giác cô ấy học chống đối. Cô ấy đã xin vào đây trong khi ngoài môn toán ra thì những môn khác cô ta học không tốt lắm. Nhưng điểm toán của cô ta cao vì vậy tôi nhận cô ta. Tôi đã giúp cả học bổng cho cô ta nhưng đến tháng Tám vừa rồi thì tôi buộc phải cắt vì vậy cô ấy đã tìm việc làm ở bệnh viện của ông.
- Vì cô ấy học yếu?
- Vì sự cẩu thả của cô ta. Cô ta hoàn thành việc học với kết quả khá, tham gia công việc nghiên cứu có vẻ triển vọng, rồi bỏ giữa chừng, tham gia lần khác rồi lại bỏ, cứ như vậy. Cô ấy không hề đi đến đâu trong bất kỳ công việc nào. Tôi đã giúp đỡ nhiều sinh viên và cô ấy cũng không phải là một ngoại lệ. Nhưng cô ấy lại không chịu tham khảo hỏi bài tôi. Cô ta bỏ hẹn với tôi rồi xin lỗi rồi lại bỏ, liên tục như vậy. Tôi không nghĩ là có thể chịu đựng được cô ta. Tôi đã nghĩ đến việc phải bỏ cô ta giữa chừng. Nhưng rồi...
Bà ta ngập ngừng một lát rồi tiếp:
- Nhưng tôi nghĩ những điều đó không quan trọng nữa. Ông có muốn dùng một chút sôcôla không?
- Không, cảm ơn bà.
- Trở lại với những chiếc đĩa của cô ta mà ban nãy ông hỏi. Vâng, tôi có mở chúng, nhưng không có gì ý nghĩa trong đó cả. Cô ta không hề làm được chút gì trong các bài tiểu luận. Vì vậy, tôi không thèm để ý đến chúng khi Huenengarth hỏi đến. Hơn nữa, tôi cũng rất buồn vì cái chết của cô ta. Thực ra, tôi cũng không định mở chúng ra nhưng do anh ấy quá để ý đến nó nên khi anh ta đi khỏi tôi đã mở. Tôi cảm thấy rất thất vọng, sau tất cả những gì tôi hướng dẫn và khuyến khích, cái mà cô ta làm được chỉ là sự lặp lại những giả thuyết và một bảng ngẫu nhiên các con số.
- Một bảng ngẫu nhiên các con số ư?
- Tìm mẫu ngẫu nhiên ấy. Ông biết phải làm thế nào rồi, phải vậy không?
Tôi gật đầu.
- Thế đề tài nghiên cứu của cô ta là gì vậy?
- Dự đoán số người ung thư tại vị trí địa lý. Tôi rất thất vọng khi đọc những chiếc đĩa đó. Ngay cả một phần nhỏ cô ta viết ra cũng không thể chấp nhận được. Tôi phân vân không biết có phải cô ta đã sử dụng ma tuý hay không.
- Cô ta có biểu hiện gì về việc sử dụng ma tuý không?
- Tôi nghĩ sự chập chờn trong nghiên cứu của cô ta có thể coi là một triệu chứng. Đôi khi cô ta có vẻ bị kích động - gần như điên cuồng ấy chứ. Cô ta đã cố gắng thuyết phục tôi rằng cô ta đang đạt được sự tiến bộ. Nhưng tôi biết cô ta không dùng amphetamines. Trong bốn năm qua, cô ta tăng cân rất nhiều - ít nhất là 16kg. Kh mới vào trường trông cô ta khá xinh xắn.
- Liệu có phải cô ấy dùng cocain không?
- Tôi nghĩ là như vậy. Nhưng tôi cũng thấy điều tương tự xảy ra đối với sinh viên không dùng ma tuý. Sự căng thẳng của các sinh viên cao học có thể khiến chúng thỉnh thoảng phát điên lên ấy chứ.
- Đúng vậy.
Bà ta lau móng tay và liếc nhìn tấm hình gia đình mình:
- Khi biết Herbert bị giết, tôi đã thay đổi cách nhìn nhận về cô ta. Trước đó, tôi vẫn rất giận cô ta. Nhưng khi nghe cái chết thảm thương của cô ta tôi lại cảm thấy thương xót. Cảnh sát nói với tôi rằng lúc bị giết cô ấy ăn mặc như một kẻ say mê nhạc rock. Điều đó làm tôi nghĩ rằng cô ấy cũng có thế giới riêng mà không hề thổ lộ với tôi. Cô ấy chỉ là một trong những người mà thế giới sáng tạo không hề quan trọng đối với họ.
- Liệu có phải sự thiếu say mê của Herbert là do cô ta có thu nhập ngoài không?
- Ồ không. Cô ta rất nghèo. Khi tôi nhận Herbert, cô ta nài nỉ tôi xin được trợ cấp, nếu không cô ta không thể theo học.
Tôi nghĩ đến thái độ coi trọng tiền bạc mà Herbert đã thể hiện, về chiếc xe đời mới mà cô ta bị giết ở trong đó.
- Gia đình cô ta thế nào? - Tôi hỏi.
- Tôi nghĩ cô ta có một bà mẹ nghiện rượu. Nhưng cảnh sát nói rằng họ không xác định được bà ta. Chúng tôi phải quyên góp tiền để mai táng cô ta.
- Thật đáng thương.
- Rất đáng thương.
- Cô ta quê ở đâu, thưa bà?
- Ở đâu đó phía Đông. Không, Herbert không phải là cô gái giàu có, bác sĩ Delaware ạ. Việc cô ta thiếu nhiệt huyết có thể là vì lý do khác.
- Cô ấy phản ứng thế nào khi bị đình chỉ học tập?
- Không hề phản ứng gì. Tôi cứ tưởng cô ta sẽ buồn, giận rồi sau đó chúng tôi sẽ hiểu nhau. Nhưng cô ta không hề liên lạc với tôi. Cuối cùng tôi phải gọi cô ấy đến hỏi thăm xem cô ấy xoay sở thế nào để sống. Cô ta kể cho tôi nghe về công việc ở bệnh viện của ông. Cô ta có vẻ tự hào được làm việc ở đó. Tuy nhiên, anh chàng Huenengarth của các ông lại nói với tôi rằng cô ta chỉ làm công việc lặt vặt như rửa chai lọ thôi.
Tôi im lặng và nghĩ: Không hề có chai lọ gì ở phòng thí nghiệm của Ashmore.
Bà ta nhìn đồng hồ. Tôi nghĩ là bà ta sắp phải đi. Nhưng bà ta lại dịch chuyển ghế đến gần và nhìn tôi trừng trừng. Mắt bà ta đỏ lên và không hề lay động. Một kiểu nóng giận đáng nghi ngờ.
- Tại sao ông hỏi tôi tất cả những điều đó? Thực ra ông muốn gì?
- Tôi thực sự không thể nói chi tiết được thưa bà, đó là nguyên tắc bí mật. Tôi biết làm như vậy thật không công bằng.
Bà ta im lặng trong giây lát rồi nói tiếp:
- Cô ta là một tên trộm. Tất cả những bài trong đĩa của cô ta là do ăn trộm của một sinh viên khác. Tôi còn phát hiện ra những điều khác: Cô ta ăn trộm áo len của bạn học và cái bút vàng của tôi. Tôi không hề ngạc nhiên khi biết cô ấy liên quan đến những việc gian trá.
- Có thể là thế.
- Có phải vì vậy mà cô ấy bị giết không?
- Có thể.
- Vậy quan hệ của ông với tất cả việc này là gì, thưa ông?
- Sức khoẻ bệnh nhân của tôi có thể bị ảnh hưởng.
- Con gái của Jones?
Tôi gật đầu và hơi ngạc nhiên vì Huenengarth đã tiết lộ tất cả những điều này cho bà ta.
- Liệu có liên quan gì đến việc lợi dụng trẻ em không? Có thể Dawn phát hiện ra và lợi dụng.
Tôi nhún vai không trả lời ra hiệu giữ bí mật đối với bà ta nhưng trong lòng hết sức kinh ngạc.
Bà ta mỉm cười và nói:
- Tôi không phải Sherlock Holmes đâu thưa bác sĩ. Nhưng chính Huenengarth làm tôi tò mò. Tôi đã làm việc trong ngành y quá lâu nên biết rằng không có một bác sĩ nào lại bỏ ra sức lực lớn đến như vậy vì một bệnh nhân bình thường đâu. Vì vậy tôi đã hỏi chồng tôi về anh Jones con. Anh ta là bác sĩ phẫu thuật tim mạch và có đặc quyền tại Bệnh viên Nhi đồng miền Tây mặc dù anh ta không còn theo nghề từ mấy năm nay rồi. Tôi hiểu về gia đình này và vai trò của ông bố trong tất cả những rắc rối của bệnh viện. Tôi không biết thằng nhỏ ấy đã bị đột tử còn đứa trẻ khác thì không ngớt bệnh tật. Đã có nhiều tiếng đồn. Xâu chuỗi các sự kiện như việc Dawn ăn cắp bệnh án của đứa con đầu nhà Jones và từ một con bé nghèo kiết xác trở nên giàu có, cộng với hai chuyến viếng thăm của hai nhà thám tử chuyên nghiệp tìm kiếm bệnh án đó, thì một người không cần phải là thám tử cũng hiểu được chuyện gì đang xảy ra.
Tôi thấy lập luận của bà rất ấn tượng.
- Ông và Huenengarth có làm việc chồng chéo nhau không?
- Chung tôi không làm việc cùng nhau.
- Thế ông thuộc bên nào?
- Bên đứa bé.
- Vậy ai trả tiền cho ông?
- Về mặt chính thức thì chính bố mẹ con bé.
- Ông không nghĩ đó chính là sự xung đột về lợi ích sao?
- Nếu điều đó xảy ra, tôi sẽ không yêu cầu trả công.
Bà ta nhìn tôi có vẻ dò xét một lúc:
- Tôi tin là như vậy. Bây giờ thì ông có thể cho tôi biết là sở hữu những chiếc đĩa đó có gây nguy hiểm cho tôi không?
- Tôi không chắc chắn nhưng cũng không loại trừ khả năng đó.
- Câu trả lời không làm tôi dễ chịu chút nào.
- Tôi không muốn lừa dối bà làm gì.
- Tôi đánh giá cao điều đó. Tôi đã thoát chết khỏi xe tăng của Nga ở Pudapets những năm 1956 và bản năng sống còn của tôi từ đó đến giờ phát triển rất tốt. Vậy theo ông - tầm quan trọng của những chiếc đĩa là gì?
- Có thể chúng chứa những số liệu mã hoá được giấu bởi những con số.
- Tôi cũng không nghĩ như vậy. Thực sự, không có lý do gì để cô ấy lập ra cái bảng đó ngay trong giai đoạn đầu của công việc nghiên cứu. Tôi cũng đã chạy thử một số chương trình cơ bản nhưng không phát hiện ra điều gì cả. Ông có kỹ năng phá mã nào không?
- Không có chút nào cả.
- Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, có những chương trình phá mã hay. Vậy tại sao chúng ta lại không thử một chút xem liệu có đạt được gì không. Sau đó tôi sẽ giao chúng cho ông và hết trách nhiệm. Tôi cũng sẽ viết thư đến Huenengarth, cảnh sát và trưởng khoa của chúng tôi để báo với họ là những chiếc đĩa đã thuộc về ông và tôi không còn quan tâm đến nó nữa.
- Tôi nghĩ tốt hơn là bà chỉ nên viết thư cho cảnh sát thôi. Tôi có thể cho bà địa chỉ của một cảnh sát.
- Không được - Bà ta nói và đi đến bàn làm việc lấy ví rút ra một chiếc chìa khoá đoạn mở ngăn kéo trên cùng.
Bà ta nói tiếp:
- Thường thì tôi không khoá như thế này. Nhưng chính người đàn ông đó khiến tôi phải cẩn trọng.
Bà ta kéo chiếc ngăn kéo nhỏ ra, khua tay vào trong 1 lúc và chau mày:
- Biến mất rồi - Bà ta ngẩng đầu lên nói - Kỳ thật.
Cả hai chúng tôi đi lên văn phòng khoa và Janos yêu cầu Merilee cung cấp hồ sơ sinh viên của Dawn Herbert.
- Chỉ có vậy sao? - Bà ta cau mày hỏi.
- Tiến sỹ không nhớ là chúng ta thực hiện việc tái sinh giấy cũ hay sao?
- Ồ đúng vậy.
Tôi và Janos đọc tấm thẻ: chữ đỏ Loại được đóng ở góc trên. Bên dưới là bốn dòng chữ:
Herbert, D.K. Chương trình: đào tạo tiến sỹ, thống kê sinh học.
Ngày sinh: 13 tháng 2 năm 1963.
Nơi sinh: Poughkeepsie, New York.
Cử nhân toán, tại Poughkeepsie Coll.
- Không nhiều lắm - Tôi nói.
Janos cười nhạt và trả lại Merilee tấm thẻ.
- Xin lỗi bác sĩ Delaware, tôi có cuộc họp phải đi bây giờ.
Nói xong bà ta rời văn phòng.
Merilee vẫn đứng đó cầm tấm thiếp:
- Chúc một ngày vui vẻ - Cô ta nói và quay lưng lại phía tôi.
Tôi ngồi trong xe và suy nghĩ về những điều liên quan đến gia đình Jones.
Ông nội Chuck đã gây ra điều gì đó cho bệnh viện.
Chip và Cindy lại gây ra những điều gì đó cho bọn trẻ của họ.
Ashmore và Herbert có liên quan đến toàn bộ việc này hoặc một phần. Những dữ liệu của Ashmore bị Huenengarth tịch thu. Các dữ liệu về Herbert bị Huenengarth đánh cắp. Herbert có thể bị một người trông giống Huenengarth giết chết.
Vụ việc thật rõ ràng đến mức người bình thường như Janos cũng nhận ra.
Nhưng nếu cả Herbert và Ashmore đều liên quan đến điều đó thì vì sa Herbert lại phải chết trước?
Và tại sao Huenengarth lại phải chờ lâu đến như vậy sau cái chết của Herbert mới đi tìm những chiếc đĩa kia và di chuyển máy tính của Ashmore ngay sau cái chết của nhà nghiên cứu chất độc?
Chỉ có thể là anh ta đã biết các số liệu về Herbert sau khi đọc các file dữ liệu trong máy Ashmore.
Tôi cứ quanh quẩn mãi với những suy luận đó và cuối cùng thì cũng đi đến được một sự sắp xếp:
Herbert là người đầu tiên nghi ngờ sự liên quan giữa cái chết của Chad Jones và tình trạng bệnh tật của Cassie. Cô ta lấy trộm bệnh án của Chad và khẳng định được nghi ngờ của mình, mã hoá những phát hiện đó bằng những con số bất kỳ trong máy tính của trường đại học đồng thời lưu vào đĩa mềm và giấu vào ngăn kéo sau đó tống tiền nhà Jones.
Nhưng tại sao cô ta làm tất cả những chuyện đó mà Ashmore lại không biết?
Hai tháng sau cái chết của cô ta, Ashmore tìm thấy cái file đó và cũng lợi dụng nó.
Thật tham lam mặc dù ông ta đã là triệu phú.
Tôi nghĩ về số tiền của Ferris Dixon. Tại sao phần lớn tài sản của một cơ sở hoá chất lại thuộc về người có thái độ phản đối các công ty hoá chất? Một cơ sở không mấy tiếng tăm mà lại tiến hành những nghiên cứu về khoa học đời sống và người tài trợ duy nhất lại là một nhà kinh tế?
Tay giáo sư Zimberg hay lảng vảng... những người có vẻ như là nhân viên thư ký ở văn phòng của ông ta và Ferris Dixon.
Giống như một trò chơi...
Một điệu van-xơ.
Có thể Ashmore mà Herbert phát hiện ra những khía cạnh khác nhau.
Ashmore thì tống tiền Chuck Jones còn Herbert thì muốn tống tiền Cindy và Chip vì hai người này có tội ngược đãi trẻ con.
Hai kẻ tống tiền cùng chung một đối tượng?
Tôi lại tiếp tục suy nghĩ về giả thuyết này.
Tiền và cái chết, đôla và nghiên cứu khoa học.
Tôi vẫn chưa thể lý giải được một cách ngọn ngành.
Tôi ra chỗ lấy xe và nhìn đồng hồ: Mới hơn mười hai giờ. Còn hai giờ nữa mới đến cuộc hẹn với Cassie và mẹ con bé.
Vậy tại sao không đến thăm ông bố?
Tôi gọi điện đến Trường Cao đẳng Cộng đồng Tây Valley và xin hướng dẫn. Bốn mươi lăm phút lái xe nếu đường quang. Ra khỏi khuôn viên trường đại học, tôi đi lên hướng Bắc, rẽ sang Sunset vào đường 405. Đến ngã ba tôi rẽ vào đường cao tốc Ventura, đi thẳng lên hướng Tây đến đại lộ Topanga Canyon.
Đến khu Nordhoff đường trở nên đông hơn, người qua lại nhiều, hai bên đường là hàng loạt các cửa hàng giải khát nhỏ. Sau một hành trình dài cuối cùng thì tôi cũng đến được Trường Cao đẳng Cộng đồng Tây Valley. Không hề giống như khuôn viên trường đại học mà tôi vừa viếng thăm. Chỗ đỗ xe rộng thênh thang, khung cảnh vắng vẻ, chỉ có một vài sinh viên đi tha thẩn trên những đường bê tông nhỏ hẹp.
Sau vài lần đi lạc tôi buộc phải hỏi một sinh viên đường đến khoa Xã hội học. Văn phòng của khoa này nằm ở nhà 3A. Tôi bắt gặp cô thư ký của khoa đang ngồi trực. Cô ta tóc hung, dáng người nhỏ nhắn như thể một nữ sinh. Tôi hỏi văn phòng của giáo sư Jones, cô ta có vẻ khó chịu nhưng cũng chỉ cho tôi một địa điểm ở nhà C cách đó hai toà nhà.
Đi qua mấy khu nhà ẩm ướt bẩn thỉu không hề có dấu chân người, tôi đến được dãy nhà có văn phòng của Jones. Cửa đóng, trên tấm biển ghi dòng chữ:
"Luôn luôn sẵn sàng đón tiếp
Ai đến trước được phục vụ trước"
Tất cả văn phòng khác trong khu đó đều đóng cửa. Tôi trở lại chỗ cô thư ký và hỏi xem ông ta có ở trong trường hay không. Cô ta xem lại thời khoá biểu rồi cho biết ông ta đang lên lớp ở nhà 5-J.
- Khi nào thì ông ấy hết giờ dạy?
- Khoảng một giờ nữa.
- Ông ấy có nghỉ giải lao không?
- Tôi không biết.
Tôi hỏi cô ta nhà 5-J và đến đó. Mặc dù trời đang nắng nóng nhưng Chip Jones vẫn giảng bài ngoài trời. Tôi dừng lại cách ông ta khoảng 30 mét. Jones quay mặt về phía tôi và tay liên tục đung đưa trong khi giảng bài.
Tôi chợt nhận thấy mình chẳng có gì để nói, chẳng có lý do gì đến đó và định quay về.
Bất ngờ tôi nghe thấy tiếng gọi. Chip đang vẫy tôi, nói gì đó với nhóm sinh viên và đi về phía tôi. Tôi chờ ông ta và khi đến nơi, tôi nhận thấy vẻ hoảng hốt còn hiện rõ trên mặt ông ta.
- Tôi đoán là bác sĩ. Mọi thứ tốt đẹp chứ?
- Tốt cả, tôi không có ý định làm phiền ông. Tôi chỉ muốn rẽ qua đây trước khi đến thăm nhà ông thôi.
- Ồ chắc chắn rồi. Nhưng tôi lại không biết trước bác sĩ đến để sắp xếp thời gian nói chuyện với ông. Tôi phải dạy lớp này đến hai giờ, sau đó họp khoa đến ba giờ và lại có một lớp khác. Nếu bác sĩ không phiền thì tôi rất vui được mời ông ngồi dự nhưng tôi nghĩ ông không muốn nghe những điều chán ngắt về cơ cấu tổ chức.
- Quả là một ngày bận rộn.
Ông ta cười:
- Ngày của tôi là vậy. Nhưng Cindy mới là người vất vả, tôi thì trốn được. Bác sĩ có muốn chúng ta nói chuyện không? Tôi có thể cho học sinh nghỉ giải lao mất phút?
- Không, không thực sự cần lắm - Tôi trả lời và quan sát những khoảng trống xung quanh.
Jones có vẻ hiểu ý tôi và giải thích:
- Tôi đã đề nghị trường trồng thêm cây cho đỡ trống trải. Ở đây là khu vực phát triển cao của thung lũng Los Angeles. Vài năm nữa quay lại đây bác sĩ sẽ thấy khác hẳn.
- Bất chấp sự khủng hoảng?
- Vâng, tôi nghĩ vậy hoặc ít nhất thì những người bạn của tôi từng nói thế.
Jones quay lại nhóm sinh viên đang nhìn chúng tôi và hỏi:
- Bác sĩ biết đường đến nhà tôi từ đây chứ?
- Chắc là tôi đến được thôi.
- Tôi sẽ chỉ dẫn chính xác cho ông. Đi trở lại đường cao tốc, sau đó rẽ vào đường 118 đến chỗ giao nhau đi theo lối ra thứ bảy, sau đó bác sĩ có thể tự đi được.
- Được rồi, tôi sẽ đi được.
Jones nhìn tôi nhưng có vẻ nghĩ ngợi.
- Cảm ơn bác sĩ - Ông ta nói và lại liếc về đằng sau - Đây chính là nơi giúp tôi khoẻ khoắn và có được cảm giác tự do. Bác sĩ hiểu ý tôi chứ?
- Ồ, tôi hiểu thưa giáo sư.
- Tôi phải quay lại thôi. Cho tôi gửi lời chào tới quý bà và quý cô nương nhà tôi nhé.
Từ đây đến nhà Chip Jones sẽ không mất quà mười lăm phút, như vậy tôi còn bốn mươi lăm phút trước khi đến hẹn lúc hai rưỡi với Cassie.
Còn nhớ thái độ ngần ngại của Cindy khi tôi hẹn đến sớm, tôi quyết định sẽ đến thẳng đó. Thử làm theo ý mình xem sao.
Đi theo chỉ dẫn của Jones, chẳng mấy chốc tôi đã ra đến đường 118 và lối rẽ thứ bảy được gắn biển hiệu Westview. Con đường dẫn đến nhà Jones quanh co đất sét đỏ, những khóm cây thưa thớt hai bên, còn lại chủ yếu là những vạt đồi gần như trơ trụi. Trên đường hầu như không có phương tiện nào qua lại mặc dù lúc này đang ban ngày.
Lái xe quanh co đến hơi mươi phút thì tôi nhận ra bên trái có tấm biển lớn bằng gỗ ghi những dòng chữ đỏ "Trang viên Westview".
Tận mắt thấy những dãy nhà màu vàng vắng lặng, tôi mới thấy có nhận xét của Jones về sự phát triển dân số ở đây hiện tại là có lý.
Vượt qua ngôi nhà bảo vệ tồi tàn đóng cửa bỏ không, tôi đi đến một con phố cũng vắng lặng không kém mang tên Sequoia Lane. Vỉa hè của con phố này mới như vừa được rửa.
Bên trái con phố là dãy tường phủ đầy dây leo. Đi thêm khoảng nửa dãy nhà nữa thì tôi nhận ra những ngôi nhà đầu tiên ở phía bên phải với lối kiến trúc khá sáng tạo.
Đó là những kiểu kiến trúc: giả Tudor, giả Hacienda, giả Regency, giả Ponderosa. Phía trước là các bãi cỏ và luống hoa. Trong khu vực này có cả bể bơi và sân tennis. Kiểu thiết kế biểu hiện của những ngôi nhà cũng rất hiện đại. Giờ làm việc, số điện thoại của một công ty bất động sản ở Agoura được ghi trên tấm biển nhỏ ở bãi cỏ trước ngôi nhà Regency. Tất cả các ngôi nhà đều đóng cửa và cửa sổ cũng tối om.
Tôi tiếp tục tìm khu phố Dunbar Court. Đó là khu thứ sáu trong dãy phố và ngôi nhà của gia đình Jones nằm phía trong cùng của khu phố được xây bằng vữa xtucô, xung quanh là khu chăn nuôi.
Ở giữa sân là 1 chiếc xe dùng để đẩy thức ăn, phía trước ngôi nhà có vài luống hoa. Bóng của dãy núi phía sau ngôi nhà làm cho người ta có cảm giác như nó được xây dựng theo kiểu mẫu đồ chơi của trẻ con. Không khí còn nặng mùi gia cầm.
Một chiếc xe tải nhỏ màu xanh xám hiệu Plymouth Voyager đỗ ở ngay lối đi cùng với chiếc xe tải lớn khác chứa đầy ống, vòi, vải lưới và chai lọ. Trên tấm biển trước cửa nhà có ghi dòng chữ: Trung tâm dịch vụ bể bơi ValleBbrite. Tôi đang đi vào thì chiếc xe tải lớn lao ra. Cũng may mà người tài xế nhìn thấy xe tôi nên khựng lại một chút. Tôi vẫy tay nhường đường cho anh ta ra trước.
Khi vào đến cửa, Cindy đã đứng đón ở đó nên tôi không cần gõ cửa. Chị ta gạt lọn tóc cho khỏi vướng và liếc nhìn đồng hồ:
- Chào bác sĩ - Giọng chị ta nghèn nghẹn như thể vừa lấy lại được hơi thở.
- Chào Cindy. Đường xá tốt hơn tôi tưởng.
- Ồ vâng. Mời bác sĩ vào nhà.
Chị ta không tết tóc nữa nhưng nó vẫn cong cong. Hôm nay chị ta mặc áo ngắn tay và quần soóc trắng rất ngắn. Đùi của chị ta trắng, hơi xanh nhưng nói chung là cân đối và thon. Chiếc áo sơ-mi tay cắt ngắn để lộ đôi cánh tay và bờ vai mảnh khảnh. Viền áo phía dưới chỉ che được đến eo. Khi giữ cửa mời tôi vào chị ta có vẻ không được tự nhiên cho lắm và để lộ nhiều khoảng da hơn tôi tưởng.
Khi tôi bước vào, chị ta nhẹ nhàng đóng cửa để không gây tiếng động mạnh. Căn phòng không rộng lắm được bày biện khá gọn gàng. Trên tường treo các bức ảnh của Chip, Cindy và Cassie và một đứa bé tóc đen xinh xắn.
Tôi để ý đến bức ảnh Cindy chụp chung với một người phụ nữ cao tuổi. Lúc đó Cindy khoảng mười tám tuổi, mặc áo bu-dông trắng, quần jeans và đi ủng trắng. Người phụ nữ kia trông có vẻ hơi mập, mặc áo không cánh, quần dài và đi giầy trắng. Tóc bà ta màu xám đen cắt ngăn, môi mỏng đến nỗi hầu như không nhìn thấy. Cả hai người đều cười và đeo kính râm.
- Đó là dì tôi, bà Harriet - Cindy giải thích.
Còn nhớ chị ta lớn lên ở Ventura, tôi hỏi:
- Đây là ở cảng Oxnard à?
- Ở đảo. Những ngày nghỉ dì cháu tôi thường đến đó ăn trưa.
Chị ta lại nhìn đồng hồ và nói tiếp:
- Cassie vẫn đang ngủ. Con bé cũng vừa mới chợp mắt.
Tôi mỉm cười:
- Con bé lấy lại được thói quen hằng ngày khá nhanh đấy nhỉ. Vậy thì tốt rồi.
- Nó ngoan lắm... Tôi nghĩ nó sẽ sớm tỉnh dậy thôi.
Cindy có vẻ lúng túng.
- Tôi lấy cho bác sĩ chút gì uống nhé. Có trà đá trong tủ lạnh.
- Cảm ơn chị.
Tôi theo chị ta đi qua gian phòng khách rộng có kê giá sách, trường kỷ và mấy chiếc ghế dài còn mới. Trên giá xếp đầy những cuốn sách bìa cứng. Trông cách trang hoàng phòng khách có vẻ rất đàn ông.
Có phải đó là sự thống trị của Chip trong gia đình? Hay chị ta không thèm quan tâm đến phòng khách mà chỉ chú tâm vào bản thân mình thôi. Tôi vẫn lặng lẽ đi theo Cindy quan sát từng động tác và những bước đi dài của chị ta.
Phòng ăn được dán giấy màu nâu có lối dẫn thẳng sang nhà bếp lát gạch trắng và ốp gỗ sồi. Đồ đạc trong bếp đều mạ crôm bóng loáng. Phía trên bồn rửa có một cửa sổ nhỏ và một cửa khác lớn hơn thông qua sân sau được rào bằng sắt, trong sân mọc đầy cỏ. Tôi cố gắng nhìn xem còn gì trong sân không nhưng không thể.
- Bác sĩ ngồi đi - Cindy mời tôi.
Chị ta ngồi đối diện với tôi và đẩy cho tôi một ly trà đá lớn.
Cindy lấy một miếng giẻ lau mặt bàn, cố tránh ánh mắt của tôi. Tôi hớp một ngụm trà nhỏ và chờ đợi.
Một lúc sau chị ta lau xong, giặt miếng giẻ, vắt khô và cầm trên tay như thể không biết làm gì với nó.
Tôi giả vờ lơ đãng nhìn ra phía núi và nói bâng quơ:
- Hôm nay trời thật đẹp.
Chị ta gật đầu và nhìn xuống, lấy một miếng giấy nhỏ trong cuộn giấy đặt trên bàn lau khô mặt bàn. Tay chị ta vẫn ướt. Tôi phân vân đó có phải là hành động theo kiểu quý bà Macbeth hay chỉ là hành động để tránh căng thẳng?
Tôi im lặng nhìn Cindy lau bàn một lúc nữa thì thấy chị ta lại nhìn xuống dưới. Lần này tôi nhìn theo và tìm đến đúng bộ ngực của Cindy. Hai núm vú nhỏ nhưng thẳng đứng hằn rõ dưới lớp áo sơ mi đen mỏng.
Khi chị ta nhìn lên thì tôi cũng đã kịp nhìn đi nơi khác.
- Con bé sẽ sớm thức dậy thôi bác sĩ ạ. Nó thường chỉ ngủ từ một đến hai giờ.
- Xin thứ lỗi cho tôi vì đã đến quá sớm.
- Ồ không, không sao, tôi cũng không làm gì cả.
Chị ta vắt miếng giẻ lau và ném vào sọt rác ở dưới cái bồn rửa.
Tôi nói:
- Trong khi chờ đợi, chị có muốn hỏi gì về tình trạng của Cassie không?
- Hừm, cũng không hẳn, tôi chỉ phân vân không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng không phải vì thế mà bác sĩ buộc phải nói đâu.
Tôi gật đầu nhưng chị ta đang nhìn ra ngoài cửa sổ nên không nhận ra.
Bất ngờ chị ta rướn mình lên chỉnh mấy lọ cây treo trên cao, lưng quay về phía tôi để lộ ra phần eo thon thả. Động tác của chị ta lóng ngóng và làm rơi một chiếc lọ. Chiếc lọ cây va vào bồn rửa, và vỡ tung ra nền nhà.
Chị ta vội vã cúi xuống thu dọn. Đất bẩn vấy đầy tay và chiếc quần soóc trắng. Tôi đứng dậy nhưng chưa kịp giúp thì chị ta đã chạy vào phòng để đồ lấy ra một chiếc chổi quét dọn. Trông chị ta có vẻ hơi bực mình. Tôi lấy một miếng giấy nhỏ cho chị ta lau tay sau khi chị ta đã cất chiếc chổi đi.
- Tôi phải đi thay đồ đây - Chị ta nói và rút chiếc khăn đi sang phòng khác. Tôi tranh thủ thời gian đi quanh phòng, lục ngăn kéo đồ đạc và cảm thấy mình như một gã khờ khạo. Trong tủ đựng chén bát không có gì đáng chú ý ngoại trừ mấy thứ đồ dùng hàng ngày. Tôi nhìn ra phía cánh cửa mà chị ta vừa đi ra. Bên trong là phòng tắm và tôi cũng để ý đến căn phòng này. Nào là máy rửa bát, máy sấy, tủ đựng toàn xà phòng, nước rửa bát đĩa, nước lau kính... Đó là những thứ đồ để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn. Phần lớn chúng là những thứ độc hại, nhưng điều đó thì chứng minh được điều gì?
Tôi nghe tiếng bước chân và vội vàng trở lại bàn. Cindy đi vào, mặc áo bu-dông xanh rộng, quần jeans, đi xăng-đan - kiểu quần áo mà chị ta mặc ở bệnh viện.
- Tôi xin lỗi, tôi thật vụng về quá.
Chị ta đi về phía tủ lạnh, không hề có chuyển động nào từ phần ngực và cặp vú của chị ta.
- Bác sĩ uống thêm trà nhé.
- Không, tôi đủ rồi, cảm ơn chị.
Chị ta lấy ra một lon Pepsi, bật nắp và đến ngồi đối diện với tôi:
- Bác sĩ đi đường thế nào?
- Đường rất tốt.
- Không đông người thì đi thoải mái hơn.
- Ồ, đúng vậy.
- Tôi quên nói trước với ông, có chỗ họ cấm đường để mở rộng.
Chị ta tiếp tục nói những chuyện xã giao như thời tiết, làm vườn, giải trí...
Nhưng cách chị ta nói chuyện rất lạ: ngập ngừng, lúng túng như thể không tin vào trí nhớ của mình.
Tại sao họ lại sống ở đây? Tại sao con trai duy nhất của Chuck Jones lại chọn sống ở nơi cô quạnh này trong khi anh ta có thể sống ở bất kỳ nơi nào?
Lý do gần trường là không hợp lý.
Hay là một kiểu nổi loạn muốn khác người? Một kiểu nổi loạn để che giấu tội ác?
Một giả thuyết khác cũng có thể phù hợp: Những ông bố bà mẹ hay ngược đãi trẻ em thường giấu bí mật gia đình mình khỏi những con mắt tò mò tọc mạch của người bên ngoài.
Tôi bắt đầu chú ý đến giọng nói của Cindy. Nói chuyện về chiếc máy rửa bát, lời lẽ của chị ta nghe có vẻ hồi hộp. Chị ta nói là rất hiếm khi sử dụng máy mà thích rửa chén dĩa bằng tay hơn vì như thế sẽ nhanh khô hơn. Cách nói chuyện có vẻ kích động như chưa được nói chuyện với ai trong thời gian dài.
Cũng có thể lâu rồi chị ta không nói chuyện với ai. Tôi không nghĩ là Chip lại có thể dành ra một chút thời gian trong ngày để nói chuyện về công việc gia đình.
Tôi lại thử tính xem liệu trong số những cuốn sách trên giá thì có bao nhiêu cuốn là của chị ta và giữa họ có điểm gì chung.
Khi Cindy dừng lại một thoáng để lấy hơi, tôi nói:
- Ngôi nhà thật đẹp.
Câu nói của tôi không hề phù hợp với bối cảnh câu chuyện chúng tôi đang nói nhưng chị ta cũng chú ý ngay và hỏi lại tôi:
- Bác sĩ có muốn xem toàn bộ ngôi nhà không?
- Ồ, thế thì tốt quá.
Chúng tôi lại đi vào phòng ăn và chị ta lấy ra những chiếc nhẫn cưới trong một chiếc chuông cho tôi xem từng cái một.Sau đó chúng tôi sang phòng khách và chị ta kể cho tôi nghe những khó khăn trong việc lựa chọn thợ mộc đóng những chiếc giá sách vừa ý.
- Chúng tôi không hề sử dụng chút gỗ dán nào vì gỗ dán hay bị bong mà chúng tôi thì muốn nhà mình luôn luôn sạch bóng.
Tôi giả vờ chú ý nghe nhưng lại để tâm đến những cuốn sách. Có rất nhiều loại từ khoa học xã hội đến tâm lý, khoa học chính trị. Một số cuốn sách trông có vẻ cũ nhưng cũng không trước thời của Hemingway.
Ở giữa những chồng sách là các chứng chỉ và chiến tích. Một chiếc đĩa bằng đồng ghi dòng chữ: Trân trọng cảm ơn ngài C.L.Jones III, ngài đã cho chúng tôi thấy rằng việc dạy và học chỉ là một phần của tình bạn, tình hữu nghị. Câu lạc bộ sắp xếp, Trường cấp II Lourdes. Ngày tháng được ghi từ mười năm trước.
Ngay bên dưới là một cuốn giấy do Dự án gia sư Yale tặng cho Charles-Chip Jones vì đã có đóng góp cho bọn trẻ của bệnh xá tự do Haven mới.
Ngoài ra còn có các tặng phẩm và kỷ niệm chương của Trường Cao đẳng Nghệ thuật và Khoa học thuộc Đại học Connecticut. Ông bố Chuck quả là đã không nói dối.
Tôi để ý xem Cindy chú ý đến thứ gì. Chị ta đã dừng nói chuyện và quay sang tôi:
- Anh ấy là một nhà giáo vĩ đại. Ông có muốn xem phòng làm việc không?
Trong phòng toàn đồ đắt tiền. Những thành tích của Chip được để trong các hộp bằng đồng, gỗ và nhựa. Trên chiếc bàn kê ở mé trái của căn phòng là chiếc ti vi màu hình lớn và các thiết bị âm thanh nổi cộng với một bộ sưu tập các đĩa hát nhạc cổ điển và nhạc jazz.
Mảng tường duy nhất còn trống không bị các giá sách che kín có treo hai tấm bằng của Chip. Bên dưới giá sách là vài bức tranh màu nước miêu tả cảnh tuyết rơi, cây cối trơ trụi và những kho thóc làm bằng gỗ xù xì. Bên dưới một bức tranh có ghi "Mùa đông mới ở Anh". Không có chữ ký. Tác giả của bức tranh này có lẽ là người hâm mộ gia đình nhà Wyeth nhưng hạn chế về tài năng.
Cindy nói:
- Bà Jones mẹ của Chip vẽ những bức tranh đó đấy.
- Bà ấy sống ở miền Đông à?
Cindy gật đầu:
- Lâu rồi, từ khi Chip còn nhỏ cơ. Mà tôi cũng không chắc đâu. Hình như tôi nghe thấy tiếng Cassie đấy.
Chị ta giơ một ngón tay trỏ lên để thử gió.
Có tiếng rên rỉ đâu đó từ xa như tiếng máy. Tôi quay lại và phát hiện tiếng kêu đó phát ra từ một chiếc hộp màu nâu trên giá cao. Đó là hệ thống liên lạc nội bộ.
Cindy giải thích:
- Tôi thường bật nó lên khi con bé ngủ.
Tiếng kêu lại phát ra. Chúng tôi rời đó và đi ra một căn phòng lớn như hội trường trải thảm xanh. Phòng ngủ của Chip ở phía trước theo hướng chúng tôi đi ra. Căn phòng mở cửa. Bên cạnh phòng lớn là phòng ngủ và một cánh cửa đang đóng có lẽ là đường đi sang phòng tắm mà Cindy đã kể cho tôi nghe ban nãy. Phòng của Cassie ở phía cuối của phòng lớn này. Cửa vào hình vòm treo rèm trắng và vài thứ đồ trang trí màu hồng. Cassie đã ngồi dậy, mặc chiếc áo ngủ màu hồng và đang khóc thút thít. Căn phòng đầy mùi trẻ con.
Cindy bế con bé dậy, đầu của Cassie dựa vào vai mẹ. Con bé nhìn tôi một lát rồi lại cúi xuống.
Cindy thủ thỉ gì đó, nét mặt của Cassie có vẻ thoải mái hơn, nhịp thở đều đều. Cindy khẽ nựng con bé.
Tôi nhìn quanh căn phòng, có hai cửa ra vào ở mé tường phía nam và hai cửa sổ. Trên giường và trên sàn nhà bày đầy đồ chơi của trẻ con và sách. Ở giữa căn phòng là ba chiếc ghế nhỏ.
Cindy bế Cassie ngồi xuống chiếc ghế đu. Trông con bé không còn chút gì căng thẳng.
Cindy vừa bế vừa ru và vỗ nhè nhẹ vào lưng Cassie. Cassie thở đều đều và rúc vào ngực Cindy vẻ thoả mãn.
Tôi ngồi xuống nền nhà chân bắt chéo vừa xem mấy thứ đồ lặt vặt trên sàn nhà vừa suy nghĩ, nghi ngờ, tưởng tượng những trường hợp xấu nhất có thể xảy ra.
Được một lúc tôi bắt đầu thấy mỏi chân và đứng dậy thư giãn. Cindy vẫn theo dõi tôi. Chị ta tỳ cằm lên đầu Cassie và ôm con bé vào lòng.
Tôi tự nhủ: phải tranh thủ thời gian, và đi quanh căn phòng nhìn ngó xem xét những đồ đạc nhưng lại không hề tỏ ra tò mò.
Thật chu đáo, mỗi thứ đồ chơi đều an toàn, phù hợp với lứa tuổi và có tính giáo dục.
Có thứ gì đó ở góc phòng làm tôi chú ý. Đó là chiếc răng cửa của một con búp bê LuvBunny. Dưới ánh sáng mờ mờ của căn phòng, bọn búp bê trông thật độc ác. Tôi liên tưởng đến nụ cười nhăn nhở mà tôi đã nhìn thấy trong phòng điều trị của Cassie và một ý nghĩ điên rồ thoáng qua.
Những đồ chơi có thuốc độc. Bị vô tình đầu độc.
Tôi đã từng đọc trên một tờ báo sức khoẻ trẻ em rằng những con búp bê Hàn Quốc được nhồi bằng chất sợi thải ra từ một nhà máy hoá chất.
Delaware sẽ vén bức màn bí mật và mọi người ai nấy vui vẻ trở về nhà mình.
Cầm một con màu vàng lên, tôi xem phần bụng của nó và đưa lên mũi nhưng không thấy mùi gì. Tấm mác dưới bụng con búp bê ghi: "Sản xuất tại Đài Loạn bằng chất liệu sạch và chống cháy". Có cái gì đó ở dưới đường may - hai chiếc khoá. Một chỗ khía hình chữ L như kiểu chiếc nút. Tôi kéo khoá ra và tiếng động làm cho Cindy quay lại. Chị ta có vẻ ngạc nhiên.
Tôi giả vờ quay đi như không thấy gì, kéo khoá đóng lại chỗ nút trên mình con búp bê và đặt nó trở về vị trí cũ.
Cindy hỏi bằng giọng gần như thì thầm:
- Con bé bị dị ứng với các sợi nhồi bông bên trong có phải không? Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó. Nhưng bác sĩ Eves đã làm xét nghiệm và kết luận nó không bị dị ứng gì cả. Ngày nào tôi cũng giặt những con búp bê này và ngâm trong nước xả Ivory cơ mà.
Tôi gật đầu.
- Vợ chồng tôi cũng thường kéo thảm lên xem liệu có ẩm mốc hay ẩn chứa chất gì đó gây hại hay không. Chip từng nghe nói tới những người bị bệnh trong văn phòng và gọi chúng là những văn phòng mang bệnh. Máy điều hoà không khí cũng đã được lau chùi và Chip còn kiểm tra sơn tường xem có chất chì hoặc hoá chất khác không.
Giọng của chị ta ngày càng to và có vẻ lo lắng. Cassie cựa mình, Cindy lại vỗ về con bé.
- Ngay từ đầu tôi đã luôn luôn để ý. Đứa thứ nhất, rồi bây giờ là đứa thứ hai bị ốm đau. Hay là số phận không cho tôi được làm mẹ.
Tôi tiến lại và đặt một tay lên vai chị ta. Chị ta lùi lại tránh bàn tay của tôi và luồn ra khỏi chiếc ghế đu, nước mắt tuôn trào, tay run rẩy dúi Cassie vào tay tôi.
- Đây này, bác sĩ xem. Tôi không còn biết mình đang làm gì nữa. Tôi không phải là một người mẹ...
Cassie bắt đầu khóc và mở miệng đớp không khí. Cindy đẩy con bé về phía tôi và chạy ra ngoài. Tôi ôm lưng Cassie, con bé giãy giụa và không chịu theo tôi. Tôi cố gắng dỗ dành nhưng Cassie nhất định không nghe.
Cindy mở cửa nhà tắm chạy vào và đóng sầm lại. Tôi nghe thấy tiếng nôn oẹ và xối nước.
Cassie càng hét to, cào cấu cả mặt tôi. Tôi vừa phải tránh những đợt cào cấu, đánh đập của con bé vừa phải dỗ dành. Con bé rướn mình lên đòi ra và suýt trượt khỏi tay tôi.
Cuối cùng Cindy đi ra, lau mắt. Tôi tưởng chị ta sẽ bế Cassie đi đâu nhưng chị ta chỉ đón lại đứa con và đi quanh phòng. Cindy phải đi đi lại lại đến mấy chục vòng Cassie mới chịu yên.
Cindy vừa đi loanh quanh vừa nói:
- Xin lỗi bác sĩ, tôi thực sự xin lỗi.
Mắt và má của chị ta vẫn ướt. Tôi an ủi chị ta nhưng Cassie vừa nghe thấy tiếng tôi lại hờn. Tôi đi đến chỗ chiếc bàn để ở góc phòng và ngồi xem mấy thứ linh tinh.
Được một lúc thì Cassie yên lặng và mắt nhắm lại.
Cindy trở lại chiếc ghế đu và nói:
- Tôi xin lỗi, tôi thật là bà mẹ tồi tệ.
Cindy nói nhẹ chỉ đủ nghe nhưng Cassie vẫn mở mắt ra và oà khóc.
Cindy lại phải nựng và dỗ dành con bé một hồi. Chị ta phải kể hết chuyện nọ đến chuyện kia để dỗ đứa trẻ kể cả chuyện ở bệnh viện tôi vẽ tranh cho con bé.
Tôi ngồi lại một lúc rồi đứng dậy.
- Bác sĩ về sao? - Cindy hỏi giọng hốt hoảng.
Tôi chỉ vào phía phòng tắm:
- Tôi có thể nhờ một chút không?
- Ồ, ông cứ tự nhiên. Còn một phòng nữa ở ngay lối vào phòng lớn.
- Cái này được rồi.
Tôi đóng cửa, mở vòi nước và rửa mặt. Liếc nhìn vào gương, tôi thấy mình già đi vì những nghi ngờ.
Tấm gương cũng chính là cửa một tủ thuốc. Tôi mở chốt và thấy bên trong toàn là thuốc cảm cúm, đau đầu, dao cạo của nam giới và vài thứ kem chống nắng, dưỡng ẩm của phụ nữ.
Tôi đóng cửa tủ thuốc và tắt vòi nước. Vẫn có tiếng Cindy dỗ dành đứa bé. Trước kia con bé đã quen và chịu chơi với tôi nhưng bây giờ không hiểu tại sao nó lại phản ứng dữ thế.
Trời không cho tôi được làm mẹ... Tôi thật là một bà mẹ tồi tệ.
Tôi liếc mắt nhìn xuống dưới và lại phát hiện ra một cái tủ khác. Tôi thầm nghĩ họ thật cẩn thận.
Tôi thận trọng khom người xuống và mở chiếc tủ ra. Bên trong là các đoạn ống, hộp linh tinh và giấy vệ sinh. Dưới những hộp này là hai chai nước súc miệng màu xanh mùi bạc hà và một can aerosol nhỏ. Tôi kiểm tra cái can này và phát hiện ra nó mùi nhựa thông. Tôi nhấc cái can lên nhưng lại vô tình làm rơi vì vậy tôi phải với tay ra cố đỡ lấy nó để khỏi phát ra tiếng động. Tôi đỡ được chiếc can nhưng tay lại chạm vào vật gì đó ở góc xa bên phải.
Tôi đẩy mấy cuộn giấy ra ngoài và lôi vật đó ra. Đó là một hộp đựng danh thiếp trên có in hình logo là một mũi tên đỏ và biểu tượng của Tập đoàn Y được Holloway. Bên trên dòng chữ này còn có mấy chữ: mẫu, chuyển đến: Bác sĩ Ralph Benedict".
Tôi mở chiếc hộp này ra và phát hiện bên trong có một cuốn sách giới thiệu nhỏ màu nâu. Những hàng chữ đen trên bìa ghi Insuject xuất bản từ năm năm trước. Văn phòng của Hãng Y tế Holloway ở San Francisco.
Tôi mở trang bên trong, đoạn thứ nhất của cuốn sách ghi:
Insuject là hệ thống điều chuyển siêu nhẹ có thể điều chỉnh liều lượng có tác dụng đối với insulin dưới da ở người khi dùng liều lượng từ 1 đến 3 đơn vị. Insuject nên được dùng kết hợp với các yếu tố khác của hệ thống Insuease Holloway như các loại kim tiêm sử dụng một lần và đầu bơm Insuject.
Đoạn thứ hai nói về các điểm mạnh của hệ thống sản phẩm này: Nhẹ, dễ di chuyển, kim tiêm siêu nhỏ hạn chế đau và những tổn thương ngoài ý muốn... Một loạt các đoạn khác mô tả các kim tiêm, cách đưa những đầu bơm vào ống và cách tiêm insulin ở dưới da.
Đầu kim tiêm siêu nhỏ sẽ hầu như không để lại tổn thương nào như Al Macauley đã miêu tả. Cho dù có kiểm tra chỗ vừa được tiêm cũng không phát hiện ra điểm đó.
Tôi khua tay vào hộp xem còn sót lại kim tiêm nào không nhưng chỉ còn các ống xi lanh. Có thể ai đó đã lấy đi hết rồi. Nhưng có thể những đầu bơm thì còn trong tủ lạnh nhà bếp. Tôi sắp đặt lại mọi thứ và bỏ cuốn sách vào túi. Tôi lại giả vờ ho khan mấy tiếng rồi cố tìm xem còn có chỗ nào giấu đồ không.
Khả năng duy nhất là bồn nước xả toa lét. Tôi lật nắp chiếc bồn xả lên và nhìn vào trong. Không có gì trong đó ngoài hệ thống cần bơm và xả nước toa lét.
Những chiếc kim siêu nhỏ... Có thể nhà tắm là nơi cất giấu lý tưởng loại đồ vật này.
Đóng cửa lại, tôi đi rón rén vào phòng Cassie.
Vết kim tiêm có thể làm con bé giật mình tỉnh giấc và khóc nhưng nó đã không biết gì.
Cũng không ai biết việc đó cả. Tỉnh dậy và khóc là chuyện rất bình thường đối với đứa trẻ ở độ tuổi đó nhất là con bé này lại hay ốm yếu.
Liệu bóng tối có che giấu được kẻ tiêm trộm không?
Trong phòng, Cindy vẫn đang nói chuyện nhẹ nhàng thủ thỉ với con bé.
Hoặc có thể còn một giả thuyết khác - những chiếc xi lanh và kim tiêm đó cần thiết đối với Cindy hoặc Chip.
Không - Stephanie nói đã kiểm tra cả hai người xem có mắc bệnh về trao đổi chất hay không nhưng họ đều khoẻ mạnh.
Tôi nhìn cánh cửa phòng ngủ của chủ nhà và liếc đồng hồ. Tôi đã mất ba phút trong toa lét nhưng lại có cảm giác như đã ở trong đó một tuần vậy. Mở cửa, tôi rón rén đi vào, thật may căn phòng trải thảm nên bước chân của tôi không hề phát ra tiếng động nào.
Căn phòng có khá nhiều đồ: Một chiếc giường ngủ theo phong cách Victoria bóng loáng, giá sách, điện thoại, giá treo quần áo trên có có mấy chiếc quần jeans. Chiếc giường được sắp đặt gọn gàng. Căn phòng có mùi nhựa thông sát trùng như tôi vừa thấy trong phòng tắm.
Rất nhiều chỗ phải sát trùng. Tại sao vậy?
Có một ngăn kéo ở phía tường đối diện với giường, tôi mở chiếc ngăn kéo ra, bên trong toàn là đồ lót và băng vệ sinh phụ nữ. Tôi tiếp tục tìm kiếm ở chiếc ngăn kéo bên dưới xem có thấy những chiếc đĩa của Dawn đã bị mất không. Không có gì ngoài mấy thứ đồ dùng như quần áo, máy camera, ống nhòm, mấy quyển sách...
Có thể chỗ xó tối trong buồng vệ sinh giấu thứ gì đó nhưng tôi đã ở trong này quá lâu rồi. Tôi đóng cửa lại và đi sang phòng tắm. Không còn tiếng nước chảy và Cindy cũng đã ngưng nói chuyện.
Liệu chị ta có nghi ngờ sự vắng mặt quá lâu của tôi không? Tôi lại giả vờ hắng giọng và xả nước. Lại có tiếng của Cindy - có vẻ không bằng lòng với điều gì đó nhưng rồi cũng trở lại với giọng vỗ về của người mẹ.
Tôi lấy chiếc hộp trắng, giả vờ lấy giấy vệ sinh và xả nước bồn cầu. Xong mọi việc, tôi đẩy cửa bước ra và cố gắng cười gượng.
Hai mẹ con họ vẫn ở chỗ bàn trò chơi. Khi Cassie nhìn thấy tôi, con bé lại quay đi, bám chặt lấy mẹ hơn. Cindy dỗ con và phát hiện ra chiếc hộp trên tay tôi. Chị ta nhìn nó trừng trừng rồi quay sang nhìn tôi. Tôi cũng nhìn chị ta xem có biểu hiện gì của người có tội không.
Không nhận ra điều gì cả.
- Tôi tìm giấy vệ sinh và vô tình thấy cái này.
Cindy hơi rướn về phía trước và đọc chiếc nhãn màu vàng.
Cassie lại cựa quậy trong lòng mẹ cố tìm sự vỗ về nhưng không được, con bé quay sang khóc to hơn.
- Nín đi, nín đi con - Cindy dỗ con nhưng vẫn nhìn chiếc hộp - Lạ thật, đã lâu lắm tôi không nhìn thấy nó.
- Tôi không có ý tò mò nhưng tôi biết Holloway có sản xuất các thiết bị chống bệnh tiểu đường và khi nhìn thấy những thứ này tôi chợt nghĩ đến tình trạng bệnh tật của Cassie. Chị hay Chip có bị mắc bệnh tiểu đường không?
- Ồ, không, không. Đó là căn bệnh của dì Harriet. Ông tìm thấy những thứ này ở đâu?
- Bên dưới bồn nước xả.
- Tôi không nhìn thấy những thứ này đã lâu lắm rồi. Tôi dọn dẹp nhà dì ấy và nghĩ đã vứt hết thuốc men đi rồi.
- Có phải ông Benedict là bác sĩ của bà ấy không?
- Vâng, là bác sĩ và chủ của dì tôi.
Cindy vừa nựng con vừa cười nói:
- Thật buồn cười, nó ở ngay dưới đó mà tôi không phải hiện ra trong một thời gian dài. Tôi thật lơ đãng. Xin lỗi vì đã để bác sĩ phải đi tìm giấy vệ sinh, thường thì tôi thay luôn khi nó sắp hết.
- Ồ, không sao - Tôi nói và lấy trong hộp ra một chiếc xi lanh xoay xoay trên tay.
Cassie nhìn thấy và đòi:
- Bút chì...
- Ồ không, đó không phải là bút chì đâu con.
Cassie vẫn đòi chiếc xi lanh, tôi đưa cho con bé, Cindy tỏ vẻ rất ngạc nhiên.
Cassie đưa chiếc xi lanh lên miệng khẽ nhấm nháp và đặt xuống viết lên tờ giấy.
- Đó, mẹ đã bảo rồi, đây không phải là bút chì, nếu con muốn viết thì phải dùng cái này.
Cassie không thèm để ý đến cục tẩy Cassie đưa cho mà vẫn nhìn ngắm chiếc xi lanh. Được một lúc thì con bé quẳng nó xuống bàn và lại quấy.
- Nào con, hãy vẽ với bác sĩ Delaware đi nào.
Nghe nhắc đến tên tôi, con bé càng gắt.
- Ồ, con yêu, bác sĩ Delaware đã vẽ nhiều thứ cho con rồi đó, con còn nhớ không? Những con hà mã, kan-gu-ru, con còn nhớ những con kan-gu-ru không?
Con bé càng gắt to hơn.
- Ngoan nào con - Cindy vẫn nhẹ nhàng, không hề quát mắng con.
- Kìa, cẩn thận không đánh gẫy mất bút chì kìa. Nào, con...
- U, u - Cassie cố trườn khỏi bọc Cindy.
Cindy nhìn tôi.
Tôi cũng không có ý kiến gì.
Cindy hỏi:
- Tôi có nên để cho con bé xuống không, bác sĩ?
Tôi đáp:
- Không sao, chị cứ để nó xuống.
Cassie được đặt xuống nền nhà và con bé bò ngay vào gầm bàn.
Cindy nói:
- Tôi đã cùng con bé vẽ chút ít trong khi đợi ông. Tôi nghĩ chắc con bé thấy chán rồi.
Nói đoạn Cindy cúi xuống gầm bàn và hỏi:
- Con đã chán vẽ chưa Cassie, có thích làm gì đó khác không?
Cassie không trả lời mà vẫn tiếp tục bò dưới bàn.
Cindy thở dài:
- Thành thật xin lỗi bác sĩ. Tôi thật không biết phải làm gì nữa. Mọi thứ cứ rối tung cả lên.
- Con mọn là thế mà - Tôi nói và vẫn mân mê chiếc xi lanh trong tay xem chị ta có tỏ thái độ gì không.
- Vâng, nhưng hình như tôi chỉ làm cho bác sĩ và Cassie thêm khổ.
- Chúng ta nói chuyện riêng một chút nhỉ.
- Vâng - Cindy trả lời và nhìn xuống gầm bàn - Nào, đã ra được chưa Cassie?
Không trả lời.
Tôi nói:
- Phiền chị cho tôi thêm một tách trà nữa.
- Vâng, tôi lấy ngay bây giờ đây - Quay sang Cassie, Cindy nói - Cassie, mẹ và bác sĩ Delaware vào bếp một lát đây.
Cindy và tôi đi vào trong bếp nhưng chúng tôi vừa đến ngưỡng cửa thì Cassie bò ra chạy theo Cindy, hai tay giơ về phía trước và lao vào lòng mẹ. Tôi đi theo hai mẹ con vào bếp.
Cindy mở tủ lạnh, với bình nước nhưng đúng lúc đó Cassie trườn xuống và Cindy phải dùng cả hai tay để đỡ con. Tôi tranh thủ ngay cơ hội:
- Chị cứ trông con bé đi để tôi tự lấy cũng được.
- Vậy để tôi lấy cho bác sĩ chiếc ly.
Cindy nói và đi về phía giá để chén bát. Đúng lúc Cindy quay đi tôi ngó một lượt trong tủ. Những thứ có vẻ giống thuốc nhất chỉ là một thỏi bơ thực vật không cholesteron và một thỏi bơ Mỹ.
Sau khi lấy bình nước ra, tôi đóng cửa tủ lại. Cindy đặt chiếc ly xuống bàn, tôi rót một nửa ly và uống.
Cassie nhìn tôi với vẻ tò mò của trẻ con. Tôi mỉm cười với con bé và con bé lại nhướng mày ngờ vực.
Cindy nói:
- Tôi lấy cho bác sĩ chút gì đó nữa nhé?
- Ồ, đủ rồi, tôi xin cảm ơn. Chúng ta nên ra khỏi đây thôi - Tôi nói và đưa cho chị ta chiếc hộp.
- Không, tôi không cần nó. Có thể bệnh viện cần đến nó vì nó rất đắt. Đó là lý do tại sao bác sĩ Ralph thường gửi cho chúng tôi các thuốc mẫu.
- Chị thật tốt bụng - Tôi ra vẻ mừng rỡ và cầm chiếc hộp cất đi.
- Chắc chắn là chúng tôi không dùng đến và thật lạ là bác sĩ lại tìm thấy chúng và gợi lại trong tôi những kỷ niệm - Chị ta bắt tay tôi và cúi xuống nói với Cassie - Nào, con, chúng ta đi tiễn bác sĩ Delaware nào.
Chúng tôi đi ra phòng ngoài và lại nhìn những tấm ảnh. Tôi nhận ra là không có cái nào của bố mẹ Chip. Tôi chú ý đến Cindy và bà dì chị ta.
Cindy nhẹ nhàng:
- Hôm đó dì cháu tôi đi dạo trên bến cảng. Bà ấy thường đi dạo rất nhiều để chữa bệnh.
- Thế bệnh của bà ấy có tiến triển được chút nào không?
- Ồ, có, dì ấy hạn chế được rất nhiều. Khi còn sống chung với dì ấy, tôi không được phép ăn bất kỳ loại kẹo hay đồ hộp nào. Vì vậy tôi không thèm những thứ đó và chúng tôi cũng không có nhiều ở trong nhà.
Cindy hôn Cassie và nói:
- Tôi nghĩ nếu bây giờ con bé này mà không quen với đồ ngọt thì sau này nó cũng không thích đồ ngọt đâu.
Tôi không nhìn tấm hình nữa.
Cindy tiếp:
- Chúng tôi làm mọi thứ để nó khoẻ, không có sức khoẻ thì chẳng làm được gì phải không bác sĩ? Chúng ta thường nghe nói như thế khi còn trẻ nhưng chỉ lúc có tuổi chúng ta mới thấy đúng.
Một thoáng đau đớn hiện lên trong đôi mắt chị ta.
- Đúng vậy. Thế ngày mai chúng ta lại gặp nhau ở đây có được không?
- Được.
- Vậy khoảng mấy giờ?
- Có hay không có con bé này?
- Không có thì tốt hơn nếu có thể.
- Vậy thì phải là khi nào nó ngủ. Thường thì từ một đến hai giờ, hai giờ rưỡi con bé ngủ trưa sau đó khoảng bảy đến tám giờ thì nó đi ngủ buổi tối. Bác sĩ có thể đến khoảng tám giờ cho chắc chắn được không?
- Được.
- Tám giờ thì có thể Chip cũng ở nhà rồi, như vậy sẽ tốt hơn phải không?
- Chắc chắn rồi, hẹn gặp lại ngày mai.
Quay trở lại Topanga, tôi rẽ vào trạm gas đầu tiên và nhân tiện gọi điện đến chỗ làm việc của Milo.
Anh nói:
- Anh gọi điện đến thật đúng lúc. Tôi vừa nói chuyện với Fort Jackson xong. Bệnh của Cindy không có gì nghiêm trọng. Không phải viêm phổi hay viêm màng não mà chỉ là bệnh lậu thôi. Họ đuổi cô ta vì chuyện này. Như vậy có nghĩa là cô ấy mới làm việc chưa đầy một trăm tám mươi ngày và họ muốn tống khứ cô ta trước khi phải trả bất kỳ khoản phúc lợi nào.
- Đơn giản thế thôi sao?
- Còn có lý do khác. Trong bốn tháng làm việc ở đó, cô ta đạt kỷ lục về vấn đề lang chạ tình dục.
Tôi nói:
- Tôi vừa đến thăm nhà Cindy và lần đầu tiên tôi nhận thấy sự khêu gợi của chị ta. Tôi đến sớm hơn giờ hẹn với chủ định xem tại sao chị ta lại không muốn tôi đến trước hai rưỡi. Chị ta buông tóc trông rất lãng mạn, mặc quần soóc, áo ngắn tay và không hề đeo coóc-sê.
- Cô ta chủ động?
- Không, thực ra chị ta có vẻ thiếu tự nhiên. Vài phút sau chị ta làm bẩn quần áo của mình và đi thay bộ đồ khác kín đáo hơn.
- Có thể người tình của cô ta vừa về thì anh đến.
- Có thể. Chị ta nói với tôi từ một đến hai giờ là thời gian Cassie ngủ trưa và Chip thì dạy từ mười hai giờ đến hai giờ. Có thể khoảng thời gian đó đủ để làm xong một phi vụ chứ. Tôi còn thấy trong phòng ngủ có mùi thuốc khử trùng.
- Có thể để che giấu mùi tình dục. Thế anh không bắt gặp ai à? Hoặc chiếc xe nào đó đi ra?
- Chỉ có một gã đàn ông đi ra ở nhà bên cạnh. Mà này... anh nghĩ có chuyện đó à?
Milo cười:
- Chắc chắn rồi. Tôi thường nghi ngờ tất cả mọi người. Thế gã kia thế nào? Anh có vẻ có lý rồi đó.
- Anh ta ở nhà bên cạnh, không phải ở nhà chị ta.
- Thế thì sao? Chẳng có gì là lạ nếu anh ta làm một lúc mấy phi vụ. Chỗ đó xa thành phố, có thể anh ta đã làm mọi thứ ở nhà bên cạnh. Nhà Jones có ao hồ gì không?
- Có nhưng đã bị lấp rồi.
- Hãy thử tả qua về cái gã lái xe đó xem nào?
- Một gã còn trẻ, da hơi ngăm đen, tóc cột kiểu đuôi ngựa. Biển số xe tải của gã ghi "Dịch vụ hồ bơi ValleyBrite".
- Anh ta cũng nhìn thấy anh đi vào?
- Có, gã dừng lại một lát, thò đầu ra khỏi cửa sổ nhìn tôi trừng trừng và cười nhăn nhở. Gã còn giơ ngón tay cái nhìn lên kiểu làm hiệu gì đó.
- Có vẻ thân thiện nhỉ. Ngay cả trường hợp anh ta vừa vui vẻ với cô ta thì có thể anh ta không phải là người duy nhất. Hồi còn ở trong quân đội cô ta cũng như vậy.
- Làm thế nào mà anh biết tất cả những điều đó về chị ta?
- Không phải dễ đâu, Quân đội thường cố giấu những điều không hay. Đó có thể là nguyên tắc của họ. Charlie đã mất nhiều thời gian tìm hiểu về tiểu sử của cô ta nhưng không đi đến đâu cả. Cuối cùng tôi đành tự hạ thấp mình gọi điện cho ông đại tá, và có được những thông tin đó thôi.
- Cảm ơn anh.
- Gã sỹ quan không có vẻ gì là kênh kiệu cả. Gã cung cấp luôn cho tôi cấp bậc, số hiệu và lý do cô ta thôi việc. May mắn là tôi lại gặp đúng nhân viên phụ trách hồ sơ và thuyết phục được anh ta gọi điện đến Nam Carolina. Anh ta gặp được một nữ đại uý mà hồi Cindy còn làm việc thì mới là hạ sĩ. Bà ta nhớ Cindy rất rõ cứ như thể cô ta là trung tâm của các cuộc trò chuyện trong doanh trại vậy.
- Đó là một doanh trại toàn nữ, liệu chúng ta có đang nói chuyện về vấn đề tình dục đồng giới không đấy?
- Không. Cô ta thường xuyên vào phố, thường xuyên đi phép và truy hoan tại các quán bar. Cuối cùng thì theo nữ đại uý này cô ta đã chăn dắt được một đám thanh niên trong đó có con trai ngài thị trưởng. Cô ta đã khiến tay làng chơi đó bị bệnh lậu. Ông thị trưởng đến doanh trại gặp người chỉ huy và cô ta phải ra đi. Thế thôi, có gì liên quan đến vụ Munchausen không?
- Tình dục không phải là vấn đề chúng ta điều tra nhưng nếu anh chú ý thì cũng chẳng sao. Hơn nữa, với chứng Munchausen thì loạn luân thời niên thiếu và thói quen lang chạ tình dục có thể đưa đến phản ứng như vậy. Điều chắc chắn phù hợp với hồ sơ đó là chị ta quen với tình trạng bệnh tật nguy hiểm và bệnh lây qua đường tình dục không phải là rắc rối đầu tiên của chị ta. Bà dì, người đã nuôi chị ta, còn bị mắc bệnh tiểu đường.
- Ồ thú vị thật.
- Chờ một lát, còn nữa đây.
Tôi kể cho Milo nghe về việc tìm thấy Insujects ở nhà Cindy.
Tôi tiếp:
- Tôi nghĩ đây chính là cái mà chúng ta chờ đợi. Nhưng chị ta lại không tỏ vẻ gì là có tội hay lo lắng hồi hộp gì cả, chỉ ngạc nhiên không biết những thứ đó ở bên dưới cái bồn nước. Chị ta nói đó là những thứ của bà dì và đã vứt chúng đi trong khi dọn dẹp ngôi nhà của bà ấy. Đây có thể lại là một lời nói dối vì trên chiếc hộp đó không hề có vết bụi nào cả.
- Bà dì cô ta chết đã lâu chưa?
- Bốn năm nay. Bác sĩ của bà ấy cũng là ông chủ luôn.
- Tên ông ta là gì?
- Ralph Benedict. Khỉ gió, tôi lại đoán ông ta là một người tình bí mật. Ai có thể giỏi hơn một bác sĩ trong việc làm giả bệnh chứ? Tôi thấy chị ta thường đi lại với những tay già hơn và chẳng phải đã lấy một người như thế còn gì...
- Cả những tay trẻ hơn nữa chứ.
- Có thể có lý đấy - bác sĩ đồng thời là người tình. Có thể Benedict cung cấp thuốc cho chị ta và huấn luyện chị ta cách làm giả bệnh ở đứa con.
- Ý đồ của ông ta?
- Tình yêu thôi. Có thể ông ta thấy mấy đứa trẻ thật phiền nhiễu và muốn loại bỏ chúng để chiếm Cindy, cùng một khoản tiền của Chip. Là bác sĩ, ông ta hoàn toàn biết phải làm thế nào để dựng lên một màn kịch. Nếu cả hai đứa trẻ trong một gia đình lần lượt chết thì có thể gây nghi ngờ. Nhưng nếu cái chết của chúng khác nhau và có lý do về bệnh phù hợp thì sẽ che mắt được mọi người.
Milo nói:
- Tôi sẽ kiểm tra về gã bác sĩ này xem sao.
- Cindy lớn lên ở Ventura, có thể ông ta còn ở đấy.
- Tên của công ty bán những ống xi lanh cho ông ta là gì?
- Công ty dược Holloway, San Francisco.
- Họ còn gửi cho ông ta những gì nữa và khi nào? Những chiếc xi lanh rỗng?
- Không, đó chỉ là một bộ phận của thiết bị thôi - Tôi mô tả cho anh hệ thống Insuject.
- Không có kim tiêm hay thuốc men gì ở trong chiếc bồn à?
- Không - Tôi kể lại cho Milo chuyện lục soát phòng ngủ và tủ lạnh.
Tôi nói tiếp:
- Có thể chúng ở bất kỳ chỗ nào trong ngôi nhà. Liệu có thể kiếm được một lệnh khám nhà không?
- Chỉ với cái cớ là anh đã tìm thấy những chiếc xi lanh đó à? Tôi nghĩ là khó lắm. Nếu như anh đã tìm được cả xi lanh, kim tiêm và insulin được bơm đầy ở đó thì còn có thể. Đó sẽ được xem là bằng chứng để trù tính, mặc dù cô ta vẫn có thể chối rằng những thứ đó là do bà dì để lại.
- Nếu chất insulin còn tươi thì chắc chị ta không cãi được chứ. Tôi không chắc về tuổi thọ của chất này nhưng không đến bốn năm đâu.
- Vậy thì anh hãy tìm cho tôi một chút insulin còn tươi đi, tôi sẽ lập tức đến gặp quan toà ngay. Còn bây giờ thì chưa có một chút chứng cứ nào có thể xâu chuỗi được cả, anh bạn ạ.
- Kể cả việc lượng đường huyết của Cassie bị xuống thấp ư?
- Đúng thế. Nhưng thôi, tôi xin lỗi. Tôi còn đang tự hỏi không biết tại sao cô ta lại bỏ những thứ đó vào chỗ ấy.
- Có thể chị ta không ngờ có ai đó lại nhòm vào đó. Chiếc hộp đó được nhét vào trong góc phòng và tôi phải cúi người xuống mới tìm thấy.
- Thế cô ta không nghi ngờ gì khi thấy anh lục lọi nhà vệ sinh của cô ta à?
- Nếu có thì chị ta cũng không thể hiện. Tôi bịa ra câu chuyện hết giấy vệ sinh nên phải tìm bên dưới và vô tình phát hiện ra thứ đó. Chị ta chỉ xin lỗi là đã không chu đáo thôi.
- Anh sẽ lại đến chứ?
- Tôi sẽ đến, mọi thứ còn chưa rõ ràng.
Tôi kể cho anh việc Cindy đẩy Cassie cho tôi và sự hoảng hốt sau đó của Cassie.
- Trước đó tôi với con bé khá thân thiện. Nhưng lúc đó tình hình lại khác hoàn toàn. Liệu có phải Cindy đã nói xấu tôi không?
- Cô ta đóng kịch rất tốt đấy chứ?
- Có những điều chị ta kể với tôi cho thấy chị ta rất biết kiềm chế. Khi Cindy còn nhỏ, bà dì kiên quyết không cho ăn đồ ngọt mặc dù chị ta không hề có biểu hiện gì về bệnh tiểu đường cả. Có thể vấn đề này không liên quan gì đến vụ Munchausen nhưng lại là sự thể hiện về bệnh học - không cho phép một đứa trẻ khoẻ mạnh thi thoảng được ăn kem.
- Bà dì truyền bệnh tiểu đường sang cô ta?
- Chính xác. Và biết đâu còn có các bệnh khác nữa. Tôi chỉ suy đoán thôi. Cindy cũng nói chị ta hạn chế cho Cassie ăn đồ ngọt. Thoạt nhìn thì có vẻ là người mẹ chu đao. Nhưng có thể nó lại ẩn chứa điều gì đó kỳ lạ liên quan đến đường.
- Tội ác của các bà mẹ.
- Bà dì là mẹ kế của Cindy và cách Cindy làm đối với Cassie cũng theo kiểu mẫu đó: Một người bị mắc bệnh và ý thức được việc phải kiểm soát nó như thế nào. Cindy nói về điều đó có vẻ tự hào lắm. Cứ như thể chị ta lớn lên đã là mẹ, là người bị bệnh và rất ý thức về nó: tự kiềm chế. Cũng không có gì lạ khi chị ta chọn con đường vào quân đội ngay khi học xong cấp ba. Đó dường như là sự dịch chuyển từ môi trường này sang môi trường khác. Khi môi trường quân đội không phù hợp, chị ta liền chuyển sang học kỹ thuật hô hấp vì bà dì nói đó là nghề tốt.
- Cô ấy có nói tại sao lại không học hết trường kỹ thuật hô hấp không?
- Không, anh đang nghĩ gì vậy? Lại tình trạng lang chạ tình dục?
- Tôi hay tư duy theo hệ thống mà. Thế cô ta làm gì sau đó?
- Vào trường cao đẳng, nơi chị ta gặp Chip. Chị ta bỏ học giữa chừng để lấy chồng và có bầu ngay. Cuộc hôn nhân là một bước tiến về mặt xã hội đối với chị ta nhưng chị ta lại phải sống trong tình trạng cô độc.
Tôi tả cho Milo nghe về khu vực Dunbar.
- Đó quả là cái chết từ từ cho những ai thích giao du, Milo ạ. Ngay cả khi Chip về nhà thì cũng không hề có gì cải thiện cả. Ông ta thực sự là con người của trường đại học, một con cá lớn trong cái hồ quá nhỏ. Trên đường đến nhà ông ta tôi có rẽ qua trường học và gặp ông ấy đang giảng bài. Chị ta hoàn toàn bị cách ly khỏi thế giới bên ngoài. Ngôi nhà hết phòng này đến phòng khác chứa toàn sách, những thành tích của ông ta và những đồ đạc mang phong cách đàn ông. Ngay cả ở nhà của mình chị ta cũng không có dấu ấn gì cả.
- Thế nên cô ta tạo dấu ấn với đứa bé?
- Có lẽ chị ta đã sử dụng những đồ quen thuộc từ hồi còn bé như xi lanh, kim tiêm, insulin và những thứ độc hại khác. Chị ta kiểm soát chặt chẽ mọi thứ mà Cassie ăn đúng như những bà gì đã làm với chị ta.
- Thế còn Chad thì sao?
- Có thể nó thực sự bị đột tử khi ngủ - đó biết đâu là nỗi đau trong cuộc đời Cindy và nỗi đau ấy đã vượt quá sức chịu đựng của chị ta. Hoặc biết đâu chị ta đã bóp ngạt đứa bé.
- Anh nghĩ việc tìm ra những chiếc ống đó sẽ làm cô ta sợ hãi à?
- Điều đó là logic. Nhưng nếu so sánh với vấn đề Munchausen thì có thể ngược lại. Có thể tôi đã gây ra những nguy hiểm đối với Cassie - thật kinh khủng nếu đó là sự thật.
- Đừng có bi quan quá. Thế những chiếc xi lanh đó giờ ở đâu?
- Ngay đây thôi, trong xe của tôi. Anh có muốn lấy dấu vân tay trước đây trên đó không?
- Có chứ, nhưng cũng không có gì thuyết phục cả cho dù có dấu vân tay của Chip hay Cindy trên đó. Họ có thể nói đã sờ vào nó lâu rồi và không còn nhớ gì cả.
- Thế tại sao lại không có bụi trên đó?
- Đó là căn phòng sạch sẽ hoặc cũng có thể anh đã làm sạch hết bụi khi lấy nó ra. Chúng ta đang nói chuyện như những luật sư bào chữa mặc dù mọi việc vẫn chưa đâu vào đâu cả. Cho dù Benedict có chạm vào nó thì bây giờ cũng không còn dấu vết gì nữa.
- Nhưng sau khi bà dì chết chẳng có lý do gì khiến ông ta gửi nó cho Cindy cả.
- Đúng vậy. Nếu chúng ta có cách nào đó biết được chính xác ông ta gửi tới cho Cindy sau khi bà dì đã chết thì quả là tuyệt vời. Có số nhãn hiệu gì trên đó không hay hoá đơn chẳng hạn?
- Để tôi kiểm tra, không có hoá đơn gì cả chỉ có số nhãn hiệu thôi và bản quyền của nhà sản xuất là năm năm trước rồi.
- Tốt, đọc cho tôi những con số đó, tôi sẽ kiểm tra. Lúc này tôi nghĩ anh nên tiếp tục cuộc chơi với Cindy đi. Hãy cho cô ta thưởng thức mùi dược của chính cô ta.
- Làm thế nào?
- Hãy đến gặp cô ta mà không có mặt đứa bé.
- Tôi đã hẹn gặp chị ta vào tám giờ tối mai rồi, có thể Chip cũng có mặt ở đó.
- Càng tốt. Hãy đối mặt và thẳng thắn với cô ta. Hãy nói với cô ta là anh biết ai làm cho Cassie bị bệnh và bằng cách nào. Hãy đưa một chiếc xi lanh và chứng minh là anh không hề nói chuyện tào lao. Anh phải nói dối là anh đã gặp Uỷ viên công tố quận và ông ta sẵn sàng thu thập hồ sơ về vụ giết người. Sau đó quan sát xem cô ta phản ứng thế nào.
- Nếu chị ta không tỏ thái độ gì thì sao?
- Anh sẽ thất bại nhưng ít nhất là cô ta cũng biết rằng có ai đó biết rõ về cô ta. Và tốt nhất là anh nên chuồn ngay, Alex.
- Thế còn Stephanie, có nên kéo cô ấy vào cuộc không?
- Chúng ta không còn nghi ngờ cô ấy nữa à?
- Như chúng ta nói ban nãy, cô ta có thể là người tình bí mật của Cindy nhưng chưa có dấu hiện gì cho thấy điều đó cả. Hơn nữa, nếu cô ta có dính líu thì tại sao Cindy còn đi lại với Benedict? Stephanie là bác sĩ - cô ta có thể hành động tương tự với bất kỳ người nào. Tất cả mọi người đều có thể nhưng theo tôi được biết thì bà mẹ này đã tỏ ra tốt hơn rồi đó.
- Nếu Stephanie không liên quan gì thì tôi không nên kéo cô ta vào làm gì, cô ta là bác sĩ chính. Làm như vậy sẽ trái với nguyên tắc đạo đức.
- Sao anh không đến gặp cô ta xem cô ta phản ứng thế nào? Nói với cô ta về những chiếc xi lanh đó và sự liên quan của cô ta đến mức nào. Nếu anh thấy cô ta trong sạch thì hãy đưa cô ta cùng đến chỗ Cindy và đấu trí với cô ta. Số lượng nhiều thì sẽ mạnh hơn đấy.
- Đấu trí với cô ta? Nghe có vẻ hài hước quá nhỉ.
- Không hề hài hước chút nào đâu. Nếu tôi có thể đi thay anh thì tôi đã đi rồi.
- Cảm ơn vì tất cả mọi thứ.
- Còn gì nữa không?
- Rất nhiều - Tôi kể cho anh nghe về chuyện Huenengarth đã chơi tôi như thế nào với những chiếc đĩa của Dawn Herbert rồi chuyện tôi gọi điện cho Ferris Dixon, văn phòng của giáo sư Zimberg và giả thuyết mới về việc tống tiền của Herbert và Ashmore.
- Quả nhiên nhiều vấn đề đó, anh Alex ạ, có thể có những điều đúng. Nhưng anh đừng để bị xao nhãng trường hợp Cassie. Tôi vẫn đang kiểm tra Huenengarth, tuy chưa phát hiện ra điều gì cả nhưng tôi sẽ tiếp tục. Anh sẽ ở đâu nếu có chuyện gì đó xảy ra?
- Ngay bây giờ tôi sẽ gọi điện cho Stephanie. Nếu cô ta ở văn phòng thì tôi sẽ đến bệnh viện còn nếu không thì tôi sẽ về với Robin.
- Được rồi, thế tối nay chúng ta gặp nhau chứ? Trao đổi những tâm sự đau khổ chút nhỉ.
- Khoảng tám giờ thì được. Cảm ơn lần nữa nhé.
- Đừng cảm ơn tôi, chúng ta còn chưa thể thoả mãn đối với vụ này đâu.