Bảo Thư theo thân mẫu xuống thuyền vào một buổi sáng để trở về Võ Đang Sơn. Mẫu thân nàng, Vương phi, Vân Hạc và Hoài Nam phải dỗ dành mãi nàng mới chịu theo về . Hân phu nhân ôm con gái, lau những giọt nước mắt trên đôi gò má xanh xao của nàng, bà dịu dàng nói:
- Mẹ chỉ có một mình con là gái, chẳng lẽ con lại không thương mẹ. Chính vì con, mẹ đã vạn dặm lặn lội về đây... Con đừng sợ, cha. con tuy nghiêm khắc, nhưng ông yêu thương con hơn cả chính thân ông. Việc con bỏ ra đi, cha con tuy có buồn giận thật, ông tủi hổ và đau xót; nhưng nếu con không muốn lấy chồng, cha mẹ cũng không ép con làm gì.Ngày xưa, mẹ mười lăm tuổi đã về làm vợ cha con, và mẹ đã sống hạnh phúc. Mẹ biết hạnh phúc không thể tìm mà có, muốn mà được. Nhưng hạnh phúc cũng tự mình mà ra, do duyên nghiệp mà nên; lựa chọn, tìm kiếm làm thế nào được!
Vương phi hiểu nỗi buồn của Bảo Thư, nỗi buồn giấu kín ấy bà hiểu là vì sao, Vương phi nói:
- Phu nhân nói thế là đúng lắm. Khi xưa Đức Thế Tôn, vì chúng sinh trầm luân trong cõi Ta bà, Người rời bỏ ngôi báu, thê nhi, quyết tìm ra con đường để cứu độ chúng sinh, Người nói: Sắc tức thị không, không tức thị sắc, vô tướng, vô tâm, vô sinh, vô diệt, chẳng qua dạy cho ta thấy cái phù du của một đời người. Đời người tuy ngắn mà dài, tuy dài mà ngắn, nào có gì đâu! Hạnh phúc, hoan lạc có giới hạn, mà đau khổ thì vô bờ. Bảo Thư, ta thương con lắm, ta hiểu con. Ta mong con hạnh phúc, nghĩa là con hãy quên đi hết mọi điều, tìm cho mình sự thư thái. Rồi hạnh phúc sẽ mở ra trong tận cùng nổi đau buồn mà mình gánh chịu. Cuộc đời có muôn ngàn mặt, điều ta tưởng rằng là châu ngọc, muốn giữ lấy, nhưng rồi chỉ toàn là nước mắt. Con hãy nghĩ lời ta nói, vì ta hiểu lòng con, Bảo Thư!
Hoài Nam ôm lấy Bảo Thư:
- Bảo Thư không thương Hoài Nam hay sao mà không muốn cùng Hoài Nam về thăm Võ Đang, thế là lẽ gì vậy !
Vân Hạc nào biết nỗi buồn u uẩn trong lòng em gái, tưởng Bảo Thư ngại ngần vì đã làm buồn lòng Gia phụ, chàng an ủi khuyên giải mãi, Bảo Thư đành phải đổi buồn làm vui.
Theo những lời căn dặn của Nguyên Huân, Vương phi tỏ bày ý muốn, chuyến đi theo Hân phu nhân về thăm Võ Đang Sơn bằng phương tiện hải trình, Dương Vương vui vẻ bằng lòng ngay, ra lệnh trưng dụng một chiến thuyền cùng một đội thủy thủ tâm phúc để đưa gia đình ông về Nam. Chiến thuyền được thiết trí lại toàn bộ thành một chiếc du thuyền lộng lẫy, đầy đủ tiện nghi. Vì thế chuyến lên đường phải hoãn lại cả nửa tháng. Thuyền được lệnh đậu sẵn ở cửa bìển Lữ Thuận.
Mọi người bắt đầu chuyến đi trên một con thuyền nối trước và sau là bốn chiếc thuyền của quân binh đi theo hộ tống, cả đoàn xuôi theo dòng sông mất gần nửa tháng mới đến cửa Lữ Thuận. Thuyền bè san sát đậu, biển mênh mông tít tắp.. Lần đầu tiên được nhìn thấy biển cả bao la, ai cũng thấy e ngại trong lòng. Trần Thế Kiệt, viên võ quan thu quân được chỉ định làm thuyền trưởng này là người tâm phúc của Dương Vương, ông nhìn thấy nét lo âu của mọi người trấn an:
- Bẩm Vương phi, và Phu nhân, con thuyền này vốn tiền thân là một soái thuyền được tu sửa, nên sẽ không có gì đáng lo ngại cho việc hành trình, tiểu tướng sẽ cho chạy gần bờ, Vương phi , Phu nhân, cùng Quận chúa và các vị Công nương, Công tử hãy an tâm.
Trần Thế Kiệt là con trai của Trần Trí, hiện đang sung giữ chức Tổng binh, chỉ huy quân Minh, đang xâm lăng Đại Việt. Vốn là tay chân, phe cánh, nên Dương Vương mới trao cho y trách nhiệm đưa vợ con, thân thuộc về Võ Đang Sơn. Võ công của y cũng vào loại không thể xem thường, cộng với lòng trung thành, nên y được Dương Vương có phần biệt đãi. Mọi chuyện, mọi tin tức của chốn Triều đình y đều biết rõ. Y kể cho hai anh em Vân Hạc việc Minh Thành Tổ vừa băng hà trên đường từ biên ải lai kinh, Nhân Tôn lên ngôi, cũng như sự việc Dương Tiêu thân lãnh năm ngàn quân kỵ, một số bộ binh cùng hai trăm tướng binh, cao thủ đi tiểu trừ bọn đại phái võ lâm đang mở Đại hội. có mời đích danh Dương Vương tại Lăng Hoa Cương ở Hà Nam.
Được tin này, Bảo Thư hết sức lo lắng cho phái Võ Đang của cha, và nhất là sự an nguy cửa Nguyên Huân. Nàng phải lên đường, phải báo tin ngay cho mọi người đang tham dự Đại hội. Mọi người đang lâm nguy, nàng không thể không cứu. Nàng không muốn Ngoại tổ của nàng phạm thêm tội ác gây thêm nợ máu với võ lâm đồng đạo. Nàng để thư lại cho Mẫu thân, cho Vân Hạc lý do nàng ra đi.
Nửa đêm, Bảo Thư lén rời thuyền lên bờ, vào thị trấn biển tìm mua ngựa, rồi một thân, một kiếm lên đường. Đường từ Lữ Thuận đến Lăng Hoa Cương xa hơn từ Yên Kinh tới. Bảo Thư đến trễ. Máu mọi người đã đổ, và tính mạng của Dương Tiêu, Ngoại tổ nàng - tấm thân già ngập nợ máu đang đợi chết dưới tay Nguyên Huân...
Dương Vương đã được tha chết, Bảo Thư mang lệnh bài của ông triệu tập đám quân binh còn lại. Nàng cẩn trọng giao Ngoại tổ cho bọn họ đưa ông về Yên Kinh. Bọn quân binh bị một trận ong đốt dữ dội, trong lòng còn đầy hoảng hốt, mặt mũi sưng vù nhức nhối. Một trận đánh, một đoàn quân trở về thảm hại.
Quang Minh Tả sứ Pháp Minh Dương Vương đã không về tới Yên Kinh. Trên đường trở về, một đêm, ông đã âm thầm bỏ ra đi; từ đó về sau, không còn ai trông thấy, không còn nghe nói đến ông nữa...
***
Khu vực Lăng Hoa Tự đêm ấy, đèn đuốc được đốt sáng rực, Giáo chúng Ngũ Hành Kỳ đã dọn dẹp sạch những vết tích của trận chiến để lại. Những người chết được chôn cất tử tế đa số người bị thương tích đưa vào dãy nhà sau, Trường Cung Hoa kế thừa nghề y dược của cha, chàng tận tình săn sóc, chữa trị không ngơi tay. Trước khi một đại tiệc được mở ra, ăn mừng ngày giang hồ lặng sóng, Viên Nhẫn Phương trượng niệm kinh giải oan cho những người vừa khuất bóng. Minh giáo thắp hương tưởng niệm số giáo đồ đã hy sinh.
Tiệc được đặt ra giữa sân chùa rộng bát ngát dưới ánh trăng thu trải vàng lên vạn vật. Mọi người tuy mừng vui, hoan hỉ, nhưng vẫn không giấu được nổi buồn kẻ còn người mất, như một thoáng chiêm bao.
Bảo Thư âm thầm ngồi lặng lẽ riêng một góc, ngước mắt nhìn bóng trăng vằng vặc giữa trời, cơn phiền não trong nàng dần như dịu đi. Đứng lên, Bảo Thư hướng về căn phòng nhỏ nằm trong dãy nhà phía sau chùa, nàng bước vào, lẳng lặng đến trước mặt Tâm Hư sư thái sụp lạy...
Khi Chu Chỉ Nhược lên Nga Mi Sơn, người Sư tỷ của nàng là Kỷ Hiểu Phù đã lớn, còn nàng chỉ mới là một cô bé lên bảy. Từ đó đến nay thoắt đã năm mươi năm qua, bà không hề được biết mặt người Sư tỷ bất hạnh kia; đến khi lớn lên, bà thường được nghe các ni sư đồng môn lén lút, thầm thì nhắc đến cái chết đau đớn của Kỷ sư tỷ. Sư phụ bà, Diệt Tuyệt sư thái, đã tự tay giết chết người môn đệ mà bà thương yêu nhất. Chính Mẫn Quân sư tỷ đã kể lại cái chết tức tưởi của người con gái bất hạnh ấy. Vì vậy, nó ảnh hưởng đến bà không nhỏ.
Chu Chỉ Nhược đã yêu Trương Vô Kỵ ngay lần đầu gặp lại Khi Thường Ngộ Xuân thúc thúc dẫn bà ra đi, trao bà cho Trương Chân nhân và nhận Vô Kỵ đem đi chữa bệnh. Mười ba năm kể từ lần chia tay nơi bến sông ấy, thế mà khi gặp lại, bà nhận ra ngay, chú bé tám, chín tuổi năm xưa nào, giờ là một chàng trai tuấn tú, thông minh nhưng có phần xanh xao...
Bây giờ đây, Bảo Thư, cháu ngoại của Kỷ sư tỷ đang lạy chào bà với gương mặt đầy muộn phiền. Chỉ một liếc mắt, Tâm Hư sư thái hiểu ngay nỗi u uẩn nào trĩu nặng trong lòng người thiếu nữ... "Thư tỷ cũng ao ước được ghét bỏ Huân đệ lắm chứ! Thà ghét bỏ, thù hận mà hơn..."
Gần bốn mươi năm trước, bà cũng đã từng ao ước như thế, đã tỏ ra vẽ như thế, để che đậy nỗi đớn đau vò xé lòng bà. ôi, tình yêu oan nghiệt, mỗi người mỗi cảnh, chẳng ai giống ai; nhưng nỗi đớn đau thì bao giờ chẳng thế? Sư thái xót thương cho Bảo Thư, cho chính mình, cho Sư phụ, cho Tổ sư Quách Tường, người khai sáng ra Nga Mi phái.
Nguyên Huân đã trao cho bà thanh Ỷ Thiên kiếm trong lúc mọi người đang quần tụ quanh các bàn tiệc. Ngôi cổ tự đã được giáo chúng Minh giáo tu sửa lại trước ngày Đại hội. Bàn thờ Phật phảng phất hương hoa, Sư thái kính cẩn thắp nhang cắm vào lư đồng. Sau lưng bà, Bảo Thư cúi đầu quỳ gối, im lặng.
Buổi tối, khi Bảo Thư xin bà thí phát cho nàng quy y, ước muốn được nương bóng Thiền môn, lấy câu kinh tiếng kệ để lãng quên cõi trần tục đa đoan, bà đã nhìn sâu vào mắt nàng và nói: "Không câu kinh tiếng kệ nào tiêu trừ hay giải thoát mọi nỗi đau khổ của chúng sinh, không thể giải thoát cho con, cho ta được. Chỉ có chính bản thân mình, chính tâm mình, mới giải trừ cho chính mình mà thôi.."
Sư thái nhớ lại chính bà, suốt bốn mươi năm, giờ đây tâm nguyện của ân sư mới được hoàn thành, bà mới giải được lời thề độc ngày cũ. Nhưng bốn mươi năm trôi qua ấy, đã qua hết một đời người, lời thề được giải, nhưng bà chẳng còn lại gì ngoài chân tóc đã bạc, với tấm lòng héo hắt. Bà nhìn lên đôi mắt, nụ cười, khuôn mặt tự tại của đấng giải thoát bỗng như xóa sạch mọi ngõ ngách của cơn mê, cõi lòng Sư thái bỗng dưng thanh thoát. Bà quay lại, Bảo Thư vẫn quỳ sau lưng, tay chắp ngang ngực. Sư thái thương cảm nói:
- Bảo Thư ạ! Con hãy suy nghĩ kỹ đi, nếu đây chỉ là nhất thời trong lúc lòng con phiền não, sự thí phát quy y phỏng có ích gì!
Bảo Thư ngậm ngùi thưa:
- Bạch Sư thái, ý con đã quyết từ lâu. Cuộc trần ai hiu quạnh lắm, chỉ làm cho con chán chường mọi nỗi. Xin Sư thái thương xót lấy con!
- Bảo Thư, ta nói thật cùng con rằng, Thiền môn không phải là nơi trốn chạy, chẳng phải chỗ ẩn mình; mà nơi ấy sẽ cho con nhìn thấu cõi vô minh, Phật pháp sẽ soi tỏ cho con mọi điều; tất cả như giấc mộng, mọi thứ đều là không, để rũ hết bụi trần. Từ đó, chính con mới giải thoát cho mình được, mới an nhiên, mới thanh thản! Ta thương xót con, cũng như ta từng thương xót ta. Nếu đã là tâm nguyện của con, ngay bây giờ ta sẽ thí phát cho con, con đã sẵn sàng chưa?
- Bạch Sư thái, con đã luôn luôn sẵn sàng!
- Vậy thì, con hãy nghe ta nói: Nhục thể ta chỉ là một túi da nhơ bẩn, mỗi sợi tóc là một dây oan trói buộc ta trong chốn ngục hình bằng những sợi dây của tham, sân, si, của thất tình lục dục. Khi diệt được nó đi, linh hồn ta sẽ bay bỗng, tuệ trí ta sẽ sáng ngời. Nhưng muốn diệt được nó, ý thì không thể thành, tâm thì dễ động; tâm mà động thì bão tố nổi lên, thuyền ắt phải lênh đênh vùi dập... Bể khổ mênh mông, quay lại là đến bờ, ấy là biết vượt cái mê, về bến giác, con có hiểu không?
- Thưa con đã lấy cái tâm mà hiểu...
Tâm Hư sư thái dịu đàng:
- Không đâu con, không có gì ép mà được, cố mà nên, hãy để nó thuận theo dòng. Gượng vui thì buồn thêm, gượng quên lại càng nhớ. Con hãy nhớ điều ấy!
Cả hai quỳ trước bàn Phật. Bảo Thư phục mình xuống đất: "Lạy đức Thế Tôn, lạy mẹ Quan Thế Âm cứu khổ, xin phù trì cho linh hồn con yên nghỉ, xin cho con vượt qua cơn mê muội, để bình yên nơi Bến Giác.."
Sư thái cũng âm thầm khấn, xong, bà đứng dậy; trên tay bà, một thanh trủy thủ ánh thép xanh như nước, bà nói:
- Nam Mô A Di Đà Phật, xin cứu độ chúng sinh. Bảo Thư, Sư phụ thí phát cho con!
Từng sợi tóc mây rơi xuống lả tả, nước mắt Bảo Thư ràn rụa . Tâm Hư sư thái bỗng ngẩng đầu lên, bà nhìn thấy Nguyên Huân vừa bước vào Phật điện. Chàng sững người, kinh ngạc lẫn sợ hãi. Chạy đến bên Tâm Hư sư thái, Nguyên Huân thoảng thết kêu lên:
- Bảo Thư... Thư tỷ...
Một nửa mái tóc đã rơi xuống vai, xuống nền đất, nghe tiếng gọi vừa thoảng thết lẫn xót thương, đau đớn của Nguyên Huân, Bảo Thư rùng mình, song sau đó, gương mặt nàng chợt rạng rỡ:
- Huân đệ, hãy lại đây cùng chị! Giờ phút này đối với chị thiêng liêng là dường nào. Hãy lại đây, chung cùng với chị niềm vui này!
Nàng ngước lên nhìn Sư phụ:
- Bạch Sư phụ, xin cho Huân đệ của con thí phát cho con bên mái tóc còn lại này có được không?
Tâm Hư sư thái ngần ngừ một lát, rồi gọi:
- Trần thí chủ, hãy lại đây!
Nguyên Huân bước lại gần, Tâm Hư sư thái đưa con dao cho chàng nói:
- Bảo Thư muốn thí chủ giúp cho Báo Thư nửa mái đầu còn lại.
Nguyên Huân run rẩy xúc động cầm lấy con dao. Bảo Thư nói, giọng nàng hiền hòa, ôn nhu:
- Huân đệ, em hãy vui cùng chị, giúp chị thanh tẩy, để chị được yên lòng trong quãng đời tu hành. Hãy cất đi giùm chị, bởi mỗi sợi tóc là một nỗi khổ đau, mỗi sợi tóc là sợi dây trói buộc đời người, treo đời chị vào vực thẳm của tăm tối Hãy làm theo lời chị , một ước muốn cuối cùng chị có thể... Ôi Huân đệ của chị, Trời Phật độ trì đã khiến em đến cùng chị, chị chỉ còn mong ước có thế...
Giọng Bảo Thư nhỏ nhẹ, trầm tĩnh. Sư thái biết lòng nàng như dao cắt. Sự trầm tĩnh ấy chỉ là trạng thái của một tâm hồn đầy ắp nỗi đau.
Nguyên Huân đưa bàn tay vuốt lên mớ tóc mây. Bảo Thư rùng mình, nàng nhắm mắt lại. Nguyên Huân để rơi từng giọt nước mắt thương cảm lên mái tóc nàng, thấm xuống vai nàng; như có một phép màu, cõi lòng Bảo Thư dường ấm lại dịu đi và gương mặt nàng thanh khiết như một đóa sen. Nguyên Huân run run nói:
- Vâng... vâng... em xin chia vui cùng chị, em vâng theo lời chị, Bảo Thư yêu quý của em!
Đường dao mát lạnh da đầu nàng, mái tóc mây vĩnh viễn giã từ Bảo Thư. Nhắm mắt, lệ ứa mi, Bảo Thư thì thầm:
- Nguyên Huân, cảm ơn em!
Nguyên Huân cúi xuống thu nhặt mớ tóc của Bảo Thư gói lại, giữ nó trong tay và đứng lặng. Trên bàn Phật, mùi hương trầm ngào ngạt, ánh nến lung linh...
Tâm Hư sư thái phá tan sự yên lặng:
- Bảo Thư, con hãy đứng dậy, nghe ta nói đây!
Bảo Thư đứng lên, khuôn mặt nàng trang nghiêm, đôi mày cong vút hạ xuống, chắp tay, cúi đầu. Sư thái nói:
- Con hãy sang đây !
Bảo Thư theo Sư thái qua bàn thờ Tổ sư. Bà nhìn nàng:
- Ta đặt pháp danh cho con là BẢO THƯ, nghĩa là không thay đổi gì. Cuốn sách quý, ta mong vậy thay! Lát nữa đây, con sẽ đi cùng ta, sẽ rời bỏ chốn bụi trần bão lốc nay về một nơi thanh tịnh. Ta muốn thu nhận con làm đệ tử chân truyền Y Bát. Vậy con hãy làm lễ trước Linh vị Tổ sư, như Ngoại Tổ mẫu con, trên sáu mươi năm trước, đã hành lễ này!
Bà thắp sáu nén nhang, trao cho nàng ba cây, bà quỳ xuống khấn:
- Đệ tử là Chu Chỉ Nhược, Thái Chưởng môn đương đại, và là Chưởng Môn nhân đời thứ ba của Nga Mi phái, nay khấu đầu trước Tổ sư khẩn cầu, cho phép đệ tử thu nhận vị sư nữ nhỏ bé này làm môn đệ. Đệ tử tuyên đọc Môn quy bản phái, xin Tổ sư chứng giám lời thệ nguyện của tân môn đồ của Người.
Bà đứng dậy, quay lại Bảo Thư quỳ sau lưng, nói:
- Nay trước Linh vị của Đấng sáng lập môn phái, ta thừa mệnh người xưa, nhân danh Chưởng Môn nhân đời thứ ba của Nga Mi, thu nhận Hân Bảo Thư làm đệ tử chân truyền đời thứ tư Bảo Thư, con hãy lắng nghe Môn quy, và hãy thề trước Linh vị Người, nghiêm giữ Môn quy bản phái.
- Con xin vâng lời dạy!
Đợi Bảo Thư làm lễ xong, Sư thái trao cho nàng chiếc tăng bào của bà và xâu chuỗi bồ đề, bà khoác chiếc áo tu hành lên vai Bảo Thư, dịu dàng ôn tồn nói:
- Ta chúc con hoàn thành ý nguyện, ta tặng con hai câu thơ nầy:
"Trăng sáng núi cao, lòng tựa gió.
Nghìn năm tụ giữa hạt sương trong..."
Ngay đêm nay, cùng ta trở về nơi thanh tịnh. Lẽ biến thiên của ngàn năm, của đời người là thoáng chốc, trôi qua và tụ lại, trong suốt như giọt một sương mai... Tạm biệt Trần thí chủ, trước bàn thờ Tổ sư bản phái, bần ni xin được nói lời thâm tạ, từ nay, nếu thí chủ có điều gì cần đến, Nga Mi phái dẫu bước chân vào lửa đỏ, nguyện không dám từ nan!
Bảo Thư ngước mắt nhìn Nguyên Huân, phân vân một chút, rồi ôn nhu nói:
- Huân đệ, xin Huân đệ thưa lại với Mẫu thân cùng Thân phụ bần ni, Bảo Thư từ nay đã tìm được niềm an lạc. Bần ni chúc Huân đệ mọi điều như ý. Thôi, vĩnh biệt!
Nguyên Huân không biết nổi sao, chàng lặng lẽ đứng im, nhìn theo Tâm Hư sư thái và Bảo Thư âm thầm ra đi, không từ giả một ai. Trời đêm đã khuya, tiệc mừng chưa tàn. Trăng vành vạnh trên đỉnh trời cao, sương mù trên cánh rừng phía xa, thấm lạnh vai áo người đi...
Đường về đất Mẹ xa xôi quá
Thương nhớ lòng riêng tận cuối mây.
Sáng hôm sau, giang hồ hào khách lần lượt từ tạ lên đường. Nguyên Huân khiêm nhường tiễn đưa từng người. Ai ai cũng muốn được cùng chàng kết giao. Nguyên Huân được mọi người yêu kính bởi chính phẩm cách của mình. Và từ đó tên tuổi Nguyên Huân vang khắp võ lâm Trung Nguyên; mọi người kể về chàng, nói về chàng do lòng yêu mến nể vì chứ không phải vì úy kỵ, người thì gọi chàng là Thiên hạ đệ nhất nhân, Nam thiên đệ nhất kiếm, nhưng với chàng, chàng chỉ là một phần thân thể của Tổ quốc Đại Việt.
Khi mọi người phần lớn đã ra về, chỉ còn lại một số quan khách đặc biệt ở lại do lời mời của Phạm Hữu sứ, để bàn bạc về sự ổn định, và hàn gắn vết thương của võ lâm Trung Nguyên do Dương Tiêu gây ra. Và chàng, là người được yêu mến mời chào một cách trân trọng.
Sau khi mọi việc đã được bàn bạc, Viên Nhẫn đại sư, cùng mười tám vị Kim Cương La Hán, trước khi lên đường về Thiếu Lâm Tự, đôi ba lần, hẹn mời chàng ghé thăm núi Thiếu Thất. Phương trượng nói:
- Thiếu hiệp, phong cách và tấm lòng rộng dung của Thiếu hiệp khiến cho bần tăng hết lòng kính mến. Thiếu Lâm Thiền môn mong có ngày mở rộng cửa để đón tiếp Thiếu hiệp!
Dư Chân nhân, Chưởng môn Võ Đang buồn bã bảo chàng:
- Hiền điệt, việc Bảo Thư xuống tóc quy y, riêng ta đó là đại phúc, nhưng vợ chồng Lục đệ ta chắc sẽ buồn lắm. Ta mong có ngày con trở lại Võ Đang Sơn. Ta cũng đã già lắm rồi, chẳng còn bao lâu nữa, ta mong mỏi ngày con trở lại!
Bọn Võ Đang Thất kiếm vây lấy chàng, bịn rịn không rời. Nguyên Huân hứa với họ ngày nào, khi đất nước chàng thoát khỏi ách đô hộ, chàng sẽ trở về núi Võ Đang thăm viếng. Tiêu lão anh hùng bảo chàng:
- Nguyên Huân, mọi việc đã xong, ngươi có về Mộc Châu không?
- Nghĩa phụ, con mong ngày đêm được trở về quê hương...
Tiêu Đại Hùng cười nói:
- Ta cứ nghĩ ngươi không còn nhớ đến Uyển Thanh nữa chứ. Chỉ sợ có vị cô nương nào buộc tóc vào cổ chân ngươi rồi! Lần này, còn lâu lắm ta mới gặp lại ngươi và Nhạc phụ ngươi đấy !
Nguyên Huân chộp lấy bàn tay ông:
- Nghĩa phụ còn phải đi đâu? Xin hãy trở về cùng con!
Vẻ mặt Tiêu Đại Hùng bỗng dưng có đám mây che phủ, ông buồn bã nói:
- Việc khôi phục lại Tổ quốc cũ của ta, nay không còn một chút hy vọng. Hai trăm năm đã trôi qua, lòng người mấy ai côn nhớ đến cố quốc! Chuyến này, ta theo Điền tứ thúc của ngươi sang Phù Tang một chuyến, không biết ngày nào trở lại. Điền Hoành Thứ Lang nói:
- Trần hiền điệt, ta với Nhị ca mới từ Đại Việt về cùng với Đại ca ta và Nghĩa phụ con. Đất nước ngươi đang chuyển mình, đang cần đến tấm thân vũ dũng của ngươi. Ta đã cùng Đại ca, Nhị ca, tế mộ Tam ca và Thất, Bát đệ. Ta rất vui mừng có ngày hôm nay! Lần này ta mời cả Đại ca ta về quê hương ta một chuyến, chúng ta già cả rồi, chỉ mong sao con cháu nên người hữu dụng. Trong đời còn lại, chắc gì gặp lại con lần nữa, đó là lẽ thường tình!
Hoạt Phật đại sư cười nói:
- Chúng ta đã trót sinh ra trong gió bụi, thì phân ly cũng là chuyện bình thường, Tứ đệ lưu luyến làm chi; nay Tam đệ có người nối dõi anh hừng như thế, chúng ta cũng được thơm lây!
Thiên Hư đạo trưởng giọng cảm khái:
- Lục đệ, Tam đệ và Thất, Bát đệ an thần ở phương Nam. Tiểu đệ, Đại ca và Tứ, Ngũ đệ phiêu hết nơi phương Bắc; Bát Đại Danh gia chúng ta một thời oanh liệt. Từ nay nhìn Nam Tào, Bắc Đẩu là thấy nhau. Huân nhi, có phải thế không?
Tiêu Đại Hùng nói:
- Huân nhi, ta quên chưa nói lại cho ngươi biết, một năm sau ngày ngươi ra đi, ngôi nhà cũ đã không còn ở được, Nhạc phụ và Uyển Thanh ngươi phải đến Gia Hưng tá túc với Xa Khả Tham " Xích Y Nghĩa quân thủ lĩnh". Uyển Thanh tham gia chiến đấu trong hàng ngũ nghĩa quân, lập được nhiều chiến công, nhưng... Thôi, dài dòng làm chi...!
Khi ta và Hoạt Phật đại ca rời Đại Việt, thì Đoàn Nhạc phụ ngươi có nói với ta sẽ trở về nơi căn nhà cũ bên Vân Mộng Hồ. Nếu có về, cho ta, cho chúng ta gửi lời chào y. Nay y và vợ con sẽ sum họp một nhà, ta cũng tiếc là không có mặt. Thôi bọn ta đi đây!
Hôm Nguyên Huân lên đường xuôi Nam, toàn bộ chức sắc và giáo chúng Minh giáo đưa tiễn đến ngoài hai mươi dặm, tất cả đều tỏ ra quyến luyến. Trương Cung Hoa luôn sánh bước bên chàng, tình bạn cao quý của đôi bằng hữu anh hùng theo thời gian, ngày càng sâu đậm.
Phạm Dao lúc chia tay với Nguyên Huân, ông nói:
- Minh giáo đã quyết định chọn Lăng Hoa Cương làm Tổng Đàn để nhớ mãi những giờ phút nguy nan. Có được ngày hôm nay, ân đức của Thiếu hiệp đối với bản giáo thật là quá trọng. Mong một ngày nào, Thiếu hiệp ghé thăm, Minh giáo chúng tôi nặng lòng chờ đợi!
Nguyên Huân vòng tay tạ từ nói:
- Xin Hữu Sứ đừng nói như thế! Tấm thân của vãn bối còn có ngày hữu dụng chính là nhờ Hữu Sứ và Giáo chủ đã ban cho, dẫu có nát thân cũng chưa báo đáp được muôn một!
Chàng nói xong, cung mình vái chào tất cả rồi tung người lên mình ngựa. Chạy được một quãng xa, quay nhìn lại, thấy giáo chúng của Minh giáo vẫn đứng im nhìn theo cho đến khi cây rừng che khuất...
Từ Lăng Hoa Cương, Nguyên Huân trở về Tuyệt Tình Đàm. Nghĩa mẫu thấy chàng trở về, bà mừng rơi lệ:
- Mấy đêm rồi mẹ nằm mơ thấy con. Mẹ cứ nghĩ chuyến này con ra đi, phải lâu lắm mẹ mới gặp lại được con!
Nguyên Huân mang tất cả những sự việc chàng trải qua kể lại. Dương Qui Loan ôm lấy cánh tay chàng, thần thái., rạng rỡ:
- Thế là từ nay trong giới võ lâm Trung Nguyên con vang danh, mà còn...
Nguyên Huân gạt đi, nói:
- Mẹ, có phải con muốn vung kiếm lập danh đâu, con chỉ vì bổn phận, vì nghĩa vụ, vì trọng trách, con không nghĩ gì khác ? Nghĩa vụ lớn hơn còn chờ con ở quê nhà. Mẹ ạ, không biết Nội tổ, khi biết con tha chết cho Dương Tiêu, người có trách mắng không?
- Mẹ nghĩ là không đâu! Cái sống, cái chết, đối với một người đã dấn thân vào chốn giang hồ nào có đáng kể. Nay y thân tàn ma dại, võ công chẳng còn, người đời khinh thường xa lánh, như thế chết còn hơn sống, một kiếp sống thừa đầy tủi nhục. Con xem, đối với một nhân vật quyền khuynh thiên hạ như y, thì có hình phạt nào đau đớn hơn nữa ! Con đã rửa được mối thù cho hai họ Dương, Trần một cách xứng đáng, mà vẫn được tiếng là nhân hậu, rộng lượng, làm sao mà Lão nhân gia lại trách cứ con được!
Quả đúng như lời Nghĩa mẫu, Dương lão gia nói:
- Ngươi quả xứng đáng với lòng kỳ vọng của ta. Con đã hài tội y một cách minh bạch, phế hủy võ công, tha chết cho y như một con chó ghẻ . Hương hồn con ta từ nay đã được rửa hờn, và ta, ta cũng thấy cuộc sống của ta cũng là quá đủ !
Nói xong, ông cất tiếng cười, tiếng cười dường xô dạt mái ngói, xao xác chim muông, vút tận trời cao, cao mãi, rồi bỗng dưng dừng lại đột ngột: Dương Qui Loan hết hoảng nhận ra ông đã viên tịch. Dương lão nhân đã sống dài hơn hai lần người khác. Ông chết trong tiếng cười thanh thỏa, hào sảng và bình yên, như một người trở về quê thật của mình. Lão nhân được an táng trong một thạch động nằm ẩn sâu dưới đáy Tuyệt Tình Đàm, nơi ngày xưa, Thần Điêu Hiệp Lữ Dương Qua đã đến đây tự trầm, nhưng đã tìm lại được người mà ông suốt đời yêu dấu, trong lòng thạch động thần tiên này. Từ đó, những người trong họ Dương lìa trần được an táng nơi đây, với tất cả kỷ vật trong suốt đời họ. Nơi này, vì thế được xem như một thánh địa.
Hai mươi ngày sau cái chết của Dương Long Điêu lão nhân, Dương Qui Loan thấy nghĩa tử của bà có vẽ bồn chồn, đứng ngồi không yên, bà gọi Nguyên Huân đến, nói cùng chàng:
- Con ạ ! Mẹ biết con còn nhiều nghĩa vụ với đất nước con, mẹ biết lòng con xốn xang, trăn trở lắm, mẹ thấy con không cần chờ đủ thất tuần của Thái gia nữa con ạ. Chúng ta là những người của võ lâm, không nên câu nệ tiểu tiết. Mẹ chỉ mong, khi thành toàn nghĩa vụ, con sớm trở về thăm mẹ. Mẹ không có quyền giữ con lâu hơn một ngày, khi đất nước con còn đang điêu linh, tổ quốc Đại Việt của con còn trong vòng xiềng xích!
Suốt đêm hôm ấy, hai mẹ con ngồi dưới gốc mai già, bà dặn dò từng chút; Nguyên Huân nhìn Nghĩa mẫu tràn ngập thương yêu, chàng hứa với bà, một ngày đất tổ phương Nam sạch bóng quân Minh, chàng sẽ quay trở lại...
Mờ sáng hôm sau, chàng lên đường theo ngã Nam đạo. Xuyên qua khỏi thác nước, Nguyên Huân trở về chốn cũ. Chiếc khăn chàng bỏ quên trên một nhánh cây vẫn còn đấy, nhưng theo thời gian mưa nắng đã mục nát. Bốn năm đã trôi qua, kể từ ngày chàng tình cờ bắt gặp thanh Trủy Thủ của nhà họ Dương bên bờ thác. Bốn năm trôi qua như một giấc mộng. Bao nhiêu điều đã xảy ra, bao nhiêu gian lao, hiểm nguy. Và chàng, bằng tấm lòng và ý chí, chàng đã vượt qua và đạt được trọn vẹn những ước mơ, mong mỏi.
Giờ đây, trên con đường ngược về đất tổ, lòng chàng nôn nao như đang đi đến chỗ hẹn với người yêu... Nguyên Huân mĩm cười khi so sánh điều ấy, vì rằng Tổ quốc chàng đang chờ chàng, và... và... cả Hoài Nam cũng đang chờ chàng...
Nguyên Huân ngậm ngùi nhớ đến Bảo Thư, những hình ảnh cũ sống dậy trong lòng. Mớ tóc mây của Bảo Thư, chàng đã đưa lại cho nàng trước lúc giã từ:
- Thư tỷ, đây là mái tóc của chị, chị hãy giữ lấy, dẫu sao cũng là một phần đời chị đã đi qua; dẫu đắng cay, dẫu hạnh phúc, cũng là một khoảng đời chị đã sống, như một tiền kiếp!
Hoài Nam sẽ buồn biết mấy, vì chàng biết Hoài Nam rất yêu quý Bảo Thư, nhưng mỗi người một cảnh đời, một kiếp nghiệp, làm thế nào khác được.
Nguyên Huân tìm đến nhà lão tiều phu, ông lão nhận ra chàng ngay, vồn vã lão nói:
- Ái chà, sao công tử đi lâu quá vậy? Con ngựa vẫn còn khỏe mạnh lắm!
Nói xong lão chạy ra nhà sau dắt ngựa lên, con Hoa Tâm nhận ra chàng, nó hí lên tỏ vẽ mừng rỡ. Bốn năm gặp lại lão tiều đã già đi nhiều. Cuộc đời như dòng nước, chảy càng lúc càng xiết. Nhìn căn nhà lụp xụp, hoang lạnh, chàng ân cần hỏi ông:
- Gia đình đi đâu hết cả rồi?
Lão tiều buồn bã trả lời:
- Năm ngoái, trời làm hạn hán, đói kém, lại thêm giặc giã, trộm cướp, dân tình đói khổ, gia đình lão phải ly tán mỗi người mỗi ngả kiếm sống qua ngày, Tiện nội không kham nổi đã qua đời!
- Sao lão trượng không bán con ngựa này để độ nhật?
Lão tiều trợn mắt:
- Công tử nói gì vậy! Công tử giao cho lão chăn giữ, có phải của lão đâu mà lão dám tùy tiện!
Nguyên Huân xúc động vì tấm lòng chân chính của lão tiều già nghèo khổ, chàng nói:
- Đây là một con ngựa, bề ngoài rất bình thường, nhưng nó thuộc loại ngựa kỳ, ngựa ký, Bạch Long Câu đấy. Lão trượng chăm sóc được đến nay, vãn bối cảm ơn lắm!
Nói xong chàng lấy ra một thỏi vàng, chừng trên mười lượng, và một viên ngọc, đưa bằng hai tay chàng nói:
- Tấm lòng của Lão trượng thật đáng quý, giữa lúc lòng người điên đảo, băng hoại, Lão trượng vẫn giữ được sự ngay thẳng, trong sạch. Có nhân tất có quả. Vãn bối gọi là cũng có chút lòng, không dám nói là trả công, mà là kính biếu Lão trượng chút đỉnh. Viên ngọc này cũng khoảng trăm lượng vàng ròng, xin Lão trượng nhận lấy, quần tụ gia đình lại!
Lấy thêm trong bọc ba viên ngọc nữa, chàng đưa cho lão tiều, nói:
- Ứớc vọng của văn bối thì lớn, mà cánh tay thì quá ngắn, xin Lão trượng nhận thêm ba viên này, chẳng là bao, nhưng vãn bối xin Lão trượng, vì nỗi khốn khổ của dân chúng trong sơn thôn này, tùy nghi trợ giúp cho họ, để gia đình được đoàn tụ, một ngày nào đó vãn bối sẽ trở lại thăm viếng Lão trượng!
Lão tiều họ Hạng run run đỡ lấy món quà tặng, cảm động nói :
- Công tử, xin công tử cho chúng tôi được biết Thần danh, để đời đời ghi nhớ!
Nguyên Huân cười bảo:
- Xin đừng bận tâm điều ấy, vãn bối người họ Trần ở phương Nam, nơi ấy cũng thống khổ lắm. Lão trượng ở lại bình an, vãn bối xin kiếu từ!
Nói xong chàng lên ngựa, phóng nước đại, đi thẳng...
Nguyên Huân đến Nam kinh vào những ngày đông giá. Chàng đã xa rời đất tổ bước qua năm thứ bảy. Mùa đông này, cũng là một mùa đông của bảy năm trước, ngày chàng ra đi. Hình ảnh Uyển Thanh tiễn chàng lên đường, đôi mắt nàng buồn vời vợi, ướt lệ trông theo, như mới hôm qua đây, vậy mà đã bảy năm, chàng đã trưởng thành sau bảy năm gian khổ, bảy năm đăng đẳng với bao nhiêu tang thương biến cải, vậy mà:
"Ôi khung trời cũ, hồn tôi cũ,
Để thấy như là mới sớm nay. . ."
Nguyên Huân tìm tới Bảo gia trang, chàng rất mừng khi gia nhân cho biết Thúc mẫu và Hoài Nam đã đến đây hơn mười ngày trước.
Nghe gia nhân báo tin chàng đến, Hoài Nam không kịp trang điểm, chạy ùa ra, sự mừng rỡ tột cùng là những giọt nước mắt. Chạy băng qua hoa viên, áo nàng vướng vào một nhánh cây lảo đảo suýt ngã . Nhanh như một cơn gió, Nguyên Huân đã đỡ nàng trong tay. Hoài Nam thì thầm:
- Huân ca, tiểu muội lo lắng ngày đêm...
Lời nàng nói đơn sơ mộc mạc, nhưng Nguyên Huân như thấy cả một trời hạnh phúc, chàng buộc miệng:
- Nam muội, ta cũng thế!
Chợt nhìn thấy chiếc áo lụa mỏng bị rách, một đường xẻ từ từ cánh tay lên vai, để lộ làn da trắng nõn, bất giác Nguyên Huân chợt thấy lòng xúc động, niềm xúc động kỳ lạ, như choáng ngợp, như ngây ngất, trái tim chàng đập rộn rã... nhưng cùng lúc, chàng mơ hồ cảm thấy một điều gì như tội i Bỗng dưng thấy Nguyên Huân im lặng và đôi mắt chàng long lanh nhìn vào cánh tay nàng, Hoài Nam quay nhìn về chợt hiểu, nàng khẽ kêu lên một tiếng - như con thú hiền lành bị một vết thương êm ái - mặt nàng đỏ hồng, màu đỏ lan đến cả vành tai, nàng cuống quít lấy tay kéo kín vạt tay áo rách lại, thốt lên ngượng ngùng:
- Huân ca!
Cởi vội chiếc áo khinh cừu phủ lên vai Hoài Nam, Nguyên Huân dịu dàng nói:
- Trời lạnh thế này, sao Nam muội không mặc áo ấm, lần sau thế nữa, ta không bằng lòng đâu!
Hoài Nam không cảm thấy cái lạnh của buổi mạnh đông, hơi ấm của thân thể Nguyên Huân còn đọng lại trên chiếc áo ngự hàn cho nàng cảm giác ngây ngất, gò má nàng nóng ran, và Hoài Nam chợt hiểu: nàng đã yêu, ôi tình yêu như mật ngọt. "Kỳ diệu thay khi nghĩ đến chàng, biển bỗng hẹp, trời xanh kia bỗng thấp, đất trời có hay không, chỉ còn lại chàng đầy ắp trong hồn ta, chỉ còn lại mình chàng, như ánh sáng, như bóng đêm, như mưa bay, như tuyết phủ.." Hoài Nam thoảng thốt cất tiếng gọi thầm, và trong thoáng chốc, Hoài Nam chợt thấy mình khôn lớn. ơi, nỗi buồn nào dịu dàng len lén đi vào tâm hồn nàng thơ ngây, tình yêu nào làm rực rỡ trái vườn xuân nàng chín đỏ, Hoài Nam mơ hồ nghe tiếng Nguyên Huân êm dịu bên tai, và tiếng nàng cũng mơ màng thốt khẽ :
- Dạ!
Tiếng "dạ" ngọt ngào, nhu mì biết bao. Nguyên Huân như thấy khung trời bỗng hồng lên, không gian chất ngất hương bay. Chàng mĩm cười nhái lại:
- Dạ...
Hoài Nam cúi đầu, mái tóc xoa che nửa mặt hoa, bất giác Nguyên Huân khẽ nắm lấy tay nàng, khẽ gọi:
- Hoài Nam!
- Dạ!
- Em đó ư!
Không! Không phải em đâu, chàng đó...
Hai bàn tay nàng nằm gọn trong tay Nguyên Huân. Hai người im lặng nhìn nhau, cho đến khi thấp thoáng có bóng người xuất hiện sau bụi trúc ngà. Lý Phi Yến bước nhanh đến, Nguyên Huân chạy lại đón bà:
- Thúc mẫu, Thúc mẫu có khỏe không?
Đoàn phu nhân rạng rỡ:
- Nguyên Huân, con đã đến rồi ư! Ta hết sức lo lắng cho con, con có gặp Bảo Thư không?
- Con có gặp!
- Sao nó không về cùng con?
Dạ... Thư tỷ...
Phu nhân giọng hốt hoảng:
- Huân nhi, ta hỏi, Bảo Thư làm sao rồi?
- Thư tỷ vẫn mạnh khỏe, gửi lời chào Thúc mẫu và Nam muội!
- Nhưng sao nó không về đây cùng với con?
- Thư tỷ đã thí phát quy y và theo Tâm Hư sư thái về Nga Mi Sơn rồi!
- Con nói sao? Nguyên Huân, Bảo Thư đã quy y?
- Vâng, thưa Thúc mẫu, Thư tỷ đã tìm thấy niềm an lạc!
Phu nhân thở dài:
- Con có hiểu vì đâu không?!
- Con chỉ biết Thư tỷ có nỗi đau buồn riêng, nhưng chị ấy không bao giờ thổ lộ; nên con cũng không rõ Thư tỷ đau buồn điều gì!
- Ôi! Sao vô tình quá vậy!
Phu nhân buột miệng nói. Nguyên Huân ngơ ngác:
- Thúc mẫu nói sao cơ?
- Không, ta chẳng nói gì cả ! Thôi, vào đây con, kể cho ta nghe mọi chuyện!
Sau khi nghe Nguyên Huân thuật lại mọi việc, Phu nhân lại thở dài, bà nói:
- Con cư xử như thế là phải lắm, oán thù nên cởi chứ không nên buộc. Y là người gây oán khắp võ lâm thiên hạ, nhưng y cũng có điều tết, đó là tấm lòng đối với gia đình, con cháu!
- Tiêu Đại Hùng bá phụ, Hoạt Phật đại sư, Thiên Hư đạo trưởng và Tứ thúc Điền Hoành Thứ Lang gửi lời kính thăm Thúc mẫu, Thúc mẫu có còn nhớ họ không?
- Ồ, ta nhớ lắm chứ! Cách đây hai mươi lăm năm, ngày ta với cha Uyển Thanh, Hoài Nam nên giai ngẫu, các vị ấy đều có mặt. Hoạt Phật Đại sư ca, Điền Hoành tứ ca ở phía nhà gái, Tiêu thứ gia, Thiên Hư nhị ca bên phía nhà trai. Năm ấy cũng là năm con ra đời Nguyên Huân ạ! Thoáng đó mà đã hai mươi lăm năm, cuộc đời trùng trùng bất hạnh, mà hạnh phúc nào thấy đâu ? Bây giờ đây, ngày trở lại quê xưa, tóc đã bạc, chân một thời đã mỏi...
Bà ngồi im, cả một trời quá khứ dồn về, bà thầm thì với nỗi niềm riêng cùng quá khứ của bà:
"Chàng vẫn biệt, phải không, đời vốn chát!
Cõi trăm năm gom lại được bao ngày
Mà mái tóc nhuốm sương chừng đã bạc
Hạnh phúc đời chưa hái đã xa bay..."
Ôi, những bài thơ bà viết thầm, bà gọi thầm trong suốt bao năm, giờ trở về trong trí tưởng như những vết dao đâm nát trái tim bà. Tiếng nức nở nhẹ của Hoài Nam đưa bà ra khỏi cõi muộn phiền, bà bước đến bên nàng, vuố tóc con gái, dịu dàng hỏi:
- Sao con khóc, Hoài Nam của mẹ?
- Con thương cảm, con tội nghiệp Bảo Thư. Mẹ ạ, sao đời buồn đến vậy?!
- Không phải thế đâu con ạ, ngay trong niềm vui đã ẩn chứa nỗi phiền muộn, bất an. . . Và con hãy hiểu, trong sự đau khổ tột cùng, ta vẫn có thể tìm thấy được nguồn an lạc, con phải mừng cho Bảo Thư mới phải. Nàng đã tìm được bản thể mình, mà bản thể đích thực, con ạ, không phải là niềm vui là nỗi buồn, mà chính là sự "không dưng" đó con!
Hoài Nam vẫn phiền muộn, nàng nghĩ "Bảo Thư ạ, chị chẳng thể tìm được niềm an lạc cho tâm hồn bởi sự trốn chạy. Chị chỉ có thể ẩn trốn được cái thân, nhưng làm sao xóa đi được hình ảnh của ngoại vật vẫn hiển hiện trong tâm tư chị? Sợi tóc kia nào có tội tình gì? Tại sao sự đớn đau lại bắt nguồn từ một điều cao đẹp! Chị yêu chàng, vâng, em hiểu lắm, chỉ mình em hiểu chị, bởi chính em cũng đã yêu chàng. Và bởi chính chị yêu chàng, nên em cũng yêu chị. Tình yêu, em chẳng hiểu nó là mấy, nhưng nó không là của riêng, em chắc chắn vậy. Khi em yêu chàng, em thấy em thuộc về chàng, chứ chàng không thuộc về em. Em đã xóa em đi, hà cớ sao em phải phiền muộn? Em hiện hữu bởi
chàng, chàng vui em vui, chàng khổ sầu, làm sao em vui sướng. Chị biết không, chàng thuộc về người khác, chị ruột của em đấy! Hai người đã lớn lên bên nhau, tâm tình sâu đậm, và lại đã hứa hôn với nhau từ nhỏ, thế mà em nào thấy đớn đau. Em chỉ thấy em là dòng suối mát, là tia nắng ấm cho chàng. Em chỉ mong có thế, Bảo Thư, sao chị hãy không như em...!
Có bước chân ngoài hành lang và tiếng cười ha hả của trang chủ Bảo Vĩnh Khang:
- Trần thiếu hiệp, thiếu hiệp định tránh mặt lão già hủ lậu này đó sao!
Nguyên Huân chạy vội ra khỏi tiểu sảnh, vui mừng vòng tay chào:
- Vãn bối vừa mới tới, xin kính chào Bảo chủ!
Bảo trang chủ, tuổi chừng sáu mươi, râu năm chòm còn đen nhánh, tia nhìn như điện, thân thể cao lớn, da hồng hào không một vết nhăn.
- Chia tay đã bốn năm rồi, Thiếu hiệp trông phong sương hơn độ nào. Lão phu được nghe bằng hữu nhắc đến Thiếu hiệp, ngày đêm mong tái kiến!
Nói xong ông cầm tay kéo Nguyên Huân đi:
- Lên trên này đã. Bạch Khởi Phùng mới từ Lăng Hoa Cương về, ghé thăm lão phu ngày hôm kia. Tiếc thật, lão phu bỏ mất cơ hội ngàn năm một thuở. Lần này, Thiếu hiệp không thể đi ngay được, bằng hữu võ lâm ớ Nam Trường Giang nhất quyết chẳng để Thiếu hiệp rời chân ngay đâu. Lão phu mới đi săn cùng đám bằng hữu, nghe gia nhân báo, lão phu quay về ngay, khách khứa chật ở trên Đại sảnh. Hôm nay, quyết cùng Thiếu hiệp tửu đấu một phen, không thể nào khác được!
Nói xong một tràng dài, Bảo Vĩnh Khang cất tiếng cười hào sảng. Trên mười người, tuổi chừng bơn mươi trở lên, nghe tiếng cười của Bảo chủ, ùa ra khỏi phòng khách lớn. Bảo chủ la lớn:
- Anh em, ta tóm được rồi đây này, đó, con Phượng thần đang ở trước mặt các bạn đó !
Nguyên Huân cung kính vòng tay chào mọi người. Một lão nhân chừng đã trên bảy mươi, bước lại, cầm lấy tay Nguyên Huân:
- Lão phu họ Tiết, khi xưa có được quen biết với Trần tam gia; ôi chao, Thiếu hiệp giống Tam đại gia như đúc. Phúc đức thay!
Nghe Tiết Thượng Quan nói, Nguyên Huân vội vã khom người , vòng tay thi lễ :
- Vãn bối không được biết Lão tiền bối quen biết với Gia phụ khi xưa, nên không tìm đến viếng thăm, xin tiền bối lượng thứ!
- Thiếu hiệp đừng khách khí như thế! Đúng là lớp sóng sau đè lớp sóng trước, đại phúc, đại phúc!
Chàng quay sang số hào khách của Bảo trang chủ, khiêm tốn thưa:
- Vãn bối là kẻ hậu sinh, được các vị Thúc bá yêu mến thế này, thật là đắc tội!
Nói xong, chàng thấp mình cúi chào một lần nữa. Mọi người đứng quanh, quan sát chàng một cách kín đáo, một người trong bọn lên tiếng:
- Nếu việc xảy ra ở Kình Dương đại hội, không do Bạch đại hiệp kể lại, thì lão phu nhất định không tin được!
Một người khác tiếp lời:
- Thương Linh đại gia nói sai rồi, hổ phụ sinh hổ tử. Ngày trước Tiểu đệ có quen biết với Mạc thất gia, võ công của Mạc Thiên Bằng ngày đó cũng rất mực cao thâm, ai ngờ, cả Tam gia, Thất gia, Bát gia đều uổng mạng dưới tay Dương lão tà; ngày nay quả là trời còn có mắt! Trần thiếu hiệp, mong Thiếu hiệp đừng chê bọn anh em chúng tôi là già cả hủ lậu, anh em trong hai đạo Hà Nam và Giang Tây mong mỏi được cùng Thiếu hiệp đàm đạo một phen!
Nguyên Huân nói:
- Vãn bối là hàng con cháu, xin các vị Thúc bá, nếu yêu thương xem vào hàng con cháu cũng đã vinh dự lắm rồi, chứ đâu dám ngang hàng vô lễ như thế!
Một người mặt đen, râu quai nón tua tủa, tiếng nói như chuông đồng:
- Hoắc Chính Trung nói lên tấm lòng của bằng hữu anh em chứ không có ý gì khách khí... Hứa Viễn Chí này cũng như anh em giang hồ đồng đạo, sở dĩ yêu quý Thiếu hiệp vì phong cách và đức độ của Thiếu hiệp đó thôi, chứ tài giỏi mà vô đạo chỉ khiến cho thiên hạ " Kính nhi viễn chi " mà thôi!
Từ ngày hôm đó, võ lâm hai đạo hắc, bạch suốt một dải Nam Trường Giang tấp nập tới lui không ngớt. Nguyên Huân tỏ lòng ái ngại. Bảo Vĩnh Khang cười ha hả nói:
- Trần huynh đệ, sao lại áy náy như thế? Trần huynh đệ coi lão phu là người thế nào? Cũng nhờ Thiếu hiệp yêu mến mà dừng chân, lão phu mới có dịp kết giao bằng hữu trong thiên hạ, nếu không, cứ như lão hủ này, có mời, vị tất đã có ai bước chân đến Bảo gia trang làm chi, Thiếu hiệp đừng nói thế!
Mãi nửa tháng sau, Nguyên Huân mới xin phép cáo từ được Bảo trang chủ nói:
- Nếu không phải vì quý quốc còn trong cơn binh lửa, lão phu chưa để Thiếu hiệp lên đường ngay được, chỉ xin một điều: Cuộc xâm lược Đại Việt không phải do cái dị tộc mà phát sinh, mà chỉ do lòng tham vô đáy của bọn Vua chúa, xui khiến sinh linh trăm họ vào cơn binh lửa tàn khốc, vì vậy khi Thiếu hiệp vì đất nước mà ra tay, kẻ nào đáng giết thì giết, xin buông tha cho bọn quân lính vô tội, chúng cũng là những nạn nhân của những mưu toan bạo ngược mà thôi!
Nguyên Huân đáp:
Điều này vãn bối đã hiểu, tình người không phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói, phong tục. Cái đạo làm người là yêu mến mọi người, chữ Nhân kia lớn biết bao! Xin Lão trang chủ chớ bận tâm áy náy. Đau thương, máu lửa, càng giảm đi được chừng nào, thì vận nước càng hưng thịnh, cái Nhân càng sáng tỏ...
- Không ngờ Thiếu hiệp có tấm lòng Nhân đạo Đại độ như thế, lão phu xin bái phục!
- Vãn bối là hàng con, cháu, xin Bảo chủ đừng nói vậy!
Ngay sáng ngày hôm sau, Bảo Vĩnh Khang tặng Đoàn phu nhân một cặp ngựa, cùng cổ xe lớn và một người mã phu. Trang chủ nói:
- Xin Phu nhân và Trần thiếu hiệp đừng từ chối. Từ đây về Đại Việt, đường xa ngàn dặm, chỉ là phương tiện đỡ chân cho Phu nhân và Tiểu thư, và lão phu cũng tỏ được chút tình đối với người bạn già họ Đoàn năm xưa!
Đoàn phu nhân, Nguyên Huân và Hoài Nam bái tạ Bảo trang chủ lên đường, theo đường Hà Nam, Quí Châu, Vân Nam mà đi.
Trời mùa đông lạnh cóng, sang đến Quí Châu, Vân Nam, đường gập ghềnh khó đi, nên phải ngày đi, đêm nghỉ. Suốt trên đoạn đường từ Hà Nam đến Quí Châu, trên nóc xe, phất phới một lá cờ trắng thêu chữ "Bảo" màu đỏ tía, bọn cường đạo, sơn tặc thấy lá cờ này đều lánh xa, không dám phiền nhiễu.
Xe qua khỏi thủ phủ Vân Nam, đã bước vào khu vực núi rừng trùng điệp của Thập Vạn Đại Sơn. Đường núi quanh co, khúc khuỷu ít người qua lại. Trước đây, những đoàn quân đi xâm lược Đại Việt, chia làm hai ngã, một theo ngã Quế Lâm, Quảng Tây tràn vào vùng Lạng Sơn, một ngã khác xuyên qua Thập Vạn Đại Sơn, chọc mũi dùi vào vùng Mộc Châu mà tiến. Thương khách và thường dân ít ai dám qua lại sơn đạo này. Dân Hán tộc thưa thớt, ngoài Miêu tộc, còn một số các thị tộc thiểu số khác cư ngụ; bọn cường đạo thường lấy khu vực này làm căn cứ sơn trại. Phần lớn, giáo chúng Tiêu Dao độc giáo hoành hành...
Lúc ở Lăng Hoa Cương, Trương Cung Hoa đã tặng cho Nguyên Huân tám viên Huyết Hoa đạn chứa hoàng dược phấn để đề phòng độc khí của lam sơn và độc vật. Bởi vậy, vừa vào khu vực rừng núi, để bảo vệ sức khỏe cho Thúc mẫu và Hoài Nam, Nguyên Huân đã rắc đầy trong xe loại phấn hoa nay, gặp khí độc của loài hoa cỏ lạ, phấn hoa nở bung thành những đài hoa như hoa cải vàng, tỏa mùi thơm nhẹ. Một hôm, Hàn Thiết Trụ, người mã phu bắt đầu cảnh giác, nói với chàng:
- Thiếu hiệp, chúng ta sắp sửa ngang qua khu vực của Tổng đàn Tiêu Dao giáo phái, võ công của chúng đối với Thiếu hiệp thì thật không đáng kể, nhưng tài đánh độc của chúng là rất đáng ngại, xin Thiếu hiệp đề phòng!
Nguyên Huân đưa cho người mã phu viên Huyết hoa, bảo:
- Hàn hảo hán cứ việc giữ lấy viên này, khi chúng xuất hiện, hãy cứ bóp vỡ Huyết hoa, tức khắc có chỗ diệu dụng!
Quả nhiên, qua ngày thứ ba, một nhóm người ăn mặc hết sức kỳ dị, dẫn đầu là một thiếu nữ mặt hoa da phấn, mắt long lanh tình tứ, trang phục hở hang, sặc sỡ, đứng chặn đường xe, quát hỏi:
- Chiếc xe kia đi đâu! Dừng lại cho bản cô nương xét hỏi!
Hàn Thiết Trụ dừng xe lại cách một quảng. Bọn người ùa đến toan bao vây, họ Hàn không dám để chúng đến gần, quát:
- Các vị là ai, sao lại chặn đường xe thế?
Người thiếu nữ, trên người quấn chéo tấm vải hoa sặc sỡ từ vai trái qua nách phải, để lộ một bả vai và khoảng ngực trắng hồng, cổ tay, cổ chân trang sức những vòng vàng lấp lánh, nói:
- Ngươi bất tất phải biết chúng ta là ai! Có điều muốn sống, toàn bộ người trên xe xuống hết. Hành trang, vật dụng, cổ xe và cặp ngựa thuộc quyền của bản giáo từ lúc này...
- À, thì ra các vị là bọn Độc giáo, ta biết ngay...
- Tên mã phu kia, ngươi biết cái gì! Chúng ta đây là Tiêu Dao Thần giáo, ngươi lại dám gọi là Độc giáo, số ngươi đã đến ngày tận, đừng oán trách gì!
Từ tay thiếu nữ, một vệt sáng bay ra, lưỡi Liễu điệp phi đao nhắm ngực của người mã phu như ánh chớp. Tay cầm cương của Hàn Thiết Trụ vẫn không cất lên, chỉ có bàn tay xoay ngang, chiếc roi ngựa phóng ra, chỉ nghe một tiếng " keng", lưỡi phi đao bị đánh văng trở lại, nhằm vào một tên giáo chúng, cắm phập bả vai, y ngã ập xuống, miệng méo xệch, da mặt thoắt đen như chàm, y chết tức khắc. Lưỡi phi đao có tẩm độc cực mạnh.
Bọn giáo chúng đồng la lên một tiếng và xông ùa lên.
Thiết Trụ tỏa rộng đường roi, ngọn roi xé gió đánh cản, nhưng nhằm vào mặt thiếu nữ điểm tới, y thị lách mình tránh, đường roi như một con rắn có mắt, uốn vòng ra sau lưng, điểm vào huyệt Đại trùy, thiếu nữ phải ngã người sát đất mới thoát hiểm, đầu roi dạt theo hướng trái, đánh trúng ngay vào thái dương huyệt của một tên khác, y vỡ toác màng tang, ngã ra chết tốt. Đường roi không dừng lại, giật nhẹ, tấn công như chớp vào tên trùng bên phải thiếu nữ Miêu tộc, tên này nhanh nhẹn vung tròn mũi kiếm đánh bật, nhưng ngọn roi đã quấn lấy cổ tay y giật mạnh, quăng tung tên giáo chúng lên không rơi người xuống triền núi...
Một bóng người từ dưới triền dốc đang phóng lên, nhận ngay tên giáo chúng bị hắt văng xuống, lập tức y phóng người lên cao, chụp lấy dây lưng của gả, nhẹ nhàng xoay người đặt chân xuống đất. Nhìn thấy Hàn Thiết Trụ với con roi trong tay cũng vừa điểm tới trước mặt, y cười gằn một tiếng:
- Hừ, được lắm!
Buông tên giáo chúng ra, tay phải xử dụng Cầm Nã thủ chụp lấy đầu roi, đầu roi uốn qua một bên đánh vào huyệt Đàn trung của gã, hắn né người và như chớp bắt được thân roi, chỉ nghe " bực" một tiếng, chiếc roi ngựa đã bị y giật đứt.
Nguyên Huân từ lúc đầu đến giờ vẫn ngồi im trong xe, thấy vậy, mở cánh cửa có lắp kính phía trước bước ra, cùng lúc người mới đến phi thân lướt đến tấn công Hàn Thiết Trụ, thân pháp y rất đẹp mắt, Nguyên Huân nhận ra đó là Phong Vân thân pháp của Tinh Môn phái của Đại Lý. Người này khoảng tứ tuần, mặt mày chính khí, không hiểu vì sao lại cùng bọn Tiêu Dao toa rập. Nguyên Huân vội xử dụng Tiên Thiên Công, xoay cổ tay thành một vòng tròn, kình khí ôn nhu như cơn lốc tụ, phát, hóa giải kình lực người này, đồng thời xoáy đẩy y lên cao, và từ từ hạ hắn xuống một cách êm ái, ngay bên phải thành xe.
Hắn kinh dị nhìn chàng, hỏi:
- Tôn giá là ai mà biết võ công của Đoàn Hoàng gia Đại Lý nước chúng tôi?
Nguyên Huân không trả lời vào câu hỏi, chàng điềm tĩnh:
- Các hạ là người chính khí, đệ tử của Tinh Môn phái, là một danh môn chính phái, lẽ nào đi theo bọn cướp đường?!
Người này có ý thẹn, đáp:
- Tại hạ không chủ ý làm việc này, nhân tiện ngang qua đây thấy người ngộ nạn nên ra tay giải cứu; chưa biết phải trái đã bị tấn công, nên không phân biệt trắng đen là thế. Tôn giá đoán biết được sư môn, chắc hẳn chẳng là người xa lạ. Tại hạ vốn người họ Chu, tên Cẩm Đoàn, cũng vì có chút ẩn tình, nên mới giao hảo cùng Giáo phái Tiêu Dao, chẳng qua cũng là vạn bất đắc dĩ!
Nguyên Huân mỉm cười nói:
- Mỗi người trong chúng ta đều có nỗi khổ tâm riêng, nếu không tiện, xin đừng nói!
- Đa tạ Tôn giá đã cảm thông cho. Đã gần hai trăm năm nay, trải qua sáu, bảy đời, chúng tôi ôm mối quốc thù, nên hành vi không phải do mình mà nên...
Nguyên Huân chợt hiểu:
Tại hạ vốn họ Trần của Đạo Việt, với Đoàn Hoàng gia, năm xưa và đến tận bây giờ, vẫn có mối giao tình rất trọng. . . Các hạ ôm mối cô trung với đất tổ, chắc chẳng phải là người xa lạ?
Chu Cẩm Đoàn lùi lại một bước, giật mình hỏi:
- Tôn giá có phải là Trần Nguyên Huân, vang danh trong thiên hạ là Đệ nhất kỳ nhân đó chăng?
Nguyên Huân lắc đầu, chàng nhún nhường nói:
- Không dám nhận lời khen ngợi ấy, tại hạ chính là Trần Nguyên Huân!
Chu Cẩm Đoàn bước nhanh lại chỗ thiếu nữ, dùng tiếng Miêu tộc nói với cả bọn, không biết họ Chu nói gì, chỉ thấy thiếu nữ và đồng bọn đứng ngơ ngẩn, miệng há hốc, mắt trợn tròn, mặt chúng tái đi vì sợ hãi, đoạn chắp tay xá Nguyên Huân rồi kéo rốc đi. Người thiếu nữ còn quay nhìn chàng, ánh mắt vừa nề trọng, vừa mê đắm.
Chu Cẩm Đoàn quay trở lại, cung kính hỏi:
- Tại hạ có mắt như mù, không thấy núi cao trước mặt. Trần thiếu hiệp chắc có quen biết cùng Tiêu nghĩa sĩ và Đoàn lục gia của Đại Lý chúng tôi?
- Không phải quen biết, vì Tiêu lão anh hùng chính là Nghĩa phụ của tại hạ, Người vì tuyệt vọng trong mưu đồ phúc quốc, nên đã chán nản bỏ sang Phù Tang cùng với Đại Bá phụ, Nhị Bá phụ, và Tứ thúc phụ của tại hạ. Hiện tại, có Đoàn thúc mẫu và Đoàn tiểu muội trên xe!
Chu Cẩm Đoàn nhìn Nguyên Huân kinh ngạc, hiểu ý, chàng nói:
- Chuyện này uẩn khúc dài dòng, xin các hạ đừng hỏi!
Chu Cẩm Đoàn hiểu ý Nguyên Huân, bước lại bên xe, làm lễ ra mắt:
- Tại hạ họ Chu, đời đời làm tôi các Hoàng đế nước Đại Lý, xin làm lễ tham kiến Nương Nương và Công nương!
Đoàn phu nhân đã nghe rõ chuyện giữa hai người, bà vẫn ngồi trong xe, ôn tồn nói:
- Lão phụ không dám nhận đại lễ của Tôn giá. Dám xin hỏi, Tôn giá có phải dòng dõi họ Chu trong Ngư, Tiều, Canh, Độc của Đại Hoàng đế nước Đại Lý năm xưa đó chăng?
Chu Cẩm Đoàn bùi ngùi thưa:
- Khải bẩm Nương Nương, thuộc hạ chính là con cháu đời thứ sáu của Ngư, Tiều, Canh, Độc năm xưa, tạ ơn Nương Nương đã không quên!
- Lão phụ ngày xưa có được nghe Phu quân thường nhắc đến, nên vẫn còn nhớ...
Chu Cẩm Đoàn không cầm được nước mắt, ngắt lời bà:
- Nương Nương, Đoàn Hoàng gia đang bị độc công phát tác, tính mạng ngàn cân treo, tiểu nhân phải lặn lội tìm đến Tổng đàn Tiêu Dao giáo để hy vọng xin được thuốc giải, nào ngờ nửa đường nghe tin Bành Giáo chủ của phái Tiêu Dao đã chết, đành trở về tay không. Đến đây, đất trời xui khiến gặp được Nương Nương, xin Nương Nương và Công nương khẩn cấp trở về , may ra còn gặp mặt Hoàng gia!
Nói xong quỳ xuống lạy. Nguyên Huân khom người đỡ họ Chu, chàng hốt hoảng hỏi:
- Chu anh hùng, Thúc phụ tại hạ ra sao?
Bị nhiễm độc tính, đồng thời độc công phát tác, không biết hiện giờ thế nào!
Nguyên Huân nghe tiếng Đoàn phu nhân khóc ở trong xe, vội nói:
- Chu anh hùng, ta mau mau trở về, khẩn cấp lắm rồi...
Cả hai tung mình lên xe, cổ xe phóng như bay, bất kể vực sâu núi cao - nhắm hướng Đại Việt, bất kể đêm ngày...
Sau năm ngày đêm rong ruổi không nghỉ, cổ xe đã vượt qua địa giới Đại Việt. ôi Đại Việt! ôi Tổ quốc, Quê hương, chàng đã xa cách bảy năm đằng đẳng:
"Đây rồi nhé, òa vui trời Đại Việt.
Núi rừng xưa bừng dậy chiến công xưa...
Sông Nhĩ ngẩn ngơ, Châu Mộc đón ta về,
Nghe trong gió nổi đau nào lẫn khuất..."
Nước mắt tràn trên gò má Đoàn phu nhân. Đây quê hương của bà, xa cách đã hai mươi năm... Trời đã vào xuân chưa mà cây rừng đang thay lá ? ôi, mùa xuân vừa trở lại trên đất nước thân yêu; còn bà, mùa xuân của bà, không bao giờ có nữa ! Hai mươi năm đã trôi qua và hai mươi lăm năm, kể từ ngày bà được gán cho mỹ hiệu "Tây Bắc đệ nhất Mỹ nhân" nay còn đâu. Hai mươi năm trở về lòng đau như muối xát, như dao cưa.
Quê hương yêu dấu của ta, bà thầm gọi. Đây mây trời, đây đỉnh núi gió ngàn, đây giống sông xưa, đường lối cũ. Nắng vàng ngày xuân thắm vẫn còn đây ? Bà nghe mơ hồ có tiếng cựa mình trong từng đọt búp non mừng rỡ đón bà trở lại nghe mây cuồn cuộn đau, nghe gió trăn trở thì thầm, và tiếng thác ào ào thiên thu trên vách đá... Tất cả vẫn như xưa Tất cả vẫn như xưa, ngày bà rời bỏ vùng trời Mộc Châu về làm vợ người đàn ông kiêu hùng một thuở! Bây giờ tóc đã bạc, lòng đã xanh xao, tấm thân đã uế tạp, làm sao nhìn núi non trời đất, làm sao nhìn thấy người đàn ông năm xưa mà không thẹn mặt! Nhưng bà phải sống, ít ra sau khi nhìn thấy chồng mình, và xin ông thứ tội; nhìn thấy giang sơn gấm vóc của tổ tiên, rồi tấm thân bà xin được vùi trong lòng đất quê hương nồng nàn yêu dấu...
Đoàn phu nhân gục đầu lên cánh tay, Hoài Nam khóc theo mẹ...Nàng lắng nghe tiếng chim hót trên quê ngoại, lắng nghe tiếng gió xào xạc thổi qua tàng cây, mơ màng nhìn dòng sông êm uốn mình lấp loáng. Quê hương của mình có gì khác lạ? Nó là nỗi đằm thắm và xôn xao trong trái tim nàng. Có một điều gì đó làm cho nàng thấy nắng vàng hơn, gió thơm hơn, trời xanh hơn, hoa cỏ mơn mởn hơn, trong lòng nàng, trong lòng của người trở về nơi quê mẹ! Đã trên hai năm nay, Hoài Nam đã được mẹ dạy cho tiếng mẹ đẻ Đại Việt. ôi, kỳ diệu làm sao âm điệu tuyệt vời của ngôn ngữ của Tổ quốc nàng...
Chiếc xe lao dọc theo con đường mòn hẹp. Đỉnh Liên Sơn sừng sững trước mắt, hoa đào nở rộ trên triền cao hồng tươi dưới. nắng... Căn nhà cũ vẫn còn nguyên vẹn, không hiểu tại sao bọn Thất Sát đã không quay trở lại độ ấy. Dư lão tứ đã già đi rất nhiều, dáng đứng còm cõi, ngơ ngác, nhìn cặp ngựa sùi bọt mép kéo cổ xe dừng lại trước sân.
Nguyên Huân tung người xuống, ôm lấy Dư Tứ kêu lên:
- Dư thúc, Dư thúc đó ư! Cháu đã về đây. ..
Đoàn phu nhân cũng nhận ra người nô bộc năm xưa, bà kêu lên thảng thốt:
- Dư Tứ, Dư Tứ đó ư!
Dư lão tứ ngơ ngẩn, một lúc mới òa lên mừng rỡ:
- Thiếu gia đã về, Thiếu gia đã về !
Ông bỗng quay mình nhìn người đàn bà vừa hỏi tên mình, một lúc lâu nghẹn ngào:
- Phu nhân, ôi Phu nhân đó ư ?!
Nói xong quỳ phục xuống đất. Nguyên Huân đỡ Dư Tứ dậy, nóng vội hỏi:
- Dư thúc, Đoàn Lục thúc của cháu đâu? Còn Uyển Thanh đâu rồi?
Dư Tứ ngậm ngùi, nói:
- Uyển Thanh chiều mới về, còn chủ nhân vừa mới thiếp đi, đã một tuần nay ông hầu không hề nhắm mắt!
Gương mặt Đoàn phu nhân tái xanh, mắt đẫm lệ, phải cố gắng lắm bà mới không ngất đi. Hoài Nam cũng chan hòa nước mắt dìu một bên mẹ. Nguyên Huân rón rén bước lên thềm, cánh cửa khép hờ, chàng đẩy nhẹ. Căn phòng chìm trong bóng tối mờ, leo lét ánh sáng của ngọn đèn dầu phộng, chiếc giường xưa vẫn còn nguyên chỗ cũ.
Đoàn Chính Tâm đang nằm thiêm thiếp, gương mặt gầy ốm xanh xao, đôi má hóp lại, tóc không còn sợi đen, đôi mắt trũng xuống. Phu nhân run rẩy quỳ bên giường, Hoài Nam quỳ bên cạnh mẹ, bà thều thào:
- Con ơi , cha con đó . . . !
Bà gục đầu lên bàn tay xương xẩu của người chồng oai chấn võ lâm năm xưa, giờ chỉ còn là tấm thân tiều tụy. Những giọt nước mắt chan chan bao nhiêu đau đớn, xót thương, bao nhiêu hận oán nhục nhằn của suốt hai mươi năm nuốt tủi che hờn, bây giờ theo đôi dòng lệ, chan hòa như suối... Riềm mi nặng nề của Đoàn Chính Tâm khẽ động đậy, Nguyên Huân áp bàn tay chàng vào đôi bàn tay của Đoàn Lục thúc, vận công truyền nội lực sang thân thể khô kiệt của ông, luồng nội lực nóng ấm sinh động... Có tiếng ông khẽ rên lên và từ từ mở mắt. ông vẫn nằm im, chưa nhận dạng được thực tại. Một lúc sau ông thều thào hỏi:
- Ai đây?
Nguyên Huân nước mắt như mưa, chàng khẽ gọi:
- Thúc phụ, con đây, Huân nhi của cha đã về đây!
Như có phép mầu, đôi mắt ông sáng lên, ông hỏi:
- Con đấy ư? Ta những tưởng không còn nhìn thấy con nữa...
Cùng lúc ông cảm nhận được một nguồn nội lực mạnh khôn tả trong cơ thể khô héo của mình, trên môi khô dường như thoáng nụ cười:
- Sao con?
Nguyên Huân hiểu ông muốn hỏi gì, chàng đáp:
- Thưa cha, con đã thực hiện được trọn vẹn mọi điều cha kỳ vọng...
- Thế ư con !
Đoàn phu nhân bỗng bật lên tiếng khóc cố nén, bà kêu lên như cánh chim bị thương:
- Chàng ơi! Chàng ơi ! . . .
Đoàn Chính Tâm ngơ ngác, rồi như chợt hiểu, ông nhắm mắt lại, đôi dòng lệ ứa ra. ông thầm gọi như hơi thở:
- Lý Phi Yến, em đã về đó ư?
- Vâng, thiếp đã về đây, cả con nữa !
Ông mở bừng đôi mắt, từ trong hố mắt sâu mù mịt, mệt mỏi, một tia sáng lóe lên:
- Con ư! Trai hay gái, nó đâu?
Hoài Nam ôm chầm lấy cha, khóc nức nở:
- Con gái của cha đây ! Cha ơi!
Ông để bàn tay nhăn nheo lên tóc nàng, bàn tay kia vẫn nằm trong tay Nguyên Huân:
- A, con ta, con đừng khóc, cho cha nhìn thấy con đi !
Hoài Nam ngẩng đầu lên, ông ngơ ngác, nói như reo:
- Ôi con, sao con giống mẹ con ngày xưa đến thế! Con tên là gì, con gái tội nghiệp của ta!
- Thưa cha, con là Đoàn Hoài Nam!
Hoài Nam, Hoài Nam... ông nhắm mắt lại:
- "Yến muội! xin thâm tạ lòng em...!"
Phu nhân khóc nức lên:
- Không, không chàng đừng nói thế, hãy tha thứ cho em, đáng lẽ em phải tự sát để giữ vẹn cùng chàng, nhưng vì con, vì con... Em xin chàng hãy tha thứ... !
- Em có lỗi gì đâu Yến muội, bởi vì ta không đủ tài sức để bảo vệ em, người có lỗi là ta. Yến muội ơi, em đừng nói thế, đã hai mươi năm, đã hai mươi năm ta không ngừng âm thầm xin em xá tội. .. Em hãy ngồi lên đây cạnh ta, để ta nhìn thấy em!
Đoàn phu nhân ngồi ghé xuống cạnh giường. Chiếc đèn lồng đã được thắp lên từ lúc nào. Dư Tứ mở một cánh cửa sổ, ánh nắng nhẹ buổi đầu xuân tràn vào.
- Em đừng khóc Phi Yến, em đừng khóc ! Tạ ơn trời đất kiếp này đã cho ta gặp lại em; tạ ơn con, Huân nhi, con đã mang mẹ con về cho ta, mang em con trở về. Ôi, Phí Yến, tóc em bạc cả rồi, nhưng em đẹp hơn xưa nhiều lắm, hãy ngồi sát bên ta, Phi Yến!
- Không, em không thể ngồi gần chàng được, em ô uế lắm, em không xứng đáng với lòng chàng dành cho em.
Không đâu em! Không có một bùn nhơ nào làm ô uế em cả. Em đã hy sinh vì con, vì ta. Sao em lại nói thế làm cho ta đau lòng, hãy ngồi gần lại đây đi em!
Đoàn phu nhân khóc nấc lên. Hoài Nam vừa đứng lên, cả Nguyên Huân cũng đứng lên từ lúc nào. Phu nhân gục đầu lên ngực chồng. Những giọt lệ tủi hờn, những dòng lệ sung sướng. Bà bỗng quên đi bao nhiêu đau khổ. Những nổi đắng cay, đau đớn suất hai mươi năm vò xé tim bà, theo từng dòng lệ trôi đi Bà thì thào trên ngực ông, bàn tay ông vuốt lên mớ tóc mây ngày nào bây giờ đã bạc trắng!
- Phi Yến, năm nay em bốn mươi lăm tuổi rồi, tóc em bạc quá sớm. Ta hiểu lòng em và kính trọng em. Phi Yến, em có nghe ta nói không?
- Có thiếp đang nghe chàng nói, thiếp thâm tạ ơn chàng.. . Phu quân ơi ! Uyển Thanh đi đâu?
Câu hỏi của bà đã chạm vào điều ông đau đớn nhất, nước mắt ông ứa lên mi:
- Ta xin em tha lỗi, Phi Yến. Ta đã không coi sóc, bảo vệ được con . . .
Phu nhân ngửng phắt lên, cả Nguyên Huân, cả Hoài Nam đứng dưới chân giường đều giật mình, sợ hãi. Một ý nghĩ khủng khiếp cho điều bất hạnh hiện lên trong ý nghĩ. Phu nhân không dừng được, bà kêu lên thoảng thốt:
- Uyển Thanh, Uyển Thanh làm sao rồi?
- Không, Phi Yến, con nó còn sống, nhưng... đã thành phế nhân...!
Phu nhân thết lên một tiếng, gục xuống ngực ông lịm đi.
Đoàn lão âm trầm, đau đớn nói:
- Đó là nguyên nhân làm cho ta hao kiệt như hôm nay...Uyển Thanh con nó cải nam trang, chiến đấu trong hàng ngũ của thủ lĩnh áo đỏ Xa Khả Tham. Nó bị trọng thương không lâu, mất một cánh tay, hỏng một mắt, trong một trận phản công của Nghĩa quân, đổi lại, nó đã cứu thoát cho cả đạo quân nghĩa dõng sắp phải rơi vào bẫy phục kích. Nó đã thay ta, thay cho chồng nó, chiến đấu không thua một nam nhi nào... !
Hoài Nam ôm chân mẹ khóc nấc:
- Mẹ ơi, tội nghiệp chị con...!
Đoàn lão thở dài:
- Thôi, con đừng khóc nữa, ta cũng đau lòng, nhưng nước mắt nào có được gì, con hãy chờ chị con về... Nguyên Huân,con lại đây, kể cho ta nghe bước đường con đã trải qua từ lúc con ra đi . . . !
Tiếng Nguyên Huân vang lên trong căn phòng im lặng, Đoàn lão chăm chú nghe, nét mặt ông càng lúc dần tươi lên, cuối cùng khi Nguyên Huân đã ngừng lời, ông nói, với một thần thái tươi tỉnh:
- Tạ ơn Trời Phật, ta không ngờ con đã đạt thành mọi điều ngoài cả ước nguyện của ta. Con đã toàn thành một thân thủ võ công tuyệt học, nếu có gọi là Thiên hạ đệ nhất nhân thì cũng xứng đáng. Con xứng đáng với tổ tiên, thân phụ mẫu con ở chốn suối vàng, xứng đáng với Ngũ ca, Thất, Bát đệ ta, được nở mặt mày bên kia thế giới, con làm đẹp lòng ta biết bao! Nhưng... con ơi, Uyển Thanh, Uyển Thanh...
Nguyên Huân ngắt lời ông:
- Thưa cha, con hãnh diện về vợ con, con hãnh diện vì Uyển Thanh. Xin cha hãy tin ở con, suốt đời con sẽ vì nàng, con không nghĩ đến con, bởi chính vì thay con, thay cho nghĩa vụ của con mà Uyển Thanh đã nhận lấy bất hạnh. Dù Uyển Thanh có thế nào thì chỉ làm cho con thương yêu hơn. Cái nghĩa của nàng quá lớn, con sẽ sống xứng đáng với tấm lòng của Uyển Thanh, mãi mãi...
"Ta không thể bội bạc với Uyển Thanh, dù ta có yêu Hoài Nam đến đâu đi chăng nữa, nàng chỉ còn có ta mà sống, mà được nâng đỡ, ta không có quyền nghĩ đến riêng ta. Ta phải trả hết đời ta cho cái nghĩa của nàng, đã vì ta mà gánh điều bất hạnh..." Nguyên Huân biết chàng đang cố dìm lấp nỗi đau đớn riêng tư đến tận cùng. Biết làm thế nào, chàng biết làm thế nào? ôi tình yêu trong chàng chỉ còn là nỗi đắng chát!
Hoài Nam cũng hiểu ra điều Nguyên Huân nói. Chàng nói với cha mẹ nàng, mà cũng là nói với nàng. Cõi lòng nàng tê dại vì nghịch cảnh, nhưng nàng nễ phục người nàng yêu "Ta yêu chàng chính vì chàng như thế, nếu chàng là kẻ có tấm lòng bội bạc, đổi thay, chàng chỉ đáng nhận lấy ở ta sự khinh khi... Mãi mãi ta yêu chàng, ta không còn hiện hữu trong tình yêu ta dành cho chàng, mà ta hòa nhập cùng chàng... Với chàng, với chị của ta, và ta, cùng là một..."
Uyển Thanh bước vào phòng cha già, đập vào mắt nàng trước nhất là Nguyên Huân, nàng sững sờ vài giây, rồi đột nhiên Uyển Thanh quay mình té chạy ra cửa, nhưng Nguyên Huân nhanh như cắt, đã ở sát bên nàng và ôm chặt lấy hình hài tàn tạ của Uyển Thanh trong vòng tay mình, người nàng đã rủ mềm, nàng ngất đi.
Nguyên Huân bế Uyển Thanh thẳng về nơi phòng riêng của nàng, vẫn là căn phòng cũ. Đặt nhẹ nàng lên giường, Nguyên Huân quỳ bên nhìn khuôn mặt xanh tái của Uyển Thanh, lòng chàng tràn ngập thương cảm, chàng điểm huyệt cho Uyển Thanh hồi tỉnh. Vừa mở mắt, Uyển Thanh đã ngồi bật dậy, Nguyên Huân hai mắt đỏ hoe, ôm lấy Uyển Thanh vào ngực mình và nhẹ vuốt lưng nàng. Uyển Thanh như được một trời yên ủi, nàng rung người theo mỗi tiếng nấc, nước mắt nàng đẫm ướt ngực áo Nguyên Huân.
Nguyên Huân dịu dàng nói, như bàn tay chàng đang dịu dàng vuốt tóc Uyển Thanh:
- Thanh muội, em đừng khóc nữa, ta vẫn là Nguyên Huân của em ngày nào, lòng ta thương yêu em không hề dời đổi. Nhan sắc em, dung nhan em chính là trái tim em, và ta cũng không phải là kẻ tham vàng phụ nghĩa; ta yêu quý những dấu tích này trên thân thể em, nó nói lên rằng em đã vì yêu ta mà thay ta, chiến đấu cho Đại nghĩa. Ta mãi mãi yêu thương, mãi mãi hãnh diện bởi em Uyển Thanh ạ!
Chàng nâng đầu Uyển Thanh khỏi ngực, hai mắt nàng nhắm nghiền, cánh tay phải còn lại quàng lên vai Nguyên Huân, mặt đầm đìa nước mắt. Nguyên Huân cúi xuống, hôn lên những dòng lệ nhạt nhòa trên mắt, trên môi nàng. Uyển Thanh rùng mình. Bao nhiêu năm nàng chờ đợi, và chàng đã trở về Lòng nàng dịu đi đón nụ hôn đầu đời, nụ hôn trên đôi môi đã héo hắt nụ cười suốt bảy năm qua, "ôi, chàng của ta, chàng đã trở về !"
Có tiếng bước chân, Hoài Nam và Đoàn phu nhân cùng bước vào. Nguyên Huân ngước mắt lên nhìn. Hoài Nam nhìn thấy trong đôi mắt chàng nhìn nàng thẩn thờ, như đau đớn, như muốn nói trăm điều không thể nói; và nàng nhìn chàng, cũng bằng ánh mắt, cũng bằng nổi câm lặng ấy... Đoàn phu nhân ngồi xuống đối diện với Nguyên Huân, bà nhẹ nhàng ôm Uyển Thanh vào lòng, tràn ngập thương cảm:
- Uyển Thanh, mẹ đây con, mẹ của con đây... !
Và bà òa khóc nức nở.
Nguyên Huân đứng dậy nhường chỗ cho Hoài Nam. Hoài Nam run rẩy đặt hai tay lên đôi vai gầy của chị, giọng nói nàng tràn ngập nước mắt:
- Chị Uyển Thanh, em đây, em là em của chị, em là em ruột của chị, em và mẹ đã trở về cùng với chị, chúng ta sẽ chẳng còn phải sống ly tan nữa chị ơi...!
Cánh tay cụt quàng áp sau lưng mẹ, Uyển Thanh dùng cánh tay còn lại ôm lấy em gái:
- Mẹ ơi, mẹ bỏ con đi suốt hai mươi năm, con nhớ mẹ ngày đêm... Em ơi, em gái của chị!
Phu nhân nói:
- Tên em con là Hoài Nam, Đoàn Hoài Nam, nó mười chín tuổi rồi, nó thua con năm tuổi, thua Nguyên Huân sáu tuổi!
Uyển Thanh đã bớt bi lụy, nàng ngước lên ngắm nhìn mẹ:
- Mẹ, tóc mẹ bạc hết rồi, tội nghiệp mẹ biết bao... ?
- Đừng tội nghiệp mẹ, mẹ bỏ con với cha con sống cô quạnh lẻ loi, con tha thứ cho mẹ!
- Không đâu mẹ ơi, đó chỉ là thảm họa...!
Uyển Thanh nhìn em gái chan chứa yêu thương:
- Hoài Nam, em đẹp lắm. Ngày xưa chắc mẹ cũng đẹp như em con, phải không mẹ?
Phu nhân vuốt tóc nàng:
- Ôi đẹp mà làm gì hả con? Tấm lòng mới là cao cả, mới là đáng kể, mới là cái đẹp không bao giờ tàn phai trong lòng người đàn ông con ạ! Nhan sắc chỉ làm ta đau khổ mà thôi, nào có ích gì.
- Mẹ đừng an ủi con, mẹ !
- Không, mẹ không hề có ý đó, mà là thật lòng mẹ. Chiến tích của con mới là cái đẹp sống mãi mãi không phai tàn trong lòng mọi người, cái đẹp của một đất nước, của một dân tộc...
Bệnh tình của Đoàn Chính Tâm mỗi ngày một nặng thêm, Nguyên Huân đã cố gắng cứu chữa cho ông. Chàng khám phá ra rằng, các huyệt đạo trong người ông đã hoàn toàn đình trệ. Một vài huyệt đã vỡ, chàng không thể tiếp chân khí cho ông được nữa, chân khí sẽ làm vỡ tan thêm các huyệt đạo Và khi mà Sinh Tử Huyền Quan bị vỡ nát, ông sẽ chết ngay tức khắc.
Nguyên Huân không nói ra điều ấy, nhưng Đoàn Chính Tâm, ông biết. ông hiểu bệnh tình của ông không còn cơ cứu chữa, dẫu tiên thánh cũng đành bó tay. Nhưng sao ông thấy lòng mình bình yên. ông đã mãn nguyện.
Những ngày cuối cùng này của đời ông, ông đã được bàn
tay của người vợ hiền chăm sóc. ông cười nói với Phu nhân:
- Hiền thê ạ! Thế là ta hoàn toàn mãn nguyện, đã có em ở bên ta lúc ta ra đi. Em cũng đừng buồn vì sẽ phải phân ly. Nguồn vui lớn nhất là vợ chồng ta đã được sum họp, được có nhau lúc cuối đời. Em hãy vui lên, đừng bi lụy như thế! Phi Yến, có nghe ta nói không! Đừng để ta ra đi mà không được yên lòng!
Phu nhân cúi hôn lên trán chồng:
- Tâm lang, thiếp vẫn là bên chàng mãi mãi... Thiếp không buồn, không khóc nữa đâu!
Chu Cẩm Đoàn vẫn quanh quẩn bên giường Đoàn Hoàng gia từ hôm trở về. Đối với Đoàn lão, họ Chu vẫn giữ trọn lễ của một tôi thần như trước một Hoàng đế còn tại vị. Hôm nay, Đoàn đại hiệp dường rất tỉnh táo. ông cho gọi mọi người đến bên giường. Phu nhân vực ông ngồi dậy, dựa lưng vào đống chăn gối bên thành giường, bà ngồi cạnh đỡ lấy bả vai gầy gò của chồng; Uyên Thanh và Hoài Nam quỳ dưới chân mẹ. Nguyên Huân vòng tay đứng sau lưng Uyển Thanh, họ Chu và Dư lão tứ đứng lặng lẽ cuối chân giường. Hôm ấy là ngày 24 tháng giêng năm Ất Tỵ.
Đoàn lão bắt mở tung các cánh cửa. Ngoài trời mưa bụi. Ông đưa đôi mắt bình thản nhìn cảnh vật bên ngoài, một lát sau cất tiếng, giọng rõ ràng:
- Hiền thê, hiền thê còn nhớ không, ngày ta gặp gỡ hiền thê cũng vào một ngày xuân mưa bụi thế này. Một năm sau, cũng vào tiết xuân, núi rừng nở rộ hoa đào, Tam ca đã đứng ra lo liệu cho chúng ta trở thành chồng vợ. Ngày ấy, hiền thê vừa hai mươi tuổi, còn ta, hơn hiền thê những hai mươi lăm tuổi Hiền thê không chê ta già và xấu, đối với ta một dạ kính yêu. Vợ chồng ta có được với nhau năm năm hạnh phúc thì chia lìa.
Trong suốt hai mươi năm, ta thương nhớ hiền thê, những tưởng không bao giờ còn gặp lại, thế mà trời còn thương ta, cho ta có được nàng những ngày cuối đời, thế cũng là đã đủ, chỉ hiềm một nỗi là để nàng lẻ loi nơi dương trần. Các con rồi chúng cũng theo chồng theo luật trời đất, chỉ tội nghiệp nàng...
Ông dừng lại, điều hòa hơi thở, nói tiếp:
- Còn riêng ta, chẳng ngại gì cái chết, chỉ đau buồn là bao hoài bảo đã tiêu tan. Đã năm đời nay, tổ tiên ta mong có một ngày dựng lại tổ quốc, vậy mà cho đến đời ta, ta cũng chẳng làm được điều gì, cố quốc chỉ còn là trong tâm tưởng! Thế mới biết mệnh trời chẳng thể đoạt được !
Khi ta mất rồi, Tiêu lão nhị có về đây, nói cùng lão, ta chẳng còn biết cách nào để đền ơn tri ngộ, và mệnh trời đã như thế, có cưỡng lại cũng chỉ lao tâm khổ trí, vô ích mà thôi ! Ta gởi lời chào đến những người anh em của ta, chẳng bao lâu nữa, Bát Đại gia sẽ cùng sum họp... Sống gửi, thác về có gì đâu mà phiền não! Vậy hiền thê, các con, và hai vị huynh đệ của ta chớ than khóc làm chi, đừng nghi lễ rườm rà, hãy đưa ta đến nơi triền ngọn Liên Sơn, ngay bờ dốc xoải có cây tùng lớn nhất ấy. Hãy để mắt ta được nhìn về hướng Tây Bắc, để hồn ta bay về cố hương. Đừng bia đá tên đề, chỉ cần một chữ Đoàn giản dị. Ta sống đã một đời vô dụng, cũng xin được chết âm thầm... Các người khóc than ta, chính là đã muốn quên ta đó!
Nhìn qua Nguyên Huân, ông tiếp:
- Nguyên Huân! Ta coi con như con đẻ, yêu thương con hơn ta yêu bản thân mình, nay ta xin con, vì tình sâu ấy, mà săn sóc, phụng dưỡng mẹ của con. Chính hiền thê ta đã xâm hình hổ phù lên ngực con ngày con vừa lên bốn, ngày nay con đã khôn lớn, đã mang được một thân võ công tuyệt học, hãy lấy đức độ và bao dung làm đầu, lấy lòng thành mà đãi người, lấy nhân nghĩa thủy chung làm gốc, ta nói ít con hiểu nhiều!
Ông lại dừng, nhìn Uyển Thanh, lúc lâu tiếp:
- Uyển Thanh con, ta biết rõ Nguyên Huân, con đừng vì lẽ tàn phế mà đau buồn; chiến tích trên người con chính là niềm vinh dự. Sau khi ta mất sẽ trở ngại cho các con, nên ta muốn hai con làm lễ thành hôn, có sự chứng giám đầy đủ mọi người trong gia đình, và chỉ lạy tổ tiên là đủ. Các con hãy đứng lên, lạy nhau cho đủ ba lạy, để nên vợ nên chồng.. .
Nguyên Huân nghe lời, chàng đỡ Uyển Thanh dậy, mắt Uyển Thanh nhòa lệ. Đoàn lão nói:
- Ta biết con buồn, ai chẳng muốn làm cô dâu trong ngày cưới nhưng con ạ, hạnh phúc chính ở lòng các con, chứ chẳng phải bằng những nghi lễ long trọng ? Nghi lễ trang trọng nhất là các con yêu thương tôn kính nhau. Uyển Thanh, nếu con còn khóc, ta chết không nhắm mắt được!
Cả hai vâng lời cha già, hướng vào nhau lạy đủ ba lạy, xong hướng về Đoàn phụ mẫu toan quỳ xuống. Đoàn lão giơ tay ngăn:
- Khoan đã ! Dư lão đệ, lấy giùm ta ba nén nhang mang lại đây!
Ba nén hương phảng phất khói thơm trong hai bàn tay run run chấp lại, Đoàn lão nhắm mắt:
- Tam ca và tẩu tẩu, tiểu đệ tin rằng hương linh Đại ca và tẩu tẩu cùng Ngũ ca, Thất, Bát đệ đang quanh quẩn nơi đây, chứng kiến giờ phút tiểu đệ thay mặt, tác thành cho đôi trẻ theo như lời giao ước năm xưa. Xin hãy chứng giám và độ trì cho con cháu...!
Uyển Thanh và Nguyên Huân đỡ lấy nén hương từ tay ông, lạy tám lạy rồi bước đến bàn thờ, sóng đôi làm đại lễ ra mắt tổ tiên, cắm nhang vào lư hương, xong quay trở lại giường ông. Đoàn lão nói:
- Hoài Nam, sao con không đứng lên mừng cho anh chị con!
Hoài Nam như người đang phiêu linh, nghe cha nói, giật mình. Nàng đi đến trước Nguyên Huân và chị gái, cố lấy giọng vui mừng nói :
- Em chúc mừng, em cầu mong cho anh chị bách niên giai lão!
Nàng không dấu nổi đôi bàn tay run rẩy, Nguyên Huân liếc thấy chàng xót thương Hoài Nam vô bờ. Chàng biết làm sao, biết nói thế nào với người chàng yêu dấu??
Tiếng nói của Đoàn lão vẫn đều đều:
- Hoài Nam, con yêu quý của cha, cha con ta sum họp chẳng bao lâu thì lại phân lìa... đừng khóc con... Hãy can đảm lên con, trong mọi hoàn cảnh, cha nhắm mắt mới yên lòng được. Tình cha con tuy thời gian chẳng được là bao, nhưng cha tin tình phụ tử trong con sâu đậm như tình con thương mẹ!
Ông nắm chặt bàn tay Hoài Nam, và quay xuống nhìn hai người đàn ông đứng ở cuối giường. Hai người hiểu ý bước đến gần. Đoàn lão nói:
- Nhị vị hiền đệ, từ trước đến nay, ta vẫn coi hai hiền đệ như ruột thịt; hai em đã vì ta mà bỏ lỡ cả cuộc đời, vì ta mà chịu bao nhiêu gian nan vất vả. Ta chỉ còn tấm lòng này để tạ ơn tri kỷ. Ta mất rồi, hai hiền đệ có muốn trở về cố thổ, hay thế nào thì ta cũng chẳng dám có ý kiến, tùy ở hai hiền đệ mà thôi. Con chim trước khi chết cất tiếng thiết tha, hai hiền đệ hiểu lòng ta là đủ!
Hai người quỳ phục xuống đất. Chu Cẩm Đoan lên tiếng:
- Chúa công ơi, tổ tiên nhà thần đời đời giữ nghĩa thủy chung, tỏ trọn lòng trung liệt; nay Chúa công bỏ mà ra đi, cho thần được cùng theo hầu hạ Chúa công...
Đoàn lão cảm động nói:
- Quý thay! Tấm lòng của bốn dòng họ trong Ngư, Tiều, Canh, Mục. Chu lão độc ơi, không cần phải thế! Vợ con ta còn đây, ta trông nhờ vào sự quan tâm của nhị vị hiền đệ. Chu hiền đệ; hiền đệ còn trẻ, nên nghe lời cuối của ta, sau khi ta chết, ta muốn ngày thứ chín, hiền đệ hãy đón Bạc Thúy Miên về làm vợ; và hai vợ chồng, cùng Dư lão đệ ở cùng lại đây, cùng với vợ con ta đùm bọc lấy nhau... Hiền thê ạ, nàng nghe rồi đó, hãy vì ta mà lo việc này!
Nguyên Huân xin phép lui ra, một lúc trở vào, chàng lấy ra một viên hồng ngọc cực đẹp có sợi dây vàng, viên bảo ngọc của Nghĩa mẫu tặng chàng ngày ở Tuyệt Tình Đàm, choàng vào cổ vợ. Uyển Thanh nghe trong lòng an ủi, khẽ nói :
- Phu quân, thiếp cảm nhận ơn phu quân đã ban cho thiếp!
Chàng bóp chặt bàn tay còn lại của nàng, rồi đi lại trước Chu Cẩm Đoan cúi đầu nói:
- Chu Thúc phụ, trong túi này có mười viên hồng ngọc, tiểu điệt xin Thúc phụ thu dụng để làm sính lễ!
Đoàn lão cả vui nói:
- Chu Cẩm Đoan, hãy cầm lấy. Nhân danh ta, ban cho hiền đệ!
Ông nhìn Dư Tứ:
- Dư lão đệ, ta với em, trên ba mươi năm nay không rời nhau một bước, bây giờ sắp phải xa nhau nhưng chúng ta rồi sẽ gặp lại.. . Một trong những người ta thương yêu nhất là Dư đệ xin vì ta mà quan tâm đến gia đình ta, các con ta!
Dư Tứ khóc nói :
Lão nhân gia ơi! Dư Tứ này chỉ có một tấm lòng thiết tha vì chủ, ba mươi sáu năm nay đã gởi nó ở nơi này, lấy lại làm sao được! Chẳng lẽ Lão nhân gia không còn tin Dư Tú này nữa hay sao?!
- Không đâu, ta không tin ở tấm tình Dư đệ thì còn biết tin vào ai?!
Nói xong ông nhắm mắt, Phu nhân đỡ ông nằm xuống. Đến cuối giờ Tuất, ông mở mắt, không nói gì, lần lượt nhìn Phu nhân, các con và hai người tâm phúc, lại nhìn rất lâu vào đôi mắt người vợ yêu dấu, mỉm cười, và qua đời.
Đám tang của Đoàn đại hiệp diễn ra rất âm thầm và giản dị, không một tiếng khóc; lời trối trăng của ông được tuân thủ trọn vẹn... Một tảng đá hình chóp, cao hơn đầu người được Nguyên Huân chuyển đến để làm bia mộ, chỉ không theo lời yêu cầu của ông, người một đời ôm niềm đau không thực hiện nổi đại sự phục hồi cố quốc, chàng khắc trên đó hàng chữ: "Bát Đại Danh gia- Đoàn Lục Hiệp Hoàng Tôn Đệ Ngũ Đại - Đại Lý Đoàn Triều Chi Linh mộ", phía trên hàng chữ, Nguyên Huân vận Tiên Thiện Công ấn mảnh ngọc Nguyệt Kiếm tín phù, huy hiệu của Bát Đại gia lún sâu vào đá Vâng theo lời Đoàn Lục gia, không một ai kể cả Phu nhân được túc trực bên mộ theo tập tục đương đại.
Ngày tháng trôi qua, những mầm cỏ non đã nhú lên phủ xanh ngôi mộ. Đoàn phu nhân gương mặt bình thản, bà tiến hành việc cưới vợ cho Chu Cẩm Đoan; mọi người trong gia đình gượng làm vui, đón Bạc Thụy Miên về. Đó là một nữ lang thuộc dòng dõi quí tộc, xinh đẹp và hiền hậu. tuy bề ngoài, đôi vợ chồng họ Chu theo tình chị em mà xưng hô với Đoàn phu nhân như bà bắt buộc, nhưng bên trong họ vẫn giữ đúng lễ Chúa Tôi, cả với vợ chồng Nguyên Huân và Hoài Nam.
Nguyên Huân và Chu Cẩm Đoan bắt tay xây dựng thêm mấy ngôi nhà, lấy đá xây tường, bao bọc thành một dinh cơ.
Hoài Nam sống âm thầm như chiếc bóng quẩn quanh bên mẹ. Nàng cố tránh mặt Nguyên Huân trừ những bữa cơm trong gia đình. Nguyên Huân cũng giữ lễ trên, dưới của một gia đình; chàng cư xử với Hoài Nam như một người em gái, ân cần, trìu mến, với một nét mặt bình yên...
Uyển Thanh, từ ngày cha mất, xin với chồng cho nàng được cư tang để trọn đạo hiếu, nàng ngủ chung phòng với em gái, Nguyên Huân càng kính trọng nàng, chàng nào hiểu được tâm sự, những suy nghĩ day dứt của Uyển Thanh...
Hoài Nam nghe lời Nguyên Huân, dần dà nàng chịu tập luyện võ nghệ. Nguyên Huân cũng ra công chỉ dạy thêm võ công cho Chu Cẩm Đoan. Và Đoàn phu nhân, bà trao phó mọi việc trong nhà cho vợ chồng họ Chu điều động, quán xuyến. Thụy Miên thấy Hoài Nam có ý thích làm bếp, nàng chỉ dạy cho cô thiếu nữ nấu thành thục những món ăn của dân tộc. Hoài Nam dò ý Nguyên Huân, nàng làm những món hợp khẩu cho chàng: canh cua rau đay và cà pháo. Và những lần thấy Nguyên Huân ngon miệng, Hoài Nam không dấu nỗi vui mừng, đôi mắt nàng long lanh trên gò má còn hồng ánh lửa; nhưng nàng không biết rằng, những lúc ấy, Đoàn phu nhân càng thương xót con âm thầm. Bà biết tình yêu của Hoài Nam dù là vô vọng, nhưng nó không trở nên là bóng tối, là nỗi đau nhưng không héo úa, tàn rủ tâm hồn nàng, nhưng là nỗi ngậm ngùi khôn khuây!
Uyển Thanh càng ngày càng yêu quý người em gái xinh đẹp Tính tình Hoài Nam đôn hậu, dịu dàng. Uyển Thanh hoàn toàn tìm được nguồn vui sống... Uyển Thanh được an ủi rất nhiều bởi những chăm sóc, thương yêu của Nguyên Huân, chàng không buồn phiền gì về nàng bởi lời yêu cầu cho nàng được cư tang hiếu đạo ba năm.
Tuy con mắt trái của nàng không còn nhìn thấy, do sự chấn thương ở huyệt Ngự yêu, nhìn qua khó ai biết được, nhưng còn nổi đau buồn khác nàng giữ kín trong lòng không tỏ lộ cùng ai, cả với người mẹ hiền. Đó là huyệt Thận du của nàng bị trọng thương rất nặng, tuy đã được Đại Sư bá Hoạt Phật dốc tâm, dốc lực cứu chữa, và ông cũng không dấu nàng:
- "Con ạ, tuy tính mạng con không có gì nguy hiểm nữa, nhưng ta phải nói thật rằng con không còn có khả năng làm mẹ được nữa . . ."
Đó là nổi buồn lớn nhất của nàng! Và Nguyên Huân, hậu duệ cuối cùng của Hưng Đạo Đại Vương, chàng sẽ lâm vào trọng tội " Vô hậu vi đại". Điều ấy đã day dứt nàng suốt từ ngày nàng bình phục, và cho đến bây giờ. Vô hậu vi đại là tội lớn nhất đối với nhà chồng trong Thất xuất". Nàng yêu chồng, tình yêu ấy đã trải qua chín năm, từ ngày nàng mười lăm tuổi. Tình yêu ấy theo thời gian chẳng hề phôi pha. Giờ đã nên vợ nên chồng, nàng cũng chưa dám nói ra điều ấy cùng Nguyên Huân; ngày, tháng đi qua, nỗi đau đớn lại càng ray rứt dằn vặt tâm hồn Uyển Thanh, nước mắt theo niềm đau câm nín chảy ngược vào lòng...
Đoàn phu nhân ngày càng trở nên trầm lặng, cứ mỗi sáng, chiều, bà lên thăm mộ chồng một cách đều đặn. Tuy chỉ mới hai tháng từ ngày phu quân bà qua đời, mái tóc của Phu nhân đã bạc trắng như tuyết. Những nếp nhăn trên trán, vết chân chim nơi khóe mắt đã xuất hiện, và nỗi buồn lắng đọng trong đôi mắt héo hon, khiến bà như già đi hàng chục tuổi. Bộ quần áo xô gai làm tăng thêm dáng vẻ tiều tụy. Đâu rồi " Tây Bắc Đệ nhất Mỹ nhân" thuở nào!
"Đời như lá, thoắt xanh rồi thoắt úa,
Ta như rêu mọc giữa lôi đi này
Cơn gió nổi một đêm nào nghiệt ngã
Sớm mai đây còn lại chút hưng phai..."
Và những đêm khuya, những canh khuya u tịch quặn thắt lòng bà: "Bao nhiêu năm gom lại một canh khuya!" Cái mặc cảm có lỗi với chồng dầy vò bà khôn dứt... Bà đã có một khoảng thời gian lãng quên ông mà sống với kẻ thù của chồng, hơn thế nữa, kẻ thù của nhân dân Đại Việt. Những cơn ác mộng hành hạ bà từng đêm!
Vậy mà ông, Đoàn lang của bà, suốt hai mươi năm chịu đựng căn bệnh trầm kha do kẻ thù gây ra, trong khi bà chung sống với y; với thời gian đăng đẳng ấy, ông đã thương nhớ bà không phút giây khuây lãng. Những câu chuyện Uyển Thanh vô tình kể lại, càng làm cho bà thêm kính yêu chồng, càng làm cho bà thêm đớn đau chất ngất... ông đã không khép tội bà, ông nhận cái phần lỗi ấy về ông. Có người đàn ông nào không đau đớn, khi biết người yêu của mình đã từng ở trong vòng tay kẻ khác; càng xót xa hơn khi biết được người vợ yêu dấu một đời, lại bị kẻ thù của chính mình ôm ấp! Chỉ trừ ông, Đoàn lang của bà, ông đã yêu bà bằng một tình yêu tự xóa, một tình yêu quên lãng bản thân mình... Ông độ lượng với bà như trời biển.
Những buổi chiều, ngồi nhặt cỏ úa trên mộ chồng, bà nói cùng ông, bà thì thầm cùng người dưới mộ những mặc cảm tôi lỗi giằng xé lòng bà. Những lần bà mãi mê than thở cùng ông, bà quên lãng cả thời gian, khiến Nguyên Huân và Uyển Thanh phải đi rước bà về. Có những đêm thao thức không ngủ, bà lại tìm lên mộ, ngồi đó với ông dưới bầu trời khuya long lanh những vì sao hiu quạnh, trong cái mênh mông yên tĩnh, lòng thấy dịu đi... Tiếng gió ngàn rì rào trên sườn non, tiếng ếch nhái dưới cỏ ướt, tiếng mơ hồ của đêm khuya có điều gì làm cho bà được thanh tỉnh, bình yên, hay chính ông, linh hồn đau thương ấy đã về quanh quẩn bên bà ! "Đoàn lang, sao không về cùng thiếp, sao không nói với thiếp một lời, mà im lìm đến vậy..."
Nỗi ao ước được gặp lại ông khiến bà đã bao lần muốn đi theo ông. Nhưng còn Hoài Nam tội nghiệp của bà! Nàng rời bỏ chốn trang đài gác tía, theo mẹ về quê cha, chịu làm thân một sơn nữ giữa núi rừng hiu quạnh, với nỗi đau thầm kín xót xa của một cuộc tình không lối thoát và với một Uyển Thanh tàn tật thiếu tình mẫu tử bao năm. Bà không thể để các con ở lại trong lẻ loi, mất cha rồi mất mẹ. Không, bà phải sống, phải xua tan ý nghĩ thiết tha muốn theo ông; bà thương xót các con, khấn hương hồn ông thấu hiểu cùng bà. Nhưng thời gian cứ bỏ đi, rũ theo sức khỏe của bà. ôi, nỗi tàn phai nào chẳng có!
Bà sống với hình ảnh một người chồng choáng ngợp tâm linh bà từng khắc một, và Uyển Thanh con bà, ấm áp với nghĩa vợ chồng, được thương yêu, được an ủi, vỗ về. Chỉ còn một Hoài Nam, nàng chỉ có mình bà làm nơi nương tựa. Còn ai đáng chọn mặt để gởi vàng?! Nhiều lúc, bà có ý nghĩ cho Hoài Nam và Uyển Thanh thờ chung một chồng, nhưng tính tình của Nguyên Huân bà hiểu, con người ấy, tâm hồn ấy, làm sao bà có thể nói ra!
Từ sau khi trở về, Nguyên Huân chăm chút, ân cần với Uyển Thanh, chàng biết chàng không thể không hy sinh mối tình của mình, chàng là lẽ sống của người vợ thương tật. Vả chăng, Đoàn phu nhân biết rằng, dù ý bà có muốn như thế, Nguyên Huân có bao giờ lại nhận cái ân huệ lớn lao dường ấy...
Thấm thoát đã trăm ngày mất của Đoàn lão, Phu nhân sắm sanh lễ vật hương hoa cùng mâm rượu lên tế mộ chồng. Trời đã vào hạ, mầu nắng vàng chảy êm bên triền núi xanh, trên bãi cỏ mướt dưới gốc những cây phượng già đã bắt đầu nở bung sắc thắm những chùm hoa rực rỡ, mây trắng trôi dịu dàng trong bầu không gian thanh nhẹ. ông nằm đây đã ba tháng mười ngày, nhưng với bà như đã hàng thế kỷ.
Dư, Chu nhị vị và các con bà đã hành lễ xong, đứng im lặng kính cẩn sau lưng bà. Đoàn phu nhân tỏ ý muốn ở lại một mình, tất cả dường ái ngại nhưng vẫn tuân lời bà ra về. Bà một mình ngồi với ông cho đến sáng hôm sau. Sau đêm ấy bà ngã bệnh, và từ đó trở đi, sức khỏe bà suy sụp. Nhưng ý chí phải sống vì các con đã giúp bà vượt qua cái chết dịu dàng chờ đợi bà, cưỡng lại sự mời gọi của cõi chết mà bà hằng khát khao, mong ước.
Một hôm, bà nhẹ nhàng trách cứ Uyển Thanh:
- Cha con là người giang hồ phóng khoáng, sở dĩ muốn hai con thành thân trước, cũng là để khỏi phải cư tang chờ đợi ba năm; nếu bây giờ con giữ hiếu đạo ấy, chẳng phải là đã làm ngược lại ý của cha con hay sao?
Uyển Thanh nức nở khóc, bà gạn hỏi, một lúc sau nàng mới thổ lộ điều uẩn khúc dày vò nàng. Suốt đêm ấy, Phu nhân suy nghĩ miên man và buồn phiền vô hạn. Cuối cùng, bà gọi riêng Uyển Thanh vào phòng, không ngần ngại, bà nói cho con gái biết về tình yêu thầm lặng mà sâu đậm của Hoài Nam, kể từ khi em gái nàng cứu thoát Nguyên Huân giữa trùng vây nguy khốn của kẻ thù. Uyển Thanh ngồi lặng, xót thương em gái, và nàng tán thành ngay ý định của mẹ. Hoài Nam sẽ cùng nàng săn sóc Nguyên Huân, cùng nàng chia xẻ nỗi lo âu trĩu nặng tâm trí. Hoài Nam sẽ thay nàng gánh trách nhiệm nối dõi dòng họ Trần. Phu nhân vẫn lo lắng:
- Mẹ chỉ e rằng Nguyên Huân nó chẳng chịu!
- Mẹ, cứ để mặc con!
Đêm ấy, Uyển Thanh sang cùng Nguyên Huân. Nàng nhu thuận trong vòng tay chồng như bao nhiêu người vợ tròn nghĩa gối chăn. Nguyên Huân nâng niu tấm thân tàn phế của vợ và hôn lên khuôn mặt nàng. Dưới bóng trăng dịu dàng chiếu qua khung cửa nhỏ, đôi mắt Uyển Thanh long lanh giọt lệ, Nguyên Huân ngỡ rằng vì niềm hạnh phúc dâng đầy, nhưng Uyển Thanh lại nức nở tiếng khóc. Thấy vợ có điều khác lạ Nguyên Huân ôm vợ xoa tấm lưng trần dỗ dành gạn hỏi, Uyển Thanh dấu mặt vào ngực chồng kể nổi niềm riêng nàng mang nặng, cùng lời nàng yêu cầu mong chàng chấp thuận.
Nguyên Huân ngồi lặng, chàng đau đớn, nhưng chàng cũng thấy thương Uyển Thanh khôn xiết; cuối cùng chàng mỉm cười, tay xoa nhẹ trên bờ vai thon của vợ, vuốt cánh tay trần lành lặn của nàng, dịu dàng nói:
- Mình ạ! Đó là điều đáng buồn thật, nhưng cũng chẳng đáng để cho mình ray rút như thế. Ta nhất định không thể phụ mình, cho dù là mình vui vì điều mình muốn. Không, ta vĩnh viễn coi Hoài Nam là em gái của ta, nếu mình còn nói nữa, ta giận đấy. ý la đã quyết, xin mình đừng nói nhiều!
Nói xong, Nguyên Huân bịt miệng nàng bằng một chiếc hôn. Uyển Thanh nồng nàn hạnh phúc trong vòng tay chồng.
Tây Đô, bảo kiếm bay hồn giặc
Hàm Quỷ, thần uy bạt vía thù.
Sau cái chết đột ngột của Minh Thành Tổ, và cuộc thảm bại của Pháp Vương Dương Tiêu, Minh Nhân Tôn lên ngôi, lòng hoang mang lo sợ. Đứng trước tình thế chiến tranh với Mông Cổ, với Ngõa Thích, và các cuộc nổi dậy ở trong nước, đã đưa đến những khó khăn hết sức nghiêm trọng, nên đã hạ chiếu chỉ:
. . . "Những việc ở Giao Chỉ như khai khẩn vàng bạc và tìm kiếm hương liệu các loại, đều đình chỉ hết. Các quan lại sai đi công cán, không được sách nhiễu dân tình. Phải khẩn cấp lai kinh, không được kiếm cớ ở lâu để làm điều bạo ngược. . ." ( Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, chương III. Trang 15.)
Trong một sắc chỉ khác, ra lệnh cho bọn Trần Trí ".. . Phải khéo léo vỗ về chiêu dụ. ..".
Bước qua mùa xuân năm Ất Tỵ ( 1425) Trần Hiệp là Binh bộ Thượng thư, đứng đầu hai ty Bố chính Và án sát, đã mật tâu về triều cấp báo về tình hình lớn mạnh của Nghĩa Quân và xin lệnh đánh. Trong bản mật tấu có ghi:
" Lê Lợi đã chiếm Trà Long, giao kết với Thổ quan Ngọc Ma và Tù trưởng Lão Qua để cùng làm ác. Lại khiến bọn nghịch đảng Phan Liêu và Lô Văn Luật đến các châu Gia Hưng, Quốc Oai chiêu tập đồ đảng, thế càng ngày càng lan rộng. Nếu không tiêu diệt gấp, e không còn kịp nữa..."
Biết ý định tấn công phủ đầu của địch, Nghĩa Quân Lam Sơn quyết định ra tay trước, tiến quân đánh chiếm Nghệ An, đánh địch trên đường chúng hành quân. Từ Nghệ An lên Trà Long có hai đường, một đi dọc sông Lam, hai là đường thượng đạo qua Đỗ Gia Nếu địch tiến quân cả hai đường, Nghĩa Quân sẽ bị kẹt trong gọng kìm. Để phá tan chiến thuật của giặc, và giành thế chủ động, chủ tướng Lam Sơn đã sai Đinh Liệt mang hai ngàn quân theo đường thượng đạo đánh chiếm Đỗ Gia, để khống chế mũi dùi của địch. Đinh Liệt đóng quân tại Linh Cảm Sơn, ngay ngã ba sông Ngàn Phố và Ngàn Sâu chủ ý khống chế con đường thượng đạo từ Thanh Hóa và Tân Bình, Thuận Hóa; ngăn chặn mọi sự tiến quân của giặc tiếp viện, hoặc cứu nguy cho thành Nghệ An.
Toàn bộ thực lực của Nghĩa Quân chiếm đóng ải Khả Lưu trên đường vào Nghệ An - ải Khả Lưu hiểm trở, có núi cao và rừng rậm hai bên; mọi việc giao thông từ Nghệ An lên Trà Long phải đi qua Khả Lưu.
Giữa lúc đó Trần Trí và Phương Chính đem đại quân từ Nghệ An tiến lên Trà Long, dùng cả thủy quân ngược sông Lam mà tiến. Địch đến bờ Nam của Khả Lưu, chuẩn bị tiến đánh sang bờ Bắc. Đây là trận đánh then chết, lần đầu tiên một trận địa chiến, có thời gian cho hai bên chuẩn bị, có sự tham chiến cả hai quân thủy, bộ. Quân địch rất đông, mà Nghĩa Quân, quân số chỉ chừng ba mươi ngàn, nên cuộc đọ sức phải bằng mưu trí và tinh thần quyết tử của Nghĩa Quân, hơn là thực lực.
Nghĩa Quân Lam sơn dụng kế phô trương thanh thế để lừa địch. Một toán quân tinh nhuệ cùng với tượng binh lẻn qua sông phía Nam phục kích. Sáng hôm sau lúc còn mờ đất giặc tiến công doanh trại, Nghĩa Quân trá bại, lừa địch vào ổ phục binh, rồi từ bốn hướng, Nghĩa Quân đổ ập ra chém giết. Địch thua to, chết tại trận địa và chết đuối lên đến hàng ngàn tên; hào khí cuồn cuộn như sóng lớn, Nghĩa Quân tràn lên như nước vỡ bờ, tấn công đánh chiếm các nơi trong địa phận Nghệ An, thanh thế lừng lẫy.
Nguyên Huân đã tìm đến Lam Sơn giữa lúc khí thế của Nghĩa Quân đang trào sôi. Chàng có mặt trong hàng ngũ như một người lính bình thường.
Ngay từ khi trở về Đại Việt, Nguyên Huân có ý định tìm ngay đến Lam Sơn, nhưng thời gian này là giai đoạn hòa hoãn giữa Nghĩa Quân và địch. Giai đoạn hòa hoãn kéo dài hai năm. Sở dĩ quân Minh chấp nhận sự hòa hoãn này là do những biến động nghiêm trọng từ mẫu quốc: cuộc chiến tranh với Ngõa Thích ở phía Tây, sự nổi dậy của con cháu Thuận Đế khiến Thành Tổ phải thân chinh, và những cuộc nổi dậy của dân chúng Phúc Kiến và Sơn Đông do Đường Trại Nhi và Đặng Mậu Tuất lãnh đạo.
Tình hình kinh tế trong nước bị kiệt quệ, tình hình quân sự rối ren..: Tuy biết được nội tình địch, nhưng Nghĩa Quân Lam Sơn cũng đang ở trong tình trạng kiệt quệ không kém, hay đúng hơn là vô cùng trầm trọng.
Từ khi các cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ trong suốt mười sáu năm đã hoàn toàn bị dập tắt, địch dồn mọi nỗ lực để hòng đê bẹp Nghĩa quân Lam Sơn. Rút về Chí Linh lần thứ ba, quân sĩ phải sống bằng măng giang, măng nứa, rau rừng, củ chuối, có khi phải giết cả chiến mã , chiến tượng mà ăn, tình thế hết sức bi đát. Trong suốt hai năm hòa hoãn với giặc, từ tháng 4 năm Quý Mão (1423), Nghĩa Quân đã cũng cố lại thực lực, xây dựng căn cứ, chiêu binh mãi mã, và trong hai năm cố gắng gian khổ ấy, cuối cùng nghĩa quân đã có được một thực lực đáng kể.
Trận đánh đầu tiên sau suốt hai năm án binh bất động, với chiến thắng lẫy lừng ở Khả Lưu, đã đưa tinh thần chiến đấu của quân sĩ lên cao ngùn ngụt, và tạo được niềm tin lớn trong lòng trăm họ. Hào kiệt các nơi theo về như nước chảy, thanh thế bùng lên.
Sau đêm ngà ngọc, Uyển Thanh vẫn phiền muộn trong lòng. Nàng cảm kích tấm lòng của chồng bao nhiêu thì càng đắng cay cho phận mình bấy nhiêu. Khả năng sinh nở không còn, nàng không bao giờ trở thành là người mẹ, không thể nào làm tròn bổn phận thiêng liêng với chồng, với gia đình chồng. ý nghĩa quan trọng nhất của cuộc đời làm vợ là làm mẹ, là có con để nối dõi tông đường... Lợi dụng giữa những lúc ân cần, nồng nàn, mật ngọt trong tay chồng, Uyển Thanh bao lần nài nỉ, nhưng Nguyên Huân vẫn nhất định không nghe.
Giữa lúc ấy, Nguyên Huân gặp lại Khô Nỗ Viết. Người nghĩa sĩ của dân tộc La Sát này đã sang Đại Việt ngay từ đêm chia tay với Nguyên Huân ở khu Lâm trạm ngoại thành Nam Kinh. Họ Khô đã tìm đến Xa Khả Tham bằng lá thư giới thiệu của Đoàn Chính Tâm.
Đứng trong hàng ngũ Nghĩa Quân áo đỏ, quả thực ông không được hài lòng vì chủ trương của Xa Khả Tham, tuy rằng ông rất cảm phục sự chiến đấu anh dũng, kiên cường, cùng tinh thần hy sinh vô bờ bến của nhân dân Đại Việt. Họ Khô thường xuyên đi về thăm hỏi và đàm đạo với Đoàn Lục gia, đã được gặp gỡ hai nhân vật đứng đầu của nhóm Bát Đại Danh gia: Hoạt Phật đại sư, Thiên Hư đạo trưởng, ông cũng gặp cả nêu Đại Hùng. Chính Khô Nỗ Viết là người đã cứu Uyển Thanh trong trận quân Minh phục kích Nghĩa Quân ở Gia Hưng. Uyển Thanh ngày ấy bị vây bởi một toán Thất Sát Từ đó trở đi, Khô Nỗ Viết thường năng ghé thăm Lục gia hơn.
Lần này trở lại, Khô Nỗ Viết rất đau lòng khi biết Đoàn Lục gia đã qua đời. ông sung sướng gặp lại Nguyên Huân. Trong một buổi rượu, có cả Chu Cẩm Đoan và Dư Tứ, Nguyên Huân hỏi:
- Khô nghĩa sĩ, các hạ đến Đại Việt được gần năm năm, tình hình khởi nghĩa của các lực lượng Nghĩa Quân gần đây thế nào? Tại hạ mới chân ướt, chân ráo trở về, lại gặp lúc Nhạc phụ qua đời, nên chưa nắm vững được diễn biến...
Khô Nỗ Viết nói:
- Điều tại hạ tâm phục nhất là tinh thần chiến đấu kiên trì của nhân dân Đại Việt. Tuy nhiên cho đến ngày tại hạ đặt chân lên đất nước này, thì các cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ của các thủ lãnh địa phương đã bị dập tắt hết. Chỉ còn lại Xa tướng quân, lấy địa điểm hiểm yếu của vùng Gia Hưng mà cố thủ, là vẫn còn đứng vững. Nhưng Xa tướng quân không có chí mưu đồ việc lớn, không dám đẩy mạnh cuộc khởi nghĩa lan rộng ra toàn quốc, cứ như vậy, trước sau cũng bị tiêu diệt!
Nguyên Huân hỏi:
- Còn cuộc dấy binh của Chúa đất Lam Sơn thế nào?
- Cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, từ năm Mậu Tuất, cũng không có nét đặc sắc, chỉ là sự bùng dậy của một nhóm người; không có kế sách lâu dài, cũng không có cả phương châm hành động, vì vậy nhiều phen đã tưởng chừng tan rã sau ba lần rút về Chí Linh, mất cả vợ con tuy rằng có tạo được một số chiến thắng lớn, lần lượt như trận Mường Thôi, Bến Lộng, Bồ Mộng, Quan Du, Kình Lộng, Bồ Thi Lang, Đèo ống; nhất là cuộc chiến thắng ở huyện Khôi vào tháng 2 năm Quý Mão. Tuy nhiên, những trận đánh đó không cá tính cách chiến lược, nên không thể từ đó mà khuếch trương chiến thắng để chiếm lĩnh những địa bàn khác...
Nguyên Huân ngắt lời:
- Chẳng lẽ Nghĩa Quân Lam Sơn không có nhân tài có tầm nhìn chiến lược sao?
Khô Nỗ Viết mỉm cười:
- Tại hạ đến đây vào cuối năm Canh Tý. Theo nhận xét thì quả thật mà nói, Lam Sơn cứ địa dũng sĩ thì dư, nhân tài chẳng thiếu, nhưng chỉ là hạng cầm quân ngoài mặt trận. Lam Sơn thiếu hẳn một nhân vật chủ chết, thần mưu, thánh kế, có tầm viễn kiến để hoạch định sách lược. Trong bất cứ một cuộc dấy binh khởi nghĩa nào, thiếu người như thế, thì chẳng hy vọng thành công được!
Dừng một lát, Khô Nỗ Viết nói tiếp, và nhận định rõ hơn:
- Từ năm Canh Tý đến năm Nhâm Dần, có thể cả ba, bốn năm trước đó nữa, Nghĩa quân nằm ở trong tình trạng luôn luôn chuyển dịch, không đứng yên được ở nơi nào; không gây được cơ sở lâu dài, không mở rộng được vùng giải phóng, không phát triển lực lượng thích đáng với nhu cầu chiến trường, nghĩa là không mở được phong trào toàn dân đánh giặc. Không có hậu phương nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội, vẫn chỉ thử sức với địch tại một vùng nhỏ hẹp... Thế nhưng, từ đầu năm Quý Mão, tình hình đã đổi khác...
- Nghĩa là tình thế đã được cải thiện? Nghĩa là đất Lam Sơn đã có người tài?
- Vâng, đúng thế, Ngọa Long tiên sinh đã rời lều cỏ mà đến cùng Lưu Bị... Thiếu hiệp, theo như Đoàn Lục gia thì người này với Thiếu hiệp có tình gia tộc!
Nguyên Huân chợt nhớ là trước khi chàng ra ới, Uyển Thanh một lần đã có nói đến một nhân vật, mà người này phải gọi chàng bằng cậu. Chàng suy nghĩ một lát rồi hỏi:
- Nguyễn Trãi, có phải là người ấy không?
- Đúng vậy, đúng là Ức Trai tiên sinh. Có thể nói, người này là một Khổng Minh Gia Cát của Đại Việt!
- Xin cho nghe tiếp!
- Theo tôi biết thì lúc Nguyễn tiên sinh đến với Chúa Lam Sơn ở Lỗi Giang vào cuối năm Nhâm Dần, thì tuy đã tạo được chiến thắng ở huyện Khôi do tinh thần liều chết của quân sĩ, nhưng Nghĩa quân Lam Sơn chỉ còn chưa đầy một Lữ, nghĩa là chỉ còn được khoảng năm trăm quân. Trước tình hình quân số bi đát đó, thì Tiên sinh xuất hiện, như một vì sao sáng trên bầu trời tăm tối. Chúa Lam Sơn được Nguyễn Trãi như được Ngọa Long, bèn phong làm Tuyên Phụng đại phu, Hàn Lâm thừa chỉ, kiêm Lại Bộ Thượng thư, coi việc Nội mật. Tiên sinh dâng lên Vương ba kế sách Bình Ngô. Phúc thay cho nhân dân Đại Việt, bởi trước khi đến với Chúa Lam Sơn, ông đã nhìn ra những đối sách cần thiết phải thực hiện để đuổi giặc. ông đề nghị với Vương tạm thời hòa hoãn với địch.
Lúc đầu Lê Lợi không chịu nghe theo, ông dùng lời thuyết phục: Hòa với giặc để củng cố lại lực lượng, chấm dứt những khó khăn về lương thực và quân số, cần nhất là tạo dựng những căn cứ địa quân sự vũng chắc để có điều kiện chiến đấu lâu dài. Vận động nhân dân từng vùng đứng dưới cờ đại nghĩa, kiên định tinh thần quân sĩ "Vì nước quên mình", chịu đựng gian khổ, khắc phục mọi khó khăn, từ đó phát động cuộc chiến sâu rộng trong toàn cõi Đại Việt, chứ không còn thu hẹp trong phạm vi địa phương.
Từ kế sách và những mục đích đó, ông cải tổ lại quân đội,tổ chức hình thành chính quyền, lợi dụng mọi cơ hội để làm lớn mạnh khí thế. Dùng tâm lý để đánh vào lòng địch, làm suy giảm tiềm năng sức mạnh của chúng. Chỉ trong vòng chưa đầy hai năm, khí thế Nghĩa quân đã vững mạnh. Một kế hoạch tiến công gồm ba bước đã được vạch ra.
Ngày 20 tháng 9 năm Giáp Thìn, Lê Lợi tung quân chiếm đồn Đa Căng, đánh tan quân cứu viện của địch. Diệt tướng giặc là Trần Trung và hai ngàn quân địch trong trận Bồ Đằng.
Tháng 11 cùng năm, hạ thành Trà Long. Hiện nay đang tiến thẳng ra Nghệ An để giải phóng toàn bộ vùng này, làm bàn đạp diệt địch trên toàn cõi, khí thế đang như thác vỡ... Thế mới biết, một tài năng lớn cần thiết là dường nào! Thiếu hiệp có ý định dưới cờ tụ nghĩa chăng?
Nguyên Huân đáp:
- Hy sinh thân mình là bổn phận và trách nhiệm. Đất nước vẫn chưa sạch bóng giặc thù, dân tộc vẫn còn trong xích xiềng nô lệ, tại hạ họ lại ngồi yên mà nhìn hay sao? Bởi chưa rõ được tình hình của các cuộc khởi nghĩa nên mới còn trù trừ đó thôi!
Ba ngày sau, Nguyên Huân lên đường tìm đến căn cứ kháng chiến, chàng không tìm ra mắt Lê Lợi, mà nhập ngay vào đội ngũ quân số của Nghĩa quân. Chàng tự nghĩ :" Vị trí nào cũng nằm trong ý nghĩa chiến đấu diệt giặc để cứa nước. Giá trị đóng góp của mỗi người ngang nhau, mỗi người mỗi trách vụ, đất nước chỉ cần ở ta tài năng và trí dũng..."
Chàng trở thành một Nghĩa binh vào tháng 6 năm ất Tỵ. Binh đội chàng dưới quyền chỉ huy của tướng Đinh Lễ, bàn chân chàng đã đi cùng khắp các huyện, hạt thuộc Diễn Châu, Thanh Hóa. Chàng đã tham dự tất cả những trận đánh và góp phần đem lại các chiến thắng lẫy lừng cho Nghĩa quân. Tướng giặc là Thôi Tụ kinh hồn bạt vía, đóng chặt cửa thành không dám ra đối chiến.
Nhưng với thời gian, Nguyên Huân nhận ra rằng, với địa vị của một người lính, cùng với những luật lệ ràng buộc, chàng không thể thi thố được hết khả năng của mình, không thể tự mình làm những điều vượt ra khỏi kỷ luật và phạm vi của một người lính. Khi xung trận, chàng không được rời bỏ hàng ngũ chiến đấu, không thể tự mình được phép truy kích địch. Chàng không thể hiển rộng thần uy, mà phải cơ nào đội nấy, tiến thoái theo trống trận. Bởi thế, trong suốt thời gian trong quân ngũ Nghĩa binh, chàng chỉ có thể cùng anh em trong cơ đội thi hành những mệnh lệnh của thượng cấp một cách chu toàn.
Trong những trận tấn công, chàng khéo léo không tỏ ra trội hơn các đồng ngũ, chàng chỉ có thể dùng đến võ công siêu tuyệt của mình âm thầm bảo vệ tính mạng cho đồng đội; do vậy, trong suốt những trận đánh, dẫu khốc liệt cách mấy, sự tổn hại về nhân mạng trong cơ đội của Nguyên Huân hầu như không đáng kể. Những Nghĩa binh đồng ngũ không ai biết gì về Nguyên Huân ngoài một nhận xét chung: chàng là một người kỳ dị, lúc xung trận, chỉ thấy bóng chàng thoắt chỗ này, thoắt lại chỗ khác, có mặt kịp thời cứu nguy đồng đội kịp lúc... Những Nghĩa binh trong cơ đội, mỗi người ít nhất cũng một lần được Nguyên Huân, dưới cái tên là Đoàn Nam Thanh, cứu mạng.
Một buổi chiều, ngang qua khu vực rừng núi Diễn Châu, cơ đội Nghĩa binh có lệnh nghỉ dưỡng quân, những người lính mỏi mệt ngồi tựa vào những thân cây rừng, dùng bữa bằng những gói lương khô, mặc cho những tiếng gầm à uôm từ sâu trong rừng thẳm vọng lại. Nguyên Huân, ngồi dựa bên cạnh một người lính Nghệ, đó là một người đàn ông to lớn khỏe mạnh; người lính với số tuổi ba mươi này, vốn thường tự hào là tay giỏi võ trong cơ đội, được đề bạt làm toán trưởng, trông coi mười Nghĩa binh dưới quyền. Toán trưởng Phạm Hữu từ lâu vẫn thường nghe trong cơ đội xì xào về Nguyên Huân, về những hành động cứu nguy đồng đội như quỷ mị của chàng. Riêng Phạm Hữu thì vẫn không tin, vì theo nhận xét của họ Phạm, khuôn mặt Nguyên Huân không tỏ lộ những nét đặc biệt của những người có thân võ học thượng thừa, gò thái dương không nổi cao như những người từng khổ luyện nội công, và đôi mắt, không long lanh ánh tinh quang, mà chỉ là tia nhìn ấm áp bình thường. Tuy rằng chẳng tin, nhưng Phạm Hữu vẫn băn khoăn khi nhớ lại trận phục kích nhỏ ở Đông Lũy.
Lần ấy, họ Phạm giao đấu chính với tên tùy tướng của giặc, võ công tên này thuộc hàng cao thủ, Phạm hữu không sao địch lại. Giữa khi luống cuống nguy nan, Đoàn Nam Thanh xuất hiện đột ngột, cứu nguy cho Phạm Hữu với một ngọn trường thương trên tay. Họ Đoàn múa may quờ quạng, nhưng địch thủ hầu như chẳng chạm được vào người. Rồi bỗng dưng chàng té ngồi xuống đất trong lúc tên tiểu tướng kia lại đứng trơ ra như phỗng, bị Phạm Hữu dùng thương đâm chết tết. Lúc ấy Phạm hữu vẫn cho là nhờ may mắn, chứ chàng lính họ Đoàn kia, nếu cho là biết võ công thì cũng là quá đáng.
Bây giờ, tình cờ cùng ngồi với nhau dưới gốc cây, Phạm Hữu nhìn đăm đăm Nguyên Huân một chốc, đoạn thân mật hỏi:
- Này, chú họ Đoàn, quê chú ở đâu?
- Tiểu đệ quê ở Xương Giang.
- Ta nghe trong cơ đội đồn với nhau là chú có phép phân thân phải không?
- Phép phân thân nghĩa là làm sao?
- Là có thể chia mình ra ở ba, bơn chỗ khác nhau cùng một lúc!
- Phạm đại ca tin như vậy à?
- Thì ta cũng nghe anh em nói vậy!
- Ai nói với đại ca thế?
- Anh em Nguyễn Giai, Nguyễn Tất. Anh em họ thuật lại cho ta nghe lần chú đã cứu cả hai gần như cùng lúc, trong khi ngộ hiểm ở hai nơi trong cùng một trận đánh..
- Úi chà, đại ca tin làm gì những chuyện nhảm nhí ấy...!
Một tiếng gầm vang lên ngắt ngang lời Nguyên Huân, đi theo là một mùi hôi thối nồng nặc, hai khối đen to lớn từ trong bụi cây rậm trước mặt phóng vụt ra, nhằm Nguyên Huân và họ Phạm chụp xuống... Phạm Hữu thất kinh, nhưng vốn là con nhà võ, y phản ứng rất nhanh, tràn người lăn xuống đất sang một bên lẹ như con vụ, cùng lúc họ Phạm nghe một tiếng rít rất lạ sát bên tai, và hai tiếng rống thảm thiết của hai con vật đồng lúc vang dội. .. Phạm Hữu xoay người lại, y vô cùng kinh ngạc, Nguyên Huân vẫn ngồi dựa vào gốc cây, trước mặt hai bên, hai con vật dữ chỉ còn là hai cái xác, máu phun ra từ một vết thương rất nhỏ trên ngực. Cả hai đã bị một vật gì đó, đâm xuyên qua tim.
Phạm Hữu sững sờ, hết nhìn Nguyên Huân lại nhìn xác hai con cọp to lớn. Nguyên Huân vẫn ngồi nhắm mắt tựa vào gốc cây như hóa đá...
Phạm Hữu không dừng được cất tiếng hỏi:
- Thế này là thế nào?!
Mắt Nguyên Huân mở ra:
- Tiểu đệ cũng như đại ca, không biết tại sao, chắc có ai đã cứu chúng ta!
Phạm Hữu im lặng không nói gì. Sự việc được trình lên, tướng Đinh Lễ thân đến quan sát, cũng không đoán được hai con vật bị giết bở loại khí giới gì, và ai đã tiếp cứu? Hai khối thịt đang đà phóng xuống, sức nặng cả ngàn cân, dường như bị đánh bật tung lên, lật ngửa về phía sau. Đinh Lễ gạn hỏi, Nguyên Huân một mực trả lời là lúc ấy vì quá hết hoảng chỉ biết nhắm nghiền mắt chờ chết, nên không còn biết được điều gì Đinh Lễ vốn là một dũng tướng trăm trận, nhưng ông không thể tin được trên đời lại có người có công lực thượng thừa dường ấy. Chỉ có Phạm Hữu, tuy không nói được gì, nhưng theo linh cảm, tin chắc con người kỳ tài ấy chính là Nguyên Huân.
Phần Nguyên Huân, chàng vẫn tự nghĩ, đóng góp công sức mình cho Tổ quốc có nhiều cách. Chàng không muốn ra mắt Bình Định Vương, hoặc Quân sư Nguyễn Trãi, hoặc là gặp Trần Nguyên Hãn; không phải chàng tự thị với tài năng của mình, nhưng là để có được một phương cách tiêu diệt kẻ thù hợp với năng lực, thiết thực và hữu ích hơn. Bây giờ, nếu bằng vào tài năng, được giao cho sứ mệnh của một viên tướng cầm quân, chàng vẫn cảm thấy có sự gò bó, vẫn cảm thấy một sự hạn chế nào đó. Khả năng của chàng không phải ở những vai trò này, và chàng cũng không cầu cái chức danh hạn hẹp, nghĩa là đứng ở vị thế cao hơn người khác. Chàng chỉ muốn xử dụng bằng hết cái năng lực hiện có.
Trong hàng ngũ đội quân xâm lược khổng lồ hung bạo kia, vẫn có những con người bị ép buộc đặt chân lên đất nước chàng để chém giết, còn chàng, Nguyên Huân, lại không thể nhắm mắt, cũng lấy chém giết làm phương châm hành động. Những tên lính giặc Minh kia, chúng nào có muốn rời bỏ quê cha đất tổ, rời bỏ vợ con, rời bỏ đời sống an lành để lao vào lửa máu chém giết ở một nơi chốn xa xôi, thí thân cho mộng cuồng điên, tham bạo của những tên chủ tướng, của bọn vua chúa ở trên ngôi cao; chàng không thể, không muốn, trút căm thù lên đầu những con người ấy. Kẻ thù, chính là những tên lấy quê hương chàng làm điều tàn bạo để mưu lợi, đem dân tộc chàng vào vòng nô dịch để bóc lột sức người, sức của, để làm giàu thêm cho đất nước của chúng; những tên đó đáng cho chàng dùng tài sức mà tận diệt.
Bọn Thất Sát trong hàng ngũ của quân Minh, chính là những: tên bạo lực then chết, là công cụ đắc lực nhất của Minh triều. Chúng hành động tàn bạo, cướp bóc và chém giết dân lành Đại Việt không ghê tay. Diệt trừ bọn Thất Sát là mục tiêu thiết yếu nhất, và như thế, chàng không thể tiếp tục kéo dài thời gian trong hàng ngũ chiến đấu của Nghĩa quân.
Từ khi tên cầm đầu chóp bu của chúng, là Dương Vương không còn nữa, bọn Thất Sát đoàn hầu như đã tan vỡ, hay đúng hơn, nó không còn được sử dụng trong khía cạnh tiêu diệt các môn phái võ lâm Trung Thổ, mà chúng được duy trì, xử dụng mạnh hơn nữa trong công cuộc xâm lược của bọn chủ tướng. Người chỉ huy cao nhất của chúng đang ở Đại Việt là Mã Kỳ, một trong những tên tướng tàn bạo nhất, và điều khiển trực tiếp đoàn Thất Sát trên chiến trường Đại Việt là hai tên: Tạ Cương và Vu Hán. Hai tên này, ngoài võ công cực kỳ cao siêu, là hai tên hung hiểm, bạo ác nhất. Thất Sát đoàn là những tên có nhiệm vụ do thám, những tên có bổn phận theo dõi, khám phá ra những cuộc nổi dậy của Nghĩa quân, để bóp chết từ trong trúng nước. Chúng toàn là bọn cao thủ, Nghĩa quân khó có người đủ sức chống trả... Chúng phải bị tiêu diệt, đó là trách nhiệm đúng với khả năng của chàng.
Nguyên Huân tạm rời hàng ngũ Nghĩa quân. Một thân một kiếm, chàng âm thầm bỏ đi, và từ đó Nguyên Huân trở thành nổi kinh hoàng cho bọn Thất Sát, gây ra trong hàng ngũ bọn giặc Minh những hoang mang, rúng động. Những nơi đóng quân của chúng, những đồn bót, những thành lũy, những doanh trại, nơi nào có mặt quân Minh là có mặt của Nguyên Huân.
Bọn Thất Sát tổn thất nhân số ngày càng nhiều, nhưng chúng càng ráo riết truy tầm hung tinh, thì kiếp sát để lại hiện trường lại càng làm cho chúng thêm run sợ. Nguyên Huân tận diệt chúng không chút xót thương, chàng không để cho một tên Thất Sát nào sống sót. Chúng là những tên xứng đáng phải chết, chàng không hề bị dằn vặt về sự tàn sát của mình. Chúng là những con rắn độc, không chỉ là nổi kinh hoàng cho dân tộc chàng, mà còn cho cả trăm họ Hán tộc Bị tiêu diệt quá nặng, số bọn Thất Sát còn lại co cụm về Tây Đô. Chúng không còn dám công khai đi lại xách nhiễu dân chúng nữa. Dưới trướng của Tạ Cương, Vu Hán, hơn hai ngàn tên Thất Sát được tung đi hành động rải rác trên đất nước phương Nam, giờ chỉ còn lại sáu, bảy trăm tên co rút về Tây Đô có hào có lũy...
Được sự tăng viện của Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị, tướng Đinh Lễ kéo quân vây hãm Tây Đô. Bọn giặc Minh bị kẹp giữa hai gọng kìm của hai đạo quân với khí thế đang lên ngùn ngụt. Tây Đô là một thành trì hết sức kiên cố, tường cao hào sâu. Đây là nơi đầu não, bản doanh của địch.
Thành được Hồ Quý Ly xây dựng vào năm Đinh Sửu (1397), và bắt buộc vua nhà Trần cùng triều đình phải bỏ Thăng Long dời đô về đấy, nên gọi là Tây Đô. Sau khi tiêu diệt nhà Hồ, quân Minh đã biến Tây Đô thành một căn cú quân sự lớn để khống chế và kiểm soát cả một vùng rộng lớn từ Thanh Hóa, Nghệ An, đến Tân Bình, Thuận Hóa, do Mã Kỳ, một trong những tên võ quan cao cấp của địch, đầy mưa mô trấn giữ.
Dưới tay Mã Kỳ, ngoài sáu, bảy vạn quân, còn cả một lực lượng Thất Sát đoàn vô cùng lợi hại. Mã Kỳ cũng là một võ quan ở trên đất Đại Việt lâu nhất. Y vừa khôn ngoan, vừa tham tàn. Mã Kỳ tung hai vạn quân đón đánh hai đạo quân của Đinh Lễ và Lê Sát, Lê Nhân Chú, Bùi Bị nhưng bị Nghĩa binh đánh một trận tan tác, phải rút vào Tây thành cố thủ.
Đinh Lễ bủa quân vây thành, cho quân sĩ kêu réo đích danh Mã Kỳ chửi mắng. Mấy lần Mã Kỳ mở cửa thành ra nghênh chiến, nhưng lần nào cũng bị đại bại. Hai đạo Nghĩa binh để lại một bộ phận để hoàn thành, còn bao nhiêu đều tỏa ra hết các châu huyện đánh chiếm, chỉ vài ngày sau, toàn phủ Thanh Hóa đã hoàn toàn ở trong tay Nghĩa quân.
Tây Đô bị cô lập, quân số trong thành tuy đông, nhưng trước khí thế mờ Ngưu Đẩu của Nghĩa quân, chúng chỉ cố thủ liều chết giữ thành, chứ không mở được một trận phản công nào, tình thế cứ vậy kéo dài, tướng Đinh Lễ hết sức nóng ruột...
Một hôm, như thường lệ, Lê Sát cho quân khiêu chiến. Từ trong thành một tiếng pháo bỗng nổ vang, và cửa thành mở rộng. Trong thành, kéo ra một đạo quân, một đạo quân hết sức kỳ dị. Đi đầu là hai người ngồi trên lưng hai chiến mã , trên lưng ngựa đi đầu, một người ăn vận theo lối võ lâm Trung Nguyên, râu quai nón, không giáp trụ, giắt phía sau hai thanh trường kiếm, đôi mắt sáng như sao băng. Trên con ngựa kế, một người dáng nho nhã, mặc bộ quần áo trắng, tóc búi cao, đuôi tóc bỏ xõa xuống sau gáy, tay cầm một cây quạt ngà, tướng mạo như một thư sinh văn nhược, phong lưu. Theo sau hai nhân vật này là một đoàn người ăn mặc cũng kỳ dị không kém, không mũ mạo, giáp trụ, lưng đeo trường kiếm, mặc thường phục màu xanh xám, trên đầu bịt khăn võ sinh đủ các màu xanh, vàng, trắng, đỏ, tím,nâu, đen. Tất cả không quá tám trăm tên. Nghĩa binh vô cùng kinh ngạc, không hiểu chúng định giở trò gì với đạo quân ít ỏi ấy!
Kéo ra khỏi chân thành một quãng, tám trăm quân đủ màu sắc xếp thành một trận thế lộn xộn, không thứ tự, lớp lang gì. Đứng giữa trận là hai nhân vật võ lâm đi đầu, đối diện với các tướng binh Đinh Lễ, Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Bùi Bị. Các mãnh tướng của đoàn Nghĩa quân hùng hậu bày thành trận Trường Xà.
Tướng Đinh Lễ cất tiếng quát:
- Hai tên giặc tên họ là gì? Mang một đoàn người quân chẳng ra quân, lính chẳng ra lính ra đây với mục đích gì?
Tên râu quai nón cười lớn, tiếng cười của y vang dội cả một vùng:
- Ta là ai? Ngươi muốn biết, ta cũng chẳng hẹp lượng gì. Ta là Bát Tý Na Tra Tạ Cương, người bên cạnh ta chính là Ngọc Diện Lang Vu Hán. Khắp cả võ lâm Trung Nguyên, không ai không nghe đến danh ta. Ta thấy bọn các người lăng xăng, ta ngứa mắt, nên hạ cố ra đây dạy dỗ một phen!
Lê Sát quát lớn:
- Không được vô lễ, thì ra hai đứa chúng bay là bọn cầm đầu Thất Sát đoàn, hãy cút đi, gọi Mã Kỳ ra đây. Một đám quân như thế này, ngươi làm gì được!
Nói chưa dứt lời, từ cây quạt trên tay của Vu Hán, lấp lánh một vệt sáng phóng ra, nhằm mặt Lê Sát. Họ Lê nghiêng người, lưỡi phi đao mỏng rít qua màng tang, bay thẳng như sao xẹt đánh trúng vào viên cận tướng đứng rất xa ở phía sau, ngã nhào xuống ngựa.
Từ trong hàng quân của Đinh Lễ, hai viên tướng chẳng chờ lệnh, phóng ngựa phi ra, vung đoản đao tấn công Tạ Cương cùng Vu Hán. Hai họ Đinh, Lê chỉ thấy Vu Hán mỉm cười giải lụa bạch trong tay y tỏa ra như một vệt mây trắng; chỉ nghe tiếng giải lụa quyện gió, tiếng rít lạnh người, một viên tùy tướng đã bị đánh vỡ đầu, ngã lăn xuống ngựa, cùng lúc có tiếng quát của Tạ Cương, thanh trường kiếm trên vai y đã rời khỏi vỏ, lưỡi kiếm như một đạo cầu vòng, chụp xuống, chặt đứt đôi đoản đao trên tay viên tướng Việt, hớt bay một bên bả vai. Viên tùy tướng chưa kịp giao thủ đã táng mạng.
Đinh Lễ giật mình kinh hãi. Võ công hai tên này thật là lợi hại, ông không dám coi thường, phất cờ hiệu toan ra lệnh cho cả hai đạo quân binh cùng xông lên tấn công; nhưng từ rất xa, một tiếng hú thoắt vọng đến. Càng đến gần âm thanh tiếng hú càng lồng lộng, đạo binh Nghĩa quân vừa chợt khởi động bỗng đứng im, ngàn cặp mắt chăm chú nhìn vào một bóng người vừa xuất hiện.
Thân pháp người mới đến như một con thần điêu xòe cánh, lộn một vòng trên không, rồi đặt chân lên đầu con ngựa của viên tùy tướng vừa tử trận, đang phi nhanh về hướng Nghĩa quân. Chiến mã ngừng lại cách tướng Đinh Lễ một quãng ngắn. Toàn bộ chiến trận vẫn im phăng phắc.
Đứng trên đầu ngựa là một thanh niên, mặc bộ võ phục màu vàng, giữa ngực in rõ hình một chim Phượng tím, đầu thanh kiếm nhô lên sau lưng. Nguyên Huân, chính là Nguyên Huân, vội nhảy xuống ngựa, chàng đến trước mặt Đinh Lễ, nghiêng mình:
- Xin tham kiến Tướng quân!
Tướng Đinh Lễ cau mày, trong trí nhớ, ông thấy người thanh niên này có nét quen thuộc, nhưng vẫn chưa thể nhớ ra, đành nghiêng đầu đáp lễ:
- Thiếu hiệp là ai? Có thể cho ta được biết mục đích đến đây được chăng?
- Tại hạ là người Đại Việt, xin thưa cùng Tướng quân một điều...
Ba tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị cùng phóng ngựa đến đứng quanh. Đinh Lễ điềm tỉnh cất tiếng:
- Xin cứ nói!
Nguyên Huân xoay người, chàng vòng tay thủ quyền chào ba vị tướng quân vừa tới, nói:
- Sở dĩ hôm nay tại hạ đến đây là vì hai tên kia, Vu Hán và Tạ Cương, cùng với bọn Thất Sát tay sai của chúng!
- ý ngươi là thế nào?
Lê Sát nóng nảy hỏi.
- Hai tên này vốn là tuyệt đại cao thủ của võ lâm Trung Nguyên. Bọn chúng được Pháp Vương Dương Tiêu chỉ định đứng đầu bọn Thất Sát tại Đại Việt. Mã Kỳ tuy là tên đầu sỏ, nhưng mọi sự điều động cho bọn Thất Sát là do ở hai tên này. Những việc làm của chúng chắc các vị Tướng quân chẳng được rõ lắm.
Thất Sát đoàn hiện diện trên đất nước ta là để thi hành nhiệm vụ do thám, ám sát, bắt cóc, bọn chúng xâm nhập mọi nơi để lấy tin tức, hoặc phá vỡ mọi mầm mống nổi dậy chống đối; cho nên chúng gồm toàn là những tay võ nghệ cao cường. Chúng liên hoàn từng nhóm với sở trường Thất Tinh Kiếm trận. Hiện diện tại nơi này, chỉ với tám trăm tên kia, nếu chúng khai mở Thất Tinh Liên Hoàn Kiếm trận, sẽ có uy lực lớn hơn cả mấy vạn quân, bởi chính vì thế mà tại hạ khẩn cấp đến đây!
Lưu Nhân Chú gằn giọng:
- Ngươi đến đây dùng lời để dương danh bọn chúng, và để làm nhụt nhuệ khí của quân binh ta chăng?
Mắt nhìn như tóe lửa vào đám cỏ gai Thất Sát trước mặt, Nguyên Huân vẫn ôn tồn đáp lời họ Chu:
- Việc quân binh là quan trọng, giặc đang ở trước mắt, xin Lưu tướng quân đừng nghi ngờ tại hạ. Tại hạ vì sợ chiến trận ngày hôm nay sẽ có sự tổn thất lớn, nên vội đến đây thưa thật để tránh sự khinh xuất, đó là lời thật. Xin chư vị Tướng quân cho phép tại hạ được cáng đáng việc này!
Nói vừa dứt, thân pháp chàng đã như vệt khói vàng tụ lại đứng sừng sững trước đầu ngựa Tạ Cương, hắn giật mình cho ngựa thối lui, vừa quát hỏi:
- Tên hoàng y cường tặc kia, có phải ngươi là thủ phạm đã lén lút ám hại các thủ hạ ta đó chăng?
Nguyên Huân nhếch mép cười nhạt:
- Tạ Cương, Vu Hán, cường tặc chính là bọn các người, là bọn ngoại xâm tham bạo. Còn ta, đường đường là một thần dân Đại Việt, ta bảo vệ cho xứ sở của ta mà ra tay trừ lang sói, sao lại gọi là lén lút?
Vu Hán không nói gì, hắn nhìn Nguyên Huân nở nụ cười, nụ cười và ánh mắt hắn thật kỳ lạ, thoáng có chút xao động trong lòng Nguyên Huân. Như chợt hiểu, chàng quắc mắt nhìn lại y. Tia nhìn dường như có uy lực, nụ cười trên môi hắn tắt ngấm. Nguyên Huân trầm giọng:
- Con sói trai lơ kia, đừng giở Nhiếp Hồn Pháp Ma công, đối với ta vô ích. Nếu hôm nay bọn chúng bay khấu đầu nhận tội lỗi, ta sẽ vì đức hiếu sinh mà để cho mang thân về nước. Biết ăn năn những hành vi tàn bạo, đó là cái phúc của tổ tiên các ngươi để lại đó!
Tạ Cương như không chịu nổi những lời lẽ của Nguyên Huân, y hét như sấm:
- Ngươi! Ngươi là cái thứ gì mà dám lớn lối đến như thế?
Quát chưa dứt Tạ Cương đã toan xuất thủ. Nguyên Huân giơ tay ngăn hắn lại:
- Ta nói cho ngươi biết, dẫu cả hai đứa liên thủ cũng không đáng cho ta động tay. Vu Hán, ta hôi, võ công ngươi với Tâm Xà Lang quân Mã Cốt Ngạc thế nào?
- Sao người biết được Sư bá ta?
- Vu Hán, ngươi là một tên khi sư diệt tổ, mặc dù Thiên ái sư phụ ngươi, cũng chỉ là một con ma đầu đáng chết. Có phải ngươi sợ Mã Cốt Ngạc truy sát mà lẩn sang Đại Việt ta rồi làm những hành vi tàn bạo như thế chăng? Bao nhiêu thiếu nữ trinh trắng đã bị ngươi dày vò, tội ấy quyết không tha được. Nhưng nếu người thật lòng ăn năn, ta cũng có thể tha thứ cho ngươi về cố quốc. Mã Cốt Ngạc thì đã bị giết rồi.
- Ngươi là ai mà biết những điều ấy! Đã thế, hôm nay không để cho ngươi sống được!
Nói xong, y ngẩng mặt huýt lên một tiếng dài như tiếng còi. Tám trăm tên Thất Sát nhất loạt khai triển Thất Tinh Liên Hoàn trận pháp bao vây Nguyên Huân vào giữa, đồng thời Tạ Cương, Vu Hán nhất tề xuất thủ.
Hai thanh kiếm trên tay Tạ Cương rít vèo vèo, dưới ánh nắng chói chang, bóng kiếm đảo ngược vào nhau như đôi rồng quẩy khúc, kình lực hết sức mãnh liệt, thật không hổ danh là Bát Tý Na Tra. Y tung người xuống ngựa, hai thanh kiếm tỏa rộng như có muôn vạn mũi kiếm tấn công vào các trọng huyệt của Nguyên Huân, chiêu thức kiếm pháp của y hết sức quái dị và tàn độc; trong khi giải lụa bạch trong tay Vu Hán tung ra đánh vào thượng bàn của chàng: giải lụa mong manh nhưng có uy lực không thua gì thiết côn, cùng lúc năm gả bịt khăn vàng, Kình Dương, nhất loạt nhảy vào hình thành kiếm trận Thất Tinh.
Nguyên Huân ngửa mặt lên trời, tiếng hú chàng như xoáy vào bầu không gian lồng lộng, tiếng hú như xoáy vào từng màng nhĩ của hàng vạn quân binh đang trố mắt theo dõi trận chiến lạ mắt, lần đầu tiên được thấy trong đời đang diễn ra.
Hốt nhiên, thân người Nguyên Huân thoắt trở thành một chiếc bóng vàng mờ nhạt xuyên giữa vùng kiếm ảnh; tức khắc năm chiếc đầu bịt mặt như cùng rơi xuống mặt đất cùng lượt. Chàng quyết tâm đại khai sát giới.
Hơn tám trăm tên Thất Sát bao vây lấy chàng như nêm cối. Như một con Thần điêu, Nguyên Huân tung mình xoay tròn trên cao, những chiếc đầu bịt khăn đủ màu sắc, những cánh tay còn cầm theo vũ khí bay văng lên trong khoảnh trời đầy nắng như những vật vô tri, nhuộm đầy máu đỏ, rơi xuống, lăn lông lốc, rồi bị đạp nhầu lên dưới chân của chính bọn đồng bọn. Những tiếng rú như bị nghẹt cứng trong cổ họng chưa kịp kêu lên... Nguyên Huân quyết tận diệt bọn Thất Sát không chừa một tên, rồi mới thanh toán hai tên đầu sỏ Tạ Cương, Vu Hán bám theo, quyết ngăn chặn không cho chàng tung hoành. Nguyên Huân quát:
- Ta đã cho hai đứa bay được sống thêm đôi khắc nữa, nhưng muốn đi trước dắt đồng bọn thì ta chẳng hẹp lượng gì!
Huyền Thiết kiếm thoắt như biến mất. Nguyên Huân vận Hỏa Vân Công vào Vân Hà Tỏa Kiếm, Sát Na Vô Lượng ra..., chỉ nghe những tiếng rú thê thảm liên tiếp, thân người ngã xuống như thân chuối đổ, đè chồng lên nhau. Tạ Cương, Vu Hán, thần kiếm chém đứt đôi người, Thất Tinh Kiếm trận đã vỡ hoàn toàn, trên trận địa, lúc này còn khoảng hai trăm tên Thất Sát kinh hoàng, thất thần ôm đầu tìm hướng chạy...
Trận chiến khủng khiếp diễn ra trước mắt mấy vạn Nghĩa quân. Cả tướng, sĩ đứng ngây người sững sờ như tượng. Bốn Tướng lĩnh Nghĩa quân như những kẻ ngủ mê, đến khi định thần thì cuộc chiến hầu như đã tàn. Nguyên Huân đứng giữa đám xác giặc ngổn ngang, uy dũng như một vị thần, chàng nhìn khắp rồi cung tay cất tiếng chào:
- Xin bái biệt!
Bóng vàng vút lên cao, thoáng chốc mất dạng. Đinh Lễ, thần trí còn ngơ ngẩn, nói một mình:
- Phải rồi, đúng là y, đúng là y, tiếc thay...
Lê Sát hỏi:
- Đinh huynh nói gì vậy?
Đinh Lễ thở dài nói:
- Tiểu đệ đã nhớ ra, y là một Nghĩa binh trong đạo quân của tiểu đệ. Tiểu đệ thật có mắt như mù. Y quả là con rồng thần, thấy đầu mà chẳng thấy được đuôi. Linh khí của Đại Việt ta đã hun đúc nên một kỳ nhân tuyệt vời, cuộc chiến này, chúng ta nhất định sẽ thành công...
Quả đúng như lời Tướng quân Đinh Lễ, hạ được Tây Đô, thanh thế của Nghĩa quân ào ào như sấm dậy. Suốt một dải đất từ Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa đều được giải phóng, giặc chỉ còn lại những thành trì cô độc như những cù lao giữa biển lớn, chúng liều chết cố thủ.
Nghĩa quân suy tôn Lê Lợi là "Đại Thiên Hành Hóa". Đại quân rùng rùng như thác vỡ bờ tiến thẳng ra Bắc. Những trận thắng lớn liên tiếp nổ vang dội làm nức lòng người: Trận Ninh Kiều ngày 12 tháng 8 năm Bính Ngọ, đánh tan đạo quân của Trần Trí; trên ngàn xác địch phơi thây tại trận đã mở đầu cho những chiến thắng khác do Phạm Văn Xảo lập công đầu.
Trận Cầu Mộc ngày 20 tháng 9 năm Bính Ngọ do Lý Triện chỉ huy, giết chết các tướng giặc Đào Sâm, Tiền Phụ và Triệu Trinh, chủ tướng giặc là Vi Lượng bị bắt sống với hàng ngàn thây giặc ngổn ngang khắp trận địa.
Trận Xa Lộc ngày 20 tháng 10 cùng năm đã làm uy thế Nghĩa quân càng lúc càng tăng. Trận đánh ở cầu Ba Na ngày 5 tháng 11 - Bính Ngọ, đánh Sơn Thọ, Trần Trí bại vong Trận Tốt Động, Chúc Động ngày 10 tháng 11 năm Bính Ngọ, giết chết 70.000 tên giặc, bắt sống 12.000 tên, một số tướng lĩnh của địch tử trận, trong đó có Thượng thư Trần Hiệp và Nội quan Lý Lương.
Đại quân Lam Sơn kéo ra vây đánh Đông Quan, đồng thời chia lực lượng đi giải phóng dần dần các miền phụ cận khác Bị vây ngặt ở Đông Quan, Vương Thông viết thư, sai hai người tâm phúc là Từ Thành và Vũ Nhàn, hai lần dâng gửi về triều. Trong thư có đoạn:
"Chớ tham chỗ đất một góc làm nhọc quân đi muôn dặm, nếu có được số quân nhiều như trước đây, và bảy, tám tướng giỏi như Trương Phụ, thì mới có thể đánh được; nhưng dù có đánh được cũng không thể giữ được"(Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn).
Lá thư này bị lọt vào tay quân ta ngày 10 tháng chạp năm Bính Ngọ. Được tin Vương Thông và đạo quân của y bị vây khốn ngày 26 tháng chạp cùng năm, Minh Nhân Tôn cử hai đạo binh sang cứu. Các đội quân ở Nam Kinh, Bắc Kinh, Trung Đô, Vũ Xương, Hồ Quảng, Giang Tây, Phúc Kiến, Triết Giang, Sơn Đông, Hồ Nam, Quí Châu, Quảng Đông, Quảng Tây được điều động để thành lập đạo viện quân thứ nhất.
Đạo quân tiếp viện thứ hai lấy quân ở Thành Đô, Tứ Xuyên,Vân Nam hợp thành. Hai đạo này rưng dụng quân ở khắp các nơi hết sức khó khăn, mới đủ số mười lăm vạn quân, và ba vạn ngựa với quân trang, vũ khí.
Từ nhiều năm qua, dân chúng Trung Hoa đã nổi lên chống lại Minh triều, như Đặng Mậu Thất, Đường Trại Nhi ở Sơn Đông, cuộc nổi dậy của nhân dân Quảng Tây, Vân Nam: Tích Lịch Đại Vương đã chiếm đất xưng đế, các xứ Tầm Châu, Giang Tả không giữ được. Cuộc nổi dậy của dân tộc thiểu số "áo Đỏ", Bình Lạc, Tư Ân, Nghi Sơn cũng nhất tề nổi dậy, và phủ Tư Minh cũng đem quân phản lại Minh triều. Do đó, mãi đến tháng 7 năm Đinh Mùi, hai đạo quân ấy mới tiến gần đến biên giới Hoa- Việt.
Đạo quân tiếp viện thứ nhất gồm 100.000 quân và 20.000 ngựa do An Viễn Hầu Liễu Thăng làm Tổng binh, Lương Minh làm Phó tướng, Binh bộ Thượng thư Lý Khánh làm Tham tán Quân vụ, Đô đốc Thôi Tụ làm Hữu Tham tướng, tiến theo đường Quảng Tây nhập Đại Việt.
Đạo thứ hai gồm 50.000 và 10.000 ngựa, do Kiềm Quốc công Mộc Thạnh làm Tổng binh, Từ Hanh làm Tả Phó Tổng binh, Đàm Trung làm Hữu Phó Tổng binh, theo đường Vân Nam mà tiến vào cửa Lê Hoa.
Mộc Thạnh là tên tướng già, dày kinh nghiệm chiến trường Đại Việt nên y hết sức thận trọng, không dám ồ ạt tiến sang, mà án binh, chờ đạo quân Liễu Thăng xung phá trước.
Khác với Mộc Thạnh, Liễu Thăng là một viên tướng trẻ, hung hăng, hiếu chiến, hiếu thắng, kiêu ngạo. Đã ba lần y tham chiến và đã thắng rất lẫy lừng ở biên giới phía Bắc, nên từ một Bách hộ phu tầm thường, y đã được thăng chức rất nhanh, lên Đô chỉ huy, rồi tước Bá, tước Hầu; nên khi nhận được thư gởi của Nguyễn Trãi, lá thư lời lẽ nhu thuận, y đánh giá cho rằng tinh thần nhân dân Đại Việt hèn nhát, khiếp nhược, y lại càng kiêu ngạo, ngông nghênh.
Ngày 15 tháng 9 năm Đinh Mùi, mười vạn quân Liễu Thăng đánh vào cửa ải Phả Lũy, tướng giữ ải là Trần Lưu phải lui về ải Lưu. Địch tiến đánh ải Lưu, Trần Lưu rút quân về Chi Lăng, là một cửa ải xung yếu, cách Phả Lũy khoảng một trăm dặm.
ải Chi Lăng là một ải đã có từ lâu đời, nằm trên một thung lũng nhỏ, bốn bề núi non hiểm trở bao bọc. Thung lũng hình bầu dục, dài khoảng sáu dặm, giữa phình ra, rộng chừng hai dặm; hai đầu thắt lại thành hai cửa vào ải. Cửa Bắc dựa vào Cai Kinh Sơn, một bên là Hàm Quỷ Sơn, còn gọi là Hàm Quỷ Quan, hay Quỷ Môn Quan. Cửa phía Nam, dựa vào Cai Kinh Sơn và Bảo Đài Sơn.
Hai bên sườn thung lũng là hai dãy núi chạy dài, núi non trùng điệp; dưới chân dãy Cai Kinh là con sông Thương nép mình uốn theo. Trong thung lũng còn có mấy ngọn núi nhỏ, phía Bắc có núi Phượng Hoàng và núi Vọng Phu, giữa thung lũng về phía Nam có núi Mã Yên cao khoảng hai mươi trượng, giữa là một cánh đồng lầy. Qua ải Chi Lăng tất nhiên phải đi qua cánh đồng lầy này, tại đây luôn luôn có một cây cầu bắc qua cánh đồng. Từ bao đời nay, Chi Lăng đã là nơi làm mồ chôn xác giặc, vào Chi Lăng là vào tử địa. Lê Hoàn và Hưng Đạo Đại Vương đã diệt địch tại đây.
Tại Chi Lăng có mười ngàn quân của Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Lễ, Đinh Liệt và Lê Thụ phục binh sẵn chờ địch; ngoài ra còn các toán dân binh địa phương phối hợp để cùng chiến đấu. Nguyên Huân cũng có mặt trong đám dân binh này, cùng với Lý Huề, người đứng đầu toán dân binh, là chỗ thân tình.
Trần Lưu được xử dụng làm mồi nhử Liễu Thăng, vừa đánh vừa rút chạy, nhử Liễu Thăng vào tử địa. Tên tướng Tàu càng sinh kiêu ngạo và coi thường quân Nam, hắn quyết tâm đuổi nã theo Trần Lưu.
Lang trung là Sử An và Chủ sự Trần Dung tìm đến Tham tán Quân vụ đại thần Lý Khánh, nói:
- Liễu tướng quân, từ lời nói đến sắc mặt đều kiêu ngạo, là điều binh gia rất kỵ. Địch có thể tỏ ra khiếp nhược, yếu mềm mà nhử quân ta vào chỗ chết. Sắc Thư đã căn dặn thiết tha là phải đề phòng mai phục, xin Ngài cố gắng khuyên can." ( Liễu Thăng truyện Minh Sử, quyển 154.)
Nhưng Liễu Thăng không nghe, bỏ ngoài tai lời can gián của tướng tá, đem mười ngàn quân đi trước mở đường tiến vào Chi Lăng, đó là ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi ( tức tháng 10 năm 1427).
Thấy Chi Lăng bỏ trống, phấn khởi trước ảo tưởng bất chiến tự nhiên thành, Liễu Thăng, như bao lần xung trận ở Hắc Long Giang ngày trước, đích thân y dẫn theo một trăm kỵ binh truy đuổi quân Nam. Một trăm tên kỵ binh này là một trăm tay cao thủ kết nghĩa sống chết cùng nhau, được gọi là Bách Hùng và nhờ Bách Hùng mà Liễu Thăng dã trở thành một danh tướng của Minh triều. Bất cứ một tên nào trong nhóm Bách Hùng, võ nghệ có thể một mình địch nổi trăm tay kiếm. Bọn chúng xung sát dư trăm trận từ nhiều trận địa, chúng cũng kiêu ngạo không kém Liễu Thăng, vì chưa một lần chiến bại.
Bách Hùng theo chân Liễu Thăng ào qua cửa ải, đại đao, kiếm kích loang loáng, xông xáo như chỗ không người. Đến Mã Yên, Liễu Thăng và Bách Hùng thúc ngựa vượt qua cầu sang phía Nam cánh đồng lầy. Dưới vó ngựa dồn dập của chúng, chiếc cầu không chịu nổi gãy đổ xuống, chia cắt Liễu Thăng và bọn Bách Hùng đã bên này cầu với mười ngàn quân tiên phong ở phía sau...
Đột nhiên, tiếng tù và, tiếng trống trận nổi lên, tiếp sau là tiếng pháo nổ rầm trời, Nghĩa quân và dân binh phục binh bốn bề đổ ra chặn đánh. Liễu Thăng tuy chột dạ, nhưng vẫn cùng Bách Hùng, như trăm con cọp dữ, nhảy vào bầy dê.
Nghĩa binh hàng hàng lớp lớp đổ ra, Bách Hùng theo sát Liễu Thăng tả xông hữu đột, đánh dạt binh Nam. Các tướng của Lam sơn dồn lại vì không thể cự địch, nhiều người đã chết dưới cây đại đao loang loáng như một đạo hào quang của Liễu Thăng. Bọn Bách Hùng tỏa rộng ra hai bên, một trăm thanh kiếm rít gió đánh dạt Nghĩa quân ra hai phía. Tướng Đinh Liệt, Lê Thụ, Lưu Nhân Chú, nổi danh là những mãnh tướng cũng không kháng cự nổi.
Nguyên Huân đứng bên sườn núi nhìn xuống, chàng nói cùng Lý Huề :
- Lý đại ca, tên xử dụng đại đao chính là Liễu Thăng, tên cao đồ của Thiên Sơn phái, hắn quả là lợi hại!
- Trần thiếu hiệp, đã đến lúc ta phải ra tay, nếu không e chậm trễ, cuộc diện sẽ nguy mất!
Nguyên Huân ngẩng đầu, chàng cất tiếng hú xung trận...
Lúc này, Đinh Liệt và Lưu Nhân Chú, xuất hạn đầy mình. Cây đại đao của Liễu Thăng như con rồng thần, mình hắn cự địch với hai viên tướng vẫn chiếm thế thượng phong, bản đao rộng sắc nước như một vòng hào quang lóe mắt, bổ ập xuống mạnh tựa núi đổ. Đinh, Lưu hai tướng đã thở hồng hộc, rùn thấp người vung ngang trường thương...
Chợt nghe tiếng hú quen thuộc vọng đến tai, Đinh Liệt vô cùng mừng rỡ:
"Tên tiểu tết của ta đã tới!"
Như được tiếp sức, ông mang hết bình sinh gạt mạnh thế đao của Liễu Thăng, hai cánh tay ông tê rần, cây trường thương văng khỏi, vừa lúc đại đao đã quay ngược về, bổ mạnh xuống, Đinh Liệt nhắm mắt. . . Một tiếng "choang" sởn gáy thanh đại đao của Liễu Thăng bay tung lên theo một đường vòng rộng rồi rơi xuống, dư lực hất văng Liễu Thăng, niềm tự hào của triều đình nhà Minh, bay khỏi mình con ngựa lúc này đã sụm xuống vì gân cốt bị đứt Da bởi chường phong của Tiên Thiên Công. Nguyên Huân đạp nhẹ vào cán, cây trường thương của Đinh Liệt đã ở trong tay, chàng xoay người đâm mạnh, mũi trường thương xuyên lút vào ngực tên tướng giặc, Liễu Thăng không kêu lên được một tiếng. Bấy giờ là cuối giờ Mùi, ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427).
áo vàng phấp phới, Huyền Thiết kiếm trong tay tỏa rộng một đám sương mù, kiếm phong rít lên, bọn kiếm sĩ Bách Hùng, đủ một trăm tên, trở thành những cái xác bất động, hồn vía của chúng cùng một lúc theo Liễu Thăng về Tàu.
Tướng Đinh Liệt, như đang sống thêm một giấc mơ sau trận chiến ở thành Tây Đô còn ghi đậm trong trí nhớ. Lưu Nhân Chú cũng ngỡ ngàng không kém. Giữa rừng núi Chi Lăng, mấy vạn quân, tướng nhà Nam đứng lặng người, bàng hoàng nhằm cảnh tượng diễn ra trước mắt...
Giết xong tên Bách Hùng cuối cùng, Nguyên Huân hướng về mọi người, đầu chàng gật nhẹ. Rồi chân điểm lên xác một tên giặc, chàng phóng mình lên không, lao vút về hướng Bắc, thân pháp như một Thần điêu vươn cánh, đến nỗi Lê Sát đang chỉ huy toán quân phục kích diệt đạo quân tiền phong của Liễu Thăng phải chống kiếm ngẩn người nhìn...
Đinh Liệt vẫn chưa hết bàng hoàng, ông nói với Lưu Nhân Chú:
- Quả là " NAM THIÊN NHẤT TUYỆT KIẾM"! Tiếc thay y như con rồng thần, không có phúc làm sao mà gặp lại...!
Người xưa cỡi hạc đi đâu
Mà nay hoang lạnh một bầu trời xuân!
Nguyên Huân về đến Vân Mộng Hồ. Lòng chàng nôn nao sau hai năm trời xa cách. Trong suốt hai năm gió bụi phong sương, chàng đã cố tâm quên đi một hình ảnh, hay chỉ là cố, xem nỗi nhớ nhung trong lòng mình, như là niềm nhớ thương về một người em gái... Thế nhưng, hai năm lao vào máu lửa, đôi mắt nào thăm thẳm buồn vẫn hiển hiện trong chàng... Những chiều dừng chân bên cánh rừng thưa đã nhạt nắng, những tối tựa mình vào vách đá núi dưới bóng trăng suông, kỷ niệm của bốn năm xưa trở về trong hồn chàng như một nỗi đày đọa.
Chàng hồi hộp bước qua cổng đá, qua con đường nhỏ lát đá phiến xanh dẫn vào căn nhà chính diện. Hình ảnh nào của hoài mong đang xao xuyến lòng chàng sẽ hiện ra trước mắt. Nguyên Huân chợt xúc động, dáng bé nhỏ của Hoài Nam đập mạnh vào mắt chàng. Nàng đang ngồi dưới tàn cây nguyệt quế.
Năm xưa, gần mười năm xưa, cũng nơi chiếc ghế đá này, chàng đã ngồi cùng với Uyển Thanh. Nguyên Huân chợt dừng lại. Hoài Nam, trong tay cầm một bông hoa nhỏ, bông hoa trắng mảnh mai, mái tóc nàng che nghiêng khuôn mặt thanh tú, dáng người nàng hình có nét phiền muộn.
Như linh tính có người đang nhìn mình, Hoài Nam ngước lên, và bắt gặp đôi mắt đang chiếu vào nàng những tia nhìn ấm áp đầy âu yếm. Hoài Nam run toàn thân bởi một xúc cảm đột ngột, nàng như muốn lả đi; nhưng một sức mạnh vô hình đẩy nàng lao về phía Nguyên Huân.
Trong vòng tay của người yêu dấu, Hoài Nam bất chợt kêu lên, tiếng kêu nửa như mừng rỡ, nửa như đau đớn, và rồi nàng ngất đi... Nghe tiếng kêu của Hoài Nam, Chu Cẩm Đoan, Bạc Thụy Miên và Dư lão tứ từ trong nhà chạy ra, cả ba sững sờ nhìn Nguyên Huân, và nhìn Hoài Nam đang ngất lịm trong tay chàng; rồi như sực tỉnh, ba người chạy vội đến vây lấy chàng, nhưng không ai thết nên lời. Cuối cùng, Bạc Thụy Miên rưng lệ nghẹn ngào:
- Thiếu gia! Thiếu gia đã về đấy ư!
Dư Tứ và Chu Cẩm Đoan vẫn đứng như trời trồng, Nguyên Huân nhìn quanh không thấy Uyển Thanh và Nhạc mẫu, linh tính báo cho chàng có chuyện chẳng lành, Nguyên Huân thoảng thốt hỏi:
- Có chuyện gì thế, Chu Thúc thúc?
Chu Cẩm Đoan buồn bã:
- Thiếu gia đỡ Tiểu thư vào nhà đã!
Đưa Hoài Nam vào nhà, Nguyên Huân điểm huyệt cứu nàng. Tỉnh lại, Hoài Nam ôm lấy Nguyên Huân khóc ngất.
Nàng nghẹn ngào:
- Huân ca...Ôi sao Huân ca về trễ thế, Mẹ và... Thanh tỷ còn đâu nữa!
Nguyên Huân sững sờ như chết đứng, chàng ôm lấy hai vai Hoài Nam dồn dập hỏi:
- Nam muội, Nam muội, thế là thế nào?! Mẫu thân đâu?
Uyển Thanh đâu? Đã có chuyện gì xảy ra?
Hoài Nam tức tưởi:
- Tháng Tư năm ngoái, chị Uyển Thanh bị rắn độc cắn, khi tìm ra chị thì đã muộn rồi, không còn còn kịp. Mẹ cũng vì cái chết của chị Uyển Thanh mà đau đớn, mẹ nằm liệt suốt hai tháng rồi cũng qua đời. Đau xót quá Huân ca ơi!
Nguyên Huân ngơ ngẩn nhìn mọi người:
- Nam muội, Dư thúc thúc, Chu thúc thúc, làm sao, làm sao mà nàng lại bị rắn độc cắn?
Bạc Thụy Miên cúi đầu đau đớn:
- Trong suốt buổi sáng hôm ấy không thấy Tiểu thư ra khỏi phòng, mọi người đổ đi tìm, đến bìa rừng thấy Tiểu thư ngồi dựa vào gốc cây, trong tay là một con rắn nhỏ màu vàng đã bị bóp nát đầu!
- Kim xà, trời ơi! Kim xà mà cắn thì không có cách gì cứu được cái chết đến rất nhanh... Tội nghiệp Uyển Thanh, tội nghiệp vợ ta, tội nghiệp cho em là dường nào Uyển Thanh ơi! Mẹ ơi!...
Nguyên Huân như đứt từng đoạn ruột, chàng úp hai bàn tay lên mặt khóc nức nở.
Dư lão tứ giọng trầm buồn:
- Trần công tử! Công tử có đau lòng thì cũng đã rồi, Uyển Thanh chẳng sống lại được. Ai cũng một lần chết, biết đâu, nó lại chẳng làm cho Uyển Thanh hạnh phúc hơn sao!
Nguyên Huân lẩm bẩm:
- "chẳng làm cho em hạnh phúc hơn sao!" Em buồn ta lắm sao? Ta không hề làm điều gì bất xứng với em cả !
Một lát sau chàng ngẩng đầu lên hỏi:
- Nam muội, trước đó chị Uyển Thanh của em có điều gì khác lạ không?
- Sao Huân ca lại hỏi điều ấy, chị vẫn thường cùng em nhắc đến anh, chị lo lắng cho anh trước mũi giáo, đường tên; em an ủi mãi chị mới thôi bớt lo lắng!
- Thế, trước lúc nhắm mắt, Mẹ có nhắn cho anh lời gì không?
- Có đó Huân ca ạ! Mẹ để lại một lá thư phong kín, Mẹ dặn không ai được mở ra, và trao lại cho anh. Mẹ vẫn luôn bảo với mọi người là Mẹ yêu quý anh như con trai của Mẹ!
Nguyên Huân ngồi trước bài vị của Nhạc mẫu và hiền thê Đã ba hôm nay chàng ngồi im lìm như thế, đầu chít khăn tang trắng, áo sô gai. Chàng để tang cho Nhạc mẫu như mẹ ruột của mình.
Hôm nay, qua ngày thứ tư, tất cả mọi người với đầy đủ lễ vật lên thăm mộ bên sườn đồi lộng gió... Ngôi mộ của Đoàn phu nhân và Uyển Thanh được an táng bên cạnh mộ của Đoàn đại hiệp. Nhìn ba ngôi mộ đá, lòng Nguyên Huân quặn đau. Hoài Nam quỳ sau lưng chàng, ba người thân trong gia đình kính cẩn quỳ ở phía sau hai người.
Nguyên Huân làm đại lễ trước ba ngôi mộ, trước ba người thân yêu nhất trong đời chàng. Khấn vái xong, chàng lấy lá di thư mang trong mình, bóc ra, và đọc trước mộ:
"Con yêu dấu của Mẹ,
Từ ngày xưa, khi con còn nhỏ, khi con vẫn chưa lẫm chẫm biết đi, Mẹ đã yêu thương và xem con như con đẻ của Mẹ. Mẹ .. để lại cho con thư này, vì Mẹ biết Mẹ không còn sống được bao lâu nữa.
Từ ngày trở về cố hương, Mẹ được nhìn thấy Cha con lần cuối Mẹ thật ao ước được đi theo Cha con, nhưng Mẹ đã vì các con, Mẹ không thể bỏ các con mà đi được; Mẹ gắng gượng mà sống. Đối với Mẹ, cuộc sống chẳng còn nguồn vui nào nữa, nếu không vì lòng thương yêu các con đã kéo Mẹ ở lại. . .
Huân nhi ạ! Con có một tâm lòng châu ngọc, con đã mang đến cho Uyển Thanh niềm an ủi của một kiếp người tàn tật, và con đã cư xử như chẳng một ai cư xử được cao đẹp như vậy! Mẹ biết con không hề yêu Uyển Thanh, mà chỉ là tấm thâm tình đối với một người em gái đã có tự ngày xưa. Vì giao ước xưa, mà các con nên vợ nên chồng; con đã vì Uyển Thanh mà hy sinh mối tình của con đối với Hoài Nam. Mẹ biết, và Mẹ còn biết rằng Hoài Nam cũng chỉ yêu con. Vậy mà, khi Uyển Thanh muốn cho Hoài Nam, cùng nó thờ chung một chồng, vì nó không còn khả năng sinh nở nhưng con, dù con yêu Hoài Nam biết bao, con đã nhất quyết từ chối. Con vừa tròn nghĩa với Uyển Thanh, vừa tôn quý Hoài Nam, giữ vẹn một tình trong sáng và cao đẹp. Mẹ quý trọng con chính vì điều ấy.
Đến nay, Uyển Thanh đã bạc phúc, Mẹ cũng chẳng còn sống được bao lâu, Mẹ để Hoài Nam bơ vơ lại một mình, Mẹ nhắm mắt cũng không yên, và Uyển Thanh cũng chưa thể siêu thoát; vì linh hồn nó, cả đời nó đã yêu thương con, và cũng yêu thương em gái Hoài Nam khôn xiết. Nếu nay, Huân nhi, con nghe lời Mẹ, con hãy nghe lời Mẹ, cùng Hoài Nam nên vợ nên chồng, điều ấy, Tứ Thân Phụ Mẫu, và người vợ bất hạnh của con chắc hẳn sẽ nhẹ đi được nổi lo buồn. Linh hồn Mẹ, linh hồn Uyển Thanh sẽ sung sướng và thanh thản. Mẹ tin rằng các con nghe theo Mẹ, và Mẹ tin các con sẽ hạnh phúc bên nhau. Nên các con nghe lời, chỉ cần lạy mộ Cha con, lạy mộ Uyển Thanh là đã nên duyên giai ngẫu, đừng bị ràng buộc bởi những nghi lễ không cần thiết.
Huân nhi! Con có nghe Mẹ không? Mẹ chờ đợi để được thấy các con Hạnh phúc. Uyển Thanh và Mẹ sẽ được nhẹ nhàng. Nếu không, vĩnh viễn linh hồn Mẹ và Uyển Thanh mãi sẽ vất vưởng trong đớn đau... "
Bức thư nhòa nước mắt của Nguyên Huân, chàng đưa cho Hoài Nam. Nàng đọc xong, nước mắt tuôn như mưa, tay bíu lấy thành mộ Uyển Thanh nức nở không dứt.
Nguyên Huân ôm lấy vai nàng:
- Nam muội, Huân ca có linh cảm là Uyển Thanh, vì hạnh phúc, vì dòng dõi của ta mà tự ý ra đi. Hôm nay, ta và em thành nghĩa vợ chồng, thâm tình yêu thương và sự rộng lượng của nàng thật như trời bể. Khi đã đủ ba năm cư tang, chúng ta sẽ làm lễ thành thân, em nghĩ sao?
Hoài Nam cúi đầu rồi ngẩng lên, đôi mắt đẹp của nàng còn ướt lệ:
- Huân lang! Em thâm tạ lòng chàng!