Ba tháng sau, đoàn đã thay đổi đến mức không nhận nổi. Bây giờ là cả một xưởng lớn di động được trang bị nhiều loại máy, xe kiểm ray, cần cẩu.
Trụ sở của đoàn được đặt trong một toa khách loại sang có điện chiếu sáng. Lập tức chính quyền địa phương đối với đoàn trở nên kính trọng hơn. Còn câu lạc bộ của đoàn thì đặt trong một chiếc toa nhỏ cũ kĩ. Ở đấy người ta có thể tổ chức các buổi nói chuyện chính trị, các buổi diễn thuyết, hội họp và chơi cờ sau giờ làm việc.
Mọi người ai cũng nhớ ngày đẩy chiếc toa xe mới đầu tiên từ đề-pô ra. Lúc đầu công nhân đứng im ngắm “tác phẩm” của mình còn đang sặc mùi sơn, lắng nghe tiếng lăn nhẹ, đều đều của bánh xe. Người nào cũng muốn sờ, muốn thử lại chiếc đinh ốc mình đã vặn.
- Không lẽ đây là chiếc toa cháy đen dạo nọ? - họ hỏi nhau - Thật khó mà tin được.
- Cậu có nhớ là cậu nói phải vứt nó vào đống sắt vụn không? – Giamin ẩy vai Xécgây – Và không muốn mài lại.
- À, lúc ấy là chuyện khác, còn bây giờ… - Xécgây trông thấy đoàn trưởng kêu to như một chú bé: - Hoan hô Vaxili Xécgâyêvích! Hoan hô tất cả chúng ta! Những lúc thế này phải có rượu sâm banh mà đập tung ra mới phải, như người ta vẫn làm khi hạ thuỷ một chiếc tàu mới đóng…
- Đấy là một ý kiến tốt – Xưrômachin tán thành. Khẽ mỉm cười, anh quay sang những người công nhân đang lắng nghe anh, và nói với Xécgây, không còn vẻ đùa nữa – Không sao, Xécgây ạ, thắng lợi rồi, ta sẽ làm điều đó.
- Còn cái này có được không, Vaxili Xécgâyêvích? – Giamin nói và rút trong túi xách ra một chai sữa.
Xưrômachin chưa kịp nói thì cậu đã kêu lên: “Thì sữa đã thua gì sâm banh nào?” rồi vung tay, đập mạnh chai sữa vào đầu đấm bằng thép. Chiếc chai màu sẫm vỡ tung, sữa chảy ra trắng như bọt sâm banh.
- Hoan hô! Hoan hô! – Xécgây kêu to - Tuyệt!
- Thế này thì quá lắm! – từ phía sau trưởng đoàn, đốc công Tabacốp nhảy ra – Ai cho phép các anh đập chai thế này? - rồi anh ta mắng Giamin – Và mọi người xung quanh thì lấy làm thích thú. Đáng lẽ phải can ngăn mới phải, thế mà còn cười được!
- Đấy là chúng tôi theo tục lệ hạ thuỷ tàu mới đấy – Xécgây nói
- Mày đừng hỏng xỏ mũi tao! Thằng ngốc nào nghĩ ra cái lệ này? Tư sản hay sao mà đổ phí sữa như thế?
Mọi người đứng im, lúng túng và bất bình nhìn anh ta.
Vaxili Xécgâyêvích đã chấm dứt tình trạng này. Anh bước lại gần Xécgây để tay lên vai cậu:
- Chúng ta có kém gì những người đóng tàu thuỷ, Xécgây nhỉ. Tôi nói đúng không các đồng chí?
Gần đúng một tháng trước đây, mọi người đã đón chiếc toa xe đầu tiên được sửa chữa lại như vậy. Bây giờ thì đã có mấy toa như thế được sửa chữa xong.
Người ta vẫn kính trọng gọi Giamin là “đội trưởng” như trước, dù bây giờ cậu chỉ là một thợ nguội bình thường. Cậu lấy thế làm tự hào và cố hết sức để không mất sự tín nhiệm của mọi người. Thậm chí cậu còn bỏ cả học. Cậu nghĩ bây giờ không phải là lúc học, nếu không anh em sẽ cho mình là “con mọt sách”.
Nhưng rồi một buổi sáng, Giamin được trưởng đoàn cho gọi lên gấp. Ở đây thầy hiệu trưởng Ruvin Ixacôvích đang chờ cậu. Ông mỉm cười để lộ những chiếc răng to và thưa.
- Đây, cậu ta đây. Hơn một tháng không đi học. Mọi người cứ tưởng là cậu ta ốm, hoá ra ở đây, lại có ảnh treo ngoài bảng danh dự nữa… Tất nhiên, tôi hoàn toàn không có gì phản đối, và rất mừng là cậu ta làm việc tốt như vậy…
- Ngồi xuống, - Vaxili Xécgâyêvích mời Giamin - Thế nào, Samiliép, sao anh không nói gì với tôi về việc học?
- Em không biết.. Em xấu hổ…
- Xấu hổ à? Có ai xấu hổ hiểu biết không? – Xưrômachin đặt cái chặn giấy sang một bên – ông hiệu trưởng cho tôi biết là ở các lớp trên chỉ có tám cậu học thôi, và anh là người thứ chín. Chiến tranh kết thúc sẽ cần nhiều kĩ sư, bác học thế hệ các anh. Thế mà anh còn “xấu hổ”! Xin lỗi, Giamin ạ, tôi cứ tưởng anh là một người đứng đắn cơ đấy. Từ ngày mai nhất thiết anh phải đến trường. Tôi cần những công nhân có học, có kiến thức, anh hiểu chứ?
- Vâng, em hiểu – Giamin rụt rè đáp
- Thôi, anh có thể đi. Tôi sẽ nói chuyện với đốc công sau. Khi chúng tôi trở về, anh sẽ phải học hết trường phổ thông.
… Thật ra mà nói, Giamin học cũng không lấy gì làm xuất sắc lắm. Mỗi lần bị điểm ba, cậu lại cúi đầu, mặt nóng bừng.
Một lần, trong hành lang. Nhura vẻ sung sướng, đi lại gần cậu. Mà cô ta vui vẻ cũng không phải là vô cớ vì điểm của cô bao giờ cũng là năm – và nói lia lịa:
- Tốt lắm. Ba chứ có phải hai đâu, rồi đâu sẽ vào đấy…
- Còn cậu, toàn là điểm năm…
- Giamin, đừng so sánh. Mình khác, chỉ ăn học thôi, còn cậu là công nhân! - rồi Nhura chuyển ngay sang đề tài khác, mỉm cười bí mật: - Mình vừa nhận được thư của Tamara. Nó viết nhiều về Mátxcơva. Giá bọn mình được tới đấy nhỉ… Tamara bảo nhớ Taisét, nhớ rừng taiga, và luôn nhớ tới bọn mình. Nó hỏi cậu đang làm gì, có học không?
Giamin nghe Nhura không chăm chú lắm. Không hiểu sao cậu cứ nghĩ là Tamara vẫn chưa tới Mátxcơva, hoá ra cô ta đã ở đấy từ lâu.
- Cậu đang ngủ à? – Nhura hỏi, vẻ không bằng lòng.
Giamin nghĩ là Tamara đã quên cậu. Cô hứa sẽ viết thư cho cậu. Cậu đã gây được thói quen nói chuyện thầm với cô. Giamin rất hi vọng là đoàn khôi phục sẽ đi qua Mátxcơva và cậu sẽ gặp Tamara ở đó.
Nhura đứng im. Đôi má tròn lúm đồng tiền của cô ửng hồng. Hình như cô còn mừng vì Giamin có vẻ như thờ ơ với những điều cô nói về Tamara.
- Không có lẽ cậu quên nó rồi sao? – cô hỏi
Tim Nhura lúc này đập mạnh như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Cô rất muốn nghe Giamin nói: “Ừ, quên rồi”. Lúc ấy, có lẽ cô sẽ thú thật là cô thích Giamin ngay từ lớp một, khi hai đứa ngồi chung bàn.
- Cậu biết không, đoàn của mình sẽ qua Mátxcơva để tới những vùng vừa mới giải phóng. Ở đấy thế nào mình cũng gặp Tamara! – Giamin nói sôi nổi – Mình sẽ điện cho Tamara ra đón
- Cần biết trước các cậu sẽ đến ga nào, vì tàu các cậu không phải là tàu khách, - Nhura khô khan nói
Giamin không nhận thấy tâm trạng của Nhura đã đột ngột thay đổi. Cậu nói thêm một cách cương quyết:
- Thế nào mình cũng gặp Tamara ở đấy.
Rồi cậu bỏ đi.
Còn Nhura thì chạy vào một phòng học trống, đóng chặt cửa và ngồi khóc rất lâu ở đấy.
Đã mấy ngày nay đoàn tàu khôi phục sẵn sàng chờ lệnh lên đường đi xa làm nhiệm vụ khó khăn.
Những ngày này, kể ra đoàn trưởng có thể ngồi yên nghỉ ngơi trong toa khách của mình chờ xuất phát. Thế nhưng khó mà tìm thấy anh ta ở đấy. Anh chạy, quả đúng là chạy thật, dọc theo đoàn tàu, kiểm tra đến hàng chục lần xem các thanh ray, tà vẹt, xe kiểm ray đẩy tay, động cơ và các cỗ máy được xếp trên toa sàn chắc chắn chưa, các cần cẩu làm việc thế nào, phụ tùng để đâu.
- Các đồng chí phải nhớ là chúng ta sẽ đi tới một nơi không có cả một chiếc đinh ốc, một chiếc búa, một chiếc đinh. Tất cả đều chờ chúng ta giúp đỡ. Và vậy, hãy kiểm tra lại một lần nữa và một lần nữa tất cả mọi thứ!
Mọi người đều có cảm giác là hình như đoàn trưởng không bao giờ ngủ. Anh ta có thể xuất hiện vào bất cứ giờ nào trong ngày đêm. Một lần, Giamin nghe anh nói với chính trị viên của mình:
- Chúng ta cần tạo việc làm thích hợp và bổ ích cho anh em. Nhàn cư vi bất thiện mà. Một số thì uống rượu, số khác thì đánh bạc. Trong việc này, người có lỗi là anh và tôi đấy.
“Mình cũng sẽ vào Đảng để trở thành một người như Vaxili Xécgâyêvích” – Giamin thường nghĩ như vậy.
Giamin nghĩ là khi tàu chạy, chắc Xưrômachin thế nào cũng nghỉ ngơi, lúc ấy anh sẽ ngồi yên mà ngắm qua cửa sổ, nhìn những cột điện thoại vùn vụt chạy trở lại. Cậu không ngờ là ngay trên đường, Xưrômachin vẫn chạy như trước, không biết mệt là gì, từ đầu tàu đến cuối tàu để xem mọi người có khỏe không, đòi các ga phải cho tàu anh xuất phát sớm nhất, đánh điện cho các ga sắp tới yêu cầu chuẩn bị trước thực phẩm và than đá…
Nhưng tất cả những điều này Giamin không được chứng kiến. Một ngày trước khi lên đường, cậu bỗng thấy đau nhói phía bên phải bụng.
- Cậu làm sao thế? – Xécgây đứng bên cạnh, hỏi
- Không sao. Bụng mình thế nào ấy…
- Chắc ăn phải cái gì. Cũng chóng khỏi thôi. Mình vẫn hay bị thế.
Giamin thử đếm từ một đến một nghìn để thời gian trôi nhanh hơn và quên đau. Áo ướt đẫm mồ hôi, môi nóng bừng, nhưng cậu vẫn ngại không muốn nói với đốc công.
- Hay cậu xin nghỉ đi? – Xécgây lại nói
- Không, mình sẽ cố chịu tới lúc tan tầm…
Lúc ấy, Raia Alếchxâyêva đi lại. Chị liền bảo Xécgây chạy tìm y sĩ của đoàn. Trong lúc Xécgây đi hỏi có ai thấy y sĩ ở đâu không thì Giamin lại càng cảm thấy hết sức khó chịu. Cậu trả lời các câu hỏi một cách khó nhọc. Miệng cậu khô, luôn mở để hớp không khí. Thấy vậy, Raia chạy ra đường, chặn một chiếc xe ngựa, khẩn khoản nói với người đánh xe nhờ chở một người bệnh nặng vào bệnh viện.
- Xe tôi có phải xe cứu thương đâu? – anh ta cáu kỉnh đáp - Người ta còn đang khối việc chưa làm…
- Vâng, vâng, nhưng anh ốm sắp chết!
- Thì can gì đến tôi? Tôi cũng còn việc của tôi chứ… - anh ta chưa dứt lời, Raia xông tới nắm lấy cương ngựa.
- Nào đi! – cô hét lên – Anh không có tim à?
- Cô kìa, muốn kêu gì thì kêu, nhưng đừng có sờ tay vào đấy, kẻo tôi lại quật cho mấy roi bây giờ, - người đánh xe doạ
- Đồ keo bẩn, đáng nguyền rủa! – và Raia còn tuôn ra một tràng những lời không lấy gì làm dễ nghe nữa – lúc ấy mấy người dìu Giamin mặt tái nhợt đi ra.
Raia cởi chiếc áo ấm của mình rải lên sàn xe, một người trong đám công nhân đưa thêm chiếc nữa, và đặt Giamin nằm lên đấy.
- Này bác ơi, bác làm ơn cho xe chạy nhanh vào bệnh viện nhé, - tay đỡ đầu Giamin, Raia dịu giọng nói.
- Nào, Xécco đi đi, người đánh xe thúc ngựa và lúng búng: Lúc thì “bác ơi, làm ơn”, lúc thì như muốn nuốt sống người ta. Thật chẳng hiểu cô là ai. Còn tôi? Tôi có đồng ý không à? Được… Đây là ngựa nhà nước, nó đã chạy suốt ngày hôm nay. Lưỡi của cô, cô gái ạ, thật chẳng khác gì miệng súng máy…
- Bác nói nhiều quá đấy, bác ạ. Cho xe chạy thôi. – Raia ngắt lòi người đánh xe rồi cúi xuống người ốm, dịu dàng nói: - Gắng chịu tí nhé, đến nơi bây giờ.
… Ngay ngày hôm ấy, người ta đã mổ cho Giamin. Thì ra cậu bị đau ruột thừa cấp tính. Nếu để chậm nửa giờ nữa, việc cứu chữa sẽ rất khó khăn.
Ba ngày sau, Raia Alếchxâyêva và Xécgây đến thăm Giamin. Họ mang theo đường, kẹo làm bằng bột hoa quả và một bức thư ngắn từ biệt của anh em trong đoàn.
Đọc xong, Giamin lo lắng hỏi:
- Đoàn sắp lên đường à?
- Vâng, ba giờ nữa…
- Còn tôi thì sao?
- Biết làm thế nào, đội trưởng. Một khi không may phải thế, -Raia đáp - Bọn mình ai cũng lấy làm tiếc. Sống với cậu quen rồi… Nhưng không sao, cậu sẽ ở nhà… Cậu khá lắm! Đoàn trưởng cứ tiếc mãi… Anh ấy nói rồi cậu sẽ trở thành một cán bộ lãnh đạo tốt. Đường và kẹo đây là do anh ta gửi đến, không hiểu kiếm đâu ở một nhà ăn đặc biệt. Anh ta bận chạy việc không thể đến thăm được.
- Cậu biết không, đoàn trưởng không cho đốc công Tabacốp cùng đi – Xécgây nói - Bảo ở đấy công việc phức tạp, sợ anh ta không đương nổi, vì anh ta không biết làm việc với mọi người. Thay Tabacốp, người ta cử đến một anh chàng rất trẻ, từ mặt trận mới về. Trước chiến tranh, anh này học ở Trường đại học giao thông đường sắt Mátxcơva. Anh ta vừa điều trị ở quân y viện Ircútxơ, ngực đầy huân chương! – Xécgây đưa tay xoa khắp ngực, cười như chính mình được tặng những huân chương ấy.
Giamin lắng nghe, hồi hộp quá không nói được gì. Cậu không sao hình dung nổi là cả đoàn lên đường mà cậu lại ở nhà. Vì với đoàn tàu khôi phục này, cậu còn có một ước mơ lớn nữa, là dưới làn đạn, trong khói bom, cậu sẽ không ngại hi sinh, xông lên sửa chữa những đoạn đường sắt bị hỏng và những chiếc cầu bị đánh sập… Và lúc ấy, thế nào cậu cũng sẽ được kết nạp vào Đảng.
- Các đồng chí, đã hết giờ thăm bệnh nhân. Người bệnh cần được yên tĩnh, - chị y tá đã đứng tuổi nghiêm khắc nói và mở cửa phòng bệnh.
Giamin kéo lại chiếc chăn bị tuột không cầm được nước mắt, hỏi:
- Đã đi rồi à?
- Cậu thấy đấy, người ta đuổi… Ở đây đầy đủ tiện nghi và sạch quá. Mình có nằm đây suốt đời cũng được – Xécgây khẽ nói.
- Thôi bọn mình đi, đội trưởng nhé. Đừng buồn. – Raia đặt môi mình lên má nóng của Giamin - Thiếu cậu bọn mình cũng sẽ buồn… - Cô khẽ vỗ vai Giamin và đưa tay vuốt mái tóc cứng của cậu – Ta đi thôi. Xécgây.
Xécgây bước hai bước về phía cửa, chạy nhào lại ôm Giamin rồi chạy ra khỏi phòng.
Ra viện, Giamin trở lại xưởng cơ khí. Các bạn sung sướng đón cậu. Những bác công nhân lớn tuổi bắt tay, hỏi han về tình hình sức khoẻ và hầu như người nào cũng nói:
- Nghĩa là cậu đã trở lại với bọn mình? Tốt lắm. Chứ không, bây giờ đàn ông còn lại ít lắm, chỉ độc có đàn bà và trẻ con…
Giamin sung sướng nhận thấy mình là người cần thiết đối với xưởng. Cậu lúng túng đáp lại như thanh minh:
- Cháu bị ốm nên người ta để lại…
Giờ giải lao, các cậu khác vây quanh Giamin, tranh nhau kể cho cậu nghe chuyện xưởng. Giamin biết được là bây giờ thợ nguội Nunhikianốp ít khi ở xưởng mà thường đi đây đi đó dạy nghề cho người khác. Anh ta không thích việc này, mà để mất người như thế đốc công Xamôrucốp cũng không lấy làm mừng.
Các cậu rất khoái chiếc xe tải một tấn rưỡi chạy bằng củi và kể về chiếc “Xamôva” tự hành này một cách say sưa với đủ các chi tiết. Người lái nó là Tôlia Xidốp, 16 tuổi, trước đấy lái xe kiểm ray. Cậu thanh niên không lấy gì làm bảnh trai, tóc vàng hoe này đã mấy tháng liền loay hoay với chiếc xe mà người ta đã bỏ đi từ hồi trước chiến tranh, đứng gỉ sau sân xưởng. Để chữa nó, Tôlia đã khéo léo tranh thủ sự giúp đỡ của một số thợ cơ khí, thợ hàn và thợ nguội có kinh nghiệm. Họ làm tất cả những gì Tôlia yêu cầu, nhưng trong bụng có lẽ ít người tin là đống sắt này một ngày nào đó có thể chạy được. Khi chiếc xe được chữa xong thì một vấn đề mới nảy ra: kiếm đâu ra bánh xe? Tôlia đã hỏi tất cả các lái xe, lùng hết mọi ga-ra, nhưng ở đâu người ta cũng bảo cậu: “Thì bọn mình cũng không có!”. Thủ trưởng tuyến đường sắt mà cậu yêu cầu giúp đỡ, đã gửi giấy đi khắp nơi, cho tới khi từ Ircútxcơ người ta gửi đến một bộ bánh xe cũ kĩ, phẳng lì như đầu một anh hói. Nhưng cái đó không hề làm Tôlia buồn. Cậu mỉm cười sung sướng, đưa tay xoa mặt bánh sáng loáng nói:
- Không sao, móc xích vào, chạy cứ gọi là như máy kéo!
Và rồi một hôm, chiếc xe kì lạ kia đã từ ga-ra bò ra, phụt khói vàng sặc sụa. Nhiều người bỏ cả việc chạy ra xem sản phẩm của Xidốp. Còn Xamôrucốp, một người luôn nghiêm khắc, thì đang giấu nụ cười trong bộ ria ám khói của mình, báo cáo bằng điện thoại lên thủ trưởng tuyến đường sắt:
- Xidốp, Tôlia Xidốp đấy, ma lanh thật. Cậu ta đang cho xe chạy trong sân! Có ngộ không?
Mỗi ngày Tôlia ngồi sau tay lái từ 12 đến 14 giờ, nhiều khi còn ngủ ngay ở đấy. Cậu chở than, các thanh ốp cũ, đinh ray cho phân xưởng rèn. Lúc rỗi cậu còn chở cả khoai tây cho công nhân, chở cỏ khô mà cậu đã trực tiếp giúp chất lên xe. Người lớn lấy làm ngạc nhiên trước sức chịu đựng và tính kiên nhẫn của cậu.
Thỉnh thoảng thủ trưởng tuyến đường sắt lại mời Tôlia vào phòng mình. Đầu tiên, ông nói xa xôi như: thế nào, đồng chí Xidốp, khỏe mạnh chứ và không làm việc quá sức đấy chứ, có mua được gì bằng phiếu lương thực không, có chuyện gì cứ trực tiếp gặp tôi… Và cái xe vẫn chạy đấy chứ? Tôlia gật đầu, nói là xe chạy bình thường, mọi việc đều tốt đẹp. Tiếp đó, giọng thủ trưởng trở nên cứng rắn hơn, và ông yêu cầu Tôlia đánh xe đến nơi khó khăn nhất lúc ấy
- Vâng, - Tôlia nói
- Tôi nghĩ, ba ngày về được chứ?
- Vâng, cháu đã đến đấy – Tôlia bình tĩnh đáp
Tôlia được Xtêpan Xôcôlốp đưa vào xưởng cơ khí. Trước đấy, suốt mấy tháng cậu chuyên đi tàu lậu vé tìm mẹ và các em cậu bị lạc ở Kirốp
Xtêpan nhìn thấy Tôlia khi cậu đang đứng cạnh cửa nhà ăn, mắt dán chặt vào những đĩa xúp tầm ma
- Này cậu bé, con ai và từ đâu đến? – Xtêpan cho xe của mình lăn lại gần, hỏi.
- Cháu từ Lêningrat…
- Đi xa đấy… Bố mẹ đâu?
- Bố là dân quân, còn mẹ và các em cháu thì lạc ở Kirốp…
- Thì ra tình cảnh của anh bạn cũng gay nhỉ?
- Vâng…
- Bao nhiêu tuổi rồi?
- Đã 16 rồi ạ…
- Trông bề ngoài có vẻ ít hơn… Có muốn ăn không?
- Ai bây giờ không muốn ăn?
- Cậu nói đúng. Nếu vậy thì đi…
Tôlia kiên nhẫn đứng chờ cô bán hàng dùng kéo cắt ô phiếu của Xtêpan.
- Cô ta không ăn lận của bác chứ? – Tôlia hỏi khi hai người ngồi xuống bàn.
- Không! Sao lại thế?
- Sao cô ta cắt có vẻ nhiều thế?
- À, vì bác đặt cho cháu một lúc hai suất mà.
- Ra thế, cảm ơn bác…
Trong khi ăn, Xtêpan biết được là Tôlia biết lái ô tô; trước kia cậu trong nhóm học nghề.
- À này, cạnh xưởng cơ khí có chiếc xe “Xamôva”, cháu có chữa cho nó chạy được không? Nếu được thì hoan hô giai cấp công nhân Lêningrat!
- Cần xem đã… - Tôlia nói vẻ người lớn.
Người ta ghi tên cậu là học nghề thợ nguội và cho lái máy kiểm ray. Bốn tháng sau cậu đã đi trên chiếc “Xamôva” của mình.
Tất cả những điều này mãi sau Giamin mới biết, khi cậu tiếp xúc nhiều hơn với Tôlia. Còn bây giờ, cậu hơi lơ đãng nghe các bạn tranh nhau kể về những gì đã xảy ra trong khi cậu đi vắng.
- Samiliép, Piốt Pêtrôvích cho gọi cậu đấy, - vừa đổ rác vào thùng, thím lao công Dina bảo Giamin – Mà sao lâu nay không thấy cậu đâu cả?
- Cháu đi công tác…
Khuôn mặt đầy râu xanh đen của Piốt Pêtrôvích có vẻ lo lắng
- Cháu đã thấy người ta gửi kèm cho bác bao nhiêu là chàng trai và cô gái rồi chứ? Cấp trên họ cứ nghĩ là “Xamôrucốp sẽ đảm nhận được. Anh ta khỏe lắm”. Thế mà bác đã bắt đầu thấy sức khoẻ đang suy sụp dần. Kìa, ngồi xuống. Cháu biết đấy, trong bọn họ chưa ai bao giờ biết cầm búa trong tay là gì. Xtêpan Xôcôlốp chuẩn bị dụng cụ cho họ… Công việc thế đấy. Còn cháu thế nào? Vừa rồi làm mẹ cháu cuống lên. Khi cháu vào viện, mẹ cháu chạy lại đây. May mà không sao. Bố trí cháu vào đâu bây giờ nhỉ?
- Đâu cũng được… - Giamin nhún vai, cảm thấy lúng túng, khi thấy đốc công nói về việc của xưởng với cậu một cách tin tưởng như vậy. Cậu rụt rè đặt giấy phép nghỉ việc của bác sĩ lên bàn.
- Đi đâu cũng được… tốt, tốt. Đội cháu bây giờ do Côlia phụ trách – ông vân vê tờ giấy trong tay - Được, hay cháu sang làm bên phân xưởng dụng cụ một hai tháng, giúp Xtêpan. Khi nào khoẻ hẳn ta sẽ xem sau, được không?
- Vâng
- Hôm nay còn nghỉ, mai đi làm. Có điều là không được mất tinh thần đấy.
Ở phòng Xamôrucốp ra, Giamin lại tạt vào chỗ các bạn.
Côlia mải nhặt một thanh ốp đường ray nên không nhận ngay ra bạn. Thanh ốp thuộc cỡ lớn, vụn sắt tuôn ra từ mũi đục, nóng đến nỗi làm sôi cả dầu mỡ. Côlia làm việc nhịp nhàng, say sưa, mỗi lần đóng búa lại khẽ “ự” lên trong cuống họng. Tóc cậu đẫm mồ hôi, bện lại với nhau. Trên tường, bên cạnh có treo một chiếc cờ nhỏ ba góc với dòng chữ vàng in nền đỏ: “Đội thanh niên tiên tiến”.
Côlia ngừng chặt, để chiếc búa sang bên cạnh, lấy tay lau những giọt mồ hôi lớn trên trán, và chỉ lúc này cậu mới nhìn thấy Giamin.
- Đến lâu chưa? - cậu hỏi - Thậm chí bọn tớ không vào bệnh viện thăm cậu được. Suốt cả tháng ở trên mặt đường. Thay ray mà. Hầu như làm suốt ngày đêm. Thế nào, đốc công bố trí cậu ở đâu?
- Tạm thời làm việc với bố cậu, sau sẽ hay, bác ấy bảo thế.
Gôga và Vichia đi lại. Mỗi cậu vác trên vai bảy thanh ốp. Hai cậu ném chúng xuống đất đánh ầm một cái.
Các cô gái làm việc bên những máy khoan và máy tiện tò mò nhìn sang cánh thợ nguội. Khi Giamin sang phân xưởng dụng cụ, một cô hỏi Côlia:
- Ai vừa nói chuyện với cậu đấy? Sao mặt cậu ta xanh như vậy?
- Đội trưởng cũ của bọn mình đấy, Samiliép. Còn da xanh à? Cậu mà bị người ta rạch bụng ra thì da cũng thế. Bây giờ cậu ta sẽ làm việc ở đây.
Hôm ấy Giamin tới trường. Người đầu tiên cậu gặp là Valêra. Vừa chữa lại áo dạ phần dưới dây nịt, cậu ta cười mỉa:
- Nghe nói cậu đã đi cùng đoàn khôi phục rồi cơ mà…
- Mình cũng nghe nói là toàn lớp mười đang làm việc ở nông trang mà cậu thì nhở nhơ ăn diện ở đây, - Giamin đập lại
- Nhưng mình có giấy nghỉ…. Mình ốm… Vừa mới đưa cho hiệu trưởng xong…
- Cứ trông đấy thì biết cậu ốm hay không. Béo mượt như một con lợn con. Có bắt đi kéo cày thì cũng đáng…
- Thì việc gì đến cậu? – hai má Valêra bừng đỏ - Cậu có làm thì cứ việc làm, còn chuyện học tập ở trường thì đừng xỏ mũi vào. Việc của cậu là nhặt cho nhiều, ném cho xa….
- Để bây giờ tao cho mày xe thế nào là “nhặt nhiều ném xa” này! Mọi người đang phải làm thay mày – Giamin nắm chặt nắm đấm, xông lại Valêra.
Cậu căm phẫn đến tột độ, mắt như mờ hẳn đi. Sự bất công được hợp pháp hoá bằng giấy phép của bác sĩ là một lời thách thức, một sự nhạo báng đối với cậu và các bạn!
- Đấy, giấy phép của mày đây! – Giamin tát mạnh vào cái mặt của Valêra – Cho chừa cái thói nhạo người!
Valêra cũng xông vào đối thủ của mình
- Bây giờ tao sẽ cho mày biết tay!
- Về nhà học đấm đi đã! – Giamin khoá trái tay cậu ta lại, đè đập đầu xuống đất.
- Ái! Đau! Buông ra! – Valêra kêu thét lên
Bỗng một giọng nói nghiêm khắc vang lên sau lưng hai cậu:
- Không được đánh nhau nữa ! Valêra, em ốm kia mà? Có chuyện gì thế? – Ruvim Ixacôvích nghiêm khắc hỏi
Cả hai đứng im
- Thế nào, không nghe tôi hỏi gì à? Nếu vậy để tôi nhắc lại; chuyện gì đã xảy ra? - Giọng ông hiệu trưởng vang lên trong hành lang. Ông bực mình nhấc kính khỏi mắt, hấp háy đôi mắt cận thị.
- Dạ, chúng em chỉ… thế thôi ạ - Giamin rụt rè nói
- Cậu ấy đánh em trước, - Valêra cũng lên tiếng.
- Các em thật chẳng khác gì trẻ con. Còn em, Daixép hay đấy… Đã ốm, phải về nhà.
- Thế thầy nghĩ người ta cho em giấy này là không đúng hay sao? Nghĩa là bác sĩ nói dối? – Valêra trâng tráo nhìn ông.
- Tôi đã cho em nghỉ việc ở nông trường theo giấy ấy. Người ốm phải nằm trên giường chứ không phải gây sự đánh nhau.
- Không phải em gây sự mà cậu ấy đánh em trước…
- Tôi không hỏi anh đánh trước, ai đánh sau. Người ốm, một khi được phép nghỉ lao động chân tay, phải có một chế độ thích hợp. Em hiểu tôi chứ? - giọng ông run lên – Thôi, về nghỉ! Còn em, Samiliép, theo tôi.
Valêra khinh khỉnh mỉm cười, như muốn tỏ ra cậu có thể không nghe lời, nhưng rồi cũng miễn cưỡng bỏ đi.
- Em không xấu hổ à, Giamin? – Ruvim Ixacôvích nói khi hai người đến phòng ông - Một công nhân, một người tự lập mà hành động như một đứa trẻ - Ông đi đi lại lại trong phòng, luôn xoa xoa mấy đầu ngón tay thon, nhỏ như muốn giật chúng ra khỏi bàn tay – Thế nào, định ngồi im mãi hay sao?
- Thưa không, Ruvim Ixacôvích ạ, em tiếc là chưa kịp nện cho hắn một trận nên thân!
- Cái gì? - cặp kính của ông tụt xuống gần đầu mũi.
- Vâng, em lấy làm tiếc. Hắn trâng tráo lắm. Thầy cũng biết là hắn khoẻ như vâm, vẫn cho nghỉ theo chế độ nằm giường. Chỗ em làm việc ít khi có ai nghỉ, mặc dù được phép nghỉ, ngay cả khi sốt cũng vậy. Chỉ trừ lúc không thể dậy được mới thôi… Không lẽ thầy lại tin là hắn ốm thật?
- Ngồi xuống… Cậu ấy có giấy chứng nhận là đang ốm… Thôi, không cần nói thêm về chuyện này nữa. – ông gõ gõ đầu ngón tay xuống bàn – Công việc của em ra sao? Việc học hành sẽ ra sao đây?
- Em ốm… Bây giờ khỏi rồi. Ngày mai em sẽ đi làm, - Giamin lơ đãng nói, cố tránh nhìn vào mặt ông hiệu trưởng - Thậm chí tất cả các cô gái cũng đi nông trang, - cậu bỗng nói - Chẳng nhẽ thầy lại chịu thế được, Ruvim Ixacôvích?
- Tôi đã yêu cầu Daixép phải lập tức tới nông trang nhưng cậu ta mang giấy phép bác sĩ lại. Thành ra đành chịu.
- Thế thì còn sự thật thì sao? Chính nghĩa thì sao?
- Sao à, phải đấu tranh, em ạ…
Giamin cảm thấy mình không nên nói tiếp về chuyện này nữa.
Ruvim Ixacôvích phá tan sự im lặng kéo dài:
- Không nên bỏ học, Giamin à. Mà chỉ còn có một năm nữa thôi. Hãy cố lên. Em có nhớ là em đã hứa với Xưrômiachin rồi không?
- Em sẽ học, thưa thầy Ruvim Ixacôvích ạ. Bây giờ đỡ vất vả hơn. Em sẽ làm một ca… Sau này thế nào em cũng sẽ tới Mátxcơva, sẽ thi vào đại học…
Giamin làm ở xưởng dụng cụ đã được ba tuần. Bao giờ cậu cũng có cái cảm giác bất tiện, như thể người nào cũng dí ngón tay vào lưng cậu và nghĩ: “Khéo kiếm cho mình một chỗ ấm quá đấy chứ!”. Vâng, ở đây quá ấm, dễ chịu và yên tĩnh thật. Những chiếc dụng cụ mới toả mùi như mùi rong biển. Lúc còn sống, cụ Cudia vẫn bảo là trong nhà không hiểu sao sắt có mùi rong biển. Ở xưởng cơ khí chưa ai thấy biển bao giờ và mọi người tin ở lời bác thuỷ thủ già. Thật ra không phải không có người cho ông cụ là kì quặc.
Nhiều lần, khi thấy các bạn bới từng tấn sắt vụn, tìm chặt các thanh ốp ngoài trời lạnh, Giamin đỏ mặt bảo Xtêpan là cậu sẽ không làm việc ở phân xưởng dụng cụ nữa.
Khi ấy ở phân xưởng rèn và nguội, có những chiếc cửa sổ chiếu sáng đặc biệt thuận lợi. Những người đục lỗ ngoài trời thường ghen tị với những người làm việc ở nơi ấm.
- Không sao, cháu ạ - Xtêpan nói – Cháu tưởng bác không nghĩ gì khi thấy các cháu còn bé mà phải khuân những thanh sắt nặng thế à? Trước kia bác có bao giờ để cô Grunhia khuân cái gì nặng đâu. Thế mà, bây giờ bác chỉ ngồi trên xe này và nhìn thôi – bác nói rồi vỗ mạnh bàn tay to của mình xuống bánh xe – Cháu ở đây cho khoẻ hẳn đã. Người ta mổ bụng cháu chứ có phải xước tí tay tí chân gì… Còn việc cháu thấy khó coi, thế là tốt. Thằng Côlia nhà bác đi làm về mệt là như thế mà vẫn lại gần mẹ: “Để đấy, con xách nước, lấy củi cho…”
Không biết Giamin còn phải làm ở phân xưởng dụng cụ bao lâu nữa, nếu một sáng tháng Giêng trời xanh, đốc công không cho triệu tập tất cả mọi người tới phân xưởng nguội. Người hơi cúi xuống, hai tay chắp sau lưng, đốc công đi lại trước công nhân. Sau ông là người đại diện tuyến đường sắt, mặt nhợt nhạt, mặc chiếc áo ấm có đeo phù hiệu.
Không ngẩng đầu, Xamôrucốp nói lúng túng:
- Ở tuyến đường sắt đang thiếu người. Ai được miễn lao động nặng, có thể ở lại xưởng.
Cả xưởng hầu như phải đóng cửa mấy ngày, nhưng kế hoạch sản xuất vẫn giữ nguyên. Ngược lại càng ngày càng cần nhiều đinh và thanh ốp hơn…
Công nhân nhìn nhau thở dài, nhưng vẫn giữ im lặng. Đốc công nhắc lại:
- Ai được miễn lao động nặng có thể ở lại xưởng… - rồi quay sang nhìn ông đại diện tuyến đường sắt đang vò nhàu chiếc mũ lông chó trong tay - Việc rất gấp, các đồng chí ạ.
- Bây giờ ở đâu mà chẳng gấp? – Xêmiôn Tôcarép cất giọng ồ ồ nói. Anh là thợ làm đinh ốc, tròng trắng mắt hơi vàng. Nghe nói đau gan. Một lần anh ta mắc bệnh vàng da và cứ thế phải chịu khổ sở từ đó tới nay, và cũng vì thế mà không phải bị động viên vào bộ đội. Như đọc được ý nghĩ của đốc công, anh ta nói:
- Thế kế hoạch cũ phải giữ nguyên chứ? Quí này đã bốn lần phải lên tuyến đường sắt làm việc rồi. Mà chúng ta có được ai giúp đỡ để hoàn thành kế hoạch của mình đâu?
Ông đại diện đội chiếc mũ lên đầu nói to, giọng hồi hộp:
- Đã là lệnh thì không được bàn ra bàn vào! Đây không phải là mít tinh! - Rồi sau như chợt tỉnh, hạ giọng nói tiếp: - Kế hoạch không giảm, không ai giúp các đồng chí… Cái thời bây giờ thế đấy. Chúng tôi sẵn sàng giúp các đồng chí, nhưng có phải ai cũng vào đứng máy ngay được đâu. Đúng thế chứ? Các đồng chí nhất định sẽ không cho…
- Hẳn là thế, - giọng ồ ồ của Tôcarép lại vang lên – Tôi thì đến chiếc búa tôi cũng chẳng muốn giao cho ai…
- Chúng mình biết cậu tham lam lắm, Xêmiôn ạ. Mùa đông cũng chẳng xin được cậu cho nắm tuyết! - một người nào đó nói chen vào.
- Thôi, các đồng chí tranh cãi nhau thế đủ rồi, - đốc công giận dữ ngắt lời - Nếu tất cả đều khoẻ thì xin mời mặc quần áo vào. Xe kiểm ray kéo toa sàn đang chờ chở các đồng chí đi.
- Piốt Pêtrôvích – Giamin nói với Xamôrucốp – Bác cho cháu đi cùng với đội.
Đốc công vân vê bộ ria lốm đốm trắng của mình, lẩm bẩm một điều gì đó không ai hiểu, rồi hỏi:
- Thế Xtêpan thì sao? Bác ấy còn cần cậu ở đây. Hơn nữa bây giờ cậu không được làm việc nặng…
- Không, cháu khoẻ lắm, thật mà. Cho cháu đi đi, Piốt Pêtrôvích ạ! Thiếu cháu bác Xtêpan vẫn làm hết việc…
- Nếu thế thì đi, - Xamôrucốp nói vẻ cau có – Các bạn cậu sẽ vui hơn. Rồi như tự nói với mình, ông nói thêm - Gặp hoàn cảnh ấy rồi mình cũng làm thế…
- Thế là ông tướng vẫn cứ xin đi cho được, - Xtêpan nhìn qua cửa sổ nói. Thời gian gần đây bác hay suy nghĩ thành tiếng như vậy – Mà cậu ấy làm thế là đúng. Đã quyết, xin bằng được!
Trong xưởng trở nên vắng vẻ. Lăn trên chiếc xe của mình (mà vẫn gọi là đi) Xtêpan lúc thì nhặt chiếc cờ lê do một người nào đó bỏ quên, lúc thì nhặt chiếc búa rồi cẩn thận xếp chúng vào chỗ. Bác dập tắt ngọn lửa còn cháy không trong lò, lấy xẻng đập đập vào mẻ than nóng đỏ, dùng chổi khéo léo phủi sạch bụi trên thành cỗ máy, xong xuôi mới có hai phụ nữ đang hàn các thanh ốp. Chiếc máy biến áp kêu rè rè, căng thẳng. Que hàn điện mòn dần, nổ lách tách như những cây nến loại tồi. Không muốn làm người khác phải ngừng việc vì mình, Xtêpan lặng lẽ cho xe đi xa: “Chẳng khác gì sau một trận đánh! – bác nghĩ – Cũng yên tĩnh như thế…. Con người kể cũng lạ. Khi trong xưởng ầm ĩ tiếng máy thì muốn yên tĩnh, bây giờ được yên tĩnh, cũng chẳng lấy thế làm sung sướng…”
Công nhân xưởng cơ khí được đưa đến một ga xép. Chiếc toa sàn giật mạnh đánh sầm một cái khi vượt qua đường nối. Mọi người ngồi khít bên nhau, giống như những con quạ lớn xù lông, nói về tình hình chiến sự, về mặt trận thứ hai.
Chiếc xe kiểm ray chạy bằng lò khí kéo toa sàn không lấy gì làm nhanh lắm, nhả khói mù mịt đến nỗi công nhân phải văng tục và nguyền rủa cả công nhân viên hoả xa lẫn thời tiết, cả đường sắt lẫn những người đã nghĩ ra “lò hun khói” kia.
Cái lạnh luồn qua áo, chui vào người, ngón tay cứng đờ. Mọi người có lẽ bị rét cóng nếu không thay nhau lại ngồi sưởi trong xe kiểm ray.
Chiếc xe kiểm ray dừng lại cạnh một tốp công nhân hoả xa gồm chủ yếu là phụ nữ và thiếu niên. Họ đổ sỏi, lấy những chiếc cuốc chim, thẳng, tù, đập chèn đá dưới tà vẹt. Cách đó không xa, tám công nhân đang sửa chữa những chỗ nối ray bị hở. Họ vừa làm vừa hò: “một, hai, nào!” để phối nhịp. Vì lạnh, nên đường ray có lại làm thành những khe hở lớn. Xa hơn chút nữa, một số người đang nắn thẳng đường ray, thỉnh thoảng lại đặt que gạt ướm thử. Đặt xà beng và đòn kê dưới đường ray, theo tiếng hô chỉ huy, công nhân nhất loạt kéo về phía mình, người ngả ra sau. Gặp một lực kéo mạnh, thanh ray miễn cưỡng chịu trở lại vị trí cần thiết. Cách họ khoảng mười mét là một người mặc áo khoác ngắn, cổ áo dính đầy những giọt băng nhỏ, hai tay để sát miệng như muốn dùng hơi sưởi ấm chúng, cất giọng khàn khàn kêu to:
- Kéo về phía mình! Tí nữa… Thế, - rồi anh ta ngồi xuống chăm chú quan sát chỗ cong của đường ray, rồi lại kêu to - Đẩy ra!
Nhảy từ toa sàn xuống, những người mới đến mệt nhọc lê đôi chân cứng đờ, đôi môi buốt không muốn động đậy. Một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, có thân hình lực sĩ, đôi gò má nhô cao, mặc chiếc áo ấm đi lại gần họ. Đôi mắt nhỏ, sâu của bác ta nhìn như dán vào từng người.
- Ai phụ trách ở đây? – bác ta lí nhí hỏi. Giọng hoàn toàn không cân xứng với thân hình đồ sộ của bác làm mọi người bất giác cười.
- Tôi, Macar ạ, - Piốt Pêtrôvích đáp
- Bác cũng đích thân đến à? Tốt lắm!
- Tôi chẳng sung sướng gì mà nhận cái “tốt lắm” của anh – Xamôrucốp lẩm bẩm nói - Kế hoạch của mình thì gác lại để giúp anh. Rồi sau, anh lại còn viết báo cáo lên trên nào là không cung cấp đủ đinh, thanh ốp, sửa chữa đường chậm… Tôi chẳng lạ gì anh.
- Có thể thế, Piốt Pêtrôvích ạ, tôi vẫn còn cái nhược điểm ấy – Macar cười xoà
- Thôi được, nhưng nên nhớ là cánh này cũng chẳng phải tay vừa đâu. Tốt hơn là nên bảo chúng tôi bây giờ phải làm gì - rồi Xamôrucốp quay sang phía công nhân mình – Đây là đốc công hoả xa Muxatốp. Anh ta là ông vua ở đây, là tỉnh trưởng, là ban chấp hành công đoàn… Ai có ý kiến gì cứ gặp anh ta.
- Vua với quan gì? – ông đốc công hoả xa khiêm tốn đáp. Nhưng nhìn đôi mắt bác ta cũng biết là lời nói của Xamôrucốp đã làm bác hài lòng.
Ông đại diện tuyến đường sắt đi lại, tay che miệng, ho rũ rượi.
- Chào đồng chí Muxatốp. Dụng cụ và chỗ làm việc đã sẵn sàng rồi chứ? - rồi không đợi trả lời, vẫn ho, ông nói tiếp – Chúng tôi phải điều động người xưởng cơ khí lại đây giúp anh. Làm thế nào để mọi người không phải đứng không một phút nào.
Ông đốc công hoả xa gật đầu liên tục
- Sẽ không có ai phải đứng không đâu. Tôi sẽ trực tiếp theo dõi. Đáng lẽ tôi không nhờ ai giúp đỡ, nhưng đoạn này hỏng nặng quá. Hơi lạnh một tí là đường ray lại cong, hết chỗ này đến chỗ nọ. Trước mùa lạnh chúng tôi đã nắn thẳng tất cả, lựa chọn thanh tà vẹt, thay gần hết các bộ phận chống xô, làm mới lại ba-lát… Nhưng gặp cái đợt rét này, đường ray lại giở chứng… Tôi phải để hai người luôn kiểm tra cái đoạn đường xuống tấm tà vẹt làm như nó là nguyên nhân của mọi khó khăn trên.
- Chúng tôi biết tất cả những điều ấy, Macar ạ. Nào, anh giao việc đi – Piốt Pêtrôvích ngắt lời bác ta. Khi mọi người đi nhận dụng cụ, bác trách Muxatốp: - Macar ạ, khi nào tôi cũng thấy anh phàn nàn là làm sao? Với anh, tôi thấy cái gì cũng tốt. Đáng lẽ anh phải dạy tôi mới phải.
- Thế anh cho là tôi nói dối à, Piốt Pêtrôvích? Tôi tự phịa ra chuyện đường xấu hay sao?
- Không, tất cả những điều ấy là đúng sự thật. Nhưng anh nói trông thảm hại quá, đến nỗi tôi cũng muốn oà lên mà khóc với anh.
- Cuộc sống đã dạy tôi, Piốt Pêtrôvích ạ, là càng khóc nhiều thì người ta càng ít chửi mà lại càng giúp thêm - Muxatốp cười không thành tiếng.
- Còn tôi, Macar ạ, không làm sao học được điều ấy… Khi người khác khó khăn, tôi không thể chảy nước mắt: làm ra vẻ mình khổ hơn người khác.
- Thì mỗi người một tính. Anh là người thông minh, sĩ diện nhiều. Anh là người sĩ diện đối với tôi thì không là cái gì cả. Tôi là thằng chất phác, cởi mở - Muxatốp quay đôi mắt ti hí nhìn sang bên – Mà tôi, Piốt Pêtrôvích, cố gắng đấy cũng có phải cho mình đâu… Quân của tôi chỉ có đàn bà, con gái thôi mà tàu vẫn cứ phải chạy. Biết làm thế nào?
- Thôi được, mặc thây anh. Ta đi.
Giamin được cử sang toán thay đường ray. Cùng làm việc với cậu là một phụ nữ khoảng bốn mươi tuổi, người không cao, có đôi tay như đàn ông. Chị ta mặc chiếc áo ấm ngắn màu đen cột chặt bằng chiếc thắt lưng da (có lẽ là của chồng để lại, - Giamin nghĩ) và một chiếc quần bông dày, trông chị ta như một con gấu. Chị làm việc khéo léo, chậm rãi và im lặng. Chiếc cuốc lưỡi hình móng bò thoắt đi thoắt lại trong tay chị gọn gàng như chiếc que cời bếp, móc vào đầu đinh ray. Chị đu người lên cán, chiếc đinh miễn cưỡng, chậm chạp nổi lên. Vì đã được chữa đi chữa lại nhiều lần, đầu đinh không chịu bám vào lưỡi cuốc. Lúc đầu Giamin rất lúng túng: khi thì đầu đinh tuột, khi thì cán cuốc cứ nhảy lên. Nhưng cậu quen dần, như răng của chiếc cào cũ, chiếc đinh ray bắt đầu chịu chui ra khỏi ổ của mình.
- Giỏi lắm, - chị kia lên tiếng, giọng khàn khàn - Thế mà tôi cứ nghĩ là người ta đã cho tôi một cậu công tử. Giỏi lắm. Có điều đừng quăng đinh như thế. Có biết quai búa không? Chúng ta phải thay ray đấy.
- Biết. Em từng làm thợ quai búa…
- Thế thì hay lắm. Chẳng mấy chốc cậu sẽ học được nghề bọn mình.
Giamin chờ chị ta hỏi tên cậu là gì, nhưng chị ta vẫn cứ gọi “cậu” mãi.
Công việc nặng nhọc chẳng mấy chốc đã làm nóng những người công nhân bị tê cứng vì lạnh. Hơi bốc lên từ người họ. Ông đốc công hoả xa đi lại
- Marơpha, người giúp việc của cô xem chừng làm được đấy. Nhanh nhẹn lắm.
- Vâng, Macar ạ, cậu ấy khá lắm. Bây giờ chúng tôi nghỉ một chốc rồi sẽ thay ray.
Marơpha và Giamin nhổ chiếc đinh cuối cùng xong, đi lại ngồi cạnh đống lửa. Hầu như mọi người đã đến ngồi ở đấy. Nhiều người hút những điếu thuốc quấn to, một lần rít lại cháy bùng lên. Có tiếng càu nhàu:
- Thuốc với men gì mà nổ như mìn ấy! Không phải giấy quấn nữa mà là thuốc nổ! Thế này thì mù mắt có ngày.
Mùi giấy cháy, mùi thuốc khét át cả mùi thơm của củi thông, mùi dưa hấu của tuyết đang tan cạnh đống lửa rực cháy. Củi nổ lách tách, bắn các đốm đỏ lên bầu trời lạnh, rơi thành những bụi tro màu xám xuống tuyết, xuống vai mọi người. Nhựa cây gặp lửa ngả màu đỏ, chảy thành từng dòng đặc quánh, sủi bọt lên than.
Như đã được quyết định từ lâu, người ta ngồi nói về việc chiến tranh sắp kết thúc và việc các đồng minh sẽ làm gì với nước Đức bại trận.
Muxatốp đi lại, cởi găng, hơ tay lên ngọn lửa, nhìn mọi người rồi cất giọng khàn nói:
- Đi làm đi, các đồng chí. Tàu tốc hành sắp chạy rồi. Phải nhanh lên mới kịp.
Những thanh ray bị thay được xếp thành hàng ra một bên, nhường chỗ cho những thanh mới màu xanh đen, vừa được chở từ nhà máy đến. Vừa đếm từng chiếc một, Muxatốp vừa giao đinh, thanh ốp, ray mới, thỉnh thoảng lại nhắc:
- Nhanh tay lên, sắp có tàu chạy rồi, một đoàn tàu tốc hành…
Mọi người lại bắt tay vào việc. Tiếng búa nện xuống sắt chan chát vang lên bầu trời lạnh lẽo. Tiếng vang dài, khô, như chạy dọc theo ngọn các cây thông già.
Marơpha thận trọng để thanh ốp dưới đường ray, cho chiếc đinh vào lỗ hổng hình vuông, lấy tay giữ rồi khẽ đập chiếc búa nặng lên đầu đinh như vừa đập vừa miết. Theo thói quen, chị nhổ nước bọt vào lòng bàn tay đang mang găng vải nhựa, chính xác quai búa xuống đầu đinh như đâm kim và một chiếc áo cũ. Giamin cũng quai búa theo không kém.
- Cậu khá lắm, - đứng tựa vào chiếc cán búa dài, Marơpha khen – Không chịu thua chút nào.
- Việc này em làm quen rồi, -Giamin bẽn lẽn đáp.
Giamin lắng nghe tiếng nhạc đứt quãng của từng nhát búa đập xuống. Vâng, đúng là nhạc thật! Nếu cậu là nhạc sĩ… Nghe Marơpha đóng đinh, cậu thấy tiếng thứ nhất vang hơi khô, tiếng thứ hai nghe chắc hơn, sung sướng xuyên qua bầu trời, còn tiếng thứ ba thì phá lên cười vui vẻ, đuổi theo hai tiếng trước, hoà lẫn với chúng rồi đột nhiên biến mất giữa nốt cao nhất.
Con chim gõ kiến bắt đầu làm việc. Như muốn thi với người, chiếc mỏ của nó liên tiếp gõ vào thân cây rồi dừng lại, ngoảnh cổ lắng nghe tiếng búa của người. Nó bay sang cây khác, lấy mỏ gõ thử xem cây ‘đàn” mới kêu thế nào, rồi vừa lắng nghe, vừa nhìn xuống đoàn người. Đối thủ của nó nhiều, làm nó lo lắng, vội vã, gõ loạn xạ, bực mình bỏ sang cây khác, cuối cùng, có lẽ vì mệt, đã bay mất.
Ở một nơi nào đấy xa xa, khuất sau dãy núi, có tiếng còi tàu vang lại, càng làm mọi người thêm vội vã. Tiếng búa đập nhanh hơn, đá dăm đổ nhiều hơn… Muxatốp chạy hết chỗ này đến chỗ nọ giục:
- Nào, nhanh lên tí nữa. Tàu tốc hành đang đến, - rồi liền đó, vớ vội chiếc xẻng hay chiếc búa bên cạnh, làm giúp mọi người và lại giục: - Nhanh lên, không nghe à? Tàu tốc hành đang đến đấy!
Đã nghe tiếng xình xịch của đầu máy hơi nước từ phía sau rừng taiga vọng lại.
Có một người trong đám công nhân xưởng cơ khí không chịu nổi, càu nhàu:
- Làm đến không kịp thở lại còn giục với chẳng giục.
Khi mọi người túm tụm làm cản trở việc đặt chiếc thanh ốp vào đoạn nối cuối cùng thì từ chỗ đường ngoặt, nơi rừng taiga bị chia đôi, chiếc đầu máy đã xuất hiện. Những con lăn bánh xe dẫn màu đỏ như những chiếc bánh xe đồ chơi trẻ con chạy phía trước. Hối hả theo sau là những vòng bánh sắt lớn, vừa chạy vừa như kêu lên: “Đuổi kịp bây giờ, đuổi kịp bây giờ”.
Lần đầu tiên, Giamin được thấy một đầu máy lộng lẫy như vậy. Các bộ phận bằng đồng của nó ánh lên, vàng choé. Thậm chí cậu không tin là tàu hoả có thể sạch và đẹp đến thế.
Đoàn tàu miễn cưỡng giảm tốc độ, thở phì phì như muốn nói: “Sao lại dừng thế này?” rồi đỏng đảnh đánh huýt còi như một anh thổi kèn đồng trong dàn nhạc, thổi một nốt thật thấp, hổn hển thở rồi dừng lại hẳn cách công nhân khoảng ba mươi mét.
- Chà, đẹp quá!
- Hết chỗ nói
- Sao các anh như trẻ con cả thế này? - đốc công là người đầu tiên chợt tỉnh – Tàu tốc hành phải dừng lại mà các anh thì há mồm ra thế! Lần đầu tiên thấy đầu máy à?
- Đúng là lần đầu tiên mới được thấy một đầu máy thế này. Đẹp như đồ chơi ấy! Tiếc là vì bọn mình mà nó phải dừng lại.
Tiếng búa đập lại vang lên, tiếng xẻng xúc đá ào ào. Bây giờ chỉ còn khoảng mười người làm việc. Những người còn lại dùng xẻng và cào sắt vén gọn và nện chặt lớp đá hai bên sườn đường sắt như những người làm vườn thực sự.
Giamin và các bạn lại gần đoàn tàu. Từ những toa đỏ có các tay vịn bằng đồng, hai vị tướng đầu đội mũ lông cừu xám bước ra. Thong thả đi dọc đường tàu, họ vừa nói chuyện với nhau, vừa hất đầu chỉ về những người công nhân đang làm việc. Vị tướng người cao khoác chiếc áo trên vai, ngực đầy cuống huân chương lấp lánh đến loá mắt.
- Trông kìa, người Nhật! – Gôga kêu to
Các cậu quên ngay hai vị tướng kia, quay sang nhìn toa cạnh, nơi có người mặc áo lông xù xì, từ toa nhảy xuống như những quả bóng. Họ khe khẽ nói chuyện với nhau, giọng đứt quãng, nghe như từ cuống họng.
Ở cửa ra vào của toa khách chở các vị tướng, một người mặc áo ấm kẻ sọc, dọc hai ống quần có hai sọc đỏ bước ra, hỏi:
- Có chuyện gì thế các cậu? Sao tàu phải dừng lại?
- Dạ, thay đường ray…
- À… Thế các cậu làm gì ở đây?
- Sao lại làm gì? – Côlia ngạc nhiên hỏi lại – Chúng cháu làm việc, sửa chữa đường ray. Tàu các bác là tàu tốc hành mà - Cậu nói vẻ vững tin, như muốn khoe bây giờ tàu có chạy được hay không là nhờ cậu. Mắt cậu đảo liên tục, lúc nhìn những sọc đỏ trên quần, đôi ủng bóng lộn hay bộ tóc bạc cắt ngắn của vị tướng, lúc nhìn chiếc thảm nhỏ màu sặc sỡ giải ở lối ra vào, vị tướng mỉm cười hỏi:
- Nghĩa là các cậu đang chữa đường cho chúng tôi?
- Tất nhiên…
- Các cậu làm việc lâu chưa?
- Từ đầu chiến tranh… - Côlia đáp như một người lớn, hai cậu kia thì huých tay nhau, không giấu vẻ tò mò đứng nhìn ông ta.
- Nào, giai cấp công nhân, xin mời vào toa…
Các cậu nhìn nhau rồi lại nhìn vị tướng, vẻ không tin, tưởng ông bày trò trêu các cậu.
- Kìa, sao đứng thế? - vị tướng lại mời - Thời gian ít. Lên đây một chốc cho ấm.
Các cậu còn chần chừ một lúc, chủ yếu là để giữ lịch sự rồi lấy găng tay phủi sạch tuyết ở ủng, bước lên toa. Trong toa ấm và dễ chịu.
- Mời vào, giai cấp công nhân, mời vào, - vị tướng nói rồi đi lên trước.
Các cậu rón rén bước như đi trên mặt kính. Dãy thảm đỏ, mềm và những tấm gương sáng loáng làm các cậu lúng túng. Bây giờ các cậu hối hận là đã vào. Thảm màu gỗ và kim loại óng ánh, cộng với sự yên tĩnh và sạch sẽ đến lạ lùng làm các cậu thấy sợ.
- Thời gian ít lắm, các cậu ạ - vào buồng mình, vị tướng nói, cho tay vào chiếc cặp màu vàng – vì vậy, cái gì cũng phải làm nhanh chóng, theo tinh thần thời chiến mới được. Đúng thế không, giai cấp công nhân? – khuôn mặt tròn, rạng rỡ của ông nở một nụ cười hiền hậu.
“Giai cấp công nhân” đứng im. Toát mồ hôi vì căng thẳng và gò bó, các cậu cựa quậy những chiếc cổ gầy gò của mình, tay bóp chặt mũ, nhìn chăm chú quanh căn phòng. Gôga lập tức để ý đến bao thuốc “Cadơbếch” nằm trên chiếc bàn nhỏ (cậu ta thỉnh thoảng vẫn lén lút hút thuốc), Côlia thì thấy ngay chiếc dao nhíp nhiều công dụng, còn Giamin đưa mắt nhìn qua ô cửa sổ nhìn những người công nhân hoả xa đang làm việc, cậu muốn họ cũng được lên toa ấm dễ chịu này. Vẫn còn đang lúng túng, cậu bí mật ra hiệu giục các bạn đi xuống. Hai cậu kia thích ở đây, làm như không nghe gì. Vị tướng lẩm bẩm bài hát Cachiusa, đang cố tìm một cái gì đấy trong cặp.
- Các cậu có ba mà đây chỉ có hai… Chờ tí nhé, - vị tướng đi ra, lần này huýt sáo bài “Ba anh lính xe tăng”
- Thế này mới đáng gọi là toa chứ! – Côlia nói, tay cầm chiếc dao đưa lên ngắm nghía cẩn thận – Xem này, có cả dùi và kéo nữa.
- Ở đây người ta hút “Cadơbếch” nhé! – Gôga ngắt lời Côlia
- Được đi trong toa này thì khoái nhỉ? Giamin dí nắm đấm xuống chiếc đi văng.
- Ấm, mềm… - Côlia mơ màng nói rồi đặt chiếc dao lại chỗ cũ.
Vị tướng đã quay lại
- Này các cậu, - ông lúng túng nói rồi chìa cho mỗi cậu một thanh kẹo sôcôla – Tôi có cái này cho các cậu đây…
Như đã hẹn trước với nhau, các cậu giấu tay sau lưng, đứng im lắc đầu như những người dũng cảm.
- Cầm lấy, cầm lấy…
- Không, chúng cháu chỉ vào xem toa thôi, - Giamin nói thay cả bọn, người cậu toát mồ hôi hột.
- Cầm lấy, - vị tướng lại nói, rồi nhét thanh kẹo vào tay Côlia – Các cậu là khách của tôi mà…
- Không – Côlia lẩm bẩm đáp, mắt không rời thanh kẹo.
Hiểu được tâm lí các cậu, vị tướng nhét cả ba thanh kẹo vào túi Giamin cười nói:
- Bây giờ thì các cậu tự giải quyết lấy… Mà thôi, ra cửa đi… Có lẽ bắt đầu đi rồi. Rất vui mừng được làm quen với các cậu, với giai cấp công nhân. Cám ơn các cậu đã chữa đường! – rồi ông vỗ vai từng cậu một.
Các cậu nhảy xuống đường khi tàu bắt đầu chạy, thấy như ấm hơn trước. Tuyết ngả màu hồng dưới ánh mặt trời. Xa xa, rừng taiga hùng vĩ trải dài nhấp nhô như những đợt sóng màu xanh. Chiếc toa chở đại diện Nhật đi Mátxcơva đàm phán từ từ đi ngang trước mắt các cậu. Hai người Nhật đứng ở cửa ra vào, đang sôi nổi nói chuyện với nhau, chỉ về phía những người công nhân hoả xa đang mệt mỏi đứng bên vệ đường. Những mắt kính dày và những chiếc răng trắng, chắc, ánh lên dưới mặt trời, làm người ta có cảm giác như người Nhật bao giờ cũng cười.
Chiếc đầu máy tuyệt đẹp tăng nhanh dần tốc độ lao vào khe hở cắt đôi rừng taiga, kéo theo một dải khói màu xám. Các cậu say mê nhìn theo đoàn tàu quân sự khác thường này. Đưa cho Côlia và Gôga mỗi cậu một thanh sôcôla, Giamin nói:
- Mình sẽ không ăn… Mang về cho mẹ…
- Mình cũng thế, - Côlia ngắm nghía tờ giấy bọc xinh đẹp nói - ở nhà chắc mừng lắm…
- Mình cũng mang về cho mẹ… Bà mình mà biết thì thế nào cũng tước mất… - Gôga thở dài cho thanh kẹo vào túi.
Các cậu cảm thấy miếng kẹo rất ngon, mùi thơm thoảng bay vào mũi. Cả ba liếm môi rồi chạy lại chiếc xe kiểm ray, ở đấy công nhân đang đứng tụm nhau sôi nổi bàn tán về đoàn tàu tốc hành.
- Rõ ràng là chúng ta đang thắng lớn! – Gôga tự hào nói, rồi vỗ vào vai các bạn như vị tướng vừa làm lúc nãy.
Đối với Giamin và các bạn, mùa đông 1945 trôi qua rất nhanh. Các cậu làm việc mỗi ngày mười hai giờ, hầu như không có ngày nghỉ.
Các đợt tấn công của quân ta ở mặt trận đã tiếp thêm sinh lực cho hậu phương đã hầu như kiệt quệ. Tất cả đem hết sức ra làm việc, ai cũng biết ở mặt trận nào quân ta đang đánh mạnh, và ai là người chỉ huy. Mọi người tranh nhau nhổ đi cắm lại những chiếc cờ nhỏ tí hon trên tấm bản đồ đem sạm vì bụi và bồ hóng. Những người khác đứng xung quanh, ồn ào tán thưởng và bông đùa.
- Cắm ngay vào Béclanh thử nào!
- Thì thế nào mà ta chẳng tới đấy!
- Ấy không được, Gơben không bằng lòng đâu!
- Đúng thế, vì lão ta cứ kêu là quân ta đánh không theo một chiến thuật nào cả!
Một vài người nghe bản tin cuối cùng của phòng thông tin, đi tới chỗ làm việc sớm hơn ngày thường, viết lên bản tin số lượng quân địch bị ta diệt, bị bắt làm tù binh và số phương tiện kỹ thuật ta thu được…
Những ngày này đội thanh niên cộng sản tình nguyện tăng chỉ tiêu sản xuất. Các cuộc họp hay hội ý chớp nhoáng được tiến hành ngay ở chỗ làm việc.
Đốc công Xamôrucốp thường nói với những công nhân hay kêu chỉ tiêu quá cao và không có đủ nguyên liệu:
- Khó khăn hết chỗ nói. Nhưng anh hãy nhìn mấy cậu kia xem…
- Gì mà phải nhìn, lại không thấy hay sao? Các cậu ấy bây giờ thì đâu mà chẳng có!
- Có cái để mà nhìn đấy, các đồng chí ạ. Lứa tuổi này, đáng lẽ còn đang chơi đùa mà đã ba năm nay các cậu ấy lăn lộn trong khói và bụi của xưởng, làm việc như người lớn, mà không hề kêu ca. Có ai nghe các cậu ấy kêu ca bao giờ chưa? Chưa! Đấy, đấy… Trông chúng như những ông già bé nhỏ… Chúng làm ra một nửa sản phẩm của xưởng ta đấy. Thế mà có cậu còn tranh thủ đi học được.
- Đấy là việc của các cậu ấy…
- Không, các đồng chí, đấy là việc của chúng ta, của tôi, của anh, của Nhà nước!
Rồi liếc nhìn những đôi mắt thiếu ngủ của các cậu, Piốt Pêtrôvích nhai nhai những sợi ria nói giọng khản đặc:
- Phải thế, các cháu ạ… Tiền tuyến yêu cầu phải thế. Các cháu hiểu điều đó, - Rồi ông bỏ vào phòng mình, lần lượt gọi điện thoại hết phòng kế hoạch đến đảng uỷ, thủ trưởng tuyến đường sắt. Với ai ông cũng hỏi họ nghĩ gì khi giao cho ông những chỉ tiêu lớn như vậy, và họ quên là xưởng ông hầu như chỉ độc trẻ con làm việc, phải không? Và lúc nào ông cũng được trả lời một câu giống nhau:
- Chúng tôi hiểu, Piốt Pêtrôvích ạ. Chúng tôi hiểu anh lo cho các cậu bé, nhưng bọn phát xít có hiểu thế không, mặt trận có chờ không…
Mặc dù mùa đông năm 1945, Giamin gặp rất nhiều khó khăn - thời tiết lạnh, hay có bão tuyết, luôn phải lưu động, lúc thì vào rừng lấy củi, lúc thì giúp công nhân đường sắt, lúc bốc xếp tà vẹt… cậu vẫn tiếp tục học. Nhiều lần mẹ cậu đã bảo cậu thôi đừng giày vò mình bằng những quyển sách ấy nữa, và nên như người khác tranh thủ ngủ thêm một vài giờ, nghỉ lấy sức, chứ dạo này trông người chẳng ra người, hồn chẳng ra hồn. Hết chiến tranh, các anh cậu trở về, sẽ cáng đáng mọi việc, lúc ấy tha hồ học bao nhiêu thì học.
- Không, con sẽ học xong trường phổ thông năm nay, - kiên nhẫn ngồi nghe mẹ xong, Giamin bướng bỉnh đáp - Mẹ có biết anh Xưrômachin nói gì không? Sau chiến tranh sẽ rất cần người có học! Ông hiệu trưởng cũng bảo vậy, và cả Piốt Pêtrôvích nữa… Họ hiểu hơn mẹ và con!
- Thôi, tuỳ con. Họ là những người thông minh, họ nói đúng. Có điều thấy con thế, mẹ không nỡ.
Bà mẹ không biết gì về ước mơ thầm kín của con trai, về tình yêu của cậu. Còn Giamin thì quyết định là hết lớp mười cậu sẽ tới Mátxcơva, sẽ vào đại học. Vì điều này, cậu sẽ sẵn sàng chịu đựng tất cả mọi khó khăn thiếu thốn…
… Tin nước Đức phát xít đầu hàng vô điều kiện đến Taisét vào ban đêm. Thị trấn yên tĩnh, đang sống trong nhịp điệu thời chiến, bỗng như bùng nổ. Tất cả các cửa được mở toang. Người ta chạy ùa ra ngoài trời lạnh. Bầu trời xanh đen đầy sao lấp lánh ánh bạc. Họ kêu đến rát cổ: “Thắng lợi rồi”. Họ khóc, họ vừa nhảy vừa chạy như bay tới những nhà đang ngủ, đấm thình thình vào cửa rồi kêu to: “Thắng lợi rồi”
Khi đã bình tĩnh trở lại một chút, người dân Taisét mới nhận thấy là trong toàn thị trấn hầu như không có đàn ông khoẻ mạnh, chỉ còn độc trẻ em, thiếu niên, phụ nữ, thương binh và một ít ông già. Phụ nữ ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở, thương tiếc những người đã hi sinh, những người dũng cảm, xinh đẹp đã hiến cả cuộc đời mình vì họ, vì một tương lai tốt đẹp.
Cái giờ phút ấy, người ta đã chờ suốt bốn năm trời đằng đẵng.
…. Giamin tốt nghiệp trường phổ thông vào loại khá và gửi hồ sơ lên Mátxcơva. Chỉ có Côlia Xôcôlốp biết điều này. Khi có giấy gọi học, có lẽ thím Samsura là người ngạc nhiên nhất.
- Sao phải đi học xa thế? Học ở Ixcrutxcơ không được à? Gần nhà. Để mẹ còn có thể gửi khoai cho, và hè con còn về thăm nhà nữa chứ…
- Con phải tới Mátxcơva mẹ ạ, phải tới! - cậu con trai nhất quyết nói.
Thấy vậy thím Samsura quyết định nhờ Xtêpan Xôcôlốp bàn với Giamin. Ở nhà Xtêpan, thím thấy Grunhia đang phơi quần áo vừa giặt.
- Thì thằng nhà tôi cũng đang định bỏ đi học xa đấy, - Grunhia buồn rầu nói – Đi đâu cơ chứ? Ông nhà tôi làm sao mà nuôi nổi cả gia đình này? Thế nhưng nó có chịu hiểu cho như vậy đâu. Và một phần cũng tại bố nó nữa. Cứ bảo là để nó đi. Thế đấy…
Thím vào trong nhà, có thể con mình không khuyên được, nhưng biết đâu nhà tôi khuyên được thằng Giamin cũng nên.
Hồi lâu thím Samsura kể về đời mình và con trai cho Xtêpan nghe. Xtêpan nói, vẻ thông cảm:
- Tất nhiên Mátxcơva xa thật, nhưng chúng ta làm sao mà biết được cái gì đã lôi cậu ấy tới đấy? Mà bây giờ ta khuyên nên đi nơi này nơi nọ liệu có đúng không? Giamin là một thanh niên có tinh thần tự lập, ba năm vừa học, vừa làm việc mà đã chịu đựng được. Có phải ai cũng làm được như cậy ấy đâu. Như thằng Côlia nhà tôi đấy, học được năm rưỡi đã bỏ. Bây giờ mới lao vào học tiếp. Nó bảo sẽ thi vào trường trung cấp kỹ thuật. Thằng Gôga cũng thế. Bà nhà tôi không muốn. Sự việc là thế đấy, thím Samsura ạ. Bây giờ mà không có kiến thức thì không làm được gì đâu. Xa thì xa nhưng không sao.
- Ừ, thế cũng được.. – thím Samsura đồng ý.
…Tàu Vlađivôxtốc – Mátxcơva đã chậm bốn tiếng. Ra tiễn Giamin có tất cả những người trong đội cũ của cậu, những người hàng xóm và một số học sinh nam nữ cùng lớp. Những người ra tiễn nói với nhau đủ mọi chuyện trên đời, có điều là họ tránh nói đến chuyến đi xa của Giamin. Họ nói đùa, họ cười song cũng như bất kì một cuộc chia li nào, buổi tiễn hôm nay cũng đượm buồn.
Mặc dù chiến tranh kết thúc đã hai tháng, song không khí chiến tranh vẫn còn cảm thấy khắp nơi, sân ga đầy người mặc quân phục. Từ các đường gần đấy, vẫn có thể nghe tiếng ồn ào vọng lại, nhất là khi có các đoàn tàu quân sự vào ga, anh em bộ đội từ các toa ùa ra Họ vui vẻ, sôi động, mặc áo lính, ngực đầy huân chương và huy chương. Không khí ngày lễ vẫn chưa rời khỏi họ, những người vừa từ lò chiến tranh ra, vừa làm nên chiến thắng. Anh em bộ đội nói đùa, mời nhau hút thuốc.
Cuối cùng, đoàn tàu đã đến, sau khi chậm bảy tiếng. Đám đông ùa chạy tới các toa. Các nhân viên hoả xa không cho ai lên tàu, luôn tay vẫy cờ hiệu và kêu to đến lạc cả giọng:
- Đi đâu, đi đâu thế? Không thấy người ta ngồi cả ở cửa vào đấy à? Định ngồi lên đầu người ta chắc?
Nhưng hành khách không chịu nghe vẫn tiếp tục tấn công vào những toa xe đã chật ních người. Họ luồn các tay nải các vali vào cửa sổ rồi qua vai bạn bè chui người vào theo.
- Đóng cửa sổ lại! Đóng cửa sổ lại! – các nhân viên hoả xa thét lên.
- Ngột lắm! Không thở được – có người đáp lại
- Không chết đâu! Đóng lại, đóng lại!
Giamin chạy đến toa số tám, dí chiếc vé vào tay một cô béo, mặt đỏ như gấc.
- Cái gì thế này? À, giấy thế này thì ai muốn mà chẳng có hàng đống! Tránh ra cho người ta xuống.!
- Cô ơi, đây là vé tàu, có phải giấy gì đâu! – Giamin kêu to, vẫn tiếp tục dí chiếc vé vào lòng bàn tay bẩn của cô nhân viên.
- Tôi có mù đâu. Tránh ra, đã bảo là tránh ra mà. Kẻo tôi đánh vào mặt!
- Thôi, con ạ, thế càng hay, ở nhà cũng được.. Xem đấy, đi thế nào được? – thím Samsura vừa khóc vừa nói, vất vả lắm mới không bị người khác chen ngã.
Nghe mẹ nói, Giamin càng nóng ruột:
- Này cô ơi, cô không phải doạ cháu. Cháu cần tới Mátxcơva, tới trường đại học…
- Thì có ai đến ga tới xuống đâu. Tất cả đều đi Mátxcơva. Thôi, tránh ra, đừng quấy rầy nữa. Tại sao nhất thiết phải lên toa này? Tới toa khác mà lên. Hay cậu mê tôi hơn. Ha, ha, ha! – thân hình to lớn của cô ta rung lên.
- Cháu có vé tới đấy… - Giamin nói, vẻ lo lắng không còn tự chủ như trước nữa.
- Ha, ha, vé à? Bây giờ ai mà chẳng có vé? – cô nhân viên nói to, tay vẫn xô hành khách không cho vào.
- Thôi kệ mụ ấy. Trèo qua cửa sổ mà vào! – Côlia nói
- Đứng lên vai mình đây, kẻo không vào được đâu, thật mà! – Gôga nói thêm vào và đưa mắt nhìn xem có cửa sổ nào mở không.
Giamin định làm thế thì bỗng nghe sau lưng giọng nói khàn khàn của Xamôrucốp:
- Giamin, sao bây giờ còn loay hoay ở đây? Tàu sắp chạy mà cậu còn đứng thế?
- Vì cô nhân viên không cho vào?
- Cô ta định gây sự đánh nhau
- Không phải nhân viên mà là một mụ ba que! – các cô gái tranh nhau nói nhao nhao.
- Khoan, bình tĩnh nào. Piốt Pêtrôvích chen lại gần cô nhân viên đang nổi giận – Này đồng chí, sao làm ầm ĩ lên thế? Sao người của mình, nhân viên đường sắt mà không cho đi? Chúng tôi chữa đường cho các cô mà các cô không thèm biết. Thế là không tốt. Trưởng tàu đâu?
Thấy trên vai Xamôrucốp có mang phù hiệu đường sắt, cô nhân viên dịu giọng hỏi:
- Thế ai đi?
- Người này chứ còn ai nữa! – chen được lên phía trước, Côlia chỉ vào bạn
- Sao không nói ngay từ đầu là nhân viên đường sắt? – cô ta nhìn Giamin vẫn không lấy gì làm thiện cảm lắm, rồi nói như ra lệnh – Trèo lên nhanh, tàu chạy bây giờ đấy. Có còi hiệu rồi.
Nhưng đến lúc này thì thím Samsura lại ôm chặt lấy con, không muốn rời ra nữa. Cô nhân viên cộc cằn nói;
- Thôi, đừng quấn quít nhau nữa! Có phải đi chết đâu. Này cậu kia, trèo lên nếu không cho ở lại bây giờ!
- Lên đi, lên đi – Xamôrucốp ẩy vai Giamin - viết thứ về nhé, đừng quên bọn mình đấy - Rồi ông ôm vai thím Samsura đang khóc nói – Không sao, bác ạ, đâu sẽ vào đấy…
- Này, Giamin! – Gôga ném chiếc va li đen một nửa chất đầy sách giáo khoa lên tàu.
Giamin định chen ra cửa, nói vài lời từ biệt, nhưng không được vì cậu luôn bị những người chạy theo tàu nhảy lên xô vào trong. Thân hình đáng sợ của cô nhân viên đứng che hết cả lối ra vào. Tiếng kêu và chửi xung quanh làm cậu không nghe rõ lời chào tiễn biệt của những người đi tiễn.
Mẹ cậu buồn rầu đứng nhìn theo đoàn tàu đang chở đứa con út của bà đi xa, cho đến khi khuất hẳn mới thôi. Đứng xa hơn một tí là các bạn cậu và đốc công Xamôrucốp. Lần về nghỉ hè đầu tiên, chắc bác ta sẽ không còn sống nữa: “Những năm chiến tranh đã rút hết sức lực bác ấy…” - mọi người bảo vậy.
Ở đầu ga, phía kia, ông hiệu trưởng đứng một mình, thong thả lau cặp kính dày. Qua khe hở, Giamin đã nhìn thấy ông. Cậu cố chen ra cửa, kêu to:
- Thầy Ruvim Ixacôvích! Tạm biệt! Cám ơn thầy!
Ruvim Ixacôvích đưa kính lên mắt giơ tay vẫy theo:
- Tạm biệt, Giamin, tạm biệt…
Trong toa thật là ngột ngạt, phải đến năm, sáu người ngồi một ghế tầng dưới. Tầng hai và tầng ba cũng chật cứng người. Đâu cũng thấy vali, ba lô, túi xách. Trẻ con khóc inh ỏi, người lớn thì như thi nhau xem ai kêu to hơn.
Giamin không dám vào trong toa, đặt chiếc va li cạnh tường, ngồi lên đấy, một chốc sau cậu ngủ thiếp đi.
Rồi có người lay vai làm cậu tỉnh dậy.
- Cậu này, dậy… Gì mà xỉu ngay thế? Đi Mátxcơva phải không? Định ngồi ở đây mãi chắc? Sao không vào trong toa?
- Trong ấy có còn chỗ nào mà len chân nữa đâu… - Giamin đáp, vẫn chưa biết rõ mình đang ở đâu – không sao, cô ạ. Cháu ở đây cũng được…
- Hừ, thế mới phiền! Cầm va li theo tôi! - rồi cô ta dẫn cậu vào phòng dành riêng cho nhân viên phục vụ, nếu như có thể gọi nó là phòng được, vì ở đấy chỉ có hai tấm ván nằm được che bằng những chiếc chăn lính.
Trên tầng hai, một cô nhân viên khác đang ngủ say.
- Đấy, cậu nghỉ đây…
- Thế cô ở đâu? – Giamin hơi lùi lại
- Hành lí của cậu chẳng lấy gì làm nhiều. Ở đây bao giờ cũng có một giường trống. Tên cô là Cơxênhia, còn cô kia là Valia. Cô ta hất hàm chỉ lên giường trên.
Giamin hoàn toàn lúng túng trước dịp may hiếm có này, đến nỗi cậu không biết nên nói gì, làm gì với cô nhân viên mà vài giờ trước đây đã doạ cho cậu ăn đấm này.
- Sao đứng im như phỗng thế? Đặt va li xuống, ngồi nghỉ đi. Cùng cánh đường sắt với nhau cả mà. Nếu không có bố cháu thì nhất định cô không cho lên đâu. Bố cháu làm gì thế?
- Ông ta không phải là bố cháu… Đấy là đốc công Xamôrucốp… Bố cháu chết rồi…
- Người dưng mà như bố con vậy
- Piốt Pêtrôvích của chúng cháu thế đấy! Bên ngoài thì trông có vẻ khắc khổ nhưng bác ta là người tốt. Chính cháu cũng là nhân viên đường sắt. Thì cô cũng vậy, mới đầu chỉ trông cũng đủ sợ, thế mà…
- Tên cháu là gì?
- Giamin…
- Tên gì nghe đến lạ… Cháu xem, Giamin, cô mà không làm ghê gớm thế thì cái toa này đã nổ tung ra từ lâu, và người ta đã giẫm nát cô ra… Nằm nghỉ nhé, để cô lại đi chiến đấu nữa. Sắp tới ga mới.
Càng đi xa Taisét, Giamin càng hồi hộp
Tiếng ồn ào, cảnh chen chúc nhau trên sân ga, các đoàn tàu quân sự, tiếng rao hàng của những người bán sữa chua, khoai tây luộc bọc trong những chiếc lá rộng, hoa quả, tất cả những cái ấy hình như di chuyển theo đoàn tàu từ ga này đến ga khác. Những chú bé lang thang không ai chăm sóc nhanh nhẹn chui hết chỗ này đến chỗ nọ để kiếm ăn. Người ta chen nhau mua bán áo sơ mi, áo khoác ngoài, ủng lính, thường thường thì họ đổi những thứ đó để lấy bánh mì, xà phòng và thuốc lá.
Lúc đầu, rừng taiga còn như trùm lấy đường sắt và con tàu như mũi tên xuyên qua nó, nhưng tới gần Nôvôxibiếcxcơ thì rừng taiga đã lùi đến tận chân trời, còn thảo nguyên với những cây cối xác xơ và vô số các hồ nước nhỏ hiện ra trước mặt. Lần đầu tiên, Giamin được nhìn thấy một vùng rộng lớn thế này mà không có rừng, và điều này làm cậu hết sức ngạc nhiên. Chân trời cũng chạy nhanh như đoàn tàu vội vã.
Ba ngày đầu, Giamin còn chưa hỏi bao giờ thì tới Mátxcơva, nhưng sang ngày thứ tư thì sáng nào cậu cũng hỏi:
- Cô Cơxênhia, sắp tới chưa?
- Sắp tới rồi, sắp rồi, cậu bé ạ. Chúng ta ngày một tới gần Mátxcơva đấy…
Đoàn tàu đi qua Craxnôiácxcơ, Nôvôxibiếcxcơ, Xvécđlốpxcơ. Qua mỗi thành phố, Giamin lại nói:
- Chẳng nhẽ Mátxcơva còn to hơn à?
- To hơn chứ, to hơn. Giamin ạ. Tới nơi, cậu sẽ thấy.
Rồi một sáng, mọi người bỗng nhiên nhốn nháo hẳn lên như đang thiu ngủ bỗng chợt tỉnh dậy và bắt đầu sửa sang lại mình. Bảy ngày đêm liền các cửa sổ tàu luôn mở đã hút vào một lượng bụi và chất bẩn đủ biến hành khách thành những người đốt lò. Người ta cột lại túi, xếp lại va li, nhắc đến các tên phố, ga tàu điện ngầm, những người Mátxcơva nói đến thành phố thân yêu của mình như nhắc đến một người sống.
- Thôi, chúc cháu mọi sự tốt lành, Giamin! Đã đến Mátxcơva của cháu rồi đấy! – Cô Cơxênhia nói, dịu dàng như một người mẹ, khi đoàn tàu giảm tốc độ chạy vào ga - Cứ bình tĩnh. Từ đây đi thẳng tới trường. Có xe điện tới đấy. Hình như xe “B” thì phải. Chúc cháu may mắn…
- Cảm ơn cô, cô Cơxênhia! Thế nào cháu cũng sẽ tới nơi thôi, - Giamin mỉm cười, bối rối đáp.
Ga Iarôxlápxki đầy tiếng ồn ào đến nhức tai và tiếng người nói khác nhau. Dòng người đủ màu sắc đang tuôn vào các cửa ga. Đã vào đây thì không thể dừng lại được. Giamin mấy lần hỏi bến xe điện đâu nhưng mọi người đang vất vả vì những túi xách và va li chỉ lặng lẽ gật đầu chỉ đâu đấy về phía trước rồi lại đi tiếp.
Theo đám đông, Giamin đã đến được bến xe điện. Xe điện thì chiếc nào cũng giống chiếc nào, và chật ních người. Ngồi nghỉ trên vali, cậu cảm thấy gần nửa giờ qua đã làm cậu mệt mỏi hơn cả một ca làm ở xưởng cơ khí. Lưng cậu đẫm mồ hôi, đầu choáng váng.
Mặt trời tháng bảy rực lửa đã tụt xuống đằng sau những dãy nhà cao, hắt những chiếc bóng dài, quái dị trên mặt đường nhựa bị cày nham nhở trong những năm chiến tranh. Ở bến người thưa dần mà xe điện “B” vẫn không thấy đâu.
Rồi đèn bật sáng khắp nơi. Hàng nghìn ngọn đèn đã chiếu sáng thành phố. “Thế này thì tốn biết bao nhiêu là điện nhỉ” – Giamin nghĩ bụng và nhớ tới Piốt Pêtrôvích, một người mà ai vô cớ bật một ngọn đèn nhỏ nào đấy sẽ bị ông quở mắng thậm tệ, “Bác ấy mà ở đây thì phải biết!” - cậu thoáng nghĩ.
Giamin chờ năm tiếng liền mà xe “B” có thể chở cậu về trường vẫn không thấy. “Hay cô Cơxênhia nhớ nhầm?” Bỗng nhiên cậu cảm thấy mình rất nhỏ bé. Hàng nghìn người đang đi qua trước mặt cậu, người nào cũng bận việc của mình, chẳng ai để ý đến cậu bé chân đi ủng với những ống gập lại, đang buồn bã ngồi trên chiếc vali gỗ. Xe điện hết chiếc này đến chiếc khác, đèn sáng trưng ầm ầm đi qua trước mặt cậu.
Hoàn toàn mệt mỏi và váng đầu vì tiếng ồn của một thành phố lớn, Giamin đang lơ đãng nhìn những gì xảy ra xung quanh thì một anh công an đi lại, nghiêm khắc hỏi cậu đang làm gì ở đây.
- Cháu chờ xe điện… - Giamin uể oải đáp
- Đã hàng chục chiếc xe đi qua mà sao cậu còn ngồi ở đây? Xem chừng đừng giở trò với tôi đấy nhé! Giấy tờ đâu? Đưa xem!
- Thật mà, cháu chờ xe “B”. Cháu tới đây để học…
- Đưa giấy tờ đây đã, sau hẵng nói tới cái xe điện mà cậu chờ. Bọ vẫn chẳng chạy luôn đấy là gì?
- Bọ nào cơ ạ? Đây, giấy thông hành và giấy gọi học của cháu đây.
- Xe “B” chứ còn “B” nào nữa, - anh công an đáp, đã thân mật hơn trước vẫn chăm chú xem giấy tờ của Giamin - Giấy tờ ổn cả. Đúng là cậu phải đi xe “B” thật, cậu bé Xibêri ạ. Kia, nó đến kia rồi.
- Đâu?
- Không nhìn thấy hay sao mà còn hỏi “đâu”? Có hai đèn tím và xanh trên đầu, và ở giữa là chữ “B”, thấy chưa?
- Ừ nhỉ, đúng rồi. Thế mà cháu cứ nhìn phía dưới, nơi có ghi các con số. Cháu cứ nhìn xem tàu này mang số 3434…
Anh công an cười to, vỗ vai Giamin:
- Thế thì có chờ đến sáng mai, cậu bé ạ. Đó là số toa xe chứ không phải số tuyến xe chạy. Có phải lần đầu tiên thấy xe điện không?
- Vâng…
- Không sao… Sẽ quen dần. Mátxcơva rất mến khách, mặc dù lúc đầu có thể làm người ta sợ. Rồi đâu sẽ vào đấy. Thôi lên đi, kẻo không lại bảo không thấy xe “B” đâu cả.
- Không, cháu không bảo thế nữa đâu. Bây giờ cháu biết rồi. Cảm ơn chú!
- Nhanh lên, nhanh lên, đêm đã khuya rồi…
“Giá vé bao nhiêu nhỉ?” – Giamin nghĩ bụng khi bước vào toa xe trống gần một nửa – “Đáng lẽ phải hỏi anh công an lúc nãy” Tự cho mình là người thành phố và không muốn bị hố nữa, cậu tiếp tục nghĩ: “Tất nhiên, đi càng xa thì vé càng đắt. Vé đường sắt cũng vậy. Mình cứ đưa một tờ 30 rúp, nếu không đủ sẽ đưa thêm”. Cậu rụt rè đưa tờ giấy bạc đỏ cho cô bán vé đang thản nhiên nhìn cậu. Chị này mệt mỏi đưa mắt nhìn người khách lạ lùng từ đầu đến chân rồi cho đồng 30 rúp vào chiếc cặp da trông như một chiếc ví lớn, bắt đầu đếm tiền lẻ trả lại cho Giamin. Chị ta đếm rất lâu, vẫn không quên giật chuông mỗi khi xe đến bến. Và theo tiếng chuông của chị, xe lại đi tiếp. Cuối cùng, chị ta đưa lại cho cậu một đống tiền thối lại gồm giấy 3 rúp và một rúp, với rất nhiều tiền xu lẻ. Xong chị đưa vé cho Giamin.
- Cám ơn chị, - Giamin nói với chị bán hàng đang ngạc nhiên nhìn cậu – Còn lâu nữa không thì đến quảng trường “Đấu tranh” ạ?
Quay về phía cửa sổ, Giamin đưa mắt liếc nhanh tấm vé và suýt nữa thì phá lên cười; trên mảnh giấy nhỏ màu xám xé không đều có dòng chữ in màu nâu: “Giá vé 30 côpếch”
Xe đi đã khá lâu, vòng theo các phố vắng đèn chiếu lù mù, rung chuông inh ỏi mỗi khi qua các ngả đường. Mặc dù trong xe hầu như chẳng có ai, khi đến bến, chị bán vé vẫn cất giọng đều đều nói to tên bến. Cuối cùng, chị ta quay về phía người khách duy nhất của mình:
- Đến nơi rồi đấy. Trường của cậu đây, - con mắt kinh nghiệm của chị ta không bao giờ đoán sai ai là sinh viên tương lai
Giamin bước ra khỏi xe điện, đi về phía ngôi nhà năm tầng có những chiếc cửa sổ rất lớn. Hai cánh cửa to, nặng bằng sắt đã được cột bằng một dây xích. Giamin rụt rè đưa tay đẩy rồi lách mình qua khe hở giữa hai cánh cửa. Sân trường tối om, có trồng nhiều cây, đón cậu một cách lặng lẽ và huyền bí. Cậu bước tới chiếc cửa được chiếu sáng bằng một đèn nhỏ lờ mờ. Tim cậu đập to đến nỗi cả tiếng cá sắt của giày cậu đang khua trên mặt đường nhựa cũng không át nổi. Bỗng nhiên cánh cửa lớn hé mở và như trong truyện cổ tích tốt lành và đẹp đẽ, trước mặt cậu là Tamara Crưgianôva với vẻ mặt thất vọng hiện ra. Sau Tamara là cô gái mặc áo xanh. Cô ta nói rất nhanh với Tamara:
- Đừng buồn, Tamara ạ, chắc là cậu ta chưa đến. Hay có thể cô Nhura của cậu nhầm số tàu cũng nên. Người ta bảo đã gửi giấy gọi rồi. Không đến hôm nay thì mai chứ đi đâu mà sợ…
- Tamara! – Giamin nói như thì thầm vừa bước lại phía hai cô gái: - Chào Tamara… Sao Tamara lại ở đây?
- Giamin, cậu đấy à? Valia! Valia! cậu ấy đây rồi! – Tamara quay lại phía bạn - Cậu tới bằng cách nào đấy? Sao muộn thế này? Sao cậu không đánh điện cho mình? Đi đường thế nào?
Giamin đặt va li xuống đất, mỉm cười sung sướng nói:
- Hãy từ từ, một lúc nói hết thế nào được. Để mình trả lời từng câu một.
- Cậu ấy nói nghe buồn cười thật… - Valia nói nhỏ vào tai bạn. Cứ như là hát ấy. Và trông người cũng buồn cười thật…
Tamara phật ý nhưng không để lộ ra ngoài.
Còn Giamin thì sung sướng kể việc mình chờ xe điện thế nào. Hai cô gái cười to vui vẻ:
- Tamara, chính cô nhân viên đường sắt đã bảo mình tới Mátxcơva sẽ gặp may đấy!