Thọ luân và Mệnh cung lại hoàn toàn trái ngược, trời sinh thế nào thì như thế đấy, Thọ luân Tiên Thiên là Thọ luân Tiên Thiên hoặc Hoàng Mệnh vẫn là Hoàng Mệnh. Cho dù ngươi có mạnh hơn đi nữa, có trở thành Tiên Đế cũng không thể cải biến được, trừ khi ngươi muốn sửa mệnh.
Đối với việc tu luyện: Thể chất, Thọ luân và Mệnh cung đều cực kỳ trọng yếu, một thứ cũng không thể thiếu. Thể chất quyết định gân cốt và thể trạng tốt hay xấu. Thọ luân quyết định huyết khí có đủ dồi dào hay không còn mệnh cung lại quyết định thiên phú và ngộ tính.
Ví dụ như ngươi có Thánh Luân, vậy thì huyết khí của ngươi sẽ phong phú dồi dào như sa mạc, nếu tu luyện cùng một loại công pháp thì ngươi sẽ tu luyện nhanh hơn, uy lực phát ra cũng lớn hơn.
Lý Thất Dạ từ từ tìm hiểu Nguyệt Qua Dương Luân Công, chậm rãi tìm về toàn bộ áo nghĩa sâu xa của bộ công pháp này. Thực tế thì Nguyệt Qua Dương Luân Công cũng được Tẩy Nhan Cổ Phái bảo tồn nguyên vẹn, không có chút thiếu sót. Nhưng áo nghĩa mà Lý Thất Dạ đang diễn hóa ra còn thâm ảo hơn bộ bí kíp này.
Nói đến Nguyệt Qua Dương Luân Công thì phải nhắc đến lại lịch phi phàm của nó, Lý Thất Dạ cũng từng tốn vô số tâm huyết vào môn công pháp này. Trong những năm đầu tiên của thời đại Chư Đế, có một khoảng thời gian ngắn hắn từng tính toán để Minh Nhân Tiên Đế tu luyện môn công pháp này nhưng rồi lại thôi.
Ở thời đại Hoang Mãng cực kỳ xa xưa, cho dù Nhân tộc hay Yêu tộc đều là những sinh linh cực kỳ nhỏ yếu, không biết bao nhiêu tiên hiền đã thay phiên nhau sáng tạo ra vô số công pháp để đấu tranh sinh tồn, cuối cùng mới có thể khai sáng ra một cục diện thịnh thế phồn hoa.
Thời đại đó, có một vị tiên hiền cực kỳ tài giỏi đã sáng tạo ra môn Thọ pháp có thể nhanh chóng luyện thành, môn Thọ pháp đó chính là Nguyệt Qua Dương Luân Công. Trong giai đoạn đầu của môn công pháp này, tu sĩ có thể dùng huyết khí của bản thân kéo theo Mệnh hồn, nhanh chóng nâng cao đạo hạnh.
Nhưng Nguyệt Qua Dương Luân Công lại có một nhược điểm trí mạng, giai đoạn đầu thì có thể dùng huyết khí dồi dào làm cộng cơ để tăng lên đạo hạnh, nhưng đạo hạnh càng cao, huyết khí của một người không còn đủ để kéo công pháp Mệnh hồn được nữa, đến thời kỳ này, huyết khí không còn tiếp tục như cũ, đạo hạnh thì lại đình trệ không tiến, nếu như cưỡng ép tu luyện còn có thể bị giảm thọ.
Vào thời đó, sau khi Lý Thất Dạ đạt được môn công pháp này thì cũng từng truyền qua cho không ít người, nhưng không ai có thể tu luyện một cách hoàn mỹ cả. Vì cải thiện Nguyệt Qua Dương Luân Công mà Lý Thất Dạ đã bỏ ra biết bao nhiêu tâm huyết, hắn thậm chí còn tìm vài vị Tiên Đế như Huyết Tỳ Tiên Đế, Minh Nhân Tiên Đế, Thôn Nhật Tiên Đế... tham gia công việc này
Mãi cho đến thời đại của Hắc Long Vương, Lý Thất Dạ mới chính thức hoàn thiện Nguyệt Qua Dương Luân Công. Ngày hôm nay, lúc Lý Thất Dạ bình tĩnh tìm hiểu Nguyệt Qua Dương Luân Công trong tay thì hết thảy ký ức về áo nghĩa của nó vốn đã bị xóa đi cũng chậm rãi trở về trong đầu hắn.
Sau khi nguyên vẹn Nguyệt Qua Dương Luân Công xuất hiện thì hắn thu hồi lại bí kíp, hít thở một hơi thật sâu.
Trên thế thế gian hỏi có mấy ai biết hắn đã tốn bao nhiêu công sức cho bộ công pháp này trong những năm tháng dài dằng dặc. Mấy ai biết được, có bao nhiêu tiên hiền của nhân tộc thay phiên nhau tu bổ Nguyệt Qua Dương Luân Công.
Thực sự thì kể từ khi Lý Thất Dạ để lại quyển bí kíp này trong Tẩy Nhan Cổ Phái, không ít thiên tài của môn phái cũng từng thử tu luyện qua nhưng rốt cuộc cũng không có ai có thể tu luyện đến viên mãn.
Lý Thất Dạ đã tốn mất ba ngày ba đêm để tìm hiểu Côn Bằng Lục Biến và Nguyệt Qua Dương Luân Công. Tuy ba ngày đã qua đi nhưng Nam Hoài Nhân vẫn chưa trở về, Lý Thất Dạ cũng không gấp gáp đi lựa chọn bảo khí mà ở lại trên Cô Phong bắt đầu tu luyện.
Sau khi Lý Thất Dạ chỉnh sửa lại một lượt hai môn Thọ pháp và Mệnh công cho hoàn chỉnh, tất cả đều sẵn sàng thì hắn cũng bắt đầu tu luyện. Có thể nói kinh nghiệm tu luyện của Lý Thất Dạ cực kỳ phong phú, mặc dù thiên phú của hắn không tốt, nhưng nếu luận về kinh nghiệm thì không ai có thể so với hắn.
Bất quá, dù đã có hai môn công pháp nghịch thiên như Côn Bằng Lục Biến với Nguyệt Qua Dương Luân Công, nhưng hắn cũng chẳng vội vàng mong sớm thành công, hắn muốn tu luyện theo chất lượng. Lý Thất Dạ biết rõ, chỉ cần nóng lòng thì sẽ lưu lại tai họa ngầm cho con đường tu luyện Đại đạo dài đằng đẵng của bản thân.
Lý Thất Dạ đồng thời tu luyện cả hai bộ công pháp, bất quá cả hai đều không hề có liên hệ lẫn nhau, cũng không có khai thông qua lại.
Côn Bằng Lục Biến thuộc về Mệnh công để hộ mệnh phạt địch mà Nguyệt Qua Dương Luân Công lại là Thọ pháp để dưỡng huyết, kéo dài tuổi thọ. Một cái tu luyện Mệnh cung, cái còn lại thì tu luyện Thọ luân, vào giai đoạn đầu có thể đồng thời tu luyện, không ảnh hưởng lẫn nhau.
Công pháp thì được chia thành bốn loại: một là Thọ pháp dùng để dưỡng huyết, kéo dài tuổi thọ, hai là Mệnh công để hộ mệnh, phạt địch, ba là Thể thuật để luyện thể, tẩy tủy và bốn là Thiên Mệnh Bí Thuật có khả năng gánh lấy Thiên Mệnh.
Còn có một loại công pháp bao gồm tất cả, có người xưng nó là tâm pháp nền móng, cũng có người gọi là tâm pháp trụ cột, loại tâm pháp này thuộc về tâm pháp vạn năng, nó đem dưỡng huyết, hộ mệnh, luyện thể hoà làm một, một loại công pháp có thể tu luyện toàn bộ thọ luân, mệnh cung và thể chất.
Mặc dù loại tâm pháp này bao gồm nhiều tác dụng nhưng đa số đều có cấp bậc tương đối thấp, uy lực có hạn, tu luyện loại này thì khó mà đạt tới cảnh giới cường đại.
Công pháp cũng có phân chia cao thấp, ví dụ như Cửu Thánh Thiên Yêu - Thuỷ tổ của Cửu Thánh Yêu Môn là một vị Đại Hiền vô cùng cường đại, công pháp mà ông ta sáng chế được gọi là công pháp Đại Hiền, còn Tiên Đế sáng chế công pháp thì gọi là công pháp Tiên Đế hay Đế thuật.
Cùng một loại thể chất, thiên phú giống nhau, nếu tu luyện công pháp khác nhau thì đạo hạnh cũng khác nhau. Nếu dùng thời gian như nhau thì người tu luyện Đế thuật chắc chắn sẽ mạnh hơn người tu luyện công pháp Đại Hiền rồi.
Còn về phần Thiên Mệnh Bí Thuật thì khỏi phải nói, đây là loại bí thuật gánh lấy Thiên Mệnh, khó mà tưởng tượng được sự nghịch thiên của nó.
Tất nhiên công pháp cũng không phải toàn bộ, không có một viên đạo tâm kiên định thì cuối cùng tất cả đều là mây bay. Từ xưa đến nay, bao nhiêu thiên tài bởi vì tu luyện công pháp nghịch thiên nên tu hành Đại Đạo cực kỳ thuận guồm xuôi gió, nhưng cuối cùng vẫn bị tẩu hoả nhập ma. Hoặc một vài thiên tài chỉ vì từ lúc vừa ra đời liền tu luyện Đế thuật làm cho bản thân lúc tranh giành Thiên Mệnh lại không cách nào sáng tạo ra Thiên Mệnh Bí Thuật của riêng mình, cuối cùng trở thành kẻ thất bại.
Nên tu luyện thế nào cho ổn thỏa, Lý Thất Dạ hiểu rõ hơn bất kì ai, nên dù hắn nắm giữ vô số bí mật trong tay, lúc bắt đầu tu luyện thì vẫn tiến hành theo từng bước một, chậm mà chắc.
Lý Thất Dạ cùng lúc tu luyện cả hai môn công pháp, hắn dùng Nguyệt Qua Dương Luân Công để thúc dục Thọ luân của mình, hiệu quả cũng rất rõ ràng. Sau đầu Lý Thất Dạ từ từ hiện lên một vòng tròn sáng quay không ngừng nghỉ, vòng sáng trông giống như vòng tuổi của cây cối, lúc Thọ luân quay tròn thì huyết khí bên trong cũng bắt đầu chìm nổi lưu động.
Huyết khí lưu động theo Thọ luân, giống như nước sông bị guồng nước kéo lấy, liên tục chảy róc rách không ngừng nghỉ.
Huyết khí là yếu tố để quyết định sức khoẻ của một người, nếu huyết khí suy yếu thì tu sĩ cũng bắt đầu già nua mà chết.
Trời sinh Lý Thất Dạ là Phàm luân, ưu thế về phương diện này rất yếu, huyết khí coi như bình thường nên lúc Thọ luân của hắn chuyển động, huyết khí chỉ giống như dòng suối chảy róc rách không ngừng.
Nếu là người khác có Thọ luân Tiên Thiên hoặc Hoàng Luân, huyết khí sẽ giống như một con sông lớn chảy ào ào không dứt. Đặc biệt là Thánh Luân, huyết khí của ai mang có được nó dữ dội giống như biển cả đang gào thét.
Lý Thất Dạ dùng ý niệm thúc dục chân quyết của Côn Bằng Lục Biến, bắt đầu gõ lấy Mệnh cung của mình một cách thứ tự. Mỗi một người đều phải có Mệnh cung của bản thân.
Mệnh cung, chính là chỗ quy tụ của chân mệnh, là chỗ quy tụ của ba hồn bảy vía mà phàm nhân thường hay nói. Mệnh cung trốn trong huyệt Nê cung, lúc Lý Thất Dạ bắt đầu dùng Côn Bằng Lục Biến để gõ thì Mệnh cung cũng chậm rãi lay động, xuất hiện trong huyệt Nê cung *.
Thời điểm Mệnh cung xuất hiện, nó sẽ mang một phong cách cổ xưa và trong suốt như ngọc. Chẳng qua Lý Thất Dạ chỉ có Phàm mệnh mà thôi nên Mệnh cung của hắn cũng chỉ lập loè sáng bóng nhàn nhạt.
Còn nếu là người mang Hoàng Mệnh thì Mệnh cung lại lấp loé từng đạo hào quang vừa lớn vừa dài màu vàng, loại Mệnh cung này cực kỳ bá đạo. Lý Thất Dạ chỉ có Phàm mệnh, không cách nào so sánh với loại người này.
Bình thường Mệnh cung đóng kín, hồn phách ngủ say, chỉ cần gõ mở ra Mệnh cung, làm cho hồn phách tỉnh lại, câu thông với lực lượng của sinh mệnh thì mới có thể bắt đầu tu hành.
Vì vậy người ta mới gọi cảnh giới đầu tiên của tu sĩ là Khấu Cung, cảnh giới này lại chia thành ba cấp nhỏ, từ thấp đến cao: một Khấu Môn, hai Tỉnh Giác, ba Huyết Dũng.
Khấu Môn, tên như ý nghĩa, gõ cửa Mệnh cung, để cho chân quyết của Mệnh công tiến vào bên trong Mệnh cung. Trong quá trình này, giống như Phật tử đang bái lạy Phật tổ, chỉ có không ngừng nỗ lực, gõ đánh không ngừng nghỉ, đợi Mệnh cung đáp lại mới có thể mở ra cánh cửa của Mệnh cung.
Lý Thất Dạ một lần lại tiếp một lần dùng Côn Bằng Lục Biến gõ vào cửa Mệnh cung. Tiếng gõ "đùng, đùng, đùng" vang vọng quanh quẩn trong đầu của hắn.
Lý Thất Dạ dùng chân quyết gõ liên tục không hề dừng lại, đến hắn cũng không biết bản thân đã gõ bao nhiêu lần nhưng Mệnh cung vẫn như cũ, không có phát bất kỳ một âm thanh nào. Dù vậy, Lý Thất Dạ không dừng lại, vẫn tiếp tục gõ.
Đối với thiên tài, đặc biệt là loại người mang Thánh Mệnh thì việc gõ mệnh cung quá dễ dàng do mệnh hồn của người đó rất cường đại. Có truyền thuyết kể lại: từng có một người mang Thánh Mệnh chỉ gõ một lần liền mở ra cửa Mệnh cung của mình.
Loại người này thuộc về thiên tài trong thiên tài, tất nhiên là Lý Thất Dạ không thuộc số đó, nên hắn cần phải nỗ lực và kiên nhẫn, có công mài sắt có ngày nên kim.
Mặc dù Lý Thất Dạ cũng biết vài phương pháp khác để gõ một lần duy nhất liền mở ra Mệnh cung, chẳng hạn như dùng Nguyệt Qua Dương Luân Công kéo lấy toàn bộ huyết khí, lại dùng huyết khí toàn thân làm động lực để thúc dục chân quyết của Côn Bằng Lục Biến, dùng sự cường thế của huyết khí để đánh bay cửa Mệnh cung, hoặc cũng có thể dựa vào uy lực của huyết khí để mạnh mẽ mở Mệnh cung chỉ bằng một lần gõ.
Nhưng hắn cũng không có làm vậy, bản thân hắn là Phàm mệnh, huyết khí cũng không dồi dào. Nếu như cưỡng ép sẽ làm Thọ luân bị tổn thương, hơn nữa cưỡng ép huyết khí để gõ cửa cũng sẽ làm kinh sợ Mệnh hồn, mặc dù sau này tốc độ tu luyện rất nhanh, nhưng sẽ để lại tai hoạ ngầm cho bản thân.
Biết rõ nhược điểm của bản thân, Lý Thất Dạ đã trui rèn cho mình một đạo tâm kiên định và đánh xuống một trụ cột rất vững chắc. Lúc này hắn kiên nhẫn gõ liên tục vào cửa Mệnh cung, cho dù là vạn lần, mười vạn lần, hắn cũng một mực gõ đến lúc Mệnh cung đáp lại mới thôi.
Lý Thất Dạ dùng Côn Bằng Lục Biến gõ lên cửa Mệnh cung không biết bao nhiêu vạn lần rồi, nhưng chẳng thấy phản ứng gì, cửa Mệnh cung vẫn không mở ra.
Với rất nhiều tu sĩ thì đây cũng không phải tình huống lạc quan lắm, gõ lâu như vậy mà cửa Mệnh cung còn chưa mở thì tư chất của tu sĩ quả thật quá kém.
Nhưng Lý Thất Dạ có một đạo tâm không thể lay chuyển, dù có phải gõ triệu lần nữa hắn cũng sẽ gõ, gõ đến khi nào cửa Mệnh cung mở ra mới thôi.
- Đùng!
Rốt cuộc sau năm ngày năm đêm, một âm thanh nhẹ nhàng vang lên, tiếp theo là tiếng cửa mở "két, két, két". Dưới sự kiên trì của Lý Thất Dạ, cửa Mệnh cung cuối cùng cũng mở ra.
Xuyên qua cửa Mệnh cung người ta có thể thấy một cỗ Sinh Mệnh Lực. Có điều Lý Thất Dạ chỉ có Phàm mệnh, Sinh Mệnh Lực của hắn cực kỳ hạn chế, đổi lại là thiên tài nào đó, sinh mệnh lực của người đó ắt hẳn sẽ rất dồi dào.
Lúc này chân quyết Côn Bằng Lục Biến như nước thủy triều tràn vào Mệnh cung, ý niệm của Lý Thất Dạ cũng theo đó tràn vào.
Không gian bên trong Mệnh cung vô cùng rộng lớn, mênh mông vô hạn. Lúc này ở giữa Mệnh cung, chân quyết Côn Bằng Lục Biến đang lưu chuyển quanh một vầng sáng, phù văn của nó cũng di chuyển không ngừng, tựa như muốn đánh thức vầng sáng đó vậy.
Vầng sáng này chính là Mệnh Hồn mà mọi người vẫn nói, cũng có người gọi là Ba hồn bẩy vía, thậm chí là Chân mệnh. Đây chính là thứ quyết định vận mệnh cả đời của một người.
Bất luận là sinh linh nào, chỉ có thông qua tu luyện mới có thể đánh thức Chân mệnh và Ba hồn bẩy vía của mình. Chỉ khi chúng thức tỉnh thì tu sĩ mới có thần thông. Nói rõ hơn: chỉ sau khi Chân mệnh tỉnh lại, tu sĩ mới có thể nắm giữ sinh mạng của mình, có thể câu thông thiên địa vạn vật, mới có thể công phạt địch nhân hoặc tu luyện nghịch thiên.
Côn Bằng Lục Biến là Mệnh công, nó nhất định phải đánh thức Chân mệnh, lấy Chân mệnh làm cơ sở, tu luyện ra đạo hạnh thuộc về Lý Thất Dạ. Cho nên áo nghĩa phù văn của Côn Bằng Lục Biến không ngừng quấn lấy chân mệnh. Chúng thỉnh thoảng hóa thành Thiên Bằng bay lượn, có lúc biến thành Cự Côn nhảy quanh, có khi lại biến ra Côn Bằng, thứ chẳng phải cá cũng chẳng phải đại bang, dung nhập vào trong Chân mệnh. Áo nghĩa phù văn biến thành Côn Bằng liên tục dung nhập vào Chân mệnh rồi lại thoát ra ngoài, điều này khiến cho Chân mệnh của Lý Thất Dạ như vực sâu biển lớn, còn vầng sáng trong Chân mệnh lại dập dềnh như sóng.
Quá trình này gọi là Tỉnh Giác, đây là tầng thứ hai của cảnh giới Khấu Cung. Khi Chân mệnh thức tỉnh thì tu sĩ mới có thể chân chính tu luyện.
Nếu là thiên tài, đặc biệt là những người có Hoàng Mệnh và Thánh Mệnh thì việc thức tỉnh Chân mệnh là một chuyện cực kì dễ dàng, thậm chí bọn họ chỉ cần nửa ngày là xong.
Tuy Lý Thất Dạ có Phàm mệnh, không thể nào so với thiên tài sở hữu Thánh Mệnh và Hoàng Mệnh, nhưng hắn lại chẳng hề nóng vội mà vẫn bình tĩnh tu luyện, để cho Côn Bằng Lục Biến lưu chuyển không ngừng. Đối với Lý Thất Dạ, chỉ cần Côn Bằng Lục Biến không dừng lại, một ngày nào đó Chân mệnh của hắn ắt sẽ thức tỉnh.
Phía trong Mệnh cung rộng lớn vô cùng, mịt mờ không cách nào thấy rõ. Thực tế, sự rộng lớn của Mệnh cung vượt xa tưởng tượng của mọi người.
Dù Chân mệnh của Lý Thất Dạ có thức tỉnh đi nữa thì hắn cũng không thể nào nhìn thấu toàn bộ Mệnh cung. Có điều dù không thể nhìn thấu, nhưng hắn vẫn mơ hồ cảm nhận được trong Mệnh cung còn có thứ khác tồn tại.
Ở tận cùng nơi phương Đông xa xôi, dường như có một nguồn suối cực lớn, nhưng dường như đã khô kiệt, không thấy nước suối chảy ra.
Sinh Mệnh Tuyền theo truyền thuyết là một trong Mệnh Cung Tứ Tượng, Có rất nhiều sự tích liên quan tới nó, có tiên hiền cho rằng nó chính là nguồn gốc của Sinh Mệnh Lực.
Ở tận cùng nơi phương Tây xa xôi, Lý Thất Dạ mơ hồ cảm giác được một bếp lò cực kỳ to lớn, nhưng lúc này nó lạnh lẽo vô cùng.
“Sinh Mệnh Hồng Lô”, trong vạn Giới lưu truyền một câu như vậy. Đại Đạo như Hồng Lô (Bếp lò lớn), có thể luyện hóa hết thảy. Từ vạn cổ tới nay có vô số người gọi nó là Sinh Mệnh Hồng Lô.
Rất nhiều người cho rằng, lửa trong Sinh Mệnh Hồng Lô đến từ Chân mệnh hoặc đến từ chính linh hồn, được gọi là Lửa Linh Hồn.
Ở tận cùng nơi phương Nam xa xôi có một gốc cây đại thụ vươn tới trời, gốc đại thụ này đứng sừng sững trong Mệnh cung, nhưng lúc này đại thụ không tỏa ra bất kì sự sống nào, tựa như đã chết héo rất lâu vậy.
Sinh Mệnh Thụ chính là tồn tại bí ẩn nhất trong Mệnh cung. Theo truyền thuyết kể lại: Sinh Mệnh Thụ có thể thông thiên địa, đoạt tạo hóa.
Ở tận cùng nơi phương Bắc xa xôi có một cây cột cực lớn nối trời đất. Cây cột này mang vô số phù văn quanh thân, thần bí khó lường, tựa như nó đã đứng đó từ rất xa xưa.
Sinh Mệnh Trụ, truyền thuyết gọi nó là Mệnh Căn, không có Sinh Mệnh Trụ, hết thảy đều không tồn tại.
Mệnh Cung Tứ Tượng: Sinh Mệnh Tuyền(suối), Sinh Mệnh Hồng Lô(lò lớn), Sinh Mệnh Thụ(cây), Sinh Mệnh Trụ(cột). Đây là những thứ bí ẩn nhất thế gian, cũng là những thứ huyền ảo nhất trong Mệnh cung. Từ vạn cổ tới nay đã có vô số tiên hiền nối nhau nghiên cứu mong tìm hiểu thấu đáo Mệnh Cung Tứ Tượng.
Thế gian đã từng lưu truyền một câu thế này: nếu ai có thể nắm giữ chân chính áo nghĩa của Mệnh Cung Tứ Tượng, hắn có thể nhận lấy Thiên Mệnh, trở thành Tiên Đế và thậm chí sống muôn đời bất diệt.
Lý Thất Dạ để Côn Bằng Lục Biến lưu chuyển không ngừng, lại để Nguyệt Qua Dương Luân Công quay Thọ luân, khiến hắn đạt tới trạng thái huyền diệu khó giải thích.
Lý Thất Dạ chậm rãi tu luyện, không nóng nảy chút nào, bởi vì hắn tuyệt đối tin tưởng vào chính mình. Không có ai cũng như không có gì có thể lay chuyển đượđạo tâm của hắn cả.
Rốt cuộc mười ngày sau, khi Nam Hoài Nhân trở về thì lập tức chạy tới Cô Phong gặp Lý Thất Dạ. Hắn liên tục xin lỗi:
- Sư huynh, lần này đã để huynh chờ lâu, chưởng môn bế tiểu quan, đệ đành phải đợi chưởng môn xuất quan mới báo cáo được.
- Chuyện nhỏ thôi.
Lý Thất Dạ bình tĩnh đáp lời.
Thấy bộ dáng Lý Thất Dạ ung dung nhàn định, Nam Hoài Nhân trầm ngâm một chút rồi lên tiếng:
- Sư huynh, nghe ý tứ chưởng môn thì nhị sư huynh sắp trở về môn phái.
Nói tới đây hắn bổ sung:
- Nhị sư huynh là đệ tử của chưởng môn.
Nhắc tới nhị sư huynh, ánh mắt nhìn Lý Thất Dạ của Nam Hoài Nhân có chút khác thường, sau đó hắn không nói gì thêm nữa.
- Nhị sư huynh?
Lý Thất Dạ thấy ánh mắt lạ lùng của Nam Hoài Nhân liền thuận miệng hỏi.
Nam Hoài Nhân cười khan một tiếng, gãi gãi đầu:
- Sư huynh, nói thẳng ra thì đệ cũng không biết nói thể nào. Đợi huynh thấy nhị sư huynh thì sẽ tự hiểu.
- Tình huống của nhị sư huynh có chút đặc thù.
Cuối cùng, hắn lại bồi thêm một câu.
Lý Thất Dạ nghe vậy chỉ cười, cũng không hỏi thêm. Việc này với hắn mà nói cũng chẳng quan trọng. Cho dù tình huống của nhị sư huynh ra sao hắn cũng kệ. Hơn nữa hắn cũng chẳng quan tâm vị nhị sư huynh kia tới đây làm gì, tới chỉ điểm hắn cũng được, tới giám sát hắn cũng không sao.
Lý Thất Dạ quyết tâm xây dựng lại Tẩy Nhan Cổ Phái, không ai có thể lay động. Chỉ cần thời cơ chín mùi, hắn sẽ một lần nữa trùng kiến môn phái. Trên con đường này, không ai có thể ngăn bước chân hắn, ai cản hắn chỉ có đường chết, Phật đến chém Phật, Thần đến diệt Thần!
Năm đầu của thời đại Chư Đế, Tẩy Nhan Cổ Phái do hắn dựng lên đã từng càn quét Cửu Giới. Ở kiếp này, hắn muốn xây dựng lại Tẩy Nhan Cổ Phái, một ngày nào đó hắn sẽ thống lĩnh Tẩy Nhan Cổ Phái càn quét Bát Hoang, diệt Tiên Ma Động, không sợ bất kể uy hiếp nào.
Nam Hoài Nhân cũng đã quen với tính cách coi trời bằng vung của Lý Thất Dạ, ngay cả lúc đối mặt với Luân Nhật Yêu Hoàng mà Lý Thất Dạ còn ngông cuồng thì chuyện này có gì to tát.
Nam Hoài Nhân nhìn Lý Thất Dạ thêm một lượt, phát hiện sư huynh đã bắt đầu tu luyện, vui mừng nói:
- Sư huynh, huynh đã khai mở cửa Mệnh cung rồi ư? Đã tốn bao nhiêu thời gian vậy?
- Không nhiều lắm, năm ngày năm đêm mà thôi.
Lý Thất Dạ thong thả trả lời.
- Ặc...
Lời này khiến Nam Hoài Nhân á khẩu hồi lâu. Năm ngày năm đêm mà vẫn còn không nhiều? Bất luận ở môn phái nào, nếu môn hạ đệ tử dùng tới ba ngày ba đêm để mở cửa Mệnh cung thì nhất định sẽ bị sư trưởng mắng là ngu dốt, mắng cho không ngẩng đầu lên được. Còn tới năm ngày năm đêm thì đúng là ngu trong ngu, nếu như có người biết Lý Thất Dạ mất nhiều thời gian đến vậy, sợ rằng sẽ hắn trở thành trò cười lớn nhất của Tẩy Nhan Cổ Phái.
Đệ tử kém cỏi nhất của Tẩy Nhan Cổ Phái cũng chỉ mất ba ngày ba đêm, mà Lý Thất Dạ lại cần tới năm ngày năm đêm.
Nhưng Nam Hoài Nhân nhìn thần thái ung dung của Lý Thất Dạ liền hiểu rằng: sư huynh chẳng coi việc dùng năm ngày năm đêm đo là việc đáng xấu hổ gì.
Nếu các đệ tử khác mất nhiều thời gian như vậy, chắc chắn là sẽ cảm thấy hết sức tự ti. Nhưng Lý Thất Dạ lại chẳng tự ti chút nào, cũng không kiêu ngạo, giống như vừa thoải mái ăn một bữa cơm vậy.
Dĩ nhiên Nam Hoài Nhân không tin Lý Thất Dạ là kẻ ngu đần. Nếu như có ai nói Lý Thất Dạ ngu xuẩn, vậy kẻ đó mới thực sự là ngu xuẩn. Giống như Đỗ Viễn Quang, Từ Huy hoặc Hứa hộ pháp vậy; những người này đều tự cho mình thông minh hơn Lý Thất Dạ, nhưng cuối cùng cũng chết trong tay hắn đó sao? Đỗ Viễn Quang và Từ Huy còn bị Lý Thất Dạ phân thây là đằng khác.
Nghĩ tới đây, Nam Hoài Nhân không khỏi rùng mình một cái. Một người được cho là kẻ đần nhất thế gian nhưng có khí thế hiên ngang bất khuất, có bộ dáng lúc nào cũng ung dung nhàn rỗi, có tự tin tuyệt đối, có đạo tâm không thể nào lay chuyển và giết người không run tay như đại sư huynh mới là người vô cùng đáng sợ.
Nam Hoài Nhân không dám nói thêm gì nữa, phụng bồi Lý Thất Dạ đi lựa chọn bảo khí.
Khi tới Tam Giác Cổ Viện, Lý Thất Dạ cùng Nam Hoài Nhân cầm theo thủ lệnh tiến vào Tàng Binh Các. Vừa tiến vào thì họ thấy ngay một pho tượng cực lớn đứng sừng sững giữa nơi đây.
Pho tượng ở trong Tàng Binh Các không mang hình dáng Thủy tổ - Minh Nhân Tiên Đế của Tẩy Nhan Cổ Phái và cũng chẳng phải của một vị tổ tiên kiệt xuất có cống hiến vĩ đại nào, mà nó chính là pho tượng đúc hình một con quạ đen cực kỳ to lớn.
Tượng một con quạ đen đang giương cánh muốn bay vượt chín tầng trời, hai cự trảo của nó quắp lấy hai thanh đoản đao. Mà hai thanh đoản đao này chính là Kỳ Môn Đao phổ thông được chế tạo bằng sắt thường chứ không phải bảo đao hoặc thần khí gì.
Không ai còn nhớ rõ hai thanh đoản đao đã nằm ở nơi này bao nhiêu năm tháng, rỉ sắt bám đầy phía trên lưỡi đao, dưới sự tàn phá của thời gian hai thanh đao cũ này nhìn như sắp đến lúc gẫy vụn vậy.
Lý Thất Dạ ngẩn người nhìn pho tượng quạ đen to lớn kia, ký ức thủa xa xưa lại ào về trong đầu hắn. Có lẽ hắn đã quên tư thái này, động tác này nhưng Minh Nhân Tiên Đế lại không hề quên.
Thấy Lý Thất Dạ đứng lặng im nhìn pho tượng, Nam Hoài Nhân khẽ giải thích:
- Sư huynh, đây là tượng của vị Quạ Thần trong truyền thuyết. Nghe kể lại: lúc Tổ sư còn trẻ từng được Quạ Thần chỉ điểm khi Quạ Thần hạ xuống đỉnh núi này, cho nên về sau Tổ sư đã quyết định thành lập Tẩy Nhan Cổ Phái tại nơi đây. Khi Tổ sư nhận lấy Thiên Mệnh, thành tựu Tiên Đế, vì hoài niệm Quạ Thần nên đã điêu khắc ra pho tượng này.
Nghe Nam Hoài Nhân kể chuyện, Lý Thất Dạ chỉ cười mỉm. Vị Quạ Thần kia chính là Âm Nha hắn, đương nhiên những cố sự về cái gì Quạ Thần hạ xuống ngọn núi này hoặc Minh Nhân Tiên Đế vì thế đã thành lập nên Tẩy Nhan Cổ Phái chỉ là chuyện thêu dệt hoang đường. Cũng chỉ có Lý Thất Dạ hắn mới biết được nguyên nhân vì sao phải lựa chọn nơi đây để xây dựng Tẩy Nhan Cổ Phái mà thôi.
Tất nhiên mô phỏng động tác của pho tượng này cũng không phải giả. Nhớ lại lần thứ nhất hắn gặp mặt thiếu niên đam mê luyện võ đầy nhiệt huyết Minh Nhân kia, hắn đã dùng một trảo đoạt lấy hai thanh Kỳ Môn đoản đao từ trong tay tên nhóc này.
Thật không ngờ tiểu tử Minh Nhân tuy đã thành Tiên Đế mà vẫn còn nhớ rõ chuyện năm xưa đó.
- Chúng ta đi vào thôi!
Lý Thất Dạ phục hồi lại tinh thần, cười mỉm một cái, không nói gì thêm nữa, bước thẳng vào trong Tàng Binh Các.
Bên trong Tàng Binh Các có hầu hết các loại Bảo Khí và Thọ Bảo, đặc biệt tầng thứ nhất tàng trữ hơn một vạn binh khí khác nhau, nhưng binh khí ở đây đa phần được làm từ sắt tốt pha với Thần Kim mà thôi, cho dù chúng có là Bảo Khí, Thọ Bảo hoặc thậm chí Chân Khí đi nữa cũng vẫn là bảo vật có cấp bậc tương đối thấp.
Binh khí của tu sĩ được chia làm bốn loại: một, binh khí phổ thông. Hai, Thọ Bảo. Ba, Mệnh khí phổ thông. Bốn: Chân mệnh khí.
Binh khí phổ thông dành cho các đệ tử mới nhập môn sử dụng, những binh khí này có số lượng nhiều nhất cũng bởi vì chúng được luyện thành từ pha trộn giữa sắt tốt và Thần Kim chứ không phải từ những nguyên liệu quý hiếm gì. Mặc dù những binh khí này ở trong mắt phàm nhân đã là Thần đao, Thần Kiếm chém sắt như chém bùn, thổi tóc tóc đứt, nhưng các tu sĩ lại chẳng coi trọng chúng, vì những binh khí bình thường này không thể phát huy được uy lực của pháp tắc đến từ Đại đạo.
Thọ Bảo không được xếp vào dạng binh khí, nó thuộc về nhóm Bảo vật, tác dụng của Thọ Bảo chính là kéo dài tuổi thọ và dưỡng huyết. Có thể nói, mỗi tu sĩ đều có một Thọ Bảo, bởi vì nó sẽ nuôi dưỡng Thọ luân của người đó, có thể kéo dài tuổi thọ và làm cho huyết khí của tu sĩ càng thịnh vượng hơn.
Đồng thời Thọ Bảo có thể phát huy tác dụng phụ trợ trong chiến đấu, nhất là khi huyết khí của tu sĩ bị hao tổn, Thọ Bảo có thể bù đắp được số lượng huyết khí thiếu hụt đó.
Mệnh khí phổ thông và Chân mệnh khí là binh khí không thể thiếu của từng tu sĩ, chúng có tác dụng giúp tu sĩ bảo hộ mệnh và công phạt địch nhân.
Mệnh khí phổ thông được gọi là Mệnh Khí hoặc Bảo Khí, còn Chân mệnh khí được gọi tắt là Chân Khí
Trong cả cuộc đời của một tu sĩ, vị này có thể sở hữu một hoặc rất nhiều Bảo Khí, thậm chí có thể kế thừa Bảo Khí của người khác, nhưng tu sĩ đó lại chỉ có một Chân mệnh khí duy nhất, bởi vì Chân mệnh khí câu thông với Chân mệnh rồi tương trợ lẫn nhau. Ngoài ra, bất kỳ tu sĩ nào đều phải tự tế luyện Chân mệnh khí của riêng bản thân mình, không thể kế thừa của người khác.
Mặc dù tu sĩ phải tự tế luyện ra Chân Khí của mình và làm bạn cả đời với nó, nhưng uy lực của Chân Khí hơn hẳn Mệnh khí phổ thông, cho dù có cùng cấp bậc đi nữa thì Chân Khí hoàn toàn có thể phá nát Mệnh khí phổ thông trong nháy mắt.
Trên tầng thứ nhất của Tàng Binh Các có hơn vạn binh khí khác nhau: từ binh khí phổ thông như Huyền Thiên Kiếm, Lãnh Nguyệt Đao, Phi Tinh Trảo…đến các loại Bảo Khí như Sơn Hà Tháp, Trấn Yêu Luân(vòng), Giang Giao Xích( thước)…
Ngoài ra còn có một vài Chân Khí như Thanh Bảo Thần Thạch, Xích Huyết Thiên Tác(Dây), Liệt Dương Trầm Bút…
Tất cả Bảo Khí và Chân Khí này có cấp bậc rất thấp tùy ý các đệ tử bình thường đời thứ ba chọn lựa, còn những đệ tử có công lao với môn phái đều lên thẳng tầng thứ hai để chọn bảo vật.
Lúc đi dạo trong tầng thứ nhất, Lý Thất Dạ có thể cảm nhận được hàn ý phát ra từ đám binh khí, cũng có thể cảm nhận được nhiều Bảo Khí và Chân Khí đang phun ra nuốt vào lực lượng của Đại Đạo.
Hắn cứ rong ruổi xem từng Bảo Khí, thong thả đi từ tầng thứ nhất lên tầng thứ hai. Tầng thứ hai không tàng trữ binh khí bình thường mà chỉ cất giữ những Bảo Khí và Chân Khí có cấp bậc cao hơn những binh khí cùng loại ở tầng thứ nhất.
Thế nhưng, Lý Thất Dạ cũng chỉ nhìn qua một lần chứ không chọn lựa bất kể Bảo Khí và Chân Khí nào, rồi cùng Nam Hoài Nhân bước lên tầng thứ ba.
Thấy Lý Thất Dạ tiến vào tầng thứ ba của Tàng Binh Các, nhiều đệ tử đang chọn lựa Bảo Khí ở đây cảm thấy ngứa mắt, có kẻ không nhịn được hừ lạnh:
- Ta đi Nam Thiết Sơn chém một đầu Thọ tinh, lập công lao không nhỏ mới có thể bước vào tầng thứ hai để chọn lựa Chân Khí. Một phế vật mới nhập môn như hắn, thứ nhất chưa có công lao nào, thứ nhì muốn cũng không đủ khả năng, có tài đức gì mà được phép tiến vào tầng thứ ba chứ?
Tầng thứ ba của Tàng Binh Các chỉ dành cho các đệ tử lập được công lao lớn, hơn nữa chỉ có đệ tử cấp bậc đường chủ của Tẩy Nhan Cổ Phái trở lên mới có thể đi vào. Lý Thất Dạ nhập môn chưa bao lâu liền lên tầng thứ ba chọn Bảo Khí và Chân Khí, tràng cảnh này làm cho những đệ tử kia thấy ấm ức trong lòng.
- Hắn có thủ lệnh của trưởng lão.
Đệ tử trông coi Tàng Binh Các chỉ có thể trả lời nghi vấn của mọi người như vậy.
Còn Lý Thất Dạ chỉ quay đầu nhìn đám đệ tử đang bất mãn kia, chậm rãi nói:
- Có bản lĩnh thì gặp trưởng lão mà kiện cáo, càu nhà càu nhàu ở chỗ này làm gì!
Lời của Lý Thất Dạ làm cho đám đệ tử ở đây giận đỏ mặt, đa số bọn họ đều có địa vị không thấp trong những đệ tử đời thứ ba, vậy mà hôm nay bị một kẻ bất tài vô học xem thường, thử hỏi những đệ tử này làm sao có thể nuốt trôi bực tức trong lòng chứ.
- Để xem ngươi có thể càn quấy được bao lâu, một ngày nào đó ta sẽ dạy dỗ ngươi thật tốt!
Có đệ tử không kiềm chế nổi, hậm hực to tiếng.
Lý Thất Dạ lại đem những lời hăm dọa đó bỏ ngoài tai, ung dung bước vào tầng thứ ba. Nam Hoài Nhân đi theo sau cũng chỉ biết âm thầm lắc đầu, những đệ tử này thật chán sống hết cả rồi, chỉ biết nhìn bề ngoài mà phán xét. Bọn họ thật sự cho rằng Lý Thất Dạ là một kẻ ngu ngốc hay sao?
Khi bước vào tầng thứ ba của Tàng Binh Các, người ta thấy hoa mắt trước những hào quang lấp lánh, từng vòng tròn mang theo lực lượng của Đại Đạo tỏa ra như thủy triều cuồn cuộn, thậm chí có Bảo Khí hoặc Chân Khí còn phát ra thanh âm tựa như mỗi một thứ đều có sinh mạng vậy.
Không thể nghi ngờ, tất cả những Bảo Khí và Chân Khí trong tầng này đều cao cấp và có địa vị hơn hẳn những thứ được cất giữ ở hai tầng dưới.
- Sư huynh, tất cả những Bảo Khí và Chân Khí ở đây đều có cấp bậc vượt trội những thứ ở tầng dưới. Bảo Khí thấp nhất có cấp bậc Tráng Thọ, cao nhất có cấp bậc Thiên Nguyên, thậm chí còn có Chân Khí ở cấp bậc Dục Thần.
Nam Hoài Nhân vội giải thích cho Lý Thất Dạ.
Bảo Khí và Chân Khí đều tương quan trực tiếp với tu sĩ tế luyện chúng, ví dụ: một tu sĩ ở cảnh giới Tráng Thọ cần phải tế luyện Bảo Khí hoặc Chân Khí có cấp bậc Tráng Thọ mới tốt.
- Nhìn, đây là Cửu Lộc Thọ Luân!
Nam Hoài Nhân giới thiệu:
- Sư huynh, Thọ luân này được tế luyện từ vòng tuổi của Thiết Lộc Thọ Tinh, nó thừa hưởng ưu điểm của con Thọ tinh này, nếu dùng cái vòng này để nuôi dưỡng Thọ luân của mình, nhất định sẽ làm cho Thọ huyết càng thêm tinh thuần.
- Còn đây là Phi Giao Thiên Tác.
Nam Hoài Nhân nói như thuộc lòng, giới thiệu cho Lý Thất Dạ một Bảo Khí khác:
- Bảo Khí này được luyện hóa từ đạo cốt của Thiên Thú có đạo hạnh ở cảnh giới Hoa Cái, nghe nói, Thiên Thú này chính là một con Sáp Sí Song Đầu Giao, tu luyện Bảo Khí này đến một trình độ nhất định có thể thúc giục đạo cốt pháp tắc của Sáp Sí Song Đầu Giao.
- Kia là một thanh Toái Địa Phủ, nó được luyện hóa thành từ một khối Toái Tinh Thần Kim…
Nam Hoài Nhân tựa hồ biết tất cả các Bảo Khí và Chân Khí ở tầng thứ ba này, hắn luôn miệng giới thiệu cho Lý Thất Dạ nghe.
Thấy Nam Hoài Nhân nói đầy hưng phấn, Lý Thất Dạ liếc hắn một cái, tán thưởng:
- Xem ra ngươi rất quen thuộc với nơi này a!
Bị Lý Thất Dạ hỏi như vậy, Nam Hoài Nhân chỉ xấu hổ cười khan, khẽ nói:
- Mỗi lần sư phụ ta có việc đến Tàng Binh Các, ta đều mặt dạn mày dày đi theo nên cũng hiểu biết đôi chút. Còn tầng thứ tư cũng chỉ vào một lần duy nhất, là sư tổ dẫn ta lên đó.
Nam Hoài Nhân ứng xử khéo léo khác hẳn sư phụ của hắn cho nên Tôn trưởng lão – một trong sáu vị trưởng lão cũng rất yêu quý hắn.
- Tầng phía trên có những Bảo Khí hoặc Chân Khí gì?
Lý Thất Dạ thuận miệng hỏi. Tàng Binh Các có tổng cộng chin tầng, mà hiện tại hắn mới chỉ ở tầng thứ ba.
- Ta cũng chỉ được vào tầng thứ tư một lần duy nhất mà thôi, Bảo Khí và Chân Khí ở đó có cấp bậc Vương Hầu. Còn các tầng trên đó chứa những thì gì thì ta cũng không biết.
Nam Hoài Nhân lắc đầu cười khổ. trả lời Lý Thất Dạ.
- Liệu tầng thứ chin có Tiên Đế Bảo Khí hay không?
Lý Thất Dạ lên tiếng như tự hỏi. Cả đời Minh Nhân Tiên Đế đã tế luyện ra không ít Tiên Đế Bảo Khí, hơn nữa Lý Thất Dạ còn biết rõ việc Minh Nhân Tiên Đế từng để lại một vài Tiên Đế Bảo Khí bảo hộ cho Tẩy Nhan Cổ Phái.
Nam Hoài Nhân nghó nghiên xung quanh một lượt, sau đó thì thào khẽ như có thể:
- Nghe nói Tẩy Nhan Cổ Phái của chúng ta đã không còn Tiên Đế Bảo Khí, chứ đừng nói Tiên Đế Chân Khí.
- Không còn gì sao?
Lý Thất Dạ cảm thấy có chút khó tin, vì Minh Nhân Tiên Đế đâu chỉ để lại một món Tiên Đế Bảo Khí duy nhất, cho dù hậu nhân của Tẩy Nhan Cổ Phái có bất hiếu thế nào đi nữa cũng không thể một hơi ném sạch đi a,
Nam Hoài Nhân lắc đầu, khẽ trả lời:
- Ta không rõ tình huống cụ thể lắm, ngay cả sư phụ ta cũng thế. Nghe kể lại rằng: vào ba vạn năm trước, Tầy Nhan Cổ Phái từng giao chiến với Thánh Thiên Giáo. Trong trận chiến ấy, chúng ta không chỉ đánh mất Cổ quốc từng thống trị hàng ngàn vạn năm mà còn làm mất luôn cả Tiên Đế Bảo Khí cuối cùng nữa.
Tiên Đế Bảo Khí không chỉ là bảo vật vô giá đối với tất cả tu sĩ, mà nó còn là bảo vật trấn phái của Đế Thống Tiên Môn.
Minh Nhân Tiên Đế sáng lập ra Tẩy Nhan Cổ Phái, từng để lại vài Tiên Đế Bảo Khí thủ hộ tông môn, nhưng trăm ngàn năm trôi qua, hiện tại Tẩy Nhan Cổ Phái đã không còn một món Tiên Đế Bảo Khí nào nữa cả.
Giờ Lý Thất Dạ mới thật sự hiểu rõ: Tẩy Nhan Cổ Phái không phải vô duyên vô cớ mà xuống dốc. Đế thuật thì thất truyền, Tiên Đế Bảo Khí lại mất đi, hơn nữa không có minh chủ dẫn dắt, Tẩy Nhan Cổ Phái không xuống dốc mới đúng là trái với lẽ trời.
- Sư huynh, ngươi muốn tuyển chọn Thọ Bảo hay Bảo Khí? Hay là muốn Chân Khí?
Ngay lúc Lý Thất Dạ còn đang thất thần, Nam Hoài Nhân hỏi.
Tuy Lý Thất Dạ đã dạo qua một vòng, nhìn ngắm toàn bộ binh khí ở tầng thứ ba trong Tàng Binh Các, nhưng hắn chỉ lắc đầu, không có một kiện Bảo Khí hay Thọ Khí nào làm hắn vừa ý cả.
Nam Hoài Nhân không hiểu lý do tại sao Lý Thất Dạ không thích những binh khí tàng trữ ở đây, mặc dù ở tầng ba này chúng không phải là những thứ tốt nhất, nhưng những binh khí này có thể làm cho hầu hết đệ tử Tẩy Nhan Cổ Phái thèm nhỏ nước dãi.
Ngay cả Nam Hoài Nhân cũng thèm thuồng vài món binh khí ở tầng thứ ba, nhưng tiếc thay hắn vẫn chưa có đủ cống hiến để đổi lấy.
Thấy Lý Thất Dạ không chọn bất kỳ món binh khí nào, Nam Hoài Nhân cũng không dám nói gì. Hắn biết Lý Thất Dạ có sẵn chủ trương nên theo chân Lý Thất Dạ đi xuống tầng ba của Tàng Binh Các.
Những đệ tử vừa cười nhạo báng Lý Thất Dạ vẫn còn ở đấy, thấy Lý Thất Dạ tay không đi xuống, bọn họ cay cú châm chọc:
- Coi kìa, Đại sư huynh của chúng ta có yêu cầu rất cao nên binh khí ở tầng ba cũng không lọt vào mắt.
- Hắc, hắc...ngươi không biết, trong mắt Đại sư huynh chỉ có Tiên Đế Bảo Khí mà thôi, hắn nào để ý đến những thứ khác.
Có đệ tử khác giọng đầy éo éo lên tiếng:
- Bất quá sao không soi mặt vào nước tiểu để xem hình dạng của mình ra sao? Loại phế vật như hắn được lên tầng ba chọn bảo khí đã là được các vị trưởng lão khai ân rồi.
Có đệ tử vô cùng tức giận trong lòng, ai nấy đều ghen ghét với một kẻ bất tài lại được lên tầng ba chọn bảo khí như Lý Thất Dạ. Có người lên tiếng khinh miệt:
- Chỉ là một kẻ bất tài mà thôi, có đem Tiên Đế Bảo Khí để trước mặt, hắn cũng tưởng là đồng nát sắt vụn. Loại có mắt không tròng này làm gì có tư cách nhận thức Bảo Khí!
Đối với những đệ tử đang cười nhạo, Nam Hoài Nhân chỉ biết nhíu mày cười khổ trong lòng, còn Lý Thất Dạ liếc mắt nhìn rồi thong dong nói:
- Xem ra các ngươi hết sức bất mãn đối với ta.
Có đệ tử cay nghiệt đáp lại:
- Hừ, người như ngươi không có tư cách làm Đại sư huynh của Tẩy Nhan Cổ Phái.
- Đáng tiếc, ta vẫn là Đại sư huynh của các ngươi.
Lý Thất Dạ chậm rãi lên tiếng:
- Dám dĩ hạ phạm thượng, xem ra làm Đại sư huynh như ta không đánh gãy chân chó của các ngươi thì thật có lỗi với vị trí này.
Nghe Lý Thất Dạ nói xong, có một đệ tử trong đám người ở đây hùng hổ ưỡn ngực, lạnh lùng cười:
- Ơ, Đại sư huynh của chúng ta đang lên tiếng giáo huấn mọi người đó à! Với tư cách là tiểu đệ, ta cũng muốn lãnh giáo tuyệt học của Đại sư huynh một chút.
Nghe những lời này, mấy tên đệ tử khác đều cười vang, toàn bộ đều tỏ vẻ khinh thường, trong mắt của bọn chúng thì Lý Thất Dạ với Phàm Thể, Phàm Luân và Phàm Mệnh vốn chỉ là một kẻ tầm thường, một tay bọn chúng cũng dư sức giải quyết.
- Hoài Nhân, đánh bọn chúng bò ra ngoài cho ta.
Lý Thất Dạ chậm rãi liếc nhìn bọn chúng rồi ra lệnh.
Người khác không biết Lý Thất Dạ đã đành, chẳng lẽ Nam Hoài Nhân còn không hiểu? Đỗ Viễn Quang chết như thế nào? Từ Huy chết như thế nào? Bất chợt, hắn đưa tay lau mồ hôi lạnh. Nếu thật sự làm cho Lý Thất Dạ giận dữ, e rằng hắn sẽ phân thây bọn tiểu tử này mất.
Lý Thất Dạ ra lệnh một tiếng, Nam Hoài Nhân liền thở dài, hiện nay đối với mệnh lệnh của Lý Thất Dạ, hắn không do dự chút nào. Nam Hoài Nhân đi tới, liếc nhìn đám đệ tử, nhàn nhạt nói:
- Các ngươi phạm vào tội bất kính đối với Đại sư huynh, ta đây thi hành trừng phạt!
- Nam Hoài Nhân, ngươi…!
Thấy Nam Hoài Nhân can thiệp, không ít đệ tử tức giận thét lên.
Có đệ tử không do dự quát to:
- Nam sư huynh, ngươi dù gì cũng là tâm phúc của các trưởng lão, đi theo một tên phế vật chính là bôi nhọ danh tiếng của mình…
- Phanh, phanh, phanh!
Tên đệ tử này còn chưa nói hết lời đã bị Nam Hoài Nhân đánh bay.
Trong Tẩy Nhan Cổ Phái, tuy Nam Hoài Nhân không phải là đệ tử có tư chất nổi trội nhất, nhưng với tư cách là đệ tử của Mạc hộ pháp, dạy dỗ mấy tên đệ tử bình thường đúng là chuyện dễ dàng.
- Ngươi nói quá nhiều, không biết giữ mồm sẽ rất dễ chuốc họa sát thân.
Nam Hoài Nhân hai đấm ba đá đánh bay tên đệ tử kia, liền đưa tay chỉ mặt đám đệ tử còn lại nói:
- Các ngươi cùng nhau lên đi, không lại trách ta lấy lớn hiếp nhỏ.
Đám đệ tử vừa sợ vừa tức giận, hét lớn xông tới, Nam Hoài Nhân không chút khách khí, trái phải trên dưới đánh bọn họ ngã nhào.
Nam Hoài Nhân mới nhìn qua dường như ra tay hung ác nhưng thật sự lại cứu bọn họ một cái mạng. Hắn ra tay tối đa cũng chỉ làm cho các đệ tử bình thường thụ thương một ít da thịt mà thôi.
Nếu để Lý Thất Dạ tự mình ra tay, Nam Hoài Nhân trong tâm tự rõ, nói không chừng Lý Thất Dạ sẽ phân thây bọn đệ tử này, mấy cái đệ tử bình thường của Tẩy Nhan Cổ Phái không tính là cái gì. Cửu Thánh Yêu Môn tiểu thiên tài - Đỗ Viễn Quang, Hứa hộ pháp ái đồ - Từ Huy, kể cả Hứa hộ pháp đều bị giẫm thành thịt vụn nữa là.
Chỉ sợ trong mắt Lý Thất Dạ, giết chết loại đệ tử tầm thường này dễ dàng như ăn cháo. Cho nên Nam Hoài Nhân tại chỗ đánh đập bọn họ để làm hài lòng Lý Thất Dạ cũng chính là cứu tính mạng của những đệ tử này mà thôi.
Đối với các đệ tử thủ hộ Tàng Binh Các, trách nhiệm của họ là bảo vệ Tàng Binh Các, còn các chuyện đệ tử khác vì ân oán cá nhân đánh nhau, họ mắt nhắm mắt mở mặc kệ.
- Ta muốn hai thanh đoản đao kia.
Ngay tại lúc Nam Hoài Nhân ném mấy tên đệ tử bình thường ra khỏi Tàng Binh Các, Lý Thất Dạ liền nói với vị hộ pháp trấn thủ tại nơi đây.
- Hai thanh đoản đao dưới chân Quạ Thần kia sao?
Vị hộ pháp này nghe vậy không khỏi nhíu mày, hỏi lại.
Pho tượng quạ thần đã đứng sừng sững ở chỗ này hơn trăm vạn năm, hai thanh đoản đao bằng sắt thường kia cũng không biết được đặt ở đây bao nhiêu lâu rồi nhưng mà cũng chưa từng có người nào muốn lấy nó cả.
- Đúng vậy.
Lý Thất Dạ chậm rãi đáp:
- Gần đây ta đang luyện Kỳ Môn Đao thuật, giờ nhìn hai thanh đoản đao kia rất tiện tay cho nên muốn sử dụng chúng.
Không chỉ hộ pháp mà ngay cả những đệ tử khác trông coi Tàng Binh Các đều cảm thấy yêu cầu của Lý Thất Dạ rất kỳ quái, nhìn Lý Thất Dạ như nhìn một người bị bệnh tâm thần vậy.
Hai thanh đoản đao kia chẳng qua giống hai con dao găm bình thường đã rỉ sắt mà thôi. Đừng nói là Bảo Khí, Chân Khí của tầng thứ ba, cho dù là binh khí bình thường của tầng thứ nhất cũng mạnh hơn không biết bao nhiêu lần so với hai thanh đoản đao này.
Đã không lựa chọn bảo khí ở tầng thứ ba mà hắn lại hết lần này đến lần khác chọn hai con dao găm không đáng một đồng kia, hơn nữa là dao găm được làm bằng sắt thường. Tên này không bị bệnh tâm thần thi cũng là một kẻ ngu xuẩn không biết đánh giá đồ tốt rồi.
Lúc này, Nam Hoài Nhân đã ném mấy tên đệ tử kia ra khỏi Tàng Thư Các, nghe Lý Thất Dạ lựa chọn hai thanh đoản đao kia thì trong lòng không khỏi chấn động, bởi vì Nam Hoài Nhân đã nghĩ đến một đồ vật khác, đó chính là Đả Xà Côn.
Khi Lý Thất Dạ tại Tổ điện muốn lấy cây gậy cời lò kia, lúc ấy không riêng gì sáu vị trưởng lão mà ngay cả bản thân hắn cũng cho rằng Lý Thất Dạ là một kẻ ngu đi coi trọng một cây gậy tầm thường như bảo vật vậy.
Nhưng mà cây gậy đó đó lại đánh một kẻ được xưng là thiên tài như Từ Huy không có chút cơ hội phản kháng, đánh hắn đến tróc da bong thịt.
Hiện tại, Lý Thất Dạ đột nhiên muốn lấy hai con dao găm kia, chỉ sợ không phải là ý nghĩ nông nổi. Có lẽ từ khi bước chân vào Tàng Binh Các, vị sư huynh này đã nhìn trúng hai con dao găm kia rồi.
Có đệ tử bị Nam Hoài Nhân ném ra khỏi Tàng Binh Các, vừa sợ vừa giận hò hét:
- Nam Hoài Nhân, ngươi…ngươi dám đánh ta, ta sẽ tố cáo lên các trưởng lão việc ngươi...
- Vả miệng, tát cho hắn không nói được nữa mới thôi.
Lúc này, Lý Thất Dạ lạnh nhạt lên tiếng.
Từ câu nói có vẻ bình đạm này, Nam Hoài Nhân thoáng cảm thấy một tia tức giận. Hắn có thể hiểu tương đối cách hành xử của Lý Thất Dạ, xem ra vị sư huynh này đã bực bội lắm rồi.
- Đắc tội!
Nam Hoài Nhân không do dự chút nào, tát “bốp, bốp, bốp” ba cái vào miệng tên đệ tử vừa lớn tiếng quát mắng kia. Nam Hoài Nhân cũng hiểu đây không chỉ là việc hắn cứu tên đệ tử kia một mạng mà Lý Thất Dạ cũng đang khảo nghiệm hắn.
Lý Thất Dạ cũng chẳng để tâm đến chuyện này nữa, hắn lại nói với vị hộ pháp trấn thủ nơi này:
- Chư vị trưởng lão đồng ý cho ta chọn một món binh khí, cho nên ta có thể chọn cả hai hanh đoản đao này a.
Vị hộ pháp này vẫn tròn hai con mắt nhìn Lý Thất Dạ, trông tiểu tử này cũng không giống kẻ đần nhưng sao hắn vẫn cứ nhất quyết làm chuyện ngờ nghệch như thế nhỉ.
Vị hộ pháp này thoáng do dự một chút rồi rốt cuộc khẽ gật đầu:
- Có thể!
Đây cũng chỉ là hai thanh đoản đao bằng sắt thường mà thôi, cũng không phải bảo vật đáng tiền gì. Lý Thất Dạ cầm thủ lệnh của trưởng lão đến chọn đồ, cho hắn lấy hai thanh đoản đao tầm thường kia cũng chẳng to tát gì.
Lý Thất Dạ tự tay lấy hai thanh đoản đao xuống để vị hộ pháp kia đăng ký vào danh sách. Tuy cảm thấy hành động của Lý Thất Dạ có chút kỳ quái, nhưng ông ta cũng không biết nói thế nào, có một kho bảo khí và chân khí thì không chọn mà tiểu tử này lại lấy hai thanh đoản đao vô cùng bình thường.
Xong xuôi mọi việc, Lý Thất Dạ liền cầm hai thanh đoản đao đi ra khỏi Tàng Binh Các. Lúc đi qua mấy tên đệ tử bị Nam Hoài Nhân đánh đến kêu cha gọi mẹ, rên ư ử, hắn hơi chậm lại bước chân, lạnh nhạt nói:
- Các ngươi nên đa tạ Nam Hoài Nhân đã cứu các ngươi một mạng. Nếu như có ý kiến gì đối với ta thì cứ lên gặp các trưởng lão mà tố cáo, nhưng đừng để ta tự mình ra tay bởi vì lúc đó các ngươi sẽ chẳng có kết cục tốt đâu.
Nam Hoài Nhân bị vạch trần tâm tư, gã giả lả cười gượng vài tiếng.
Mà đám đệ tử vừa bị đánh thảm kia không khỏi sợ hãi run cả người, thiếu niên trước mắt này thật ra là một ác nhân, căn bản không phải là một đứa nhóc mới mười ba tuổi.
Lý Thất Dạ không thèm để ý đến bọn họ nữa, quay người rời khỏi Tàng Binh Các, trở về Cô Phong.
Sau khi quay trở lại Cô Phong, thấy Nam Hoài Nhân cứ liếc nhìn hai thanh đoản đao bằng sắt thường kia, Lý Thất Dạ liền ném chúng cho Nam Hoài Nhân, tùy ý nói:
Bị Lý Thất Dạ xem thấu tâm tư, Nam Hoài Nhân cảm thấy rất ngượng ngùng. Hắn không hiểu vì sao Lý Thất Dạ lại nhất định muốn hai thanh đoản đao này, vì thế hắn thực sự muốn xem chúng có chỗ nào khác thường, nhưng lại không dám mở miệng hỏi.
Lúc này, thấy Lý Thất Dạ đem hai thanh đoản đao ném cho mình, Nam Hoài Nhân cũng không khách khí nữa, tỉ mỉ quan sát chúng một phen, nào ngờ xem đi xem lại hắn cũng không nhìn ra chỗ bất phàm của hai thanh đoản đao này.
Hai thanh Kỳ Môn Đao trên tay Nam Hoài Nhân vẫn là hai thanh đoản đao được làm bằng sắt thường, rỉ sắt bám xung quanh như bằng chứng của sự tàn phá của thời gian, tuyệt không thấy một điểm khác biệt nào.
- Vì sao sư huynh chỉ chọn hai thanh Kỳ Môn Đao này?
Nam Hoài Nhân tin rằng Lý Thất Dạ đã quyết định chọn lấy hai thanh đoản đao ngay khi hắn bước chân vào Tàng Binh Các.
Lý Thất Dạ cười mỉm rồi trả lời:
- Nếu như ngươi cũng có thể nhìn thấu bí ẩn trong đó thì hai thanh đao này cũng chẳng nằm ở Tàng Binh Các lâu như vậy.
- Đây là bảo vật gì?
Nam Hoài Nhân khiêm tốn hỏi. Hắn thực sự không thấy được sự kỳ diệu của hai thanh đao này.
- Chúng không phải bảo vật.
Lý Thất Dạ lại cười đáp:
- Chỉ là hai thanh Kỳ Môn Đao làm bằng sắt thường mà thôi, tiền mua tài liệu của chúng còn thấp hơn cả hai lượng Bạch Ngân nữa kìa.
- Thế nhưng mà…
Câu trả lời của Lý Thất Dạ càng làm cho đầu óc của Nam Hoài Nhân loạn cả lên. Nếu như hai thanh Kỳ Môn Đao kia thực sự như lời Lý Thất Dạ nhận xét thì vì sao sư huynh lại nhất quyết lựa chọn chúng chứ?
Lý Thất Dạ lập tức giải thích nghi hoặc của Nam Hoài Nhân:
- Nhưng mà chúng chặt đứt binh khí cấp bậc Vương Hầu và bảo khí cấp bậc Chân Nhân như cắt đậu hủ vậy.
- Làm sao có thể!
Nam Hoài Nhân nghe mà thấy chấn động mạnh mẽ trong lòng, Vương Hầu đã là nhân vật có cấp bậc cường hãn rồi chứ đừng nói đến Chân Nhân. Từ ba vạn năm trước đổ lại, Tẩy Nhan Cổ Phái đã không còn có đệ tử nào tu luyện tới được cảnh giới như vậy rồi.
Lý Thất Dạ chỉ cười nhìn bộ dạng giật mình của Nam Hoài Nhân, chậm rãi nói:
- Ngươi rất thông minh, cũng có thể thấy rõ tình thế. Ta sẽ không bạc đãi người đi theo ta; cái gì Đế Thuật trọng tâm với Thánh Bảo cao cấp chỉ cần thích là có. Ngươi làm việc tốt, công lao lớn, ta sẽ để ngươi tu luyện cả những công pháp còn lợi hại hơn Đế thuật.
Những lời của Lý Thất Dạ như trống đánh trong lòng của Nam Hoài Nhân. Đừng nói sư phụ hắn, mà ngay cả sư tổ Tôn trưởng lão cũng không dám cam đoan như vậy, bởi vì hiện tại Tẩy Nhan Cổ Phái cũng chỉ còn lẻ tẻ vài môn Đế thuật cao cấp mà thôi.
- Đa tạ sư huynh.
Nam Hoài Nhân phục hồi lại tinh thần liền hướng Lý Thất Dạ bái tạ, còn Lý Thất Dạ thản nhiên nhận lời cảm ơn này.
Sau khi Nam Hoài Nhân rời đi, Lý Thất Dạ lại cầm lên hai thanh Kỳ Môn Đoản Đao, nhẹ nhàng vuốt ve lưỡi đao, thở dài nhớ lại chút chuyện xưa cũ.
Coi như có thành vô địch Tiên Đế thì đã làm sao? Tiểu tử Minh Nhân kia được hắn một tay bồi dưỡng, nhận lấy Thiên Mệnh, một đời vô địch thiên hạ, lại còn luyện thành Trú Thiên Thể, nhưng cuối cùng vẫn bị dòng sông thời gian xóa nhòa.
Lý Thất Dạ mài hết rỉ sắt trên thân đao, đem chúng trả lại nguyên vẹn thủa nào. Hai thanh Kỳ Môn Đoản Đao này không toát ra vẻ thần kỳ gì nhưng người ta lại cảm thấy chúng mang một phong cách cổ xưa vô cùng.
Đưa bàn tay gại nhẹ vào lưỡi đao, Lý Thất Dạ chậm rãi cảm thụ hàn khí tỏa ra. Đúng như tất cả mọi người nhận xét, hai thanh đoản đao này được làm từ sắt thường, giá trị không đáng một đồng, nhưng chúng lại có lai lịch động trời, vì hai thanh Kỳ Môn Đoản Đao là binh khí được Minh Nhân Tiên Đế sử dụng lúc còn trẻ.
Luận chất liệu, hai thanh đoản đao này không đáng giá được nhắc tới, nhưng chúng lại là binh khí tùy thân của một vị Tiên Đế. Khi Lý Thất Dạ hướng dẫn Minh Nhân Tiên Đế bước vào con đường tu đạo thì vị Tiên Đế này vẫn không cam lòng từ bỏ hai thanh đao của mình, một mực giữ chúng ở bên người, ngay kể cả sau khi gánh lấy Thiên Mệnh trở thành Tiên Đế.
Mỗi lần nhớ lại những chuyện trong ký ức, Minh Nhân Tiên Đế thường lôi hai thanh đoản đao ra, nhẹ nhàng vuốt ve chúng như muốn gửi tâm sự của mình vào thân đao.
Minh Nhân Tiên Đế tuy không có cải tạo lại hai thanh Kỳ Môn Đoản Đao này, nhưng chúng được ý chí một đời Tiên Đế vuốt phẳng và được huyết khí một đời Tiên Đế nuôi dưỡng, cho dù có làm bằng sắt thường cũng bất phàm. Một vị Tiên Đế là nhân vật cường đại cỡ nào? Chính là người gánh lấy Thiên Mệnh, chấp chưởng Càn Khôn, quân lâm Cửu Giới, quét ngang Bát Hoang.
Cho nên giá trị của hai thanh Kỳ Môn Đoản Đao này không nằm ở vật liệu chế tạo ra nó, cũng chẳng phải bản thân sắc bén của đao mà nằm ở Tiên Ý cường đại ẩn giấu trong đoản đao, binh khí được Minh Nhân Tiên Đế mang theo bên mình cả một đời và được vuốt ve không biết bao nhiêu lần.
Hàm ý của Tiên Đế là đồ vật vô cùng đáng sợ, tuy hai thanh đoản đao này không thể so sánh cùng Tiên Đế Bảo Khí hoặc Tiên Đế Chân Khí, nhưng chúng tuyệt đối mạnh hơn bảo vật của Vương Hầu, Chân Nhân và thậm chí cả Cổ Thánh rất nhiều lần. Một tia hàm ý của Tiên Đế có thể chém đứt hết thảy.
Lý Thất Dạ thong thả cảm nhận Tiên Ý hung mãnh và cường đại khôn cùng ẩn giấu trong thân đao.
Tất nhiên, trong khoảng thời gian ngắn hắn không thể dễ dàng tương thông với Tiên Ý, việc này cần phải kiên nhẫn và kỹ xảo. Lý Thất Dạ không vội, hắn chỉ chậm rãi cảm thụ, từ từ nắm bắt lấy Tiên Ý trong thân đao.
Trên thế gian này không có ai quen thuộc với Minh Nhân Tiên Đế hơn Lý Thất Dạ, người đã chỉ bảo, chỉ dẫn và bồi dưỡng Minh Nhân Tiên Đế trên con đường Đại Đạo mênh mông kia. Cũng vì thế mà không có ai quen thuộc với Tiên Ý của Minh Nhân Tiên Đế hơn hắn.
Trong những ngày tiếp theo, Lý Thất Dạ vẫn từng bước từng bước một tu luyện hai môn công pháp Nguyệt Qua Dương Luân Công và Côn Bằng Lục Biến, ngoài ra hắn còn dành chút thời gian mỗi ngày để cảm ngộ những Tiên Ý trong Kỳ Môn Đoản Đao.
Mặc dù Lý Thất Dạ là Đại đệ tử thủ tịch của Tẩy Nhan Cô Phái, nhưng chẳng có ai ngoài hai thầy trò Nam Hoài Nhân hỏi han đến việc tu lyện và tu hành của hắn cả.
Lý Thất Dạ giống như một cái bóng gần như trong suốt sống tại Tẩy Nhan Cổ Phái, ngay cả các vị trưởng lão cũng chẳng muốn biết tình huống của hắn chứ đừng nói tới những người khác. Đối với Tẩy Nhan Cổ Phái mà nói, có Lý Thất Dạ cũng được, mà không có Lý Thất Dạ cũng không có vấn đề gì.
Thành ra Nam Hoài Nhân lại là vị khách quen nhất của ngọn Cô Phong này, chỉ cần có thời gian là hắn liền đến thăm hỏi Lý Thất Dạ, đồng thời thu xếp tất cả những đồ vật cần thiết cho vị Đại sư huynh này; từ những khí cụ thông thường trong sinh hoạt cho đến Túi Càn Khôn vân vân.
Mạc hộ pháp cũng từng lên Cô Phong với ý định chỉ điểm Lý Thất Dạ một hai thứ trong việc tu hành, nhưng thấy Lý Thất Dạ hầu như cái gì cũng biết, việc chi cũng hiểu, ông ta thức thời bỏ ngay ý niệm trong đầu đó đi.
Rốt cục đã qua ba tháng, khi đang tĩnh tu thì Lý Thất Dạ chợt cảm thấy chấn động toàn thân. Trong giây lát, Mệnh cung của hắn phun ra nuốt vào liên tục từng vòng sáng, hai mắt của Lý Thất Dạ tỏa ra hào quang rực rỡ.
Ngay sau đó, trong Mệnh cung của hắn xảy ra biến hóa vô cùng kịch liệt: Sinh Mệnh Tuyền ở phía Đông bất chợt phún ào ào ra Sinh Mệnh Thủy, rồi Sinh Mệnh Thủy chảy róc rách không ngừng, dần dần hóa thành dòng suối nhỏ.
Ở phía Tây đột nhiên bùng lên ánh lửa ngất trời, Sinh Mệnh Hồng Lô bùng cháy, Hồn Hỏa trong đó thiêu đốt hừng hực tựa như có thể luyện hóa hết thảy các đồ vật trong tam giới.
Phía Nam cũng không chịu kém, từ Sinh Mệnh Thụ tỏa ra từng vòng hào quang sáng chói, cành lá chập chờn sống động. Trong một chớp mắt này, vô tận Sinh Mệnh Lực bao phủ lấy Sinh Mệnh Thụ, khiến nó như một con rồng lớn đang ngủ bỗng nhiên tỉnh lại hét vang một tiếng tràn đầy lực lượng cường hãn.
Cuối cùng phương Bắc cũng vang lên từng đạo âm thanh, Sinh Mệnh Trụ bừng bừng khí thế muốn câu thông trời đất, những đạo văn trên thân cột trụ tưởng như có sinh mạng vậy, lưu chuyển không ngừng.
Vào lúc này, Lý Thất Dạ cảm nhận được trong cơ thể hắn đã có cái gì đó tỉnh lại, Mệnh cung của hắn như một đứa bé mới chào đời mở mắt lần đầu tiên chứng kiến hết thảy mọi việc.
Tỉnh Giác! Cấp độ thứ hai của cảnh giới Khấu Cung chính là Tỉnh Giác, Lý Thất Dạ hắn đã bỏ ra đúng ba tháng để hoành thành cấp độ này.
Đồng thời những ký hiệu và đạo vận của Côn Bằng Lục Biến cũng trở nên sống động hân hoan vô cùng, lúc thì hóa thành một con Côn Bằng, khi thì quanh quẩn bên Chân Mệnh, lúc thì chui vào trong Chân Mệnh hoặc hóa thành cá bơi trong làn nước chảy thỉnh thoảng tung mình nhảy vọt lên trên không trung rồi rơi ào xuống.
Nội tâm của Lý Thất Dạ tràn đầy cao hứng, hắn hít sâu một hơi, rốt cuộc đã không uổng phí thời gian. Đi vạn dặm đường, bắt đầu tại nửa bước. Đây là một sự khởi đầu hoàn toàn tốt!
Nếu như những tu sĩ khác phải bỏ ra ba tháng thời gian mới tiến vào cấp bậc Tỉnh Giác thì họ sẽ chẳng thấy cao hứng gì, mà có khi còn thấy mình thật ngu xuẩn.
Sau khi Chân Mệnh lại vùi vào giấc ngủ, Lý Thất Dạ dẹp cảm giác cao hứng sang một bên, tiếp tục từ từ tu luyện đến cấp độ cao hơn.
Lý Thất Dạ hiểu rõ hơn ai hết câu “cần cù bù thông minh”, nếu thiên phú và thể chất của hắn không bằng người thì cần phải chăm chỉ và kiên trì tu luyện để bù vào. Một khi đạo tâm của hắn kiên định, bền bỉ không gì lay chuyển nổi, một ngày nào đó hắn sẽ ngao du sông núi, vượt lên tận nơi cao nhất, gánh lấy Thiên Mệnh và quét ngang Cửu Giới.
Người chậm cần bắt đầu sớm, người ngu thì phải cần cù. Trong những năm tháng xa xưa, Lý Thất Dạ từng chứng kiến rất nhiều cường giả có tư chất bình thường nhờ chăm chỉ tu luyện mà thành những người vô cùng cường đại, thậm chí vô địch một đời, nhưng hắn cũng thấy qua bao nhiêu thiên tài cuối cùng cũng rơi vào bi kịch, không có một cơ hội nào ngóc đầu lên nổi.
Một tu sĩ không thể chỉ cần thiên phú và thể chất là đủ, mà còn phải có một đạo tâm vững chắc, một tấm lòng tu đạo bền bỉ; một ngày nào đó tu sĩ đó sẽ là người cười cuối cùng, một ngày nào có người đó sẽ đứng trên bậc cao nhất nhìn xuống.