Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch nhìn qua thái độ liều chết đánh nhau giữa Phi Hổ Lữ Đằng Không và Hồng Ưng Cung Long, cả hai chắc chắn không làm thế nào tránh khỏi mất mạng, nên ông ta không thể nào lãnh đạm được nữa.
Bởi thế, ông ta đưa mắt nhìn về phía chiếc xe trang hoàng sang trọng và thấy nó chỉ cách xa ông ta không quá năm trượng.
Khoảng cách đó, với công lực của ông ta, chỉ cần nhảy hai bước là có thể đến nơi.
Ông ta nhận thấy đối phương tuy có thể sử dụng Bát Long Thiên Âm để làm cho tất cả cao thủ hiện diện đang bấn loạn tâm thần không còn sáng suốt được nữa, song về võ công thì chưa chắc hẳn đã vượt hơn số quần hùng có mặt trên đỉnh núi này. Như vậy, ông ta chỉ cần lướt được tới gần, vung chưởng tấn công đối phương, thì chắc chắn sẽ chận đứng được cuộc sát phạt ghê rợn đang diễn ra trước mắt.
Chỉ cần làm thế nào cho đối phương ngưng ngay tiếng đàn, thì tất cả quần hùng sẽ tỉnh trí lại như cũ, và cuộc tương tàn cũng sẽ chấm dứt tức khắc.
Trong khi Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch nghĩ ngợi, nên bị phân tâm, rồi ông ta cảm thấy thân người chao động mấy cái.
Do đó, ông ta vội vàng tập trung tinh thần, không còn để ý chi đến mọi người đang xảy ra trước mắt nữa. Đồng thời, hối hả vận chuyển chân khí chạy khắp châu thân mấy vòng mới giữ được sự bình tĩnh trở lại.
Tiếp đó, ông ta bèn tập trung tất cả công lực vào chưởng phải, bất thần thét lên một tiếng dài, phi thân bay lên khoảng không...! Với công lực của Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch, tiếng thét của ông ta, có thể vang dội đến ngoài mười dặm, còn nghe được rõ mồn một.
Nhưng giờ đây, tiếng thét của ông ta bị át hẳn không còn cách nào đối kháng nổi với Bát Long Thiên Âm, tức tiếng đàn tự cổ chí kim, cả võ lâm đều phải sợ hãi ấy.
Đông Phương Bạch vốn tự biết tiếng thét của mình không làm sao đè bẹp được tiếng đàn của đối phương. Nhưng sở dĩ ông ta vẫn làm như vậy, là vì muốn cất tiếng thét to, để cho chính đôi tai của ông ta không còn nghe được tiếng Bát Long Thiên Âm nữa, dù cho chỉ trong chốc lát cũng được.
Quả nhiên, khi ông ta cất tiếng thét to, thì tiếng Bát Long Thiên Âm không còn lọt vào tai ông nữa.
Trong giây phút chớp nhoáng đó, đã giúp cho ông ta giữ được bình tĩnh như thường.
Nhờ thế, ông ta liền phi thân bay vọt lên cao, rồi tiếp tục lướt thẳng về phía trước ngoài hai trượng. Khi đôi chân của ông ta vừa chạm lên mặt đất, rồi bay vọt lên lần thứ hai.
Thế là, Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch đã lướt được sát đến bên cạnh chiếc kiệu lộng lẫy kia! Và cùng một lúc đó, chưởng phải của ông ta cũng đã vung lên, quét thẳng về phía trước. Thế chưởng ấy được tập trung toàn bộ chân lực, nên chưởng phong vô cùng mãnh liệt.
Khi bàn tay của ông ta vừa vung lên, là đã thấy một luồng kình lực mãnh liệt, chẳng thua chi ba đào ngoài biển khơi, mà cũng chẳng khác nào núi đồi đang sụp đổ, nhắm quét nhanh về phía trước, khiến cát sạn tung bay mịt mù, uy lực trông vô cùng khinh khiếp.
Nhưng giữa lúc luồng chưởng phong của ông ta đang cuốn tớị gây thành tiếng nổ ầm ầm, thì bất thần lại nghe có ba tiếng nổ to khác nổi lên vang dội, chẳng thua chi tiếng sấm giữa không trung.
Ba tiếng nổ ấy, đã làm cho Đông Phương Bạch hết sức kinh hoàng. Đồng thời, thân người đang lướt tới của ông ta tự nhiên dừng ngay lại, đôi mắt bỗng cảm thấy tối sầm, té đánh phịch xuống đất! Ông ta cảm thấy chung quanh hết sức phẳng lặng, đôi mắt không còn nhìn thấy một vật chi nữa.
Hơn nữa, ông ta thấy máu huyết trong người đang ngược về tim! Vì ba tiếng nổ lớn vừa rồi, chẳng khác nào những nhát búa nặng hàng ngàn cân, giáng trúng thẳng vào lồng ngực ông ta.
Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch không còn thời giờ cảnh giác trước kẻ địch đang ở sát cạnh mình, vội vàng ngồi ngay ngắn lo điều hòa hơi thở, đem số máu huyết đang cuồng loạn trở về kinh mạch.
Sau khoảng thời gian độ dùng xong một chén trà, ông ta mới mở to đôi mắt ra.
Trước tiên, ông ta trông thấy chiếc kiệu khảm đầy châu ngọc ấy đã bị luồng chưởng phong của ông ta quét tan nát thành từng mảnh vụn. Cạnh chiếc kiệu có hai xác chết, chính là hai gã đàn ông lực lưỡng khiêng kiệu vừa rồi.
Hai tên phu kiệu đó, bị luồng chưởng phong đánh gãy xương nát thịt, nằm cuốn tròn không còn nhận ra hình dạng người được nữa! Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch trông thấy thế biết rằng chiếc kiệu bị đánh tan nát, và hai tên phu kiệu bị chết rùng rợn như vậy, là do luồng chưởng phong được dồn tất cả chân lực của mình đã quét tới khi nãy. Nhưng tên ma đầu tấu đàn ngồi bên trong chiếc kiệu, không thấy bỏ xác trên đỉnh núi, rõ ràng hắn ta thoát đi rồi.
Ngọc Diện Thần Quân thấy luồng chưởng lực quét ra, trong khi chỉ còn cách xa chiếc kiệu hai trượng, và lại từ khoảng không giáng xuống, nên mạnh mẽ phi thường, thế mà tên ma đầu ấy lại có thể thoát chết, ung dung rời đi, đủ biết hắn chẳng phải chỉ có Bát Long Thiên Âm tuyệt kỹ, mà đồng thời lại có trìng độ võ công không phải tầm thường.
Đông Phương Bạch nghĩ đến đây, không khỏi cảm thấy ớn lạnh cả tâm can. Ông từ từ đứng thẳng người lên, rảo mắt nhìn khắp mọi người, thấy thanh Long Hình Kiếm trong tay Hồng Ưng Cung Long, đã đâm thủng qua lồng ngực của Lữ Đằng Không. Trái lại, ngọn Tử Kim Đao của Lữ Đằng Không cũng bắt từ trên bả vai của Hồng Ưng Cung Long chém xả xuống, và cả hai đều chết từ lúc nào! Ngoài ra, Bích Ngọc Sinh và Sinh Phong Kiếm Khách Âu Dưong Bái, mỗi người đều bị mất một cánh tay, nơi vết thương máu tươi hãy còn trào ra xối xả, sắc mặt tái nhợt. Hai người đều đứng dựa vào một tảng đá to như hai pho tượng, chẳng hề nghĩ đến việc vung chỉ khóa huyệt đạo để cầm máu lại.
Thiết Đạc Thượng Nhân lúc ấy đang nằm phủ phục trên chiếc chuông sắt to của ông ta, nhưng hãy còn thở tChương thóp, chứng tỏ vẫn chưa chết hẳn.
Nhóm Trúc Lâm Thất Tiên thì đã chết mất đi bốn người, chỉ còn lại Thần Bút Sử Tụ, Sinh Tử Khuyên Lâm Hào và Ngọc Địch Tiêu Phương Dật mà thôi. Nhưng ba người này đều bị trọng thương, ngồi bẹp cả dưới đất, trông thực vô cùng thiểu não. Và bên cạnh họ, Lục Chỉ Tiên Sinh đang nằm co quắp, không còn hơi thở nữa! Trong phái Điểm Thương thì Phong Lôi Phích Lịch Kiếm Nam Cung Thích đang ngã lăn quay cạnh Lục Chỉ Tiên Sinh, chết vô cùng thảm thiết. Vị Chưởng môn phái này là Lăng Tiêu Nhạn Khuất Lục Kỳ, thì bị gãy cả hai ống chân, ngồi bẹp trên đất không đi đứng được! Ngoài ra, các nhân vật trong các môn phái khác đều chết ngổn ngang khắp đỉnh núi! Chỉ còn hai người chẳng hề bị thương tích, ấy chính là Đông Phương Bạch và Thủy Kính Đại Sư trong phái Nga My mà thôi! Nhưng lúc bấy giờ Thủy Kính Đại Sư đang nhắm nghiền đôi mắt, chắp hai tay trước ngực, ngửa mặt nhìn trời, đứng yên như một pho tượng.
Ngọc Diện Thần Quân nhìn qua cảnh tượng bi thảm đó, thì im lặng chẳng nói lên được một tiếng nào. Việc tàn sát trong võ lâm nguyên là những chuyện rất thường xảy ra. Ví như, trước đây Đông Phương Bạch đã đơn thân độc mã đánh nhau với bảy vị trưởng lão của phái Thê Hà trên một ngọn núi trong vùng Thế Hà Sơn và đã vung chưởng hạ sát tất cả bảy đối phương, xác chết nằm ngổn ngang đây đó. Nhưng giờ đây Đông Phương Bạch không làm thế nào tưởng tượng được là bao nhiêu cao thủ võ lâm này, chỉ trong phút chốc mà đã thương vong gần hết! Bởi thế, ông ta đứng sửng sờ một lúc thật lâu, mới hạ giọng nói:
- Thủy Kính Thiền Sư, tại sao ông không lo đi chăm sóc giúp số người bị thương, mà còn đứng trơ ra nhìn trời làm gì thế? Thủy Kính Thiền Sư lúc ấy không còn nhận được giọng nói của Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch. Lão ta chỉ rùng mình, rồi cất giọng run run đáp:
- Sóng gió trong võ lâm đã bắt đầu nổi dậy, dù cho có thể thoát khỏi lần này, thì cũng chưa chắc đã thoát khỏi lần sau. Vậy giờ đây lo việc chữa thương cho số người chung quanh, thử hỏi có ích lợi gì? Đông Phương Bạch hừ một tiếng nói:
- Tại sao lại không ích lợi gì? Vừa rồi, tôi đã liều chết vung chưởng đánh tên ma đầu ấy, khiến nó đã kinh hoàng bỏ chạy. Như vậy, chứng tỏ mọi việc vẫn còn có thể đối phó được. Thiền sư là người tuổi cao đức trọng trong võ lâm, nếu bằng lòng đứng ra hô hào, kêu gọi toàn thể võ lâm đoàn kết để đối phó với địch, thì chắc chắn vẫn còn có nhiều hy vọng.
Thế tại sao thiền sư lại tỏ ra thối chí ngã lòng? Thiền sư chẳng sợ người chung quanh chê cười cho hay sao? Qua những lời nói tràn đầy hào khí ấy của Đông Phương Bạch đã khiến Thủy Kính Thiền Sư hết sức kinh ngạc. Lão ta mở to đôi mắt ra, và cất tiếng niệm Phật, nói:
- Thí chủ vốn thực là ai? Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch nhớ lại tình cảm trước kia giữa sư huynh và sư đệ với nhau, suýt nữa đã lên tiếng nói rõ lai lịch mình cho Thủy Kính Thiền Sư được biết.
Nhưng bỗng lúc đó ông ta thoáng có một ý nghĩ, nên liền im lặng không nói chi cả.
Vì kể từ lúc ông ta bị đuổi ra khỏi môn phái, tìm đến ở yên tại vùng Đại Tuyết Sơn, là đã có ý định sáng lập môn phái mới, đứng song song với các môn phái hiện có trong võ lâm, giờ đây, ông ta đang chuẩn bị tái xuất giang hồ. Hơn nữa để gây thanh thế trở lại như trước kia...
Bởi thế, ông ta thấy trong tương lai khó tránh sự xung đột với các nhân vật võ lâm, kể cả Thủy Kính Thiền Sư, nên tạm thời giấu kín lai lịch của mình.
Đông Phương Bạch chỉ cất tiếng cười dài, rồi lướt đến bên cạnh Bích Ngọc Sinh, vung chỉ khóa cứng huyệt đạo để cầm máu giúp cho ông ta.
Thủy Kính Thiền Sư thấy đối phương không trả lời, cũng không có cách nào truy hỏi, nên liền quay lại lo việc chữa thương cho số người chung quanh.
Hai người nhọc nhằn suốt nửa ngày mới cầm máu và rịt xong các vết thương cho số người còn sống sót. Nhờ thế, số người bị thương đã thấy đỡ nhiều.
Lúc bấy giờ, bóng tịch dương đã ngã về tây, nền trời ráng chiều đỏ như máu, làm cho cảnh sắc trên đỉnh Tiên Nhân Phong càng thêm buồn bã, thê lương.
Đông Phương Bạch đứng nhìn chung quanh một lúc, cảm thấy nếu không trừ được tên ma đầu ấy, thì chắc chắn mình sẽ khó bước trở ra giang hồ, gây lại thanh thế như xưa. Do đó, sau khi lo liệu xong cho những người bị thương, ông ta bèn lướt thẳng xuống chân Tiên Nhân Phong mất dạng.
Sau khi đi khỏi vùng núi Võ Di, Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch có ý định truy đuổi theo tên ma đầu vừa rồi. Vì tuy chiếc kiệu sang trọng của hắn đã bị phá vỡ tan nát thành từng mảnh vụn, nhưng ông ta biết hắn lại còn một cỗ xe ngựa, cũng trang hoàng sang trọng không kém, và căn cứ vào vết bách xe, chứng tỏ hắn đã bỏ đi về phía bắc rồi.
Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch liền theo dấu bánh xe truy đuổi thực gấp.
Chẳng mấy hôm sau, ông ta đã tới vùng phụ cận Bắc Mang Sơn và được người tại đây cho biết, chính họ đã trông thấy một cỗ xe ngựa sang trọng vừa đi qua.
Thảm kịch xảy ra trên ngọn Tiên Nhân Phong tuy đã kết thúc cuộc biến động to lớn trong mấy ngày gần đây, nhưng trước khi chiếc kiệu ấy xuất hiện, có một số đông người đã rời khỏi Tiên Nhân Phong. Hơn nữa, Bát Long Thiên Âm mới tái xuất hiện, vậy chắc chắn mầm đại loạn trong võ lâm, chỉ là mới bắt đầu mà thôi! Đồng thời, dựa vào mọi việc xảy ra gần đây, ông ta thấy rằng nhân vật am hiểu Bát Long Thiên Âm ấy, đã tìm Phi Hổ Lữ Đằng Không, một nhân vật trong phái Nga My, tức môn phái có thế lực to nhất hiện nay để gây điều rắc rối, cũng đủ biết hắn ta là người hết sức gian ngoan.
Vì trước tiên hắn ta đã khôn khéo che giấu hành động của mình để đi lần từng bước một, mượn tay người khác gây mầm xung đột giữa các nhân vật hai phái chính tà, để họ tự tàn sát lẫn nhau, rồi hắn ta mới bí mật chen vào xúi bẩy, để có sự tàn sát ấy ngày một to lớn, trầm trọng hơn.
Nhờ thế, hắn ta đứng yên chờ đợi một thời cơ thuận tiện nhất mới xuất đầu lộ diện, hầu thực hiện dã tâm xưng bá trong võ lâm.
Đông Phương Bạch là người rất thông minh, nhiều kinh nghiệm, nên tin chắc sự phán đoán của mình không sai lầm bao giờ.
Nhưng còn một điểm mà ông ta không còn làm sao hiểu được là tên ma đầu ấy vốn thực là ai? Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch thấy vết bánh xe tiến lần tới vùng phụ cận Bắc Mang Sơn, nên ngờ vực tên ma đầu thần bí ấy có thể là Quỷ Thánh Thạnh Linh chăng? Song, vừa mới nghĩ đến đó, ông ta liền tự lật đổ ý nghĩ ấy ngay. Vì nếu Quỷ Thánh Thạnh Linh đã được Bát Long Thiên Âm, thì chắc chắn không khi nào lại xem thường địa vị một bậc tông sư của lão ta, sai bộ hạ đi bắt cóc Lữ Lân, để rúng ép Lữ Đằng Không phải tìm đến Quỷ Cung, thương lượng đánh đổi con mang về như thế.
Đông Phương Bạch đang trên đường truy đuổi theo cỗ xe, bất ngờ gặp được Đàm Nguyệt Hoa ở giữa cánh rừng. Và khi được biết Đàm Nguyệt Hoa đã cứu thoát Lữ Lân ra khỏi Quỷ Cung, ông ta hết sức vui mừng.
Nhưng kịp khi nghe Đàm Nguyệt Hoa bảo Lữ Lân lại bị mất tích lần thứ hai, thì cá tánh nóng nảy của ông ta lại nổi lên, mắng xối Đàm Nguyệt Hoa một trận đích đáng.
Sau đó, tuy ông ta rời Đàm Nguyệt Hoa ra đi, nhưng vẫn chú ý truy tầm tung tích của Lữ Lân. Nhờ thế, lúc Đàm Nguyệt Hoa và Huỳnh Tâm Trực lẻn vào ngôi nhà đồ sộ của phái Hoa Sơn, thì ông ta cũng đi theo đến đó.
Vì ông ta là người công lực cao cường, đi theo chẳng hề gây ra một tiếng động khẽ, nên Đàm Nguyệt Hoa và Huỳnh Tâm Trực không hay biết chi cả.
Khi ông ta trông thấy Đàm Nguyệt Hoa can đảm xông thẳng vào gian đại sảnh của Liệt Hỏa Tổ Sư, trong lòng không khỏi thầm khen gợi. Bởi thế, ông ta bám sát theo sau ngay, rồi vượt lên nóc gian đại sảnh ẩn kín chờ xem động tịnh.
Nhờ đó tất cả lời đối đáp giữa Đàm Nguyệt Hoa và Liệt Hỏa Tổ Sư, ông ta đều nghe rõ không sót lời nào. Và cũng chính vì thế, ông ta không khỏi thầm thâm phục trí khôn ngoan và lòng can đảm của nàng.
Trong khi ông ta nghĩ về Đàm Nguyệt Hoa, có một điều rất lạ lùng, là tuy tuổi tác giữa hai người chênh lệch nhau, nhưng ông ta cảm thấy cô gái đầy gan dạ, thông minh và lanh trí như Đàm Nguyệt Hoa, thực xứng đáng là một người bạn ngang hàng với ông ta! Vì lẽ ấy, lúc số người của Đàm Nguyệt Hoa sắp bị đối phương vung roi ra đánh thẳng vào người thì ông ta liền xuất hiện để cứu nguy.
Sau khi Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch đã kể tỉ mỉ mọi việc xảy ra tại Tiên Nhân Phong xong, thì sắc mặt Lữ Lân vì quá căm hận, nên đỏ gay. Cậu ta to tiếng nói:
- Nếu nói như vậy, thì kẻ thù đã sát hại phụ thân con, chính là tên ma đầu tấu Bát Long Thiên Âm ấy chứ gì? Đông Phương Bạch khẽ gật đầu nói:
- Đúng là hắn ta. Xem ra, mọi sự xô xát càng ngày càng lan rộng trong võ lâm, cũng chính một tay hắn ta gây ra tất cả.
Lữ Lân siết chặt hai quả đấm, nói:
- Nếu tôi không trả được thù cho phụ thân tôi, thì không làm con người nữa! Đông Phương Bạch nói:
- Đấy là lẽ tất nhiên! Nếu chẳng phải thế, thì hỏi ta thu người làm môn đồ có mục đích gì? Sự tức giận đang căng tràn lồng ngực của Lữ Lân, cậu ta cất giọng hầm hầm nói:
- Sào huyệt của tên ma đầu ấy, chẳng rõ hiện ở nơi nào? Đàm Nguyệt Hoa lên tiếng đáp:
- Lân đệ, chớ nên quá sốt ruột, mối thù sát phụ của đệ đệ, tôi không khi nào khoanh tay đứng nhìn đâu. Sào huyệt của tên ma đầu ấy, tôi được biết là cách đây không xa.
Kế đó, nàng bèn kể chuyện vào đụt mưa tại một gian nhà to lớn, và bất ngờ gặp tiếng đàn quái dị, nói rõ cho mọi người nghe.
Lữ Lân nghe xong, bèn lên tiếng nói:
- Sư phụ, Nguyệt tỷ tỷ, chúng ta nên đi tìm hắn ngay.
Nét mặt của Đông Phương Bạch bỗng sa sầm, nói:
- Không thể được! Lữ Lân sửng sốt, hỏi vặn rằng:
- Tại sao thế? Thái độ của Đông Phương Bạch trở thành nghiêm nghị nói:
- Vừa rồi ở trên Tiên Nhân Phong, khi ta phi thân bắn về phía hắn thì bỗng nghe có ba tiếng đàn nổ ầm thực to như sấm động, ngay đến một người có nội lực cao cường như ta mà vẫn bị tiếng động ấy dội mạnh làm cho tối sầm cả đôi mắt. Theo ta đoán, tiếng động ấy rất có thể là do hắn ta đã khảy vào sợi dây đàn chính mà ra. Bởi vậy hiện giờ chúng ta không thể tìm đến gần hắn được, mà cần phải bình tĩnh để nghĩ kế hoạch đối phó sau.
Lữ Lân nghe qua lời nói của Đông Phương Bạch chợt nhớ lại chính mình trước đây đã trông thấy một cây đàn để trong cỗ xe ngựa mà cậu ta bắt gặp bên ngoài thành Nam Xương, và vì hiếu kỳ cậu ta cũng đã thò tay khảy mạnh vào sợi dây đàn to nhất. Liền đó, sợi dây đàn ngân lên một tiếng to vang rền như sấm động khiến cho những con ngựa kéo xe sợ hãi, co vó chạy bay, suýt nữa đã lật xe chết mất cậu ta rồi! Lữ Lân nghĩ đến đó, mới biết lời nói của sư phụ mình là hoàn toàn đúng sự thật.
Cậu ta im lặng không nói chi nữa, nhưng đôi mắt vẫn chiếu lập lòe ánh lửa căm hờn.
Đàm Nguyệt Hoa biết cá tánh của Lữ Lân vốn rất cứng rắn, chắc chắn trong lòng của cậu ta chưa hoàn toàn tán đồng ý kiến của Đông Phương Bạch. Bởi thế, nàng bèn cất tiếng nói:
- Lân đệ, lời nói của Đông Phương... tiên sinh, đệ đệ không thể không nghe theo! Lữ Lân không trả lời, mà chỉ hừ một tiếng, im lặng không nói chi nữa cả.
Đông Phương Bạch lên tiếng nói:
- Nếu chúng ta đã biết sào huyệt của hắn, thì chẳng những không tiến tới gần, mà phải tránh đi cho xa ngay.
Đàm Nguyệt Hoa nghe thế, không khỏi hết sức ngạc nhiên, hỏi:
- Đông Phương tiên sinh! Nếu thế, thì chả lẽ ta để mặc cho hắn muốn hoành hành ra sao cũng được chăng? Đôi mày lưỡi kiếm của Đông Phương Bạch khẽ nhướng cao, cất tiếng cười lơ đễnh. Qua nụ cười của ông ta, càng làm cho khuôn mặt vốn tuấn tú xinh đẹp của ông ta lại càng xinh đẹp hơn. Lúc ấy Đàm Nguyệt Hoa vì đang nói chuyện với Đông Phương Bạch, nên nhìn thẳng vào khuôn mặt của ông ta nên nàng trông thấy sắc đẹp của Đông Phương Bạch càng hiện rõ qua nụ cười, thì quả tim non của nàng không ngớt nhảy nghe thình thịch. Song, cũng may là Đông Phương Bạch đã lên tiếng trả lời ngay, nên nàng mới khỏi luống cuống:
- Dĩ nhiên là không thể để yên cho hắn. Vừa rồi, Thủy Kính Thiền Sư có cho ta biết, hiện nay lệnh tôn đã tìm đến Tiên Nhân Phong rồi. Hai ông ấy sẽ mời tất cả nhân vật võ lâm, hội họp lại, hầu mưu tìm kế hoạch đối phó với tên ma đầu đó! Đàm Nguyệt Hoa cất tiếng than dài, nói:
- Ôi, Bát Long Thiên Âm đã mấy lần xuất hiện, song chẳng rõ vì sao, nó lại không rơi vào tay của một người tốt, nhiều lòng nhân từ, nhiều ý chí nghĩa hiệp.
Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch nghe qua, ông to tiếng cười ha hả, tựa hồ cho lời nói của Đàm Nguyệt Hoa là quá ấu trĩ! Đàm Nguyệt Hoa rất ngưỡng mộ và khâm phục Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch, vì ông ta nếu so sánh với người anh trai của nàng là Đàm Dực Phi, tuy diện mạo không lớn hơn mấy tuổi, nhưng về võ học, thì lại cao cường đến mức khắp cả võ lâm khó ai bì kịp.
Hơn nữa, cá tính của ông ta lại vui vẻ, hài hước. Tuy nàng đã được phụ thân nàng cho biết, ông ta là người lúc nào cũng rất hung tợn, độc ác. Nhưng suốt trong thời gian nàng được gần gũi và nhận xét, thì thấy lời nói ấy dường như có hơi quá đáng.
Vì Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch lúc nào đối với nàng cũng vui vẻ tươi cười.
Thậm chí viên ngọc Tuyết Hồn Châu có thể trị liệu được các thương thế, chống được các loài độc, quý báu tự ngàn xưa, khó ai tìm lấy được, thế mà ông ta lại khảng khái mang nó biếu cho nàng. Vậy, thử hỏi với một cô gái tâm hồn trong trắng như nàng, không lấy đó làm điều mến phục và ngưỡng mộ sao được? Giờ đây, bỗng nàng nghe qua tiếng của Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch, tựa hồ ông ta xem lời nói của mình quá non kém, thiếu sự nhận xét chín chắn và tế nhị, nên nàng buột miệng hỏi:
- Đông Phương tiên sinh, tại sao tiên sinh lại cười như thế? Chẳng lẽ câu nói của tôi có chỗ nào không đúng hay sao? Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch lại cất tiếng cười, nói:
- Lẽ tất nhiên là không đúng. Vì thử nghĩ, trong võ lâm thật sự có một người tốt, giàu lòng nhân, giàu lòng nghĩa hiệp hay sao? Đàm Nguyệt Hoa nghe lập luận gần như ngụy tạo của ông ta, có vẻ không tán đồng.
Nhưng nàng chưa kịp lên tiếng phản đối, thì Đông Phương Bạch lại nói tiếp:
- Dù cho thật sự có một người tốt, giàu lòng nhân đạo nghĩa hiệp đi nữa, nhưng một khi họ đã nắm được Bát Long Thiên Âm vào tay rồi, thì họ tự biết có thể dựa vào nó để khuất phục tất cả quần hùng võ lâm xưng bá, vậy thử nghĩ, họ có chống lại nổi sự quyến rũ chăng? Chính vì vậy, nên cứ mỗi lần Bát Long Thiên Âm xuất hiện, là khắp võ lâm lại xảy ra những vụ xô xát đẫm máu. Binh pháp có câu "công tâm là thượng sách", vậy trong võ học, cũng cùng một nguyên tắc như thế. Bát Long Thiên Âm là một thứ tuyệt học, dùng để tấn công vào tâm trí của đối phương. Đứng về mặt võ học mà nói, Bát Long Thiên Âm chẳng những là một môn võ tuyệt đỉnh, mà còn là một môn học chỉ mang đến họa bất tường cho võ lâm mà thôi.
Đàm Nguyệt Hoa nguyên lúc đầu không tán đồng lời nói của Đông Phương Bạch, song kịp khi nghe ông ta giãi bày hết ý, thì nàng thấy vô cùng hữu lý. Nàng khẽ than dài, im lặng chẳng nói chi nữa.
Ngọc Diện Thần Quân lại cất tiếng cười ha hả, rồi lại lấy chiếc mặt nạ chụp lên đầu, nói:
- Chúng ta hãy đi thôi! Lữ Lân vì tuổi còn nhỏ, nên đối với lời nói vừa rồi của Đông Phương Bạch, chỉ hiểu được một phần nhỏ chứ không lãnh hội hết được ý nghĩa sâu xa của nó. Cậu ta nghe Đông Phương Bạch hối mọi người lên đường, liền lên tiếng nói:
- Sư phụ, giờ chúng ta đi đâu? Đông Phương Bạch cười lạnh nhạt, nói:
- Hãy mau rời khỏi nơi này, bất luận đi đâu cũng được, càng xa càng tốt.
Đôi môi của Lữ Lân khẽ mấp máy, tựa hồ cậu ta đang muốn nói chi, nhưng cuối cùng im lặng không nói gì cả.
Đông Phương Bạch đã đưa chân bước đi, nên Đàm Nguyệt Hoa và Lữ Lân cùng vai sánh vai, cùng đi theo sau ông ta.
Thái độ như muốn lên tiếng nói vừa rồi của Lữ Lân, Đàm Nguyệt Hoa đã thấy rõ ràng.
Theo đó, nàng đoán biết trong lòng Lữ Lân đang bất bình bởi hành động của Đông Phương Bạch. Nàng định lên tiếng khuyên giải Lữ Lân vài câu, nhưng không biết phải dùng lời lẽ gì để nói với cậu ta. Hơn nữa, nàng cảm thấy mình đang đứng giữa Lữ Lân và Đông Phương Bạch, như có một sự tương quan kỳ diệu khó quên.
Nàng im lặng suy nghĩ một chốc, bỗng tâm trạng rối bời, nên cất tiếng than dài.
Ba người theo đường cái quan, tiến thẳng vào một thị trấn. Khi đến nơi, thì trời đã tối hẳn, nên ba người tìm khánh sạn nghỉ trọ.
Đêm hôm ấy, Đàm Nguyệt Hoa nằm yên trên giường, trăn trở mãi mà không tài nào nhắm mắt được. Với Lữ Lân, nàng đã vào sanh ra tử, cùng chung hoạn nạn bao lần, nên trong lòng nàng đã có tình cảm sâu xa đối với cậu ta. Nhưng khi nàng gặp được Đông Phương Bạch, và nhất là khi được biết diện mục thật sự của ông ta, thì nàng bỗng thấy Đông Phương Bạch có sức hấp dẫn đối với nàng còn mãnh liệt hơn Lữ Lân.
Khi cùng đi chung với Đông Phương Bạch, nàng cảm giác rất vững lòng tin, dù cho trời long đất lỡ nàng cũng không hề biết sợ. Suy nghĩ đến đấy, nàng lại đỏ sắc mặt! Trong khi Đàm Nguyệt Hoa định xua đuổi những ý nghĩ vẩn vơ hầu dỗ giấc ngủ, bỗng nghe tại khung cửa sổ, có một tiếng gõ thực nhẹ.
Đàm Nguyệt Hoa lúc nào cũng cảnh giác, liền nhanh nhẹn đứng phắt lên, vung sợi dây lòi tói sắt quét nhẹ về phía trước. Nhưng cùng lúc đó, bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng gọi nhỏ rằng:
- Nguyệt tỷ tỷ! Nguyệt tỷ tỷ! Chị đã ngủ chưa? Đàm Nguyệt Hoa nghe đấy là tiếng Lữ Lân, nên mới thở phào một hơi dài, bước tới mở rộng cánh cửa sổ. Nàng trông thấy Lữ Lân ăn mặc chỉnh tề, thái độ trang nghiêm, đang đứng sững ở bên ngoài.
Đàm Nguyệt Hoa nghe giọng nói của Lữ Lân, đã đoán biết một phần nào ý định của cậu ta tìm đến đây để làm gì.
Bởi thế nàng bèn hạ giọng hỏi nhỏ rằng:
- Lân đệ, chả lẽ đệ đệ không nghe theo lời dặn của sư phụ sao? Lữ Lân trông thấy Đàm Nguyệt Hoa đã đoán đúng ý định của mình nên khuôn mặt tuấn tú không khỏi bừng đỏ như gấc. Cậu ta hạ giọng nói:
- Nguyệt tỷ tỷ, hiện giờ tôi đã biết được địa điểm kẻ thù sát hại phụ thân tôi rồi, vậy thử hỏi làm thế nào bảo tôi lánh xa đi được? Đàm Nguyệt Hoa đưa tay kéo Lữ Lân vào phòng, nói:
- Lân đệ, bộ đệ đệ định đi tìm lấy cái chết hay sao? Đôi mắt của Lữ Lân chiếu lập lòe ánh sáng căm thù, nói:
- Tôi chẳng cần biết đây có phải là đi tìm cái chết hay không? Trái lại tôi thấy phải đi tìm kẻ thù đã. Nguyệt tỷ tỷ, chị có bằng lòng đi với tôi không? Nếu ở trong trường hợp Đàm Nguyệt Hoa chưa gặp Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch thì chắc chắn nàng sẽ lên tiếng tán đồng ngay. Nhưng kể từ sau khi nàng cảm thấy nhất thiết lời nói chi của ông ta cũng đều hữu lý. Vì vậy, nàng đã hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Đông Phương Bạch mà chính nàng cũng không hay biết.
Nàng liền trả lời chẳng hề do dự:
- Lân đệ, chớ nên nói càn, đệ đệ không thể đi như vậy được! Sắc mặt của Lữ Lân hiện rõ nét thất vọng nói:
- Nguyệt tỷ tỷ, chị không bằng lòng đi với tôi hay sao? Đàm Nguyệt Hoa gượng cười nói:
- Chẳng những tôi không thể đi, mà ngay như đệ cũng không thể hành động liều như vậy được! Lữ Lân cúi đầu im lặng chẳng nói chi thêm nữa.
Đàm Nguyệt Hoa nói tiếp:
- Lân đệ, nếu đệ đệ không chịu nghe theo lời khuyên giải của tôi, thì tôi đánh thức Đông Phương tiên sinh dậy, để ông ấy ngăn không cho đệ đệ ra đi.
Lữ Lân vội vàng khoát tay nói:
- Nguyệt tỷ tỷ, chị tuyệt đối chớ nên đánh thức sư phụ tôi... tôi... bằng lòng nghe theo lời chị rồi.
Đàm Nguyệt Hoa tươi cười nói:
- Như vậy mới phải chứ! Thôi, hãy mau trở về phòng ngủ đi! Lữ Lân bước đến trước cửa sổ, định phi thân lướt thẳng ra ngoài, nhưng bất ngờ cậu ta quay mặt lại, đôi má bừng đỏ, cất tiếng thực khẽ nhưng dồn dập nói:
- Nguyệt tỷ tỷ, tôi... tôi rất thích chị! Đàm Nguyệt Hoa nghe thế, khuôn mặt kiều diễm cũng không khỏi bừng đỏ, quả tim nhảy rộn lên, nhẹ miệng nói:
- Lân đệ, tôi cũng thế! Lữ Lân mỉm cười và đôi trai gái trẻ trung ấy bỗng ôm chầm lấy nhau và siết cứng ngắt.
Qua một lúc khá lâu, hai người mới từ từ buông ra, nhưng họ lại nắm cứng hai bàn tay nhau, đứng yên nhìn ra ngoài cửa sổ.
Bên ngoài trời đang tối đen như mực, trăng sao đều bị mây mù che kín. Họ đứng như thế thực lâu, Lữ Lân mới lên tiếng nói:
- Thôi, tôi đi đây! Đàm Nguyệt Hoa chỉ "ờ" một tiếng, song vẫn đứng yên chẳng hề nhúc nhích.
Lữ Lân liền bay người ra khỏi cửa sổ, rồi lại tiếp tục lướt tới...
Lúc ấy, Đàm Nguyệt Hoa vẫn đứng yên trước khung cửa, trông thấy hình bóng của Lữ Lân chập chờn mấy lượt, rồi lẩn khuất vào bóng đêm, không còn thấy rõ được nữa. Trong lòng của Đàm Nguyệt Hoa lại càng cảm thấy rối bời.
Lời nói vừa rồi của Lữ Lân, đã biểu lộ nỗi lòng thầm kín của cậu ta rất rõ ràng. Đàm Nguyệt Hoa vốn thấy giữa mình và Lữ Lân quả là một đôi giai ngẫu. Nhưng... nhưng giờ đây giữa hai người họ lại có hình bóng của Đông Phương Bạch đứng chen vào giữa.
Đàm Nguyệt Hoa đứng sửng sờ trong bóng tối một lúc thật lâu mới cất tiếng than dài và định quay người đi trở về giường ngủ. Nhưng ngay lúc ấy, bỗng nàng như chợt nhớ ra một điều gì, và không khỏi hết sức kinh hãi.
Bởi thế, nàng vội vàng ôn lại thái độ vừa rồi của Lữ Lân và thấy thái độ của cậu ta quả có điều bất thường.
Giữa Lữ Lân và nàng, tuy mầm móng tình yêu đã nảy nở từ lúc mới gặp nhau, nhưng suốt trong thời gian ấy, hai người chỉ thông cảm điều đó qua tâm linh của mình chứ tuyệt nhiên không hề nói thẳng ra bao giờ.
Thế nhưng vừa rồi Lữ Lân lên tiếng bảo thẳng cho nàng biết, hơn nữa, thái độ của cậu ta lại tỏ ra rất thương yêu nàng. Như vậy, rõ ràng là một thái độ hết sức đường đột.
Căn cứ vào thái độ đó, Đàm Nguyệt Hoa thầm xét đoán, thấy rằng chỉ vào một trường hợp tự biết mình sắp gặp những điều tối ư hiểm nguy thì Lữ Lân mới mang hết can đảm ra, nói thẳng ý nghĩ thầm kín trong đáy lòng của cậu ta như thế.
Như vậy có nghĩa là Lữ Lân trước khi tìm đến phòng nàng, đã có một sự quyết định phải đi trả thù cho phụ thân và ý chí đó mãi đến lúc giã từ nàng ra đi vẫn không hề thay đổi. Thế mà nàng vẫn tưởng Lữ Lân đã nghe theo lời khuyên giải của mình rồi.
Đàm Nguyệt Hoa nghĩ đến sự lợi hại của Bát Long Thiên Âm khiến cho một người võ công cao tuyệt như phụ thân nàng, vẫn phải bị nó gây trọng thương, làm nàng không khỏi hết sức kinh hoàng. Nàng biết cá tính của Lữ Lân rất nóng nảy và quả cảm, vậy khi cậu ta thấy được tên ma đầu ấy, chắc chắn sẽ tràn ra tấn công ngay. Nếu thế thì chẳng khác nào một con thiêu thân đâm đầu vào lửa đỏ tìm lấy cái chết? Nghĩ đến đây, Đàm Nguyệt Hoa ớn lạnh cả tâm can, nàng nhanh nhẹn điểm nhẹ đôi chân bay thoát ra khỏi cửa.
Phòng ngủ của nàng và phòng ngủ của Lữ Lân chỉ khít cạnh nhau nên khi phi thân ra khỏi phòng, thì nàng tiến đến trước cửa sổ phòng của Lữ Lân. Nàng vung thò tay mở rộng cánh cửa, hạ giọng kêu lên rằng:
- Lân đệ! Lân đệ! Nàng kêu lên hai lượt nhưng vẫn im lặng, không một tiếng trả lời. nàng vội vàng phi thân lướt thẳng vào phòng, lấy bật lửa đánh cháy, trông thấy căn phòng trống trơn, nào có hình bóng Lữ Lân ở đâu nữa.
Đàm Nguyệt Hoa thấy sự phán đoán của mình hoàn toàn đúng sự thực, nàng hết sức cuống quýt. Nàng định quay người lướt ra khỏi phòng để đánh thức Đông Phương Bạch dậy cùng bàn bạc phương pháp cứu nguy cho Lữ Lân, thì bất thần lại cảm thấy ở phía sau lưng có một ngọn gió nhẹ thoảng qua. Nàng vội vàng quay người lại và thấy Đông Phương Bạch đã đứng sững sau lưng từ lúc nào. Ông ta không còn mang chiếc mặt nạ kỳ quái ấy nữa mà để nguyên diện mục chân xinh đẹp và đầy hào hoa, trông chẳng khác nào một tiên đồng trên thượng giới.
Đàm Nguyệt Hoa vội vàng lên tiếng nói:
- Đông Phương tiên sinh, Lân đệ đã bỏ đi rồi? Khuôn mặt của Đông Phương Bạch lạnh lùng như được phủ lên một lớp sương, khiến cho Đàm Nguyệt Hoa là người lúc nào cũng tỏ ra can đảm không biết sợ hãi trước việc chi, thế mà nhìn qua vẫn không khỏi bắt giật mình. Nàng gần như mất hẳn tự chủ, hạ giọng nói nhỏ rằng:
- Chúng ta đuổi theo cậu ta chứ? Đông Phương Bạch nói:
- Nó đã bỏ đi về hướng nào? Có lẽ ngươi biết chứ? Đàm Nguyệt Hoa khẽ gật đầu đáp:
- Tôi biết! Cậu ấy hiện đang đi tìm tên Cầm Ma để báo thù! Đông Phương Bạch giậm chân nói:
- Ôi, thằng bé ấy thực quá to gan! Chúng ta hãy đi mau! Vừa nói dứt lời, Đông Phương Bạch bất thần thò tay ra quàng ngang eo lưng của Đàm Nguyệt Hoa...! Đàm Nguyệt Hoa bừng đỏ cả sắc mặt, nóng bỏng đôi vành tai, quả tim nhảy nghe thình thịch.
Nhưng Đông Phương Bạch đã cất giọng điềm nhiên nói:
- Ngươi mau chỉ đường, chúng ta đuổi theo mau! Đàm Nguyệt Hoa biết Đông Phương Bạch chẳng phải có ý muốn xâm phạm đến mình, mà ông ta sợ khinh công của mình còn kém cỏi, không thể đuổi kịp nên ông ta mới quàng ngang eo lưng để dìu mình cùng lướt đi cho nhanh mà thôi.
Nhưng mặc dù nàng biết vậy, song quả tim vẫn nhảy thình thịch, không làm sao giữ bình tĩnh được.
Từ trước đến nay, Đàm Nguyệt Hoa không khi nào có những cử chỉ thân mật đến thế đối với một người đàn ông. Hơn nữa, người đàn ông đó lại là Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch, một nhân vật mà nàng có cảm tình rất sâu xa.
Nàng chỉ "ờ" lên một tiếng, xem như là câu trả lời. Và ngay lúc đó, Đông Phương Bạch đã đem cả nàng phóng thẳng ra khỏi cửa sổ.
Sau khi hai người ra đến bên ngoài, Đàm Nguyệt Hoa cố gắng trấn tĩnh tinh thần, chỉ đường cho Đông Phương Bạch phi thân lướt tới.
Tài khinh công của Đông Phương Bạch quả hết sức cao cường, khó ai sánh kịp. Đàm Nguyệt Hoa lúc nào cũng nghe gió rít bên tai vèo vèo, và chỉ độ một tiếng đồng hồ sau, hai người đã lướt xa ngoài sáu mươi dặm đường.
Chừng đó, Đàm Nguyệt Hoa đoán biết không còn cách đoạn đường của tên Cầm Ma bao xa nữa, nên càng nhận xét địa hình kỹ hơn.
Hai người lại tiếp tục lướt tới, chẳng bao lâu, đã đến trước cổng một khu nhà đồ sộ.
Đàm Nguyệt Hoa đưa mắt nhìn bỗng cất tiếng "úy" lên.
Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch nghe thế bèn nhanh nhẹn dừng chân lại.
Sau khi quan sát kỹ hơn, hai người biết mình đã đến trước ngôi nhà của tên Cầm Ma rồi. Nhưng giờ đây thì những dãy nhà nguy nga tráng lệ kia không còn nữa.
Dưới ánh sáng mờ hai người cố giương to đôi mắt nhìn, thấy đây đó gạch ngói đổ nát ngổn ngang. Kèo bị cháy đen sạm ngã đổ chồng chất la liệt, hơn nữa còn một vài nơi bốc khói trắng mù mịt.
Đàm Nguyệt Hoa vô cùng kinh ngạc cất tiếng hỏi:
- Đông Phương tiên sinh! Ngôi nhà này chẳng hiểu vì sao lại bị thiêu hủy như vậy? Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch cũng ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi không nhớ lầm chứ? Đàm Nguyệt Hoa đáp:
- Không thể lầm được. Hôm ấy tôi có đi ngang qua đây, và có vào xin đụt mưa.
Đông Phương Bạch nói:
- Đây thực là một chuyện lạ. Lân nhi dường như chưa tìm đến nơi này.
Đàm Nguyệt Hoa to tiếng gọi:
- Lân đệ! Lân đệ! Nhưng khắp nơi vẫn im phăng phắc, và từ núi đồi chung quanh, không ngớt vọng lại âm hưởng của nàng.
Đông Phương Bạch nhanh nhẹn lướt tới trước những đống gạch đổ nát, rồi lại vòng xung quanh để quan sát. Khi ông ta đến bên cạnh một cây cột to, hãy còn đứng sững từ phía bắc, thì bỗng nhiên quát lên một tiếng, rồi vung cả hai chưởng xô thẳng về phía trước.
Cây cột ấy to đến hàng ngàn người ôm, một nửa bị chôn vùi dưới đống gạch ngói đổ nát. Nhưng khi đôi chưởng của Đông Phương Bạch quét tới, kình phong dấy động ầm ầm, khiến nguyên cả cây cột ấy, cùng vô số gạch ngói bị hất tung lên khoảng không.
Đàm Nguyệt Hoa thấy thế, lúc đầu vẫn tưởng Đông Phương Bạch đã tìm gặp Lữ Lân đang bị cây cột gỗ ấy đè, nhưng sau đó bỗng nghe Đông Phương Bạch quát hỏi:
- Ai thế? Tiếng quát của Đông Phương Bạch vừa dứt, liền thấy có hai bóng người từ phía sau cây cột to bay xẹt lên.
Thân pháp của hai người ấy, hết sức nhanh nhẹn, đúng là những người có sức khinh công cao tuyệt. Khi họ đã bay bổng lên khoảng không, thì thân người liền xoáy thành một vòng bán nguyệt, rồi một người lướt về phía trái, một người lướt sang phải, nhắm ngay Đông Phương Bạch bay xẹt tới.
Đông Phương Bạch nhanh nhẹn rùn thấp đôi chân, vung mạnh hai cánh tay, xô cả đôi chưởng ra khiến chưởng phong ào ào cuốn thẳng về phía đối phương.
Hai bóng đen khi lướt tới còn cách Đông Phương Bạch độ bốn năm thước, bất thần đồng thanh hét lên một tiếng dài, rồi nhảy lùi ra sau ngay tức khắc.
Kế đó, cả hai không để mất giây phút nào, vội vàng phi thân bay vọt lên, nhắm ngay Đàm Nguyệt Hoa lao tới, trông nhẹ nhàng như hai đợt khói mỏng.
Mọi việc diễn biến ngay sau khi Đông Phương Bạch vung chưởng quét về phía cây cột gỗ, không để cho ai có đủ thời giờ nhận xét kịp.
Đàm Nguyệt Hoa trông thấy hai người ấy phi thân nhắm ngay mình lao tới, thì vội vàng lách mình để tránh. Nhưng nàng liền cảm thấy một luồng cuồng phong hết sức mãnh liệt, đang nhắm ngay nàng cuốn tới.
Vừa rồi Đàm Nguyệt Hoa thấy rõ hai bóng người đó sau khi bị chưởng phong của Đông Phương Bạch quét ra, hành động hết sức nhanh nhẹn, nên cũng đoán biết đấy không phải là hạng người tầm thường.
Bởi thế, khi thấy luồng chưởng phong của đối phương cuốn tới trước lồng ngực, nàng không dám đỡ thẳng, vội vàng lẩn tránh.
Nhưng người ấy tựa hồ không muốn giằng co với nàng, nhanh nhẹn sử dụng thân pháp lướt về phía trước như bay. Đồng thời cũng trong giây phút ngắn ngủi đó, Đàm Nguyệt Hoa cũng nhận rõ được hai bóng người ấy là ai, nên buột miệng kêu lên rằng:
- Té ra là hai ông! Hai bóng người vẫn tiếp tục lướt về phía trước như không hề nghe tiếng kêu của Đàm Nguyệt Hoa. Cả hai một trước một sau, lướt đi nhanh thua chi vì sao sa, nên chỉ trong chớp mắt, họ đã vượt ra xa trên mười trượng.
Cùng một lúc đó, bỗng Ngọc Diện Thần Quân bất thần thét lên một tiếng vang dội! Tiếng thét ấy của ông ta trong ngần và cao vút, cơ hồ thấu tới chín tầng mây. Khi tiếng thét vừa dứt thì ông ta lại lên tiếng quát rằng:
- Hãy đứng yên lại! Sức lướt tới của hai bóng ấy, vốn đang vô cùng nhanh nhẹn, và cũng sắp lẩn khuất vào màn đêm, nếu họ tiếp tục lướt tới nữa, thì chắc chắn dù có muốn đuổi theo họ, cũng hết sức khó khăn.
Nhưng tiếng thét của Đông Phương Bạch đã bất thần nổi lên vang rền giữa đêm tối, khiến hai bóng người đó mất hết tự chủ, dừng chân đứng yên lại ngay.
-oOo-
Đàm Nguyệt Hoa đứng cạnh đấy vô cùng kinh ngạc.
Đông Phương Bạch cất giọng lạnh lùng cười khanh khách, rồi thong thả bước về phía hai bóng đen. Trong khi đó, hai bóng đen cũng đã quay mặt lại, và lần này thì Đàm Nguyệt Hoa nhận rõ là Kim Cô Lâu và Hắc Thần Quân.
Hai nhân vật này nguyên là một đôi đại ma đầu, từ trước đến nay hoành hành khắp võ lâm, xem thường mọi người, thế mà giờ đây sắc mặt đang tràn đầy vẻ kinh hoàng. Họ đứng sánh vai nhau như đang đối phó với một kẻ đại địch.
Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch, trái lại, thung dung đưa chân bước thong thả về phía họ...
Đám mây đen trên nên trời đã được gió thổi tan, ánh trăng sáng lại bắt đầu chiếu vằng vặc nơi nơi, giúp Đàm Nguyệt Hoa càng nhìn thấy rõ hơn dáng điệu uy nghi, diện mạo xinh đẹp đầy hào hoa của Đông Phương Bạch. Ông ta quả chẳng khác chi một tiên đồng hạ thế.
Nàng càng nhìn càng cảm thấy trong lòng say sưa, ngây ngất.
Chẳng mấy chốc, Đông Phương Bạch đã bước đến trước mặt Kim Cô Lâu và Hắc Thần Quân, cất giọng lạnh lùng nói:
- Lâu quá không được gặp mặt nhau.
Kim Cô Lâu và Hắc Thần Quân đưa mắt nhìn nhau một lượt. Hắc Thần Quân lên tiếng nói:
- Té ra là Đông Phương huynh! Quả lâu quá không gặp được nhau.
Đôi mày lưỡi kiếm của Đông Phương Bạch khẽ nhướng cao nạt rằng:
- Ai là huynh đệ với các người chứ? Hắc Thần Quân và Kim Cô Lâu đều là những nhân vật khét tiếng trong võ lâm, nhất là Hắc Thần Quân, bấy lâu nay hùng cứ tại Vạn Hốt Cốc trong Thái Sơn, tự cho mình như một vị thổ vương. Riêng về món ám khí Hắc Mang Lăng và tuyệt kỹ Hắc Sa Chưởng của lão ta vừa lợi hại vừa thâm độc, nên những nhân vật võ lâm tầm thường nào dám đối kháng thẳng với lão ta. Vì thế lão ta nghiễm nhiên đã trở thành một bậc tông sư trong giới giang hồ.
Thế mà lúc bấy giờ, Đông Phương Bạch đã nạt thẳng vào mặt hai người chẳng hề tỏ ra vị nể, nhưng cả hai chỉ thoáng hiện nét tức giận trên mặt, chứ chẳng hề lên tiếng nói chi cả.
Đông Phương Bạch lại cất giọng lạnh lùng hỏi rằng:
- Các ngươi đến đây làm gì? Hắc Thần Quân đáp:
- Chúng tôi có ý định đi đến Quỷ Cung để gặp mặt Thanh lão quỷ, nên mới đi ngang qua nơi này.
Đông Phương Bạch hừ lên một lượt rồi nói:
- Các ngươi vừa rồi có trông thấy một người thiếu niên đến đây không?
- Chúng tôi mới đến đây thôi, nhưng vừa rồi có trông thấy hai bóng người, dường như một nam một nữ cùng chạy bay về hướng đông. Vì chúng tôi không trông thấy rõ, nên chẳng biết đấy có phải là người mà Đông Phương... tiên sinh định tìm hay chăng? Đông Phương Bạch trầm ngâm giây lát nói:
- Một nam một nữ? Kim Cô Lâu đáp:
- Đúng thế! Đông Phương Bạch ngửa mặt suy nghĩ, thấy Lữ Lân đi đến có một mình, chắc không có ai cùng kết đoàn với cậu ta nữa. Vậy nếu là một nam một nữ, thì có lẽ đấy là người nào khác.
Và như vậy thì Lữ Lân chưa đến nơi này, rất có thể trên đường đi, cậu ta đã gặp chuyện chi bất trắc rồi? Suy nghĩ giây lát, Đông Phương Bạch bỗng khoát tay nói:
- Các vị hãy đi đi! Kim Cô Lâu và Hắc Thần Quân như được lệnh đại xá, đôi chân từ từ bước lui ra sau ngoài một trượng. Nhưng bọn họ chưa kịp quay lưng lại để bỏ chạy về phía trước, thì lại nghe Đông Phương Bạch kêu to rằng:
- Hãy chậm đã! Qua tiếng kêu ấy, Kim Cô Lâu và Hắc Thần Quân không khỏi kinh hoàng, dừng chân đứng yên lại ngay, lên tiếng hỏi:
- Đông Phương... tiên sinh, ông còn có chi hỏi nữa chăng? Đông Phương Bạch chắp hai tay ra sau, ngửa mặt nhìn đăm đăm lên nền trời cao! Đàm Nguyệt Hoa đang đứng cạnh đấy, trông thấy nét mặt của Đông Phương Bạch đang hiện rõ nét đau khổ mà cũng đang đầy vẻ bàng hoàng.
Đàm Nguyệt Hoa cảm thấy hết sức kinh dị. Qua một lúc sau, bỗng nghe Đông Phương Bạch cất tiếng thở dài hỏi:
- Hắc Thần Quân, lệnh muội vẫn được bình an chứ? Câu nói ấy vừa thốt ra khỏi miệng Đông Phương Bạch thì Đàm Nguyệt Hoa cũng không khỏi giật mình.
Vì Hắc Thần Quân và Kim Cô Lâu trước đây đã từng cho Đàm Nguyệt Hoa biết, họ chính là cậu ruột của nàng. Lúc đấy nàng không chịu tin lời, song về sau khi gặp lại phụ thân nàng, thì nàng có đem việc ấy ra hỏi nên biết đấy là sự thật.
Hơn nữa, Hắc Thần Quân cũng đã cho nàng biết, lão ta chính là người cậu của nàng, như vậy hai tiếng "lệnh muội" mà Đông Phương Bạch vừa hỏi, chắc chắn là mẫu thân nàng chứ không còn ai khác nữa? Việc đó đã làm cho Đàm Nguyệt Hoa cảm thấy hết sức bất ngờ, vì nàng không làm sao tưởng tượng ra là chẳng những Đông Phương Bạch từng quen biết phụ thân nàng, mà lại còn quen biết cả mẫu thân nàng nữa.
Nhất thời nàng đứng sửng sờ như pho tượng, im lặng không nói nên lời.
Hắc Thần Quân lên tiếng nói:
- Xá muội hiện nay chẳng rõ tung tích ở đâu, từ suốt hai mươi năm qua chẳng hề được nghe tin tức.
Đôi mày lưỡi kiếm của Đông Phương Bạch lại nhướng cao, nói:
- Lại có việc như thế hay sao? Hắc Thần Quân đáp:
- Đúng thế! Hai anh em chúng tôi lúc nào cũng tìm hiểu tin tức của xá muội, nhưng hoàn toàn chẳng thu được kết quả chi. Gần đây, chúng tôi nghe Thất Sát Thần Quân lại tái xuất hiện, nên chúng tôi đang định tìm gặp ông ta, và nếu xá muội thật sự đã bị hại dưới độc thủ của ông ta thì...
Hắc Thần Quân vừa nói đến đây, bất thần nghe Đông Phương Bạch gầm lên một tiếng to, chẳng khác nào tiếng sấm nổ trên trời.
Đồng thời ông ta đột nhiên quét một chưởng vào khoảng không, khiến một góc cây to bằng miệng ở phía sau lưng ông ta bị đánh gãy ngang tức khắc.
Hắc Thần Quân và Kim Cô Lâu không ai bảo ai, lần lượt thối lui ra sau một bước, sắc mặt tràn đầy nỗi kinh hãi.
Kim Cô Lâu lên tiếng nói:
- Hiện giờ, có mặt Đàm cô nương ở đây, vậy có thể dựa vào cô ta để tìm hiểu tung tích của tỷ tỷ tôi.
Đông Phương Bạch quay mặt lại, đưa mắt nhìn thẳng vào Đàm Nguyệt Hoa một lúc.
Đàm Nguyệt Hoa trông thấy đôi mắt của Đông Phương Bạch sáng như điện, đầy vẻ uy nghi, nên trong lòng kinh sợ! Nhưng nàng đã vận dụng hết sức can đảm trong người, lên tiếng nói:
- Má tôi hiện giờ ở đâu, chính tôi cũng không được biết.
Lúc ấy Đông Phương Bạch đang đứng quay lưng với nàng, cất giọng gằn rõ từng tiếng một:
- Đàm cô nương, chả lẽ từ trước đến nay, cô không có hỏi lệnh tôn, là lệnh đường hiện giờ ở đâu hay sao? Đàm Nguyệt Hoa đáp:
- Lẽ tất nhiên là tôi có hỏi.
Giọng nói của Đông Phương Bạch bỗng trở nên hết sức gay gắt, hỏi tiếp rằng:
- Nếu thế, thì lệnh tôn đã tiết lộ cho cô biết là mẫu thân cô đã bị ông ấy ám hại rồi? Đàm Nguyệt Hoa kinh ngạc trong giây lát, lên tiếng nói:
- Đông Phương tiên sinh, phụ thân tôi nào phải con người như thế? Đông Phương Bạch hừ lên một lượt, im lặng chẳng nói chi nữa. Đàm Nguyệt Hoa cũng không biết lúc ấy ông ta đang nghĩ gì. Trái lại, nàng chỉ cảm thấy việc này thực là oái oăm khó hiểu và có lẽ đây là một câu chuyện rất khúc chiết ly kỳ.
Bởi thế nàng đứng thẫn thờ đưa mắt nhìn chăm chú về phía Đông Phương Bạch, thấy ông ta vẫn đứng trơ người như một pho tượng và qua một lúc lâu mới lên tiếng hỏi:
- Nếu nhị vị biết được lệnh muội ở nơi nào, thì vui lòng cho tôi hay với.
Hắc Thần Quân và Kim Cô Lâu đều lên tiếng vâng lời, rồi sẽ cúi đầu thi lễ, nhanh nhẹn quay lưng chạy bay về phía trước! Khi cả hai đã lướt đi xa, mà Ngọc Diện Thần Quân vẫn chắp tay đứng yên nghĩ ngợi.
Sau đó, ông ta đưa chân bước tới bước lui dưới ánh trăng vằng vạc, thỉnh thoảng lại thở dài não ruột, chứng tỏ ông ta đang có một sự phiền muộn khó tả.
Đàm Nguyệt hoa đứng yên bên cạnh một lúc lâu, và không ngớt đưa mắt theo dõi từng cử chỉ của Đông Phương Bạch. Nàng không hiểu Đông Phương Bạch đang phiền muộn về chuyện gì, nhưng với tâm linh trong trắng của một cô gái, nàng thấy rất bằng lòng san sớt nỗi phiền muộn ấy với Đông Phương Bạch. Nàng đưa chân bước tới hai bước lên tiếng hỏi:
- Đông Phương tiên sinh, ông đang suy nghĩ gì thế? Ngọc Diện Thần Quân bỗng dừng chân đứng yên ngửa mặt nhìn lên.
Đàm Nguyệt Hoa trông thấy đôi mắt của ông ta tràn ngập ánh sáng tình tứ, nhìn đăm đăm vào mặt mình. Song sắc mặt của ông ta lại có vẻ bàng hoàng ngơ ngác! Đàm Nguyệt Hoa không khỏi giật mình, chẳng biết nên nói gì với ông ta. Bất ngờ Đông Phương Bạch đưa tay ra, nắm chặt lấy tay nàng.
Đàm Nguyệt Hoa thấy tim nàng đập thình thịch, đôi má đỏ bừng, trong lòng rối bời, chẳng hiểu lúc ấy mình đang có cảm giác nao nao! Đông Phương Bạch không ngớt nói lẩm bẩm như mơ:
- Ngọc muội! Ngọc muội! Em... đã quên mất anh rồi hay sao? Đàm Nguyệt Hoa nghe ông ta gọi mình là "Ngọc muội" trong lòng càng kinh dị, đôi má càng bừng đỏ, vội vàng giật cánh tay trở lại, nói:
- Đông Phương tiên sinh, ông đã làm sao rồi? Tôi... tôi chính là Nguyệt Hoa đây! Chừng ấy, Đông Phương Bạch mới mở to đôi mắt và như vừa bừng tỉnh cơn mộng, ông ta nhìn kỹ Đàm Nguyệt Hoa một lúc, rồi mới buông lỏng cánh tay Đàm Nguyệt Hoa ra! Ông ta lại cất tiếng than dài, rồi quay lưng bước tránh ra xa. Đàm Nguyệt Hoa thấy thế đoán biết ông ta là người lụy vì tình. Hơn nữa, nàng cũng đoán biết hai tiếng "Ngọc muội" mà ông ta vừa kêu, chính là người yêu đã làm tan nát cõi lòng ông ta trước đây chứ không còn ai nữa! Đàm Nguyệt Hoa cảm thấy Đông Phương Bạch là người võ công cao tuyệt, thế mà vẫn không làm sao thoát khỏi lưới tình, nên lại suy nghĩ đến thân phận của mình... Ôi, trong biển tình rồi đây chẳng hiểu mình có tìm được bến bờ hay không? Đàm Nguyệt Hoa đứng yên suy nghĩ một lúc, tâm trạng nàng lại càng rối bời. Nàng vốn có ý định đè nén tất cả những ý nghĩ miên man đang kéo đến dồn dập trong đầu óc, và thừa cơ hội Đông Phương Bạch ngửa mặt nhìn trời cao, nàng âm thầm bước tránh ra xa...
Nhưng bỗng ngay lúc đó, nàng chợt nhớ lại vừa rồi khi Đông Phương Bạch nắm lấy cánh tay của nàng, trong miệng không ngớt lẩm bẩm hai tiếng "Ngọc muội". Hai tiếng gọi ấy của ông ta nghe hết sức tự nhiên, chắc chắn đó không phải là không có nguyên nhân.
Đàm Nguyệt Hoa lại nghĩ: "Chả lẽ người yêu trước đây của ông ta, lại là người hết sức giống mình, hay chính là mẫu thân của mình hay sao?" Khi Đàm Nguyệt Hoa nghĩ như vậy, dừng chân quay lại, hạ giọng gọi khẽ rằng:
- Đông Phương tiên sinh! Đông Phương Bạch lại cất tiếng than dài, nói:
- Đàm cô nương, xin cô hãy bỏ lỗi cho về thái độ vừa qua của tôi. Vì thật ra, lúc đó tôi không còn bình thường nữa.
Đàm Nguyệt Hoa hạ giọng nói:
- Tôi chẳng hề phiền ông tí nào. Đông Phương tiên sinh, vừa rồi ông đã gọi... Ngọc muội, vậy có phải là người diện mạo rất giống tôi không? Đàm Nguyệt Hoa đã mang hết can đảm lên tiếng hỏi thẳng Đông Phương Bạch, và khi nàng vừa dứt lời đôi má bừng đỏ như gấc! Đông Phương Bạch từ từ quay người lại, đưa đôi mắt hết sức dịu dàng nhìn thẳng vào nàng nói:
- Đúng thế! Nàng hết sức giống cô, giống y hệt như khuôn đúc và cũng thanh tú thoát tục như cô vậy! Đàm Nguyệt Hoa cố trấn tĩnh tâm thần, nói:
- Đông Phương tiên sinh! Tôi đã đoán biết ra người ấy chắc chắn là mẫu thân tôi! Đông Phương Bạch bỗng cúi gầm đầu xuống, cất giọng buồn bã nói:
- Đúng thế! Một cao thủ khét tiếng của võ lâm, từng khiến tất cả nhân vật trong hai phe chính tà đều phải kiêng nể như Đông Phương Bạch, thế mà trong giờ phút này cũng đau khổ, cõi lòng tan nát y như tất cả những người đàn ông tầm thường bị thất bại trong tình trường vậy.
Đứng trước khung cảnh ấy, Đàm Nguyệt Hoa hết sức cảm động, bỗng thấy mình cần phải đem tình cảm đầy nhựa sống và đầy ấm áp của tuổi trẻ, để xoa dịu một phần nào sự đau thương của ông ta.
Sự cách biệt về trình độ võ công, về vai vế trong võ lâm, về tuổi tác giữa hai người, nhất thời đã tiêu biến đi không còn một tí nào trong ý nghĩ của Đàm Nguyệt Hoa.
Nàng đưa chân bước tới một bước, hạ giọng nói:
- Đông Phương tiên sinh, mọi việc đã trở thành quá khứ rồi, vậy ông còn nhớ đến bà ấy làm chi? Đông Phương Bạch cười đau đớn, nói:
- Đàm cô nương, tuổi cô hãy còn nhỏ, vậy cô không thể biết được nỗi sầu khổ trong vòng tình ái đâu! Đàm Nguyệt Hoa cất tiếng thở dài, hạ giọng nói:
- Đông Phương tiên sinh, tôi biết! Đông Phương Bạch là người hết sức thông minh, và sự nhận xét vô cùng tinh tế, nên nghe qua câu nói của Đàm Nguyệt Hoa đã đoán biết một phần nào ý định của nàng.
Bởi thế, bao nhiêu kỷ niệm xa xôi trước kia, bỗng lần lượt hiện ra trước mắt ông ta.
Người yêu trước kia của ông ta, hiện giờ không còn biết tung tích ở đâu nữa, nhưng người con gái của nàng, thì lại tỏ ra rất thương cảm, lúc nào cũng chăm sóc đến ông ta.
Đông Phương Bạch đứng sửng sờ một lúc lâu mới đưa bàn tay lên vuốt nhẹ mái tóc Đàm Nguyệt Hoa.
Ngọc Diện Thần Quân tuy hiện nay là người đã đứng tuổi, thế nhưng sắc đẹp của ông ta vẫn còn hấp dẫn bao nhiêu cô gái. Như vậy, chắc chắn trong lúc tuổi ông ta còn trẻ, diện mạo càng tuấn tú hào hoa hơn, và đã làm say mê không biết bao nhiêu kỳ nữ! Trước đây, ông ta đã chẳng hề để ý đến bao nhiêu cô gái sẵn sàng hiến dâng trái tim trong trắng, mà chỉ thương yêu chung thủy với một người thôi. Song, tạo hóa trớ trêu thay, mối tình của ông ta chẳng ngờ lại trở thành mối tình đầy đau khổ và tuyệt vọng, giày vò tâm linh ông ta suốt hai mươi năm qua! Giờ đây, đứng trước thái độ đầy thương mến, đầy thiện cảm của Đàm Nguyệt Hoa, một cô gái mà tâm hồn vẫn hoàn toàn thuần khiết, thơ ngây, Đông Phương Bạch không khỏi cảm thấy luống cuống, chẳng biết nên đối phó như thế nào! Qua một lúc khá lâu, ông ta bỗng lên tiếng nói:
- Đàm cô nương, lệnh tôn hiện giờ đã đi đến vùng núi Võ Di, vậy tôi cần đi tìm ông ấy. Riêng cô, tốt nhất không nên đi theo tôi, vì khi tôi và lệnh tôn gặp nhau, tất có thể xảy ra một cuộc xung đột.
Đàm Nguyệt Hoa lắc đầu nói:
- Không! Tôi nhất định phải đi theo ông.
Đông Phương Bạch nói:
- Nếu thế, cô không còn ý định đi tìm Lân nhi hay sao? Đàm Nguyệt Hoa nghe thế không khỏi giật mình. Nàng đứng sửng sờ trong giây lát mới lên tiếng nói:
- Tất nhiên là tôi phải tìm cậu ấy, nhưng biết đi đâu để tìm bây giờ? Đông Phương Bạch cất tiếng than dài, nói:
- Cái tánh của Lân nhi còn cứng cỏi và nóng nảy hơn cả tôi nữa, vậy nếu không để cho nó gặp một vài thất bại trong thời tuổi trẻ, thì sau này chắc chắn sẽ gây ra bao nhiêu tai họa, bao nhiêu cuộc giết chóc đẫm máu trong võ lâm! Đàm Nguyệt Hoa suy nghĩ một lúc, nói:
- Nếu thế, thì chúng ta vừa đi, vừa tìm tung tích của cậu ta vậy.
Lúc ấy, thật ra Đông Phương Bạch cũng không muốn chia tay với Đàm Nguyệt Hoa. Vì suốt hai mươi năm, sự giày vò của một mối tình tan vỡ đã không ngớt gặm nhấm và làm tan nát cõi lòng của ông ta, khiến ông ta chán ngán, không hề rời bước đi khỏi Đại Tuyết Sơn một lần nào. Thế nhưng, giờ đây tâm trạng của ông ta bỗng cảm thấy có phần nào vui trở lại, nhờ ở thái độ tỏ ra thương mến và chăm sóc của Đàm Nguyệt Hoa.
Sống bên cạnh Đàm Nguyệt Hoa, ông ta thấy tuổi mình như trẻ lại, và cuộc đời trở thành tươi vui, chẳng khác nào lúc cùng sống với người yêu trước đây.
Mặc dù trong lòng ông ta đang có những ý nghĩ ấy, nhưng bề ngoài vẫn điềm nhiên, chẳng hề thổ lộ chút nào cả.
Vì trong vấn đề tình cảm, lúc nào cũng vô cùng phức tạp, nếu không khéo hướng tình cảm được đứng đắn, một khi nó đã lệch lạc, tất không làm sao dàn xếp cho ổn thỏa được nữa! Chính vì thế, nên tâm trạng của ông ta lúc bấy giờ hết sức phức tạp. Tuy nhiên, ông ta cố giữ vẻ bình thản nói:
- Nếu cô nhất định đi theo, thì tôi cũng không cản ngăn làm gì.
Đàm Nguyệt Hoa cười nói:
- Tôi biết chắc chắn, ông sẽ bằng lòng cho tôi đi theo kia! Đông Phương Bạch nghe qua không khỏi giật mình. Nhưng ông ta vẫn giữ bình tĩnh, rồi cùng Đàm Nguyệt Hoa nhắm hướng núi Võ Di đi nhanh tới, với mục đích tìm gặp Thất Sát Thần Quân.
-oOo-
Nhắc lại Lữ Lân, vì trong lòng quá căm hờn kẻ thù sát hại phụ thân mình không thể nào nén được, nên đang đêm tìm đến gặp Đàm Nguyệt Hoa, định bảo nàng cùng đi đến sào huyệt của tên Cầm Ma ấy. Nhưng Đàm Nguyệt Hoa không tán đồng ý kiến của Lữ Lân, do đó, Lữ Lân cảm thấy hết sức thất vọng.
Nhưng việc Đàm Nguyệt Hoa không bằng lòng cùng đi, vẫn chẳng hề làm nao núng quyết tâm của cậu ta. Lữ Lân sau khi giã từ Đàm Nguyệt Hoa liền lướt đi mất dạng vào bóng tối. Lữ Lân nói thầm rằng: "Nguyệt tỷ tỷ, xin chị hãy tha thứ cho tôi một lần, vì tôi đã nói dối chị. Nhưng đây là lần đầu... và có lẽ lần cuối cùng vậy!" Lữ Lân tự biết đơn thân tiến vào sào huyệt của tên Cầm Ma thì thực vô cùng hiểm nguy, nên trước khi ra đi, tìm đến gặp Đàm Nguyệt Hoa, thổ lộ lòng thương mến mà bấy lâu nay cậu ta vẫn giữ kín tận đáy lòng.
Lữ Lân sử dụng khinh công lướt nhanh đi, không chút chậm trễ, nhắm hướng Đàm Nguyệt Hoa đã chỉ trước đây, tiếp tục chạy tới như bay.
Lúc bấy giờ, nếu Đàm Nguyệt Hoa phát giác ngay được thái độ khác thường của Lữ Lân, và gọi Đông Phương Bạch thức dậy để cùng truy đuổi thì chắc hẳn không quá nửa đường, họ sẽ đuổi kịp Lữ Lân. Vì Đàm Nguyệt Hoa sau khi nghe lời thổ lộ tình yêu của cậu ta đối với nàng, lại đứng sửng sờ mãi trước khung cửa sổ, tình cảm rối bời không kịp suy nghĩ đến điều đó.
Sau đó, nàng chợt nhận ra thái độ bất thường của Lữ Lân, thì mới giật mình chạy sang phòng riêng của cậu ta để tìm kiếm.
Nhưng lúc đó Lữ Lân đã chạy xa hơn mấy dặm đường rồi. Hơn nữa, vì cậu ta chẳng hề dám dừng chân đứng nghỉ, lúc nào cũng nhắm phía trước lướt nhanh như gió hốt, nên chỉ hơn một tiếng đồng hồ, câu ta đã tìm tới đống gạch ngói đổ nát, tức địa điểm ngôi nhà đồ sộ của Cầm Ma trước kia! Sau khi dừng chân nhận xét địa hình, Lữ Lân thấy khu nhà đổ nát hoang tàn ấy đúng là nhà mà Đàm Nguyệt Hoa đã cho biết trước đây nàng có vào đụt mưa, và nhờ thế, phát giác được chính là sào huyệt của tên Cầm Ma.
Lữ Lân hết sức kinh ngạc, vì cậu ta không rõ ngôi nhà đồ sộ ấy tại sao lại biến thành một đống gạch ngổn ngang như vậy? Lữ Lân còn đang nghĩ ngợi miên man, bỗng nghe có tiếng cười lạnh lùng từ phía sau đống gạch ngói đổ nát vang lên. Cậu ta vội vàng nhìn kỹ, trông thấy một bóng người đang từ hướng ấy bước tới, nên không khỏi giật mình.
Bóng người đó, vừa trông thấy Lữ Lân cũng tỏ ra hết sức kinh ngạc, không ngờ lại có thể gặp mặt Lữ Lân ở nơi đây.
Lữ Lân trông thấy hình dáng của người ấy rất yểu điệu, trong tay cầm một ngọn roi mềm, phản chiếu ánh trăng lập lòe ánh sáng vàng. Đấy rõ ràng là một cô gái. Và khi Lữ Lân nhìn kỹ hơn, thì lửa giận cháy bừng bừng trong lòng! Thì ra, bóng người ấy không ai khác hơn là Hàn Ngọc Hà, một người cậu ta đã gặp trên núi Hổ Khưu, và cũng suýt nữa đã bị chết dưới tay nàng! Hàn Ngọc Hà cũng trông thấy kẻ đứng bên cạnh đống gạch ngói đổ nát ấy chính là Lữ Lân! Cá tính của Lữ Lân vốn cứng cỏi và nóng nảy, nhưng cá tính của Hàn Ngọc Hà cũng không kém chi. Vì thế dù cho giữa hai người không có mối hận thù do cha mẹ họ gây ra, cũng không làm sao dung hòa với nhau được. Đấy là chưa nói trước đây, trên ngọn núi Hổ Khưu, Hàn Ngọc Hà đã đánh đập Lữ Lân thậm tệ.
Chính vì lẽ ấy, nên khi đôi bên gặp nhau, thì sắc mặt cả hai đều giận hầm hầm, người này nhìn người kia chòng chọc, cất tiếng cười nhạt liên tiếp.
Sắc mặt của Hàn Ngọc Hà lạnh tợ sương mai, đôi khóe miệng hiện lên một nụ cười đầy khinh bỉ, nói:
- Thằng bé kia! Té ra ngươi vẫn chưa chết à? Lữ Lân hứ to một tiếng, nói:
- Con tiện tỳ thối kia! Trước khi ta được mục kích mi chết, thì ta đâu lại chịu chết trước chứ? Trước đây, sở dĩ Hàn Ngọc Hà đánh đập Lữ Lân đến chết lên chết xuống trên ngọn tháp Hổ Khưu chính vì nàng tưởng người cha già của Lữ Lân là Phi Hổ Lữ Đằng Không đã xuống tay giết chết phụ thân nàng. Nhưng khi nàng lên đến Tiên Nhân Phong thuộc vùng núi Võ Di, mới được nghe Hỏa Phụng Tiên Cô bất thần tự thú, là chính bà ta đã sát hại Hàn Tốn.
Do đó, sự nghi ngờ ấy cũng đã tiêu tan đi.
Tuy nhiên, không vì thế mà Hàn Ngọc Hà dứt bỏ lòng thù hằn đối với cha con Lữ Lân, nàng vẫn đinh ninh Lữ Đằng Không chính là kẻ đã xuống tay sát hại đứa em trai của nàng! Vì lẽ ấy, nên khi nghe lời của Lữ Lân, nàng bỗng to tiếng quát:
- Được! Để chờ xem kẻ nào chết trước cho biết! Dứt lời, nàng bèn vung ngọn roi vàng lên, dùng thế Lãng Phiên Liên Thiên quét tới, và bóng roi chập chờn dày đặc cả không trung, kình phong cuốn nghe ào ào, nhắm ngay người Lữ Lân tấn công tới! Khi gặp Hàn Ngọc Hà trên ngôi tháp Hổ Khưu, Lữ Lân đã đánh nhau với nàng một lần, nên cậu ta biết tuổi nàng tuy còn nhỏ, nhưng võ công khá cao cường, và mình còn kém hơn nàng một bậc. Bởi thế, khi vừa trông thấy mặt Hàn Ngọc Hà, thì Lữ Lân đã chuẩn bị đối phó trước rồi.
Khi thấy nàng vung roi quét tới, cậu ta vội vàng lách mình tránh ngang, rồi hất mạnh đôi chân ra, khiến gạch ngói vụn liền theo đó bắn vèo vèo về phía Hàn Ngọc Hà trên mười mảnh. Cùng lúc ấy, Lữ Lân vội vàng nhảy lui ra sau để tránh.
Hàn Ngọc Hà vung ngọn roi vàng lên vun vút, quét tất cả những mảnh gạch ngói đang bắn về phía nàng. Nhưng kịp khi nàng định thần nhìn kỹ, thì chẳng còn trông thấy hình bóng của Lữ Lân đâu nữa! Hàn Ngọc Hà không khỏi giật mình, nhanh nhẹn xoay tròn người lại để quan sát phía sau lưng. Nhưng khắp vùng gạch ngói đổ nát ấy vẫn vắng ngắt, chẳng hề thấy một bóng người. Nàng đoán biết Lữ Lân đã trốn đâu đấy, bèn cất giọng lạnh lùng nói:
- Tên tiểu yêu trong phái Nga My, ngươi đã sợ rồi...
Nhưng câu nói của nàng chưa dứt, thì bất thần nghe trên đầu có tiếng gió lạ, tựa hồ vật chi đang nhằm ngay đầu nàng giáng thẳng xuống với một sức mạnh phi thường.
Hàn Ngọc Hà hết sức kinh hoàng. Tuy võ công của nàng cao cường hơn Lữ Lân, nhưng vì nàng là người chưa đi đứng nhiều trong giới giang hồ, kinh nghiệm còn non kém, nên tưởng tiếng gió là Lữ Lân đang bật từ trên cao lao thẳng về phía nàng để tấn công.
Nàng đang hết sức căm hận Lữ Lân, lúc nào cũng muốn tóm cho được cậu ta, để đánh mấy mươi roi liên tiếp, cho hả cơn tức giận trong lòng. Vì vậy, khi nàng đoán tiếng gió lạ ấy chính là Lữ Lân, thì chẳng hề nhảy tránh, trái lại, nhanh nhẹn vung ngọn roi vàng lên, dùng thế Dã Hỏa Thiêu Thiên quét thẳng về hướng có tiếng gió! Tức thì, ngọn roi vàng bỗng quất trúng vật đang từ trên cao sa xuống nghe một tiếng bốp. Nhưng cùng lúc đó, Hàn Ngọc Hà thấy vật ấy vô cùng cứng rắn, chứ không phải là một con người.
Hàn Ngọc Hà đoán biết mọi việc rất bất lợi cho mình, nên vội vàng lách mình định tránh ra. Đồng thời, nàng nghe tiếng Lữ Lân cười to ha hả không ngớt...
Hàn Ngọc Hà cảm thấy vật ấy như hết sức nặng nề đang nhắm giáng thẳng xuống ngay đầu nàng như búa thiên lôi bổ.
Tuy Hàn Ngọc Hà tỏ ra kịp thời cảnh giác, và cũng tránh hết sức nhanh nhẹn, song vẫn chậm một bước. Ngay lúc ấy, nàng bỗng thấy bả vai trái bị đau buốt, rồi nàng loạng choạng suýt nữa té quỵ xuống đất.
Tiếp đó, nàng lại nghe một tiếng thình to, chứng tỏ vật nặng nề chạm phải mặt đất.
Nàng đưa mắt nhìn thì thấy đấy là một phiến đá to, nặng có hơn trăm cân từ trên cao rớt thẳng vào đống gạch ngói đổ nát! Thì ra, Lữ Lân vừa rồi khi lạch mình tránh ngang, đã nhanh nhẹn luồn thẳng ra sau lưng của Hàn Ngọc Hà.
Cậu ta vốn có ý định thừa cơ Hàn Ngọc Hà chưa kịp quay lại, sử dụng ngay một thế võ hiểm độc, tràn qua tấn công nàng. Nhưng khi Lữ Lân đưa mắt nhìn xung quanh, thấy tại đống gạch ngói đổ nát ấy, có một cây cột to hãy còn đứng sững, cao chừng hai trượng, trên đầu có hai phiến đá, lúc nào cũng lắc lư theo chiều gió, như chực đổ xuống đất.
Bởi thế, Lữ Lân bèn nảy ra một ý hay, nhanh nhẹn nhảy thẳng lên đầu cây cột ấy, và nhờ lúc đó Hàn Ngọc Hà không nhìn lên, mà chỉ một mực to tiếng mắng chửi, với ý định chọc tức để Lữ Lân tràn ra ứng chiến với nàng. Nhưng Lữ Lân vẫn im lặng, và xô một phiến đá to xuống ngay đầu nàng! Nếu lúc Hàn Ngọc Hà vừa phát giác được có tiếng gió lạ trên đầu, nhanh nhẹn nhảy ra xa để tránh, chắc chắn nàng vẫn tránh khỏi được chẳng hề bị phiến đá ấy chạm tới người.
Song, vì nàng lại ngỡ đấy là Lữ Lân, nên rút ngọn roi vàng ra quét thẳng về phía tiếng gió lạ.
Ngọn roi của nàng không đủ sức mạnh để hất bay phiến đá ra xa, nên khi nàng biết nguy, định lách người tránh ngay thì đã chậm rồi! Hàn Ngọc Hà bị phiến đá to chạm thẳng vào vai, thì nguyên cả cánh tay trái không còn cử động được nữa.
Vì thế sự tức giận trong lòng nàng càng dữ dội chẳng khác chi lửa đang cháy lại chế thêm dầu. Nàng định thần nhìn kỹ, thấy Lữ Lân hãy còn đứng trên đầu chiếc cột gỗ, bèn to tiếng cười dài, rồi lại cất giọng trong trẻo quát lên một lượt. Thế là, nàng đã bay vút lên khoảng không vung roi quét lên tới tấp ba thế roi Xuyên Vân Tráp Nguyệt, Nhập Nguyệt Tề Thăng và Bát Phương Phong Vũ vô cùng mãnh liệt, khiến bóng roi dầy đặc như vách núi, trùm kín cả châu thân của Lữ Lân! Lữ Lân tự biết mình không phải là địch thủ của Hàn Ngọc Hà, hơn nữa, cậu ta thấy kế hay của mình đã thu được kết quả, mình đã chiếm được ưu thế, nên không muốn cùng giao tranh với nàng nữa. Do đó, khi thân người của Hàn Ngọc Hà vừa bay vọt lên, thì cậu ta đã nhanh nhẹn tuột xuống khỏi đầu cột gỗ, nhảy lùi ra để tránh.
Ba thế roi của Hàn Ngọc Hà vừa quét ra đều trúng thẳng vào chiếc cột gỗ.
Khi Lữ Lân đã đứng vững vàng trên đất, liền nhanh nhẹn lòn ra sau lưng của Hàn Ngọc Hà, thò năm ngón tay chụp thẳng về phía nàng nhanh như gió. Hàn Ngọc Hà vội vàng vận dụng chân khí trong người, có ý định chuyển thân mình hãy còn lơ lửng trên khoảng không về phía Lữ Lân, để tiếp tục tấn công cậu ta.
Nhưng chẳng ngờ ngay lúc đó Hàn Ngọc Hà cảm thấy bả vai trái đau đớn không thể tả, nên thân pháp của nàng vì thế cũng chậm đi.
Thế chụp tới của Lữ Lân tuy không đạt được kết quả nhưng nhờ thân người của Hàn Ngọc Hà chậm lại, nên Lữ Lân đã kịp thời khom người nhặt được một chiếc cuốc cùn bỏ rơi cạnh đấy dùng làm binh khí, đối phó lại Hàn Ngọc Hà.
Khi đã có vũ khí, Lữ Lân hết sức vui mừng, cất tiếng mắng nàng:
- Con tiện tỳ thối kia, ngày nay ngươi còn định chạy đi đâu cho thoát? Nói dứt lời, Lữ Lân bèn nhân lúc Hàn Ngọc Hà còn đang kinh ngạc, đã nhanh nhẹn vung chiếc cuốc lên, nhắm ngay đầu nàng bổ thẳng xuống! Qua thế võ ấy, nếu Hàn Ngọc Hà bị đánh trúng chắc chắn sẽ ngã ra chết tốt. Mặc dù sức bổ xuống của Lữ Lân hết sức mạnh, nhưng vì chiếc cuốc cùn kia chẳng phải là một món binh khí thật sự, nên rất khó sử dụng theo ý muốn mình.
Vì lẽ đó, nên lưỡi cuốc chỉ lướt sát thân người của Hàn Ngọc Hà nghe một tiếng vút chứ không gây thương tích chi cho nàng cả.
Lữ Lân đứng sửng sờ, vì chẳng hiểu tại sao thế võ của mình lại đánh hụt vào khoảng không, mặc dù đối phương không hề sử dụng những thế lách tránh kỳ tuyệt nào? Cùng lúc đó, Hàn Ngọc Hà đã kịp thời trấn tĩnh vung ngọn roi vàng phản công tới tấp nhanh như gió hốt! Lữ Lân vội vàng lách mình tránh liên tiếp, nhưng bắp chân phía trái của cậu ta vẫn bị ngọn roi vàng trong tay Hàn Ngọc Hà quét trúng nghe một tiếng bốp.
Hàn Ngọc Hà vì vừa bị Lữ Lân xô một phiến đá đánh trúng vai nên hết sức căm tức.
Do đó, thế roi của [mất trang] …………….
Lữ Lân thấy trước mặt không còn đường nào để chạy nữa, nhất là vừa rồi sở dĩ cậu ta bỏ chạy, chỉ vì muốn thực hiện một kế hay của mình, chứ chẳng phải bị thua đối phương, nên cậu ta bèn quay phắt người lại, quát to rằng:
- Con tiện tỳ thối kia! Ngươi tưởng đâu ta sợ ngươi lắm hay sao? Dứt lời, Lữ Lân bèn vung chiếc cuốc cùn lên, nhắm ngay Hàn Ngọc Hà quét xéo tới! Hàn Ngọc Hà cất giọng ngạo nghễ nạt to và vung ngọn roi vàng đỡ thẳng. Thế là, đôi bên dùng toàn những thế võ đánh mau đỡ lẹ, giao tranh trên bờ đê Hoàng Hà, và chỉ trong chớp mắt họ đã đánh nhau trên mười lăm thế võ! Lữ Lân bị thiệt thòi hơn Hàn Ngọc Hà ở chỗ món binh khí tạm bợ đó không vừa tay, nên có nhiều trường hợp tốt, mà cậu ta không khai thác được.
Mười thế võ nữa lại qua, và lần lần mất hẳn phần chủ động, trái lại, Hàn Ngọc Hà càng đánh càng dũng mãnh hơn.
Chỉ trong nháy mắt, đôi bên lại giao tranh thêm được bốn năm thế võ và bất thần nghe Lữ Lân kêu lên một tiếng to, vì trên bả vai của cậu ta, đã bị đuôi ngọn roi của Hàn Ngọc Hà quét trúng! Lữ Lân vội vàng nhảy lùi ra sau để tránh. Nhưng vì quá cấp bách, nhất thời cậu ta quên mất mình đang giao tranh với Hàn Ngọc Hà trên bờ đê sông Hoàng Hà. Nên khi cậu ta nhảy lùi về phía sau, thì một chân bỗng bước hụt vào phía ngoài bờ đê...
Bờ đê ấy thật cao, hai bên sườn lại thẳng đứng, nên Lữ Lân vừa hụt chân, thì nguyên cả thân người cậu ta liền rớt thẳng xuống phía dưới ngay.
Trong khi Lữ Lân đang luống cuống, bỗng cậu ta thấy sát ven sông Hoàng Hà, ngay phía dưới nơi cậu ta sắp rơi xuống, có một chiếc thuyền con đang buộc chặt tại đấy. Lữ Lân hết sức vui mừng, để yên cho thân mình từ trên cao sa thẳng xuống và đáp nhẹ được vào chiếc thuyền con! Nếu Lữ Lân bị trật chân té thẳng vào dòng sông, thì Hàn Ngọc Hà cũng đã hả được cơn giận, quay người bỏ đi, chẳng cần đếm xỉa tới cậu ta nữa. Nhưng đằng này, nàng trông thấy Lữ Lân rơi vào giữa chiếc thuyền con, chẳng hề bị thương tích chi cả, nên nàng chẳng cần nghĩ ngợi, cất tiếng thét dài, phi thân lên khoảng không, nhắm bay thẳng xuống chiếc thuyền con, nơi có Lữ Lân đang đứng.
Lữ Lân trông thấy thế, hết sức kinh hãi, vội vàng vung chiếc cuốc cùn lên, chặt đứt sợi dây thuyền, định để dòng nước cuốn chiếc thuyền trôi đi, khiến Hàn Ngọc Hà phải rơi đánh bõm vào dòng sông.
Nhưng chẳng ngờ hành động của Lữ Lân không kịp thời, nên chỉ trong chớp mắt sau Hàn Ngọc Hà đã đáp yên được xuống mặt ván thuyền! Hàn Ngọc Hà liền nạt to rằng:
- Thằng bé kia! Ngươi còn định chạy đi đâu cho thoát được nữa? Dứt lời, nàng bèn vung ngọn roi vàng trong tay lên nghe một tiếng vút, nhằm ngay đầu Lữ Lân quét tới! Thế roi của Hàn Ngọc Hà, tuy đánh tới một cách ồ ạt và nhanh chóng, song chẳng trúng được Lữ Lân. Vì lúc bấy giờ, chiếc thuyền con đã bị nước cuốn đi. Hơn nữa, mặt sông đang nổi sóng to, khiến chiếc thuyền lúc nào cũng chòng chành, chẳng khác chi một chiếc lá giữa ba đào.
Bởi thế, thân người của Hàn Ngọc Hà không thể đứng vững được, nên lúc thế võ chưa công tới Lữ Lân, thì nàng đã ngã ngang xuống be thuyền, và ngọn roi đã đánh lệch đi.
Trong khi chiếc thuyền con đang chòng chành theo những đợt sóng dồn, Lữ Lân ngồi bẹp xuống, đưa tay vịn chặt be thuyền. Thế là, hai đối phương kẻ ở trước mũi, người ở sau lái, cách nhau chỉ non một trượng, mà không ai làm sao đứng lên để sử dụng võ công đánh nhau được nữa! Vì sóng to nên chiếc thuyền con chòng chành mỗi lúc càng dữ dội hơn. Cả hai đều giương đôi mắt căm tức nhìn nhau chòng chọc, dường như họ đều uất ức, không thể nuốt sống được đối phương! Chiếc thuyền con sau khi bị dòng nước cuốn ra giữa sông, tiếp tục trôi xuôi theo ngọn thủy triều về phía đông mãi. Cả hai đưa mắt căm hận nhìn nhau một lúc, thì thấy bầu trời bắt đầu hừng sáng.
Lữ Lân cất tiếng cười ngạo nghễ, nói:
- Con tiện tỳ thối kia! Chắc chắn ngươi không biết lội chứ? Hàn Ngọc Hà nghe thế, trong lòng hết sức hãi kinh, thầm nghĩ: "Thằng bé thối này biết mình không thể lội dưới nước được, vậy chẳng lẽ nó định dùng thủ đoạn bỉ ổi chi đây hay sao? Chắc chắn nó định nhận chìm thuyền chứ gì?" Nhưng nàng lại suy nghĩ và lấy lại bình tĩnh ngay. Vì nàng trông thấy Lữ Lân lúc nào cũng đưa tay vịn chặt be thuyền, có vẻ sợ sóng lắm, vậy chắc chắn hắn cũng không biết lội như nàng. Nếu không phải thế, thì hắn đâu lại tỏ ra sợ hãi đến mức đó? Nghĩ vậy, nên Hàn Ngọc Hà cất giọng lạnh lùng cười, nói:
- Phải đấy! Chúng ta hãy nhận chìm chiếc thuyền này, xem ai chết đuối cho biết! Lữ Lân vốn lội không giỏi lắm, nhưng nếu cậu ta chẳng phải vì còn mang mối thâm thù của cha mẹ, thì có lẽ lúc đó đã nhận chìm chiếc thuyền cho cả hai cùng chết rồi! Nghe qua câu nói khích của Hàn Ngọc Hà, cậu ta chỉ cất tiếng hừ rồi im lặng chẳng nói chi thêm nữa. Thế là, hai người lại đưa đôi mắt căm hận nhìn nhau chòng chọc, tựa hồ đều muốn tràn tới ăn tươi, nuốt sống ngay đối phương! Chẳng mấy chốc, bầu trời đã sáng tỏ, trên dòng sông Hoàng Hà, thuyền bè cũng bắt đầu lui tới tấp nập.
Chiếc thuyền con mà Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà đang ngồi, lúc nào cũng có thể bị ngọn sóng to nhận chìm cả, song vì hai đối phương không muốn tỏ ra sợ hãi trước mặt kẻ địch của mình, nên không ai chịu lên tiếng cầu cứu.
Những thuyền bè đang đi trên dòng sông, tuy đều thấy chiếc thuyền con đang bị sóng dồn dập, và rất có thể bị chìm lĩm xuống đáy nước, nhưng các ghe thuyền trên sông Hoàng Hà hầu hết rất mê tín. Họ thường kể cho nhau những chuyện quỷ thần quái đản, nên khi trông thấy chiếc thuyền con chòng chành giữa mặt sông, lại có đôi trai gái trẻ đẹp và nhất là trong tay mỗi người đều có cầm một món binh khí quái dị, ăn mặc khác thường, dù đang gặp cảnh hiểm nguy vẫn điềm nhiên không hề kêu cứu, nên họ càng sinh nghi chẳng ai dám cho thuyền cập đến gần để cứu trợ.
Bởi thế, chiếc thuyền con của hai người cứ trôi theo dòng nước chảy mãi về phía hạ du.
Vì dòng nước đang chảy xiết, nên chẳng mấy chốc chiếc thuyền đã trôi có ngoài trăm dặm.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà không dám đứng lên đánh nhau, chỉ giương mắt nhìn đối phương, miệng gào thét chửi bới inh ỏi.
Mãi đến đêm tối, tất cả thuyền bè qua lại đều cập bến nghỉ ngơi, còn chiếc thuyền của hai người vẫn tiếp tục trôi theo dòng nước xiết về phía hạ lưu.
Đã suốt một ngày qua, cả hai người chưa ăn uống, trong bụng đói cồn cào. Nhưng vì chiếc thuyền không hề trôi tạt vào bờ, nên họ không làm cách nào lên bờ tìm thức ăn được.
Hàn Ngọc Hà thầm cuống quýt, việc nàng tìm đến ngôi nhà đổ nát của Cầm Ma chẳng phải là ngẫu nhiên, nhưng là nàng có mục đích rõ ràng.
Hôm ấy, khi Đàm Dực Phi và nàng theo chân quần hùng tới họp mặt tại Tiên Nhân Phong, và Đàm Dực Phi vừa nghe tiếng đàn tình tang lọt vào tai, đã biết nguy cơ sắp đến, nên cả hai kịp thời lướt xuống núi, nhờ thế họ tránh được khỏi tai nạn.
Khi xuống đến chân Tiên Nhân Phong, Đàm Dực Phi có ý đi tìm phụ thân chàng. Do đó hai người hối hả lướt nhanh về phía trước.
Suốt dọc đường, hai người được nghe lời đồn đãi, bảo là tất cả cao thủ của phái Hoa Sơn, và một số nhân vật võ lâm khác đang ùn ùn kéo về Bắc Mang Sơn, tỉnh Hà Nam. Đàm Dực Phi đoán rằng cha mình có thể cũng đi đến đấy, nên chàng đã cùng Hàn Ngọc Hà nhắm hướng Bắc Mang Sơn đi rút tới.
Đàm Dực Phi và Hàn Ngọc Hà trước khi quen biết nhau đã âm thầm theo dõi cử chỉ của nhau, nên đôi bên đều có cảm tình sẵn. Khi cả hai được dịp quen nhau thì tỏ ra rất tâm đầu ý hợp, tình cảm càng mặn nồng hơn.
Nhưng vì Hàn Ngọc Hà là một cô gái tính tình nóng nảy, nên trong dịp cùng đi chung ấy, Đàm Dực Phi đã nói gì khiến nàng bất mãn, cả hai đâm ra cãi vả kịch kiệt. Bởi thế, Hàn Ngọc Hà liền tách rời bỏ đi đường khác.
Đàm Dực Phi tuy biết cá tính của Hàn Ngọc Hà như vậy không khỏi lo lắng. Chàng đinh ninh Hàn Ngọc Hà chỉ giận trong phút chốc, và chắc chắn sẽ đợi chàng phía trước.
Chẳng ngờ khi Hàn Ngọc Hà tới ngôi nhà đổ nát ấy thì gặp mặt Lữ Lân, và đôi bên gây sự đánh nhau như đã nói trên.
Chiếc thuyền con vẫn trôi mãi theo dòng nước chảy, lướt nhanh với tốc độ một hai trăm dặm đường mỗi ngày, vậy thử hỏi Đàm Dực Phi làm sao tìm gặp nàng được nữa.
Chính vì vậy, nên Hàn Ngọc Hà cuống quýt là lẽ tất nhiên. Nàng hết sức hối hận, lúc Lữ Lân từ trên bờ đê nhảy xuống thuyền, đáng lý nàng chớ nên nhảy theo mới phải.
Giờ đây, Đàm Dực Phi chắc chắn sẽ không biết nàng ở đâu mà tìm, và sẽ vô cùng sốt ruột. Khi Hàn Ngọc Hà nghĩ đến người yêu đang sốt ruột tìm mình, nàng cảm thấy lòng đau như cắt.
Đồng thời, nàng thấy mọi việc đến nước này đều do Lữ Lân, nên nàng căm hận Lữ Lân đến tận xương tủy.
Do đó, nàng không kể gì đến sự nguy hiểm có thể bị sóng hất rơi xuống sông, bất thần nàng đứng phắt dậy, đưa chân tràn về phía Lữ Lân.
Sau khi bước tới được mấy bước, nàng lại ngồi xuống, một tay vịn be thuyền, một tay khác vung roi ra quét thẳng về phía Lữ Lân nghe một tiếng bốp! Tức thì, tấm ván thuyền trước mặt Lữ Lân bị ngọn roi của nàng đánh nát thành từng mảnh vụn, bắn đi tung tóe! Lữ Lân cất giọng ngạo nghễ kêu to rằng:
- Thế võ hay lắm! Tức thì chàng không cần nghĩ ngợi, vung chiếc cuốc cùn trong tay ra, nhắm ngay ngọn roi vàng của Hàn Ngọc Hà giáng tới, với ý định chặn ngọn roi của nàng lại, không cho thu về.
Nhưng nào ngờ lưỡi cuốc chưa giáng kịp đến nơi, thì Hàn Ngọc Hà đã thu roi về rồi.
Bởi thế lưỡi cuốc bằng sắt dầy giáng thẳng vào thân thuyền khiến một miếng ván thuyền bị bổ tét ra ngay.
Tức thì nước liền tràn vào thuyền, càng lúc càng nhiều.
Hàn Ngọc Hà thấy thế vừa kinh hãi, vừa tức giận, quát mắng rằng:
- Thằng bé thối kia! Ngươi định làm chi thế?
-oOo-
Lữ Lân trông thấy mình đã dùng chiếc cuốc cùn bổ toạc đáy thuyền, thì cũng không khỏi kinh hãi. Nhưngcậu ta không khi nào chịu nhận công việc của mình là sai, liền lên tiếng mắng lại Hàn Ngọc Hà rằng:
- Con tiện tỳ kia, có phải ngươi đã sợ rồi hay không? Vậy tốt nhất ngươi nên cúi lạy ta để xin cứu mạng đi! Hàn Ngọc Hà nghe thế, hết sức tức giận, nhưng trong khi hai người đang đối đáp thì chiếc thuyền con đã bị nước tràn ngập, và đang chìm xuống.
Hai người biết dù muốn cứu vãn cũng không còn kịp nữa, nên vội nắm chắc be thuyền để khỏi bị dòng nước cuốn đi.
Chẳng mấy chốc, chiếc thuyền đã chìm hẳn vào dòng nước, Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà chỉ còn nhô đầu người lên khỏi mặt nước mà thôi.
Tuy nhiên, một đàng vẫn vung roi, một đàng vẫn vung cuốc, tiếp tục đánh nhau quyết liệt cho đến chiều tối.
Trong khi hai người đánh nhau chưa phân thắng bại, bỗng trông thấy một chiếc thuyền to lớn, đèn đuốc sáng choang, từ trên đang xuôi theo dòng nước lướt nhanh theo dòng nước đang chảy xiết, trên thuyền có giương mấy lá buồm to khiến sức lướt tới của nó thực không sao tưởng tượng nổi.
Trong khi hai người còn đang kinh hãi, thì chiếc thuyền to lớn đó chỉ còn cách họ không đầy ba trượng nữa.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà đều kinh hoàng, bất giác buột miệng to tiếng kêu cứu.
Nhưng Lữ Lân vẫn bình tĩnh, ấn mạnh một bàn tay vào be thuyền đang chìm dưới nước, lấy đà phi thân bay vọt lên, khiến nước sông bắn tung tóe.
Cùng lúc đó, Lữ Lân đã nghe một tiếng ầm to, thế là mũi thuyền to đang lướt tới, đã chạm mạnh vào chiếc thuyền con đang chìm dưới nước, khiến chiếc thuyền bị chìm lĩm vào đáy sông luôn.
Trong khi Lữ Lân hãy còn bay lơ lửng giữa khoảng không, thì cậu ta gắng hết sức, vận dụng chân khí trong người, thò tay chụp lấy be thuyền, giữ yên lại đấy, nghỉ ngơi trong giây lát. Kế đó, cậu lại gắng sức trèo lên lái thuyền, và khi đưa mắt nhìn vào dòng sông thấy sóng to đang bổ cuồn cuộn, chẳng còn hình bóng chiếc thuyền con và Hàn Ngọc Hà đâu nữa.
Lữ Lân tưởng Hàn Ngọc Hà đã bị chiếc thuyền to lớn ấy chạm trúng và đã bị chìm vào dòng sông đang chảy xiết rồi, nên trong lòng cảm thấy hả hê, buột miệng cười to không ngớt.
Nhưng nào ngờ tiếng cười Lữ Lân vừa mới phát ra, thì ở mũi thuyền cũng có một giọng cười trong trẻo nổi lên vang dậy.
Lữ Lân nghe qua tiếng cười ấy, thì biết ngay đấy là tiếng cười của Hàn Ngọc Hà, nên trong lòng kinh ngạc, vì cậu ta đón biết Hàn Ngọc Hà cũng kịp thời thấy nguy, nên đã nhanh nhẹn vọt lên chiếc thuyền to đang lướt, và nhờ thế mà thoát nạn.
Như vậy, chắc chắn việc đánh nhau giữa hai người sẽ không làm sao tránh khỏi được.
Bởi thế, Lữ Lân bèn im ngay tiếng cười, và cùng một lúc đó, Hàn Ngọc Hà cũng im lặng không cười nữa.
Khi hai người bắt đầu im lặng, mới nhận thấy bên trong chiếc thuyền to, cũng chẳng hề có một tiếng động nào.
Lữ Lân thấy vậy, không khỏi kinh dị. Vì một chiếc thuyền to lớn, bề dài có gần mười trượng như thế này, tại sao lại chẳng hề nghe động tĩnh gì cả? Kịp khi Lữ Lân chú ý nhìn kỹ hơn, thì khắp người đều nổi da gà. Vì mặc dù trong mui thuyền đèn đuốc sang choang, nhưng không hề có một bóng người. Cả chiếc thuyền đã không có thủy thủ, không có người cầm lái, mà cũng không có khách quá giang.
Đến chừng ấy, Lữ Lân mới chợt hiểu ra, vì lẽ không người nên chiếc thuyền to lớn này mới đâm vào chiếc thuyền con bị đắm của họ như vừa rồi.
Đêm đã giữa khuya, thế mà trong chiếc thuyền to lớn, đèn đuốc vẫn sáng choang, nhưng lại vắng ngắt, không có một bóng người, quả thực là một chuyện đáng kinh khiếp, và cũng vô cùng quái dị.
Kể từ ngày gia đình Lữ Lân gặp biến to, thì bản thân cậu ta cũng gặp nhiều chuyện quái dị, song không chuyện nào lại quái dị như chuyện này. Đây quả là chuyện lạ mà cậu ta mới gặp lần thứ nhất.
Bởi lẽ ấy, cậu ta bất giác cảm thấy xương sống đều ớn lạnh, không nói thêm một tiếng nào.
Kể từ lúc Hàn Ngọc Hà im tiếng cười và chẳng hề nghe nàng lên tiếng nói chi với Lữ Lân. Như vậy, chứng tỏ nàng cũng đang hết sức kinh ngạc.
Lữ Lân đứng trơ người một lúc lâu, và cuối cùng như bạo dạn hơn, đưa chân bước thẳng lên sạp thuyền, đi về phía trước độ ba bốn trượng, tiến đến sát mui thuyền.
Lữ Lân dừng chân đứng lại thò đầu vào trong mui, thấy rất rộng rãi, bài trí vô cùng sang trọng, bàn ghế đều toàn bằng gỗ tử đàn, trông chẳng khác chi một gian sảnh đường của một gia đình phú hộ.
Nhưng trong mui thuyền đây đó vắng ngắt. Ở trên mặt một chiếc ghế trường kỷ đang để yên một ngọn đơn đao ánh thép sáng ngời.
Hình dáng của ngọn đơn đao ấy cũng trông quái dị, khác hẳn với những ngọn đao thông thường, bề dài của nó ngắn hơn độ nữa thước mộc, và khắp thân đao có một màu xanh biếc, tựa hồ được tẩm qua một thứ chất độc vô cùng nguy hiểm.
Lữ Lân trông thấy món binh khí rất vừa tay mình, thì trong lòng mừng thầm. Cậu ta vội vàng dắt chiếc cuốc cùn vào lưng, rồi chạy bay về phía trước, chụp lấy lấy ngọn đơn đao, siết chặt trong tay.
Lữ Lân vừa nắm gọn ngọn đơn đao trong tay, liền thấy từ đầu mui thuyền có một bóng người lướt tới chập chờn.
Lữ Lân vội vàng thối lui ra sau một bước, nhưng khi cậu ta định thần ngó kỹ lại, thì thấy bóng người ấy không ai khác hơn là kẻ tử thù của mình, tức Hàn Ngọc Hà.
Hai người đã bước lên chiếc thuyền to lớn nhưng vắng ngắt ấy, đáng lý ra họ phải tạm thời gác bỏ việc đánh nhau, cùng đi khắp nơi tìm kiếm xem hư thật ra sao.
Nhưng đàng này tuổi trẻ, ai cũng không chịu thua ai nên vừa trông thấy mặt là đã sẵn sàng đánh nhau ngay.
Hơn nữa Lữ Lân sau khi được món binh khí vừa tay cũng nóng lòng muốn thử qua cho biết món binh khí ấy lợi hại như thế nào. Cậu ta bèn đưa chân tràn thẳng về phía trước, vung tay dùng thế Ba Đào Hùng Dũng chém thẳng ngọn đao về phía Hàn Ngọc Hà.
Ngọn đơn đao ấy hết sức nhẹ nhàng, nên vừa vung ra thì ánh thép xanh biếc lóe lên sáng ngời khiến những ngọn nến đang cháy trong mui thuyền cơ hồ sắp tắt.
Hàn Ngọc Hà vừa bước vào, trông thấy Lữ Lân đang siết chặt ngọn đao thép trong tay và vung lên ánh thép chói ngời một cách quái dị, thì không khỏi giật mình.
Nàng cảm thấy ngọn đơn đao ấy, dường như mình có gặp một lần ở đâu, nhưng nhất thời nàng không làm thế nào nhớ ra được.
Lúc ấy nàng không tràn tới ứng chiến ngay, mà chỉ vung ngọn roi về phía một chiếc ghế tử đàn, khiến đầu ngọn roi liền cuốn chặt vào thành ghế, và liền đó nàng quét mạnh ngọn roi về phía Lữ Lân. Thế là chiếc ghế tử đàn nặng nề liền bị nàng hất thẳng vào lưỡi đao thép đang từ trong tay Lữ Lân cuốn tới.
Gặp lúc ngọn đao của Lữ Lân vung ra vừa mãnh liệt vừa nhanh nhẹn, nên đã chém thẳng vào chiếc ghế đó ngay.
Chỉ nghe một tiếng soạt rất khẽ, chiếc ghế tử đàn đã bị ngọn đơn đao bổ làm hai, trông ngon lành chẳng khác chi chém bùn.
Qua sự thể đó chẳng những Hàn Ngọc Hà hết sức kinh ngạc, mà chính Lữ Lân cũng cảm thấy vô cùng bất ngờ. Vì lúc Lữ Lân mới nhìn thấy ngọn đao thép để yên trên bàn, tuy cậu ta đoán biết nó là một món vũ khí chẳng phải tầm thường, song thật sự cậu ta không làm sao ngờ được ngọn đao ấy lại sắc bén đến như vậy.
Bởi thế sau giây phút kinh ngạc, Lữ Lân cảm thấy vô cùng vui mừng. Cậu ta phấn khởi tràn ngay tới, tiếp tục vung đao công thẳng về phía Hàn Ngọc Hà.
Hàn Ngọc Hà vội vàng xoay tròn thân người, nhanh nhẹn lách tránh thế đao của đối phương, rồi vung thẳng ngọn roi vàng trong tay ra, khiến đầu ngọn roi không ngớt run rẩy, nhắm điểm thẳng vào Đái Mạch huyệt trên sườn của Lữ Lân.
Lữ Lân thấy thế đao của mình bị đánh hụt vào khoảng không, thì vội vàng tràn theo Hàn Ngọc Hà, công tới dồn dập ba thế đao khác.
Phi Hổ Lữ Đàng Không suốt cả đời luôn luôn tập rèn đao pháp, và chính ông ta cũng đã sáng tạo ra nhiều thế đao rất thần kỳ. Bởi thế, Lữ Lân ngay từ lúc nhỏ được Lữ Đằng Không truyền dạy đao pháp, cho mặc dù trình độ võ công của cậu ta chưa đến mức tinh tuyệt, song về thế đao cậu ta sử dụng cũng có chỗ hiếm có và tinh tuyệt khó lường.
Ba thế đao của Lữ Lân vừa đánh ra được gọi là Phi Hổ Tam Thức, mỗi thế đều có tên riêng gọi là Ngọa Hổ Thế Thành, Ngã Hổ Phóc Dương, Ngã Hổ Đằng Diệu. Trong ba thế ấy phần cứng rắn hổ trợ phần mềm dẻo, phần ẩn kín hổ trợ cho phần lộ liễu, nên có thể gọi là một đao pháp tuyệt học hiếm có trong đời.
Lúc bấy giờ Lữ Lân đã sử dụng một cách thuần thục, đánh ra tới tấp, khiến cả mui thuyền bóng đao chập chờn nơi nơi, ánh sáng xanh biếc lóe lên chói mắt, gây một uy thế mãnh liệt khó tả.
Hàn Ngọc Hà chịu thiệt thòi hơn đối phương về chỗ vai trái của nàng hãy còn mang thương tích, nên tiến thối không khỏi ít nhiều chậm chạp. Hơn nữa nàng đã thấy ngọn đơn đao trong tay Lữ Lân sắc bén đến mức đó nên hoang mang không biết ngọn roi vàng của mình có thể chịu đựng trước một thế chặt của ngọn đao ấy không? Nếu rủi ngọn roi vàng bị chặt đứt, chắc chắn nàng sẽ mất đi một phần lớn uy lực, và rất có thể bị bại dưới tay đối phương. Do đó nàng không dám đánh mạnh đỡ thẳng nữa, mà chỉ tìm cách lách tránh thế đao của Lữ Lân mà thôi.
Nhưng mặc dù thế đao thứ nhất và thứ hai nàng đều tránh khỏi, song đến thế đao thứ ba bắt đầu từ trên giáng thẳng xuống, bóng đao lướt tới nhẹ nhàng và hết sức nhanh nhẹn, mới nhìn qua tựa hồ công thẳng vào lồng ngực, nhưng chỉ trong chớp mắt nó lại diễn biến và nhắm giáng thẳng vào đầu, nên nàng vô cùng kinh hãi.
Trong cơn luống cuống và nguy cấp đó, nàng chỉ kịp cúi đầu để tránh thế đao của đối phương, nhưng một lọn tóc to trên đầu nàng đã bị lưỡi đao sắc bén của Lữ Lân chém rơi xuống sàn thuyền.
Lữ Lân thu ngọn đao trở về, cất tiếng to cười ha hả nói:
- Con tiện tỳ kia, ta cho ngươi làm ni cô vậy.
Hàn Ngọc Hà mặc dù luôn luôn giữ được phần chủ động áp đảo hẳn Lữ Lân, và đã căm hận cậu ta tới xương tủy. Giờ đây, Lữ Lân đã giành được ưu thế, thử hỏi nàng còn căm hận tới mức nào? Bởi thế, sau một tiếng nạt trong trẻo, nàng thừa dịp Lữ Lân chưa kịp vung đao đánh ra thế võ nối tiếp, nhanh nhẹn quét ngọn roi vàng ra nghe vút một tiếng, nhắm điểm thẳng vào Hoa Cái huyệt trước ngực của Lữ Lân.
Lữ Lân vội hạ thấp cánh tay xuống, rồi vung ngược lưỡi đao lên, chém thẳng vào ngọn roi vàng đang cuốn tới.
Hàn Ngọc Hà thấy lưỡi đao sắc bén chém thẳng vào ngọn roi của mình nàng có ý định thu nhanh ngọn roi về để tránh nhưng vì lưỡi đao lướt tới quá nhanh, nàng không sao thu về kịp nên ngọn đao đã chặt trúng thẳng vào ngọn roi vàng của nàng.
Trong giây phút ngắn ngủi đó, tâm trạng của hai người đều hết sức căng thẳng. Vì nếu ngọn đơn đao của Lữ Lân chặt đứt được ngọn roi vàng của Hàn Ngọc Hà thì sự thắng bại sẽ quyết định ngay tức khắc.
Trái lại, nếu ngọn đơn đao không thể chặt đứt ngọn roi, thì hai người đánh tới đánh lui mãi, vẫn hòa nhau mà thôi.
Khi Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà trông thấy ngọn đơn đao, bắt từ dưới lướt nhanh lên và chém thẳng vào ngọn roi vàng, thì cả ngọn roi liền bị hất tung trở lên cao...
Hàn Ngọc Hà đưa mắt nhìn kỹ mới biết ngọn roi vàng của mình quả là một món binh khí quý báu hiếm có trong võ lâm. Tuy bị ngọn đơn đao sắc của Lữ Lân chém trúng, song chẳng hề gây được thương tổn nào cho nó cả.
Vì thế tinh thần của Hàn Ngọc Hà càng phấn chấn hơn và đồng thời nàng cũng thầm tự trách là nếu biết được như thế từ trước, thì nàng nào để Lữ Lân chiếm ưu thế và áp đảo nàng.
Nàng nhanh nhẹn tràn tới sử dụng các đường roi tuyệt diệu, công trả ồ ạt về phía đối phương.
Lữ Lân vội vàng vung đơn đao trong tay ra để đỡ, khiến ánh thép màu xanh biếc không ngớt lóe lên chói ngời. Võ công của hai người đều là võ công gia truyền, nên mỗi thế võ đều hết sức tinh tuyệt, thần kỳ. Cuộc giao tranh mỗi lúc càng trở nên ác liệt hơn, song vẫn không làm sao phân được thắng bại.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà đánh nhau mãi đến trưa ngày hôm sau, mới bất đắc dĩ phải dừng tay lại để nghỉ, vì lúc bấy giờ dù họ có muốn đánh nhau nữa, thì chân tay của họ cũng không làm thế nào cử động được.
Đôi bên buông người ngồi phịch xuống ghế, cách xa nhau độ một trượng, thở hổn hển, trông thực vô [mất trang] ……………..
Lữ Lân cất tiếng cười nhạt, nói:
- Con tiện tỳ kia! Có phải ngươi đã khiếp sợ rồi phải không? Hàn Ngọc Hà nói:
- Ngươi mới chính là kẻ đáng khiếp sợ.
Lữ Lân đứng thẳng người lên nói:
- Ta đã đói rồi, ngươi có đói không? Nếu ngươi có gan thì cả hai nhịn đói xem sao? Hàn Ngọc Hà hứ một tiếng nói:
- Việc gì ta phải tiếp tục nhịn đói chứ? Lữ Lân nói:
- Như thế thì hay lắm. Trước khi chúng ta chưa ăn no, tất không thể đánh nhau được, vậy chi bằng tìm thức ăn rồi sẽ so tài cao thấp sau.
Hàn Ngọc Hà thầm nghĩ: "Nếu tiếp tục nhịn đói nữa tất sẽ bị nguy. Hơn nữa một chiếc thuyền to lớn như vầy, đèn đuốc đều được thắp sáng choang, chắc chắn phải có lương thực. Vậy chi bằng tìm lấy thức ăn dùng cho no bụng trước, rồi sẽ đánh nhau nữa cũng không muộn." Bởi thế, nàng bèn cười nhạt nói:
- Rõ là nói giỡn. Ai lại sợ ngươi bao giờ? Dứt lời, hai người bèn chia hai ngả, bước ra khỏi mui thuyền. Chừng ấy, họ mới giật mình trước tốc độ lướt nhanh của chiếc thuyền.
Với tốc độ như vậy, chắc chắn trong một ngày, nó lướt đi không dưới hai ba trăm dặm đường.
Với một chiếc thuyền con, hai người đã không làm sao điều khiển cho nó tấp được vào bờ, thì với một chiếc thuyền to lớn như vầy tất nhiên là họ đang bó tay đứng ngó chỉ còn biết nghe theo số mệnh mà thôi.
Sau đó, hai người chăm chú đi tìm thức ăn, và chẳng mấy chốc, quả nhiên họ đã tìm thấy một số lương khô cất dưới khoang thuyền và mạnh ai nấy ăn ngấu nghiến.
Khi cả hai đã ăn no, Lữ Lân bỗng to tiếng nói:
- Con tiện tỳ kia! Giờ đây cậu phải ngủ một giấc đã, đợi đến đêm nay đánh nhau cũng không muộn.
Hàn Ngọc Hà không nói chi cả, nàng chỉ cất giọng lạnh lùng hừ một tiếng mà thôi.
Sau đó hai người lại bước vào mui thuyền, cùng ngả ra mặt ván ngủ một giấc ngon lành.
Giữa Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà tuy đang hết sức căm hận nhau nhưng vì cả hai đều là con nhà danh [mất trang] ……………………..
- Con tiện tỳ kia! Ngươi khóc rồi đấy à? Hàn Ngọc Hà ngửa mặt nhìn lên, quát rằng:
- Ai khóc bao giờ chứ? Lữ Lân lại phá lên cười ha hả nói:
- Phải! Có ai khóc đâu? Nếu đứa nào khóc thì đứa ấy sẽ rơi xuống biển để làm mồi cho cá kình! Lữ Lân nhớ đến việc chiếc thuyền đã mang mình ra biển khơi, trong khi mối huyết thù của phụ mẫu vẫn chưa trả được, trong khi Đàm tỷ tỷ hãy còn mong đợi việc ân oán đó, thật hết sức nặng nề, nhất là nhớ đến vị ân sư mới vừa làm lễ ra mắt, thì không khỏi muốn òa lên khóc thật to.
Nhưngdù sao cậu ta vẫn là một người con trai, hơn nữa cậu ta chẳng phải là hạng người động đến là khóc, nên cố đè nén đôi dòng lệ. Cậu ta lại không ngớt chọc tức Hàn Ngọc Hà.
Hàn Ngọc Hà vừa rơi lệ lã chã, vừa vung ngọn roi vàng lên, nhắm ngay đầu Lữ Lân quét tới.
Sau năm ngày giao tranh, cả hai đều quen thuộc thế võ của nhau, nên Lữ Lân trông thấy nàng vung roi quét tới thì biết ngay thế võ kế tiếp của nàng sẽ là thế Tiên Chỉ Bá Lăng nên liền sử dụng ngay thế Ngư Diệu Long Môn nhảy tránh ra xa năm sáu bước, rồi cất giọng lạnh lùng nói:
- Vẫn những thế võ cũ rích ấy, vậy hà tất mang ra làm xấu trước mặt mọi người.
Hàn Ngọc Hà thu nhanh ngọi roi trở về, rồi đứng sửng sờ không nhúc nhích, và cũng không đưa tay gạt đôi dòng lệ đang tuôn rơi lã chã. Nàng đưa mắt nhìn thẳng vào sườn của Lữ Lân mắng rằng:
- Rõ là phường không kể chi sĩ diện. Nếu ngươi không may mắn chụp được chiếc cuốc cùn kia, thì chắc chắn ngươi đã chôn thây trong dòng sông từ lâu rồi.
Lữ Lân đưa bàn tay trái vỗ vào sườn nói:
- Đây là một chiếc cuốc cùn, nhưng nếu ngươi có bản lãnh thì hãy tràn tới giật lấy nó xem nào.
Hàn Ngọc Hà biết chỉ với ngọn roi vàng trong tay của mình, chắc khó bề thủ thắng được Lữ Lân. Trong khi đó Lữ Lân lại may mắn lấy được ngọn đơn đao sắc bén, khiến nàng lại càng khó hạ cậu ta hơn.
Bởi thế, khi nghe Lữ Lân lên tiếng thách thức, trong lòng nàng lại càng thêm tức giận, cất tiếng cười nhạt nói:
- Nếu thật sự là kẻ anh hùng thì hãy định ra một cách tỷ thí khác để so tài cao thấp, chứ đánh giằng co như thế này thì có ích chi? Cá tính của Lữ Lân rất nóng nảy và cũng rất cứng rắn, nên sau khi nghe qua lời nói của Hàn Ngọc Hà, cậu ta không ngớt cất tiếng cười nhạt. Đoạn thò tay vào sườn rút chiếc cuốc cùn đưa lên cao, quát rằng:
- Đây, ta sẽ ném vật này ra xa, và kẻ nào cướp được vào tay, xem như kẻ ấy chiến thắng, có quyền xử trị người chiến bại.
Hàn Ngọc Hà nghe thế trong lòng không khỏi thầm vui mừng. Vì nàng tự biết mình có thuật khinh công cao cường hơn đối phương, vậy nếu tranh đoạt chiếc cuốc ấy, tất nàng sẽ chiếm ưu thế hơn.
Bởi thế, Hàn Ngọc Hà mong rằng nhờ đó mình giữ vai kẻ chiến thắng, rồi hành hạ Lữ Lân cho đến chết, và sau đó cho dù nàng phải vùi thây giữa biển khơi, cũng hả lòng căm tức.
Nhưng Hàn Ngọc Hà sợ Lữ Lân lên tiếng nói thế rồi bất thần lại thay đổi ý định, nên cố ý cười nhạt nói:
- Đố ngươi dám? Lữ Lân nghe qua lời khinh miệt ấy của Hàn Ngọc Hà, liền cất tiếng to cười khanh khách nói:
- Ta sẽ ném chiếc cuốc cùn này cắm thẳng vào cột buồm to kia, xem ngươi có bản lãnh chi tranh đoạt được cho biết? Hàn Ngọc Hà nói:
- Như thế thì hay lắm.
Lữ Lân bèn vung cánh tay lên ném thẳng chiếc cuốc về phía trước mang theo một luồng kinh phong ào ạt. Qua một tiếng phập to, lưỡi cuốc đã cắm thẳng vào cây cột buồm chính, cách mặt ván cao độ một trượng rưỡi.
Kế đó lại đưa thanh đao lên ngay lồng ngực, giọng lạnh lùng nói:
- Vì ta thương hại ngươi vừa rồi đã nhỏ mấy giọt nước tiểu mèo, vậy ta bằng lòng nhường cho ngươi ra tay trước.
Chỉ với câu nói đó, Hàn Ngọc Hà cũng không thể buông tha cho Lữ Lân được. Nhưng nàng thấy chẳng cần tranh chấp ngay với cậu ta, mà chỉ cần thủ thắng được trong tỷ thí, rồi sẽ tìm cách hành hạ cậu ta khóc lên khóc xuống, khổ sở đến chết mới nghe.
Do đó, sắc mặt của Hàn Ngọc Hà đã trở thành lạnh buốt, nhanh nhẹn tràn về phía trước, và đã đứng sững trước cây cột buồm to ở giữa thuyền.
Hàn Ngọc Hà đoán biết nếu mình tràn về phía trước, chắc chắn Lữ Lân sẽ tràn theo để ngăn chặn lại. Vì thế khi vừa tràn đến nơi, nàng vội vàng vung ngọn roi quét vút tới.
Nhưng Lữ Lân cũng không dám chậm trễ, vung ngọn đơn đao, dùng thế Dã Hỏa Thiêu Thiên đỡ thẳng về phía ngọn roi của Hàn Ngọc Hà.
Lúc ấy Hàn Ngọc Hà chỉ quyết chí đoạt chiếc cuốc để thắng cuộc, nên ngọn roi của nàng quét tới mặc dầu xem ra mãnh liệt, song kỳ thực đó chỉ là một hư thế mà thôi.
Chính vì vậy khi ngọn roi vàng của nàng sắp quét đến trước lồng ngực của Lữ Lân như một linh xà, bất thần nàng đã thu nhanh trở về.
Lữ Lân trông thấy vậy không khỏi hết sức kinh ngạc, và giữa lúc cậu ta chưa nhận định được đối phương sắp làm gì, thì Hàn Ngọc Hà đã điểm nhẹ đôi chân, vọt người bay bổng lên khoảng không.
Sư phụ của Hàn Ngọc Hà là Hỏa Phụng Tiên Cô có mối tương quan rất sâu xa với Phi Yến Môn, nên thuật khinh công của bà ta ít nhiều có liên quan đến thuật khinh công của môn phái ấy. Khi bà ta truyền dạy cho Hàn Ngọc Hà, thì Hàn Ngọc Hà đã sử dụng một thuật khinh công hết sức thần diệu.
Bởi thế chỉ qua một cái bay vút lên, Hàn Ngọc Hà phi thân bay bổng lên cao đến bảy tám thước.
Lữ Lân trông thấy Hàn Ngọc Hà phi thân bay bổng lên cao, nhắm hướng chiếc cuốc đang cắm đứng trên cột buồm lướt tới, thì trong lòng cuống quýt. Tuy chiếc cuốc ấy không phải là một món binh khí có giá trị gì, nhưng nếu Hàn Ngọc Hà đoạt được vào tay nàng sẽ là kẻ chiến thắng, và cậu ta đành phải cúi đầu nghe theo sự xử phạt của nàng.
Thật ra, Lữ Lân không phải sợ đối phương hành hạ mình, nhưng nếu cậu ta bị chiến bại chắc chắn Hàn Ngọc Hà sẽ lên tiếng cười cợt, khiến cậu ta càng đau đớn hơn tất cả các hình phạt khác.
Lữ Lân vận dụng chân khí điểm mạnh đôi chân bay vọt theo nàng.
Nhưng vì tài khinh công của Lữ Lân kém sút hơn Hàn Ngọc Hà, nên cậu ta bay vọt lên vẫn còn thấp hơn đối phương đến hai thước mộc.
Lữ Lân biết mình không thể nào đem thuật khinh công để so sánh với Hàn Ngọc Hà, nên khi lướt người lên khoảng không, cậu ta bèn vung mạnh ngọn đơn đao ra, dùng thế Nữ Oa Bổ Thiên nhắm thẳng Hàn Ngọc Hà công tới.
Thế Nữ Oa Bổ Thiên bắt đầu từ dưới quét ngược trở lên nhất là Lữ Lân lại sử dụng rất tinh tuyệt, nên lưỡi dao Lữ Lân lướt nhanh đi như gió, nhắm thẳng vào đùi của Hàn Ngọc Hà chém tới.
Hàn Ngọc Hà sau khi bay vọt lên khoảng không, tay phải lại vung ngọn roi vàng, nhắm ngay cột buồm quét tới. Nàng vốn cố ý dùng ngọn roi mềm quấn lấy cột buồm rồi nương vào ngọn roi, tiếp tục bay vọt lên cao hơn nữa.
Nhưng chẳng ngờ lúc bấy giờ, bỗng nàng nghe có tiếng gió lạ ở dưới chân, vội vàng cúi mặt nhìn xuống, thấy Lữ Lân đang vung đao chém thẳng vào đùi mình, nên hết sức kinh hoàng.
Vì lúc ấy cánh tay phải của nàng đang vung ngọn roi về phía trên nên ở phía dưới chân hoàn toàn sơ hở, không làm sao đủ thời giờ để đỡ gạt.
Trong khi đó, thế đao của Lữ Lân lướt tới lại vô cùng nhanh nhẹn, khiến Hàn Ngọc Hà chưa kịp vận dụng chân lực, nương ngọn roi để tiếp tục bay bổng lên cao, thì ngọn đao đã lướt sắp đến nơi rồi...
Giữa cơn bối rối, Hàn Ngọc Hà chỉ còn cách dùng chưởng trái đè mạnh vào cột buồm, rồi nương theo đó bay vọt ra xa, buông mình đáp nhẹ xuống mặt ván thuyền. Như vậy, kể ra nàng cũng đã đối phó rất nhanh nhẹn, nên thoát khỏi được sự hiểm nguy của thế đao Nữ Oa Bổ Thiên của Lữ Lân.
Nhưng mặc dù nàng thoát khỏi vòng nguy hiểm, song không thể đoạt được chiếc cuốc cùn đang cắm chặt trên thân buồm.
Lữ Lân thấy mình dùng một thế đao đẩy lui được Hàn Ngọc Hà, trong lòng hết sức vui mừng, vội vàng đưa thân điểm nhẹ lên thân cột buồm, tiếp tục vọt lên cao sáu bảy thước nữa.
Thân người của Lữ Lân chỉ vọt cao thêm được độ sáu bảy thước, nhưng vì tài khinh công của cậu ta chưa đến mức có thể vận dụng liên tục chân lực trong người để vọt liên tiếp lên mấy lượt, nên bất đắc dĩ phải vung ngọn đơn đao ra, nhắm ngay cột buồm chặt tới nghe một tiếng phập.
Ngọn đơn đao của Lữ Lân hết sức sắc bén, lưỡi đao đã chặt sâu vào thân gỗ, Lữ Lân liền đè mạnh một bàn tay lên cán đao, lấy đà để vọt thêm lên cao như vừa rồi.
Sau hai lần dùng cách đó liên tiếp, thân người của Lữ Lân đã cách sàn thuyền đến một trượng ba. Xem ra, nếu cậu ta vọt lên thêm lần thứ ba nữa, chắc chắn cậu ta sẽ chụp được chiếc cuốc vào tay, và xem như là đã thắng cuộc.
Chẳng ngờ ngay lúc ấy, Lữ Lân bất thần nghe có tiếng cười trong trẻo của Hàn Ngọc Hà, từ trên cao sà xuống thấp, khiến cậu ta hết sức kinh hoàng.
Lữ Lân không làm thế nào tưởng tượng được, bỗng nhiên lại có tiếng cười của Hàn Ngọc Hà từ trên cao vọng xuống. Song cậu ta biết mọi việc đang rất nguy cấp, nên vội vàng ngửa mặt nhìn lên, và đã trông thấy Hàn Ngọc Hà đang ở cạnh đấy bay thẳng tới, trông chẳng khác nào một con quái điểu, nhắm chụp vào ngọn cuốc đang cắm đứng trên cột buồm.
Thì ra, vừa rồi khi Hàn Ngọc Hà tránh được thế đao của Lữ Lân, nàng trông thấy Lữ Lân lại tiếp tục vọt lên cao định đoạt lấy chiếc cuốc trên cột buồm, nên nàng biết mình không thể ra tay nhanh hơn đối phương, bằng cách lại phi thân bay vọt lên lần thứ hai. Giữa lúc cấp bách ấy, bỗng một diệu kế kịp thời lóe lên trong óc nàng. Nàng liền điểm nhẹ đôi bàn chân, nhắm một cây cột buồm phụ đứng cạnh đấy lướt tới, nhanh nhẹn trèo thẳng lên cao.
Nhờ khinh công của Hàn Ngọc Hà cao cường hơn Lữ Lân, chẳng mấy chốc nàng vượt cao hơn Lữ Lân.
Giữa lúc Lữ Lân mới định vung đao chém thẳng vào cột buồm để lấy đà vọt lên lần thứ ba, thì Hàn Ngọc Hà đã vượt lên cao được đến hai trượng rưỡi rồi.
Hơn nữa, cây cột buồm phụ ấy chỉ cách xa cây cột buồm chính độ bảy tám thước mà thôi, Hàn Ngọc Hà chỉ cần đè mạnh đôi bàn tay lên thân cột buồm, rồi dùng thế Lạc Nhạn Bình Sa là có thể từ trên cao phi thân lướt xéo đến cây cột buồm chính, nơi có chiếc cuốc đang cắm đứng ở đấy.
Lữ Lân tính chắc là mình sẽ đắc thắng, nhưng chẳng ngờ Hàn Ngọc Hà từ trên cao bay thẳng xuống. Lữ Lân ngửa đầu thấy ngọn roi vàng chớp lập lòe của Hàn Ngọc Hà đã quấn được cán chiếc cuốc, và giật mạnh cánh tay trở về, khiến chiếc cuốc liền bị ngọn roi cuốn bay theo về phía nàng.
Lữ Lân cuống quýt cất tiếng quát to, rồi lại nhanh nhẹn vọt lên cao ba thước nữa.
Trong khi thân người cậu ta hãy còn lơ lửng trên khoảng không thì nhanh nhẹn vung đao tấn công tới tấp về phía Hàn Ngọc Hà ba thế võ mãnh liệt.
Hàn Ngọc Hà lúc ấy vẫn có ý định đoạt cho kỳ được chiếc cuốc, nên chẳng hề phản công trở lại, nên ba thế đao của Lữ Lân đã vạch thành ba vết thương dài trên vai nàng.
Nhưng cũng may vì Lữ Lân khi bay vọt lên, chân khí đã bị gián đoạn, nên thân người đang nhanh nhẹn sa trở xuống. Nhờ vậy thương thế trên bả vai của Hàn Ngọc Hà cũng không đến nỗi trầm trọng lắm. Nếu Lữ Lân là người có thuật khinh công khá cao, để giữ yên thân mình trên khoảng không trong giây lát, thì chắc chắn Hàn Ngọc Hà đã bị mất mạng rồi.
Hàn Ngọc Hà xoay mạnh thân người giữa khoảng không và nhắm sạp thuyền buông mình rơi nhẹ trở xuống.
Đồng thời, nàng vung ngọn roi vàng ra nghe vun vút nhắm thẳng Lữ Lân phản công tới tấp.
Lữ Lân trông thấy Hàn Ngọc Hà đã đoạt được chiếc cuốc vào tay, trong lòng hết sức thất vọng, nên cậu ta lại càng liều thêm, vung đơn đao đánh mạnh đánh thẳng, chẳng hề lùi bước trước sức phản công của đối phương.
Lúc ấy khoảng cách giữa hai người rất gần. Hai người chỉ cất tiếng hừ to qua giọng mũi, rồi không ai nói với ai một lời, kẻ vung đao người vung roi, đánh nhau vô cùng quyết liệt. Lữ Lân vì nóng lòng muốn đoạt lại chiếc cuốc, nên đã dùng Phi Hổ Tam Thức đánh ra tới tấp, khiến ánh thép của đơn đao chiếu lập lòe dày đặc cả khoảng không, thế võ mỗi lúc lại càng hiểm hóc và ồ ạt.
Hàn Ngọc Hà vì thấy mình đã nắm chắc phần thắng trong tay, nên vội vàng nhảy lui để tránh, và nhờ thế nhảy lui ấy nàng đã tránh khỏi hai thế đao trong đường Phi Hổ Tam Thức.
Kịp khi Lữ Lân dùng thế Ngã Hổ Đằng Diệu công tới, thì nàng mới vung ngọn roi vàng trong tay đánh thẳng vào thế công của đối phương.
Tức thì hai món binh khí liền va chạm, gây thành một tiếng xoảng vang dội, đi đôi với những đốm lửa đỏ lòm bắn ra tung tóe. Thế là ngọn roi vàng của Hàn Ngọc Hà đã quấn cứng lưỡi đao của Lữ Lân.
Hàn Ngọc Hà gằn giọng nói:
- Thằng bé thối kia. Xem giờ đây ngươi chạy đâu thoát được nữa? Dứt lời, nàng bèn vung mạnh cánh tay lên, định giật mất lưỡi đao thép trong tay Lữ Lân.
Nhưng chẳng ngờ Lữ Lân dù sao cũng là một người rất có căn bản về võ học, nên kịp thời giật mạnh cánh tay trở về, suýt nữa đã giật được thanh đao thoát khỏi ngọn roi vàng của đối phương.
Hàn Ngọc Hà thấy thế nhanh nhẹn hạ thấp cánh tay xuống để giữ chặn ngọn đơn đao của Lữ Lân lại, không cho đối phương thu trở về như ý muốn.
Nàng cũng cùng một lúc, vung cánh tay trái lên, quơ chiếc cuốc nhắm quét ngang về phía Lữ Lân.
Lúc bấy giờ giữa Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà chỉ cách nhau không hơn ba thước mộc, do đó qua thế quét tới ấy, trừ phi Lữ Lân phải buông bỏ lưỡi đao, tránh ra xa mới mong tránh khỏi.
Song, vì Lữ Lân đã quyết một mất một còn với địch nên đâm liều, giương năm ngón tay trái ra chẳng khác chi những chiếc móng sắt, nhắm chụp thẳng vào chiếc cuốc đang quét tới.
Thế chụp ấy của Lữ Lân vừa nhanh nhẹn vừa chính xác, nên chiếc cuốc đã bị cậu ta nắm cứng vào tay.
Đằng này, Hàn Ngọc Hà cũng không nhượng đối phương, nên vội vàng buông bỏ cán cuốc, vung chưởng đánh bất ngờ vào bả vai của Lữ Lân.
Vì tay của Lữ Lân đang bận giữ kín hai món binh khí, nên không kịp thu về chống đỡ.
Vả lại thế đánh ấy của Hàn Ngọc Hà quá bất thần, nên cậu ta không làm thế nào đoán biết trước được. Bởi thế chưởng lực của Hàn Ngọc Hà đã giáng trúng thẳng vào vai của cậu ta, khiến cậu ta đau đớn đến mức hết tự chủ, rồi buông lỏng chiếc cuốc đánh rơi ầm xuống sàn thuyền.
Tiếp đó Hàn Ngọc Hà lại vội vàng thu nhanh chiếc roi trở về, và bắt từ trên cao quét xéo vào sườn của Lữ Lân khiến cậu ta cảm thấy đau nhói.
-oOo-
Lữ Lân đã bị trúng thêm một roi rất nặng trên một bên sườn đau nhói. Cậu ta nhớ trước đây mình suýt nữa đã bị mất mạng dưới ngọn roi này trên tháp Hổ Khưu, nên trong lòng bừng bừng nổi giận. Cậu ta không còn kể chi nữa, vận dụng toàn thể sức mạnh trong người, lao thoắt tới đâm đầu vào ngực đối phương.
Lúc bấy giờ Lữ Lân đã quyết lấy mạng đổi mạng, nên thế công chẳng thành thế võ chi cả.
Hàn Ngọc Hà vì không kịp đề phòng, nên đã bị chiếc đầu của Lữ Lân lao tới, đánh trúng vào lồng ngực nghe một tiếng thình.
Vì Lữ Lân đã vận dụng toàn lực, nên Hàn Ngọc Hà sau khi bị trúng chiếc đầu của cậu ta, cảm thấy lồng ngực đau đớn không tả xiết, đôi mắt tối sầm khí huyết cuồng loạn. Nàng tự biết là mình đã bị thương nặng nề.
Nhưng nàng cố gượng vung chưởng lên quét liên tiếp hai chưởng về phía đối phương.
Chưởng thứ nhất của nàng giáng thẳng vào Thái Dương huyệt, và chưởng thứ hai đánh trúng bả vai của Lữ Lân.
Lữ Lân bị trúng một hơi hai chưởng, mắt đổ lốm đốm sao, rồi té ra sàn thuyền.
Hai người qua cuộc giao tranh bất kể sống chết ấy, đã đi đến kết quả là cùng bị thảm hại như nhau.
Sau khi Lữ Lân đã bị Hàn Ngọc Hà đánh bay ra xa, nàng vội vàng ngồi lên để chuyển vận chân khí, nhưng nàng cảm thấy trong cổ họng có vị mằn mặn, rồi hộc ra một ngụm máu tươi đỏ ối.
Riêng Lữ Lân vì bị trúng một chưởng bên Thái Dương huyệt, nên thương thế cũng không phải nhẹ. Đôi tai của cậu ta lúc nào lúc nào cũng nghe thấy ầm ầm ì ì như tiếng chuông tiếng trống đang đánh vang dội. Qua một lúc khá lâu, cậu ta mới mở mắt ra được.
Nhưng khi vừa mở mắt ra, thì cảnh tượng trước mắt như đang chập chờn chao động! Thế là hai người cùng nằm lăn trên sàn thuyền, thở hào hển. Cả hai nằm bất tỉnh cho tới khi mặt trời đã lặn về phía tây, mặt biển mênh mông mờ mịt, họ mới từ từ tỉnh dậy.
Sau mỗi lần đôi bên ra tay đánh nhau, thì lòng cừu hận của họ lại càng sâu sắc thêm.
Giờ đây khi cả hai đều bị trọng thương nên bất đắc dĩ phải ngồi yên, lo vận dụng chân lực điều hòa hơi thở, hy vọng mau chóng chữa lành thương thế, để hạ sát kẻ thù cho hả cơn căm tức.
Màn đêm từ từ buông xuống, trên vầng trời xám xịt lấp lánh ánh sao sáng. Đại dương thực phẳng lặng, mặt nước phản chiếu ánh sao lập lòe màu bạc.
Đến nửa đêm, hai người đã có thể cử động được, nên cả hai đều nhắm đối phương lết gần lại dần. Nhưng không đủ sức tiếp tục lết tới nữa.
Kể từ nửa đêm về sau, cứ độ một tiếng đồng hồ, hai người lại xích gần nhau hơn. Mãi cho đến trời vừa sáng, khoảng cách chỉ cần thò tay ra là đụng nhau, nhưng họ hoàn toàn kiệt sức, không còn cựa quậy được nữa.
Hàn Ngọc Hà càng nghĩ càng căm tức, đôi giòng lệ bất giác tuôn trào. Nhưng nàng không muốn Lữ Lân trông thấy mình khóc, nên vội vàng quay mặt nhìn đi nơi khác! Lúc ấy tâm trạng hai người bồn chồn rối rắm khôn tả! Cả hai đều thấy sự chết đang lảng vảng trước mắt.
Con thuyền đã mang họ ra ngoài biển khơi, dù cho hiện giờ biển yên sóng lặng, song cũng vô cùng nguy hiểm. Nếu hai người đồng tâm hợp lực, cũng vị tất điều khiển được thuyền trở vào bờ, huống chi cả hai lúc nào cũng xem nhau như thù địch, đánh nhau đến mang thương tích nặng nề.
Lữ Lân nghĩ đến hiện trạng, không khỏi thầm than dài.
Cậu ta nghĩ đến việc liều chết, lấy mạng đổi mạng với Hàn Ngọc Hà, thực không có lợi gì.
Tuy nhiên lòng hối hận ấy thoáng hiện, thì ngọn lửa căm thù lại đốt cháy nó tiêu tan, cậu ta nghiến chặt hàm răng, trợn to đôi mắt căm hận nhìn về đối phương.
Suốt đêm hôm ấy, hai người họ đã nằm mê man qua những giấc ngủ chập chờn, và đến gần sáng, mặt biển bắt đầu nổi sóng, khiến thân thuyền bồng bềnh chao động nên hai người lại lăn ra xa nhau. Cho mãi tới lúc Lữ Lân đụng mạnh vào be thuyền mới giật mình mở mắt nhìn.
Lữ Lân thấy mình còn sống, trong lòng mới mừng thầm, bỗng thấy Hàn Ngọc Hà cũng từ be thuyền bên kia lồm cồm bò dậy.
Lúc ấy thì trời đã gần sáng, bóng tối hãy còn bao phủ mọi nơi. Trên mặt biển sóng mỗi lúc một lớn, và trên nền trời cao tiếng sấm sét ầm ì không ngừng. Con thuyền bị lắc lư chao động càng dữ dội hơn.
Những tia điện sáng ngời, thỉnh thoảng lóe lên, cắt đôi nền trời đen thẳm, soi thẳng vào mặt họ, khiến cả hai đều thấy sắc mặt của đối phương đang tái mét trông thật đáng sợ.
Chừng ấy, Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà đều đoán biết rằng một trận phong ba sẽ nổi dậy giữa biển khơi.
Chiếc thuyền của họ đang ngồi, tuy có to lớn, nhưng nếu đem so sánh với biển cả thì chẳng thấm vào đâu. Như vậy nếu con thuyền bị đắm...
Hai người vừa nghĩ đến đây, đã vội vàng nhắm chặt đôi mắt lại không dám nghĩ thêm được.
Chẳng mấy chốc sau, cơn mưa to đổ ầm ầm, họ đều bị ướt đẫm. Nhưng nhờ nước mưa xối khắp cả người, nên họ đều cảm thấy tỉnh táo trở lại hơn.
Đi đôi với trận mưa to ấy, lại còn những ngọn cuồng phong không ngớt thổi ào ào, khiến sóng to trên mặt biển càng thét gào dữ dội, đồng thời hai lá buồm lớn trên thuyền cũng bị ngọn gió to cuốn bay đi và rớt thẳng xuống biển. Hai người chỉ kịp thấy những lá buồm trắng ấy chập chờn giữa giòng nước đen ngòm rồi chẳng mấy chốc sau, đã bị những đợt sóng to nhận chìm xuống đáy biển.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà đưa tay vịn chặt lấy be thuyển, vì sợ những ngọn sóng to hất bay xuống biển.
Ba đào mỗi lúc xem ra càng dữ dội hơn, khiến cho con thuyền to lớn ấy chẳng khác chi một con ngựa chứng không ngớt lồng lộn trên mặt nước.
Qua một lúc khá lâu, nhờ vào ánh chớp trên nền trời cao, Lữ Lân chợt trông về phía trước mặt có hai ngọn núi đen như mực, đứng sừng sửng giữa mặt biển. Hai ngọn núi ấy từ xa nhìn, thấy chúng chỉ cách xa nhau độ mười trượng mà thôi.
Hơn nữa, giữa hai ngọn núi đứng sững ấy, lại có một cây cầu bằng đá thiên nhiên nối liền nhau.
Chiếc thuyền của hai người đang nhắm ngay hai ngọn núi đó sấn tới mãi. Lữ Lân kinh hãi, nhắm nghiền đôi mắt lại, không dám tiếp tục nhìn rõ cảnh tượng đáng kinh khiếp ấy nữa.
Đột nhiên đôi tai của Lữ Lân bất thần nghe Hàn Ngọc Hà thét lên một tiếng khủng khiếp. Cậu ta vội vàng mở to đôi mắt ra nhìn, thấy Hàn Ngọc Hà đã đứng thẳng người lên, đưa đôi chân lảo đảo định bước tới.
Lúc bấy giờ con thuyền đang chao động dữ dội. Do đó nếu Hàn Ngọc Hà đứng thẳng người lên, thì lúc nào cũng có thể bị ngọn sóng to hất ngay xuống mặt biển.
Tuy Lữ Lân đoán biết là chỉ trong phút chốc con thuyền sẽ đâm vào vách đá và chắc chắn hai người không ai còn sống sót được. Nhưng cậu ta thấy Hàn Ngọc Hà mạo hiểm như vậy cũng không khỏi buột miệng kêu to rằng:
- Con tiện tỳ kia! Bộ ngươi không muốn sống nữa hay sao? Hàn Ngọc Hà nghe thế không khỏi giật mình, đưa mắt nhìn Lữ Lân. Kế đó nàng đưa tay ra nắm cứng một sợi dây thừng to cạnh đó để giữ vững thân mình lại. Đồng thời, nàng cất giọng ghê rợn cười vang không ngớt.
Nhưng tiếng cười của Hàn Ngọc Hà vừa mới nổi lên, thì bất thần đã nghe một tiếng ầm to vang dội, đi đôi với những đợt sóng khổng lồ cuốn tới, khiến đôi mắt Lữ Lân tối tăm, và cả hai cảm thấy đau buốt đến ngất lịm dần đi.
Cậu ta không biết đã ngất lịm bao lâu, nhưng khi bừng tỉnh trở lại thì thấy toàn thân ê ẩm, tay chân mềm nhủn, không còn sức lực nữa.
Lữ Lân cất tiếng khẽ rên rỉ một lúc mới cố gắng mở to đôi mắt nhìn. Cậu ta nhận thấy mình đang đứng yên trên một tảng đá to giữa dòng nước biển xanh biếc.
Lữ Lân ôn lại mọi việc đã xảy ra trước khi mình ngất lịm, đoán biết có lẽ lúc con thuyền đâm thẳng vào đá, cậu ta đã được những ngọn sóng to đưa lên bãi, nên mới thoát chết như vậy.
Sau đó Lữ Lân ngửa cổ nhìn lên, thấy hai ngọn núi cao sừng sững trông chẳng khác nào hai lưỡi gươm chọc thẳng vào mây.
Lữ Lân vì quá kiệt sức, vẫn nằm yên không nhúc nhích. Cậu ta đưa mắt quan sát kỹ hơn quang cảnh chung quanh, thấy bên dưới ngọn núi đá, nơi cậu đang nằm rộng độ ngoài một mẫu, song ngoài những tảng đá màu đen như mực ra chẳng thấy một sinh vật nào cả.
Lữ Lân từ từ nhắm nghiền đôi mắt lại để tĩnh dưỡng. Cậu ta đã nằm yên như vậy suốt đêm hôm ấy.
Tuy Lữ Lân đã bị trọng thương, rồi bị đắm thuyền, khiến thương thế càng trầm trọng hơn, nhưng nhờ vậy cậu ta đã thoát khỏi sự uy hiếp của Hàn Ngọc Hà nên tâm trạng nhẹ nhàng, bình thản hơn, ngủ thiếp đi được một giấc thật ngon lành.
Đến sáng sớm ngày hôm sau, Lữ Lân thấy sức khỏe của mình được Chương phục được một hai phần. Cậu ta gắng gượng đứng lên, nhưng đôi chân không ngớt lảo đảo. Lúc ấy cậu trông thấy những con cá bị sóng đánh hất lên bờ, chưa kịp nhảy trở vào nước, nên vội vàng bước tới bắt lấy hai con. Vì quá đói, Lữ Lân bất kể là cá sống hôi tanh, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến, tạm thời ăn cho đõ đói, để lấy lại sức khỏe.
Chiếc thuyền to lớn đã bị đụng vào đá vỡ tan, nhưng Lữ Lân thấy rằng nếu sức khỏe của mình khôi phục lại được, thì vẫn có thể nhặt những mảnh ván được sóng đánh tấp vào bờ, kết thành chiếc bè, và lựa chiều gió vào đất liền để tìm đường thoát nạn.
Sau khi Lữ Lân ăn xong hai con cá sống, thấy bụng đã no, nên lại tìm nơi nằm yên, tĩnh dưỡng một ngày một đêm nữa.
Suốt khoảng thời gian ấy, cậu ta vẫn vận nguyên điều tức lo chữa trị thương thế, nên đã được bình phục đến ba bốn phần.
Đến sáng ngày thứ hai, Lữ Lân đi quanh chân núi ấy một vòng và nhờ thế cậu ta đã phát hiện được nhiều chuyện lạ.
Thì ra đối diện với ngọn núi đá mà cậu đang đứng chính là một ngọn núi cao khác, giữa hai ngọn núi cách xa nhau độ ngoài hai mươi trượng. Hai ngọn núi cao chọc trời, bên trên có cây cầu bằng đá thiên nhiên nối liền nhau. Dưới chân núi có một vùng đất lõm sâu, rộng hơn một trượng, bốn bên đều có những tảng đá to che chở, khiến sóng biển không tràn vào được. Do đó tại đó tích trử rất nhiều phù sa, cây cối tốt tươi um tùm, hoa quả trĩu nặng trông như một vườn trái.
Lữ Lân thấy thế vui mừng quá sức, vội vàng lần xuống, tìm bóng mát nằm dưỡng sức.
Cậu ta thấy khoan khoái, vì nơi đây vừa mát mẻ, vừa kín gió, lại có hoa quả để ăn. Cậu ta hái vài trái chín ăn thử, thấy mùi vị thơm ngon vô cùng. Vì thế cậu ta mới nhớ lại mình ăn sống hai con cá ngày hôm qua, nên không khẽ thầm mắng là mình quá ngu ngốc.
Tại vùng đất lõm này, lúc nào cũng ấm áp. Lữ Lân sống tại đây liên tiếp bảy tám hôm, không rời khỏi nửa bước. Nhờ vậy, thương thế của cậu ta hoàn toàn bình phục.
Lữ Lân thấy sức lực y như cũ, nên hết sức vui mừng, nhún mạnh đôi chân nhảy ra khỏi vùng đất lõm thấp, rời đưa mắt quan sát kỹ chung quanh chân núi, cậu ta bỗng phát giác được ở phía sau vách đá cạnh có một sơn động khá to.
Vì tính háo kỳ, Lữ Lân đưa chân đi thẳng vào sơn động. Lúc đầu cậu ta thấy con đường đi vừa nhỏ hẹp lại vừa thấp tè. Nhưng tiếp tục đi thì chẳng bao lâu ở trước mặt mình bừng sáng, và khi nhìn kỹ hơn, đã biết mình đang đứng giữa một gian phòng đá.
Gian phòng đá ấy, chung quanh đều là những vách đá đen như mực, nhưng nhờ bên trên vách đá có khảm những hạt dạ minh châu, nên khắp gian phòng chỗ nào cũng có một màu sáng xanh nhợt, trông vô cùng vui mắt.
Lữ Lân thấy thế trong lòng càng kinh dị. Cậu ta không thể ngờ được rằng tại một ngọn núi đá thẳng đứng bên bờ biển này mà lại có người đặt chân đến trước mình.
Nhưng có một đều làm cậu ta kinh ngạc hơn là chẳng những người ấy đã đặt chân đến trước, mà còn lấy nơi đây làm nơi cư trú nữa! Lữ Lân định thần quan sát gian phòng đá kỹ hơn, thấy trên một bức vách đá có khắc bốn chữ thật to: "Mặc Tiều Tiên Phủ".
Bên dưới bốn chữ to lớn có hai dòng chữ nhỏ. Lữ Lân vội vàng bước gần đến xem kỹ, thấy hai dòng chữ nhỏ ấy viết rằng: "Suốt hai năm khổ luyện Kim Cang Chỉ Lực đã thành công. Ngày hôm nay mang ra sử dụng thử, thì thấy nó đã có thể khắc sâu vào núi đá đến một phân, khiến mặt đá phải tan thành bột nhuyễn!" Bên dưới dòng chữ còn ký rõ bốn chữ: "Thiên Tôn Thượng Nhân".
Lữ Lân vừa nhìn thấy bốn chữ Thiên Tôn Thượng Nhân thì trong lòng không khỏi thầm kinh hãi. Vì trong giây phút ngắn ngủi đó, cậu ta bỗng nhớ lại lời nói của phụ thân mình trước đây về bốn nhân vật rất lợi hại thuộc hàng tiền bối trong võ lâm.
Bốn người ấy đã từng tập hợp bên cạnh Thiên Hà, trên đỉnh Thiên Sơn thuộc vùng Tây Vực, để đấu kiếm so tài nhưng kết cuộc không thể phân thắng bại. Người trong võ lâm lúc bấy giờ gọi họ là Thiên Hà Tứ Lão.
Bốn lão già ấy chính là Minh Đô Lão Nhân tức là Chưởng môn phái Nga My và cũng chính là sư phụ của Lữ Đằng Không, Hồng Ưng Cung Long và Đông Phương Bạch. Vị kế đó là một dị nhân vùng Miêu Cương, hơn nữa lại là một người đàn bà có danh hiệu gọi là Ban Long Tiên Bà. Người thứ ba chính là Thiên Tôn Thượng Nhân ở vùng Trường Bạch Sơn. Và người cuối cùng chính là một nhân vật võ công độc đáo, đứng giữa hai phái chính tà ở vùng Nam Hải, danh hiệu gọi là Thiết Gia Đảo Chủ, mọi người quen gọi là Thiết Ông.
Thiết Thần Ông không phải là biệt hiệu của ông, mà thật sự ông ta là người họ Thiết tên Thần Ông.
Khi bốn người ấy tập trung đến cạnh Thiên Hà để tranh tài, vì không thể phân được ai cao thấp, nên đành phải phân tán trở về nơi cư ngụ riêng. Và sau đó, Minh Đô Lão Nhân là người chết sớm hơn hết.
Khi Minh Đô Lão Nhân tạ thế, ba lão già kia cũng có đến núi Nga My để ai điếu.
Nhưng sau khi họ rời khỏi ngọn núi này, thì chẳng còn ai được biết tung tích của họ đâu cả.
Bởi thế, suốt nhiều năm gần đây không còn ai nhắc nhở đến danh hiệu của bốn lão già ấy nữa.
Thế nhưng giờ đây Lữ Lân bất thần phát giác được ngôi động đá này có bút tích của Thiên Tôn Thượng Nhân, tức một trong Thiên Hà Tứ Lão, thì quả là một việc hết sức bất ngờ! Lữ Lân đọc đi đọc lại hai dòng chữ nhỏ trên vách, trong lòng mỗi lúc một kinh dị hơn.
Vì qua lời lẽ của câu nói ấy, tựa hồ Thiên Tôn Thượng Nhân sau khi khổ luyện thành công Kim Cang thần Chỉ, liền khi đó đã so tài cao thấp với một người nào đó.
Thứ Kim Cang Thần Chỉ này Lữ Lân đã từng nghe phụ thân nói đến. Nó chính là một thế khí công của Đạo gia và Phật gia. Sau khi rèn luyện đến mức cao thâm tuyệt đỉnh, thì thần chỉ vừa điểm ra, là chân khí trong người cũng liền phát theo ngay, khiến bất luận một vật cứng rắn đến đâu đều bị chỉ lực đánh vỡ tan tành. Theo lời đồn đãi trong võ lâm, mấy trăm năm về trước có người luyện thành công thứ chỉ lực này. Còn thì mãi đến ngày nay phương pháp rèn luyện đã bị thất truyền nên không ai được biết nó nữa.
Nhưng dựa vào đó, Lữ Lân cũng biết rằng đối phương mà Thiên Tôn Thượng Nhân tìm đến so tài ấy phải là một người võ công cao cường tuyệt đỉnh, chứ chẳng phải là kẻ tầm thường.
Việc Thiên Hà Tứ Lão sau khi rời khỏi núi Nga My và bị mất tích, mãi đến bây giờ vẫn còn là một câu hỏi nan giải trong võ lâm. Việc ấy xảy ra hai mươi năm về trước, nên chắc chắn Thiên Tôn Thượng Nhân hiện nay không còn sống trên thế gian này nữa. Như vậy chả lẽ Mặc Tiều Tiên Phủ này là nơi vùi thây của Thiên Tôn Thượng Nhân hay sao? Lữ Lân đứng trơ người trước bức vách đá ấy một lúc khá lâu, mới quay lưng rảo bước khắp gian phòng ấy để quan sát kỹ hơn. Cậu ta thấy bên trong gian phòng đá bài trí rất đơn giản, ngoài một phiến đá to phẳng làm giường nằm, còn thì chỉ dựa vào mặt vách lồi lõm tự nhiên để tạc thành bàn ghế dùng tạm một cách thô sơ mà thôi.
Lữ Lân đi tìm khắp nơi một lúc, song cũng không phát giác được hài cốt của Thiên Tôn Thượng Nhân đâu cả.
Sau đó, Lữ Lân bèn dừng chân đứng lại không tìm kiếm nữa và cậu ta thầm nghĩ: "Đã có gian phòng đá làm nơi tạm trú, dù sao vẫn hay hơn là sống giữa trời như mấy hôm vừa qua. Nhất là cạnh đây lại có khoảng đất phù sa, cây cối tốt tươi, hoa quả trĩu cành, dùng làm thức ăn rất tiện." Như vậy, Lữ Lân thấy mình tạm thời có thể ở yên trong gian phòng đá này để dưỡng sức, rồi sẽ tìm cách về đất liền sau.
Khi ý định đã quyết, cậu ta bước thẳng đến chiếc giường đá nằm ngủ.
Lúc đầu Lữ Lân không cảm thấy giường đá có đều gì lạ, song qua một lúc sau, cậu ta bỗng cảm thấy có một hơi lạnh từ từ xâm nhập vào cơ thể, chẳng khác nào đang nằm trên mặt tuyết băng. Đôi hàm răng bắt đầu chạm nhau côm cốp, khiến cậu ta vội vàng vận dụng chân khí trong người để chống lại luồng hơi lạnh ấy.
Lữ Lân cố gắng nằm trên chiếc giường đá khoảng hơn một tiếng đồng hồ, nhưng không làm sao chịu đựng trước luồng hơi lạnh ấy nữa, vội vàng lồm cồm ngồi dậy, bước khỏi chiếc giường đá ngay.
Khi Lữ Lân vừa bước khỏi chiếc giường thì hơi lạnh trong người cũng liền mất hẳn.
Bởi thế cậu ta đoán biết chiếc giường ấy chắc có đều chi quái dị, nên đưa mắt quan sát kỹ hơn. Nhờ đó mới phát giác được bên cạnh chiếc giường đá có một luồng gió lạnh không ngớt thổi lên.
Lữ Lân thấy thế hết sức thất vọng, vì tuy cậu ta tìm được gian phòng đá khá kín đáo, có cả chiếc giường để nằm, nhưng nay lại dùng không được.
Giữa lúc Lữ Lân đang kém vui thì bất ngờ nhìn thấy trên đầu kê sát tường của chiếc giường đá hình như có khắc mấy dòng chữ nhỏ! Chiếc giường đá ấy nguyên cũng là một loại đá đen như mực, trông chẳng có gì khác hơn những hòn đá chung quanh. Do đó, những dòng chữ bé li ti kia thật khó nhận ra, Lữ Lân dù chú ý quan sát qua mấy lần, song vẫn không thể đọc được.
Cậu ta biết gian phòng đá này là ngôi biệt cư của Thiên Tôn Thượng Nhân tức một trong Thiên Hà Tứ Lão trước kia. Hơn nữa, Thiên Tôn Thượng Nhân là một người võ công cao cường tuyệt đỉnh, ai nghe qua cũng phải khiếp sợ. Vậy rất có thể ông ta lưu lại một bí cấp quý báu cho hậu thế, nếu tìm thấy được thì có thể dựa vào đó rèn luyện võ công tuyệt đỉnh hiếm có trên đời! Vì nghĩ như vậy nên Lữ Lân càng chú ý quan sát chung quanh gian phòng đá.
Giờ đây khi thấy được những dòng chữ li ti trên đầu giường, cậu ta hối hả trèo lên chiếc giường đá, cắn răng chịu đựng sức lạnh lẽo nơi phiến đá bốc ra, chú tâm đọc kỹ những dòng chữ ấy thì thấy viết rằng: "Mặc Tiều Tam Bảo, mỗi thứ có một chỗ độc đáo. Chiếc giường này là một..." Lữ Lân vừa đọc hết hàng chữ nhất thì quả tim không ngớt nhảy lên nghe thình thịch, trong lòng cao hứng vô cùng.
Thì ra mọi sự dự liệu của cậu ta đều hoàn toàn đúng, rõ ràng trên Mặc Tiều Đảo này có đến ba món báu vật, nếu chẳng phải thế tại sao trong dòng chữ lại ghi là Mặc Tiều Tam Bảo được? Lữ Lân ngửa mặt nhìn lên chú ý quan sát khắp gian phòng một lượt với ý định tìm ra hai bảo vật kia xem chúng là vật gì? Nhưng sau khi cậu ta rảo mắt khắp nơi một lượt, lại không khỏi cười thầm về thái độ quá tham lam của mình. Vì riêng chiếc giường hàn ngọc này, nó có công dụng chi, mình chưa kịp tìm hiểu cho rõ ràng, mà đã nóng nảy muốn tìm thêm hai bảo vật kia! Bởi thế, cậu ta bèn cúi đầu nhìn xuống, chú ý đọc tiếp những dòng chữ nhỏ khắc sâu trên chiếc giường đá: "Khắp trong đời này, chỉ có hai địa phương sản xuất hàn ngọc. Một là ở Hàm Không Đảo tại vùng Hải Nam, hai là Mặc Tiều Đảo tại Đông Hải. Ta đến nơi này chỉ là một việc ngẫu nhiên, thấy khắp trên đảo, đá đều đen như mực, nên sinh nghi đây là Mặc Tiều Đảo. Do đó, đã ra sức tìm khắp nơi, và kết quả đã tìm được một sơn động chìm sâu dưới đáy biển.
Nhờ thế ta bắt gặp phiến hàn ngọc này. Nó là một thứ ngọc phát ra luồng hơi lạnh thấu xương tủy, nếu người nằm lên tất rất khó chịu. Nhưng với một người biết điều hòa chân khí, từ âm sinh dương, từ dương lại sinh âm, âm dương hỗ trợ sinh hóa với nhau nối tiếp thì chỉ trong vòng hai năm sau, công lực sẽ tất sẽ tiến triển đến mức có thể sánh với một người khổ công rèn luyện suốt mười năm dài. Quả đây là một báu vật hiếm có trong võ lâm!" Ở phía dưới dòng chữ trên, lại còn có những dòng chữ nhỏ hơn, rất khó đọc. Lữ Lân không hiểu trước đây Thiên Tôn Thượng Nhân đã dùng phương pháp nào để khắc sâu những dòng chữ ấy vào mặt đá.
Đọc qua những chữ trên, Lữ Lân quá sức vui mừng không còn nhớ gì đến sức lạnh từ chiếc giường ngấm vào cơ thể nữa.
Bởi thế, cậu ta vội vàng cúi đầu xuống, đưa mắt chú ý nhìn vào những giòng chữ nhỏ hơn, thấy đấy là những bí quyết chỉ dạy phương pháp lợi dụng luồng hơi lạnh Thái Âm Chân Khí từ trong chiếc giường hàn ngọc phát ra để đưa vào cơ thể chuyển biến thành công lực của chính bản thân người đang nằm trên giường.
Lữ Lân vì quá vui mừng nên cất tiếng hú dài vang dội. Kế đó cậu ta liền làm đúng theo lời những bí quyết trên tường, ngồi xếp bằng trên giường hàn ngọc, bắt đầu rèn luyện nội công.
Trước tiên cậu ta cảm thấy có một luồng hơi buốt xâm nhập Hội Dương huyệt tại Nhâm Mạch và nơi Trường Cường huyệt tại Đốc Mạch rồi lần lần lan rộng lên trên.
Hai huyệt đạo ấy chính là hai huyệt chót nhất trong hai mạch Nhâm, Đốc. Do đó, khi luồng hơi lạnh đã thông qua hai huyệt đạo ấy và bắt đầu tràn lần lên phía trên phần cơ thể thì Lữ Lân cảm thấy sức giá buốt càng lúc càng gia tăng. Đến khi nó tràn đến Trung Khu huyệt và Cự Khuyết huyệt giữa ngực và bụng, thì Lữ Lân cơ hồ cảm thấy toàn thân mình suýt nữa lạnh cóng lại! Bởi thế Lữ Lân vội vàng dựa theo bí quyết, vận chuyển chân khí đưa tới chạm thẳng với luồng hơi lạnh đang xâm nhập. Nhưng cậu ta lại không sử dụng nguồn chân lực của bản thân để xô luồng hơi lạnh đang tràn vào như vừa rồi, mà trái lại dẫn dắt luồng hơi lạnh ấy dung hòa vào luồng chân khí trong cơ thể một cách thận trọng, rồi mới từ từ đưa chúng lưu chuyển đến hai mạch Nhâm, Đốc.
Bách Hội huyệt là huyệt đạo tập trung các cả kỳ kinh bát mạch trong châu thân con người người nên lúc luồng chân khí vận chuyển đến đấy chính là lúc quyết định sự thành công hay thất bại đối với người rèn luyện nội công.
Lữ Lân biết thế nên lại càng thận trọng hơn. Vì nếu trong vòng đầu bị thất bại thì việc rèn luyện tất sẽ gặp nhiều gian lao khó bề vượt qua được.
Bởi thế, cậu ta chẳng những tập trung tinh thần, chú ý dẫn dắt luồng hơi lạnh từ ngoài xâm nhập vào cũng như luồng chân lực của bản thân mình, từ từ đi qua các huyệt đạo mà còn vội vàng tập trung tinh thần, không để ý nghĩ phân tán trước những huyệt chi khác.
Nhờ thế, luồng hơi lạnh từ chiếc giường hàn ngọc phát ra, đã tràn vào được khắp kỳ kinh bát mạch trên người cậu ta.
Chừng ấy, Lữ Lân bỗng cảm thấy toàn thân hết sức ấm áp và khoan khoái, trí ngược với cảm giác bực bội và lạnh lẽo như lúc trước. Nếu đem so sánh hai cảm giác ấy, thì quả khác nhau một trời một vực.
Lữ Lân thấy mình đã bước được một bước thứ nhất, khiến luồng hơi âm đã chuyển thành dương được, thì trong lòng lại càng vui mừng.
Khi bảy mươi hai quan huyện trong cơ thể của cậu ta đã được luồng chân khí vận chuyển qua một lượt mà cậu ta vẫn chưa chịu nghỉ. Cậu ta hăng hái tiếp tục việc vận chuyển đến ba lượt, mới nhanh nhẹn nhảy xuống khỏi chiếc giường hàn ngọc, bước ra bên ngoài sơn động. Chừng đó, Lữ Lân mới hay là đã giữa khuya.
Lữ Lân thấy chỉ mới qua một ngày rèn luyện, công lực của bản thân đã tiến triển khả quan rồi. Lữ Lân nhận thấy nếu căn cứ vào bí quyết khắc trên chiếc giường hàn ngọc mà rèn luyện liên tục hai năm thì sẽ có một công lực như người khổ học suốt mười năm dài. Nên cậu ta đã có một quyết định sẽ lưu lại trên hòn đảo này hai năm để rèn luyện cho kỳ được một trình độ nội công như vậy.
Thật ra, Lữ Lân nào có biết, Thiên Tôn Thượng Nhân là người võ công cao cường, song tâm địa lại còn hẹp hòi. Ông ta không chịu nói rõ là nếu tiếp tục luyện theo phương pháp ấy đến bốn năm thì chẳng những võ công sẽ tiến bộ phi thường ít ai sánh kịp, mà đồng thời hai mạch Nhâm Đốc cũng sẽ được đánh thông, đến một trình độ hy hữu.
Lữ Lân vì đọc qua những lời ghi chép trên giường và tưởng đấy là những lời chỉ dạy hết lòng hết dạ, nên cũng chẳng có ý hoài nghi chi cả.
Sau đó, Lữ Lân đến khoảng đất phù sa, kiếm một ít trái cây chín ăn đỡ đói, rồi lại quay vào gian phòng đá nghỉ ngơi.
Khi thấy đã đỡ mệt, cậu ta bắt đầu luyện tập nội công như trước.
Lữ Lân đã khắc khổ luyện tập như thế đến ba tháng dài.
Trong vòng thời gian đó, trình độ võ công của Lữ Lân đã tiến bộ vượt bực. Song, Lữ Lân không thấy đó làm mãn nguyện. Vì cậu ta tự biết với trình độ võ công hiện giờ của mình, nếu trở về Trung Nguyên thì nhiều nhất chỉ có thể đánh nhau với hạng cỡ Hàn Ngọc Hà mà thôi. Trái lại, nếu muốn so tài với số người có trình độ võ công tương đương với Đàm Nguyệt Hoa thì chắc chắn còn kém sút hơn nhiều. Như vậy đối với số cao thủ bậc nhất của võ lâm, cậu ta vẫn chẳng làm chi được họ cả.
Hơn nữa, Mặc Tiều Tam Bảo hiện cậu ta chỉ mới phát hiện được có một mà thôi. Suốt trong thời gian ba tháng qua, tuy cậu ta không ngớt tìm kiếm khắp nơi, song vẫn không làm sao tìm thấy được hai vật kia ở nơi nào.
Bởi thế, Lữ Lân quả quyết là hai món bảo vật còn lại chắc chắn vẫn còn ở tại Mặc Tiều Đảo này chứ không bao xa. Nếu chẳng phải thế thì tại sao trong võ lâm ở Trung Nguyên chưa ai được di bảo của Thiên Tôn Thượng Nhân cả.
Đêm hôm ấy, sau khi suy nghĩ kỹ càng, Lữ Lân thấy suốt ba tháng qua, mình chỉ tìm kiếm trong gian phòng đá mà thôi chứ chưa leo lên ngọn núi sang hòn đảo bên kia tìm kiếm cho kỹ hơn.
Lữ Lân là một con người cá tính rất nóng nảy, nên khi đã nghĩ đến chuyện gì thì muốn làm cho được ngay. Cậu ta bước ra cửa động đá, định vượt lên ngọn núi cao...
Nhưng Lữ Lân bỗng tỏ ra đắn đo do dự. Vì đêm hôm nay chính là một đêm cả bầu trời mây đen giăng kín, ngửa bàn tay nhìn không thấy rõ, vậy muốn thực hiện ý định đó chẳng phải là một chuyện dễ dàng.
Cậu ta thấy rằng chiếc cầu đá trên đỉnh núi rộng không hơn một thước mộc. Trong khi đó, đêm lại tối đen như mực, vậy chỉ với việc vượt lên đỉnh núi cao, cũng đã không thể rồi, nói chi đến đi qua chiếc cầu đá nữa? Nghĩ thế nên Lữ Lân đứng sửng sờ tại cửa hang đá một lúc lâu, chưa quyết định nên hành động như thế nào? Bỗng ngay lúc đó một ý nghĩ thoáng hiện qua đầu óc cậu ta, khiến nét mặt vốn đăm chiêu liền tràn đầy sắc vui mừng.
Lữ Lân thấy bên trong gian phòng đá có khảm rất nhiều dạ minh châu, như vậy cậu ta chỉ cần lấy ít viên mang theo để soi sáng đường đi thì việc vượt qua ngọn núi bên nào có chi là khó? Nghĩ thế, Lữ Lân vội vàng quay lưng bước trở vào sơn động, tìm đến trước một viên dạ minh châu to nhất, thò tay móc mạnh định gỡ ra mang theo người.
Nhưng chẳng ngờ viên dạ minh châu ấy thực trơn láng, ngón tay của cậu ta không thể nào gỡ nó ra được, Lữ Lân đã hì hục suốt mấy tiếng đồng hồ mà vẫn chẳng hề có kết quả.
Vì thế, Lữ Lân không khỏi sốt ruột, tức giận. Cậu ta đưa tay lên ấn mạnh vào viên dạ minh châu to bằng hạt trái nhãn kia một lượt. Và bỗng nhiên, qua cái ấn mạnh của cậu ta, viên dạ minh châu nọ đã thụt mất vào trong.
Cùng một lúc sau ấy, Lữ Lân lại nghe tiếng rắc vang lên. Thế rồi viên dạ minh châu cũng bắt đầu từ trên rơi thẳng xuống đất, hiện lên một lỗ thủng nhỏ. Qua ánh sáng của những viên dạ minh châu đang chiếu ngời nơi nơi, Lữ Lân nhanh nhẹn đưa mắt nhìn thẳng vào bên trong lỗ thủng ấy thấy đấy là cái sơn động nhỏ vuông vức độ một thước mỗi cạnh.
Lữ Lân sinh nghi thò ngón tay trở vào lỗ trống nơi khảm viên dạ minh châu vừa rồi, dùng sức kéo mạnh ra. Tức thì một phiến đá vuông chừng một thước mộc liền theo tay Lữ Lân rời khỏi vách sơn động. Và một cái sơn động bé nhỏ hiện rõ ràng trước mắt cậu ta.
Thì ra cái sơn động bé nhỏ ấy chính là một sơn động thiên nhiên, nhưng đã dùng một phiến đá vuông đậy kín, khiến dù nhìn kỹ đến đâu cũng không thấy khe hở.
Lữ Lân chú ý nhìn vào bên trong, thấy có để một chiếc hộp ngọc xinh xắn, vuông vức độ nửa thước mộc, dày chừng non tấc. Vì thế Lữ Lân vui mừng như điên nhảy tưng lên không ngớt. Cậu ta thò tay cầm chiếc hộp ngọc ấy lên xem, thấy bên trái có khắc bốn chữ to "Kim Cang Thần Chỉ".
Bên dưới bốn chữ to ấy lại có một dòng chữ nhỏ: "Đây chính là một trong Mặc Tiều Tam Bảo." Lữ Lân chẳng ngờ mình vì nóng lòng muốn vượt qua chiếc cầu đá để qua ngọn núi bên kia, hầu tìm xem những vật quý báu chi được cất giấu tại đấy không, thì vô tình phát giác được bảo vật thứ hai trên Mặc Tiều Đảo! Bởi thế trong lòng Lữ Lân thực vui mừng không thể tả, vội vàng giở nắp chiếc hộp ấy ra xem, thấy bên trong đựng một xấp lá cây khô không rõ là loại cây gì. Nhưng bên trên những chiếc lá khô ấy, đều được dùng kim nhọn xâm thành từng hàng chữ một. Cậu ta cầm xấp lá ấy, thấy nó gồm có tất cả là mười hai tấm.
Thì ra những hàng chữ nhỏ được xâm trên mỗi chiếc lá cây khô đựng trong hộp, chính là phương pháp rèn luyện từng thế Kim Cang Thần Chỉ một! Lữ Lân vui mừng khôn tả, thận trọng xếp những chiếc lá ấy vào gọn gàng trong chiếc hộp ngọc, rồi mới thong thả đưa chân bước đi khắp gian phòng, thò một bàn tay ra ấn mạnh vào từng viên dạ minh châu khác! Lữ Lân hy vọng là sau những hạt dạ minh châu còn lại còn cất giấu món bảo vật thứ ba. Nhưng sau khi cậu ta đã ấn qua tất cả những viên dạ minh châu trong phòng, mà vẫn không thấy có điều chi đáng ngờ cả.
Lữ Lân không phải là một con người quá tham lam, cậu ta biết rằng trong vòng hai năm, mình phải một mặt ngồi trên chiếc giường hàn ngọc để rèn luyện nội công, một mặt phải học tập một thứ Kim Cang Thần Chỉ khoáng cổ tuyệt kim này, vậy chắc chắn không còn đủ thời giờ để làm chi khác được nữa! Bởi thế, dù cho cậu ta có tìm được món bảo vật thứ ba, e rằng cũng không biết có dùng vào chỗ nào.
Lữ Lân không lấy đó làm điều thất vọng, vội vàng đưa mắt xem qua những lời dẫn giải trên tấm lá kia về Kim Cang Thần Chỉ. Nhưng vì tâm trạng Lữ Lân lúc ấy đang vui mừng khấp khởi, lại bồn chồn nôn nóng, nên dù cậu ta đã xem qua, song vẫn không thể nào lãnh hội được ý nghĩa qua dòng chữ ghi chép trên những tấm lá khô ấy.
Lữ Lân phải chờ đến đêm tối, khi tâm trạng đã lắng dịu, mới bắt đầu rèn luyện từng bước một, đúng theo thứ tự đã ghi chép trên số lá khô.
Từ ấy trở đi, mỗi ngày Lữ Lân trừ lúc đi kiếm thức ăn ra, còn thì cậu ta ở luôn trong phòng đá để học hỏi võ công.
Sinh sống trên hòn đảo ấy lâu ngày, Lữ Lân cũng đã tìm thấy rất nhiều loại khoai củ, mọc rải rác khắp vùng đất phù sa, nên cậu ta không còn lo sợ thiếu thức ăn. Nhờ thế cậu ta chỉ chăm chú trui rèn nội công và Kim Cang Thần Chỉ mà thôi.
Thời gian trôi qua nhanh, chẳng mấy chốc đã hai năm! Đối với một người đã đứng tuổi, thì khoảng thời gian ấy chẳng có chi đáng kể. Nhưng đối với một cậu bé tuổi vừa mười bốn, thì lại có nhiều biến chuyển to tát.
[mất trang]
-oOo-
[mất trang ] Lòng chàng bỗng thấy nôn nóng, muốn trở về Trung Nguyên ngay.
Suốt đêm hôm ấy lúc nào chàng cũng bồn chồn, không sao nhắm mắt ngủ yên, mà cũng không sao rèn luyện võ công được nữa. Bởi thế, chàng bèn cất kỹ chiếc hộp ngọc đựng những lá cây ghi chép phương pháp rèn luyện Kim Cang Thần Chỉ vào áo, rồi bước ra khỏi gian phòng đá. Chàng tìm đến một mõm đá khá cao, đứng nhìn ra biển cả mênh mông bát ngát.
Mặt biển phẳng lặng, không gợn một sóng nhỏ, xem như một tấm bích ngọc khổng lồ.
Nhưng nếu muốn vượt qua mặt biển mênh mông này, đâu phải là một chuyện dễ dàng? Chiếc thuyền to lớn bị đắm trước đây hiện vẫn còn nằm yên tại bãi biển. Lữ Lân thấy chàng có thể lấy những mảnh ván còn chắc kết thành một chiếc bè. Hơn nữa, thanh đơn đao màu tía mà trước đây chàng đã nhặt được trên thuyền, hiện nay chắc là vẫn còn nằm yên trong chiếc thuyền ấy, nếu chàng lặn xuống nước mò nó, thì vẫn có thể dùng được trong nhiều việc.
Lữ Lân thấy rằng, nếu mình kết được một chiếc bè, thì chỉ cần trời mưa to hứng lấy một số nước ngọt mang theo, và lựa chiều gió thuận tiện, là có thể thả bè cho trôi trở về đất liền! Khi nghĩ đến trình độ võ công hiện nay của mình, nếu trở về được Trung Nguyên, chắc chắn chàng có thể làm được nhiều chuyện to tát, lòng chàng bỗng thấy hết sức phấn khởi, bất giác hú lên một tiếng dài, vang dội cả không trung! Tiếng hú ấy bay lâng lâng mãi giữa trời cao, chẳng khác nào tiếng cọp giữa rừng sâu thẳm. Ngay đến Lữ Lân cũng không khỏi kinh ngạc trước tiếng hú vang rền ấy của mình! Sau một thời gian độ dùng xong một chén trà, thì bỗng từ phía xa có một âm thanh rất lạ, nối tiếp với tiếng hú của chàng vọng đến! Lữ Lân đã sống trên Mặc Tiều Đảo suốt hai năm qua, ngoài tiếng gió gào sóng bổ, còn thì chàng không hề nghe thấy có tiếng chi khác lạ hơn. Thế mà giờ đây chàng nghe được âm thanh lạ lùng ấy, nên trong lòng không khỏi thầm giật mình.
Chàng vội vàng nghiêng tai lắng nghe, và cảm thấy âm thanh đó tựa hồ là tiếng ngâm nga rất chậm rãi của một người con gái, nghe vừa du dương, vừa vui tai vô cùng! Tiếng ngâm tuy không to lắm, thế nhưng tiếng hú vang rền của chàng vừa rồi vẫn không làm sao át nó được! Chàng vội vàng sử dụng thân pháp, nhắm một ngọn đá cao nhất ở cạnh đấy vượt lên như bay.
Nhờ đứng trên cao nên chàng đã nghe được âm thanh ấy càng rõ ràng hơn. Chàng đã nhận định được phương hướng của âm thanh đó chính là từ đầu bên kia chiếc cầu đá nối liền hai ngọn núi vọng đến! Trước khi Lữ Lân tìm được chiếc hộp ngọc đựng mười hai chiếc lá khô ghi chép phương pháp rèn luyện Kim Cang Thần Chỉ, thì chàng đã có ý định vượt qua chiếc cầu đá để sang bên kia ngọn núi. Nhưng vì ngay sau đó chàng bắt gặp được món bảo vật thứ hai nên liền bỏ hẳn ý định ấy.
Suốt hai năm qua, vì chàng lúc nào cũng cần mẫn lo rèn luyện võ công, nên không có thời giờ rảnh rỗi để sang bên kia núi để xem có thể tìm gặp món bảo vật thứ ba trong Mặc Tiều Tam Bảo không.
Lữ Lân gần như có một sự quả quyết là món bảo vật thứ ba được cất giấu ở bên kia núi. Bởi thế, tuy chàng có ý nghĩ kết bè rời khỏi hòn đảo, nhưng cũng có ý định sẽ vượt qua bên kia ngọn núi, hầu tìm xem hư thực thế nào.
Nhưng chẳng ngờ trước khi thực hiện ý định của mình chợt chàng nghe bên kia ngọn núi có tiếng lạ vọng đến! Giữa hai ngọn núi ấy cách xa nhau chừng hai mươi trượng, Lữ Lân đứng trên cao nhìn xuống, trông thấy phía đối diện rõ ràng. Chàng không còn nghe tiếng ngâm nga trong trẻo ấy vọng đến nữa, trái lại chàng thấy có một bóng người xuất hiện trên một mỏm đá cao. Bóng người ấy đang lướt tới trước nhanh như gió hốt, và chỉ trong nháy mắt là đã đứng yên trên một tảng đá cao nhất.
Lữ Lân thực không sao tưởng tượng được trên đảo này lại có người thứ hai! Trong khi còn đang kinh dị chàng giương to đôi mắt chú ý nhìn về phía đối phương.
Song vì khoảng cách khá xa, nên chàng không làm sao thấy rõ được diện mục của người ấy.
Chàng chỉ thấy người ấy tóc xõa chấm vai, rõ ràng là một cô gái, mình mặc y phục hoa ngũ sắc sặc sỡ, nhìn hoa cả mắt.
Chàng định thần chú ý nhìn, thì thấy đối phương cũng đang hướng mắt nhìn về phía mình, lúc bây giờ vì nội công của chàng đã hết sức cao cường, nên bèn dồn hơi xuống Đan Điền rồi gằn giọng hỏi to rằng:
- Cô là ai thế? Suốt hai năm qua, đây là lần thứ nhất lên tiếng nói chuyện với một người nên giọng nói của chàng không khỏi ngượng nghịu. Hơn nữa, vì chàng đã từ một cậu bé chuyển thành một chàng thiếu niên, giọng nói cũng thay đổi rất nhiều.
Sau khi nghe Lữ Lân lên tiếng hỏi, cô gái ấy dường như hết sức vui mừng. Cô ta liền to tiếng từ bên bên kia vọng lại:
- Anh đến hòn đảo này từ lúc nào thế? Tôi đã ở đây hơn hai năm qua rồi! Sau khi Lữ Lân nghe được giọng nói của cô gái, thì chàng không khỏi giật mình. Vì giọng nói ấy chàng hết sức quen thuộc! Lữ Lân cau mày nghĩ ngợi, và đã đoán biết được đối phương là ai! Cũng chính vì thế nên lửa giận liền bốc cháy trong lòng chàng. Chàng không thể làm sao có thể ngờ được là hai năm qua, kẻ thù bất cộng đái thiên của mình đã sống yên ổn bên kia ngọn núi mà mình hoàn toàn không hay biết chi cả.
Cô gái trông thấy Lữ Lân không lên tiếng đáp lại, hỏi to rằng:
- Anh là ai thế! Lữ Lân dồn hơi vào Đan Điền, rồi bất thần ngửa mặt cười dài, nói:
- Tôi là ai, chả lẽ cô không nhận ra hay sao? Cô gái dường như giật mình, và trong lời có vẻ tức giận, lên tiếng quát:
- Ai lại nhận ra anh chứ? Lữ Lân cất tiếng cười dài, đáp:
- Hàn cô nương, cô quả là quái nhân nên mới chóng quên như vậy! Thì ra khi cô gái vừa lên tiếng nói chuyện, và Lữ Lân sau giây phút kinh ngạc, đã đoán ra cô gái chính là Hàn Ngọc Hà, kẻ tử thù với mình từ bấy lâu nay.
Suốt hai năm qua chàng vẫn cứ tưởng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào Mặc Tiều Đảo vỡ tan, thì chàng bị sóng cuốn lên bãi biển và được sống sót, còn Hàn Ngọc Hà thì đã bị vùi thây dưới đáy biển sâu rồi. Song chẳng ngờ Hàn Ngọc Hà lại xuất hiện trên ngọn núi đối diện với ngọn núi của chàng như vậy. Suốt thời gian qua, hai ngươi chỉ cách nhau hơn một dặm! Bởi thế, sau khi nhận biết giọng nói của Hàn Ngọc Hà, Lữ Lân vừa tức giận, nhưng cũng vừa vui thích.
Chàng sở dĩ cảm thấy vui thích, là vì hai năm qua võ công của mình đã tiến bộ vượt bực, vậy chắc chắn rồi đây nếu có gây sự đánh nhau nữa, thì chàng cũng có thể thắng được kẻ thù.
Khi Lữ Lân nghe qua tiếng ngâm nga của Hàn Ngọc Hà, chàng cũng đoán biết được sau hai năm sống trên đảo, nàng cũng có được một kỳ ngộ gì đây, khiến võ công đã tiến bộ rất nhiều. Nhưng chàng cho rằng Kim Cang Thần Chỉ, một thứ võ học có uy lực vô cùng, thế nào cũng đủ thắng được nàng! Giữa lúc Lữ Lân đang nghĩ ngợi, thì Hàn Ngọc Hà bên kia núi cũng đứng sửng sờ.
Giọng nói của Lữ Lân hoàn toàn khác biệt với hai năm trước đây. Hơn nữa thân người chàng cũng đã to lớn hơn rất nhiều, lại mặc một bộ y phục bằng cỏ xem hết sức quái dị, dù có đứng bên gần bên nhau, cũng chưa chắc dễ nhận ra, huống hồ hai đàng lại đứng cách nhau xa, không làm sao trông thấy được diện mục? Nhưng qua giọng nói của Lữ Lân, Hàn Ngọc Hà cũng đã nhận ra được kẻ đang đứng bên kia ngọn núi đối diện với mình, chính là kẻ thù sống chết của mình trước đây! Bởi thế, Hàn Ngọc Hà vội phi thân lướt thẳng về phía trước mấy lượt là đã tiến đến một tảng đá sát vách núi.
Bên này ngọn núi, Lữ Lân cũng vọt người bay bổng lên, và chỉ sau ba lần vọt lên rơi xuống, là cũng đến sát vách núi như Hàn Ngọc Hà.
Vì hai người đều tràn tới, nên khoảng cách giữa hai người cũng được rút ngắn đi. Hàn Ngọc Hà từ bên kia ngọn núi mắng qua rằng:
- Tiểu tử thối tha kia! Té ra lại chính là ngươi! Lữ Lân cười to ha hả, nói:
- Là ta thì thế nào? Con tiện tỳ kia, hôm nay ngươi chạy thoát khỏi tay ta mới là người có bản lãnh! Câu nói dứt, chàng đã vận chuyển chân khí trong người đưa ra ngón tay trỏ bên phải, bất thần điểm mạnh tới sử dụng thế Nhất Trụ Kình Thiên trong Kim Cang Thần Chỉ! Lúc bấy giờ tuy hai người đều đứng trên mỏm đá sát vách núi. Khoảng cách gần hơn khi nãy, nhưng vẫn cách xa nhau đến mười mấy hai mươi trượng. Với một khoảng cách như vậy, Lữ Lân biết Kim Cang Thần Chỉ của mình dù là thứ thần công cao tuyệt thế, song cũng không thể gây thiệt hại chi cho đối phương được. Do đó, khi chàng vung chỉ điểm tới, chàng không hề nhắm điểm thẳng vào người Hàn Ngọc Hà, mà trái lại nhắm điểm xuống mặt biển! Tức thì một tiếng vèo rít lên, liền thấy chỉ lực của chàng bay vút đi nhanh như điện xẹt khiến mặt nước vốn phẳng lì như gương ấy bất thần có một vòi nước to bằng ngón tay, từ dưới bay vọt lên cao gần một trượng kèm theo những bông nước trắng xóa, xem vô cùng ngoạn mục! Lữ Lân hết sức đắc ý, cất tiếng to cười ha hả, nói:
- Con tiện tỳ kia! Ngươi thấy rõ không nào? Hàn Ngọc Hà đứng bên kia núi, tựa hồ đang sửng sờ trước tuyệt nghệ của đối phương.
Nhưng cũng liền theo đó, nàng bất thần vung một bàn tay ra, để thẳng vào mặt nước, rồi lại hất tay lên. Thế là một cây nước từ dưới mặt biển liền bay vọt theo chưởng của nàng, đi đôi với tiếng ầm to, tựa hồ chính nàng đã thò tay vào mặt biển khoát lên vậy.
Hơn nữa cây nước ấy vừa bay vọt lên lại vừa uốn khúc uyển chuyển, trông chẳng khác cho con rồng thần đang từ mặt biển lướt lên vòm trời cao. Kế đó, cây nước lại tỏa rông ra và bắn tung lên rơi lả tả trở xuống, chẳng khác chi gió thổi hoa rơi.
Lữ Lân đứng bên này chân núi, trông thấy rất rõ ràng, nên không khỏi thầm kinh hãi.
Vì qua tài nghệ tuyệt vời ấy của Hàn Ngọc Hà, chứng tỏ về nội lực của nàng cũng đã tiến bộ đến mức cao cường tuyệt đỉnh.
Hàn Ngọc Hà gằn giọng nói:
- Tiểu tử hôi thối kia, ngươi có trông thấy rõ không nào? Lữ Lân không khỏi bừng bừng tức giận, vì vừa qua chàng không ngờ đối phương lại tiến bộ nhanh chóng về mặt võ công như thế, nên thế chỉ Nhất Trụ Kình Thiên của chàng vừa biểu diễn, chỉ mới vận dụng có bốn phần mười công lực, nên chỉ lực của chàng xem ra còn kém sút hơn Hàn Ngọc Hà.
Lữ Lân cất tiếng cười nhạt, nói:
- Con tiện tỳ kia, để rồi ta cho ngươi có dịp mở rộng tầm mắt đây! Nói đoạn, chàng bèn khom người nhặt một viên đá nhỏ, rồi thảy lên cao độ hai thước mộc, đoạn vung hai ngón trỏ và ngón giữa, nhanh như chớp kẹp lấy viên đá đang từ trên cao sa trở xuống qua thế Song Long Tráp Vân. Tức thì, sau một tiếng rắc, viên đá liền bị chỉ lực của chàng cắt đứt ra làm đôi, ngon lành như một lưỡi kéo thép! Tiếp đó Lữ Lân lại nhanh nhẹn thò tay ra, dùng ngón tay giữa búng hai lượt, gây thành tiếng kêu cạch, cạch, khiến hai viên đá ấy liền bay vèo về phía trước gần hai mươi trượng, lướt thẳng đến vách núi nơi Hàn Ngọc Hà đang đứng! Lữ Lân đã dùng chỉ lực búng hai viên đá nhỏ bay ra xa như vậy, thật sự đã là một chuyện mà ai nhìn đến cũng phải kinh tâm tán đởm! Nếu kẻ thù đứng cách của trong vòng năm sáu trượng, thì chắc chắn hai viên đá do chàng búng ra sẽ xuyên thủng qua thân người đối phương, hoặc sẽ gây trọng thương cho kẻ địch.
Lữ Lân sau khi búng hai viên đá nhỏ bay thẳng qua bên kia ngọn núi, liền cất tiếng to cười ha hả, rồi nói:
- Con tiện tỳ kia, võ học trong thiên hạ không có đâu là bờ bến, vậy có lẽ ngày hôm nay ngươi đã được biết rồi chứ? Ngụ ý qua lời nói ấy chính là chê cười Hàn Ngọc Hà có thái độ tự cao tự đại trước chưởng lực vừa rồi của nàng, và cho nàng chỉ là một con ếch ngồi đáy giếng! Trong lòng Hàn Ngọc Hà hết sức tức giận, nàng cười nhạt nói:
- Đấy chỉ là thứ trò chơi của trẻ con mà cũng dám mang ra khoe khoang với người! Lữ Lân nghe thấy thế lửa giận liền cháy bừng bừng, nói:
- Con tiện tỳ kia, nói thế thì ngươi còn có bản lãnh chi nữa? Hàn Ngọc Hà cất tiếng cười nhạt, nói:
- Bản lãnh của ta nếu nói cho một con người như ngươi nghe, thử hỏi làm sao hiểu được? Lữ Lân cất tiếng thét to, nói:
- Con tiện tỳ kia, ngươi có dám đánh nhau với ta không nào? Hàn Ngọc Hà đáp:
- Có chi lại không dám? Hai người vừa nói đến đây, thì bất ngờ đều ngửa mặt nhìn lên chót núi. Vì lúc ấy, ngay trước mặt họ, chính là một khoảng nước biển rộng gần hai mươi trượng, dù họ muốn đánh nhau cũng không làm sao đánh được.
Nhưng trên đầu họ, tức trên chót núi cao, lại có một cầu thiên nhiên bằng đá nối liền nhau.
Hai vừa đưa mắt nhìn lên, thì thoáng có ý nghĩ là chiếc cầu đá nối liền hai đỉnh núi ấy, chính là một địa điểm thực tốt để cho họ thi thố võ công đã trui luyện suốt hai năm qua.
Hàn Ngọc Hà lên tiếng trước tiên, nói:
- Tiểu tử thối kia, chúng ta sẽ gặp nhau trên chiêc cầu đá kia, vậy ngươi có dám không? Lữ Lân thầm nghĩ: "Võ công của Hàn Ngọc Hà tuy có tiến bộ vượt bực, song chắc chắn đây chỉ là một thứ võ công độc đáo chi khác mà Thiên Tôn Thượng Nhân đã để lại, nhưng võ công đó không làm sao sánh kịp với Kim Cang Thần Chỉ cả. Vậy nếu ta lên đấy gặp nàng, thì tất có thể đánh rơi nàng xuống biển, hầu kết liễu đi một giai đoạn cừu hận này!" Vì trong cơn nóng nảy nên Lữ Lân không hề chú ý đến bộ y phục sặc sỡ đủ màu sắc mà Hàn Ngọc Hà đang mặc trên người. Chắc chắn đấy không phải là bộ y phục mà trước đây Thiên Tôn Thượng Nhân đã mặc, trái lại nó phải là một bộ y phục có lai lịch khác hơn.
Chàng cất tiếng thét dài một lượt, nói:
- Được lắm, ngày chết của con tiện tỳ ngươi đã đến rồi! Dứt lời chàng liền quay lưng lại, và chỉ trong nháy mắt sau, đã vượt lên đến chân núi.
Tiếp đó, lại vận dụng chân khí trong người, nhắm ngay đỉnh núi lướt nhanh lên.
Bên kia ngọn núi, Hàn Ngọc Hà cũng đang sử dụng thân pháp lướt đi như bay. Chỉ trong nháy mắt, cả hai đã cùng một lúc vượt lên đến đỉnh núi! Suốt hai năm qua đây là lần đầu tiên Lữ Lân lên đến đỉnh núi cao này, và khi chàng đưa mắt nhìn chiếc cầu đá nối liền giữa hai ngọn núi, trong lòng không khỏi ớn lạnh! Thì ra chiếc cầy đá thiên nhiên ấy, đứng từ dưới nhìn lên, thấy nó rộng hơn một thước mộc, nhưng khi đến gần nhìn kỹ, vì nó hình ống, nên thực tế mặt của nó chỉ rộng trên nửa thước mộc mà thôi! Đứng từ trên cao nhìn xuống, tuy mặt biển phẳng lặng như gương, nhưng dù ai bạo dạn đến đâu, cũng không cảm thấy khiếp sợ trong lòng. Lữ Lân định thần nhìn về phía bên kia đầu cầu, trông thấy Hàn Ngọc Hà cũng đang đứng sững tại đấy.
Hai người đưa mắt nhìn nhau một lượt, và không ai chịu tỏ ra sợ hãi trước mặt đối phương, nên đưa chân bước thẳng về chiếc cầu ấy từng bước một.
Chẳng mấy chốc sau khoảng cách giữa hai người chỉ cỏn lại chừng một trượng nữa mà thôi. Hai người lại đưa mắt nhìn kỹ từ đầu đến chân đối phương và đều không khỏi giật mình, sửng sốt! Sau hai năm xa cách, từ dáng vóc đến diện mạo của hai người đều có sự thay đổi hết sức lớn lao. Lữ Lân vừa nhìn qua Hàn Ngọc Hà, thấy sắc mặt nàng tuy đang có vẻ tức giận, nhưng với đôi mày liễu thực cao, đôi mắt phượng sáng lóng lánh, da mặt trắng như ngọc, đôi cánh môi anh đào đỏ thắm, vẫn không làm thế nào che giấu được nét diễm kiều xinh đẹp của nàng! Hai năm qua, thân người của Hàn Ngọc Hà càng nảy nở đầy đặn, nên nét mặt xinh đẹp của cô gái càng rực rỡ hơn. Đồng thời, Lữ Lân cũng từ một cậu bé, đã trở thành một chàng thiếu niên, nên nhìn qua dung nhan của Hàn Ngọc Hà, trong lòng chàng không khỏi cảm thấy xao xuyến! Tâm trạng của Hàn Ngọc Hà lúc ấy thật ra cũng không khác chi Lữ Lân! Hàn Ngọc Hà làm sao có thể tưởng tượng được là sau hai năm, kẻ thù bất cộng đái thiên với mình lại trở thành một chàng thiếu niên khôi ngô, tuấn tú, đầy vẻ hào hoa như thế này! Chính vì lẽ ấy, nên nhất thời hai người đứng sừng sững trên chiếc cầu đá, đưa mắt nhìn chăm chú vào nhau, không ai lên tiếng gây sự hoặc ra tay xô xát trước cả.
Qua một lúc khá lâu, Hàn Ngọc Hà thầm mắng mình rằng: "Thế nào rồi? Không ra tay đánh nhau còn đứng đây làm chi nữa?" Nghĩ đến đây thì đôi má nàng bừng đỏ, vội vàng bước lui ra sau một bước, cất tiếng trong trẻo nạt to rằng:
- Tiểu tử thối kia, ngươi nhìn gì mà dữ thế! Sắc mặt của Lữ Lân cũng không khỏi bừng đỏ, hỏi vặn lại nàng:
- Nếu ngươi không nhìn ta, thì tại sao biết ta nhìn ngươi được? Hàn Ngọc Hà nghe Lữ Lân hỏi vặn như vậy, thì càng thẹn thuồng không tả xiết. Sau cùng, nàng mới to tiếng quát rằng:
- Hãy xem thế võ đây! Dứt lời nàng bên vung cánh tay mặt lên, công thẳng về phía Lữ Lân một chưởng.
Chiếc cầu đá ấy vốn rất hẹp, ngoại trừ nhảy lui ra sau để tránh là không bị nguy hiểm, bằng trái lại, nếu lách sang bên tả hay hũu thì đều có thể bị rơi xuống biển đầy đá ngầm mà chết mất mạng ngay.
Lữ Lân trông thấy Hàn Ngọc Hà ra tay tấn công mình trước, vội vàng nhảy lùi ra sau hai bước, rồi nhanh nhẹn vung một cánh tay lên, định dùng Kim Cang Thần Chỉ để nghênh địch, Nhưng trong giây phút ngắn ngủi ấy, chàng bỗng nhìn thấy trên mặt cầu đá, về phía trước mình độ năm sáu thước mộc có trên dưới mười cái dấu chân in sâu vào mặt đá! Bao nhiêu ý nghĩ dồn dập trong đầu óc của Lữ Lân. Chàng nhớ đến những dòng chữ lưu lại trên vách đá, viết bằng Kim Cang Thần Chỉ của Thiên Tôn Thượng Nhân, chứng tỏ sau khi ông trui luyện thành công thứ chỉ lực đó, thì đã đi tìm ngay một người để giao tranh, hầu định rõ tài cao thấp.
Nhưng người đó là ai, thật sự Lữ Lân không làm sao hiểu được. Tuy nhiên, qua những dấu chân còn lưu lại trên mặt cầu giờ đây Lữ Lân đoán biết chắc chắn trước đây Thiên Tôn Thượng Nhân và người ấy cũng đã giao tranh trên chiếc cầu đá thiên nhiên này.
Khi chàng nghĩ đến đó, thì chân lực vốn đã dồn tại đôi tay cũng liền được giữ lại, chưa vội đánh ra, quát to rằng:
- Hãy chậm đã! Thế chưởng của Hàn Ngọc Hà hết sức nhanh nhẹn và mãnh liệt. Khi cánh của tay nàng vừa quét ra thì một luồng kình lực âm nhu cũng theo đó cuốn tới, nhắm thẳng vào người Lữ Lân.
Lữ Lân vì bất ngờ nhìn thấy những dấu chân in trên mặt đá, nên đang kinh ngạc đứng yên, chưa vội vung chỉ phản công.
Giữa các cao thủ đánh nhau, thử hỏi đâu cho phép cớ sự chậm trễ, dù sự chậm trễ ấy chỉ là một thoáng chốc? Bởi thế, ba tiếng "hãy chậm đã" của chàng vừa thốt ra khỏi miệng, thì luồng chưởng lực của Hàn Ngọc Hà đã quét tới nơi! Lữ Lân không khỏi kinh hoàng và trong lòng hết sức tức giận, nhanh nhẹn dồn chân khí xuống nửa chân dưới để giữ vững đôi chân, trong khi hai cánh tay đã nhanh nhẹn vung ra dùng thế Nhất Trụ Kình Thiên và Tam Hoàn Sắc Nguyệt đánh ra tới tấp, khiến hai luồng chỉ phong mạnh mẽ, rít nghe vèo vèo, bắn thẳng về phía chưởng lực của Hàn Ngọc Hà! Hai luồng kình lực va chạm vào nhau giữa khoảng không gây nên một tiếng nổ vang rền, khiến thân người của Hàn Ngọc Hà và Lữ Lân đều không ngớt dao động. Nhưng cũng may là họ đều dồn chân lực giữ vững đôi chân trước, nên sau những lần chao động dữ dội, liền đứng yên lại ngay, không hề bị hất rơi xuống biển.
Lữ Lân hừ lên một tiếng và đưa chân bước thẳng về phía trước một bước.
Hai người tuy mới đánh nhau qua một thế võ, nhưng họ đều đoán biết được rất rõ là sau hai năm xa cách, đối phương đã khắc khổ trui rèn võ học, nên đã tiến bộ vượt bực và chắc chắn tài nghệ giữa đôi bên ngang ngửa suýt soát nhau như xưa mà thôi.
Hàn Ngọc Hà sau khi thu thế chưởng trở về, cũng nhanh nhẹn tràn về phía trước một bước, quát rằng:
- Tiểu tử kia, có phải là ngươi đã sợ hãi rồi chăng? Ngươi bằng lòng chịu thua chưa? Lữ Lân cất tiếng cười ha hả, nói:
- Con tiện tỳ không biết sĩ diện kia! Hiện nay ta đã luyện được Kim Cang Thần Chỉ, một thứ võ công khoáng cổ tuyệt kim, vậy chả lẽ còn sợ nữa sao? Hàn Ngọc Hà nghe thế, thì dường như hơi giật mình, nhưng liền giữ bình tĩnh, nói:
- Kim Cang Thần Chỉ mà có chi gọi là lợi hại? Chả lẽ nó sánh kịp với Thái Âm Chưởng của ta sao? Lữ Lân nghe qua cũng không khỏi sửng sốt. Chàng thầm nghĩ: "Thảo nào chưởng pháp của cô ta hết sức kỳ tuyệt, chưởng lực lợi hại vô cùng, vừa kín đáo lại vừa mềm dẻo. Thì ra trong vòng hai năm qua cô ta đã rèn luyện thành công Thái Âm Chưởng Pháp, một thứ chưởng pháp rất khó rèn luyện, và chỉ có nữ phái rèn luyện được mà thôi. Nghe đâu Thái Âm Chưởng Pháp khi đánh ra thì gây thành một luồng chưởng thuần âm rất mạnh mẽ, không kém sút hơn Ban Nhược Thần Chưởng của Phật môn. Như vậy với Kim Cang Thần Chỉ của mình có lẽ chỉ đánh nhau tương đương với đối phương mà thôi, và do đó, ta muốn thủ thắng được nàng, thực là khó khăn. Hơn nữa đôi bên chọn địa điểm như đầy nguy hiểm như thế này để giao tranh, vậy chắc chắn kết quả sẽ đưa đến đôi bên cùng chết mất mạng như nhau mà thôi!" Vì nghĩ thế nên sau giây phút sửng sờ, Lữ Lân định lên tiếng giãi bày hơn thiệt cùng đối phương, thì Hàn Ngọc Hà đã lên tiếng nói trước rằng:
- Nếu ngươi đã sợ hãi, thì ngươi hãy quỳ xuống chiếc cầu đá này lạy ta ba lạy, thì ta sẽ tha cho ngươi! Lữ Lân nghe thế, bèn hứ một tiếng, nói:
- Nếu ngươi bằng lòng lạy ta ba lạy, thì ta cũng sẽ tha cho ngươi vậy! Hai người đều ăn miếng trả miếng với nhau, không ai chịu nhân nhượng ai cả! Đôi mày liễu của Hàn Ngọc Hà khẽ nhướng cao, đôi chân cũng liền nhanh nhẹn tràn về phía trước. Trong khi đó, Lữ Lân cũng không chịu thua, lướt thẳng về phía nàng! Thân pháp của hai người đều hết sức nhanh nhẹn, nên chỉ trong chớp mắt là đôi bên chỉ còn cách nhau không hơn năm thước mộc nữa.
Hàn Ngọc Hà bèn vung tay lên thành một cái vòng bán nguyệt, rồi xô mạnh đơn chưởng về phía trước nghe một tiếng vút! Lữ Lân biết Hàn Ngọc Hà đã luyện được Thái Âm Chưởng Pháp, nên muốn thủ thắng được đối phương tất không thể dùng lối đánh thông thường mà phải đánh mạo hiểm bất ngờ, mới có thể thủ thắng được.
Do đó khi trông thấy Hàn Ngọc Hà vung chưởng đánh ra, chẳng những chàng không nhảy lui để tránh mà cũng không vung tay đánh trả, trái lại còn giả vờ như hành động chậm hơn đối phương một bước.
Thái Âm Chưởng là một thứ chưởng lực lợi hại bậc nhất, dùng luồng sức mạnh âm nhu làm căn bản. Trong khi Lữ Lân giả vờ hành động chậm chạp hơn đối phương, thì chàng đã có sự chuẩn bị đối phó rất độc đáo, dồn chân lực kềm cứng đôi chân trên chiếc cầu đá, khiến thân người vững vàng như Thái Sơn. Nhưng khi luồng chưởng phong từ bàn tay của Hàn Ngọc Hà cuốn tới, chàng cảm thấy khắp châu thân mình như bị một thứ sức mạnh vô hình kéo về bốn phương tám hướng. Như vậu nếu tâm thần của chàng bị phân tâm để sơ hở một tí, tất chàng sẽ bị sức mạnh ấy kéo mạnh sang một bên, và chắc chắn hậu quả sẽ tai hại chẳng biết đâu mà lường! Bởi thế, Lữ Lân thầm kêu lên rằng: "Chưởng pháp quả hết sức lợi hại!" Trong khi đó, nửa thân trên của chàng không ngớt chao động, nhưng đôi chân thì vẫn bám cứng trên mặt cầu.
Hàn Ngọc Hà trông thấy Lữ Lân không ra tay phản công, thì hoang mang không biết đối phương định giở trò gì, nhanh nhẹn đưa chân tràn tới, vung chưởng công thêm một thế võ vào người Lữ Lân. Thế chưởng ấy vừa nhẹ nhàng, vừa nhanh nhẹn, nhưng kình lực đã cuốn tới như vũ bão.
Lữ Lân chờ cho cánh tay của Hàn Ngọc Hà vừa xô tới, và khi đà xô đã mãn, bất thần vung tay ra, dùng thế Tam Hoàn Sắc Nguyệt đánh ra, khiến ba đạo chỉ phong liền rít nhắm vào ba huyệt đạo Dương Khê, Dương Kỷ và Dương Cốc trên cổ tay của Hàn Ngọc Hà điểm tới.
Lữ Lân đã rèn luyện thành công Kim Cang Thần Chỉ, nên chỉ lực của chàng đánh ra hết sức mãnh liệt, dù cho là cách không điểm huyệt, nhưng nếu đối phương võ công kém sút vẫn bị hại ngay.
Hàn Ngọc Hà lúc ấy mặc dù công lực cũng suýt soát nhau với Lữ Lân, song vì Lữ Lân vung chỉ điểm ra, đầu ngón tay của chàng chỉ còn cách cổ tay nàng không hơn nửa thước mộc, nên lúc ba đạo chỉ phong cuốn tới, Hàn Ngọc Hà liền cảm thấy cổ tay mình đã bị tê buốt ngay! Hàn Ngọc Hà vốn cho rằng Thái Âm Chưởng Pháp mà mình đã luyện được chính là một môn võ công cái thế vô song, khi tập trung hết chân lực trong người vung chưỏng đánh ra, thì luồng chưởng phong chẳng khác chi một vật hữu hình, chận đứng được cả chưởng phong hoặc binh khí của đối phương đang công tới.
Nhưng nàng nào có biết Thái Âm Chưởng Pháp và Kim Cang Thần Chỉ chính là hai thứ võ công mà luồng sức mạnh trái ngược nhau. Một bên hoàn toàn sử dụng luồng sức mạnh Dương Cang, còn một bên lại dùng luồng sức mạnh Âm Nhu. Hai luồng sức mạnh ấy tương sinh tương khắc, và biến hóa vô cùng tận.
Khắp trong thiên hạ chỉ có hai thứ võ công là Ban Nhược Thần Chưởng của Phật môn và Kim Cang Thần Chỉ mới có thể chống trả nổi với Thái Âm Thần Chưởng mà thôi. Ngược lại, đối với Ban Nhược Thần Chưởng và Kim Cang Thần Chỉ, thì cũng chỉ có Thái Âm Chưởng mới đủ sức đương đầu.
Hàn Ngọc Hà khi vung chưởng công về phía đối phương, thực không làm sao ngờ được Lữ Lân lại dùng một lối đánh hết sức mạo hiểm, nên mãi đến lúc luồng chỉ phong của Lữ Lân quét tới, khi nàng hay được thì cổ tay mình bị tê buốt rồi! Hàn Ngọc Hà liền buông thõng cánh tay xuống, không còn tự chủ được nữa! Hàn Ngọc Hà là một cô gái tính tình nóng nảy, mặc dù trong hai năm ở một mình trên hoang đảo, nhưng nàng vẫn không hề thay đổi được cá tính đó. Bởi thế, khi thấy vừa ra tay đánh nhau thì đã bị lầm mưu đối phương ngay, nên trong lòng hết sức tức giận.
Vì thế nàng nhanh nhẹn vung cánh tay trái lên quét thẳng về phía vai của Lữ Lân một chưởng. Thế chưởng ấy chính là thế Ngọc Thố Đảo Dược trong Thái Âm Chưởng Pháp. Thái Âm Chưởng gồm có tất cả chín thế, và trong chín thế đó, chỉ có Ngọc Thố Đảo Dược là dùng tay trái mà thôi.
Hơn nữa vì Thái Âm Chưởng Pháp lấy luồng âm lực làm căn bản, nên rất thuận tay trái.
Do đó, thế Ngọc Thố Đảo Dược thật ra là một thế tuyệt kỹ trong Thái Âm Chưởng Pháp.
Lúc bấy giờ hai người đứng rất gần nhau, nên Hàn Ngọc Hà vừa vung chưởng quét tới thì luồng chưởng lực âm nhu cũng giáng trúng thẳng vào bả vai của Lữ Lân ngay! Tuy Lữ Lân đã đề phòng trước, lúc nào cũng dồn chân lực xuống đôi chân, đứng vững trên chiếc cầu đá, song vì luồng chưởng lực ấy quá mãnh liệt, nên vừa bị đánh trúng vai là chàng bị đẩy ra sau một bước! Trong giây phút ngắn ngủi đó, Lữ Lân đã dùng thế võ thứ ba vung chỉ điểm tới. Thế võ ấy chính là thế Thập Diện Mai Phục, nên luồng chỉ phong liền bay tới điểm trúng thẳng vào Âm Cốc huyệt, chỗ nhượng của Hàn Ngọc Hà ngay.
Tuy giữa hai người không ai chiếm được ưu thế hơn ai cả, song vì địa điểm của họ đang giao tranh không phải đất bằng, mà trái lại, chính là trên một chiếc cầu đá vắt ngang hai ngọn núi bề rộng không quá nửa thước. Như vậy là Hàn Ngọc Hà đã bị thiệt thòi hơn đối phương rồi.
Lữ Lân mặc dù bị luồng chưởng phong âm nhu của nàng hất bay ra sau, song dù bị đẩy lui, thân người của Lữ Lân vẫn còn đứng vững được trên chiếc cầu đá. Trái lại khi Âm Cốc huyệt nơi nhượng của Hàn Ngọc Hà bị trúng luồng Kim Cang Thần Chỉ, thì nguyên bên chân trái của nàng liền tê dại. Âm Cốc huyệt là một huyệt đạo lệ thuộc vào Thủ Túc Âm Kinh nên cả thân người nàng cũng liền nghiêng hẳn về phía phải, loạng choạng như sắp rơi thẳng xuống biển đầy đá ngầm! Trong khi sự việc diễn biến cho Hàn Ngọc Hà như thế thì Lữ Lân cũng bị hất lui ra sau.
Do đó khi Lữ Lân vừa nhìn thấy thân người của Hàn Ngọc Hà nghiêng về một phía, trong lòng không khỏi kinh hoàng! Nếu Hàn Ngọc Hà trật chân rơi thẳng xuống biển, thì chắc chắn không thể sống sót được. Như vậy đáng lý ra Lữ Lân phải lấy đó làm chuyện toại nguyện mới phải. Nhưng không hiểu sao trong giây phút tối nguy hiểm đó, Lữ Lân đã nhanh nhẹn lao thoắt về phía Hàn Ngọc Hà, thò tay chụp chân trái giữ nàng lại. Nhờ thế Hàn Ngọc Hà đã gượng giữ thăng bằng được, không bị rơi thẳng xuống mặt biển. Sở dĩ Lữ Lân hành động như vậy là có ý muốn cứu nguy cho Hàn Ngọc Hà, nhưng chính chàng cũng không hiểu vì đâu mình lại làm như thế.
Giữa hai người vốn có một mối thù sâu sắc, gần như không đội trời chung. Hành động ấy của Lữ Lân đường khiến cho Hàn Ngọc Hà không sao ngờ đến được.
Lúc ấy vì Hàn Ngọc Hà đang lâm vào cảnh tối nguy hiểm, hơn nữa vì nàng bị bại dưới tay đối phương, nên lửa giận đang cháy bừng bừng, chẳng còn có sự xét đoán sáng suốt nữa.
Khi trông thấy Lữ Lân vừa lao về phía nàng, sợ Lữ Lân có ác ý, định xô bồi nàng xuống mặt biển nhanh hơn. Bởi thế nàng không cần nghĩ ngợi nhiều, vung chưởng dùng thế Bích Hải Thanh Thiên quét ngang ra nhanh như gió thổi! Thế chưởng ấy của Hàn Ngọc Hà vừa đánh ra thì nàng mới kịp thấy Lữ Lân thò tay chụp chân trái của mình giữ lại, với ý định giúp mình lấy lại thăng bằng, nên trong lòng kinh hãi. Nhưng vì thế chưởng ấy là một thế chưởng được dốc hết toản lực quét ra, dù muốn thu trở về cũng không còn kịp được nữa.
Bởi thế liền nghe Lữ Lân cất tiếng thở dài buông lỏng năm ngón tay đang chụp cổ chân trái của nàng ra, và thân người bị hất ra xa ngay tức khắc.
Hàn Ngọc Hà nhờ Lữ Lân kéo mạnh chân trái, nên đã được thăng bằng đứng vững vàng trở lại trên chiếc cầu đá. Trong lúc ấy lòng nàng cảm thấy hết sức hối hận trước thế chưởng vừa rồi.
Nàng vội vàng cúi đầu nhìn về phía mặt biển, nhưng vẫn không thấy hình bóng của Lữ Lân đâu cả. Bởi thế nàng hết sức kinh dị. Vì chả lẽ chỉ trong chớp mắt mà Lữ Lân đã bị vùi thây vào giữa dòng nước xanh biếc rồi hay sao? Khi nàng nghĩ đến việc đó, lòng rộn lên niềm đau xót. Tất cả những điều tị hiềm, oán hận đối với Lữ Lân từ trước đến giờ tự nhiên tiêu tán ngay.
Giữa lúc Hàn Ngọc Hà đang bàng hoàng chua xót, thì bất ngờ nàng nhìn thấy có hai cánh tay đang ôm choàng chiếc cầu đá.
Hàn Ngọc Hà hết sức vui mừng, vội vàng khom người nhìn xuống, thấy rõ ràng đấy là hai cánh tay của Lữ Lân đang giữ chặt chiếc cầu, trong khi thân người đang treo lơ lửng ở phía dưới. Trước mặt và sau lưng của Lữ Lân là một khoảng không rộng đến gần mười trượng, và ở dưới chân là một vùng biển lởm chởm đầy đá ngầm.
Thì ra vừa rồi Lữ Lân bị chưởng lực Hàn Ngọc Hà quét trúng vào người đã bị hất bay ra khỏi chiếc cầu đá ngay. Nhưng cũng may Lữ Lân là người có một trình độ nội công cao cường, kịp thời vận dụng chân khí bay vọt trở lên cao hai thước. Tuy nhiên lúc ấy chàng không thể vượt lên chiếc cầu đá, mà chàng đã kịp thời thò tay chụp trúng thân cầu rồi treo lủng lẳng giữa khoảng không.
Trong lòng chàng thật ra hết sức căm tức, về chỗ tại sao mình lại đi cứu nguy cho Hàn Ngọc Hà. Kịp khi chàng nghe tiếng kêu kinh hoàng của Hàn Ngọc Hà ở bên trên và một lúc sau vẫn thấy Hàn Ngọc Hà không có hành động chi nhằm sát hại mình, thì chàng mới nhận biết thế chưởng ấy của Hàn Ngọc Hà chính là vì nàng hiểu lầm dụng ý của mình khi tràn tới nên mới ra tay phản công như vậy.
Khi Lữ Lân nghĩ đến đó, trong lòng chàng tự nhiên thấy sẵn sàng tha thứ cho Hàn Ngọc Hà.
Chàng lại thấy Hàn Ngọc Hà khom người nhìn xuống rồi bốn mắt gặp nhau, tâm trạng của hai người lúc này thực rối rắm, không làm thế nào hiểu được họ đang suy nghĩ gì. Bởi thế đôi bên cứ đưa mắt nhìn chăm chú vào đối phương. Qua một lúc lâu, Hàn Ngọc Hà mới lên tiếng nói:
- Tiểu tử kia, tại sao ngươi lại cứu ta! Lữ Lân liền đáp:
- Con tiện tỳ kia, tại sao ngươi không đánh tiếp cho ta rơi xuống biển? Lúc ấy nếu Hàn Ngọc Hà muốn đánh bồi thêm để chàng rơi xuống biển thì thực dễ dàng như trở bàn tay. Nhưng Hàn Ngọc Hà vừa nghe qua lời nói ấy, đôi mắt liền đỏ hoe, hỏi:
- Tại sao ta phải đánh ngươi rơi xuống biển? Vừa rồi... ta tưởng ngươi đã rơi vào dòng nước sâu chết rồi, nên trong lòng ta hết sức đau khổ! Lữ Lân nghe thế liền cười, nói:
- Con tiện tỳ kia, tại sao ngươi lại lạ thế? Hàn Ngọc Hà cất giọng giận dỗi trách rằng:
- Tiểu tử kia, ngươi.. ngươi còn gọi ta như vậy hay sao? Vì đâu chưa chịu nhảy lên, bộ đeo lủng lẳng như thế mát lắm sao? Lữ Lân nói:
- Ngươi không tránh ra xa, thì ta làm thế nào lên được? Trong khi hai người đối đáp với nhau, tuy không ai nhân nhượng ai, nhưng thái độ không còn đối nghịch nhau như trước đây nữa.
Hàn Ngọc Hà đang cúi người nhìn xuống Lữ Lân, nên khuôn mặt hai người kề gần nhau, do đó đôi bên ngửi thấy được hơi thở của nhau, song họ vẫn tự nhiên, không cảm thấy khó chịu gì cả.