Đêm hôm ấy có bão và tôi thức dậy khi nghe tiếng mưa đập vào cửa kính. Mưa từ cửa sổ hé mở tạt vào. Có người gõ cửa. Tôi bước ra mở cửa nhè nhẹ để khỏi đánh thức Catherine. Đó là anh chủ quán. Anh ta mặc áo choàng và cầm chiếc mũ trên tay.
- Thưa trung úy, tôi có chuyện muốn nói với trung úy một chút được không?
- Chuyện gì thế?
- Chuyện này quan trọng lắm.
Tôi nhìn quanh phòng. Gian phòng tối om. Tôi thấy một vũng nước trên sàn nhà, trước cửa sổ.
- Mời anh vào - Tôi nắm tay kéo anh ta vào phòng tắm. Tôi khóa cửa lại và bật đèn lên. Tôi ngồi trên thành bồn tắm.
- Có chuyện gì thế, Emilio? Anh gặp nguy hiểm à?
- Không phải tôi mà chính là trung úy.
- Tôi à?
- Họ sẽ đến bắt trung úy sáng nay.
- Thật sao?
- Tôi đến báo cho trung úy. Tôi đi ra ngoài phố và nghe họ nói chuyện trogn quán cà phê.
Anh ta đứng đó với chiếc áo choàng ướt đẫm. Anh ta cầm chiếc mũ ướt trong tay và yên lặng không nói gì cả.
- Tại sao họ lại bắt tôi?
- Vì lý do gì đấy có liên quan đến chiến tranh.
- Anh có biết vì sao không?
- Không, nhưng tôi tin rằng họ biết ông ở đây mặc thường phục mà trước kia ông hay mặc quân phục. Sau cuộc rút lui này, họ sẽ bắt tất cả mọi người.
Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói :
- Đến mấy giờ họ sẽ đến bắt tôi?
- Buổi sáng, tôi không biết mấy giờ.
- Anh khuyên tôi phải làm gì bây giờ?
Anh để chiếc mũ lên bồn rửa mặt. Chiếc mũ ướt nhũn và nhỏ nước trên sàn nhà.
- Nếu ông hợp pháp thì bắt bớ cũng chẳng sao. Nhưng nếu bị bắt và nhất là bị bắt vào lúc này thì chẳng hay ho chút nào.
- Tôi không muốn để bị bắt.
- Thế thì hãy qua Thụy Sĩ.
- Bằng cách nào?
- Dùng thuyền của tôi.
- Nhưng trời đang bão...
- Bão đã qua, hồ động nhưng vẫn có thể đi được.
- Bao giờ phải đi?
- Ngay bây giờ. Có thể sáng mai họ sẽ đến bắt ông sớm.
- Thế còn hành lý của chúng tôi?
- Sửa soạn nhanh lên. Bảo bà mặc quần áo vào. Tôi lo hành lý cho.
- Tôi sẽ tìm anh ở đâu?
- Tôi sẽ đợi ở đây. Tôi không muốn ai trông thấy tôi ở hành lang cả.
Tôi đẩy cửa ra rồi khép lại, tôi đi qua phòng ngủ. Catherine đã thức giấc.
- Gì thế anh yêu?
- Đừng ngạc nhiên Cat ạ - Tôi đáp - Em nghĩ sao nếu ta phải mặc quần áo và đi Thụy Sĩ ngay lập tức?
- Anh nghĩ sao?
- Anh ấy à? Anh thích đi ngủ trở lại hơn.
- Có chuyện gì vậy?
- Anh chủ quán đến báo sáng mai họ sẽ đến đây bắt anh.
- Anh chủ quán có điên không?
- Không.
- Thế thì em xin anh, anh yêu, hãy mặc quần áo nhanh lên để chúng ta có thể đi ngay. - Catherine ngồi ở cạnh giường, trông nàng hãy còn ngái ngủ - Thế anh chủ quán vẫn còn ở trong buồng tắm à.
- Còn.
- Thế thì em không tắm. Anh hãy quay mặt đi chỗ khác một lát. Em sẽ sẵn sàng ngay.
Tôi trông thấy phần lưng trắng nõn của nàng lúc nàng cởi bỏ áo ngủ nhưng rồi tôi nhìn đi chỗ khác như nàng muốn. Người nàng bắt đầu sồ sề và nàng không muốn tôi thấy nàng như vậy. Tôi mặc quần áo trong tiếng mưa đập vào cửa sổ. Tôi chẳng có gì nhiều để cho vào va ly cả.
- Trong va ly anh hãy còn nhiều chỗ trống, em có muốn cho gì vào đó không?
- Em đã xếp soạn xong rồi. Này anh, em hỏi hơi ngớ ngẩn một tí nhé, tại sao anh chủ quán lại phải ở trong phòng tắm vậy?
- Suỵt, anh ta chờ để mang hành lý của mình xuống.
- Anh ta thật là tử tế.
- Anh ta là một người bạn cũ của anh - Tôi nói - Anh phải gởi thuốc lá cho anh ta một ngày gần đây mới được.
Qua khung cửa sổ mở rộng, tôi nhìn vào bóng đêm dày đặc. Tôi không thấy hồ đâu cả, chỉ thấy bóng đêm và mưa. Nhưng gió thì đã thấy dịu đi.
- Em xong rồi anh yêu - Catherine nói.
- Tốt lắm - Tôi liền đi về phía cửa phòng tắm.
- Hành lý của chúng tôi đây này, Emilio.
Anh chủ quán xách hai chiếc va ly.
- Anh tốt quá, đã giúp đỡ chúng tôi - Catherine nói.
- Thưa bà, chả có gì cả - Anh ta đáp - Tôi rất vui lòng được giúp đỡ ông bà tuỳ mức độ mà tôi không bị phiền phức - Quay sang tôi, anh nói - Này, tôi sẽ đưa những thứ này theo ngả cầu thang phụ rồi mang xuống thuyền luôn. Anh chỉ có việc đi ra ngoài như đi dạo mát vậy.
- Thật là một đêm đẹp để đi dạo - Catherine nói.
Chúng tôi theo hành lang xuống cầu thang có trải thảm dày. Đến chân cầu thang gần cửa, người thường trực ngồi sau bàn viết ngạc nhiên nhìn chúng tôi :
- Ông đi ra ngoài à? - Hắn hỏi.
- Vâng, chúng tôi muốn xem dông bão trên hồ.
- Thế ông không có áo mưa à?
- Không - Tôi đáp - Nhưng chiếc áo choàng này không thấm nước.
Hắn nhìn chiếc áo tỏ vẻ nghi ngờ.
- Để tôi đi kiếm cho ông chiếc áo mưa.
Nói xong hắn đi ra và trở lại với một chiếc áo mưa lớn.
- Thưa ông, áo hơi lớn một tí - Hắn nói.
Tôi cho hắn mười đồng lia.
- Ồ ông tốt bụng quá, cám ơn ông lắm.
Hắn mở cửa và chúng tôi đi ra, dưới trời mưa. Hắn nhìn Catherine mỉm cười và nàng cũng cười đáp lại.
- Ông bà đừng ở ngoài mưa lâu, không khéo lại ướt hết. - Hắn chỉ là người thường trực phụ nên nói tiếng Anh không thạo.
- Chúng tôi sẽ trở lại - Tôi đáp.
Hai chúng tôi che cây dù to tướng đi qua những con đường mòn qua những khu vườn tối tăm ẩm ướt rồi đến đường cái nối tiếp con đường có chắn lưới mặt cáo dọc theo hồ. Gió đang thổ vào bờ. Đó là tháng mười lạnh và ẩm ướt. Tôi biết lúc này tuyết đang rơi ở miền núi. Chúng tôi đi theo những con thuyền xích ở dưới bến rồi đến chỗ chiếc thuyền của anh chủ quán. Anh từ sau rặng cây bước ra.
- Hành lý đã để trong khoang thuyền rồi - Anh nói.
- Tôi muốn trả anh tiền chiếc thuyền này - Tôi nói.
- Ông có bao nhiêu tiền?
- Không nhiều lắm.
- Thế ông gởi tiền sau cho tôi cũng được. Như vậy tốt hơn.
- Bao nhiêu?
- Bao nhiêu cũng được.
- Anh cho biết là bao nhiêu đi.
- Nếu ông thoát khỏi xin ông gởi cho tôi năm trăm quan. Số đó có là bao nhiêu nếu ông thóat nạn.
- Cũng được.
Anh ta trao cho tôi một gói và bảo :
- Đây là bánh sandwich, ở quán chỉ có vậy. Ông bà có tất cả trong này. Đây là một chai rượu mạnh và một chai rượu vang.
Tôi cho các thứ vào bao.
- Tối thiểu hãy để cho tôi trả tiền các thức này.
- Xin ông năm chục lia.
Tôi trao tiền cho anh ta.
- Rượu mạnh này ngon lắm. Ông có thể cho bà dùng được, như thế lúc đi thuyền bà sẽ thấy khỏe hơn.
Anh ta giữ lấy chiếc thuyền, nó nhồi lên nhồi xuống dọc theo bức tường. Tôi đỡ Catherine xuống thuyền, nàng ngồi phía sau, cuộn người trong chiếc áo choàng.
- Ông biết đường không?
- Có, đi ngược lên hồ.
- Ông biết đến đâu không?
- Đến Luino.
- Qua khỏi Luino, Cannero, Cannobio, Tranzano. Khi tới Brissago là ông đã đặt chân lên Thụy Sĩ rồi đấy. Rồi ông còn phải đi qua rặng núi Tamara.
- Mấy giờ rồi? - Catherine hỏi.
- Chỉ mới mười giờ - Tôi bảo.
- Nếu ông chèo không nghỉ thì ông sẽ đến nơi vào lúc bảy giờ sáng.
- Xa thế cơ à?
- Độ ba mươi lăm cây số.
- Làm thế nào để đi bây giờ. Mưa như thế này chúng tôi cần có địa bàn.
- Không cần. Ông cứ chèo cho đến Isola Bella. Rồi qua đến phía bên kia của Isola Madre thì cứ nương theo chiều gió. Gió sẽ đưa ông đến Pallanza. Ở đó ông sẽ thấy ánh đèn rồi cứ việc bơi dọc theo bờ.
- Có thể gió sẽ đổi chiều.
- Không đâu, gió này sẽ kéo dài ba ngày. Nó từ Mattarone thổi thẳng xuống. Ông có một cái xô và dây dùng để tát nước.
- Bây giờ để cho tôi trả cho anh chút đỉnh tiền cái thuyền này nhé.
- Thôi, tôi thích mạo hiểm. Nếu thoát, ông trả cho tôi bao nhiêu cũng được.
- Thế cũng được.
- Chẳng có lý nào ông bị đắm thuyền đâu.
- Thế thì tốt lắm.
- Luôn luôn chèo với gió ở đàng sau.
- Được rồi.
Tôi bước xuống thuyền.
- Ông có để lại tiền trả cho khách sạn không?
- Có, tôi để trong phòng bì ở phòng ấy.
- Thế thì được rồi, thôi chúc trung úy may mắn.
- Chúc anh may mắn. Chúng tôi cám ơn anh nhiều lắm.
- Nếu ông bị đắm, chắc ông chẳng cám ơn tôi đâu.
Catherine hỏi tôi :
- Anh ta nói gì thế?
- Anh ta chúc mình gặp may mắn.
- Cám ơn anh nhiều, chúc anh may mắn.
- Sẵn sàng chưa?
- Rồi.
Anh ta khom người xuống và đẩy chúng tôi ra khơi. Tôi nhúng hai mái chèo xuống nước và đưa tay lên vẫy. Anh ta vẫy đáp lại. Tôi thấy ánh đèn của khách sạn chiếu sáng. Tôi bơi thuyền ra xa thẳng tắp cho đến khi không còn thấy ánh đèn nữa. Sóng lớn nhưng chúng tôi có gió đàng sau.
Tôi bơi thuyền trong đêm tối, gió thổi tạt vào mặt. Mưa đã ngừng, chỉ thỉnh thoảng có những hạt nhỏ rơi xuống thôi. Và thỉnh thoảng mới đổ ào xuống một luồng. Trời tối đen, gió thổi mạnh. Tôi nhìn ra Catherine ngồi ở sau lái nhưng không thể nhìn thấy chỗ nước mà mái chèo nhúng xuống. Mái chèo rất dài mà không có mảnh da để giữ cho nó khỏi trượt ra ngoài. Tôi kéo lui cây dầm, đoạn nâng lên rồi ấn cây dầm xuống về phía trước, rồi lại kéo lui, và cứ thế mà cố bơi. Tôi biết tay tôi đã sưng lên và tôi cố trì hoãn giây phút ấy lâu chừng nào hay chừng ấy. Chiếc thuyền nhẹ nhàng trôi xuôi theo dòng nước đen ngòm. Tôi không trông thấy gì cả và mong rằng chúng tôi đến sớm được vùng bên kia của Pallanza.
Chúng tôi chưa bao giờ thấy Pallanza. Gió thổi ngang hồ, chúng tôi đi qua Pallanza, vùng này ẩn khuất trong màn đêm nên không thấy ánh đèn nào cả. Nhưng rồi sau đó chúng tôi cũng nhìn thấy vài ngọn đèn xa xa phía trên hồ và sát bờ hồ. Chỗ đó là Intra. Nhưng rất lâu sau đó chúng tôi lại không trông thấy một ánh đèn nào, bờ bến nào ở đâu cả. Chúng tôi bị sóng cản và kiên nhẫn tiến trong bóng đêm. Thỉnh thoảng một con sóng nâng thuyền lên làm chiếc dầm hụt ra khỏi mặt nước. Hồ bị động nhưng điều đó không cản được tôi chèo. Bất thình lình chúng tôi thấy mình ở sát bờ, bên cạnh một khối đá dựng đứng. Sóng vỗ vào đá, bắn nước tung lên rồi rơi xuống. Một tay tôi bơi mạnh, còn chiếc dầm bên trái thì cản nước về phía sau. Chúng tôi lại bơi ra giữa hồ, Hốc đá xa dần tầm mắt và chúng tôi tiếp tục bơi ngược lên phía trên hồ.
Tôi bảo Catherine :
- Chúng ta đang ở giữa hồ.
- Thế mình không thấy Pallanza à?
- Mình bị lạc mất rồi.
- Anh yêu, anh thấy trong người thế nào?
- Anh vẫn khoẻ.
- Để em chèo cho một lát.
- Không, anh vẫn khỏe mà.
- Tội nghiệp cho chị Ferguson, sáng nay chị ấy sẽ đến khách sạn và mới hay chúng mình đi rồi.
- Anh bận tâm hơn đến việc tới được Thụy Sĩ trước lúc mặt trời mọc và để bọn lính đoan có thể trông thấy chúng ta.
- Còn xa lắm không?
- Còn khoảng ba mươi cây số nữa.
Tôi bơi suốt đêm. Cuối cùng tay tôi rã rời khiến tôi khó lòng có thể giữ vững tay chèo. Nhiều lần chúng tôi gần va vào bờ. Tôi giữ cho thuyền đi nương sát vào bờ vì sợ bị lạc hướng và mất thì giờ. Đôi khi chúng tôi ở sát bờ đến nỗi có thể nhận ra hàng cây cùng con đường lớn chạy dài theo bờ hồ với phía sau là những rặng núi. Mưa đã tạnh, gió đã thổi tan mây và mặt trăng hiện ra. Nhìn lại phía sau tôi có thể trông thấy Castagnola hiện ra như một điểm dài tối sẫm, mặt hồ với những lượn sóng trắng xóa và hơn là vầng trăng lơ lửng trên rặng núi cao đầy tuyết phủ. Rồi mây lại che khuất trăng khiến cho không còn nhìn thấy núi, hồ đâu nữa. Nhưng dù sao cũng sáng hơn lúc nãy và chúng tôi có thể nhận ra đâu là bờ. Tôi nhận ra bờ rõ ràng và cho thuyền đi ra xa một chút phòng khi có lính đoan ở dọc theo đường Pallanza chúng cũng không thấy chúng tôi được. Khi vầng trăng lại hiện ra, chúng tôi có thể trông thấy những tòa biệt thự trắng trên bờ hồ nằm bên sườn núi cùng với con đường trắng xóa ẩn hiện giữa hàng cây. Tôi vẫn tiếp tục chèo.
Mặt hồ rộng ra, bên kia hồ, dưới chân ngọn núi, đây đó có một vài ánh đèn, có lẽ đó là Luino. Tôi thấy có một lỗ hổng giống hình tam giác giữa hai ngọn núi bên kia bờ hồ. Vì thế tôi nghĩ đó là thành phố Luino. Nếu quả vậy thì chúng tôi đã đi đúng hướng. Tôi kéo mái chèo về và ngả lưng xuống chỗ ngồi. Tôi mệt vô cùng, hai cánh tay, vai và lưng tôi mỏi như dần, còn hai bàn tay thì sưng lên.
- Em có thể mở dù được - Catherine nói - Có gió này thì có thể giương dù lên thay cánh buồm vậy.
- Em giữ lái được không?
- Có lẽ được.
- Em cầm lấy chiếc dầm này, giữ dầm dưới cánh tay và ép sát vào mạn thuyền để làm lái. Còn anh thì cầm dù.
Tôi bước ra sau chỗ lái và chỉ cho nàng cách cầm lái. Tôi cầm lấy chiếc dù to tướng của người thường trực đã đưa cho tôi rồi giương dù lên. Dù bung ra. Tôi nắm hai bên vành chiếc dù rồi ngồi cưỡi đè lên cán, tay dù móc vào ghế. Chiếc thuyền lướt tới. Tôi cố giữ thật chặt hai bên vành dù. Gió đẩy mạnh và chiếc thuyền trôi rất nhanh.
- Thuyền lướt kỳ diệu - Catherine nói.
Tôi không thấy gì ngoài gọng dù. Dù căng thẳng và bị giật mạnh. Tôi thấy hình như chúng tôi cũng bị kéo đi. Tôi đạp chân và đè người xuống sát cán dù. Bất thình lình cây dù bị lộn lại và một kèo dù đập vào trán tôi. Tôi cố sức chụp lấy chóp dù đang oằn xuống vì gió. Cây dù mới đây là một cánh buồm bọc đầy gió, bây giờ đã rách bươm. Tôi tháo móc dù ra, để dù xuống mũi thuyền và bước ra sau cầm lái chèo thay cho Catherine. Nàng cười như nắc nẻ. Cầm lấy tay tôi nàng vẫn còn cười.
- Gì thế? - Tôi vừa hỏi vừa đỡ lấy cây dầm.
- Khi anh cầm cây dù như thế, trông buồn cười quá đi mất.
- Vậy hả?
- Này, anh đừng giận nhé. Trông buồn cười quá đi. Anh trông giống như người có bề ngang độ sáu thước và bấu chặt vào vành dù trông có vẻ trìu mến lắm - Catherine đùa với tôi như thế\/
- Để anh chèo.
- Nghỉ một lát và uống tí gì đi đã, anh yêu ạ. Thật là một đêm tuyệt diệu và chúng ta đã đi đúng.
- Anh phải giữ cho chiếc thuyền không bị nhồi sóng.
- Vậy để em rót rượu cho anh nhé, anh nên nghỉ một tí đi anh yêu.
Hai mái dầm tôi giơ lên tạo thành buồm. Catherine mở va ly, nàng trao cho tôi chai rượu mạnh. Tôi dùng con dao bỏ túi mở chai rượu và tu một hơi dài. Thật là dịu và nóng. Tôi cảm thấy ấm áp và vui hẳn lên. “Rượu ngon thật”, tôi nói với Catherine. Trăng lại bị che khuất nhưng tôi vẫn có thể nhìn ra bờ hồ.
- Em có thấy khá ấm lên trong người không hả?
- Em khỏe lắm nhưng chỉ hơi bị cóng một tí thôi.
- Tát nước trong này ra thì em có thể đặt chân xuống.
Tôi lại bơi tiếp và lắng nghe tiếng mái chèo khua nước, tiếng lon tát nước dưới chỗ ngồi phía sau lái.
- Em đưa cho anh cái xô tát nước. Anh muốn uống nước.
- Thôi bẩn lắm.
- Không sao, anh sẽ rửa sạch đi.
Tôi nghe Catherine rửa xô tát nước rồi nàng trao cho tôi một xô đầy nước. Uống rượu mạnh xong tôi khát nước vô cùng. Nước lạnh buốt làm tôi ê cả răng. Tôi nhìn vào bờ. Chúng tôi đang tiến dần đến vùng đất đã thấy khi nãy. Trên vịnh trước mặt đã thấy thấp thoáng ánh đèn.
- Cám ơn em - Tôi trả lại chiếc xô cho nàng.
- Sẵn sàng phục vụ anh, nếu anh muốn thêm nữa cũng được.
- Em muốn ăn gì không?
- Không, lát nữa em mới đói. Phải để dành lương thực đến lúc ấy chứ.
- Thế cũng được.
Cái điểm sáng khi nãy là một vùng đất dài và cao. Tôi bơi thuyền ra xa bờ để vượt qua dải đất đó. Bây giờ mặt hồ hẹp lại. Trăng lại hiện ra. Nếu có bọn lính tuần thì chắc hẳn chúng sẽ nhìn thấy rõ mồn một chiếc thuyền của chúng tôi trên mặt nước.
- Em thấy trong người thế nào hả Cat?
- Em thấy khỏe lắm. Mình đang ở đâu hả anh?
- Có lẽ chúng ta chỉ còn độ tám dặm nữa thôi.
- Thế cũng còn phải chèo lâu. Tội nghiệp anh yêu. Liệu anh có kiệt sức không?
- Không sao đâu. Anh vẫn khoẻ, chỉ có hai bàn tay là hơi đau tí thôi.
Chúng tôi tiếp tục chèo ở bên ngoài chỗ hai ngọn núi giao nhau. Đất phẳng phiu đến tận bờ biển thấp. Tôi nghĩ đó có thể là vùng Cannobio. Tôi chú ý dừng lại giữa hồ vì đây là lúc có thể dễ gặp lính biên phòng nhất. Ở trước mặt, phía bờ bên kia là một rặng núi cao đỉnh tròn. Tôi mệt quá, tuy chẳng còn bơi bao xa nữa, nhưng khi đã kiệt sức rồi thì lại thấy quá xa. Tôi biết nếu muốn đến thuỷ phận của Thụy Sĩ thì phải đi qua rặng núi này và phải đi ít nhất năm dặm nữa ngược lên hồ. Lúc này thì trăng đã lặn, mây phủ kín bầu trời và bóng đêm dày đặc. Tôi ở cách bờ rất xa, vừa bơi vừa nghỉ và giữ đôi mái chèo khiến gió đập mạnh vào phía dưới.
- Đưa em chèo cho một lát - Catherine nói.
- Anh nghĩ đó không phải là việc của em.
- Anh lập luận sai rồi. Như thế tốt chứ có sao đâu. Em sẽ không bị trệ người.
- Anh cho là em nên tránh thì tốt hơn, Cat ạ.
- Anh vô lý quá. Bơi thuyền nhịp nhàng, vừa phải, thì có ích cho phụ nữ đang mang thai chứ có gì đâu.
- Thật à? Thế thì em chèo một chút... Để anh xuống đó rồi em lên đây nhé. Em bám chặt vào mạn thuyền mà đi lên đây nhé.
Tôi ngồi phía sau lái dựng cổ áo lên và ngắm Catherine chèo thuyền. Nàng chèo rất giỏi nhưng chiếc dầm quá dài làm nàng lúng túng. Tôi mở bao lấy hai chiếc sandwich ăn và uống một hớp rượu mạnh. Chẳng bao lâu tôi thấy mọi thứ đỡ u ám và tôi lại uống thêm một hơi nữa.
- Khi nào em mệt thì bảo anh nhé - Một lát sau tôi lại bảo - Này, khéo kẻo cây dầm đập vào bụng em đấy nhé.
- Nếu thế thì đời mình sẽ dễ tính hơn chứ sao - Catherine nói.
Tôi uống thêm một hơi rượu nữa.
- Em thấy thế nào?
- Được mà.
- Khi nào em muốn nghỉ thì bảo anh nhé.
- Vâng.
Tôi lại tu thêm một hơi nữa. Rồi tôi bám mạn thuyền lần lên chỗ Catherine.
- Thôi, đang tốt mà.
- Em nên trở lại phía sau lái mà ngồi. Anh nghỉ cũng khá lâu rồi.
Nhờ chất rượu, tôi bơi một lúc dễ dàng không nghỉ, rồi tôi lại bắt đầu mỏi mệt và ói ra cả mật xanh vì vừa uống rượu xong lại gắng quá sức.
- Cho anh ngụm nước đi em - Tôi nói.
- Dễ thôi - Catherine đáp.
Trước lúc rạng đông, mưa phùn bắt đầu rơi. Gió đã dịu hoặc vì chúng tôi được mấy ngọn núi bao quanh hồ che cản gió. Khi biết trời sắp sáng, tôi vội vã cố bơi. Tôi không biết chúng tôi đang ở đâu và tôi muốn đi vào địa phận Thụy Sĩ. Khi trời bắt đầu sáng, chúng tôi đã gần đến bờ. Tôi nhận ra những tảng đá và cây cối.
- Gì thế nhỉ? - Catherine hỏi.
Tôi dừng tay chèo và lắng nghe. Có tiếng thuyền máy nổ trên hồ. Tôi cập thuyền vào bờ và im lặng. Tiếng máy gần hơn và chúng tôi thấy qua màn mưa một chiếc thuyền máy ngay sau thuyền chúng tôi. Trên thuyền có bốn người lính tuần tiễu, với chiếc mũ sụp sâu, cổ áo kéo cao lên, và súng lủng lẳng ngang lưng. Trông họ còn có vẻ ngái ngủ vì trời quá sớm. Tôi nhận thấy màu vàng của áo họ. Chiếc thuyền máy vượt chúng tôi rồi khuất dần sau màn mưa.
Tôi bơi thuyền ra giữa hồ, nếu chúng tôi đến gần được biên giới như thế thì tôi lại càng không muốn bị lính tuần tiễu kêu hỏi. Tôi giữ một khoảng cách có thể nhìn thấy bờ và cứ thế chèo trong khoảng bốn mươi lăm phút nữa dưới làn mưa. Một lần nữa, chúng tôi lại nghe thấy tiếng chiếc thuyền máy. Tôi dừng lại và chỉ đi tiếp khi tiếng máy xa dần.
- Chắc mình đang ở trong địa phận của Thụy Sĩ, Cat ạ.
- Thật ư?
- Chúng ta chỉ có thể biết sau khi thấy lính Thụy Sĩ.
- Hoặc hải quân Thụy Sĩ.
- Hải quân Thụy Sĩ không phải chuyện đùa đâu. Chiếc thuyền máy mình nghe thấy lần thứ hai có lẽ là hải quân đấy.
- Nếu đến Thụy Sĩ rồi thì hãy dùng điểm tâm đã. Vì ở Thụy Sĩ người ta có món bơ, mứt và bánh mì ngon đặc biệt.
Trời đã sáng hẳn và sương mù đang nhẹ rơi. Gió vẫn thổi mạnh trên hồ. Chúng tôi có thể nhìn thấy những ngọn sóng sủi bọt trắng khuất dần phía trên hồ. Tôi chắc là chúng tôi hiện đang ở trong phần đất của Thụy Sĩ. Nhiều nhà cửa ẩn hiện sau rặng cây bên bờ hồ, và xa hơn là một ngôi làng với những căn nhà bằng đá, vài tòa biệt thự trên đồi và nhà thờ. Tôi đã cố nhìn lên đường ven bờ để xem có lính tuần không, nhưng chẳng có ai cả. Nhìn theo con đường chạy sát ven hồ, tôi nhìn thấy một anh linh từ trong quán rượu bước ra. Hắn mặc quân phục màu xám xanh và đội mũ sắt giống bọn Đức. Người hắn trông khỏe mạnh và hai mép râu lún phún. Hắn nhìn về phía chúng tôi.
- Vẫy tay cho hắn đi em - Tôi bảo Catherine.
Nàng vẫy tay. Anh lính mỉm cười bối rối rồi cũng vẫy tay lại. Tôi bơi chầm chậm. Chúng tôi bơi qua trước làng.
- Chúng ta đã qua khỏi biên giới nhiều rồi - Tôi bảo.
- Phải thật chắc chắn anh ạ. Đừng để họ dẫn chúng ta về Ý.
- Từ đây trở lại biên giới xa lắm. Theo anh, đây là thành phố thuế quan. Anh chắc đây là Brissago.
- Liệu ở đây có người Ý không? Ở các thành phố thuế quan luôn luôn có mặt người của cả hai nước.
- Ở vào thời chiến thì không như vậy. Anh tin là họ không để cho dân Ý vượt qua biên giới.
Đó là một thành phố nhỏ, dáng dấp tráng lệ. Dọc theo cảng, nhiều ngư thuyền đang trải lưới trên giá. Mưa tháng mười rơi nhẹ nhưng quang cảnh trông có vẻ vui và sạch sẽ dù rằng đang ở dưới cơn mưa.
- Anh có muốn lên đây dùng điểm tâm không?
- Đồng ý.
Tôi bơi mạnh dầm bên trái và đưa thuyền vào sát bờ. Khi đến sát bên, tôi chống thẳng dầm và cho thuyền đậu dài theo bến. Tôi bỏ mái chèo vào khoang thuyền rồi nhảy lên một tảng đá ướt. Tôi đang ở Thụy Sĩ rồi. Tôi buộc thuyền và đưa tay đỡ Catherine.
- Lên nhanh đi em, Catherine. Thật tuyệt vời.
- Thế còn các va ly?
- Cứ để dưới thuyền.
Catherine lên bờ. Chúng tôi đangcùng ở Thụy Sĩ.
- Xứ sở đẹp tuyệt - Nàng khen.
- Thế không thanh lịch sao?
- Chúng ta đi đi.
- Xứ sở không tuyệt à? Anh xúc động khi đặt chân lên mảnh đất này.
- Em bị cóng quá nên không cảm thấy rõ. Nhưng em có cảm giác đây là một địa điểm tráng lệ quá. Anh yêu, anh có nhận thấy rằng anh đang ở đây, ở Thụy Sĩ, đã xa cái xứ sở bẩn thỉu ấy không?
- Có, anh thấy thế, anh thấy rõ ràng thế. Chính hôm nay, lần đầu tiên, anh mới cảm thấy được một đôi điều.
- Anh nhìn mấy ngôi nhà kia. Những ngôi nhà ấy không đẹp à? Kìa, một chỗ ăn điểm tâm.
- Cơn mưa cũng thú vị quá em nhỉ? Ở Ý đâu bao giờ mưa như thế này. Ở đây là cơn mưa vui.
- Và chúng ta đang ở Thụy Sĩ, anh yêu, anh có nhận thấy thế không?
Chúng tôi vào quán cà phê ngồi xuống cạnh một bàn gỗ rất sạch. Chúng tôi điên lên vì vui sướng, lòng cảm thấy lâng lâng. Một bà duyên dáng khoác áo choàng đến hỏi chúng tôi cần gì.
- Cho bánh mì tròn, mứt và cà phê - Catherine bảo.
- Rất tiếc, từ lúc chiến tranh, chúng tôi không có bánh mì tròn.
- Thế thì bánh mì thường cũng được.
- Tôi có thể làm bánh mì nướng phết bơ.
- Cho tôi thêm trứng rán.
- Ông muốn dùng mấy quả ạ?
- Ba.
- Lấy bốn quả đi anh yêu.
- Bốn quả vậy.
Bà ta đi khuất. Tôi hôn Catherine và siết chặt tay nàng trong tay tôi. Chúng tôi nhìn nhau và nhìn khắp cả quán ăn.
- Anh yêu, có nên thơ không anh?
- Phong cảnh ở đây thật là kỳ diệu.
- Có bánh mì tròn đặc biệt hay không em không cần - Catherine nói - Suốt đêm em đã nghĩ đến món đó nhưng bây giờ thì em không cần, hoàn toàn không cần.
- Anh đặt giả thuyết rằng tí nữa họ sẽ bắt chúng ta.
- Anh yêu, đừng bận lòng đến việc ấy. Chúng ta cứ dùng điểm tâm đã. Ăn điểm tâm xong, việc ấy chẳng có gì quan trọng cả. Chúng ta là những kiều dân Anh và Mỹ hợp pháp kia mà.
- À, mà em có giấy thông hành chứ?
- Dĩ nhiên. Thôi đừng bàn đến việc ấy nữa. Hãy tận hưởng hạnh phúc đi đã.
- Anh không thể nào vui được.
Một con mèo xám to, đuôi vểnh lên lại gần bàn ăn và cọ mình vào chân tôi vừa gừ gừ khe khẽ. Tôi cúi xuống để vuốt ve nó. Catherine nhìn tôi mỉm cười sung sướng.
- Cà phê kìa - Nàng nói.
Sau bữa điểm tâm thì họ bắt chúng tôi. Chúng tôi đi dạo trong thành phố một lát rồi mới xuống bến lấy hành lý. Có một người lính đang đứng cạnh chiếc thuyền.
- Thuyền này của ông phải không?
- Phải.
- Thế ông từ đâu đến?
- Từ phía trên hồ này.
- Thế thì xin mời ông đi theo tôi.
- Thế còn hành lý?
- Ông có thể mang theo.
Tôi mang hành lý, còn Catherine đi bên cạnh tôi. Người lính đi theo tôi đến sở thuế quan. Ở đây có một viên trung úy rất gầy và trông có vẻ rất nhà binh hỏi chúng tôi.
- Ông bà thuộc quốc tịch nào?
- Tôi người Mỹ còn bà đây người Anh.
- Xin cho xem thông hành của ông bà.
Tôi trình giấy của tôi ra và Catherine tìm giấy tờ của nàng trong túi xách.
Hắn xem xét giấy tờ một hồi lâu.
- Sao ông bà vào Thụy Sĩ bằng thuyền như thế?
- Vì tôi là một nhà thể thao - Tôi đáp - Bơi thuyền là môn tôi thích nhất. Tôi thường bơi thuyền khi nào tôi có dịp.
- Thế tại sao ông lại đến đây?
- Để dự thể thao mùa đông, chúng tôi là những du khách và chúng tôi muốn chơi những môn thể thao mùa đông.
- Ở đây không có môn thể thao mùa đông.
- Tôi biết vậy. Tôi muốn đi đến nơi nào có tổ chức các môn thể thao mùa đông.
- Ở Ý ông làm gì?
- Tôi đã theo học kiến trúc. Còn cô em họ tôi đây thì theo học về môn mỹ thuật.
- Thế thì tại sao ông lại đi?
- Vì chúng tôi muốn chơi thể thao mùa đông. Với lại cuộc chiến tranh này chúng tôi không thể nào tiếp tục theo học được nữa.
- Xin ông vui lòng ở đây - Viên trung úy nói.
Hắn quay vào, cầm theo giấy tờ của chúng tôi.
- Anh cừ lắm anh yêu. Cứ tiếp tục như thế. Anh thích chơi thể thao mùa đông.
- Còn em, em biết gì về mỹ thuật không?
- Em biết Rubens - Catherine đáp.
- To và béo - Tôi thêm.
- Em biết Titian nữa.
- Tóc vàng hoe... Titian tóc hoe. Thế còn Mantegua?
- Đừng hỏi em mấy câu khó. Tuy nhiên em cũng biết về ông ấy. Rất dữ dội. Anh xem, em sẽ là một người vợ quý. Em có thể bàn luận về mỹ thuật với mấy ông khách của anh mà.
- Kìa, hắn đã trở lại - Tôi nói.
Viên trung úy cao gầy đi qua sở thuế quan, tay cầm các giấy tờ thông hành của chúng tôi.
- Tôi phải đưa ông bà đến Locarno - Ông ta nói - Ông bà có thể đi xe ngựa, một người lính đi cùng với ông bà.
- Được rồi, thế còn chiếc thuyền? - Tôi hỏi.
- Chiếc thuyền sẽ bị tịch thu. Ông bà có gì trong va ly?
Hắn xem hai va ly và tịch thu chai rượu mạnh.
- Ông có thích chúng ta cùng uống không? - Tôi hỏi.
- Không, xin cám ơn - Hắn ta đứng lên - Ông có bao nhiêu tiền?
- Hai ngàn rưởi lia.
Hắn rất ngạc nhiên.
- Thế còn cô em họ của ông có độ bao nhiêu?
Catherine có khoảng hơn một ngàn hai trăm lia. Viên trung úy tỏ vẻ hài lòng. Thái độ của hắn bớt hống hách.
- Nếu ông muốn dự thể thao mùa đông thì hãy đến Wengen. Wengen là địa điểm duy nhất. Cha tôi có một khách sạn ở Wengen, khách sạn ấy mở cửa quanh năm.
- Thế thì còn gì bằng. Ông có thể cho tôi địa chỉ được không?
- Tôi sẽ viết lên danh thiếp.
Hắn lễ phép trao cho tôi tấm danh thiếp.
- Lính sẽ đưa ông bà đến Locarno, hắn sẽ giữ các giấy tờ của ông, tôi rất tiếc nhưng đó là điều cần thiết. Tôi hy vọng họ sẽ cấp cho ông giấy quá cảnh hay giấy nghỉ phép ở Locarno.
Hắn trao giấy tờ của chúng tôi cho người lính. Chúng tôi mang hành lý và đi vào thành phố để gọi một cỗ xe ngựa. Viên trung úy nói gì với tên lính bằng thổ ngữ Đức. Người lính đeo súng sau lưng và xách cái va ly.
- Thật là một nước tế nhị - Tôi nói với Catherine.
- Và rất thực tế nữa.
- Cám ơn trung úy nhiều lắm - Tôi nói với viên trung úy.
Ông ta vẫy tay. Chúng tôi đi theo người lính vào thành phố.
Chúng tôi đi xe ngựa đến Locarno. Người lính ngồi đàng trước với người đánh xe. Ở Locarno mọi việc diễn ra tốt đẹp. Người ta hỏi chúng tôi nhưng họ rất lễ độ vì chúng tôi có giấy tờ và tiền bạc. Tôi không nghĩ là họ tin câu chuyện tôi bịa đặt và chính tôi cũng thấy chuyện đó ngớ ngẩn. Nhưng cũng gần giống như ở tòa án, người ta không ngạc nhiên nếu các lời khai hợp lý, miễn là chúng đúng kỹ thuật và người ta có thể dựa vào đó mà nói không cần giải thích gì cả. Chúng tôi có giấy thông hành và tiền tiêu xài, phải chăng vì vậy họ cấp cho chúng tôi giấy quá cảnh tạm thời. Giấy có thể bị thu hồi vào bất cứ lúc nào. Ở tất cả các nơi chúng tôi đi, chúng tôi phải trình cảnh sát nữa.
Liệu chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào mà chúng tôi muốn không? Được. Nhưng đi đâu bây giờ?
- Em muốn đi đâu hả Catherine?
- Em muốn đến Montreux.
- Đó là một nơi rất dễ chịu - Một nhân viên nói - Tôi tin là ông bà sẽ thích nơi ấy.
- Ở Locarno này cũng rất dễ chịu - Một nhân viên khác nói - Tôi chắc rằng ông cũng sẽ rất thích Locarno này chứ? Locarno là một thành phố rất đẹp.
- Chúng tôi tìm nơi có thể chơi thể thao mùa đông.
- Ở Montreux thì không có.
- Xin lỗi anh - Nhân viên kia nói - Tôi từ Montreux đến đây. Người ta chơi thể thao trên đường Montreux Orbeland Beraois. Ông không thể nói nơi khác được.
- Tôi không nói nơi khác. Tôi chỉ nói rằng ở Montreux không tổ chức thể thao mùa đông mà thôi.
- Tôi ngờ điều khẳng định đó.
- Riêng tôi, tôi tin điều khẳng định đó. Tôi vẫn nói lời khẳng định đó. Chúng tôi cũng đã từng đi xe trượt tuyết trên đường phố Montreux. Không phải một lần mà là nhiều lần. Đi xe trượt tuyết cũng là một môn thể thao mùa đông chứ gì nữa.
Nhân viên thứ hai quay sang tôi :
- Theo ý ông, đi xe trượt tuyết có phải là một môn thể thao mùa đông không? Tôi xin cam đoan với ông rằng ông sẽ thấy vô cùng cần thiết ở lại Locarno này. Rồi ông sẽ thấy khí hậu ở đây rất lành mạnh và những vùng lân cận rất dễ chịu. Rồi ông sẽ thấy thích thú.
- Ông đây đã tỏ ý ước ao đi Montreux mà.
- Đi xe trượt tuyết là như thế nào? - Tôi hỏi.
- Thấy chưa, ông đây chưa bao giờ nghe nói đến xe trượt tuyết.
Điều đó rất quan trọng đối với nhân viên thứ hai, ông ta tỏ ra rất hài lòng.
- Xe trượt tuyết cũng giống như xe trượt thấp- Người thứ nhất nói.
Nhân viên kia lắc đầu.
- Hãy cho phép tôi. Tôi xin được nói lại. Xe trượt thấp rất khác xe trượt tuyết. Xe trượt thấp được chế tạo bởi những thanh gỗ mỏng ở Canada, xe trượt tuyết là một xe trượt bình thường được đặt trên bánh trượt. Đó là một điều chính xác.
Nhân viên thứ hai hỏi?
- Ở đây ông sẽ ở đâu?
- Chúng tôi không biết, chúng tôi vừa mới từ Brissago tới. Cỗ xe ngựa còn đậu ngoài cổng kia - Tôi đáp.
Nhân viên thứ hai nói :
- Ông đến Montreux là có lý. Ở đó ông sẽ thấy khí hậu tốt, dễ chịu và thể thao mùa đông sẽ ngay bên cạnh.
Nhân viên thứ nhất nói :
- Nếu thật tình ông muốn tham gia thể thao mùa đông, thì ông nên đến Endagine hay Murren. Tôi thấy có nhiệm vụ phải phản đối lời khuyên đi Montreux để tham dự các cuộc thể thao mùa đông.
- Ở tại Les Avants phía trên vùng Montreux có đủ môn thể thao dành cho mùa đông - Anh chàng thuyết phục tôi đi Montreux nhìn xoáy vào anh bạn đồng nghiệp.
- Thưa các ông, tôi phải đi đây. Cô em họ tôi mệt lắm rồi. Tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ thử đi Montreux xem sao - Tôi nói.
- Tôi khen ngợi ông - Ông nhân viên thứ nhất bắt tay tôi.
- Tôi tin rằng ông sẽ tiếc khi rời khỏi Locarno - Nhân viên thứ hai nói - Dù sao khi đến Montreux ông hãy nhớ trình giấy tờ cho cảnh sát.
- Không có gì phiền nhiễu với cảnh sát đâu - Nhân viên thứ nhất trấn an tôi - Rồi ông sẽ thấy dân chúng ở đây vô cùng lịch thiệp và hiếu khách.
- Xin cám ơn cả hai ông. Chúng tôi sẽ nhớ đến lời khuyên của cả hai ông.
- Chào các ông, xin cám ơn nhiều - Catherine nói.
Họ cúi đầu chào, tiễn chúng tôi ra đến cửa. Anh chàng ca ngợi Locarno có vẻ hơi lạnh lùng. Chúng tôi bước xuống bậc thềm và lên xe ngựa.
- Trời ơi anh yêu, chúng ta không thể đi sớm hơn sao? - Catherine hỏi.
Tôi nói với người đánh xe ngựa tên khách sạn mà người sĩ quan giới thiệu khi nãy. Hắn nắm lấy dây cương.
- Anh đã quên quân đội rồi - Catherine nói.
Tên lính đứng cạnh cỗ xe, tôi biếu hắn mười đồng lia và bảo :
- Tôi chưa có tiền Thụy Sĩ.
Hắn cám ơn tôi, đưa tay chào rồi đi khuất. Chiếc xe chuyển bánh đưa chúng tôi đến khách sạn.
- Tại sao em lại chọn Montreux? - Tôi hỏi Catherine - Có thật em thích đến đó không?
- Montreux là nơi đầu tiên mà em nghĩ đến - Nàng đáp - Chỗ đó không chán đâu. Mình có thể tìm được một chỗ ở trên núi.
- Em có buồn ngủ không?
- Em đang buồn ngủ đây.
- Chúng ta sắp được ngủ ngon. Tội nghiệp Catherine, em đã trải qua một đêm thật tồi tệ.
- Đêm hôm qua là một đêm thú vị đấy chứ. Nhất là lúc anh giương cây dù lên làm buồm - Catherine đáp.
- Em có tin là chúng ta đang ở Thụy Sĩ không?
- Không, em sợ khi thức giấc sẽ thấy đây không phải là sự thật.
- Anh cũng vậy.
- Thực thế phải không, anh yêu? Đây không phải giống như lúc em tiễn anh ra ga Milan để thấy anh đi xa chứ?
- Anh hy vọng không phải như vậy.
- Đừng nói thế làm em sợ. Có thể đây là nơi chúng ta mong đi đến.
- Anh mệt nhoài đến mức không biết nữa.
- Đưa tay đây em xem nào.
Tôi đưa tay ra, thịt đỏ ửng.
- Anh không có thần thánh hỗ trợ bên mình.
- Đừng nói phạm thượng thế.
Tôi rất mệt và đầu óc trống rỗng. Mọi sự phấn chấn đã tan biến. Bánh xe vẫn lăn đều trên đường cái.
- Những bàn tay tội nghiệp - Catherine nói.
- Đừng sờ vào nó. Trời ơi, anh không biết mình đang ở đâu đây. Này bác đánh xe, chúng ta đang đi đây vậy?
Anh đánh xe ngựa cho xe dừng lại và nói :
- Đến khách sạn Métropole. Không phải đó là nơi ông muốn đến à?
- Đúng - Tôi nói - được chứ Catherine?
- Vâng anh yêu ạ. Đừng bực dọc nữa. Chúng ta sắp được ngủ ngon và sáng mai anh không còn thấy mệt mỏi nữa.
- Anh có cảm giác như say rượu. Hôm nay thật giống như là hài kịch. Có lẽ bây giờ anh cảm thấy đói.
- Anh chỉ mệt tí thôi, anh ạ. Rồi nó sẽ qua.
Chiếc xe ngựa dừng lại trước khách sạn. Một người ra mang hành lý của chúng tôi vào.
- Anh cảm thấy dễ chịu rồi - Tôi nói.
Chúng tôi bước xuống lề đường trước khách sạn.
- Em chắc là nó sắp qua. Anh chỉ mệt thôi. Anh phải đứng lâu quá mà.
- Dù sao điều chắc chắn là chúng ta đã đến nơi rồi.
- Vâng, thực chúng ta đã đến nơi rồi vậy.
Chúng tôi đi theo anh bồi xách hành lý vào khách sạn.
Năm ấy tuyết rơi rất muộn. Chúng tôi ở trong một ngôi nhà bằng gỗ nâu, giữa rặng thông, trên sườn núi. Ban đêm trời giá lạnh, và sáng nào nước để trong hai chiếc bình trên tủ con cũng đóng một lớp băng mo?ng. Sáng sớm bà Guttingen vào phòng khép cửa sổ và nhóm lửa chiếc lò sưởi lớn bằng sứ. Trong lò, củi thông nổ lách tách và bắn ra những tia lửa, ngọn lửa reo ầm ĩ và bà Guttingen vào phòng lần nữa, mang theo mấy gốc củi lớn để đốt và một bình nước nóng. Khi căn phòng đã ấm áp, bà dọn bữa điểm tâm. Ngồi trên giường vừa ăn, chúng tôi vừa có thể ngắm hồ núi phía bên kia thuộc về Pháp. Đỉnh núi phủ tuyết và hồ xám xanh màu thép.
Bên ngoài, ở trước nhà là một con đường dốc chạy lên núi. Vì trời đông giá, những dấu xe và ổ gà trên đường rắn như sắt. Con đường xuyên thẳng qua rừng, vòng qua núi, dẫn tới nơi có đồng cỏ và vựa lúa, có những túp lều dựng trên cánh đồng ven rừng, trên thung lũng. Lòng thung lũng rất sâu, dưới đáy một dòng nước chảy vào hồ, và mỗi khi một ngọn gió thổi qua, người ta lại nghe thấy tiếng nước chảy róc rách trên đá.
Thỉnh thoảng chúng tôi rời đường cái để đi theo đường nhỏ qua những rặng thông. Đất rừng mềm đi rất êm chân. Băng giá không làm cho nó cứng như trên đường nhựa. Nhưng chúng tôi cũng không ngại đường trơn cứng vì đế giày của chúng tôi có đóng đinh.
Phía trước ngôi nhà của chúng tôi ở là ngọn núi dốc thẳng xuống cánh đồng bằng nho nhỏ ven hồ, ngồi trước đầu hồi nhà dưới nắng, chúng tôi thấy con đường ngoằn ngoèo trên sườn núi, những vườn nho trên ngọn núi thấp nhất với những dây nho đã héo khô vì trời lạnh, những bức tường đá ngăn cánh đồng, và dưới chân dàn nho là những mái nhà trong tỉnh cất trên những cánh đồng nhỏ hẹp ven hồ. Giữa hồ có một hòn đảo nhỏ với hai thân cây trông giống như hai cánh buồm của một chiếc thuyền câu. Phía bên kia hồ núi non lởm chởm, cuối hồ là thung lũng sông Rhône, ép mình giữa hai dãy núi. Từ thung lũng đi ngược lên đến vùng núi non có ngọn Dent du Midi. Đó là một ngọn núi cao tuyết phủ sừng sững bên thung lũng nhưng vì ngọn núi cách khá xa nên không có bóng.
Khi trời nắng gắt, chúng tôi ăn điểm tâm ở đầu hồi, còn những khi khác chúng tôi ăn trên lầu, trong một căn phòng nhỏ, vách ván, với một lò sưởi lớn ở góc phòng. Chúng tôi mua tạp chí sách báo ở tỉnh, một quyển Hoyle và chúng tôi tập chơi rất nhiều lối đánh bài lá tay đôi. Có hai chiếc ghế và một bàn để sách báo, chúng tôi chơi đánh bài ở bàn ăn, khi đã được dọn sạch. Ông bà Guttingen thì ở tầng dưới và đôi lúc chúng tôi nghe họ trò chuyện vào lúc chiều họ sống với nhau trông rất hạnh phúc. Trước kia ông Guttingen đã từng là đầu bếp và bà vợ là cô hầu gái cùng trong một khách sạn. Cả hai vợ chồng đã dành dụm và mua được ngôi nhà này. Đứa con trai của ông bà Guttingen cũng đang tập sự nghề nấu bếp trong một khách sạn ở Zurich.
Ở tầng dưới có một căn phòng nơi đó hai ông bà bán rượu vang và bia, thỉnh thoảng vào buổi chiều, chúng tôi nghe tiếng xe ngựa dừng lại bên đường và nhiều người đánh xe lên bậc thang vào phòng để uống một ly rượu vang.
Trong hành lang, gần cửa phòng khách có một thùng để chứa củi, dành cho tôi nhóm lửa. Nhưng chúng tôi không bao giờ thức khuya. Khi ngủ, chúng tôi tắt đèn trong căn phòng rộng lớn, cởi đồ xong, tôi mở cửa sổ và trong thấy bóng đêm, những vì sao lạnh cùng những ngọn thông dưới cánh cửa sổ rồi vội vã bước vào giường. Thật là thích thú được ngủ trong giường ấm trong khi ngoài song cửa màn đêm buông xuống với khí trời lạnh lẽo và trong lành. Chúng tôi ngủ rất say sưa, và nếu tôi có giật mình tỉnh giấc giữa đêm khuya là tôi hiểu ngay nguyên nhân độc nhất, và nhẹ nhàng kép đắp lại chiếc mền bông để khỏi đánh thức Catherine, rồi tôi ngủ lại trong chiếc mền nhẹ và ấm êm ấy. Lúc đó đối với tôi chiến tranh dường như quá xa vời như đối với những trận bóng dã cầu trong một trường học thưở nào. Nhưng tôi được biết qua báo chí chiến tranh vẫn còn đang tiếp diễn trong núi vì chưa đến mùa tuyết.
Đôi khi chúng tôi đi bộ xuống đến tận Montreux. Có một con đường mòn đi xuống chân núi nhưng lại rất dốc. Vì thế chúng tôi thường theo con đường cái vừa rộng vừa chắc chắn ấy. Chúng tôi đi bộ giữa những cánh đồng, rồi xuống đến giữa những dãy nhà bên ven lộ. Có ba làng: Cherneux, Fontavinent, và một làng nữa mà tôi quên mất tên. Tiếp tục con đường chúng tôi đi ngang qua một tòa lâu đài cổ bằng đá dựng trên sườn núi với những trái nho khô màu nâu, với mặt đất sẵn sàng chờ tuyết phủ, và phía dưới là mặt hồ phẳng lặng sáng màu xám thép. Qua khỏi lâu đài, con đường dốc rẽ về bên tay mặt và cuối cùng dẫn tới Montreux sau một quãng dốc lởm chởm những đá sỏi.
Chúng tôi không quen ai ở Montreux cả. Chúng tôi đi dọc theo bờ hồ ngắm đàn thiên nga, bầy hải âu và hải yến. Khi chúng tôi đến gần thì chúng bay vụt đi và cất tiếng kêu khi nhìn xuống nước. Xa xa giữa hồ, từng đàn chim cộc đen và nhỏ rẽ nước lội tung tăng. Chúng tôi đi theo đại lộ trong thành phố ngắm nhìn tủ kính của những cửa hàng. Nhiều khách sạn lớn đã đóng cửa nhưng phần nhiều những cửa hàng đều mở và họ vui mừng trông thấy chúng tôi. Một hôm Catherine vào một phòng uốn tóc sang trọng để sửa tóc. Nữ chủ nhân là người vui tính và là người duy nhất chúng tôi quen biết ở Montreux. Tôi đến một quán rượu vừa uống bia đen Munich vừa đọc báo để chờ Catherine. Tôi đọc tờ Correre della Serra và những tờ báo Anh-Mỹ ở Paris. Tất cả những mục quảng cáo đều bị bôi bỏ, hẳn là đề ngăn ngừa liên lạc với quân địch. Báo chí chẳng có gì đáng đọc. Tất cả diễn ra quá xấu. Tôi ngồi trong một góc với một ly bia lớn, một túi lớn hạt dẻ, tôi thích ăn hạt dẻ vì có muối mặn và nó làm tăng hương vị của rượu bia. Vừa ăn tôi vừa đọc tin tức về những thảm họa chiến tranh. Đợi mãi Catherine vẫn chưa đến, tôi trả lại tờ báo vào chỗ cũ, trả tiền bia và đi tìm nàng. Hôm ấy trời lạnh, âm u và phủ đầy sương mù. Cho đến đá ở những ngôi nhà cũng phủ đầy sương ướt lạnh. Catherine đang ở trong tiệm, một bà đang uốn tóc cho nàng. Tôi ngồi trong phòng và ngắm nhìn. Catherine mỉm cười và trò chuyện với tôi, tôi phấn chấn đến mức lạc cả giọng. Mấy cây kẹp tóc chạm vào nhau tạo thành tiếng kêu lách cách êm tai, và tôi nhìn thấy Catherine trong ba chiếc gương. Trong phòng thật là ấm áp dễ chịu. Sau cùng khi bà uốn tóc làm xong cho nàng, Catherine ngắm trong gương, thấy một số đổi thay, sửa vài cái kẹp tóc.
Cuối cùng nàng đứng dậy :
- Em rất tiếc đã để cho anh phải chờ lâu quá.
Người uốn tóc cười hỏi :
- Hẳn là ông cũng vui thích lắm, phải không ạ?
- Vâng - Tôi đáp.
Chúng tôi bước ra đường phố. Trời lạnh, có sương mù và gió thổi.
- Ồ em yêu, anh yêu em quá - Tôi nói.
- Chúng ta hạnh phúc quá anh nhỉ. Này, thay vì uống trà, chúng ta đi uống bia đi, có lợi cho bé Catherine hơn, như thế sẽ làm cho con mình thon người lại.
- Con bé Catherine à? Con bé ấy lười biếng tệ.
- Nó ngoan lắm. Nó không chòi đạp gì nhiều đâu. Em hơi cảm thấy thế. Bác sĩ bảo là bia có lợi cho em và giữ cho con bé thon người lại.
- Nếu em giữ cho con thon người và nếu nó là con trai thì nó có thể trở thành một tên đua ngựa đấy.
- Chắc rồi chúng ta cũng phải làm đám cưới sau khi sinh nó.
Chúng tôi đang ở quán bán rượu bia, bên một chiếc bàn ở góc phòng. Bên ngoài trời đã bắt đầu sập tối. Tuy còn sớm nhưng trời âm u và đêm tới rất nhanh.
- Chúng ta hãy làm đám cưới ngay lúc này đi - Tôi nói.
- Không, lúc này thì bất tiện lắm. Cái đó lộ liễu quá. Em không muốn làm đám cưới trong tình trạng như thế này.
- Lẽ ra chúng ta phải làm phép cưới sớm hơn.
- Hẳn là như vậy rồi. Chừng nào chúng ta làm được hả anh yêu?
- Anh cũng không biết nữa.
- Dù sao theo em thì chắc một điều là em không muốn cưới chừng nào còn dáng điệu bệ vệ như thế này.
- Em chưa lấy gì làm bệ vệ cho lắm.
- Có chứ anh yêu. Bà thợ uốn tóc hỏi em có phải là con so không. Em nói dối rằng không, em bảo rằng chúng ta đã có hai trai và hai gái.
- Thế chừng nào chúng ta làm lễ cưới?
- Khi nào em suôn sẻ trở lại. Đám cưới chúng mình phải long trọng và mọi người đều trầm trồ “thật là xứng đôi”.
- Nhưng em không thấy buồn vì chưa cưới ư?
- Không, anh yêu ạ, tại sao em lại thấy phiền? Chỉ có một lần em hơi khó chịu là ở Milan, khi ấy em có cảm giác là mình không đứng đắn, nhưng điều đó chỉ kéo dài độ dăm bảy phút thôi. Em chẳng phải là người vợ hiền của anh sao?
- Em đúng là người vợ đáng yêu.
- Vậy thì anh đừng nguyên tắc quá anh yêu. Em sẽ lấy anh khi em suôn sẻ trở lại.
- Đồng ý.
- Em uống một ly bia được chứ? Bác sĩ bảo là hông của em hơi hẹp và bé Catherine càng thon người càng tốt.
- Ông ta còn nói gì nữa không? (tôi hơi lo lắng).
- Không, huyết áp của em rất tốt, anh yêu ạ. Bác sĩ khen ngợi lắm đấy.
- Thế ông ta nghĩ sao về chỗ hông hơi hẹp của em?
- Không, không khuyên gì cả. Ông ta chỉ bảo em đừng chơi trượt tuyết.
- Ông ta nói phải đấy.
- Ông ta bảo nếu đến bây giờ mới chơi thì hơi muộn. Ông cũng nói nếu em muốn chơi thì cũng được nhưng chắc chắn đừng để bị ngã.
- Đúng là một ông đùa dai vui tính.
- Ông ta thật đáng mến. Khi sinh con, chúng ta sẽ mời ông ta tới.
- Em có hỏi ông ta xem em có nên làm lễ cưới hay không?
- Không, em nói với ông ta rằng chúng mình đã lấy nhau từ bốn năm nay rồi. Anh yêu, anh biết không, nếu em thành hôn với anh, em sẽ trở thành công dân Hoa Kỳ và con chúng ta sẽ được là con chính thức.
- Em học được điều đó ở đâu vậy?
- Trong quyển Nữu Ước thế giới niên lịch trong thư viện.
- Em giỏi thật.
- Chúng ta sẽ sang Mỹ, phải không anh yêu? Em muốn được ngắm thác Niagara.
- Em thật đáng yêu quá.
- Em còn muốn xem một chỗ nữa mà em quên mất tên rồi.
- Lò sát sinh chăng?
- Không, em quên mất tên rồi.
- Tòa nhà Woolworth chăng?
- Không.
- Hay Grand Caynon?
- Không, những chỗ ấy em cũng thích xem nữa.
- Thế thì là cái gì nhỉ?
- À, em nhớ ra rồi. Golden Gate. Phải, chính nó đấy. Golden Gate ở đâu anh nhỉ?
- Ở San Francisco.
- À, thế thì mình sẽ tới đó.
- Bây giờ mình đi chơi núi đã, em nhé. Không biết mình có đi kịp chuyến M.O.B. không?
- Có một chuyến xe lửa vào khoảng hơn năm giờ.
- Chúng ta lấy vé đi.
- Tuỳ anh, nhưng em muốn uống thêm một ly bia nữa.
Khi chúng tôi bước ra ngoài phố, lên bậc thang nhà ga thì trời lạnh ngắt. Ngọn gió rét căm căm từ thung lũng sông Rhone thổi lại. Đèn các cửa tiệm đã bật sáng, và chúng tôi bước lên những bậc đá dốc để lên phố trên, rồi lại lên những nấc thang đá khác. Chúng tôi đến nhà ga. Chiêc xe điện bật đèn sáng trưng đã chờ sẵn. Có một đồng hồ chỉ giờ khởi hành, kim chỉ năm giờ mười. Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã năm giờ năm. Lúc chúng tôi bước lên toa xe, tôi thấy anh thợ máy và anh kiểm soát bước từ một quán rượu đi ra. Chúng tôi ngồi và hạ cửa kính xuống. Toa xe được sưởi bằng điện và không khí trong xe hơi khó thở. Nhưng khí mát từ cửa sổ tràn vào.
- Em có mệt không, Catherine?
- Không, em khỏe khoắn lắm.
- Đường đi không xa đâu.
- Không, em thích đi mà. Đừng lo cho em, anh yêu. Em rất khoẻ.
* * * * *
Ba ngày trước lễ Giáng sinh mới thấy tuyết rơi. Một buổi sáng chúng tôi thức dậy và thấy tuyết. Chúng tôi nằm trong giường và nhìn tuyết rơi, lửa reo lên trong lò sưởi. Bà Guttingen bưng khay thức ăn sáng và thêm củi vào lò. Đó là một trận bão tuyết lớn. Tôi đến bên cửa sổ và nhìn ra ngoài nhưng không thấy gì phía bên kia đường cả. Gió lộng và tuyết xoay tròn. Tôi trở vào giường nằm và chúng tôi cùng nhau trò chuyện :
- Em thích được chơi trượt tuyết. Không chơi trượt tuyết được thật là chán - Catherine nói.
- Chúng mình sẽ dùng xe trượt tuyết để đi trên đường như vậy đối với em cũng không thua gì xe thường.
- Như vậy e có xóc quá chăng?
- Để coi.
- Em ước gì nó đừng xóc quá.
- Lát nữa chúng ta sẽ đi dạo trên tuyết.
- Trước bữa ăn, như thế nó sẽ làm cho mình ăn ngon - Catherine bảo.
- Anh thì lúc nào cũng thấy đói.
- Em cũng vậy.
Chúng tôi đi ra trong tuyết, nhưng vì tuyết rơi quá dày cho nên không đi xa được. Tôi đi trước mở một con đường tới nhà ga. Khi tới đó chúng tôi thấy không muốn đi xa hơn nữa. Tuyết càng rơi dày đặc khiến chúng tôi chỉ thấy cảnh vật lờ mờ, và chúng tôi bước vào một quán nhỏ gần nhà ga. Chúng tôi dùng bàn chải lông để phủi tuyết cho nhau và ngồi xuống ghế cùng uống rượu Vermouth.
- Bão lớn thật - Cô hầu bàn nói.
- Vâng.
- Năm nay tuyết rơi muộn quá.
- Phải.
- Em có thể ăn một thanh kẹo sô cô la được không? Hay là gần tới giờ ăn rồi? Em luôn luôn cảm thấy đói.
- Được chứ, em cứ ăn đi - Tôi bảo.
- Em muốn ăn thứ có nhân hạt dẻ - Catherine nói.
- Sô cô la nhân hạt dẻ ngon lắm. Đó là thứ mà tôi thích nhất - Cô hầu bàn phụ họa.
- Anh thì sẽ uống thêm một ly Vermouth nữa - Tôi nói.
Khi chúng tôi quay lại con đường nhỏ lúc nãy, nó đã phủ đầy tuyết. Chỉ có những vết lún nhẹ ở chỗ tôi đã khoét. Tuyết va vào mặt khiến chúng tôi chỉ thấy lờ mờ. Chúng tôi phủi tuyết rồi ngồi vào bàn. Ông Guttingen dọn bữa cho chúng tôi rồi nói :
- Ngày mai chơi trượt tuyết được rồi đấy, thưa ông Henry, ông có chơi trượt tuyết không ạ?
- Không, nhưng tôi muốn tập.
- Ông tập rất dễ. Con trai tôi sẽ về đây dự lễ Giáng Sinh, để rồi nó sẽ hướng dẫn cho ông.
- Ồ tốt lắm, chừng nào cậu ấy về?
- Tối mai ạ.
Sau bữa ăn, trong khi chúng tôi ngồi trong căn phòng nhỏ bên lò sưởi, mải mê nhìn qua cửa sổ cảnh tuyết rơi, Catherine nói :
- Anh có thích đi dạo đâu đây một mình với những người trượt tuyết không, anh yêu?
- Không. Mà tại sao anh chỉ đi một mình thôi vậy?
- Em nghĩ rằng thỉnh thoảng chắc anh cũng thích gặp người khác.
- Còn em, em có muốn gặp ai khác không?
- Không.
- Thì anh cũng vậy.
- Em vẫn biết vậy, nhưng với anh thì khác. Riêng em, vì em sắp có con cho nên em không thiết gì khác nữa. Em biết rằng lúc này em thật là bồn chồn ngớ nhẩn và nói hơi nhiều nên em tưởng anh cần đi ra ngoài để khỏi mệt vì em.
- Em muốn anh đi biệt hay sao?
- Không, em muốn anh ở lại.
- Thì chính anh cũng muốn như vậy.
- Lại đây anh, em muốn rờ cục bướu trên đầu anh, nó lớn thật - Nàng xoa nhẹ cục bướu - Anh yêu ơi, anh không thích để râu à?
- Em có thích không?
- Chắc là ngộ lắm nhỉ? Em thích nhìn thấy anh để râu.
- Được rồi, anh sẽ để râu, bắt đầu ngay bây giờ. Ý kiến hay đấy, như vậy anh có việc để làm.
- Không làm gì chắc anh thấy buồn bực lắm phải không?
- Không, anh thích thế. Anh đang sống một cuộc đời kỳ diệu. Còn em?
- Em đang sống thơ mộng. Nhưng em cứ lo rằng em đang bụng mang dạ chửa sẽ làm anh buồn bực.
- Ồ Catherine, em không biết rằng tình anh đối với em say sưa đắm đuối như thế nào sao?
- Cả những lúc em như thế này nữa à?
- Hoàn toàn đúng. Cả lúc em như thế này. Anh rất hạnh phúc. Chúng ta chẳng đang sống một cuộc sống tươi đẹp hay sao?
- Em thì có, nhưng em nghĩ rằng anh muốn có đôi chút thay đổi.
- Không. Đôi khi anh nghĩ đến chiến trường và các chiến hữu. nhưng điều đó không làm anh bận trí. Ngoài ra anh chẳng còn nghĩ đến điều gì khác nữa.
- Anh nghĩ nhớ tới ai?
- Anh nghĩ tới Rinaldi, nhớ tới cha tuyên úy và hàng loạt người quen biết. Nhưng anh không để tâm đến họ nhiều. Anh không muốn nhớ tới chiến tranh nữa. Với anh, chiến tranh đã chấm dứt rồi.
- Thế bây giờ anh đang nghĩ gì?
- Chẳng nghĩ tới gì cả. Nhìn kìa em, tuyết rơi nhiều quá.
- Em thích nhìn anh hơn. Anh yêu ơi, sao anh không để tóc dài?
- Tại sao lại thế?
- Vâng, để tóc dài thêm một tí nữa.
- Anh thấy tóc anh cũng khá dài rồi.
- Không, anh hãy để dài thêm tí nữa, còn em, em sẽ cắt tóc ngắn, như thế tụi mình sẽ giống nhau, chỉ khác là em thì vàng nhạt còn anh thì màu đen.
- Anh không để em cắt tóc ngắn đâu.
- Như thế chắc ngộ lắm. Em mệt với nó lắm. Ban đêm đi ngủ hay vướng quá.
- Nhưng anh lại yêu mái tóc ấy.
- Thế anh không thích em cắt tóc ngắn à?
- Cũng thích, nhưng anh lại thích chúng như thế này.
- Tóc ngắn chắc đẹp lắm. Chúng mình sẽ giống hệt nhau. Chao ôi anh yêu quý, em yêu anh biết bao! Yêu đến nỗi em muốn rằng anh và em là một.
- Thì hẳn như vậy rồi, chúng ta tuy hai mà một.
- Em biết... ban đêm thì như vậy.
- Ban đêm thật tuyệt.
- Em muốn rằng chúng ta hòa hợp lẫn nhau. Em không muốn cho anh đi đâu cả. Nói vậy thôi anh muốn đi đâu thì đi, có điều nhớ mau mau quay về, vì anh yêu, đối với em, cuộc sống sẽ vô nghĩa nếu em thiếu anh.
- Anh sẽ không bao giờ đi đâu cả - Tôi nói - Anh không làm gì được cả nếu không có em ở bên cạnh. Bây giờ anh không còn có cuộc sống riêng nữa.
- Em muốn anh có cuộc sống riêng của anh. Em muốn anh có cuộc sống tươi đẹp. Chúng ta sẽ cùng chung sống một cuộc đời tươi đẹp, anh nhỉ?
- Thế bây giờ em có thích anh để râu không?
- Vâng, anh để cho nó mọc. Như vậy sẽ vui lắm. Nó sẽ mọc mừng ngày đầu năm.
- Em có muốn đánh cờ không?
- Em lại muốn chúng mình đùa với nhau hơh.
- Không, đánh cờ đi.
- Rồi sau đó chúng mình đùa với nhau nhé?
- Được rồi.
- Tốt lắm.
Tôi bày bàn cờ ra. Bên ngoài tuyết vẫn rơi nhiều.
* * * * *
Một đêm tôi thức giấc và biết rằng Catherine cũng đang thức. Ánh trăng rọi qua cửa sổ in bóng những chấn song cửa trên giường.
- Anh thức đấy ư anh yêu của em?
- Ừ, em không ngủ được à?
- Em vừa thức giấc và nhớ lại cái hôm đầu tiên em gặp anh, em thật là điên. Anh nhớ chứ?
- Phải, hôm đó em hơi điên một tí thôi.
- Em sẽ không bao giờ như thế nữa.
- Bây giờ em đàng hoàng rồi.
- Anh nói tiếng “đàng hoàng” nghe đáng yêu quá. Anh nói tiếng “đàng hoàng” nữa đi anh.
- Đàng hoàng.
- Ỗ, người yêu lý tưởng của em. Bây giờ em không điên nữa đâu. Em chỉ thấy rất rất hạnh phúc.
- Thế thì em ngủ lại đi - Tôi nói.
- Vâng, chúng mình sẽ ngủ lại cùng một lúc với nhau nhé?
- Được rồi.
Nhưng chúng tôi cũng không ngủ được. Tôi trằn trọc mãi vì nghĩ ngợi liên miên và cũng thích ngắm nhìn Catherine đang ngủ trong ánh trăng. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi.
Đến giữa tháng giêng thì tôi có một bộ râu. Mùa đông chỉ còn lại là một chuỗi ngày trong sáng lạnh lẽo và những đêm băng giá. Chúng tôi vẫn có thể đi dạo chơi trên đường. Những chiếc xe trượt tuyết chở cỏ khô, củi và gốc cây, xuôi ngược từ miền núi xuống đã khiến cho mặt tuyết nhẵn bóng và cứng. Tuyết phủ khắp đồng quê đến tận Montreux. Phía bên kia hồ là một dãy núi toàn màu trắng và cánh đồng trong thung lũng sông Rhône cũng phủ đầy tuyết. Chúng tôi thường dạo chơi rất xa, qua tận bên kia dãy núi thuộc vùng Brains de l’Alliaz. Catherine đi giày có đế sắt, mặc áo choàng và chống một cây gậy có đầu nhọn bịt thép. Khóac chiếc áo choàng, bụng nàng trông không có vẻ lớn lắm. Chúng tôi đi thong thả, và khi nàng mệt, chúng tôi dừng lại, ngồi nghỉ chân trên những thân cây bên vệ đường.
Trong khu rừng ở Bains de l’Alliaz có một quán trọ mà mấy bác tiều phu thường ghé lại uống rượu. Chúng tôi thường ghé lại quán, ngồi sưởi ấm bên cạnh lò sưởi, uống rượu chát hâm nóng điểm thêm gia vị và chanh. Người ta gọi là rượu Gluhwein uống vào làm ấm người và dùng trong các ngày lễ tết. Trong quán tối om, đầy khói và khi bước ra khỏi quán thì khí lạnh đột ngột tràn vào phổi làm cho vành mũi tê cóng khi thở. Chúng tôi quay lại nhìn quán ăn với những ánh đèn từ cửa sổ rọi ra, nhìn bầy ngựa của các bác tiều phu đang giậm chân lắc đầu cho đỡ lạnh. Sương đọng trên lông mõm của chúng, và mỗi lần thở, chúng tuôn ra từng làn hơi nước trong không khí. Con đường đi ngược về nhà chúng tôi, đoạn đầu thì trơn nhẵn, nhưng đến chỗ rẽ, gặp con đường dành cho xe ngựa, thì băng đá phủ trên mặt đường ngả sang màu cam vì vết chân ngựa dẫm lên. Rồi đoạn đường kế tiếp phủ đầy tuyết làc con đường dẫn xuyên qua rừng, mà trên đường về hai lần chúng tôi trông thấy các con chồn.
Đó là một vùng quê đẹp và chúng tôi luôn luôn thấy thích thú về những nơi dạo chơi khi trở về nhà.
- Bây giờ thì râu của anh tuyệt đẹp rồi, nó giống râu của mấy bác tiều phu. Anh có thấy người đàn ông đeo hoa tai nhỏ bằng vàng không? - Catherine hỏi.
- Ông ấy là thợ săn linh dương - Tôi đáp - Họ đeo bông tai vì cho rằng như thế sẽ thính tai hơn.
- Thật vậy sao? Em chả tin đâu. Em cho rằng đeo bông tai để tỏ ra họ là thợ săn linh dương. Ở vùng này có linh dương không anh?
- Có, ở sau núi Dent de Jaman.
- Thật là vui khi thấy cáo.
- Khi chúng ngủ, chúng quấn cái đuôi quanh mình cho ấm.
- Cách đó cũng tuyệt đấy chứ?
- Ấy, anh thường mơ ước có được một cái đuôi như thế. Em không thấy thật ngộ nghĩnh nếu người ta có được một cái đuôi cáo à?
- Đúng hơn là sẽ bực mình khi ăn mặc.
- Người ta có những quần áo may có ý hoặc sống ở một nơi mà điều đó chẳng quan trọng gì.
- Chúng ta đang sống ở một nơi mà mọi việc đều chẳng quan trọng gì. Không gặp ai cả có thích không? Anh yêu, anh không thích tiếp xúc với một ai đấy chứ?
- Không.
- Anh có thích chúng ta ngồi đây một lát không? Em hơi mệt.
Chúng tôi ngồi sát bên nhau trên một thân cây. Trước mặt chúng tôi là con đường mất hút trong cánh rừng.
- Chắc con bé sẽ không chen vào giữa chúng ta anh nhỉ.
- Không, chúng ta đâu có để cho nó chen vào.
- Chúng mình còn tiền không?
- Chúng ta còn nhiều. Anh còn một ngân phiếu chót.
- Gia đình anh có tìm cách bắt anh về không, vì họ đã biết anh đang ở Thụy Sĩ?
- Cũng có thể. Anh sẽ viết thư cho gia đình.
- Anh chưa viết thư về thăm nhà à?
- Chưa, chỉ nói về ngân phiếu thôi.
- Nhờ trời, em không là người trong gia đình anh.
- Anh sẽ gởi điện tín về nhà.
- Thế anh không có tình thương yêu gia đình sao?
- Trước kia thì có, nhưng rồi vì anh hay cãi nhau với gia đình quá cho nên nó cũng cạn đi.
- Em tin là em sẽ yêu mến các người trong gia đình anh. Chắc chắn là em sẽ rất yêu.
- Em đừng có nhắc tới họ nữa. Anh bực mình vì họ lắm đấy.
Một lúc sau tôi nói :
- Nếu em đã thấy khỏe thì ta đi thôi.
- Em hết mệt rồi.
Chúng tôi lại lên đường, lúc ấy trời đã sẫm tối. Dưới bước đi của chúng tôi, tuyết kêu rào rạo. Trời đêm nay khô ráo, lạnh lẽo và trong ngần.
- Em thích bộ râu của anh lắm - Catherine nói - Đó là một thắng lợi. Râu tuy có vẻ cứng và rậm rạp quá nhưng thật ra nó lại rất mịn màng và rất thích.
- Như thế này thì em yêu anh hơn là anh không để râu à?
- Đúng thế. Này anh yêu, anh biết không, em đợi đến khi nào sinh con bé Catherine rồi em mới cắt tóc. Bây giờ em sồ sề và lệt bệt quá. Nhưng khi sanh xong rồi, em sẽ suôn sẻ lại và em sẽ cắt tóc, và thế là anh có cảm tưởng mình có một cô vợ nhỏ nhắn, xinh đẹp và hoàn toàn mới. Khi cắt tóc, chúng ta sẽ cùng đi hay là em đi một mình và làm cho anh ngạc nhiên lúc trở về?
Tôi không nói gì.
- Anh sẽ không ngăn cản em chứ?
- Không, mà anh còn khuyến khích nữa là khác.
- Ồ anh đáng yêu quá. Mà có lẽ nhờ vậy em sẽ rất đẹp phải không anh yêu? Với lại khi mà em suôn sẻ và khêu gợi... thì anh sẽ lại mê mệt với em nữa cho coi.
- Trời đất. Thế em cho rằng anh yêu em chừng đó chưa đủ hay sao. Em còn muốn gì nữa? Muốn anh chết hay sao?
- Vâng, em muốn anh chết.
- Được rồi, anh chỉ mong có vậy.
Chúng tôi trải qua một tồn tại tuyệt vời. Tháng giêng, tháng hai trôi qua, mùa đông rất đẹp và chúng tôi rất hạnh phúc. Chúng tôi tận hưởng hạnh phúc qua hai tháng mùa đông và một mùa đông thật tuyệt vời. Khi có gió nồm thì tuyết chớm tan, nó mềm ra và không khí có vị mùa xuân, nhưng cái lạnh khô đẹp vẫn còn trở lại và mùa đông chưa dứt. Cho nên tháng ba mới bắt đầu có sự gián đoạn trong mùa đông. Một đêm trời bắt đầu mưa. Mưa suốt sáng. Tuyết biến thành bùn. Triền núi phủ một màu ảm đạm. Mây giăng khắp trên hồ và thung lũng. Mưa rơi trên đỉnh núi. Catherine mang đôi giày cao su to còn tôi mang đôi giày cao su của ông Guttingen. Chúng tôi che chiếc dù lớn đi xuống nhà ga, lội bì bõm trong tuyết tan và nước chảy cuốn theo những mảnh băng tan trên đường. Chúng tôi dừng lại quán uống một ly trước bữa điểm tâm. Ngoài trời chúng tôi nghe tiếng mưa rơi nặng hạt.
- Em có nghĩ rằng chúng mình nên dời xuống ở thành phố thì hơn không?
- Còn anh nghĩ sao? - Catherine hỏi lại.
- Nếu mùa đông tàn và trời tiếp tục mưa thì ở đây chẳng có gì vui cả. Còn bao lâu nữa trước khi bé Catherine ra đời?
- Độ một tháng hoặc hơn một chút.
- Có lẽ chúng ta nên xuống Montreux ở.
- Tại sao chúng ta không ở Lausanne? Ở đó có bệnh viện.
- Tùy em, nhưng anh nghĩ là Lausanne là một thành phố quá lớn.
- Chúng ta vẫn có thể sống biệt lập trong một thành phố lớn. Và ở Lausanne hẳn là dễ chịu.
- Khi nào chúng mình đi?
- Đối với em thì lúc nào cũng được. Khi anh thích, anh yêu ạ. Còn nếu anh không muốn đi thì em cũng không đi.
- Để chờ xem thời tiết ra sao.
Mưa đã ba hôm. Ở dưới nhà ga tuyết đã tan hẳn. Đường chỉ còn là một dòng thác bùn và tuyết tan. Trời hết sức ẩm ướt và đường đất quá bẩn. Sáng ngày thứ ba chúng tôi quyết định xuống thành phố.
Ông Guttingen nói :
- Không sao cả, ông Henry ạ, ông không cần phải báo trước cho tôi. Tôi cũng nghĩ rằng ông không thích ở lại đây lúc này, thời tiết đã bắt đầu quá xấu.
- Vả lại dù sao chúng tôi cũng thấy cần phải ở gần bệnh viện, để tiện cho nhà tôi.
- Vâng, tôi hiểu. Liệu ông bà có ẵm cháu bé trở lại đây chơi ít ngày không?
- Nếu ông có sẵn phòng.
- Đến mùa xuân nhân lúc tốt trời, ông bà nên đến đây thưởng xuân. Em bé và chị vú có thể ở căn phòng lớn hiện đang đóng cửa. Còn ông bà vẫn có thể ở căn phòng có cửa sổ trông ra hồ.
- Lúc nào trở lại, chúng tôi sẽ gởi thư cho ông - Tôi nói.
Chúng tôi thu xếp hành lý và đi chuyến xe lửa xế chiều. Ông bà Guttingen tiễn chân chúng tôi đến tận nhà ga. Ông Guttingen đỡ hộ hành lý của chúng tôi từ trên một chiếc xe kéo trên tuyết xuống. Ông bà đứng trên sân ga, dưới cơn mưa, vẫy tay chào từ biệt.
- Họ tử tế quá - Catherine nói.
- Phải, rất tốt bụng.
Từ Montreux, chúng tôi đáp xe lửa đến Lausanne. Qua khung cửa sổ nhìn về hướng chỗ ở cũ không thấy núi vì bị mây che khuất. Tàu ngừng lại tại Vevey rồi tiếp tục cuộc hành trình ngang qua giữa một bên là hồ, một bên là những cánh đồng xám sậm ẩm ướt, những khu rừng trụi lá và những ngôi nhà ướt át. Tới Lausanne, chúng tôi đến ngụ tại một khách sạn trung bình. Trời vẫn mưa rả rích khi chúng tôi đi xe qua những phố xá và vào cổng xe của khách sạn. Người gác cổng với xâu chìa khoá đồng trên ve áo, chiếc thang máy, những tấm thảm trên sàn nhà, những bồn rửa mặt màu trắng với những vòi nước chói sáng, chiếc giường đồng và căn phòng rộng lớn đầy đủ tiện nghi. Tất cả những thứ ấy hình như còn tiện nghi hơn nhiều so với ngôi nhà của ông bà Guttingen. Cửa sổ trông ra một khu vườn ướt át, có tường gắn song sắt bao bọc. Ở phía bên kia con đường dốc là một khách sạn khác có tường và vườn giống hệt. Tôi nhìn những giọt nước mưa rơi trên bể nước trong vườn.
Catherine bật tất cả các đèn lên và bắt đầu mở hành lý. Tôi gọi một ly whisky-soda và nằm trên giường đọc những tờ báo mua ở sân ga. Bấy giờ là tháng ba năm 1918, quân Đức bắt đầu mở cuộc tấn công trên đất Pháp. Tôi vừa uống whisky vừa đọc báo, trong khi Catherine mở các va ly và đi quanh quẩn trong phòng.
- Anh có biết là em phải mua gì bây giờ không anh yêu?
- Không, gì cơ?
- Quần áo cho con nhỏ. Ít có người đàn bà nào có mang tám tháng như em mà không có quần áo cho trẻ sơ sinh.
- Em chỉ việc mua thôi.
- Vâng, mai em sẽ mua ngay. Em sẽ hỏi mua những gì cần thiết.
- Em phải biết việc đó vì em đã từng là y tá mà.
- Vâng, nhưng ở bệnh viện ít thấy lính có con nhỏ.
- Thì anh đã có đó.
Nàng ném một chiếc gối vào tôi và làm đổ ly rượu.
- Để em kêu ly khác. Em xin lỗi.
- Có còn bao nhiêu rượu nữa đâu. Em lại giường nghỉ đi.
- Không, để em sửa soạn cho căn phòng có vẻ một tí.
- Vẻ gì?
- Có vẻ nhà riêng của chúng mình.
- Em hãy cắm cờ Đồng Minh.
- Ấy, khẽ miệng một chút.
- Em nói sao?
- Khẽ miệng chứ.
- Em nói điều đó thận trọng quá, làm như em sợ mất lòng ai vậy.
- Không phải vậy đâu.
- Vậy hãy lại giường đi.
- Được rồi - Nàng đến ngồi trên giường - Em biết đối với anh, em không hấp dẫn nữa. Em giống như một bao bột lớn.
- Không đâu. Em vẫn đẹp và đáng yêu lắm.
- Em là của ế mà anh đã vớ phải.
- Đâu có thế. Em vẫn càng ngày càng đẹp đó chứ.
- Rồi em sẽ thon thả lại, anh yêu.
- Em vẫn luôn luôn thon thả.
- Anh say rồi.
- Chỉ mới một ly whisky soda thôi mà.
- Sắp có một ly khác mang tới bây giờ - Nàng nói - Có gọi mang bữa ăn lên đây không anh?
- Ý kiến hay đó.
- Vậy thì mình không đi đâu cả à? Mình ở nhà tối nay sao?
- Và mình tha hồ đùa với nhau - Tôi nói.
- Em sẽ uống một tí rượu chát - Catherine nói - Không sao đâu. Không chừng ở đây có thứ rượu Capri trắng lâu năm.
- Nhất định là có rồi, trong một khách sạn cỡ này hẳn họ phải có các loại vang Ý chứ.
Anh bồi phòng gõ cửa. Anh mang đến một ly whisky có nước đá, bên cạnh là một chai soda nhỏ để trên một chiếc khay. Tôi nói :
- Cám ơn anh, anh cứ để xuống đó. Anh vui lòng mang lên đây hai phần ăn với hai chai Capri trắng ướp lạnh, không pha nhé.
- Ông bà có dùng xúp trước không ạ?
- Em có dùng xúp không Catherine?
- Có ạ.
- Vậy thì cho xúp một người ăn đi.
- Thưa ông vâng.
Anh ta bước ra và khép cửa lại. Tôi trở lại với các tin chiến sự trên báo. Đồng thời chậm rãi đổ soda vào ly whisky có đá. Tôi phải dặn anh ta đừng đổ nước đá vào whisky, cứ để nước đá riêng ra như thế mới biết tỷ lệ whisky là bao nhiêu để còn pha thêm soda. Tôi sẽ mua một chai whisky và kêu họ đem đá và soda tới là hơn cả. Được thứ whisky ngon thì thật là dễ chịu. Đó là một trong những thích thú của cuộc sống.
- Nghĩ ngợi gì thế anh yêu?
- Về whisky.
- Nhưng nữa cơ à?
- Xem whisky ngon đến mức nào. Anh nghĩ như thế là rất tốt.
- Em cũng thích.
Chúng tôi lưu lại khách sạn ba tuần lễ. Kể cũng dễ chịu. Phòng ăn thường vắng người và chúng tôi rất hay dùng bữa tối trong phòng riêng. Chúng tôi đi dạo trong thành phố và đáp xe lửa kéo bằng dây cáp đi Ouchy để dạo cảnh bờ hồ. Một thời gian trời khá nóng, không khác gì mùa xuân. Chúng tôi muốn quay lại núi nhưng tiết xuân ấm áp ấy chỉ kéo dài độ vài ngày rồi giá lạnh của buổi tàn đông lại kéo trở lại.
Catherine mua ở thành phố mọi thứ cần thiết cho đứa bé. Để vận động, vào buổi sáng, trong lúc Catherine còn ngủ, tôi thường đến đánh bốc ở một phòng tập thể dục. Trong những ngày lập xuân, sau khi đánh bốc và tắm rửa, tôi thích đi dạo theo những con đường đầy hương vị mùa xuân, và ngồi ở quán cà phê, ngắm thiên hạ qua lại, vừa đọc báo vừa uống rượu Vermouth, rồi trở về khách sạn dùng bữa với Catherine. Võ sư ở phòng tập thể dục để râu. Ông ta rất chính xác và nóng nảy, nhưng lại lúng túng khi bị tấn công ráo riết. Phòng thể dục trông cũng đẹp, vừa thoáng khí vừa sáng sủa. Tôi tập khá tốt, nào nhảy dây, tập võ trước mặt gương, nằm dài trên sàn có ánh sáng mặt trời từ cửa sổ chiếu vào, và thỉnh thoảng cũng làm cho võ sư phải khiếp sợ khi so tài. Lúc đầu tập bốc trước một tấm gương dài hẹp, tôi thấy khó khăn khi nhìn vào đánh một người có râu. Nhưng rồi tôi thấy thế thật là ngộ nghĩnh. Khi mới bắt đầu tập, tôi đã muốn cạo râu nhưng Catherine không tán thành.
Đôi khi Catherine và tôi cùng ngồi xe đi chơi ở đồng quê. Thật là thích thú nếu tiết trời quang đãng và chúng tôi tìm ra hai chỗ để ăn uống. Lúc này Catherine không còn đi bộ xa được nữa. Và tôi thích cùng nàng đi dạo trên những con đường đồng quê. Khi đẹp trời, chúng tôi thấy tràn trề hạnh phúc và không lúc nào thấy bất hạnh cả. Chúng tôi biết rằng mình sắp có con, và điều đó khiến cả hai chúng tôi có cảm giác vội vã và không để lỡ dịp ở bên cạnh nhau.