Bác sĩ tạm thời cấm Giamin học tiếp: cậu bị chấn động não
Mấy ngày qua, hiệu trưởng Ruvim Ixacôvích đến thăm cậu
- Chào em, Giamin - đứng ở ngưỡng cửa, ông lau mắt kính rồi mỉm cười đặt kính lên mũi - Thầy lại thăm xem có giúp em được gì không. Sức khoẻ thế nào?
Có tiếng khe khẽ của mẹ Giamin từ hầm nhà vọng lên:
- Giamin, hình như có ai đến thì phải…
- Vâng, thầy hiệu trưởng… - Giamin hoảng sợ đáp
- Thầy hiệu trưởng? Sao con không gọi mẹ một tiếng? Thế mà mẹ cứ ngồi nhặt khoai tây dưới này, không hay biết gì.
Một chốc sau đã thấy thím Samsura từ dưới bếp đi lên
- Chào thầy… Cảm ơn thầy đã đến thăm cháu. Để tôi đi đặt ấm nước…
- Ấy không, không cần đâu bác ạ. Tôi tới nói chuyện một tí rồi lại phải đi ngay thôi mà, - Ruvim Ixacôvích ngồi xuống chiếc ghế cạnh người ốm
Giamin cảm thấy lúng túng, cậu không bao giờ nghĩ là ông hiệu trưởng có thể tới thăm cậu.
Còn bối rối chưa đáp lại đầy đủ lời chào của thầy giáo. Giamin đã vội nói một mạch:
- Vâng, xin mời thầy ngồi… Không hiểu em có được thi lại một lúc cùng các bạn không? Em sẽ không tới trường nhưng em sẽ học ở nhà. Các bạn sẽ đưa bài học và bài kiểm tra cho em…
Sau khi ông hiệu trưởng tới xưởng cơ khí gặp đốc công Xamôrucốp và yêu cầu bác ta nói với các công nhân trẻ về việc tiếp tục học, nhiều cậu đã viết đơn, nhưng không phải ai cũng theo học đến cùng; một số học được một tuần đã thôi, số khác bỏ khá nhiều giờ, còn Giamin, tuy có lúc vắng mặt nhưng bài tập về nhà bao giờ cũng cố làm đủ.
- Biết làm thế nào được, năm nay có lẽ phải chịu thôi, đành phải chờ vậy – ông hiệu trưởng nói.
- Không, thưa thầy, không ạ! Phải mất một năm thì tiếc lắm! – Giamin nói to.
Ruvim Ixacôvích đứng dậy, chậm rãi đi đi lại lại trong phòng. Thím Samsura ngồi ở góc cố không quấy rầy hai người đang nghiêm túc nói chuyện với nhau.
- Giamin ạ, em biết đấy, sức khoẻ không phải là chuyện thứ yếu. Em cần suy nghĩ cẩn thận, và hỏi ý kiến bác sĩ lần nữa. Nên chờ thu tới, khoẻ hẳn thì lúc đó mọi việc sẽ tốt đẹp.
- Thưa thầy không, chỉ cần thầy cho phép, các bạn sẽ giúp em… - Giamin khẩn khoản nhìn ông hiệu trưởng.
Ở Taisét, hiệu trưởng là người mới đến. Ông sơ tán từ Kiép tới. Trong lúc đi đường, một lần gặp máy bay địch oanh tạc, cả nhà ông đã chết, còn ông bị thương, tới Taisét và ở hẳn lại đấy, thay thầy hiệu trưởng cũ Caxépxki, một người còn trẻ và rất cương nghị.
Ruvim Ixacôvích có đôi vai hẹp, vẻ mặt ốm yếu. Đôi mắt màu ô-liu hơi lồi của ông đượm buồn. Cặp môi dày hoàn toàn không thích hợp với khuôn mặt nhỏ, hầu như trẻ con của ông.
- Người giúp em phải là người rất nghiêm chỉnh, - ông hiệu trưởng liếc nhìn Giamin qua cặp kính dày.
- Tamara Crưgianôva hứa sẽ giúp đỡ em, - Giamin buột miệng nói và lấy làm xấu hổ.
- Ừ, kể ra cũng biết chọn người đấy. Cô bé là một người nghiêm chỉnh, giỏi toán, và cái quan trọng nhất là biết độc lập suy nghĩ. Thế cô ta đã đồng ý chưa?
- Có lẽ… Chắc chắn là thế…
- Nếu vậy, theo tôi, em có thể dự thi với tư cách là thí sinh tự do được, - đôi mắt ông hiệu trưởng ánh lên - Tất nhiên, chúng tôi còn phải hỏi thêm ý kiến bác sĩ. Còn em thì phải chăm chỉ và kiên trì đấy. Tôi phải nói trước với em điều đó, mặc dù các thầy giáo đều nhận xét tốt về em. Em nên nhớ rằng sau lớp chín, chỉ còn một năm nữa là thi tốt nghiệp… À, mà sao tôi nói nhiều với em như thế làm gì nhỉ? – đôi mắt ông ta lại ánh lên qua cặp kính – Tôi nghe nói là chính em cũng chịu trách nhiệm về tính mạng người khác và em là đội trưởng ưu tú phải không?
- Bây giờ đội trưởng là Côlia Xôcôlốp. Họ sẽ bố trí em đi đâu, em chưa biết… Có điều em sẽ đi học….
- Được, chúng ta đồng ý với nhau như thế. Chắc bây giờ thế nào người ta cũng giao cho em một việc nào đó nhẹ nhàng hơn. – Ông hiệu trưởng tạm biệt Giamin và thím Samsura rồi bước ra cửa, nét mặt lại đượm buồn như cũ.
Hôm sau Giamin tới trường gặp Tamara. Cậu có thể tới thẳng nhà nhưng ngại gặp mẹ cô ấy. Bà là một phụ nữ người thấp, chắc, linh hoạt, và không hiểu sao lần nào gặp Giamin cũng có vẻ không niềm nở lắm. Hơn nữa, cậu cũng xấu hổ vì sợ người cậu bốc mùi dầu mỡ và than cháy. Và hơn nữa, cậu có cảm giác là thế nào mẹ Tamara cũng đoán biết được tình cảm của cậu, sẽ nổi giận và hoàn toàn cấm không cho con gái mình gặp cậu nữa. Đó mới là điều đáng sợ nhất.
Đứng chờ chuông báo giờ chơi cạnh phòng gửi áo ngoài. Giamin lên tầng hai, nơi học sinh các lớp trên học. Hai năm qua, cậu lớn hẳn lên. Bây giờ cậu lấy làm lạ khi thấy các học sinh nam đồng tuổi với cậu, mà sao không chín chắn, hời hợt, chạy đi chạy lại, xô đẩy nhau nói cười ầm ĩ, còn các cô bé thì chẳng hiểu vì sao lại kêu lên the thé. Ở chỗ cậu làm việc mà thế thì thế nào cũng bị người lớn khiển trách hay bị bạt tai nữa là khác.
Giamin hết sức ngạc nhiên khi thấy Tamara đi ngang cùng với một cậu lạ mặt điển trai nào đó mà không nhìn thấy cậu. Cậu này đang say sưa kể cho Tamara nghe một chuyện gì đấy, đầu hơi nghiêng về phía cô bé. Giamin chú ý thấy chốc chốc cậu ta lại sờ lên mái tóc xoăn của mình như muốn biết tóc có còn ở trên đầu hay không. Rồi như một chiếc máy, Giamin cũng vô tình sờ lên mái đầu bù xù như lông nhím của mình, và lần đầu tiên cậu lấy làm tiếc là đầu của cậu húi ngắn. Cậu không bao giờ nghĩ rằng mái tóc có thể tôn vẻ đẹp của một người đến như vậy…
Tamara chăm chú nghe và cũng vừa mỉm cười vừa nói chuyện với cậu ta, rồi cậu này cầm tay cô, kể một chuyện gì đó chắc vui lắm vì Tamara đã phá lên cười. Giamin không còn thấy các cậu con trai đang chạy đi chạy lại, không còn nghe người khác chào mình, hỏi mình những gì. Trước mắt cậu bây giờ chỉ có Tamara đang mỉm cười và cái cậu công tử bột đỏm dáng mới tới Taisét kia, rõ ràng là hắn cảm thấy nhiều người đang chú ý tới mình, và vì thế tỏ ra rất kênh kiệu. Giamin muốn đến kéo Tamara khỏi cái cậu lạ mặt bụ sữa, đang đi đôi giày da bốc-can bóng lộn lên một cách khiêu khích kia. Giamin cảm thấy đôi chân mình như mọc rễ xuống đất, đôi chân được bọc trong đôi giày chắp vá bằng những mảnh ủng da cũ có đế làm bằng lốp ô tô không hề biết mòn là gì. Cậu bực bội hết sức, và hình như quên cả việc đến đây làm gì nữa. Lần đầu tiên trong đời, Giamin cảm thấy ghen tị với những người mặc đẹp và sạch sẽ hơn mình.
Bỗng Tamara nhìn thấy Giamin. Cô đỏ mặt gỡ tay cậu kia, đi lại gần Giamin:
- Có chuyện gì xảy ra thế? Công việc thế nào? Sẽ học chứ? Khoẻ không? – cô bé dồn dập hỏi và giới thiệu cậu kia đang đi lại gần với Giamin – Các cậu làm quen với nhau đi. Đây là Daixép Valêra cũng là người Mátxcơva. Bố cậu ấy được cử xuống đây công tác…
Giamin ngắm Valêra, vất vả lắm mới tự kiềm chế nổi để không nói một câu gì đó thật đau, thật cay độc…
- Kìa, làm quen với nhau đi! – Tamara lại nhắc.
- Valêra, - cậu ta tự giới thiệu, chìa bàn tay trắng cho Giamin, chiếc đầu đẹp hơi ngả về phía sau.
- Giamin, - Giamin nói qua kẽ răng rồi chìa bàn tay ngả màu nâu vì khói và gỉ sắt, với những ngón tay ngắn.
Tiếng chuông réo cắt đứt câu chuyện của họ.
- Valêra vào trước đi, - Tamara nói rất âu yếm, Giamin cảm thấy như thế - mình cần phải nói chuyện với Giamin một lúc và sẽ vào ngay bây giờ - không hiểu sao mặt cô bé bỗng từ từ ửng đỏ.
Cậu kia đưa mắt nhìn Giamin từ đầu đến chân, khẽ uốn cong đôi môi mọng nước rồi bỏ đi vào lớp, tiếng đế giầy kêu rất rõ. Giamin không biết nên bắt đầu thế nào. Bỗng Giamin nói một mạch, nói rất nhanh:
- Tamara biết không, lúc đầu mình tưởng cậu ta đẹp trai. Sau trông kĩ ra thì chẳng thấy gì đặc biệt cả. Con trai ở đây khối đứa còn hơn thế. Kể ra cậu ta ăn mặc cũng khá diện và mái tóc…
- Cậu nói về ai thế? – Tamara ngắt lời
- Không đoán ra à? Về ông bạn người Mátxcơva của Tamara đấy. Người cầm tay Tamara dắt đi và kể một chuyện gì đấy vui vui ấy mà…
- Thì đã sao? Can gì đến cậu? – Tamara quay phắt người bỏ chạy vào lớp.
Trong giờ học, Tamara nhận được một mảnh giấy của Valêra: “Cái cậu quê kệch vừa đến kia là ai? Tên gì mà kì thế? Tay mình mãi bây giờ vẫn còn bốc mùi dầu hoả! D.V”
Tamara đọc xong, không thể tin được đấy là Valêra viết, một người bao giờ cũng được thầy giáo nêu gương cho người khác học tập: nào cậu ta lịch sự, quần áo lúc nào cũng gọn gàng, còn mái tóc thì được chải chuốt cẩn thận, và không bao giờ đi học muộn…”
Không hiểu sao các thầy giáo cứ làm ra vẻ không biết là hàng ngày Valêra được người khác chở đến trường bằng chiếc xe có ngựa khoẻ và nhanh kéo.
“Hừ, đồ bám váy con gái! Lại dám nói: mãi bây giờ tay còn bốc mùi dầu hoả! Nếu Giamin là đồ quê kệch thì mày là một con thỏ ”. Tamara giận dữ nhìn về phía Valêra rồi đưa mảnh giấy cho Nhura.
- Hắn nói về ai đấy?
- Về Giamin…
- Giamin à? Cậu ta đến đây?
- Ừ, lúc ra chơi…
- Valêra có biết gì về cậu ấy đâu mà nói thế? Còn cậu trả lời thế nào? – Nhura không nhận thấy mình đã to tiếng từ lúc nào. Cô giáo quở trách hai cô bé. Họ im lặng trở lại. Nhưng một chốc sau, Nhura không nén nổi và lại thì thầm: - Mình nói cậu biết là Valêra của cậu không đáng xách dép cho Giamin đâu.
- Sao cậu bảo Valêra là của mình?
Cô giáo lại quở trách hai người lần nữa:
- Nhura, chú ý nghe giảng, kẻo chốc nữa lại bảo là không hiểu gì.
Nhura ngoan ngoãn gật đầu, nhưng ngay lúc ấy cô mở nắp bàn viết lên và nói thầm:
- Sao cậu có thể đi cùng với một thằng kênh kiệu như hắn trong giờ ra chơi được nhỉ?
- Thì chính cậu chẳng xuýt xoa khen cậu ta còn gì? “Chà, cậu ấy mới lịch sự làm sao, đẹp trai làm sao, mới trông cũng biết là người Mátxcơva”, - Tamara cãi lại
- Mình… mình nghĩ như vậy
Thì thầm với nhau một lúc, đôi bạn đã thảo được câu trả lời như sau: “V.D. Không ngờ cậu là một người xấu, độc ác như thế. Từ nay không được đến gần bọn mình. Còn lâu cậu mới bằng bọn con trai ở đây. Tay cậu không bốc mùi dầu hoả thật, nhưng toàn người cậu lại sặc mùi kênh kiệu, tự mãn. Một cậu công tử bột rất hợm hĩnh, không hơn không kém!” Nhura còn muốn viết thêm một câu gì đấy, nhưng Tamara ngăn lại:
- Thôi, thế cũng quá lắm rồi…
Một tuần sau, Nhura và Tamara đi quanh quẩn cạnh nhà Giamin chờ cậu đi làm về.
Trời tối dần, tuyết ngả màu xanh nhạt. Sao bắt đầu nhấp nháy trên bầu trời. Trăng đầu tháng treo lơ lửng như chiếc khuyên vàng. Lạnh như cắn vào da thịt mà mãi vẫn không thấy Giamin đâu.
- Chắc cậu ta đã về nhà rồi, - Tamara phá tan sự im lặng – Mà mình thì cứ đứng chờ thế này…
- Chẳng nhẽ về rồi mà mình không nhìn thấy?
Hai người lại im lặng:
- Mình nhớ Mátxcơva quá! – Tamara nói
- Cậu sướng thật đấy, được sống ở Mátxcơva – Nhura thở dài - Ở đấy nhà to xây bằng gạch, và xe điện, tàu điện ngầm… Còn mình thì chẳng biết gì ngoài Taisét này. Suốt đời chưa vào rạp hát… Cậu là người hạnh phúc…
- Ở Taisét cũng thích. Bênh cạnh là rừng, mùa hè rất nhiều hoa. Người ở đây tốt, các bạn chân thành…
- Thật thế à? Cậu cũng thích ở đây?
- Thích lắm, Nhura ạ. Về Mátxcơva mình sẽ rất nhớ đây. Chà, sau chiến tranh nếu cậu và các bạn trai của chúng mình tới Mátxcơva chơi thì hay quá. Mình sẽ dẫn các bạn đi xem hết mọi nơi trong thành phố: công viên, rạp hát, viện bảo tàng…
Mải nói chuyện, hai cô không nhận thấy Giamin đang lại gần. Cậu này muốn lánh mặt nhưng Nhura kịp ngăn lại:
- Xem kìa, người ta đứng chờ dễ đến một tiếng đồng hồ rồi mà cậu ta lại định… Có ai xử sự như thế bao giờ không? Sao lặng thinh thế? Hay không nhận ra bọn mình?
- Không nhận ra…
- Sao cậu không tới trường? – Nhura hỏi và khoác tay Giamin.
- Thế này là thế nào? – Giamin lúng túng định gỡ tay Nhura.
Còn Nhura thì vẫn tiếp tục nói liến thoắng:
- Cậu biết không, Tamara đã cho Valêra một bài học nên thân, hai tai cứ tha hồ mà vểnh lên. Không tin à? Hỏi Tamara mà xem.
- Gì mà phải hỏi, chính mình đã nhìn thấy họ, - Giamin đáp, giọng bực bội, - Lúc ấy hai tai cậu ấy cũng vểnh lên rồi, nhưng Tamara làm ra vẻ không nhìn thấy… - Giamin quay sang Tamara – Thôi chào các bạn, mình về, ở nhà có việc…
- Khoan đã, khoan đã! – Nhura lại khoác tay Giamin – hai cậu nói chuyện với nhau đi. Để mình chạy về nhà, kẻo mẹ mình lại trách. Còn phải vắt sữa bò… - nói rồi cô bé ù té chạy.
- Nào, sao lại còn đứng lại? Chạy theo đi kẻo không một mình tớ ăn thịt mất bây giờ… - Giamin chua xót nói, nhưng trong thâm tâm cậu hoảng sợ nghĩ bụng: Bây giờ Tamara sẽ bỏ chạy mất, nếu vậy thì sao? Lâu lâu không thấy cô bé, cậu đã thấy buồn.
- Mình có việc muốn nói với cậu! – Tamara bỗng nói - Mặc dù cậu đang vội về nhà…
Tamara quay người bước đi. Cô bước chậm rãi như đang dạo chơi. Cô nghe có tiếng chân sau lưng. Cô ngoái đầu lại: Giamin đang vội vàng đuổi theo. Họ đi cạnh nhau, không ai nói một lời nhưng rất hiểu nhau. Cả hai đều thấy nhẹ nhàng, sung sướng, quên hết cả giận dữ. Tuyết lạo xạo dưới chân nghe thích đến nỗi muốn hát vang lên, muốn chạy, chạy thật xa, thật xa… Khó mà tin chỉ mấy phút trước đây, họ còn ngại ngùng không dám nhìn mặt nhau.
- Giamin có muốn khoác tay mình cùng đi không? – Tamara bỗng hỏi
- Mình sợ làm bẩn áo Tamara, - Giamin lúng túng nói – Bành tô của Tamara mới quá, mà của mình thì thế này…
- Thì đã sao? Mình muốn tn khoác tay mình cùng đi.
- Thật à? – Giamin vụng về khoác tay cô bé, khẽ nói: - Ấm quá!
- Ừ… - Tamara gật đầu, khẽ rùng mình vì lạnh.
Họ đi với nhau rất lâu và lấy làm sung sướng là trên đời này bây giờ chỉ có mình họ.
Tới nhà Tamara, họ dừng lại. Giamin hỏi Tamara có định giúp cậu học không. Cậu rất muốn trong năm nay cũng học xong lớp chín để không bị thua Tamara. Sau này họ sẽ cùng thi vào đại học, có thể cùng vào một trường nữa.
- Giamin lại chỗ mình, chúng ta cùng học với nhau – Tamara đồng ý ngay…
Thấy con về, thím Samsura càu nhàu;
- Thức ăn nguội hết cả rồi. Trời đã khuya mà con cứ ở đâu đâu, làm mẹ lo sợ không để đâu cho hết…
- Con ghé vào trường, mẹ ạ, hôm nay có dạ hội mà – Giamin ngập ngừng thanh minh.
- Thế mà người rét cóng lên như thế à, - bà mẹ cố giấu nụ cười trên môi
Giamin rửa ráy cẩn thận rồi đứng trước tấm gương nhỏ, tróc thuỷ ngân treo trên chiếc đinh, sờ vào mái tóc nham nhở của mình, nói:
- Mẹ à, từ nay con không cắt tóc ngắn nữa, được không? Cắt thế hai tai vểnh ra, và đầu thì trông cứ như là cái gì ấy…
- Chờ chiến tranh kết thúc, tha hồ con muốn cắt kiểu nào thì cắt. Để tóc dài thì phải chải luôn, gội luôn, và xà phòng phải tốt….
- Ở trường con thấy một cậu mới tới có mái tóc đẹp lắm! – Giamin nói rồi ngồi xuống bàn ăn.
Giamin học với Tamara chỉ vẻn vẹn được hai hôm. Cùng học có cả Nhura. Các cô bé thay nhau giúp đỡ cậu.
Nhura thích tự mình nói nhiều hơn và lấy làm hài lòng khi Giamin nói: “Mình hiểu cả rồi”. Còn Tamara thì giảng xong thế nào cũng bắt nhắc lại.
- Nhưng mình hiểu cả rồi cơ mà! – Giamin bướng bỉnh đáp
- Tốt lắm, giấy đây, chứng minh lại định lí xem nào.
Việc học của họ bị ngắt quãng một cách đột ngột. Một lần mẹ Tamara đi làm về, nói với cô con gái:
- Bây giờ thì tôi hiểu sao hôm qua cô bị điểm ba…
- Mẹ ơi, nhưng chúng con học với nhau. Con và Nhura phải giúp cậu ấy, - Tamara định cãi lại
- Con giúp cậu ấy, còn chính con thì học như thế nào? Chẳng bao lâu rồi đến lượt phải giúp con.
- Kìa, sao bác nói thế? – Nhura lên tiếng bênh vực bạn và bắt đầu xếp sách vào cặp
Mẹ Tamara không chú ý đến Nhura vẫn tiếp tục trách con gái:
- Cứ giúp đi, để rồi phải đúp lại năm nữa…
- Mẹ! – Tamara oà khóc, bỏ chạy ra khỏi phòng.
Giamin muốn lặng thinh, nhưng không nhịn được nữa, nói: - Sao bác lại làm phật lòng Tamara thế?
- À, ra còn thêm anh bênh cô ta! Tự tôi, tôi cũng biết phải làm gì? Bản thân mình thì thiếu giáo dục lại còn muốn bày vẽ cho người lớn.
- Ta đi thôi, Nhurơca! – Giamin nói và vì quá kích động, đã đội ngược mũ trước ra sau
- “Nhurơca, Tamarơca”. Đến cả xưng hô lịch sự cũng không biết.
Nhura và Giamin bước ra khỏi phòng.
Sau lần ấy có đến một tháng rưỡi Giamin không gặp Tamara. Không hiểu sao cậu cảm thấy hơi ngượng. Cậu học ở nhà một mình, buổi tối đến nhà ông hiệu trưởng nhờ ông giúp đỡ. Ruvim Ixacôvích không những chỉ bảo cho cậu phải học phần nào, mà còn giảng giải để cậu hiểu những định lí phức tạp.
Mùa xuân năm 1944 ở Taisét tuyết đồng loạt tan nhanh. Tháng tư, nước từ mái nhà tí tách từng giọt nhỏ xuống đọng thành những vũng băng nhỏ cạnh nền nhà. Mái nhà lởm chởm những que băng dài và nom giống như những chiếc lược khổng lồ, sặc sỡ đủ màu dưới ánh hoàng hôn. Những con bò sữa đứng sưởi hàng giờ liền dưới mặt trời, hai hông căng phồng, thỉnh thoảng lại rống lên như muốn gọi ai, không hề bận tâm tới mấy con gà mái đang đậu trên lưng.
Ngoài đường đã thấy ngỗng xuất hiện. Chúng chạy khắp nơi, đập đôi cánh to nhưng yếu, nhấc mình lên không một tí rồi lại rơi ngay xuống đất. Chúng ngửng đầu, vỗ cánh lia lịa như muốn ôm ai vào lòng, rồi lại dang rộng cánh, kêu lên quang quác.
Chim sẻ xù lông đứng sưởi ngoài nắng, mặt trời kích thích chúng, làm chúng vô cớ ẩu đả nhau chí tử.
Giữa tháng Tư, các đống tuyết bắt đầu tan, bốc hơi trắng. Hàng giờ liền, những chú mèo nằm duỗi người sưởi nắng trên các nền nhà vừa tan tuyết.
Vào một trong những ngày như thế, Nhura đã chạy tới xưởng cơ khí, gọi Côlia ra ngoài
- Hừ, cũng bí mật gớm! – Gôga nhìn theo bạn
- Chắc là cần phải thế! – Vichia phụ hoạ theo.
Nhura nói với Côlia một điều gì đấy rất nhanh rồi lại bỏ đi ngay.
- Nhura đến có chuyện gì thế? – Giamin tạm rời Viđônốp một chốc, hỏi.
- À, có tí việc – Côlia khoát tay nói, chăm chú đặt thanh ốp vào máy
Các công nhân khác cũng chú ý đến Nhura, bắt đầu trêu Côlia:
- Côlia nhà mình bắt đầu đã biết mùa xuân là thế nào rồi đấy, các cậu ạ…
- Cô bé thậm chí không thèm để ý là cậu chàng hơi bẩn một tí…
- Trông khá đấy chứ, có vẻ lanh lẹn lắm!
“Giá mà Tamara cũng đến đây nhỉ, dù một lần thôi, để xem mình làm việc thế nào! – Giamin nghĩ – Tamara sẽ biết được là đôi lúc phải dũng cảm bảo vệ đồng chí của mình khi họ bị người khác đối xử không công bằng. Trong những giây phút như thế mà mình có lúng túng, lo lắng một tí cũng không sao. Bác Viđônốp vẫn thường bảo: “Cái quan trọng, cháu ạ, là bao giờ cũng phải nói thẳng sự thật. Như cháu bây giờ chẳng hạn, vì cháu là người có lương tâm trong sạch, nên cháu dũng cảm. Thế là tốt!” Hay bọn con gái thích những thằng như Valêra hơn nhỉ? Bao giờ cũng sạch sẽ, chải chuốt, phẳng phiu, không chê vào đâu được. Không chừng mình cũng muốn được như thế. Nhưng lúc ấy ai sẽ làm việc cho mặt trận, ai nuôi mẹ?”
Biết bao nhiêu người tuổi cậu đang làm việc bên các cỗ máy? Tất nhiên, Giamin biết là còn nhiều bậc cha mẹ tìm mọi cách, chính đáng có, không chính đáng có, để che chở cho các cậu công tử bụ sữa của mình. Khi họp thì họ nói rất hay, là phải hi sinh tất cả cho tiền tuyến, ai nghe cũng phải tin. Ấy thế mà thực tế lại… Tại sao người lớn lại nhiều khi không làm đúng như lời mình nói nhỉ?
Mải suy nghĩ, Giamin không nhận thấy Côlia đang đứng sau lưng, vẻ như muốn nói một điều gì với cậu.
- Mình gọi mấy lần rồi, - Côlia lay vai bạn – Nghe này, Nhura đến đây, người ta trêu mình, nhưng chính là đến vì cậu đấy…
- Chỉ khéo bịa!
- Mình có bịa đâu… Nhura bảo ngày mai Tamara sẽ về Mátxcơva và nhắn cậu tối nay chín giờ ra chờ ở cổng nhà cậu. Tamara và Nhura sẽ tới, và bảo mình cùng đi với cậu nữa. Nhura bảo mình cùng đi…- mắt Côlia ánh lên, và mặc dù đang dính đầy muội than, Giamin vẫn thấy má bạn ửng đỏ.
- Về Mátxcơva à? – Giamin hoảng sợ nói
- Chứ sao! Nghe nói vé mua rồi, bố Tamara đánh điện gọi về.
Giamin nóng lòng chờ ngày làm việc kết thúc. Chưa bao giờ thời gian chậm chạp trôi qua như hôm ấy. Mấy lần cậu chạy vào xưởng dụng cụ xem đồng hồ. Vội vàng xếp gọn dụng cụ làm việc xong cậu yêu cầu đốc công tiếp nhận sản phẩm của mình trước, rồi ba chân bốn cẳng chạy bổ về nhà.
Cậu rửa ráy qua loa, ăn qua loa, rồi bảo với mẹ là đi xem chiếu bóng, mặc bộ comlê của anh và chiếc áo khoác còn sạch vào người rồi chạy ra đường.
Đêm xuân tối như mực. Mặc dù trời đầy sao, nhưng chỉ đứng cách nhau dăm bước là đã không trông thấy gì. Giamin nhìn xoáy vào những người qua lại, chăm chú đến chóng mặt. Cậu tưởng như đứng chờ ở đây đã lâu lắm rồi. Cậu đã thoáng lo: “Nhỡ Tamara ốm không đến được thì sao? Hay có thể bà mẹ không cho cô đi? Hay đáng sợ hơn cả là biết đâu Valêra đã đến nhà Tamara?”
Bỗng từ bóng tối, Côlia xuất hiện. Cậu ta bâng quơ hỏi Giamin:
- Chờ lâu chưa?
- Mới ra thôi.. – Giamin nói dối bạn
- Thế là đúng. Ta đâu phải mất hàng giờ để chờ người khác.
Các cô gái xuất hiện. Nhura vui vẻ còn Tamara thì buồn và ít nói
- Ta đi thôi, Côlia – Nhura nói, không chút ngượng ngùng, khoác tay Côlia kéo đi.
- Đi đâu? Hai người? – Côlia lúng túng. Còn Giamin và Tamara không đi với bọn mình à?
- Đi thôi, đi thôi – Nhura kéo Côlia - Cậu không hiểu hay sao mà lại thế? Giamin và Tamara cần gặp riêng với nhau, - Nhura nói thầm thì, khi hai người đã đi được một quãng.
- Lạnh quá! – Tamara bỗng phá tan im lặng.
Giamin bỏ chiếc áo khoác, cởi áo comlê đưa cho Tamara.
- Mặc vào, kẻo lạnh, ốm dọc đường… - Mùa này dễ ốm lắm.
Tamara ngoan ngoãn khoác chiếc áo lên chiếc bành tô mỏng của mình.
- À, cái áo hôm nọ! – cô sung sướng nói
- Đúng nó, duy có vạt áo phải xuống gấu. Mẹ mình bảo mùa đông vừa qua mình lớn lên nhiều lắm.
- Xem thử nào, - Tamara lại gần đứng đối diện với Giamin - Trước mình đứng cao hơn vai Giamin, bây giờ thấp hơn. Quả đúng Giamin lớn nhanh thật! Đây, nhìn xem.
- Gì mà phải nhìn, - Giamin lẩm bẩm quay mặt sang hướng khác. Cậu cảm thấy trái tim mình đang rạo rực trong lồng ngực, - Tamara cũng đã lớn hơn trước… Ta đi…
- Đi đâu? – Tamara hỏi - Tối hôm nay mình không ở lâu được. Giamin ạ. Phải chuẩn bị hành lí. Mình xin phép mẹ chỉ được một lúc, phải nói dối là tới nhà Nhura…
- Mình hiểu – Giamin nói - Thế Valêra có tới không?
- Giamin cũng biết là mình hoàn toàn không thích cậu ta. Mà nếu có tới mình cũng chẳng thèm để ý. Thật đấy! – Tamara đáp và vội hỏi ngay Giamin - Thế sau chiến tranh, Giamin có tới Mátxcơva không? Mình sẽ chờ. Rất chờ…
- Mình sẽ tới… - giọng Giamin run run. Cũng may mà trời tối, nếu không Tamara đã nhìn thấy nước mắt cậu. Học xong lớp mười, mình sẽ thi vào đại học, nhất định sẽ tới Mátxcơva để được gần Tamara. – Giamin nói rất nhanh, như sợ bị ngắt lời.
Tamara bất ngờ hôn lên má cậu
- Nếu không ngày mai sẽ không được… Mẹ sẽ…
Giamin đứng bàng hoàng, không biết nên làm gì. Má cậu nóng bừng mà người thì lạnh. Cuối cùng, như chợt tỉnh, cậu rụt rè hôn lên môi Tamara. Cậu thấy có vị mặn: cô bé đã khóc.
- Mình làm Tamara buồn à? – Giamin hoảng sợ nói
- Không… Mình cũng không hiểu tại sao lại khóc nữa…
Cô bé cởi chiếc áo comlê đưa cho Giamin.
- Thế nào cũng tới Mátxcơva nhé. Giamin nghe đấy chứ? – Tamara nói rồi quay phắt người, bỏ chạy dọc theo đường.
Giamin rất muốn đuổi theo nhưng hai chân cậu không chịu nhúc nhích. Trong đời cậu, một cái gì đó rất tươi sáng, rất đáng quí, khó nói thành lời đã vỡ tan. Ở gần, Tamara như một ngôi sao nhỏ luôn hấp dẫn cậu, bây giờ Tamara cũng sẽ thu hút Giamin về phía mình, như một ngôi sao xa, lớn nhất trong tất cả các vì sao.
Trong cuộc sống, ai chẳng có riêng một ngôi sao nhỏ của mình. Có điều phải biết nhìn nó, phát hiện ra nó và giữ gìn nó mãi mãi.
Năm nay, trong mỗi nhà cũng như toàn Taisét, người ta chuẩn bị đón ngày mồng một tháng Năm đặc biệt nhộn nhịp. Nhà ở, xưởng cơ khí, các trạm gác dọc đường sắt, xưởng sửa chữa toa xe được trang hoàng bằng những cành thông, cành liễu và những bông tuyết hoa. Một tháng rưỡi trước đây, công nhân đã giao ước lao động vượt mức, nhận mua công trái với số tiền nhiều gấp mấy lần lương tháng. Và người tham lam nhất trong xưởng là thợ nguội Tarax Gútdencô. Đùng một cái anh ta là người nhận mua nhiều hơn cả.
Tarax Gútdencô tới Taisét ngay từ đầu chiến tranh. Anh ta có tám con và chị vợ đang có thai đứa thứ chín.
Trưởng phòng tổ chức cán bộ phải bật cười khi Tarax tới gặp ông ở phòng làm việc, bảo anh ta là một người bố đông con, cần có việc làm gấp vì các con anh một ngày đòi ăn những ba lần. Ông trưởng phòng ngả người vào chiếc ghế tựa kiểu Viên, mở chiếc cửa sổ bé tí của văn phòng, gọi:
- Maria Ivanốpna, mời chị vào đây có việc.
Một người phụ nữ cao to, xinh đẹp, môi bôi son đỏ chói bước vào
- Có chuyện gì thế, Anđrây Côngxtăngtinôvích? – cô ta vừa nhí nhảnh nói vừa sửa sửa làn váy trên cặp đùi đẫy đà của mình.
- Ta có chỗ nào cần người làm trên các tuyến đường không nhỉ? – ông trưởng phòng oai vệ hỏi - Cần bố trí gấp việc làm cho anh Gútdencô đây, - rồi ông ta mỉm cười, mặt rạng rỡ - Anh ta bảo có tám đứa con tất cả, và chúng đòi ăn một ngày những ba lần…
- Đúng thế! – Gútdencô chân thật xác nhận.
Maria Ivanốpna không hiểu câu nói châm biếm của thủ trưởng và thông cảm một cách chân thành theo lối phụ nữ:
- Kể cũng tội… Tám con! – cô ta không che giấu sự tò mò của mình, nhìn chằm chằm vào Gútdencô, thốt lên: - Thật quá sức tưởng tượng!
Anh chàng Gútdencô gầy gò trở nên lúng túng, tìm cách chống chế lại:
- Nhưng vợ tôi không thua một tí nào đâu, bà cô ạ, và rất quí bọn nhóc…
Trong phòng mọi người im lặng, lúng túng:
- Cô có thể đi ra, Maria Ivanốpna ạ, - vẫn không ngẩng đầu, ông trưởng phòng nói, - Còn anh, Gútdencô, chúng tôi sẽ tìm việc cho anh…
Tarax Gútdencô cùng với gia đình đông đúng của mình đến ở một phòng trong túp lều dài nằm cạnh đường sắt. Anh ta làm công nhân kiểm tra đường ray chỉ một thời gian ngắn, có lẽ vì số lương tháng nghề này quá nhỏ đối với cái gia đình quá lớn của anh ta. Gútdencô quay sang xin làm xưởng cơ khí, thời gian đầu là lao công, vừa làm việc anh ta vừa tự học nghề nguội. Hàng ngày anh ta ở lì trong xưởng suốt 14-16 giờ liền. Mọi người về hết nhưng anh ta vẫn ngồi hàn chảo, hàn chậu, làm xẻng, làm cào.. Cặm cụi vất vả, nhưng anh ta không bao giờ kêu ca. Ở nhà ăn anh ta đòi lại bằng được và cẩn thận đếm lại từng xu tiền thối.
- Nhỏ nhen quá, anh Tarax ạ! - mọi người đã nói thẳng vào mặt anh ta như vậy - Một xu thì anh mua được cái gì bây giờ nào?
- Vấn đề không phải là một xu, mà là nguyên tắc – anh ta cau có trả lời. Dường như không tỏ ra bực bội, chỉ có cặp mắt sâu hoắm của anh ta lúc này hơi ướt. Anh im lặng quay đi và chăm chú đếm lại số tiền xu vừa được trả lại.
Còn việc làm thì ít người theo kịp anh ta. Giờ nghỉ giải lao, anh ta uống vội vài ngụm chè với cà rốt phơi khô và quả tường vi rồi lại bắt tay vào việc ngay. Anh ta làm quần quật chẳng biết mệt là gì.
- Này, cậu cũng phải nghỉ lấy hơi một tí chứ. Hãy trông vào người cậu mà xem, chỉ còn độc da với gân - mọi người ái ngại bảo anh ta – Như thế lương cậu cũng đã nhiều hơn mọi người rồi. Chẳng nhẽ cậu định làm giàu chắc?
Gútdencô vẫn có vẻ như không nghe mọi người xung quanh đang nói về mình. Anh ta giữ chặt từng hào từng xu kiếm được. Nếu những người kiểm tra kết quả công việc mà tính sai tiền lương của anh ta thì anh ta liền lấy ra một quyển vở đóng bằng những mẩu giấy cũ và đi gặp những người làm sai.
- Đây, anh ta đã phải giở đến sổ kế toán riêng của mình rồi. Chuyến này thì liệu hồn, cánh văn phòng chỉ có chết! - người ta đùa, sau lưng anh.
Ở phòng kế toán, Gútdencô không làm ầm ĩ, mà chỉ khẽ nói:
- Nhờ các đồng chí tính lại. Sổ ghi chép của tôi đây. Và xin kiểm tra thêm sổ của đội trưởng. Tôi không thể chờ được, - rồi anh ta bỏ đi.
Người đúng bao giờ cũng là Gútdencô, người “bố anh hùng” như người ta vẫn gọi đùa anh.
Gútdencô không tham gia một công tác xã hội nào, họp không phát biểu, không bạn bè với ai. Và anh ta có vẻ như bàng quan cả với những gì xảy ra ở mặt trận nữa. Gútdencô lơ đãng nghe các tin tức thời sự, tay sờ hết giũa lại sờ búa.
- Thì hãy để cho chúng nghỉ một lát có được không?
- Còn kịp chán!
Thế mà những ngày trước mồng một tháng năm đã xảy ra cái điều hoàn toàn bất ngờ đối với mọi người.
Đến kì nhận mua công trái. Người ta cổ động nhận mua càng nhiều càng tốt. Một số người thì vất vả lắm mới thuyết phục được họ mua, số khác thì nói:
- Nên nhận mua bao nhiêu thì cứ ghi bấy nhiêu. Có gì mà sợ, một nghìn rúp đâu phải là nhiều?
Còn số thứ ba thì tuyên bố một cách rất ngoại giao là:
- Tôi ấy à? Thì cũng như mọi người thôi…
Trung bình người ta nhận mua bằng hai tháng tiền lương. Thế mà đùng một cái, Gútdencô làm ai cũng phải ngạc nhiên. Anh ta là người cuối cùng đi đến bàn, hai chân cong lần bước, anh cẩn thận đọc bản danh sách, suy nghĩ một lát rồi viết luôn: “12.000 rúp”, các ngón tay bẩn dây ra cả mép tờ giấy. Anh ta ngắm nghía con số rồi thong thả cầm bút nắn nót kí một cách chậm chạp, đàng hoàng từng chữ.
- Như thế là tiền lương mấy tháng đấy? - đồng chí Bí thư đảng uỷ hỏi
- Bốn tháng lương của tôi, - Tarax cau có buông thõng một câu rồi đi tới chỗ bàn sắt làm việc.
- Cậu làm thế nghĩa là thế nào? - mọi người hỏi anh ta.
- Thế nào à? Người ta đã đuổi bọn Đức đến tận biên giới rồi, còn tôi là người dưng hay sao? – Tarax lúng túng trong miệng rồi giận dữ gõ chiếc búa xuống mặt bàn, ý muốn bảo câu chuyện đến đây chấm dứt, không nên hỏi thêm gì nữa.
Hai ngày sau, thủ trưởng tuyến đường sắt kí lệnh tặng Gútdencô một bộ đồng phục công nhân đường sắt, còn vợ anh ta thì, với tư cách là một bà mẹ đông con được cấp phiếu lĩnh năm bánh xà phòng, chín mét vải, ba gói chè và một cân đường.
Ếphơrôxinhia, vợ Gútdencô, đến cửa hàng, chìa tấm phiếu có in dấu đỏ ra. Người bán hàng xem kĩ tấm phiếu rồi yêu cầu cho xem chứng minh thư. Chị kia lục lọi hồi lâu các giấy tờ cần thiết trong chiếc bọc giấu trong ngực. Hai đứa bé con của chị đứng nhón chân cố nhìn vào trong quầy hàng, nơi có mùi bánh bốc ra thơm ngậy.
- Này bà chị ơi, - chị bán hàng nghiêm khắc nhìn Ếphơrôxinhia – Trong chứng minh thư chị là Páplưskô, sao phiếu lại ghi Gútdencô? Có phải chị bắt được phiếu này không?
- Không, phiếu này là của tôi, và chứng minh thư cũng là của tôi, hợp lệ cả…
- Không biết. Tôi sẽ không xuất gì hết, chừng nào chưa làm rõ chuyện này - người bán hàng ngắt lời, cầm tấm phiếu đi sang phòng khác. Từ đấy có thể nghe tiếng chị ta gọi điện tới ban cung cấp công nhân.
Một chốc sau, Gútdencô được gọi gấp lên phòng cán bộ.
- Anh đã bán phiếu cho ai? – ông trưởng phòng đỏ mặt hỏi - Người ta cho anh, anh biết đấy, là vì nhà anh đông con, nhân ngày lễ, thế mà, ai ngờ anh lại lợi dụng đem bán!
- Tôi không bán cho ai cả. Bây giờ tôi sẽ nói hết mọi chuyện – Gútdencô vò nhàu chiếc mũ lưỡi trai trong tay rồi bắt đầu ngượng ngùng nói - Ếphơrôxinhia là vợ tôi, vợ thực sự. Chồng cô ta chết trong một trận ném bom, gia đình của tôi cũng vậy, chỉ còn lại độc thằng con… Và thế là chúng tôi sống với nhau. Cô ta là một người tốt… Chẳng còn lúc nào mà tới phòng đăng kí hôn nhân thay họ của cô ta nữa. Với lại, cũng chẳng cần thiết. Cứ để bọn trẻ mang tên bố chúng. Anh ta là người tốt. Bọn chúng lớn lên sẽ tự biết tất cả. Còn bây giờ tôi tạm thay anh ta làm bố chúng vậy…
- Hoá ra bẩy đứa là con người khác? – ông trưởng phòng vẻ không hiểu, đứng dậy bước ra khỏi bàn, ngạc nhiên nhìn Gútdencô.
- Sao lại là con người khác? Bây giờ chúng là con tôi tất cả… Trẻ con bao giờ chẳng cần có bố.
- À, ra thế… Thời buổi này mà tự gánh vào mình một gánh nặng như vậy!
- Bọn chúng còn nhỏ, cũng là người…
Tin này làm tất cả Taisét phải sửng sốt. Khi xếp hàng mua bánh mì, bên giếng nước, người ta trao đổi với nhau về anh chàng Gútdencô, một người lạ lùng, tốt bụng, hào phóng mà tham lam…
Chuyện này được nhắc đến không kém phần sôi nổi so với chuyện cái chết vô lí của cụ Xuđacốp, ông nội Gôga mấy năm trước đây.
Ở Taisét, người ta còn nhớ rất lâu về cái chết của cụ Xuđacốp, ông nội Gôga, mặc dù ông cụ chết từ hồi chiến tranh chưa xảy ra. Thì dễ thường có ai chết hai lần đâu.
Ai cũng gọi ông cụ là Mirôn Ivanôvích. Thậm chí cả Prônca, con trai cụ, cũng không thể gọi khác ngoài “Mirôn Ivanôvích”, và Gôga cũng cố không chịu thua người lớn về mặt này.
Mirôn Ivanôvích Xuđacốp là một người có thân hình khoẻ mạnh. Ông cụ từ Bêlôruxia đến Xibêri từ hồi còn chiến tranh thế giới thứ nhất. Vì có nghề trong tay nên ông cụ nhanh chóng kiếm được việc làm ở ga Taisét, lúc ấy hãy còn bé tí. Bấy giờ ông cụ mua ngôi nhà của lão Crivôukhốp. Lão này cùng gia đình dọn đến ở trên một mảnh đất cạnh sông Biruxa. “Ồn quá, chật quá. Chỉ toàn mùi khói. Thật chẳng được yên thân chút nào”. - Crivôukhốp giải thích việc mình đột ngột dọn nhà đi chỗ khác như vậy.
Ở Taisét lúc ấy chưa có đường lớn, chỉ có mấy chục ngôi nhà làm bằng gỗ thông lâu năm ghép lại, chen chúc nhau dọc hai bên đường tàu như một tổ kiến. Những cây thông cổ thụ to lớn mọc sát nách nhà, mùa xuân vừa đến người ta đã hạ chúng xuống. Mùa hè cây sẽ khô, khi thu về người ta cưa ngắn từng đoạn, chẻ thành củi, chất đống dưới mái che. Vì thế mà nhiều gốc cây cụt cứ nhô lên giữa các nhà, và đường đi từ nhà này đến nhà nọ ngoằn nghèo như rắn bò.
Mirôn Ivanôvích làm nghề sửa chữa xe kiểm ray, biết hàn và mạ thiếc rất giỏi. Những người sống lâu năm ở đây thấy ngay ông cụ là một người cần thiết cho vùng. Mirôn Ivanôvích là người đầu tiên ở đây trồng cà chua và trồng dưa chuột trong nhà kính. Cuối tháng Tám, ông cụ hái cà chua xanh, cho vào ủng dạ, để lên lò sưởi hay cạnh đấy cho chín dần, rồi hào phóng đem chia cho người địa phương, cũng vì thế mà vợ cụ, Lukêria đay nghiến cụ suốt ngày đêm. Bất chấp những lời càu nhàu của bà vợ, Mirôn Ivanôvích vẫn dạy láng giềng mình cách trồng dưa chuột, lúc đầu để trong nhà, và sau khi cái lạnh mùa xuân đã qua, đem ra trồng trong nhà kính. Nhiều khi ông còn giúp họ làm nhà kính nữa. Những lúc như thế, bà vợ ông thật như ngồi trên lửa. Thỉnh thoảng bà lại sai cậu bé Prônca đi tìm bố và ra lệnh là không được về một mình. Cậu bé chạy bổ đi tìm bố (thời ấy vườn nhà cũng rất rộng, ngoài khoai tây, người ta còn trồng cả kiều mạch, đại mạch và kê nữa), từ xa cậu hổn hển gọi to:
- Mirôn Ivanôvích! Mirôn Ivanôvích! Mẹ gọi về. Mẹ bảo là con phải dẫn bố về, nếu không mẹ sẽ vặn cổ con.
- Bảo với mẹ là bố sẽ về ngay bây giờ!
- Không! Mirôn Ivanôvích, thế thì con sợ lắm, không dám về đâu – Prônca vẫn bướng bỉnh nói, đưa mắt tức giận nhìn người láng giềng, vì bác ta mà bố cậu không về được.
- Vâng, tôi hiểu. Mirôn Ivanôvích. Bác về đi. Cảm ơn bác đã giúp đỡ. Bây giờ tôi tự làm lấy nốt được rồi, - người láng giềng nói.
Ở nhà, bão táp đang chờ ông cụ. Lukêria xông vào chồng:
- Tôi với ông ở đây mấy năm rồi, thử hỏi đã cóp nhặt được những gì? Ông dạy không cho người ta, vì tiếng cảm ơn mà đem cây con cho họ, rồi ngày lễ lại bê bát dưa chuột và cà chua đi mời nữa! Chỉ có thằng ngốc mới không lấy tiền! Tất cả những thứ đó phải lấy tiền…
- Thôi đi, bà ơi – Mirôn Ivanôvích cất giọng ồ ồ nói, nhẹ nhàng gạt những ngón tay co quắp vì tức giận của bà vợ khỏi mặt mình – Kìa, đừng để thằng Prônca nó trông thấy…
- Thì đã sao? cứ cho nó thấy, cho nó nhìn vào cái mặt của kẻ phung phí! – Lukêria rít lên, hùng hổ định xông vào cấu mặt chồng.
Cứ thế nhiều năm trôi qua. Láng giềng biết vậy cố tránh không nhờ cụ giúp đỡ, sợ ông cụ khổ. Còn Mirôn Ivanôvích thì ngày một ít nói hơn, rồi dần dần hoàn toàn không tiếp xúc với ai nữa. Được mẹ khen, Prônca cũng tìm đủ trò trêu bố: khi thì giấu các thỏi thiếc, khi thì vất đồ nghề của cụ mỗi nơi một cái, thậm chí mấy lần còn sang phá nhà kính của láng giềng nữa.
Ngay trước chiến tranh, Mirôn Ivanôvích làm thợ đốt lò hơi ở nhà tắm công cộng mới xây bằng gạch. Nhà tắm mới là một sự kiện lớn đối với dân Taisét, mặc dù nhà ai cũng đã có một buồng tắm riêng, rất tốt, và bất kì ông chủ nào cũng lấy làm hãnh diện nếu nhà mình có nhiều người đến tắm, và khách tắm xong hài lòng nói: “Chà, chỗ thay quần áo rộng quá! Hơi mới đặc, dày làm sao! Đá bốc nóng cứ như là lửa ấy! Còn chổi lá à? mềm, thơm, lá non như chồi mới nở…”
Người ta đào móng xây nhà tắm công cộng này từ mùa đông. Thời ấy chưa có máy xúc, tất cả phải làm bằng tay. Trên chỗ sẽ xây nhà tắm suốt ngày đêm từng đống thân cây to không ngớt bị đem ra đốt sưởi. Những người đào đất ngồi xung quanh thong thả hút thuốc, nói với nhau về tình hình thời sự quốc tế. Họ bảo thế nào Hítle cũng đánh Liên Xô, còn cánh trẻ thì có ý kiến ngược lại; chiến tranh sẽ không xảy ra, vì đã kí hiệp ước không tấn công rồi, mà có xảy ra đi nữa, chúng ta cũng sẽ cho Hítle biết tay. Xem đấy, chúng ta cũng đã có bao nhiêu tay súng cự phách rồi.
Giamin và các bạn thường hay đến chơi gần đây. Các cậu thích thú đứng nhìn người lớn đào lớp đất đóng băng lâu đời.
Hai người thi nhau quai những chiếc búa tạ nặng xuống đầu những chiếc cọc sắt dài một mét. Tiếng kim loại va vào nhau chan chát, đập vào tai đến khó chịu, nhưng xem cái công việc khéo léo này. Những chiếc cọc chậm chạp cắm sâu vào lớp đất đóng băng chặt cứng. Có khi người ta đóng mấy cọc lại một chỗ làm thành một hàng rào thép rồi tiếp đến là cả một tảng đất to tướng sụp đổ lấp lánh như quặng.
Công việc tiến hành một cách chậm chạp. Đất được chuyển đi bằng những chiếc xe cút kít trên đường lát gỗ ọp ẹp. Giờ nghỉ trưa, thỉnh thoảng người lớn lại cho các cậu kéo xe, lần nào cũng không quên dặn: “Chở vừa thôi nhé”
Mirôn Ivanôvích làm việc trong nhà tắm hơi mới xây bằng gạch này. Những tưởng bây giờ thì không có gì có thể làm ông cụ lo lắng nữa. Ngay cả lúc áp suất trong lò hơi giảm, và người tắm lấy chậu gõ ầm ĩ vào ghế đá. Mirôn Ivanôvích cũng bình tĩnh nói:
- Không sao. Để lão cho thêm ít than, hơi sẽ bốc, và nước sẽ nóng ngay. Trong đời cái gì cũng phải có tuần tự của nó.
Cả những lúc ngoài đường máy nước bị đóng, ông cụ hoàn toàn không có lỗi, thế mà người tắm vẫn cứ gọi trách. Mirôn Ivanôvích hiểu được vì sao mọi người bực mình. Cụ lại gần tường, nơi treo chiếc máy điện thoại trông như một hộp thư bằng gỗ đóng vụng về, rồi cầm lấy tay quay, quay như xay thịt. Chiếc máy kêu ù ù, lọc cọc, từng tràng chuông ngắn thỉnh thoảng lại réo giật lên. Với cái giọng đều đều và hình như có vẻ còn thích thú nữa. Mirôn Ivanôvích nói:
- Alô, alô! Cho nói với nhà máy nước… Alô!
Có lúc người tắm còn lấy chổi lá hay chậu che người lom khom chạy sang phòng nồi hơi làm ầm ĩ lên. Ông cụ vẫn tiếp tục quay máy, bình tĩnh nói:
- Ngồi xuống, làm gì mà như cháy nhà thế? Chỉ tổ cản trở không cho người ta xin nước…
Một hôm, trước khi đóng cửa nhà tắm, ông cụ quan sát kĩ nồi hơi, leo lên gác kiểm tra những thùng nước trên ấy xong tụt xuống bảo bà coi nhà tắm đang lau nền và xếp các chậu không lại một chỗ, đi về, để phòng hơi và phòng tắm đấy cụ quét dọn cho. Bà kia vui mừng cảm ơn cụ, đi về nhà, còn ông cụ thì vào phòng hơi. Ông cụ thường tắm hơi rất nóng, cánh thanh niên trẻ ít có anh nào chịu nổi. Nhưng hôm nay cụ tắm uể oải. Khi chiếc chổi rụng gần hết lá, chỉ còn trơ trọi cành không đập vào cái thân già đang giãn ra của ông cụ, ông cụ mới leo xuống để đầu mình dưới vòi nước đang chảy…
Ông cụ kêu lên một tiếng, lấy hai bàn tay mệt mỏi đầy gân xanh che mặt rồi ngồi lên sàn xi măng. Những dòng nước nóng bỏng vẫn tiếp tục chảy trên trán, trên lưng và vai cụ. Vẫn nhắm mắt, cụ mò mẫm như một người mù lần sang phòng cạnh, vất vả lắm mới sờ thấy vòi nước lạnh, rồi mở khoá cho nước dội lên đầu… Ông cụ không kêu to, không nhảy tung vì đau đớn quá sức, mà vẫn như mọi khi, bình tĩnh, lặng lẽ làm những điều trên…
… Sáng hôm sau, bà coi nhà tắm là người đầu tiên nhìn thấy cụ. Cụ nằm bất tỉnh trên sàn nhà, hai tay ôm đầu. Vòi nước lạnh vẫn chảy.
Ở nhà cụ, người ta chẳng lấy làm băn khoăn vì sao hết giờ làm mà không thấy cụ về. Khi sắp ngủ, Gôga hỏi: “Sao mãi không thấy Mirôn Ivanôvích về?” – thì bà cậu bảo – “Ngủ đi cháu, không có chuyện gì xảy ra với Mirôn Ivanôvích đâu”.
Hôm sau người ta báo tin cho gia đình là ông cụ bị bỏng nặng phải đưa vào bệnh viện vào hầu như không còn hi vọng qua khỏi. Cùng ngày hôm ấy, vợ cụ và con trai đã bắt đầu lo chuyện chôn cất. Để khỏi tốn tiền, Prônca quyết định tự đóng lấy áo quan. Hắn nằm trên tấm ván, cộng thêm về phía đầu hai lòng bàn tay nữa rồi ra lệnh cho Gôga lấy bút chì đánh dấu. Đứng dậy, hắn thành thạo ước lượng chiều dài tấm ván, khịt khịt mũi rồi rút ngắn thêm một tí.
- Có lẽ bây giờ thế là ổn… - hắn kết luận.
Mẹ hắn đi lại nói:
- Cao chừng này này…
Gôga và mẹ cậu định khóc nhưng bà nội cậu gạt phăng đi:
- Khóc gì mà khóc? Chúa đòi thì ông ấy phải trả hồn lại cho Chúa, thế thôi!
- Bố ơi, đừng làm hộp cho Mirôn Ivanôvích, ông có giường rồi, - cậu bé Gôga bảo Prônca
- Bác sĩ họ nói, con ạ, là Mirôn Ivanôvích không còn là người của thế giới này nữa, - Prônca an ủi con - Thế cũng đủ cho ông cụ rồi…
Nhưng, trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, Mirôn Ivanôvích đã qua khỏi. Chính cụ cũng không lấy làm mừng như các bác sĩ điều trị cho cụ.
- Một trường hợp độc nhất vô nhị trong ngành y!
- Đã bị bỏng gần một nửa!
- Phải nói là cơ thể cụ khoẻ lắm, Mirôn Ivanôvích ạ! - các bác sĩ và y tá vừa tiễn cụ vừa nói.
Khi ông cụ về nhà thì mùa thu đã sắp qua. Tuyết bắt đầu rơi, trời dần dần trở lạnh. Tới cổng người y tá đánh xe ngựa dìu cụ xuống xe, phủi phủi các bụi cỏ trên quần áo cụ.
- Bây giờ để tôi tự đi cũng được, - Xin chân thành cảm ơn mọi người, - Mirôn Ivanôvích nói rồi tự tay mở chiếc cổng to, nặng.
Ông cụ bước vào phòng ngoài và rất ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc quan tài đang dựng cạnh tường. “Không lẽ bà già đã trả linh hồn cho Chúa rồi sao?” - cụ lo lắng nghĩ - Chắc vì thế mà không ai đến thăm mình” – Ông cụ lại càng ngạc nhiên hơn khi thấy con trai và vợ đang ngồi cạnh bàn trong nhà, ung dung uống trà…
- Kìa ông, Mirôn Ivanôvích! – Gôga ở trên giường sung sướng kêu to.
Cô con dâu từ phía trong bước ra rụt rè nói:
- Chúa đã phù hộ bố! - rồi thút thít khóc, lại đi vào phòng của mình.
- Người ta đã thả cho về rồi à? Mirôn Ivanôvích? - cả vợ và con trai cùng hỏi một lúc.
- Ừ… Không mừng hay sao? Chiếc áo quan là cho ai thế? – ông cụ lo lắng hỏi - Thế mà tôi, lạy Chúa, cứ sợ là ở nhà có ai đã…
- Bố đóng đấy ông ạ! – Gôga nói to – Bà bảo làm
- Im! Tao xoắn lưỡi bây giờ! Toàn những chuyện không đâu - Mụ Xuđacôva mắng cháu – Mirôn Ivanôvích, mừng cho ông đã khỏi bệnh. Thấy không, chúa nhân đức lắm. Chúa vẫn tha thứ cho những người nô lệ lầm lỗi của mình.
- Và rõ ràng Chúa cũng nhân đức với bà, chứ không đã lôi ruột phanh gan bà ra rồi, - có lẽ đây là lần đầu tiên trong cuộc đời vợ chồng lâu dài của mình, Mirôn Ivanôvích đã nói với vợ gay gắt như vậy. Ông cụ thong thả cởi áo ngoài ra, - Bà nên cho tôi ăn một cái gì thì hơn là ngồi mà nhắc đến Chúa của bà như thế! Bà không thấy ăn cháo bệnh viện tôi chỉ còn xương với da đây à?
- Chẳng trách người ta vẫn nói bác sĩ và y tá; y tiếc gì đấy, cả lũ ăn hết phần của bệnh nhân, thật không sai - mụ già hiểu lời chồng theo ý mình.
- Tôi không bảo thế, - Mirôn Ivanôvích càng giận hơn trước - Họ lấy máu của họ cho tôi, mà bà thì nói “họ ăn hết phần”! Bà nghe chứ, Lukêria, họ lấy máu của họ cho tôi, họ là những người như thế đấy! Tôi gầy là vì tôi không ăn được một tí gì, hiểu không?
- Làm gì mà không hiểu, Mirôn Ivanôvích? – Lukêrai vội nói. Lần đầu tiên trong đời, mụ thấy ông già tức giận thực sự, và mụ thầm hiểu bây giờ không phải là lúc nên cãi lại, - Ông chờ tôi một tí, tôi đi nấu ăn bây giờ…
- Mirôn Ivanôvích, ông ơi, - từ trên giường Gôga nói vọng xuống, - thế mà ở nhà mọi người đã chuẩn bị đưa đám ông rồi đấy. Bà cháu đã nấu rượu và cứ phàn nàn luôn là ông có nhiều bạn quá…
- Có câm đi không, thằng khốn khiếp kia! – Prônca vừa chửi vừa bỏ ra phòng ngoài. Có tiếng thùng, đòn gánh va mạnh vào nhau, và tiếng một cái gì rơi mạnh xuống đất…
- Ít ra cũng để thằng bé yên chứ! - mẹ Gôga rụt rè nói và đi lại gần bố chồng, - Chào bố, Mirôn Ivanôvích, chúc mừng bố đã khỏi bệnh. Chuyện gì đã xảy ra trong nhà tắm thế?
- Để yên cho người ta ăn! Cô ngồi trong góc của mình có hơn không? – Lukêria không bằng lòng, nói.
- Chúng tôi có mấy khi được nói chuyện với nhau đâu, - ông cụ bênh con dâu, - Có lẽ trong nhà tắm bố bị chóng mặt. Già rồi.
Ăn xong, ông già nằm xuống chiếc phản cạnh cửa, rồi nhanh chóng thiếp đi. Nhưng rồi ông cụ cũng chẳng ngủ được. Láng giềng bắt đầu đến thăm cụ. Chẳng mấy chốc căn nhà đã chật ních người đến nỗi lớp băng mỏng trên mặt kính cửa sổ đầy hơi nước. Họ tranh nhau hỏi ông cụ tắm làm sao đến nỗi quên cả đâu là vòi nước nóng, đâu là vòi nước lạnh. Ông cụ nói nhiều về bác sĩ, những người cho cụ máu và da của mình.
- Nghĩa là máu cụ bây giờ là máu người khác, phải không Mirôn Ivanôvích?
- Thật quả có thế! - mụ già lúng túng trong miệng - Trước kia cứ như con cừu non, còn bây giờ thì đố ai dám cãi lại một câu.
- Bà nên dọn cái gì lên bàn thì hơn. Rượu bà nấu để chờ tôi “khỏi bệnh” ở đâu? Mụ già của tôi thế đấy!
Mụ vợ càu nhàu chui xuống hầm nhà lục lọi hồi lâu rồi cuối cùng cũng mang lên một ít việt quất muối, một bình rượu tự nấu và rượu ngâm phúc bồn tử.
- Nghĩa là, Mirôn Ivanôvích, người ta đã vá lại da cho bác, tôi hiểu thế có đúng không? - cụ láng giềng Mêphôdi hỏi.
- Đúng thế, chứ không bây giờ tôi đâu còn được nói chuyện với bác ở đây.
- Mirôn Ivanôvích, cụ có thể cho chúng tôi xem người ta vá da người khác cho cụ ở đâu được không? Muốn xem tí thử nó ra làm sao? – một người đã ngà ngà say hỏi
- Ăn uống đi đã, tôi sẽ cho xem sau.
Uống xong hai ba cốc, khách nói chuyện càng hăng hơn trước, hoàn toàn quên hẳn việc ông cụ phải nghỉ. Mà Mirôn Ivanôvích cũng không bảo họ về vì biết những người này đến với ý tốt.
Khi khách ra về thì đêm đã khuya. Ông cụ ngủ thiếp trên phản, đầu gối lên chiếc áo ấm. Mụ già say rượu không ngớt chửi những người láng giềng đến ăn uống phá sản nhà mụ, rồi mụ lại quay sang mắng chị con dâu thu dọn bát đĩa chậm. Mụ đổ các chỗ rượu ngâm quả uống thừa vào một chiếc cốc, lấy màng phễu lọc lại một lần nữa, vứt xác quả ra sân rồi rót vào chai, để trong góc.
Cầu nguyện xong, lẩm bẩm chửi một lúc nữa, mụ đi nằm.
Chị con dâu lấy chiếc chăn đắp lên người Mirôn Ivanôvích, đứng cạnh cụ một lúc rồi lặng lẽ đi vào buồng mình, ở đấy Prônca đang say, khò khè ngáy.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, Prônca lại uống rượu nữa. Hắn choàng lên người chiếc áo ấm, bỏ đi lấy cỏ cho bò. Vợ hắn đun nước nấu cháo lỏng cho bò. Chị này còn đang chưa kịp quàng khăn lên đầu, đã thấy hắn chạy bổ vào nhà như một thằng điên.
- Ngỗng… ngỗng chết hết cả rồi…
- Chết là chết thế nào, mày nói gì thế? – bà mẹ hắn hoảng sợ nói
- Chết hết rồi, mẹ ạ, con lấy chân đá hai con, dựng thế nào lại ngã ra thế đấy.
Mụ già cuống lên, cho vội đôi chân không tất vào ủng, một tay xỏ vào ống áo ấm, tay kia đỡ chiếc khăn trên đầu chạy ra.
Một chốc sau, mụ quay vào, ngồi lên chiếc hòm có bịt sắt cạnh giường, hai tay để lên đầu gối, lẩm bẩm như người sắp chết:
- Sao Chúa trừng phạt con thế này? Có ba tá ngỗng đều bắt chết dịch cả…
Chị con dâu đứng cạnh lò sưởi, tay vẫn xách chiếc thùng, ngạc nhiên nhìn mẹ chồng. Thậm chí cả khi Mirôn Ivanôvích vào bệnh viện, trông mụ cũng không thảm hại như thế. Lúc ấy mụ chỉ buồn rầu nói: “Thế là Mirôn Ivanôvích đã sống hết đời của mình… Chúa ban cho ông cuộc sống, bây giờ Chúa lấy lại… Mong cho ông được lên thiên đường!”
- Sao lại đứng thế hả? - mụ quát con dâu - Chạy ngay ra nhà để đồ đạc, trong lúc chúng còn ấm, thì phải nhổ lông chứ!
- Nhỡ ra chúng bị bệnh truyền nhiễm thì sao? - chị con dâu rụt rè lên tiếng.
- Truyền nhiễm, truyền nhiễm! - mụ già nhai lại - Đừng có làm như tiểu thư ấy. Đừng có để mất của - Rồi mụ lại bắt đầu than vãn ầm lên: - Tại mấy đứa hàng xóm ấy mà. Cho chúng ăn, cho chúng uống để thế này đây… Chúng thấy, chúng ghen tị mà. Đứa nào mắt cũng cứ xói vào đây nên mới nông nỗi này… Không biết rồi sẽ còn gì nữa… - Và cũng ngay liền đó, mụ quay sang con trai, dịu giọng nói – Còn con, Prônca, chạy giúp vợ con đi… Phải làm nhanh lên để không đứa nào thấy thế mà sung sướng được. Giấu thật nhanh, thật gọn để bịt miệng cái quân lắm mồm, lắm mép lại…
Khoảng 11 giờ thì cả đàn ngỗng đã được vặt trụi lông đem xa ra tận mép vườn chờ chiều đi làm về, Prônca sẽ đào hố chôn chúng.
Bực mình Lukêria quay sang chửi chồng, kể ra cũng không lấy gì làm hùng hổ và to tiếng lắm, rằng vì ông mà nhà mụ gặp tai nạn này. Ông cụ chỉ im lặng đi lại trong phòng, không để ý đến việc bà vợ đang cuống quít, đay nghiến mình. Thỉnh thoảng cụ đến gần chiếc cửa sổ, lấy lòng bàn tay to lớn của mình xoa xoa mặt kính mờ nước, nhìn ra ngoài tuyết trắng. “Mình sẽ ở nhà thêm một vài tuần gì đó rồi đi làm, - cụ nghĩ bụng, vẫn nhìn qua cửa sổ - Làm ở phòng hơi bây giờ cũng vất vả đấy, ban đầu làm anh trông nhà tắm vậy…À, mà cái gì thế kia?” – Mirôn Ivanôvích đưa tay áo lau kính, kêu to:
- Trông kìa, bà mày! Lại mà xem có lạ không? Ông cụ phá lên cười vang nhà.
- Không lẽ ông già điên rồi sao? – Lukêria lẩm bẩm rồi đi lại gần chồng – Nào, cái gì mà cười âm lên như thằng điên thế? Đâu? - Mụ ẩy ông cụ ra một bên dán mặt vào tấm kính - Lạy chúa, lạy chúa! - mụ làm dấu thánh – Hay đây là điềm báo của Chúa?
- Không nhận ra đàn ngỗng của bà à? – Mirôn Ivanôvích cười to đến nỗi Gôga và mẹ cậu hoảng sợ nhìn cụ
- Ông im đi! Ngỗng của tôi chết dịch rồi
Những con ngỗng bị vặt trụi lông trần truồng vừa kêu vừa chạy toán loạn trong sân. Một vài con ngã chúi xuống tuyết rồi lại vất vả cố gượng dậy…
- Không lẽ chúng sống lại? - mụ già sợ sệt hỏi
- Thì chúng có chết đâu, chỉ có bà vội vặt lông chúng, thành ra bây giờ chúng phải trần truồng như vậy, - Mirôn Ivanôvích lại phá lên cười – Mà này, thế hôm qua bà cho chúng ăn gì? – ông cụ quay về phía vợ hỏi
- Như mọi ngày - hạt mạch, bánh mì ngâm nước…
- Hôm qua còn lại bao nhiêu là xác quả ngâm rượu mẹ để ở đâu? - chị con dâu hỏi
- Vứt ra sân… Không lẽ vì chúng ăn phải quả?
Mirôn Ivanôvích lại phá lên cười
- Nghĩa là cả ngỗng chúng cũng uống rượu mừng tôi khỏi bệnh đấy! Thế này thì còn lâu tôi mới chết.
Mụ già vừa xuýt xoa kêu lên, vừa cầm chiếc rìu nặng vẫn dùng để chẻ củi, chạy ra sân, bắt đầu chém cổ những con ngỗng trụi lông đang nửa say nửa tỉnh.
Còn Mirôn Ivanôvích thì không được sống lâu như cụ nghĩ. Làm người coi nhà tắm được một tuần, một hôm cụ bỗng gặp Đunhia ở ngoài đường, bà này trước kia làm việc ở nhà tắm. Bà này chào cụ rồi trách:
- Đáng nhẽ cụ không nên chiếm mất việc của tôi, Mirôn Ivanôvích ạ, - bà cúi nhìn xuống đất, tay xoắn xoắn góc khăn - Ở nhà tắm khoẻ hơn, lại ấm, còn bây giờ phải làm việc trên tuyến đường sắt, đem xà beng ra mà cậy ray… vác tà vẹt… Sáng dậy không làm sao mà ra khỏi giường được, lưng đau nhừ.
- Đunhia, tôi có biết thế đâu?... Hơn nữa, kể cũng bất tiện; để một người như chị phải nhìn những người đàn ông trần truồng.
- Tôi quen rồi, và còn cảm thấy như mình là đàn ông ấy, chứ làm ở đây nặng quá… Mirôn Ivanôvích, cụ đừng giận tôi nhé.
Sau lần gặp ấy, về nhà ông cụ cảm thấy bối rối không yên. Cũng may là tối ấy cụ láng giềng Mêphôđi lại sang. Chưa tới cửa, ông cụ đã oang oang hỏi thăm sức khoẻ chủ nhà rồi đứng yên một chỗ, chiếc mũ không ngớt chuyền từ tay này sang tay kia.
“Ông lão làm sao thế nhỉ?” – Mirôn Ivanôvích cố đoán
- Mirôn Ivanôvích, thấy bác có chổi lá đập nóng lắm… Cho tôi một đôi đi. Con trai tôi, thằng út, Anđrây ấy mà, bác nghe chứ, nó vừa từ Mông Cổ về. Nó là cán bộ Hồng Quân, nghe nói đánh bọn Nhật cạnh một chiếc hồ nào đó bên ấy. Nó được thưởng một chiếc huy chương bằng bạc nguyên chất đấy, - cụ Mêđôphi nói một hơi.
- Có ngay, bác Mêđôphi ạ. Để tôi leo lên gác, chọn cho vị anh hùng của bác những chiếc tốt nhất.
- Thế thì cảm ơn bác lắm. Mirôn Ivanôvích ạ!
Mirôn Ivanôvích mặc áo ấm đi ra, một chốc sau nghe rõ tiếng cụ đặt chiếc thang lên gác. Còn cụ Mêđôphi thì vẫn tiếp tục kể về con trai mình cho Lukêra mặc dù mụ này không nghe cụ.
- Cái quân Nhật ấy mà, người bé nhưng đánh hăng lắm - Cụ ngồi lên chiếc hòm gỗ được che bằng một tấm thảm nhiều mảnh vải sặc sỡ may lại, rồi sôi nổi nói tiếp – Nghe nói bọn chúng được dạy tự mổ bụng mình ra đấy. Nếu ai khác mà kể thì có chém tôi cũng chẳng tin, chứ đằng này chính thằng Anđrây nhà tôi…
- Hừ,… không lẽ lại thật thế à? – Lukêra lên tiếng.
- Mà cái này có cái tên kì lắm… Kiarakhari gì đấy. Bác Cudia cũng đã kể cho tôi. Bác ta cũng đánh nhau với chúng mà. Có điều, ở ngoài biển, tất nhiên không vất vả như thằng nhà tôi.
Có lẽ ông cụ còn nói rất nhiều về thằng con trai anh hùng của mình nếu bà chủ nhà không thẳng thừng ngắt lời:
- Thôi, nói thế đủ rồi, chứ tai tôi đã mệt lắm. Mong sao Mirôn Ivanôvích chóng xuống. Mà ông ấy làm gì trên ấy mà lâu thế? Leo lên gác, gặp cái nào lấy cái ấy, gì mà phải chọn, tất cả đều như nhau. Hay bác lên xem thử, để tôi soi đèn cho.
Ông cụ miễn cưỡng đứng dậy, Likêria theo sau, tay cẩn thận cầm chiếc đèn.
Cụ Mêphôđi chưa leo lên gác, đã ngạc nhiên hỏi:
- Sao Mirôn của bà ngã nằm xoài như thế kia? Nào, xem nào… - ông cụ nhanh nhẹn leo lên rồi gọi to xuống.. – Đèn, đưa đèn đây. Hình như có chuyện gì xảy ra với Mirôn Ivanôvích thì phải.
Lukêria theo bậc thang nhẹ nhàng leo lên, khẽ nói:
- Lạy chúa, khéo cháy nhà thì khốn!
Ánh lửa soi rõ thân hình bé nhỏ của cụ Mêphôđi bên cạnh Mirôn Ivanôvích to lớn đang nằm xoài. Mặt cụ úp xuống gác sàn, nách cắp chặt mấy bó lá. Chiếc nắp quan tài nặng nề nằm nghiêng chổng vênh lên đầu cụ, che lấp nửa mặt. Một chiếc đinh lớn cắm sâu vào thái dương. Dòng máu chảy trên mặt đã kịp đông.
Thời gian gần đây, mỗi lần giao công việc cho mỗi người xong, Piốt Pêtrôvích Xamôrucốp thường nói câu mà gần đây ông hay dùng:
- Có hỏi gì không? Không à? Thế thì ai về chỗ nấy.
Trong bụng, ông biết là không nên cư xử với công nhân xưởng ông như thế. Ông sống với họ không phải mới chỉ một ngày, hai ngày, ông biết. Chỉ tại cái lão béo trục béo tròn nọ từ cục tuyến đường sắt xuống, một lần có mặt trong một cuộc họp đã trách nhẹ ông như sau:
- Này đồng chí Xamôrucốp, đồng chí là cán bộ lãnh đạo ngành giao thông, mà giao thông quan trọng thế nào đối với tiền tuyến thì khỏi phải nói. Trên một cương vị như vậy, mà xem cung cách làm ăn của đồng chí chẳng khác gì một đội trưởng sản xuất loại tồi ở nông trang. Thậm chí đến giọng nói cũng chẳng có gì có vẻ là thủ trưởng nữa. Thành ra đồng chí không phải ra lệnh mà nói chuyện bình thường như trong gia đình vậy.
- Sao phải ra lệnh với công nhân làm gì? - Piốt Pêtrôvích hỏi lại, vừa rít mạnh điếu thuốc tự quấn đã tắt từ lâu – Thì tất cả họ cũng như tôi và anh đây, thừa hiểu họ đang phải gánh một trách nhiệm lớn thế nào. Ngay cả các em thiếu niên mà hiện nay chiếm 60 phần trăm lực lượng lao động của tôi cũng hiểu được nữa là. – ông dè dặt phát biểu ý kiến của mình.
- Đấy, đấy, tôi biết mà – ông béo nọ đỏ mặt – Tôi khuyên là khuyên cái hay, cái đúng cho anh mà anh lại tìm cách bào chữa. Thôi, khỏi dài dòng – ông ta đập mạnh lòng bàn tay to béo múp của mình lên mặt bàn - Từ hôm nay trở đi, mỗi lần giao xong việc, anh phải hỏi: “Có hỏi gì không?”. Có thể có người còn chưa hiểu một điều gì đó. Phải bảo đảm dân chủ, và cái quan trọng nhất là điều này sẽ giúp anh tránh khỏi những phiền phức không cần thiết sau này. Trong công tác, ai biết được cái gì có thể xảy ra. Hơn nữa, bằng cách này, anh sẽ tạo cho người dưới quyền điều kiện có thể phát biểu ý kiến của mình - Thấy các nốt sần đã bắt đầu nổi trên khuôn mặt kiểu Mông Cổ của bác đốc công, đại diện cục tuyến nói thêm: - Tôi chỉ khuyên anh điều tốt thôi mà. Nên tin vào kinh nghiệm của tôi.
Và thế là từ đó Piốt Pêtrôvích bắt đầu “bảo hiểm” mình, như bác vẫn hay nói về chuyện này như vậy.
Khi hầu như trong phòng chẳng còn ai, Xamôrucốp yêu cầu Giamin ở lại
- Cháu mở giùm bác cửa thông khí, - bác đốc công nói - Việc học thế nào? Anh cháu viết thư về nói gì?
Đám khói thuốc màu xanh lẫn mùi mồ hôi bay qua chiếc cửa sổ hình vuông có song sắt như bay vào một chiếc ống hút khí.
- Sắp tới kì thi… Anh cháu ít viết thư, - tay vẫn giữ quả đấm cánh cửa, Giamin đáp
- Cháu ngồi xuống…
- Cháu rất vội, Piốt Pêtrôvích ạ. Nguyên liệu bây giờ thì xấu mà định mức, bác biết đấy, cứ ngày một tăng…
- Cháu nói đúng, nhưng hôm nay có chuyện cần bàn. Cháu biết không, hiện nay người ta đang thành lập một đoàn khôi phục các tuyến đường sắt. Cần chữa lại các cầu bị gãy, các đoạn đường hỏng. Cháu biết đấy, giao thông hết sức quan trọng đối với tiền tuyến. Không có chúng ta, Giamin ạ, quân đội sẽ không tiến lên được.
- Cháu hiểu, Piốt Pêtrôvích ạ. Bác định cử cháu đi làm tuyên truyền viên ở đâu hay sao? – Giamin nhếch mép cười
- Không, đâu có! À, Giamin này, phòng tổ chức cán bộ cho gọi cháu đấy… Đi đi, sau về báo lại với bác.
Giamin tự tìm hiểu câu trả lời về việc tại sao trưởng phòng tổ chức cán bộ lại đích thân muốn gặp cậu.
Giamin vừa đi vừa nhảy từng bước với tay hái những hoa non dãy cây dương bên đường. Lối đi được ghép bằng gỗ từ thời chiến tranh mới bắt đầu, tới nay chưa được sửa chữa lại lần nào, thỉnh thoảng vài thanh bị hỏng để trơ những chiếc đinh gỉ. Đang nhảy thế, Giamin bỗng sa chân vào một lỗ hổng. Để rút chân ra, cậu phải bẻ hẳn cả thanh gỗ mục.
- Có chuyện gì thế, anh? – Giamin bỗng nghe có tiếng thỏ thẻ của một phụ nữ.
Cậu ngẩng đầu và thấy một cô gái Xưgan còn trẻ, quàng khăn san hoa sặc sỡ, có đôi tua dài.
“Bây giờ thế nào cô ả cũng bám riết lấy mình và lại giở trò bói toán. Kệ thây ả! Trưởng phòng cán bộ đang chờ mình”. – Giamin nghĩ bụng và rảo bước nhanh hơn.
- Anh thân yêu, đi đâu mà vội thế? Hạnh phúc đang theo anh đây mà anh chẳng thấy gì. Ấy, đấy! Đưa tay cho em xem nào, em sẽ chỉ cho anh hạnh phúc ở đâu. Sau này mới biết là em nói đúng. J-cơ này ! Và sẽ cảm ơn em suốt đời! – Cô gái Xưgan bước nhanh theo Giamin.
- Cô buông tôi ra! Sao cứ bám lấy người ta thế? Không thấy chân tôi đang đau đây à? - vừa khập khễnh, Giamin vừa đáp, Liền đấy, cậu thấy một đám đông trẻ con Xưgan bẩn thỉu, quần áo sặc sỡ đủ các màu xanh, đỏ, vàng, đang hò hét cạnh bờ giậu…
Những người Xưgan lớn khác ngồi dưới gốc dương, phần đông là phụ nữ và người già. Còn cô kia thì vẫn cứ bám chặt lấy Giamin:
- Nào, ông anh, để em đoán cho nào! Chỉ cần cho em một mẩu bánh mì thôi, em sẽ rất cảm ơn, và cho em một phiếu ăn nữa, em sẽ nhớ anh suốt đời…
Những em bé Xưgan chìa những cánh tay tí hon màu nâu qua các lỗ hổng bờ giậu rồi kêu lên như một bầy quạ con.
Giamin mà hàng tháng không được tắm rửa, và tóc cũng rối bời lên như thế thì có lẽ cũng có thể bị xem là Xưgan được. Áo quần cậu cũng vá chằng chịt, người cũng gầy, đôi mắt cũng to và đen như thế.
- Tôi không có bánh mì, - Giamin nói
- Thế thì xem có tiền không?
Đây không còn là những người Xưgan trước chiến tranh thường từng toán lớn tụ tập bên kia bờ sông Taisétca, cạnh máy nước hay trên bãi rộng gần xưởng tà vẹt. Cậu còn nhớ rõ những năm ấy, người Xưgan thường toả đi khắp đường, ồn ào rẽ vào các ngõ. Họ đoán số táo bạo lắm và bao giờ cũng đoán đúng cho nhà nọ hoặc nhà kia đã có một tai họa nào đó. Nếu lúc đầu chủ nhà rụt rè và nhìn xem người khách dai dẳng này có lấy cắp cái gì không, thì chỉ cần nghe xong câu đoán thứ nhất, các bà (đàn ông thường cau có đứng cạnh) đã kêu lên một cách chân thành, thậm chí còn có vẻ sung sướng nữa.
- Đoán đúng lắm, đúng lắm! Giỏi thật! Gì thì gì chứ cô ta nói cứ như là đi guốc vào bụng ấy.
Một chốc sau, chính bà chủ nhà lại yêu cầu những người Xưgan dùng quân bài bói, và hết sức chăm chú nhìn những ngón tay thon đeo đầy nhẫn đang sờ vuốt những quân bài như sờ vuốt những vật sống.
- Đúng lắm! Quỉ tha ma bắt nhà cô! Đúng thật! – bà chủ nhà sung sướng nói rồi tự mình dẫn thầy bói sang nhà bên cạnh
Bây giờ thì cô Xưgan không vội nữa. Vẫn ngồi yên trên ghế, cô lấy giọng đường bệ nói:
- Quân bài của tôi, bà chị xem, không bao giờ nói dối đâu. Những gì chúng nói đều là sự thật, hoàn toàn sự thật và thế nào cũng sẽ xảy ra đúng như tôi nói. Có lẽ bà chị nên đãi tôi một cái gì đấy thì hơn, không nên kiết quá. Quân bài của tôi không ưa những người bủn xỉn.
- Vâng, vâng, có ngay! Ấy, đến tên cô tôi cũng chẳng biết nữa là, - bà chủ nhà tất tưởi chạy ra chạy vào và một lúc sau mang ra một lọ sữa đầy.
Ở nhà bên cạnh, cô Xưgan lại càng ra vẻ đàng hoàng hơn. Bây giờ cô ta hãnh diện ngồi xuống, đặt những ngón tay đầy nhẫn lên những nếp gấp của chiếc váy. Chiếc khăn san hoa sặc sỡ buộc túm sau gáy, bao quanh khuôn mặt ngăm đen đầy vẻ bí ẩn với đôi mắt đẹp xếp rộng. Cô ta nghe phía trong nhà đang có tiếng phụ nữ thì thầm với nhau, tiếng chủ nhà từ chối vẻ nghi ngờ nghe bà láng giềng của mình đang say sưa kể.
- Nào, thì đoán. Thử xem cô nói dối giỏi đến đâu! - chủ nhà nói vẻ thờ ơ, như hoàn toàn không quan tâm gì cả.
- Cho tiền đi, bà chị - cô Xưgan nói, mỉm cười dịu dàng - Những điều tôi sắp nói với bà chị sẽ không bao giờ có ai nói được… Tôi sẽ nói cho bà chị biết cái gì đã làm trái tim hiền hậu của bà chị phải lo lắng lâu nay.
Chủ nhà chìa ra một rúp
- Ấy, ấy, ấy, bà chị, có ai nói hết sự thật cho người khác mà chỉ lấy có mấy xu không? – cô ta cầm đồng tiền vội cho vào chiếc bọc lận trong váy – bà bạn của bà chị vừa đưa cho tôi ba rúp đấy – Cô Xưgan dịu dàng nhìn về phía nạn nhân thứ nhất của mình.
Bà chủ nhà đưa thêm hai rúp nữa. Cô ta vội cầm ngay và cũng khéo léo nhanh nhẹn như lần trước, lại cho vào bọc
- Bàn tay bà chị, bà chị thân mến, đẹp và trắng lắm. Bà chị cũng đã phải chịu nhiều đau khổ, đáng lẽ bà chị phải được sống như một bà hoàng mới phải. Thử nhìn xem đường này nó chạy mãi tới đâu này? Đi xa lắm đấy… Nào, để tôi xem đường này nữa. Ôi, có một nỗi buồn như tảng đá đang đè nặng trái tim bà chị. Nó không để bà chị yên. Bà chị có kẻ thù, kẻ thù nham hiểm, độc ác. Còn cái này thì tôi chưa rõ lắm. Không hiểu là J hay Q đây. Vì nỗi buồn mà đường này bị mờ và không muốn chỉ rõ cho tôi biết sự thật… - cô ta đưa những ngón tay nhẹ nhàng ve vuốt lòng bàn tay đang run run của bà chủ nhà. Bà này nín thở chăm chú nghe những lời đang tuôn ra từ miệng cô Xưgan, thỉnh thoảng lại tròn đôi mắt nhìn phía bà bạn láng giềng: thấy không, cô ta nói đúng lắm – và thế là tiếp đến, tự bà ta thổ lộ nỗi buồn thầm kín rất phụ nữ của mình.
Khi các bà Xưgan thường cùng đi với lũ trẻ con suốt ngày lang thang từ nhà này sang nhà khác, thì cánh đàn ông của họ nằm ở nhà, trong các lều vải, trên nệm bông, chân vẫn mang ủng, người mặc áo gi-lê nhung. Một số thì ngủ dưới các cỗ xe, số khác ngồi bên đống lửa, miệng không ngừng rít tẩu, còn bọn trẻ con thì chơi với bầy chó, hễ có dịp là chui vào hái trộm quả trong vườn người khác. Còn những đứa khoảng 12-13 tuổi thì đứng đầy sân ga, hầu như có tàu khách hay người nào đi qua cũng bám chặt như đỉa đói:
- Bác ơi cho cháu một xu. Cháu sẽ nhảy bằng bụng, bằng đầu, nhảy 12 lần…
- Thì cứ nhảy đi!
- Không, bác lừa cháu. Đưa tiền trước đã! Cháu có thể nhảy thế này! – và cậu bé Xưgan nhanh nhẹn đạp đập đầu bàn chân trần xuống đất, lẩm bẩm hát một điệu gì đấy, rồi ngã sấp xuống đất rồi lại bật dậy - Đấy, cháu làm được thế đấy. Nào đưa cháu một xu đi, - cánh tay bẩn của cậu chìa về phía người xem đòi hỏi.
Nếu người ta cho cậu một đồng 20 xu, thì cậu nhảy đến kiệt sức mới thôi. Không hiểu sao người ta hay bảo bọn trẻ Xưgan trồng chuối ngược, hai chân đạp vào không khí.
Một lần từ bờ sông về nhà, Giamin đã thuyết phục các bạn mình lại gần hơn để xem trại của người Xưgan. Các cậu rụt rè bước về phía những chiếc lều vải. Lập tức những bầy chó tai to bao vây các cậu, sủa ầm ĩ, thực ra thì không có vẻ hung dữ.
Một cậu bé tóc quăn, thò đầu ra từ chiếc lều ngoài cùng, và tiếp đến là một người đàn ông Xưgan có râu quai nón đứng dậy, vươn mình, xương kêu răng rắc:
- Các chú đi đâu? Hay là đến gặp tôi? – anh ta cười phá lên
- Chúng cháu muốn xem… - Giamin rụt rè đáp. Các cậu đứng tụm lại với nhau. Dù sao vẫn còn hơi sợ
- Ta đi lại đống lửa, - anh chàng Xưgan nói và dẫn các cậu tới giữa đám trại
Bầy chó ve vẩy những chiếc đuôi xù lông chạy về phía trước, thỉnh thoảng lại quay nhìn các cậu. Cũng ở đấy, có những con ngựa đang gặm cỏ, trên cổ chúng treo lủng lẳng những lục lạc đồng. Khịt khịt những con ngựa cũng nhìn về phía các cậu. Cạnh hai con ngựa cái là hai con ngựa con đang bú sữa, trông thật buồn cười, chiếc đuôi ngắn cũn cỡn luôn phe phẩy như quạt.
Cạnh đống lửa mà trên đó có treo một chiếc chảo và một ấm đun nước, khoảng 12 người đang ngồi, gồm người già, nam nữ thanh niên, các bà đứng tuổi và trẻ con.
Anh chàng Xưgan nói một câu gì đó với mấy người kia và họ ngồi sát lại, dành chỗ cho các cậu. Hai cậu bé Xưgan, nói tiếng Nga rất tồi, đi lại, mỉm cười chìa tay bắt, nhưng liền bị một người lớn bạt tai ngay. Những người lớn khác thì kêu lên, quát chúng, làm chúng phát khóc, vội lủi vào đám đông.
- Bọn tớ sống thế đấy, các cậu ạ, - anh chàng Xưgan vui vẻ nói - Lại đây với chúng tớ, người Xưgan sống như ngọn gió giữa đồng…
Các cậu đứng im.
- Thế thì mùa đông các bác ở đâu? – Giamin hỏi
- Mùa đông đến, các cậu ạ, là bọn tớ ra đi. Đi tìm mùa xuân. Bọn tớ chỉ biết mùa đông khi nào đến thôi, chưa bao giờ thấy nó cả! – anh ta nói tiếp, hai lỗ mũi dớn rộng, trông thật buồn cười.
- Thế thì khỏi phải nói – Gôga nhận xét đầy ý nghĩa và cảm phục nhìn anh chàng Xưgan kia.
Các cậu ở lại với người Xưgan đến chiều tối. Ở đây họ không quá vui ầm ĩ, không nhảy múa. Ngược lại, họ thường hát những bài hát buồn, nói chuyện với nhau một cách uể oải, như thấm mệt sau khi làm việc nặng. Ai trong ngày kiếm được cái gì, đều mang vào một chiếc lều không lớn lắm. Và rồi từ căn lều đó, vọng ra những giọng nói xúc động, nhiều khi có cả tiếng nức nở.
Mải ngắm nghía tất cả những cảnh này, các cậu quên cả thời gian. Anh chàng Xưgan kia bảo:
- Đến giờ về nhà rồi, kẻo bố mẹ các cậu lại mắng. Bọn tớ sống thế đấy… - giọng anh ta đượm một nét buồn khó tả - Nhưng được cái hoàn toàn tự do
… Trước kia họ sống như vậy. Thế mà bây giờ, họ gần giống những người ăn xin.
- Quả thật, tôi không có bánh mì, chỉ có ba rúp đây – Giamin móc tiền từ túi ra.
Cô Xưgan giật lấy tờ ba rúp, vội vàng nhét vào ngực rồi cầm lấy bàn tay Giamin liến thoắng nói một mạch:
- Thế nào cậu cũng sẽ gặp may! J-cơ này. Cậu sẽ còn đi xa. Cậu sẽ thấy hạnh phúc ở một thành phố lớn, trong một ngôi nhà của nhà nước.
- Đây có rõ đường nào là đường nào đâu, chỉ độc giỏi tán – Giamin giật tay mình khỏi những ngón tay đang giữ chặt của cô ả rồi bước đi nhanh.
- Nếu muốn thấy, cậu sẽ thấy, chỉ cần muốn là được, - cô ả ngân giọng nói theo - Những điều tôi nói với cậu là sự thật. J-cơ đấy, thế nào cậu cũng gặp may trong đường đời…
- Hơi muộn đấy, đồng chí Samiliép ạ, - trưởng phòng cán bộ tổ chức trách khi Giamin bước vào phòng - Ngồi xuống, công việc thế nào?
- Bình thường ạ!
- Có muốn xem đây, xem đó không? - vừa lục lại trong đống giấy, ông trưởng phòng vừa hỏi.
- Ai mà không thích được xem đây, xem đó, - Giamin đáp, vẫn không hiểu ông ta định nói gì.
- Đúng thế, nếu vậy thì lệnh điều động của cậu đây. Từ ngày mai, cậu sẽ thuộc quyền điều khiển của trưởng đoàn khôi phục đường sắt.
- Không, cháu không thể quyết định ngay như vậy được… - Giamin bối rối - Sắp tới cháu phải thi ở trường, hơn nữa, còn phải bàn với mẹ cháu đã, mẹ cháu ở nhà một mình…
- Cần người có học, làm việc tốt, trẻ… Tất cả những điều ấy cậu có cả. Mà rồi cũng không còn ai cử nữa; người thì ốm, người thì đông con, người thì, nói thật ra, không thể cử được…
- Học thì cháu còn kịp… Có điều với mẹ cháu thì thế nào đây? Để cháu về thuyết phục xem…
- Đấy, đấy, ý bác cũng định nói thế. Không học bây giờ thì sau này, đi đâu mà sợ, - ông trưởng phòng vội nói, sung sướng vì đã tìm thêm được “một thợ nguội vào biên chế đoàn”. “Kể ra cái anh chàng thợ nguội này chưa đến 18 tuổi, mình không có quyền cử. Nhưng biết làm thế nào! Trong lệnh phải ghi là anh ta tình nguyện thôi”, - ông trưởng phòng nghĩ.
Được phân công về chỗ mới làm việc, Giamin thấy thích, tuy cậu không muốn bỏ học và để mẹ ở nhà một mình. Cậu bỗng nhớ lời cô gái Xưgan nọ: “Cậu sẽ còn đi xa…”
Cậu quyết định chưa nói ngay cho mẹ biết.
Trụ sở của đoàn khôi phục chỉ là một toa chở hàng đứng ở một đoạn đường ray cụt. Chiếc toa khuất sau một gò đất cao có những thanh tà vẹt kẻ sọc và chiếc đèn pha hình vuông ở phía trên, còn phía bên kia, các bánh xe của toa được giữ chặt bởi những chiếc má phanh bằng thép. Một chiếc cầu thang gỗ chưa kịp ngả màu đen bẩn, dẫn vào phía trong toa.
Sau chiếc bàn làm bằng tấm gỗ rộng đóng sơ sài, có một người cao lớn, mặt ốm yếu đang ngồi. Chiếc mũ lưỡi trai đường sắt, không hiểu có phép gì mà vẫn không rơi khỏi gáy anh ta. Anh ta nhanh nhẹn nghe tên tất cả những người đến đây, giao nhiệm vụ và cho về. Anh ta là đoàn trưởng đoàn khôi phục, Vaxili Xécgâyêvích Xưrômiachin. Cạnh đấy là một người đàn ông mặt rỗ, mũi nhọn, mồm nhỏ. Mỗi lần đồng ý với đoàn trưởng, anh ta lại gật đầu, thỉnh thoảng dùng chiếc móng tay cong, chỉ trỏ nên xếp ai vào danh sách này. Đó là đốc công Ladarơ Xêmiônôvích Tabacốp.
Giamin chờ đến lượt mình, đưa giấy điều động:
- Tốt lắm, đang cần thợ nguội, - vẫn không ngẩng đầu, đồng chí đoàn trưởng nói.
Trong thời gian chiến tranh, ở Taisét mực được làm từ vỏ hành nên rất mờ và dễ nhoè. Anh ta phải tô đi tô lại họ tên Giamin ba lần, nét chữ mới hiện lên như trên giấy ảnh.
- Đi lại đằng kia, anh bạn – anh đốc công nói và chỉ về phía có một toán gồm phụ nữ, nam thanh niên và những người đàn ông lớn tuổi đang đứng.
Giamin ra khỏi toa, đi lại nhập bọn với những người mà cậu sẽ cùng làm việc.
- Này cậu, cậu là người địa phương à? - một cậu lớn hơn Giamin một chút hỏi Giamin.
- Người địa phương, thì sao?
- Tớ cũng nghĩ vậy. Có thuốc không? Muốn rít một hơi quá
- Tôi không có… - Giamin lúng túng đáp
- Thế cậu có kiếm được ở đâu không?
- Không, ở nhà không ai hút…
- Còn cậu?
- Không…
- Thế cái gì trong túi xách? - rồi hắn bỗng giật chiếc túi khỏi tay Giamin dốc ngược xuống đất, làm bánh mì, khoai tây và chai sữa toé ra.
Lúc đầu Giamin còn bối rối, chưa biết làm gì, nhưng cậu liền nghĩ: phải quật lại ngay. Xung quanh sẽ không có ai can thiệp, mà chỉ đứng xem “hai chú gà trống đá nhau” và sẽ không bênh vực ai cả.
Giamin nhìn xuống đất, nhặt vội chai sữa rồi xông vào cậu kia.
Thấy đối thủ của mình cầm chai, cậu kia vội vớ lấy đinh móc.
- Thôi, thôi! - một chị tóc vàng kêu giật lên, đi lại gần hai cậu – Đi đi, không còn việc gì làm nữa hay sao mà đánh nhau! - Chị ta đẩy vai cậu kia quay sang hỏi Giamin – Tên chú là gì?
Giamin nhặt khoai tây cho vào túi, thổi bụi khỏi chiếc bánh, đưa mắt dè dặt nhìn chị tóc vàng nọ
- Giamin…
- Còn tôi là Raia Alếchxâyêva… Chú từ đâu đến?
Giamin kể cho mọi người xung quanh nghe là cậu làm ở xưởng cơ khí, và sống ở đây, ở Taisét. Cậu có mẹ và các anh cậu đang ở ngoài mặt trận…
Tabacốp ra khỏi toa:
- Sao không làm gì cả thế này? Người ta phát phiếu thực phẩm cho các anh để đứng chơi à? Tại sao mãi bây giờ các toa vẫn đứng nguyên một chỗ?
- Này, không được quát như thế! Cần giải thích rõ ràng phải làm gì và làm thế nào, - Raia Alếchxâyêva mạnh dạn bước lên phía trước.
- Cô biết đang nói với ai không? - Tabacốp nổi nóng
Xưrômachin hiện ra ở trước cửa toa.
- Có gì mà ầm lên thế, các đồng chí? – anh ta điềm tĩnh nói
Toán công nhân tranh nhau nói nhao nhao
- Trật tự nào, các đồng chí! Từng người một, - Xưrômachin ngắt lời, bước xuống đất, - chúng ta phải làm việc ở một nơi quan trọng nhất. Các đồng chí là lực lượng nòng cốt của đoàn. Ở miền tây đất nước mọi người đang chờ chúng ta. Trong vòng ba tháng thôi, chúng ta phải lập xong đoàn khôi phục đường sắt. Tạm thời chưa có gì. Đoàn tàu của chúng ta cần người chưa đủ tất cả các ngành nghề giao thông đường sắt. Tôi nghĩ ai cũng hiểu điều đó…
- Vaxili Xégâyêvích, từ sáng đến giờ họ chẳng đẩy được một cặp bánh xe nào, - anh đốc công xen vào - Thế mà anh còn nói đến danh dự và trách nhiệm với họ. Họ thì có trời sụp xuống đấy cũng chẳng sao.
Toán công nhân lại sôi nổi, có người thậm chí còn chửi thẳng vào đốc công.
- Tabacốp, anh vào toa đi! Rõ ràng là anh đã không chỉ cho họ cụ thể phải làm những gì, - Xưrômachin nói – Đi đi, ta sẽ nói chuyện sau… À, mà phải cử một người nào đấy làm đội trưởng ở đây, ít ra cũng tạm thời.
Đốc công lúng búng nói gì trong miệng rồi miễn cưỡng bước vào toa.
- Đáng lẽ chúng tôi đã dỡ toa này ra từng bộ phận một từ lâu, nhưng nào có biết làm thế nào đâu. Ở đây không ai biết nghề ấy – Raia Alếchxâyêva lại lên tiếng.
- Có ai là thợ nguội toa xe không? – Xưrômachin hỏi.
- Tôi là thợ nguội nhưng về đường sắt,… - Giamin phá tan im lặng.
- Anh đã bao giờ thấy người ta tháo toa xe ra rồi lắp lại chưa?
- Ba bốn lần gì đó…
- Tạm thời thế là đủ. Họ tên là gì?
- Samiliép
- Thế thì bây giờ đồng chí sẽ là đội trưởng, đồng chí Samiliép ạ - Xưrômachin nói với giọng cương quyết không ai cãi lại được - Đồng chí hãy cố gắng hướng dẫn mọi người những cái mình biết. Ngày mai, các đồng chí ạ, tôi sẽ cố xin bên cánh phụ trách toa xe một hai thợ nguội nữa. Rồi công việc của ta sẽ đâu vào đấy – Xưrômachin mỉm cười khoan khoái rồi đi vào toa, đóng chặt cửa lại sau lưng.
- Con người mới tốt làm sao!
- Chúng ta là lực lượng chủ chốt anh bảo vậy!
- Thủ trưởng thế mới gọi là thủ trưởng! – có tiếng người hào hứng nói xung quanh.
Giamin bắt đầu giảng giải cho mọi người những điều cơ bản nhất của nghề nguội. Cậu dạy phụ nữ cách cầm búa, cầm đục, cách chặt đinh ốc thế nào để các ren ốc không bị dập. Tạm thời cả đoàn khôi phục chưa có một máy làm đinh ốc nào, nên bây giờ phải quí từng chiếc đinh nhỏ…
Đoàn cũng chưa có cả toa xe để làm xưởng nguội, xưởng dụng cụ và nơi ở. Phải chữa lại các toa xe bị chiến tranh tàn phá đang đứng trong các đường cụt mà những toa này đoàn trưởng cũng phải vất vả lắm mới xin được.
Giamin gọi những người thợ đang học nghề này lại một chiếc toa bị cháy sém, bày cho họ phải tháo dỡ nó ra sao và tên gọi từng bộ phận là gì.
Tháo những đầu đấm bị uốn cong ra. Công nhân đứng nhìn chiếc lò xo ghép thanh và chiếc trục vặn vẹo.
- Cái này thì dùng để làm gì? - người ta hỏi Giamin
- Làm gì à? Cho vào rèn tôi lại, sau cho lên máy tiện, tiện đường ốc - đội trưởng giải thích
- Đơn giản thôi mà, - cậu thanh niên cao người mà sáng nay định bắt nạt Giamin lên tiếng.
- Nghe và nhìn thì đơn giản – Giamin nói. - Khi bắt tay vào làm mới thấy là không dễ.
- Ừ, mà Xécgây này, cậu vẫn chẳng thích một việc gì đấy cho ra việc, phải không? Việc này chắc hợp với cậu lắm - một người nào đấy chêm vào, làm mọi người cùng cười ồ lên.
- Không sao, để rồi xem ai thích cái gì! – Xécgây chống đỡ
Hồi lâu, cả toán không sao tháo được một chiếc chốt nối giữa trục chính trong toa xe. Giá có hai ba thợ nguội loại khá thì việc chứa toa này chắc sẽ đơn giản và nhanh hơn nhiều. Đằng này ở đây, người thì bảo thế này, kẻ thì nói thế nọ, ai cũng chui xuống hầm xe lấy búa gõ lung tung một lúc rồi chui ra, văng tục bỏ đi. Không biết mọi người còn loay hoay vất vả bao lâu nếu lúc ấy đoàn trưởng không lại.
Xưrômachin cởi áo khoác, bò xuống gầm xe. Công nhân tò mò đứng chờ kết quả, trong khi thủ trưởng họ vẫn gõ búa đều đều vào chiếc đục.
Một chốc sau đã thấy anh bò ra, người đầy gỉ sắt và dầu ma dút:
- Đấy, cái chốt tai hại của các anh đây
Một người đưa cho anh chiếc giẻ sạch:
- Vaxili Xécgâyêvích, anh chùi tay kẻo lại dây ra áo quần
- Cám ơn – Xưrômachin lau tay rồi trả lại chiếc giẻ.
Anh giảng cách tháo bầu dầu và sử dụng cái kích xe ra sao, nhắc mọi người thế nào cũng phải lót ụ kích, nếu không tàu có thể chạy và dễ xảy ra tai nạn.
Mọi người ăn trưa ngay chỗ làm việc. Họ còn chưa được vào ăn ở nhà ăn, mặc dù ai cũng có phiếu công nhân. Nước sôi được nấu trong các ấm chè treo trên ngọn lửa, mỗi người một cốc, rắc muối lên bánh mì, bắt đầu ăn. Giamin ngượng ngùng mời các bạn mới của mình lấy sữa cho vào nước chè, và đem chia mỗi người một củ khoai nướng.
- Cậu sẽ đói đấy, - Raia Alếchxâyêva nói
- Không sao, cầm lấy, tôi đủ rồi – Giamin đáp
- Thế thì đưa đây! – Raia cầm lấy chai sữa, nói to với mọi người, - Này, lại đây, anh em ơi. Đội trưởng chiêu đãi sữa đây.
Cậu hồi sáng suýt đánh nhau với Giamin vẫn ngồi yên trên thanh tà vẹt, ra vẻ không nghe gì. Raia trả lại Giamin chiêc chai với một ít sữa còn lại
- Còn anh kia? – Giamin chỉ về phía Xécgây
- Xécgây, đưa cốc lại đây! Và các cậu sẽ trở thành anh em sữa, - Raia cười to - Đừng giận nhau nữa. Đội trưởng mời chân thành đấy.
- Đi lại kìa, - người ta ẩy vai cậu
Xécgây đi lại, dáng uể oải như muốn tỏ cho mọi người biết là nếu không vì người khác thì cậu chẳng bao giờ thèm cần đến sữa của Giamin. Xécgây đưa cốc, Giamin quá tay dốc hết cho Xécgây nhưng vẫn giữ vẻ như không có chuyện gì xảy ra, rồi lại ngồi điềm tĩnh ăn như trước. Cậu kia thấy vậy bỗng hỏi:
- Nếu sáng nay mình xông vào, cậu có lấy chai đập vào đầu mình không?
- Có, - Giamin cương quyết đáp
- Cậu khá lắm, - nghĩ ngợi một lúc, Xécgây lại nói
Từ hôm ấy, Giamin hầu như bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới. Người cậu mến nhất là Xưrômachin.
Chẳng bao lâu trong đoàn khôi phục đường sắt người ta đã biết là toàn gia đình của trưởng đoàn đã chết trong năm đầu tiên của chiến tranh. Và từ đấy, những người mà bề ngoài trông có vẻ thô kệch, và số mệnh không chiều chuộng họ, đối xử hết sức ân cần với Xưrômachin. Mọi chỉ thị của anh ta đều được thực hiện đầy đủ và chính xác. Công nhân quí Xưrômachin còn là vì anh ta tối tối thường tới chỗ ở của họ, ngồi nói chuyện lâu với họ, không từ chối kiểu cách chén nước hay bữa cơm nghèo nàn họ mời anh, kể rất hay về cấu tạo các toa xe cho họ nghe, về hệ thống chắp toa tự động, về công tác quản lí đường sắt…
- Tất cả những điều này, các đồng chí cần biết, các đồng chí ạ, - Vaxili Xécgâyêvích nói, - vì chúng ta là những người khôi phục đường sắt.
Anh bao giờ cũng nghiêm khắc, đòi hỏi nhiều nhưng công bằng
Một lần, Lukianốp, một người trầm lặng hỏi anh:
- Vaxili Xécgâyêvích, tại sao anh gọi tất cả chúng tôi bằng “anh”, trong khi nhiều thủ trưởng khác chỉ gọi chúng tôi cộc lốc là “cậu”, “mày”?
Đôi má trễ vàng ệch của Xưrômachin bỗng ửng đỏ. Anh lấy từ chiếc hộp ra ít thuốc sợi, quấn một điếu. Mọi người xung quanh nhìn, chờ đợi xem anh sẽ trả lời thế nào câu hỏi hắc búa này của Lukianốp. Mà Lukianốp hỏi câu này cũng không phải là ngẫu nhiên. Vài ngày trước đây, bác đã đập lại đốc công Tabacốp khi anh này quát bác:
- Lukianốp, tôi sẽ bắt cậu chịu trách nhiệm về việc này. Vào cái tuổi 50 như cậu đáng lẽ phải làm gương cho người khác theo mới phải. Thế mà cậu?!
- Còn cậu, đốc công ạ, không phải doạ người khác! Trên đầu tôi đã hai thứ tóc, và cậu cũng chỉ đáng vào hàng con của tôi thôi…
- Các đồng chí ạ, thật ra tôi cũng không hiểu tại sao người khác có thể xưng hô với cấp dưới của mình như vậy. Tôi nghĩ đây không phải là vì tình cảm thân mật, - Xưrômachin nhếch mép cười - Những người làm thế, họ tự hạ giá trị của mình bằng cách lợi dụng chức vụ, đặt mình cao hơn người khác… Đảng vẫn dạy chúng ta là phải quí trọng mọi người. Các đồng chí cũng biết một người cộng sản mà chúng ta phải luôn luôn học tập, một người không bao giờ nhấn mạnh những ưu điểm và sự vĩ đại của mình, mặc dù bản thân là một thiên tài.
- Lênin - một người nào đó lên tiếng.
- Đúng, Lênin. Người chỉ gọi “cậu” với những người thân thiết nhất.
Trên đường về, Xưrômachin quyết định phải nói chuyện nghiêm khắc với đốc công Tabacốp. Tabacốp có thể kể một truyện tiếu lâm hay, có thể vỗ vai công nhân, nhưng mọi người vẫn cảm thấy có cái gì giả dối trong anh ta; và hiểu rằng trong bụng, anh ta tự cho mình hơn hẳn người khác. Anh đốc công này thích tìm một khuyết điểm nào đấy của người khác và nói:
- Làm ăn như thế này thì có thể vào tù chứ chẳng chơi. Thời chiến bây giờ thế đấy! - rồi nhăn nhở cười, nói tiếp: - Nhưng tôi vốn thương người, tôi sẽ ngơ đi cho…
Xưrômachin đi tắt qua nhà ga, về toa xe nơi anh ngủ, và cũng là trụ sở của đoàn, hi vọng gặp người bổ sung cho đoàn. Nhiều lần anh đã gặp họ như thế. Dáng người cao, với quân hàm hai sọc với những ngôi sao to, anh nổi bật giữa người khác. Ai mới đến thế nào cũng tìm gặp anh. Nhưng hôm nay Xưrômachin không gặp ai. Người ta ngủ trong vườn hoa cạnh nhà ga, trên những tấm gỗ lát đường chờ tàu. Họ là quân nhân, các gia đình sơ tán, hay những chú bé mồ côi bẩn như ma lem. Cuộc đời của họ bị chiến tranh đảo lộn. Nhưng có thể nhận thấy là chẳng bao lâu nữa chiến tranh sẽ kết thúc; mọi người ngủ say sưa như vừa làm xong một việc lâu dài và khó khăn. Không có cái vẻ hoảng hốt, hỗn loạn, không còn tiếng khóc, tiếng rên mà Xưrômachin đã chứng kiến trên các sân ga những năm 41, 42 nữa.
Vào toa, Xưrômachin đốt nến, cởi quần áo và nằm xuống chiếc giường gỗ cứng, xiêu vẹo của mình. Vừa đọc được mấy trang trong cuốn “Sông Đông êm đềm” anh đã tắt nến. Thiu thiu ngủ, anh sung sướng nghĩ tới việc đoàn khôi phục sẽ lên đường đúng hạn. Thiết bị đang được gửi đến, cán bộ chuyên môn đang được phái đến. Nhiều người lên đường lòng nhẹ nhõm, nhưng cũng có người sau nhiều buổi nói chuyện căng thẳng ở đảng uỷ mới chịu đi. Xưrômachin rất hiểu là ban lãnh đạo đường sắt phải vượt rất nhiều khó khăn, phải rất khéo léo mới cử được người tới làm việc ở đoàn anh. Nơi nào cử người đi thì những người còn lại phải gánh vác hết mọi khó khăn.
Xưrômachin thiếp đi vào khoảng hai giờ gì đó, nhưng sáu giờ sáng anh đã dậy. Chỉ có những người đứng tuổi mới ngủ ít như vậy, nhưng Xưrômachin mới 37 tuổi.