LTS: Tiền Phong trích giới thiệu bộ tài liệu mật do Trung tâm Nghiên cứu Tình báo Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), giải mật hôm 17/3 vừa qua nói về cơn hấp hối của Chính quyền Sài Gòn và những nỗ lực tuyệt vọng của CIA và Đại sứ Mỹ khi cố ngăn chặn kết cục cay đắng cho nước Mỹ, trong những ngày cuối cùng tại Sài Gòn.
Ngày 17/3 vừa qua (theo giờ Việt Nam) tại Texas, Trung tâm Nghiên cứu Tình báo thuộc Cục Tình báo T.Ư Mỹ (CIA) vừa giải mật thêm sáu phần của bộ tài liệu mật (có số hiệu C01268717, C01268718, C05260525, C05260526, C053603948 và C05303949 với tổng cộng 1.642 trang) cung cấp chi tiết việc nhúng tay vào các lĩnh vực của CIA tại Việt Nam, Campuchia và Lào suốt những năm từ 1960 đến 1975.
Sử gia Thomas Ahern - cựu sĩ quan CIA trong 35 năm, về hưu năm 1989, từng có năm nhiệm kỳ hoạt động cho CIA tại châu Á, trong đó có Đông Dương và từng giữ chức Trưởng Văn phòng CIA tại châu Phi, Trung Đông và châu Âu - là tác giả bộ tài liệu mật này.
Ghi chú rằng “bộ tài liệu sáu phần này chỉ phân tích trên quan điểm cá nhân chứ không đại diện cho quan điểm tổng hành dinh CIA hay bất cứ bộ phận nào của cơ quan tình báo này” nhưng, trên cơ sở tài liệu gốc (lưu trữ tại tổng hành dinh CIA) về hoạt động của Văn phòng CIA ở Sài Gòn trong cuộc chiến tranh Việt Nam và các cuộc phỏng vấn các nhân viên then chốt của CIA từng tham chiến ở Việt Nam, Thomas Ahern tái hiện khá trung thực và đưa ra những phân tích sắc sảo đối với hoạt động của CIA tại Nam Việt Nam.
Bộ tài liệu được Giám đốc Trung tâm Việt Nam học (thuộc ĐH Công nghệ Texas) đánh giá thuộc loại “lâu nay người ta chỉ được thấy trong tiểu thuyết hoặc phim tình báo, song nó hoàn toàn là sự thật sau khi được giải mật”.
Kỳ I: Sai lầm
Những căn cứ cho thấy kết cục bi thảm chắc chắn sẽ xảy ra đối với quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và việc thất thủ Phước Long (ngày 6/1/1975), Ban Mê Thuột (ngày 12/3/1975), dồn dập xảy ra khiến các nhân viên CIA ở Văn phòng Sài Gòn bứt rứt khó chịu và không khí ấy ngày càng lan rộng.
Dự đoán của trùm CIA ở Sài Gòn Thomas Polgar đưa ra trong báo cáo ngày 26/2/1975 về sự tấn công hạn chế của quân đội Bắc Việt vào mùa xuân (Polgar và Tổng hành dinh CIA đều nhận định Bắc Việt sẽ tấn công vào mùa hè năm 1975 và kéo dài sang năm 1976 để gây áp lực lên cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ) là hoàn toàn sai lầm.
Ngày 10/3, quân đội Bắc Việt tấn công Ban Mê Thuột, Plâyku cũng bị đe dọa. Donald Nicol, trưởng biệt đội CIA đồn trú tại đây, viết trong báo cáo hàng ngày về Văn phòng CIA Sài Gòn rằng “tất cả đổ sụp trong một đêm”.
Ngày 12/3/1975, pháo cao xạ của Bắc Việt bắn hạ một máy bay DC-4 của VNCH ngay ngoại ô Plâyku. Nhưng Nicol không hề nhận được bất cứ phản ứng nào từ Văn phòng CIA Sài Gòn về thông tin trong báo cáo của mình về tình hình xấu đi của quân lực VNCH tại Plâyku, cũng như không hề nhận được yêu cầu hoặc hướng dẫn về khả năng di tản.
Ông ta buộc phải tham khảo ý kiến của Robert Chin, trưởng bộ phận CIA đóng tại Nha Trang. Ngày 13/3, một ngày trước khi Nicol đáp máy bay về Nha Trang, ông ta triệu tập một cuộc họp của tất cả sĩ quan Mỹ đang có mặt tại Plâyku và tất cả đều thấy rõ mối hiểm nguy về cuộc tấn công quy mô của quân đội Bắc Việt.
Cuộc họp quyết định một cuộc di tản bằng đường hàng không cho những người đang phục vụ trong quân đội VNCH có nguy cơ bị trả thù. Đại tá Lê Khắc Lý, tham mưu trưởng Vùng 2 chiến thuật, làm ngắt quãng cuộc họp bằng cú điện thoại cho Nicol để thông báo tình trạng quân đội VNCH ở Plâyku rất tồi tệ và yêu cầu người Mỹ phải rời khỏi đây ngay.
Đại tá Lý cũng nhắc đến việc tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Vùng 2 Chiến thuật, sẽ có mặt trong cuộc họp khẩn với Tổng thống Thiệu vào ngày hôm sau tại Cam Ranh. Lý thông báo rằng một kế hoạch hành binh bí mật của tướng Phú đòi hỏi ông ta phải có mặt ở Qui Nhơn, và Lý cam đoan rằng, Nicol sẽ được giải thích rõ hơn khi tướng Phú trở lại Plâyku.
Nicol lập tức báo với chi nhánh CIA tại Nha Trang về những tin mật vừa thu thập được nêu trên. Ngày 14/3, khi chuẩn bị rời Plâyku, Nicol nhận được tin từ bộ phận CIA tại Nha Trang rằng đơn vị đồn trú tại Qui Nhơn đã xác minh tin của Nicol.
Mặc dù nhân viên CIA ở đó không trực tiếp thấy bóng dáng tướng Phú, nguồn tin của họ quả quyết rằng tướng Phú đã đến chỉ huy sở của một sư đoàn quân VNCH đồn trú tại Qui Nhơn.
Vài ngày sau, khi Nicol rời Plâyku, một nhân viên CIA là Fred Stephens đã viếng thăm tổng hành dinh Vùng 2 chiến thuật với hy vọng thu thập được tin tức về cuộc họp của tướng Phú tại Cam Ranh. Stephens gặp đại tá Lý nhưng Lý không đủ thời giờ để thuật lại sự kiện cuộc họp đó vì ngay lúc ấy Tướng Phú bước vào.
Stephens nhận thấy Tướng Phú có vẻ hoảng sợ, nhưng ông ta cũng không hề nhắc đến cuộc họp ở Cam Ranh. Stephens nhận định rằng, chỉ việc bầu đoàn quân đội VNCH tháo chạy khỏi Cao nguyên đã đủ khiến Tướng Phú run rẩy. Vậy là Stephens tay trắng khi rời bộ chỉ huy Vùng 2 chiến thuật.
Sáng hôm sau ông ta nhận ra rằng những chiếc máy bay chiến đấu bình thường vẫn đậu ở sân bay Plâyku đã biến mất. Stephens cũng chứng kiến cảnh tháo chạy hỗn loạn của binh lính ở ngay tại tổng hành dinh Vùng 2 chiến thuật. Stephens mất đứt một tiếng rưỡi đồng hồ trước khi đến được phòng của đại tá Lý.
Lý kéo Stephens ra khỏi phòng và không giấu giếm rằng Tổng thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú rút lui khẩn cấp, bỏ ngỏ Plâyku và Kontum cho Bắc Việt.
Trong trường hợp này Lý dứt khoát phải nghe theo chỉ huy của mình và giấu quyết định này với người Mỹ. Chia tay Lý, Stephens báo cáo tóm tắt tình hình ngay với Earl Thieme, trưởng phái bộ cố vấn Mỹ ở Vùng 2 chiến thuật, và ông này lập tức điện thoại tới Tướng Phú.
Ông Phú thừa nhận với Thieme những mối đe dọa với tổng hành dinh quân đoàn 2 của ông ta, nhưng không thừa nhận có lệnh rút lui khỏi Plâyku và Kontum. Tuy nhiên Tướng Phú nhắc lại đề nghị mà đại tá Lý đã đưa ra rằng người Mỹ nên rời khỏi Plâyku ngay.
Stephens chắp nối thêm thông tin này vào báo cáo tình báo của ông ta gửi về Văn phòng CIA tại Sài Gòn với đề xuất: Tất cả người Mỹ buộc phải di tản lập tức! Nhưng trùm CIA tại Sài Gòn Polgar vẫn tỏ ra nghi ngờ về bản báo cáo. Trong khi đó Robert Chin đã mất hai nhân viên người Mỹ trong Vùng 2 chiến thuật nên Chin cùng với Moncrieff Spear, Tổng lãnh sự Mỹ tại Nha Trang, thuyết phục Polgar rằng nhân viên Sứ quán Mỹ được phép di tản tất cả người Mỹ khỏi Plâyku và Kontum.
Chin quyết định trưng dụng máy bay vận tải của hàng không Mỹ và chiếc máy bay đầu tiên đáp xuống Plâyku ngay chiều hôm đó. Stephens và hầu hết cộng sự của ông ta cùng với những cố vấn Mỹ khác lập tức lên chuyến bay đó.
Riêng viên sĩ quan truyền tin của Stephens đồng thời là nhân viên của Nha An ninh Quốc gia VNCH tại Plâyku lại năn nỉ đòi đợi đi chuyến bay thứ hai theo kế hoạch mà người Mỹ đã hứa và ấn định.
Rời Plâyku ngay chiều hôm ấy, cả toán nhân viên CIA đáp xuống Nha Trang cùng với tất cả vũ khí, điện đài, máy truyền tin mã hóa và quân phục nai nịt trên người. Ngay sáng hôm sau, từ trên máy bay Conrad LaGueux, Phó Văn phòng CIA Sài Gòn tận mắt chứng kiến (và chụp ảnh) cuộc tháo chạy hỗn loạn và thê thảm của quân đội VNCH khỏi Cao nguyên trên tuyến đường từ Plâyku về Phú Bổn.
Kỳ II: Đổ lỗi
“Hiện nay ở Nam Việt Nam, có vẻ như là Bắc Việt sẽ không mở một cuộc tấn công ồ ạt, toàn quốc với mức độ như hồi năm 1972”-Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Schlesinger tuyên bố ngày 14/1/1975 sau khi Phước Long thất thủ.
Báo cáo gửi CIA Mỹ và Kissinger của trùm CIA ở Sài Gòn Thomas Polgar (ngày 26/2/1975) cũng kết luận: “Cộng sản Bắc Việt sẽ không mạo hiểm đánh một canh bạc được ăn cả, ngã về không là tổng tấn công miền Nam Việt Nam năm 1975”.
Thất thủ cao nguyên, CIA đổ lỗi cho tướng lĩnh Sài Gòn
Trong khi Stephens và cộng sự lên máy bay rời Plâyku thì Polgar, Trưởng Văn phòng CIA Sài Gòn, lại soi xét các báo cáo để cố xác minh chính xác ý định của quân đội VNCH đối với vùng cao nguyên.
Liên lạc với tướng Đặng Văn Quang (cố vấn an ninh của Tổng thống Thiệu) và tướng Lê Nguyên Khang (phụ tá hành quân của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH), Polgar cùng nhận được câu trả lời: không biết gì về quyết định triệt thoái quân đội VNCH khỏi cao nguyên.
Tướng Khang nói với Polgar rằng vừa gặp tướng Cao Văn Viên buổi sáng, và tướng Viên nói rằng chẳng có vấn đề gì cả. Quyền trưởng Phái bộ Mỹ tại Sài Gòn, Wolfgang Lehmann, cũng nói với Polgar là vừa gặp Tổng thống Thiệu lúc 9 giờ sáng - có lẽ lúc ấy báo cáo của Stephens về cuộc họp ở Cam Ranh chưa đến tay Polgar - và ông Thiệu không nhắc gì đến chủ đề này.
Do vậy Polgar suy đoán rằng ông Thiệu có thể đã định chuẩn y về nguyên tắc kế hoạch của tướng Phú là di tản khỏi Plâyku và Kontum để tập trung binh lực nhằm phản công giành lại Ban Mê Thuột. Với cách giải thích này thì tướng Phú đã hiểu sai và hành động hấp tấp dẫn đến hậu quả thê thảm.
Về việc Chính quyền Sài Gòn không hề có động tác thông báo cho Phái bộ Mỹ, Polgar cho rằng không thể xảy ra việc rất nhiều đầu mối của Phái bộ Mỹ biết mà lại cố tình lờ đi. Nhận định của Polgar là thực sự họ không hề biết điều mà tướng Phú đưa ra trong kế hoạch.
Nhưng sau đó, ngày 17/3/1975, tướng Cao Văn Viên trả lời cơ quan tùy viên quân sự Mỹ một sự thật rằng việc triệt thoái quân khỏi cao nguyên đã được thực hiện.
Trưởng cơ quan tùy viên quân sự Mỹ, tướng Homer Smith chất vấn tướng Viên vì sao nói không có chuyện gì khi hai người gặp nhau tại cuộc họp ở Cam Ranh ngày 14/3, thì ông Viên đáp: “Tôi không có sự lựa chọn nào khác, Tổng thống Thiệu trực tiếp ra lệnh và không cho để lộ quyết định”.
Cuộc rút chạy khỏi Plâyku của quân lực VNCH buộc CIA tại Sài Gòn lo ngại một cuộc tấn công mở rộng về phía nam của quân đội Bắc Việt. Ngày 14/3, trong khi ông Thiệu họp kín với các tướng lĩnh tại Cam Ranh, Polgar đã đánh giá được chuyện Ban Mê Thuột thất thủ và áp lực của quân đội Bắc Việt đang tăng rất cao ở Tây Ninh.
Polgar cho rằng cuộc khủng hoảng của VNCH lúc này là tồi tệ nhất kể từ năm 1965 (sau khi quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam), vì thế ông ta báo cáo về tổng hành dinh CIA ở Langley rằng tình hình ác liệt hơn cả hồi mùa hè năm 1972.
Sau đó, tướng Quang báo với Tổng thống Thiệu chuyện chưa từng xảy ra là “quân đội chán nản, thậm chí tuyệt vọng”, còn tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, nhận định, việc mất cao nguyên là sự tàn phá tâm lý ghê gớm đối với binh sĩ VNCH.
Sự sụp đổ cực kỳ nhanh chóng của quân lực VNCH không chỉ bởi sức mạnh tổng tấn công của quân đội Bắc Việt, mà còn vì lý do VNCH bỏ ngỏ trận địa cho bộ đội Bắc Việt.
Với việc cả Vùng chiến thuật 1 và 2 đều nằm trọn trong tay quân đội Bắc Việt, Văn phòng CIA Sài Gòn gửi báo cáo về Mỹ và muốn tổng hành dinh CIA hiểu rằng, thảm họa này hoàn toàn là do ông Thiệu quyết định ngược đời và sự kém cỏi của các tướng lĩnh dưới quyền ông ta.
Các tướng lĩnh vừa kém năng lực chỉ huy, vừa kém đạo đức, vô kỷ luật, ích kỷ.v.v... và .v.v...Thủ tướng Trần Thiện Khiêm liên đới trong chuyện này chỉ là việc phải tìm bằng được một kẻ giơ đầu chịu báng. Lúc này người Mỹ bắt đầu phàn nàn về VNCH như là “đứa con ngoài giá thú” của Quốc hội Mỹ, gây phiền toái và “phá gia chi tử”!
Còn Hà Nội có thể hài lòng với những gì họ đạt được. Với tình trạng kiệt quệ của VNCH lúc này, liệu Hà Nội có còn quan tâm đến đàm phán với VNCH nữa không?
Hà Nội giờ đây rất mạnh so với cuối năm 1972-khi B52 rải thảm bom xuống Hà Nội, còn Sài Gòn thì rất yếu. “Chúng ta đã thoát khỏi giai đoạn của Kissinger và đi vào giai đoạn của Quốc hội Mỹ, nhưng chúng ta chẳng thể làm được gì nữa rồi” - CIA Sài Gòn viết trong báo cáo gửi Tổng hành dinh như thế.
Ngày 19/3/1975, tổng hành dinh CIA thông báo cho Polgar về một cuộc họp nhiều bên với nội dung "cả Bộ Quốc phòng và đại diện Chính phủ Mỹ đều đánh giá cao báo cáo của CIA Sài Gòn... hầu hết những nguồn tin về kế hoạch và hành động của miền Nam Việt Nam chỉ có trong sáu ngày gần nhất mà thôi”.
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Graham Martin về Mỹ để chữa bệnh ngắn ngày, và việc giao dịch cấp cao tại Việt Nam với Tổng thống Thiệu được giao cho ông Lehmann, quyền Trưởng Phái bộ Mỹ tại Sài Gòn.
Báo cáo đáp lại tổng hành dinh CIA, Polgar miêu tả Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn lúc ấy cứ như “con tàu không người lái” suốt những ngày Đại sứ Martin vắng mặt. Lehmann thì không chỉ đạo được. Số nhân viên cao cấp trong sứ quán thì vừa lơ là vừa sai lầm trong việc nhận định các tình huống mới, cũng như hệ lụy của nó.
Theo CIA Sài Gòn, các quan chức Sứ quan Mỹ chỉ đơn thuần “phản ánh thời tiết ở Washington”, họ vẫn chỉ bận tâm với nhóm đối lập không thân cộng sản chống Chính quyền Sài Gòn mà thôi. Nhưng điều đó không còn là vấn đề nữa.
Tổng thống Thiệu không thích cách điều hành trong áp lực ngoại giao nữa. Vì thế, Sứ quán Mỹ chỉ nắm được chút ít thông tin giá trị từ quan chức cấp thấp hơn mà thôi.
Cũng trong ngày 20/3, tổng hành dinh CIA có được thông tin về kế hoạch tổng quát của Thiệu, trong đó có việc khởi động một chương trình di tản bằng đường hàng không sang các nước châu Á (đồng minh của Mỹ) trong tình huống phải tị nạn. Vậy CIA Sài Gòn có thể nắm được Thiệu, hoặc ít nhất là Khiêm (Thủ tướng Trần Thiện Khiêm) hoặc tướng Đặng Văn Quang không?
Báo cáo trả lời của Polgar đề cập cuộc gặp giữa Lehmann với Tổng thống Thiệu cùng ngày 20/3, trong đó có lưu ý đến một chiến dịch tái chiếm mới và nói nó được vạch ra một cách sơ sài nên chưa sẵn sàng báo cho người Mỹ theo kênh chính thức.
Polgar bèn viết trong báo cáo rằng, chúng tôi mong một điều may mắn đối với Chương trình Di tản Châu Á, nhưng nói thẳng ra nó chẳng có gì khác biệt.
Xe tăng của Bắc Việt không thể nào dừng bánh chỉ với sự cảm thông mà phải có súng chống tăng và máy bay mới chặn được xe tăng. Sai lầm của Mỹ là tuân thủ từng điều một của Hiệp định Paris, tức cản trở việc Bắc Việt dốc toàn lực về quân sự thì lại sẽ bỏ lơi việc kiến tạo một nền độc lập không cộng sản ở Nam Việt Nam.
Tổng hành dinh CIA xác nhận điều đó nhưng lại viện dẫn trách nhiệm sắp xếp chuyện này là của cấp cao hơn (ám chỉ ông Kissinger và Tổng thống Ford). Và bóng ma thảm họa sụp đổ của chính quyền VNCH ngày càng lộ rõ ở Sài Gòn sau cuộc tháo chạy thê thảm khỏi Plâyku và Kontum vào ngày 21/3.
Sau đó Tổng thống Thiệu đổ tội thất thủ cao nguyên lên đầu tướng Phú, khiến ông này từ chức và uống thuốc độc tự tử vào ngày 29/4/1975.
(Còn nữa)
Tô Nam
lược dịch
_____
Kỳ sau: Phó văn phòng AFP tại Sài Gòn bị thủ tiêu như thế nào?
TP - Ngày 10/3/1975, Bắc Việt pháo kích dữ dội vào Ban Mê Thuột và sau đó đặc công của họ xuất hiện trong thị xã. Cùng ngày, người phát ngôn Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn xác nhận trong âu lo: Có 14 người Mỹ đang kẹt ở Ban Mê Thuột.
Kỳ III: Thủ tiêu phóng viên AFP
Đêm 12/3/1975, Ban Mê Thuột thất thủ nhưng không được giới quân sự lộ tin. Tuy nhiên, ngay hôm sau, 13/3, hãng tin Pháp AFP loan tin về việc Ban Mê Thuột thất thủ, trong đó có đoạn:
“Lúc cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột mới bắt đầu, một số quan sát viên cho biết có sự hiện diện và gia tăng hoạt động của nhóm vũ trang người Thượng.
Dù muốn dù không, trong khi chờ đợi các nhân chứng khác, chắc chắn là toán vũ trang đầu tiên vào thành phố Ban Mê Thuột là người Thượng.
Đó là những toán vũ trang mở đường cho cộng sản địa phương. Còn bộ đội Bắc Việt thì, theo nhân chứng này, thật sự không thấy có mặt”. Tác giả bản tin là nhà báo Paul Leandri, phó văn phòng AFP tại Sài Gòn, và bản tin này trở thành bản tin định mệnh đối với Paul Leandri.
Chính quyền Sài Gòn bực tức với bản tin vì hai điểm: Một là, lực lượng tấn công Ban Mê Thuột là dân quân địa phương chứ không phải quân đội chính quy của Bắc Việt.
Nếu là dân quân địa phương tấn công thì, về mặt chính trị, Sài Gòn có gì để mặc cả? Hai là, quân đội VNCH được Mỹ hậu thuẫn đông đảo và trang bị hiện đại đến tận răng lại dễ dàng bị dân quân địa phương đánh bại thì thực nhục nhã.
Chính quyền Thiệu phủ nhận tin này và buộc AFP phải nói ra xuất xứ nguồn tin. Paul Leandri chính thức trở thành nhà báo thân cộng sản và là cái gai cần phải nhổ trong mắt chính quyền quân sự Sài Gòn.
Trưa 14/3/1975, trong khi tàn quân của các đơn vị quân đội VNCH tháo chạy khỏi Ban Mê Thuột và Tổng thống Thiệu phải bay ra Cam Ranh họp kín với các tướng lĩnh quân đội về tương lai của Vùng 2 chiến thuật (Cao nguyên), Tổng nha Cảnh sát Quốc gia cử một sĩ quan đến văn phòng AFP tại Sài Gòn, gặp Paul Leandri để truy tìm nguồn của bản tin chết người của Paul Leandri được AFP loan đi toàn thế giới.
Cuộc gặp không có kết quả nên, chiều đó, Tổng nha Cảnh sát tống đạt giấy mời Paul Leandri đến trụ sở Tổng nha để thẩm vấn. Dường như linh cảm thấy sự nguy hiểm, nhá nhem tối hôm ấy, Paul Leandri mới đến trụ sở Tổng nha bằng xe hơi của văn phòng AFP Sài Gòn, do tài xế người Việt lái.
Trước khi đi, Paul Leandri cũng cẩn thận thông báo cho Sứ quán Pháp tại Sài Gòn về cuộc thẩm vấn. Rốt cục, Paul Leandri bị hạ sát bằng mấy phát đạn súng ngắn trong trụ sở Tổng nha ngay tối hôm ấy. Người bắn chết Paul Leandri là đại tá Cảnh sát VNCH Phạm Kim Quy.
Ngay sau đó, Tổng nha cảnh sát dựng hiện trường giả: đặt Paul Leandri lên ô tô của anh rồi cho xe đụng cổng ra vào của Tổng nha, cuối cùng dùng súng - đã được sử dụng - bắn vào xe của Paul Leandri từ phía sau như thể do ô tô của Paul Leandri vượt cổng nên lính gác đã nổ súng.
Tổng nha Cảnh sát, trực tiếp là đại tá Phạm Kim Quy, ép ông Nguyễn Ngọc Bích, lúc đó là Tổng Giám đốc Việt Tấn xã (hãng thông tấn của chính quyền Sài Gòn) đăng tải bản tường trình và mô tả lại cái chết của nhà báo Pháp Paul Leandri theo cách giải thích mà Tổng nha Cảnh sát soạn sẵn.
Mô tả như sau:
“Tại Sở Ngoại kiều (thuộc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia), nhà báo Paul Leandri không trả lời về chi tiết bản tin trên mà chỉ la lối, đập phá đồ trong văn phòng chánh sở. Viên Chánh sở mời Paul Leandri sang Sở Tư pháp nằm ngay trong khuôn viên Tổng nha, Paul Leandri lên xe hơi di chuyển nhưng, khi xuống xe, ông không chịu vào văn phòng khối tư pháp mà chỉ đứng ngoài sân và tiếp tục lớn tiếng la lối.
Bất thần, Paul Leandri nhảy lên xe hơi, dùng chìa khóa riêng nổ máy, đạp hết ga phóng ra cổng. Nhân viên công vụ ngăn xe lại nhưng không được. Buộc lòng họ phải nổ súng cảnh cáo nhưng xe vẫn lao đi. Tới cổng gác thứ ba, dù bị hô dừng lại, Paul Leandri vẫn phóng xe ra khỏi cổng. Lính gác buộc lòng phải nổ súng bắn ba phát vào bánh xe và một viên đạn gây tử vong cho Paul Leandri…”.
Theo tường trình của Tổng nha Cảnh sát, Paul Leandri lẽ ra phải bị trúng đạn từ phía sau. Nhưng hãng tin Mỹ UPI sau đó dẫn nguồn tin ngoại giao lại loan tải rằng Paul Leandri bị bắn từ nhiều phía. Đặc biệt, hãng AFP sau đó đưa tin rằng, theo yêu cầu của vợ nhà báo Paul Leandri - bà Hansi- và Đại sứ Pháp tại Sài Gòn ông Jean Marie Merillon, bác sĩ Rouffi tiến hành giám định pháp y xác Paul Leandri vào ngày 16/3/1975, tại Bệnh viện Grall.
Kết luận giám định cho thấy, Paul Leandri bị một viên đạn vào dưới tai trái, xuyên qua đầu từ trái sang phải khiến nạn nhân tử vong ngay; đồng thời miệng vết thương có nhiều vệt khói thuốc súng chứng tỏ nạn nhân bị bắn ở cự ly rất gần, không loại trừ khả năng bị kê súng vào đầu…
Cái chết của nhà báo Pháp Paul Leandri gây nên làn sóng phẫn nộ của báo giới quốc tế thời gian đó, tạo ra sự bất mãn càng dữ dội đối với chế độ Sài Gòn đang suy yếu.
Tại Paris, chiều 18/3/1975, nghiệp đoàn ký giả toàn quốc Pháp tập hợp hơn 300 nhà báo tụ họp trước trụ sở của AFP rồi diễu hành yên lặng đến tòa đại sứ VNCH. Nghiệp đoàn cũng kêu gọi các phân bộ địa phương tổ chức các cuộc biểu tình tương tự đến các tòa tổng lãnh sự VNCH ở Pháp.
Nhiều hãng thông tấn uy tín trên thế giới chính thức đòi Chính quyền Sài Gòn giải thích về cái chết của Paul Leandri. Thậm chí Viện Báo chí Quốc tế (IPI) có công văn gửi thẳng Tổng thống Thiệu phản kháng hành động sát hại nhà báo của Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn.
Mọi chuyện chưa ngã ngũ thì Plâyku, Kontum rồi Huế, Đà Nẵng, Nha Trang…dồn dập thất thủ và ngày cáo chung của Chính quyền Sài Gòn 30/4/1975 ập đến, khiến cho cái chết của Paul Leandri chẳng còn được ai quan tâm nữa.
TP - Trong báo cáo gửi CIA, Polgar chứng minh rằng quân đội VNCH suy sụp mạnh tinh thần và nhuệ khí. Theo Polgar, sự thụ động trong Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn buộc ông ta phải ra tay chỉ huy, một cố gắng cuối cùng để đảo ngược tình thế đang dẫn Sài Gòn đến thảm họa sụp đổ.
Ông ta đưa ra phương án với cố gắng cao nhất cùng các đối tác của chính quyền Sài Gòn cam kết làm “một nỗ lực tổ chức, tâm lý và chính trị“ may ra mới có thể cứu Sài Gòn ra khỏi tình thế lâm nguy.
Ngày 19/3/1975, Polgar tổ chức tiệc tối mời các quan chức tình báo Sài Gòn, trong đó có tướng Quang (cố vấn an ninh của Thiệu) và tướng Bình (Tư lệnh cảnh sát và tình báo).
Hôm sau, Phó Văn phòng CIA Sài Gòn LaGueux đưa cho tướng Bình rồi sau đó chuyển cho tướng Quang phương án với những chỉ dẫn tường tận để Quang đệ trình ngay lên Tổng thống Thiệu. Ngày 21/3, Polgar gặp Thủ tướng Khiêm để trao đổi về vấn đề an nguy của chính quyền Sài Gòn.
Khiêm tỏ ra nghi ngờ kế hoạch của Polgar. Khiêm chỉ trích tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, nhưng lại không hiểu rằng chính ông ta cũng là người có ảnh hưởng mạnh trên chính trường hơn hẳn ảnh hưởng của tướng Viên đối với quân đội.
Polgar thảo luận với Khiêm về việc “đến thời điểm phải đưa ra khái niệm một chính phủ thống nhất quốc gia”, nhưng Polgar nhận ra Khiêm không còn nhạy bén với tình huống bi đát của chính quyền Sài Gòn.
Ngày 22/3, Polgar lại gặp Khiêm, ông ta đi cùng với người phiên dịch nội dung những bức ảnh mà CIA Sài Gòn chụp về cảnh tháo chạy của quân đội VNCH, trên chuyến bay từ Plâyku về Phú Bổn.
Trong khi CIA Sài Gòn phải làm cật lực để đưa tin tức đến cấp cao nhất ở Washington về tình trạng nghiêm trọng của Sài Gòn thì Đại sứ Martin lại về Washington suốt thời gian khủng hoảng này. Polgar phản ánh tình hình này về tổng hành dinh CIA trong báo cáo ngày 23/3.
Trước đó Polgar cũng chuyển một bức điện với nội dung cực kỳ thất vọng, trong đó ông ta ghi rõ: Bắc Việt đang thành công, còn VNCH sai lầm ngu ngốc trong khi Mỹ không có bất cứ phản ứng nào. “Hà Nội điều thêm năm sư đoàn dự trữ chiến lược của họ vào cuộc” - Polgar viết và kết luận với Ngoại trưởng Mỹ Kissingger và cố vấn an ninh quốc gia rằng “Tôi nhìn thấy Nam Việt Nam đang bị nhấn xuống bùn”.
Chiều 23/3, tổng hành dinh CIA lựa chọn giải pháp tình thế là yêu cầu CIA Sài Gòn cung cấp thông tin về thiệt hại của quân đội VNCH và kế hoạch quân sự của Thiệu, để Washington có thể quyết định loại vũ khí viện trợ ngay cho VNCH. Tổng hành dinh CIA chấp nhận một thực tế là Đà Nẵng có thể thất thủ và phải bỏ ngỏ Tây Ninh, nhưng cần phải nắm được kế hoạch cuối cùng của Thiệu là sẽ tử thủ ở đâu.
Trả lời trong báo cáo hôm sau, Polgar viết: “Giờ thì tình hình của VNCH trở nên tồi tệ đến mức cùng kiệt mà hai tuần trước đó không ai nghĩ đến”. Hiện tuyến phòng thủ ở Đà Nẵng và dải ven biển từ Qui Nhơn đến Phan Thiết còn giữ được nhưng, trong tình hình biến chuyển này, sẽ không thể giúp thay đổi “chiến lược phản công” của Thiệu, mà chỉ đơn giản là tia hy vọng giữ cho quân đội VNCH khả năng xoay xở trong trận chiến quyết định sau đó.
Washington tương đối lạc quan nên tại thời điểm này nảy ra cuộc tranh cãi với Polgar về kế hoạch di tản. Mặc dù quan điểm riêng của họ bị đảo ngược không lâu sau đó, tổng hành dinh CIA đã thông báo với Polgar vào ngày 25/3 rằng các cơ quan mà CIA tham khảo đều lo ngại có những dấu hiệu tác động xấu đến nền chính trị Mỹ nếu một cuộc di tản của các quan chức, binh lính VNCH và gia đình họ xảy ra.
Polgar trả lời bằng một bức điện viết trong tâm trạng đau đớn, chỉ rõ rằng Sài Gòn đang náo loạn vì những người Mỹ di tản một cách không cần thiết từ các tỉnh cao nguyên và duyên hải dồn về.
Những dấu hiệu chính trị -việc di tản của họ - khiến có thể phải tăng số lượng người di tản so với mức mà Quốc hội Mỹ đã đưa ra khi dấu hiệu xấu nhất của tình hình VNCH gia tăng. Tổng hành dinh CIA vội vàng thoái lui quyết định.
Dù chưa dứt khoát gửi yêu cầu hành động đến Polgar, nhưng CIA đã phê duyệt danh sách những người di tản do Polgar đề xuất và cho Polgar quyền được điều tiết quá trình di tản.
Ngày 23/3 (giờ Việt Nam) Tổng thống Ford gửi cho ông Thiệu một lá thư- sự liên lạc trực tiếp cuối cùng của Tổng thống Mỹ với VNCH - dường như để nâng nhuệ khí cho ông Thiệu.
Thư có đoạn: “ Sự quyết tâm của Hoa Kỳ để yểm trợ một đồng minh đang bị lực lượng Bắc Việt với vũ khí hùng mạnh tấn công, là một điều hết sức cần thiết...Riêng tôi, tôi chắc chắn rằng Hoa Kỳ sẽ đứng sau lưng VNCH trong giờ phút tối quan trọng này“.
Ngày 25/3, ông Thiệu viết thư phúc đáp Tổng thống Ford, trong đó kêu gọi Mỹ viện trợ quân sự khẩn cấp (như đã cam kết) để cứu VNCH đang lâm nguy và thậm chí còn đề xuất Ford “ra lệnh cho B-52 can thiệp trong một thời gian ngắn nhưng mãnh liệt xuống nơi tập trung quân và căn cứ hậu cần của Bắc Việt trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam”. Nhưng Ford không bao giờ trả lời Thiệu nữa!
Một báo cáo khác từ CIA Sài Gòn nghi ngờ về sự tồn tại của một ý chí kháng cự nói chung của VNCH. Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng quân đội VNCH, được miêu tả như là người “có ảnh hưởng cá nhân bằng tinh thần chủ bại tràn ngập binh sĩ VNCH”.
Cuộc chiến được yểm trợ bằng siêu pháo đài bay B-52 đánh bom rải thảm Bắc Việt đã qua, đằng nào cũng đã đến lúc kết thúc. “Nếu chúng tôi không bố trí lại lực lượng thì chúng tôi sẽ chết. Nhưng bố trí lại quân đội, chúng tôi vẫn chết” - tướng Viên chua chát.
Ngày 19/3, Quảng Trị thất thủ. Ngày 24/3, Tam Kỳ rơi vào tay quân đội Bắc Việt. Ngày 25/3, Huế thất thủ sau ba ngày bị quân đội Bắc Việt bao vây.
Ở tầm chiến lược, Polgar vẫn thấy một khoảng trống quyền lực của cả Mỹ và VNCH lúc bấy giờ, nên kêu gọi một chuyến thị sát quân đội VNCH của tướng Fred Weyand, cựu Tư lệnh quân đội Mỹ tại VNCH (MACV), lúc này đang giữ chức Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ.
Ngày 25/3, tổng hành dinh CIA thông báo cho Polgar rằng, tướng Weyand sẽ dẫn đầu một phái đoàn Mỹ, trong đó có hai quan chức CIA là Ted Shackley và George Carver, sang Sài Gòn thị sát. Tổng hành dinh CIA yêu cầu Polgar cung cấp những tin tức tình báo, chủ yếu liên quan đến việc làm thế nào để duy trì ý chí kháng cự cho VNCH.
Báo cáo trả lời ngày 26/3, Polgar viết, tổn thất do bỏ ngỏ cao nguyên đặt ra câu hỏi về khả năng kháng cự hữu hiệu tại bất kỳ điểm nào khác của VNCH nếu bị tấn công, “VNCH, như chúng tôi biết, là không còn gì”.
Polgar cũng nhận thấy viễn cảnh đặt dấu chấm hết của chính quyền VNCH sẽ đến sớm “trừ phi có một áp lực quân sự hoặc chính trị nào đó ngăn được Bắc Việt không chớp lấy thời cơ ấy”.
Cùng ngày, tất cả người Mỹ có mặt ở Tây Ninh được di tản về Sài Gòn bằng trực thăng. Vậy là nỗ lực của Mỹ nhằm lấy lại nhuệ khí cho quân đội và chính quyền VNCH bất thành.
TP- Hơn ba giờ sáng 28/3/1975, phái đoàn thị sát Mỹ do tướng Fred Weyan (Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ và từng là tư lệnh cuối cùng của bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ tại VNCH trước Hiệp định Paris) dẫn đầu đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.
Đại sứ Mỹ Martin cũng đi chung chuyến bay này sau khi ông về Washington vận động hành lang ở Quốc hội Mỹ về khoản viện trợ quân sự khẩn cấp cho Sài Gòn bất thành (Martin sang Sài Gòn trễ hơn dự định vì ở Mỹ ông buộc phải phẫu thuật nha khoa).
Trong phái đoàn của tướng Weyan, có Ted Shackley, trưởng phân ban Đông Á của CIA và là tiền nhiệm của Polgar tại CIA Sài Gòn. Ngay sáng 28/3, Shackley thực sự ngán ngẩm khi nhận được bản báo cáo của bộ phận CIA tại Vùng 1 Chiến thuật, trong đó mô tả sự hỗn loạn đến quá nhanh với Đà Nẵng vào ngày 27/3.
Hàng rào an ninh sân bay Đà Nẵng bị đạp đổ, và chỉ 1/3 số người Mỹ trong danh sách phải di tản - dù phải giẫm đạp lên nhau - len chân vào chiếc máy bay Mỹ đầu tiên đến theo kế hoạch di tản trong ngày hôm đó. Số người còn lại trong danh sách phải di tản lên nốt chiếc máy bay thứ hai nhưng nó phải nằm ở cuối đường băng để đợi người ta chuyển hành lý bằng xe đẩy đến.
Cùng hôm đó, Polgar gửi báo cáo này tới tướng Quang, kẻ hứa ngay lập tức đệ trình lên ông Thiệu. Polgar cũng cảnh báo Quang rằng không được phép tái diễn chuyện trước. Quang nói ông ta sẽ có hành động cần thiết ngay và thừa nhận thông tin của CIA Sài Gòn về sự náo loạn ở Đà Nẵng là “chi tiết và cập nhật hơn” so với báo cáo lên ông Thiệu qua kênh quân đội.
Polgar nhận thấy không cần thiết duy trì bộ phận CIA ở Đà Nẵng và thực sự không dám mạo hiểm nữa sau cuộc tháo chạy khỏi Plâyku, nên lệnh cho nhân viên ở đây lập tức di tản về Sài Gòn.
Lúc 16 giờ 40 ngày 27/3, tướng Quang gọi lại cho Polgar thông báo rằng Tổng thống Thiệu muốn Tổng lãnh sự Mỹ ở Đà Nẵng Albert Francis điện nói chuyện với tướng Trưởng, Tư lệnh Vùng 1 Chiến thuật vì, để tiếp tục duy trì cầu hàng không Đà Nẵng - Sài Gòn, phải phụ thuộc vào khả năng vãn hồi trật tự ở sân bay của tướng Trưởng.
Một giờ sau, Quang thông báo ông ta đã đích thân liên lạc với tướng Trưởng, nhưng vẫn đề nghị “dù sao thì ông Francis cũng phải trình bày với tướng Trưởng”.
Sự kiêu ngạo này của quân đội VNCH gây khó chịu cho người Mỹ vì một quân đội có kỷ luật bây giờ đã tan rã thực sự. Một tình trạng hỗn độn, cướp bóc đến man rợ của binh lính tại Đà Nẵng.
Sáng hôm sau (28/3), Tổng lãnh sự Mỹ quyết định hủy bỏ cầu hàng không từ đây về Sài Gòn. Cuộc di tản khỏi Đà Nẵng bằng đường biển là khả năng duy nhất.
Lãnh sự quán Mỹ lên danh sách 3.000 người Việt mà Phái bộ Mỹ thấy có trách nhiệm phải đưa họ đi di tản. Tờ mờ sáng 28/3, người ta tập kết lên sà lan tại bến sông trước mặt tòa lãnh sự nhằm tránh sự chú ý của dòng người di tản không được Mỹ bảo trợ.
Nhưng mẹo ấy không thành công và khoảng 1.000 người di tản tự do leo được lên boong tàu. Đám đông chen chúc xô đẩy khiến nhiều người bị rơi xuống nước và một số chết đuối.
Chiếc sà lan quá tải ấy cuối cùng cũng được lai dắt ra biển trong khi nhiều người trong danh sách di tản của lãnh sự quán vẫn còn ở trên bờ.
Bốn nhân viên CIA và vài nhân viên lãnh sự quán Mỹ tại Đà Nẵng chậm chân phải di tản vào rạng sáng hôm sau bằng chiếc tàu nhỏ mang tên Osceola của một người Úc, lênh đênh mất hai đêm, nhưng trước khi lên được tàu khu trục của Hạm đội 7, họ suýt mất mạng vì hải tặc.
Ngày 29/3, quân đội Bắc Việt mở đầu trận đánh Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ, nhưng tướng Trưởng vội lên tàu HQ 404 cùng một lữ đoàn thủy quân lục chiến tháo chạy về Sài Gòn.
Trước đó ba ngày, Shackley điện báo cáo việc Bắc Việt đang rất lợi thế ở Đà Nẵng cho Đại sứ Martin ngay trên chiếc máy bay phái đoàn thị sát của tướng Weyan. Nhưng ông Martin không thể hoặc không muốn nhận tin xấu về thảm họa này, nên tướng Weyan lệnh cho Shackley ngừng truyền tin.
Một ngày trước khi Đà Nẵng thất thủ, Polgar đưa Vince Daly nhân viên CIA ở bộ phận Đà Nẵng đã di tản về Sài Gòn đến gặp Đại sứ Martin. Nhưng Martin không thừa nhận đánh giá của Daly rằng đang có thảm họa, và nói ông ta muốn bay ra Đà Nẵng để tự mình xác minh thực tế.
Chỉ duy nhất một lý do thuyết phục được Martin ở lại Sài Gòn là ông không thể đáp xuống sân bay mà quân đội Bắc Việt đã kiểm soát.
Trên thực tế, lực lượng hùng hậu của Bắc Việt tiếp tục tấn công như vũ bão vào dải duyên hải miền Trung. Chỉ hai ngày sau khi Đà Nẵng thất thủ, họ đã bao vây Nha Trang, nơi đặt tổng hành dinh Vùng 2 Chiến thuật, Tổng lãnh sự quán Mỹ, lại rất gần quân cảng Cam Ranh.
Lúc 10 giờ 30 sáng 1/4, khi nghe tỉnh trưởng Khánh Hòa thông báo qua điện thoại “đã mất quyền kiểm soát thành phố này”, Tổng lãnh sự Mỹ ngay lập tức lên trực thăng di tản. Bộ phận CIA Nha Trang đóng liên lạc vào lúc 11 giờ 17, và Robert Chin, trưởng bộ phận là nhân viên CIA cuối cùng ở đây bay về Sài Gòn ngay trưa hôm đó.
Tổng lãnh sự thực hiện kế hoạch di tản cho nhân viên địa phương bằng đường biển ngay hôm ấy. Nhưng việc khởi hành tàu của nhân viên người Mỹ làm hỏng kế hoạch này, chỉ một nửa nhân viên được di tản đến Sài Gòn.
Cùng trong ngày 1/4 Giám đốc CIA Colby gửi mật lệnh giao cho Polgar toàn quyền hành động trong việc di tản những nhân viên người Việt và gia đình họ - theo danh sách mà Polgar đề nghị một tuần trước đó nhưng bị phân ban Đông Á của CIA từ chối.
Khi Shackley và Polgar gặp Thiệu vào ngày 2/4, Thiệu dường như nghẹn ngào, nước mắt chỉ chực rơi. Shackley nhận ra điều mà dân chúng gọi là “làn sóng thất vọng và lo lắng” bao trùm toàn bộ quân đội VNCH khi cả Vùng 1 và Vùng 2 Chiến thuật đều thất thủ. Tinh thần và nhuệ khí của VNCH xuống đến đáy, cảm giác bị Mỹ bỏ rơi lớn dần trong mọi giai tầng xã hội.
Tổng thống Thiệu không còn đủ bình tĩnh để nhìn thấy cơ thể chính trị mục ruỗng của VNCH, còn Thủ tướng Khiêm đang mải theo đuổi toan tính vô ích là tái cấu trúc nội các mới.
Thực ra, Nam Việt Nam lúc ấy chỉ còn có một điểm đồng thuận là: yêu cầu Mỹ mang B-52 rải thảm bom xuống quân đội Bắc Việt đang có mặt ở Nam Việt Nam- một yêu cầu không tưởng! Thiệu lúc đó trong tay chỉ có một kế hoạch rất mập mờ về chiến lược phản công và tử thủ, cũng như nguồn lực tổ chức thực hiện.
Tại cuộc gặp với CIA ngày 2/4, Thiệu có vẻ không chú ý gì đến sự di chuyển của những sư đoàn quân đội Bắc Việt mà Polgar mô tả với ông ta. Thiệu tỏ ra hiểu vị thế hiện tại của quân đội VNCH, việc báo động về những hàm ý chính trị đã đe dọa nhuệ khí chung.
Tuy nhiên, Thiệu cho là Shackley đánh giá quá mức thời gian đang có để giải quyết các vấn đề của ông ta. Các bức điện của Shackley gửi tổng hành dinh CIA ngày 31/3 và 2/4 đều đặt ra câu hỏi: Dự định của Bắc Việt tới đây là gì?
Và ông ta nhìn thấy hai khả năng: Thứ nhất, Hà Nội khai thác lợi thế quân sự để nhấn một chiến thắng tức thời trên chiến trường; Thứ hai, một giải pháp chính trị với một chính phủ liên hiệp mà chính quyền Sài Gòn phải “đầu hàng có điều kiện”.
Cả hai dự đoán này của Shackley đều không được Hà Nội lựa chọn, như sau này Shackley nhớ lại, phái đoàn thị sát của tướng Weyan hóa ra chỉ là cách đóng kịch giữa Washington và Phái bộ Mỹ ở Sài Gòn.
Tướng Weyan và cộng sự đều tin chắc một điều rằng Hà Nội sẽ gây sức ép bằng chiến thắng quân sự và không có gì khiến họ phải nghĩ khác. Mặc dù vậy, Đại sứ Martin và Polgar lại vẫn tiếp tục tìm kiếm các dấu hiệu tin cậy về mối quan tâm của Bắc Việt đối với một chính phủ liên hiệp ở Nam Việt Nam.
Cuối cùng, tướng Weyand vẫn báo cáo với dự đoán rằng nếu Mỹ không viện trợ quân sự khẩn cấp cho VNCH và không cam kết hỗ trợ trực tiếp bằng không quân thì Sài Gòn sẽ sụp đổ chỉ sau một đợt tấn công của quân đội Bắc Việt.
Ngày 2/4, tổng hành dinh CIA quyết định thay đổi 180 độ kế hoạch di tản, thông báo cho Polgar rằng Mỹ sẽ nhanh chóng yêu cầu di tản toàn bộ gia đình nhân viên và một số lượng nhân viên người Việt trong trường hợp Sài Gòn sụp đổ.
CIA ước tính lượng người phải di tản lên tới một triệu người. Phúc đáp CIA, Polgar và George Carver đề nghị Mỹ nên thận trọng trong kế hoạch di tản trong lúc tình trạng ở VNCH “di tản hỗn độn như mất trí”.
Di tản là vấn đề nghiêm trọng, nhưng “những bước khờ khạo sẽ càng đẩy nhanh cuộc khủng hoảng ở VNCH xuống đáy”. Bởi nếu đưa một sư đoàn không quân và một sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ vào Nam Việt Nam để tổ chức di tản chỉ người Mỹ thì sợ quân đội VNCH quay súng bắn ngay vào người Mỹ. Nhưng Giám đốc CIA Colby chỉ trả lời cụt lủn rằng: “Tôi sẽ bàn bạc với Trợ lý của Kissinger là ông Philip Habib”.