[Lịch sử- Xuyên Việt]Phương Đông Quật Khởi - Tác giả: Hoàng Anh
Trích:
Đây là tác phẩm đầu tay nên còn nhiều sai sót. mong mọi người bỏ qua và góp ý giúp mình hoàn thiện tác phẩm này
Phương Đông Quật Khởi
Tác giả:Hoàng Anh
Cuộc đời của Phan Văn Hoàng sẽ ra sao khi vô tình quay trở lại năm 1855. Cậu sẽ làm gì vào thời gian ấy, sống 1 cuộc sống bình thường hay thay đổi vận mệnh đất nước khỏi ách đô hộ của Pháp.......................
Chương: 1 Cuộc sống mơi
Hắn đã ở đây được gần 1 tháng, theo như hắn biết thì hắn đang ở năm Ất Mùi thời vua Tự Đức. Hắn Phan Văn Hoàng là một thanh niên năm 2014, 22 tuổi sống tại tp Huế. Là một sinh viên IT đại học Đà Nẵng chuẩn bị ra trường. Trong một lần đi săn khi được về nhà nhân ngày nghĩ 26/3 thì hắn vô tình về đây.
Thời gian đầu hắn rất hoảng hốt nhưng rồi hắn cũng dần dần thích ứng với cuộc sống hiện tại. Hắn đang sống với Trịnh Võ và Trịnh Diễm Quỳnh trong một ngôi nhà nhỏ tại làng Phò Trạch huyện Phong Điền phủ Thừa Thiên( hiện tại là thị trấn Phong Điền- huyện Phong Điền - tỉnh Thừa Thiên Huế), làng có 36 hộ với 237 nhân khẩu. Trịnh Võ 19 tuổi là một người giỏi võ, thường giúp bà con trong làng, Trĩnh Diễm Quỳnh 16 tuổi, là một cô gái dễ thương, xinh xắn và tinh nghịch, rất được mọi nguời trong làng yêu quí.
Gia sản của hắn hiện có 1 đồng hồ đeo tay, 1 điện thoại sky(nhưng đã hết Pin), 1 hộp quẹt zippo, 1 khẩu súng săn 631 tiệp 9kg và 3 hộp đạn chì khoản 120v, 1 dây chuyền vàng( 1 lượng vàng) và 1 nhẫn vàng.
Do Hoàng biết nhiều tri thức nên được người trong làng tôn kính và tôn làm Hương Sơ của làng. Chức Hương Sư thời Nguyễn tôn quý hơn thời Pháp thuộc. Vào thời Pháp thuộc, Hương Sư là chỉ thầy giáo làng, những người dạy học ở thôn quê. Còn Hương Sư thời Nguyễn là chức vụ được kính trọng nhất trong làng, chỉ dành cho người tài đức và không thường có.
Trong làng Phò Trạch còn có 6 người nữa là Hương Cả, Hương Chánh, Hương Quản, Hương Thân, Cai Tuần và Biện Đình (cũng là ông từ giữ đình). Kiêm quản cả 6 xóm dân cư nhỏ quanh đó. Mỗi xóm chỉ có khoảng chục hộ với vài chục nhân khẩu, được gọi là một ấp, có Trưởng ấp quản lý. Thời xưa, làng xã hoạt động theo cơ chế tự trị tự quản, triều đình chỉ quản lý đến cấp huyện, do đó mới có câu “Phép vua thua lệ làng”. Làng Phú Thạnh cùng với 16 ấp lân cận được tính là một tổng, gọi là tổng Phò Trạch, thuộc huyện Phong Điền,phủ Thừa Thiên Huế, nước Đại Nam.
Theo Minh Điều Hương Ước được triều Nguyễn ban hành năm Tự Đức thứ năm (tức Tây Lịch 1852), các làng tùy theo lớn nhỏ mà được tùy nghi công cử các chức vụ của Hội Đồng Kỳ Mục như sau :
1. Trưởng Mục : (có nơi gọi là Cả Trưởng, Hương Trưởng, ... và phổ biến là Hương Cả) là Hương chức đứng đầu Hội đồng Kỳ mục, được quyền đề cử nhân sự vào hội đồng.
2. Hương Chủ : Phó Trưởng Mục, là Hương chức chịu trách nhiệm luật lệ, được quyền phân xử các vụ việc khiếu kiện.
3. Hương Sư : Hương chức làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra. Tiêu chí phải là người mẫu mực, mô phạm (nhiều làng không cử chức này để khỏi bị thanh tra).
4. Hương Chánh : làm nhiệm vụ thu thuế, chi xuất, phân công sai phái. Tiêu chí phải là người công bình ngay thẳng.
5. Hương Quản : chức vụ chuyên trách giữ gìn an ninh trật tự, kiểm tra nhân khẩu.
6. Hương Thân : làm nhiệm vụ giáo hóa thuần phong mỹ tục. Tiêu chí phải là trí thức, nhân sĩ hoặc quan lại hồi hưu.
7. Hương Hào : làm nhiệm vụ tuần phòng, kiểm tra an ninh trật tự. Tiêu chí phải là người hào hiệp, hay giúp đỡ người hoạn nạn.
8. Thôn trưởng : (có Phó thôn hoặc Lý trưởng giúp việc) là Hương chức trung gian giữa địa phương và chính quyền cấp trên. Người thừa hành công vụ thu các loại thuế, chi xuất nhu phí, giữ mộc triện.
9. Phó thôn : (tùy nơi, có khi gọi là Phó xã, Phó ấp, Phó phường) là chức việc phụ tá Thôn trưởng, giữ gìn sổ bộ của xóm ấp.
10. Lý trưởng : là chức vụ trưởng một lý (một xóm) theo Thôn trưởng sai phái, chỉ huy đội dân canh, thúc giục dân đóng thuế.
11. Cai lân : Thừa sai của Lý trưởng, phân xử các việc trong lân.
12. Trưởng ấp : tương tự như Cai lân, thừa sai của Lý trưởng.
13. Cai tuần : Đội trưởng dân tuần phòng.
14. Biện Đình : ngang hàng với Lý trưởng, là thư ký giúp việc khi làng tổ chức lễ hội Kỳ yên, nhưng có thể giúp Thư lại khi tu chỉnh sổ bộ.
15. Thư lại : thư ký.
Hoàng đã suy nghĩ rất nhiều không biết bây giờ và tương lai nên làm gì, sống một cuôc sống đơn giản, bình thường qua ngày hay làm nên một phen sự nghiệp, giải cước đất nước khỏi ách đô hộ của Pháp. Hoàng đang suy nghĩ thì có tiếng của Quỳnh vọng vào:
- Anh Hoàng ơi!!! anh có trong nhà khôn?
- Chi rứa Quỳnh?
- Bác Hoằng kêu anh qua nhà bác có chuyện chi tề.
Trương Như Hoằng là Hương cả của làng, được 36 tuổi có 3 người con. Con trưởng Trương Như Thanh 19 tuổi, con gái thứ nhì Trương Thị Ngọc 17 tuổi, và con trai út Trương Như Cương mới 11 tuổi. Như Hoằng rất được nguwoif trong làng kính trọng vì học thức và hiền lành. Thường giúp đỡ những người khó khắn trong làng, cả 3 nguời con điều giỏi giang và ngoan ngoãn. Đặc biệt là con út Như Cương rất thông minh và hoạt bác là một danh nhân của Phong Điền sau này.
Từ nhà Hoàng đến nhà Hương Cả Như Hoằng đi bộ mất 15 phút.
- Thưa bác!! bác kêu tôi qua có chuyện chi thế?
- Trên huyện vừa gửi công văn xuống nói là có một tội phạm người Tây dương trốn ngục chạy vào vùng ta nên kêu cậu đến xem chúng ta nên làm răng?
- Theo ta thấy thì chúng ta cứ như bình thường có răng mô ạ.
Hoàng thấy khuôn mặt ông Hoằng hơi trầm tư.
- Ta sợ quan Huyện nói chúng ta bao che tội phạm.
- Vùng ta có nhiều thôn, làng mà. Chắc chi đã trốn vào làng ta mà lo.
Ông Hoằng vui mừng nói
- uk. để ta nói với người trong làng chú ý.
Hoàng trầm tư chút rồi nói:
- Theo ta thấy thì chúng ta nên lo lắng làm thế nào khi Đế quốc Pháp xâm lược nước ta tề.
Trên mặt ông Hoằng hoảng lên nói:
- cậu đừng nói những lời đấy, để người ta bắt được là bị chém đầu đấy.
- Do bác ít ra ngoài nên bác khôn biết chứ theo cháu nghĩ khôn sớm thì muộn rồi nước mình cũng bị Pháp xâm lược.
- Thế Pháp là nước nào mà ta khôn biết?
- Thế giới được chia làm Tây phương và Đông phương. Tây phương liệt cường như Pháp Lan Tây, Anh Cát Lợi, Tây Ban Nha, Nga La Tư, ... đều hùng mạnh, nước Pháp tức là Pháp Lan Tây, thuyền pháo rất lợi hại. Còn Đông phương mạnh nhất là Đại Thanh, tức nước Tàu.
Ông Hoằng gật đầu nói.
- Nước Tàu thì ta biết. Họ đất rộng người đông, tuy đánh không lại nước ta, nhưng rất hùng mạnh, khôn thể xem thường. Triều đình nước ta vẫn phải nạp cống xưng thần với họ để tránh chiến tranh.
Hoàng nói :
- Phía nam nước Tàu có Đại Nam, Xiêm La, Miến Điện. Phía đông có Nhật Bản, Triều Tiên. Phía tây nam có Ấn Độ, Ba Tư. Các nước Ấn Độ, Ba Tư, Miến Điện đều đã bị Tây phương liệt cường chiếm làm thuộc địa. Các nước phía nam nước ta như Mã Lai, Java đều đã bị thực dân. Ngay cả Đại Thanh mấy năm trước cũng bị đánh bại, phải cắt đất, cống nạp tiền của để cầu hòa. Trong khi đó nước ta lại học theo Đại Thanh, không chịu thông thương với Tây phương liệt cường, sớm muộn gì cũng sẽ bị đánh.
Ông Hoằng ngạc nhiên hỏi :
- Khôn chịu thông thương là sẽ bị đánh ư ?
Hoàng nói :
- Tây phương liệt cường thật ra là một đám thương nhân. Bọn họ sản xuất ra hàng hóa, cần nơi tiêu thụ. Nước nào không chịu cho bọn họ tiêu thụ hàng hóa sẽ bị xem là kẻ thù, sẽ bị đánh.
Ông Hoằng nói không chắc chắn lắm :
- Quân Tàu còn đánh không lại quân ta. Bọn họ chưa chắc đã làm gì được.
Hoàng nói :
- Bọn họ có đại pháo rất lợi hại, bắn vào đâu là nơi đó bị san bằng, cả thành quách cũng khôn còn. Những tòa thành lớn ở nước Tàu được xây bằng đá cũng còn khôn chịu nổi. Nói gì đến mấy tòa thành xây bằng đất hay bằng tre gỗ ở nước ta. Súng ống của bọn họ cũng rất lợi hại. Chỉ hơn nghìn quân là có thể đuổi mấy chục vạn quân Thanh chạy dài.
Vào thời Gia Long, nước ta có thành Gia Định được xây bằng đá. Nhưng sau loạn Lê Văn Khôi, triều đình Huế đã cho san bằng thành Gia Định, xây lại thành mới bằng đất. Cả Bắc thành (tức thành Hà Nội) cũng bị vạt bớt cho thấp đi. Cả nước chỉ có duy nhất kinh thành Huế được xây bằng đá. Còn lại thì tỉnh thành xây bằng đất, phủ thành và huyện thành xây bằng tre gỗ. Làm như thế thì triều đình không sợ địa phương nổi loạn, nhưng khi gặp giặc ngoại xâm thì ...
Ông Hoằng kinh hãi thất sắc, hỏi :
- Theo cậu thì khi nào bọn họ sẽ đánh nước ta ?
Hoàng trầm ngâm giây lát, rồi nói :
- Tối 3 một năm nữa.
Thật ra thì theo lịch sử chỉ sau nửa năm nữa, đến ngày 31/8/1858 thì liên quân Pháp – Tây Ban Nha sẽ tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến xâm lược Đại Nam. Nhưng Hoàng đến đây, không biết có gây ra hiệu ứng gì không, nên trừ hao thời gian. Ông Hoằng run giọng hỏi :
- Theo cậu thì chúng ta phải làm răng?
Hoàng trầm ngâm giây lát, rồi nói :
- Ta chỉ có thể bảo hộ được những người ở đây mà thôi. Còn với cả nước thì ... vua quan triều đình ngoan cố lắm, ta đành chịu.
Ông Hoằng thất vọng hỏi :
- Vậy nước ta hết cứu rồi sao ?
Hoàng nói :
- Khôn phải hết cách cứu, nhưng cần phải có thời gian.
Ông Hoằng mừng rỡ hỏi :
- Vậy chúng ta phải làm sao?
Hai người cùng xúm lại bàn bạc một hồi, rồi ông Hoằng vội vã đi gặp các Hương chức khác trong làng.
Mới tập viết lỗi chính tả còn nhiều quá mong mọi người thống cảm. sau khi up lên đọc lại mới thấy.
Chương: 2 Gặp hải tặc trên đảo
Chương: 2 Gặp hải tặc trên đảo
Từ sau cuộc đàm thoại giữa Hoàng và ông Hoằng, cuộc sống của Hoàng đã có những thay đổi đáng kể. Theo yêu cầu của dân làng Hoàng đã mở lớp dạy chữ quốc ngữ cho dân làng. Ở lớp của Hoàng, mới bắt đầu chỉ thanh niên và trẻ nhỏ đến học. Dần dần cả dân làng cũng tham gia vào lớp học, bởi vì Hoàng không chỉ dạy chữ Quốc Ngữ mà còn truyền thụ nhiều kiến thức phổ thống cần thiết cho cuôc sống vào thời hiện đại nhưng rất cao xa vào thời này.Ngoài ra Hoàng thấy cuộc sống của dân làng quá đơn điệu, ban ngày đi làm, đến ban đêm thì đi ngủ nên Hoàng đã bày ra một số trò chơi cho dân làng giải trí. Nhờ đó uy tín của Hoàng trong làng ngày càng tăng.
Nghĩ đến việc chiến tranh sắp nổ ra, liên quân Pháp – Tây Ban Nha sắp tấn công xâm lược Đại Nam quốc, Hoàng thấy rằng cần phải có một lực lượng vũ trang để tự bảo vệ mình giữa cảnh chiến loạn. Trong cảnh loạn lạc, mạng người như cỏ rác, nhất là mạng người Việt trước mũi súng hung ác của các đế quốc phương tây, nếu lỡ chết đi thì thật uổng công “Tạo Hóa” đã đưa Hoàng đến thế giới này.
Thế nhưng, ông Hoàng cho Hoàng biết rằng, Hội Đồng Làng không được phép tổ chức lực lượng vũ trang của làng, nếu không triều đình biết được sẽ bắt tội phản nghịch. Để giữ gìn trị an, mỗi làng chỉ có một số ít Tuần Đinh, với vũ khí chủ yếu là gậy gộc, tùy theo quy mô làng lớn nhỏ mà số Tuần Đinh khoảng 10 người trở lại. Mỗi huyện cũng chỉ có vài chục lính ít được huấn luyện. Ngay cả thành Gia Định là trọng trấn của Nam Kỳ, là kho gạo của kinh thành Huế, mà lúc bấy giờ cũng chỉ có 1.000 quân phòng thủ. Tướng Charles Rigault de Genouilly, tư lệnh liên quân Pháp – Tây Ban Nha trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Nam năm 1859, đã viết trong lá thư gửi Bộ trưởng Hải Quân Pháp đề ngày 29/1/1859 : “Sài Gòn lại là một vựa lúa. Nhân dân và binh lính ở kinh thành Huế sống một phần nhờ gạo Sài Gòn. Đến tháng ba thì thuyền chở lúa gạo sẽ kéo buồm từ Sài Gòn ra Huế. Chúng tôi quyết chặn số lúa gạo đó lại ...”. Như vậy, ngay cả người Pháp cũng biết rõ tầm quan trọng của Gia Định đối với Đại Nam. Vậy mà khi chiến tranh nổ ra, thành Gia Định chỉ có 1.000 quân phòng thủ, sau lấy thêm quân từ các tỉnh mới được 2.000.
Sau khi bàn bạc với ông Hoằng,Hoàng đành đổi sang cách khác, thành lập một lực lượng bảo vệ của riêng mình. Tuy triều đình không cho phép làng tổ chức lực lượng vũ trang, nhưng cũng không thể cấm những người có tiền có thế thuê người bảo vệ mình. Thời bấy giờ, những nhà quan quyền hay phú hộ đều có thuê người chuyên lo bảo vệ tính mạng tài sản của mình và gia đình.
Muốn thành lập lực lượng vũ trang thì phải có vũ khí. Hoàng không muốn đặt an nguy của mình trên những trang bị thô sơ như đao kiếm, giáo, mác, mà nhờ ông Hương Chanh tìm mua giúp súng đạn. Ông Hương Chánh Nguyễn Văn Hưng có nhiệm vụ thu thuế, nạp thuế cho triều đình, thường đi lên huyện nên có thể hỏi thăm người ngoại quốc tìm mua súng ống, và tìm người làm giúp một số đạn chì để mọi người tập bắn( khi xuyên qua thì khẩu 631 tiệp khắc cũng xuyên theo). Chiến tranh thời này còn sử dụng đao kiếm là ko thích hợp.
Trải qua vô vàn gian khổ, cuối cùng Hoàng nhờ ông Hương Chánh tìm mua giúp súng, sau khi hỏi thăm cũng mua được một khẩu súng trường mà nghe nói là vũ khí của quân Anh sử dụng ở bên Tàu, cùng với 300 viên đạn, và lượng thuốc súng tương ứng, tốn của Tuấn Văn hết 5 bảng Anh. Tuấn Văn cũng biết lời nói của người bán kia chẳng thể tin được, khẩu súng này chắc chắn là loại lạc hậu hơn vũ khí quân dụng của Tây phương liệt cường, nhưng so với mấy khẩu súng của quan quân nhà Nguyễn thì tiên tiến hơn nhiều, và quan trọng hơn là nó cùng nguyên lý với các loại súng của tây phương, sử dụng được loại súng này thì sau này có cướp được vũ khí của quân Pháp cũng sẽ biết cách sử dụng. Mua khẩu súng mất hết 5 bảng (tương đương 0,973 lượng vàng) cũng thấy tiếc, nhưng vì không thể mua ở đâu khác được, nên có bị nói thách cũng đành chịu. Phải biết rằng lương Tri huyện một năm, kể luôn tiền thưởng tết và khoản gạo trợ cấp, tính ra bảng Anh cũng chỉ có 6,91 bảng. Có thông tin nói rằng, khi quân đội Nhật Bản thay đổi vũ khí mới, mang những vũ khí cũ sang Hương Cảng bán, các loại súng trường lạc hậu chỉ bán 1 lượng bạc 1 khẩu, thậm chí có lúc 1 lượng bạc mua được 2, 3 khẩu. Sợi dây chuyền của Hoàng bán đi được 40 lượng bạc ( hơn 2 lượng vàng) sau khi mua súng và đạn còn 26 lượng bạc.
Theo quy định của triều Nguyễn, 1 lượng vàng = 17 lượng bạc, và 1 lượng bạc = 2 quan 3 tiền (1 quan = 10 tiền, 1 tiền = 60 đồng, nên 1 quan = 600 đồng).
Do việc mua súng ống quá khó khăn nên Hoàng nghĩ cách chiến đấu mà không phụ thuộc quá nhiều vào súng ống. Ngoài ra Hoàng phải nghĩ cách kiếm tiền, phải có tiền mới mở rộng được đội bảo vệ. Đội bảo vệ của Tuấn hiện chừ có 15 người. Sau khi thương lượng với ông Hoằng và dan làng. Hoàng quyết định tìm thuyền ra biển kiếm một hòn đảo hoạt động và phát triển.
Một tháng sau Hoàng và thêm 20 người nữa xuất phát ra biển, sau 2 ngày lênh đênh trên biển thuyền đã thấy 1 hòn đảo hoàng. Theo như suy đoán của Hoàng thì đây là đảo Cồn Cỏ Quảng trị hay Hòn Núc tỉnh Quảng Bình. Trên đảo có 1 con suối và vồng đất trống có thể trồng khoai hay bắp được. Thế là Hoàng quyết định tạm đặt căn cứ ở đây.
Mọi người trên đảo vừa làm việc vừa luyện tập võ nghệ và bắn súng, cứ như vậy 2 tháng trôi qua. Hôm nay đến lượt Hoàng, Võ, Quỳnh, Phương, Hùng vào kiểm tra vườn khoai ở trong núi. Đang làm thì nghe tiếng la hét và tiếng súng ở ngoài bờ biển. Mọi người chạy ra bờ biển thì thấy 1 chiếc thuyền và mấy người Tây dương. Hoàng bảo mấy người trốn vào bụi gần đó, khi nghe tiếng hét của 1 cô gái thì Hùng đứng dậy định chạy vào thì được Võ giữ lại và nói:
- Cậu định làm gì? cậu định hại chết cả chúng ta sao?
- Nhưng đó là vợ tôi!!!!
Hoàng nói:
- Bây giờ cậu vào đấy có cứu được Bích không?
Hùng quay lại hỏi Hoàng:
- Thế phải làm sao?
Hoàng trả lờiL
- Chúng ta sẽ trả thù.
Hùng hỏi:
- Bằng cách nào?
- Cậu cùng với anh Võ, và Phương vào rừng bắt rắn và tổ ong đem ra đây.
Sau khi quan sát thì Hoàng thấy bọn chúng có 14 tên, 5 tên lên bờ và 9 tên ở lại trên thuyền. Đợi đến đêm thì mọi người lẻn đến khu nhà giết 5 tên ở trong. Mọi chuyển diễn ra suôn xẻ do bọn chúng quá mệt khi lênh đênh trên biển và mới cưỡng hiếp 2 cô gái xong. Hoàng kêu Võ, Hùng, và Phương đem rắn và tỏ ong đến gần thuyền. Trên thuyền chỉ có 2 người gác nhưng ngồi nói chuyện với nhau. Đang nói chuyện thì hai người nghe tiếng động phía trước khi quay đầu qua xem thì Võ và Hùng từ phía sau áp sát cắt cổ hai người. Xong mọi thứ Hoàng nói mấy người thả những thứ vào trong khoan thuyền, mấy phút sau phía trong phát ra những tiếng la thảm thiết.
Phương nói:
- Thưa Hương Sư, khi nào chúng ta vào bắt chúng?
Hoàng trả lời:
- Chúng ta đợi đến lúc bọn chúng kiệt sức rồi vào bắt chúng.
Phương lại nói:
- Bọn chúng thật đáng giận? mọi người đã bị chúng hại, chỉ còn lại mấy người chúng ta.
Hùng chen vào:
- Ta phải giết sạch bọn chúng để trả thù cho vợ ta và mọi người.
Hoàng khẽ gật đầu. Nghĩ đến thảm cảnh của người theo mình, mọi người trong lòng đều nặng nề, yên lặng ngồi đó không nói tiếng nào.
Đến sáng, phía trong thuyền chỉ còn phát ra những tiếng rên rỉ, mọi người bơi ra bắt chúng, Hoàng dặn thêm:
- Bọn chúng chỉ ở trên thuyền, cũng chưa gây nên tội lỗi chi. Nếu bắt sống được thì hãy cố bắt sống. Ta cần hỏi cung bọn chúng.
Lát sau, bọn hải tặc trên thuyền được khiêng vào bờ, mặt mũi cả bọn đều bị ong chích sưng vù, trên người còn có nhiều vết rắn cắn, bộ dạng cực kỳ thê thảm. Loại “vũ khí sinh học” này mãi đến hơn một trăm năm sau, trong cuộc Đồng Khởi ở Bến Tre vẫn còn được sử dụng, và có hiệu quả rất tốt, đừng nói gì lúc này, người phương tây mới chỉ biết tới cách chiến đấu chính quy theo kiểu của họ.
Nhìn bọn hải tặc, thấy ai nấy đều đã kiệt sức, Hoàng khẽ lắc đầu, biết có hỏi cung lúc này cũng sẽ chẳng hỏi được gì, nên bảo khiêng bọn chúng về làng tìm cách chữa trị. Sau đó mọi người bắt đầu kiểm điểm chiến lợi phẩm.
Bọn hải tặc có 14 tên, bị giết 9 tên, bắt xống 5 tên. thu được 43 khẩu súng trường, 3 khẩu súng ngắn, 1 khẩu pháo( gắn trên thuyền) và rất nhiều đạn dược. Có thể bọn chúng vừa đánh cướp xong nên thuyền hư hại ko thể chạy được. Tiền bạc có rất nhiều, gồm 96 bảng Anh, 139 franc Pháp, 325 đô la Mỹ, và gần 1000 nén lượng bạc trắng Thanh triều(1 nến 10 lượng bạc) Ngoài ra còn có không ít hàng hóa như ngọc trai, tơ lụa, vải, nến, thiếc, ... là những thứ hàng hóa bán chạy thời bấy giờ. Đương nhiên, thứ có giá trị nhất chính là chiếc thuyền của bọn hải tặc, tuy bị hư hỏng khá nặng, nhưng sửa chữa lại sẽ vẫn sử dụng được. Đó là một chiếc thuyền buồm bằng gỗ nhỏ, dài hơn 20 mét, rộng khoảng 8 mét, tải trọng ước 300 tấn. Đối với ghe thuyền của dân làng Phú Thạnh thì nó rất lớn, nhưng đối với các hải thuyền thời bấy giờ, nó vẫn là một chiếc thuyền nhỏ. Ngay từ thời chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp hồi 500 năm trước, các hải thuyền đã có tải trọng vài trăm tấn. Thời này, chiến thuyền phải đến hàng nghìn tấn, chở được vài trăm người. Còn chiếc thuyền này chỉ là một chiếc thuyền gỗ nhỏ, chở được vài chục người. Thuyền đi biển khác thuyền đi trên sông hồ, chỉ chở được ít người, bởi phải mang theo thực phẩm, nước uống cho các chuyến đi dài ngày trên biển.
Chương: 3 Tình hình thế giới
Sáng hôm sau mọi người chôn cất người đã chết, tất nhiên là những xác chết bọn hải tạc phải để lại. Theo như Hoàng biết thì thời vua Tự Đức cấm và bắt giết người truyền đạo người ngoại quốc.
Đến sang ngày thứ hai thì mọi người lên thuyền quay trở lại đất liền. Chiếc thuyền của bọn hải tạc phải để lại đảo vì không thể chạy được. Hoàng quyết định lần sau trở lại sẽ tìm thợ sửa thuyền.
Khi trở lại làng Phò Trạch, Hoàng đã xin lỗi người thân cửa những người đã chết khi ở trên đảo và bồi thường cho những gia đình này 200 lượng bạc. Góp cho dân làng 100 lượng bạc.
Còn xác chết bọn hải tặc Hoàng giao cho Võ và Như Thanh( con trưởng Trương Như Hoằng) đem lên huyện nộp. Khi đi Hoàng kêu Thanh lại dặn thêm:
- Thanh này! chút nữa lên huyện cậu gặp riêng quan Tri Huyện thương lượng với ông ta là chúng ta nhận tiền thường, ông ta nhận công lao.
- Vâng!!! em biết rồi.
- Uk! các cậu đi sớm về sớm.
Sau khi Võ, Thanh lên huyện về thì Hoàng có thêm 50 quan nữa.
Hiện chừ là tháng 9 năm Ất Mùi(năm 1855), có nghĩa 3 năm nữa liên quân Pháp - Tây Ban Nha sẽ đánh vào bán đảo sơn trà. Hoàng còn 3 năm nữa để phát triển lực lượng vũ trang. Hiện chừ đã có súng, có tiền nên Hoàng quyết định mở rộng đội bảo vệ lên 100 người.
Do Hoàng trả công hậu hĩnh nên người đến rất nhiều. Hiện tại Hoàng có 44 khẩu súng trường, 3 khẩu súng ngắn, 3 khẩu súng ngắn thì Hoàng 1 khẩu, Võ 1 khẩu và giao cho Ông Hưng(Hương Chánh của làng) 1 khẩu vì ông thường hay đi lại. Còn Võ là đội trưởng đội bảo vệ nên có 1 khẩu.
Mấy ngày sau, Hoàng đang sắp xếp lại đội bảo vệ thì Hùng vào thông bào là bọn hải có mấy tên đã hồi phục. Hoàng ra lệnh đưa từng tên một vào phòng để thẩm vấn. Cũng may cho Hoàng là bọn này thường đi trên biển nên biết tiếng Anh dù không phải người anh.
Những kẻ nào ngần ngừ không chịu cung khai, Võ liền sai người đưa ra ngoài cửa đình, trước sự chứng kiến của dân làng, đánh cho một trận nên thân. Thậm chí, người dân nào ngứa tay, cũng có thể tham gia đánh bọn chúng một trận. Kết quả, số kẻ cứng đầu rất ít, bọn còn lại đều ngoan ngoãn cung khai.
Sau khi lấy khẩu cung từng tên một, đối chiếu với nhau, Hoàng mới biết được nguồn gốc sự viêc. Trên giấy tờ, bọn chúng không phải là hải tặc mà là thương nhân hợp pháp, có đăng ký và đóng thuế cho triều đình Tây Ban Nha. Nhưng thực tế, khi gặp “mồi” ngon, bọn chúng sẵn sàng hạ cờ Tây Ban Nha xuống, treo cờ hải tặc lên, thân phận từ thương nhân biến thành hải tặc, và đánh cướp. Vào thời đại này, những kẻ vừa là thương nhân vừa là hải tặc không hề hiếm. Thậm chí trong một số cuộc chiến tranh, triều đình các nước Âu châu còn cho phép thương nhân nước mình dùng danh nghĩa Hải quân bản quốc đánh cướp thương nhân nước đối địch. Khoảng 20 ngày trước, thuyền của bọn chúng thực hiện thành công một vụ đánh cướp, nhưng cũng bị thiệt hại nặng nề. Đối phương chống trả rất kịch liệt, nên sau khi tiêu diệt hết địch thủ thì thuyền của bọn chúng cũng trở nên tơi tả như Hoàng đã thấy. Thuyền của bọn chúng là thuyền buồm, mà buồm đã rách nát, bánh lái cũng hư hỏng, nên cũng kể như mất đi động lực, bị trôi dạt đến xứ này. Vừa đói vừa khát, gặp đảo có người, bọn chúng liền kéo lên cướp bóc. Ban đầu bọn chúng chỉ định cướp thực phẩm mà thôi, nhưng sau đó lại không nhịn được, cướp sắc, tiên dâm hậu sát, rồi mọi chuyện diễn ra như mọi người đã biết. Đương nhiên, chỉ có chủ thuyền, thuyền trưởng mới đáng kể là thương nhân, những kẻ khác cũng chỉ là người làm công mà thôi. Bọn chúng cũng chia làm hai loại : nhân viên kỹ thuật và nhân viên chiến đấu. Không giống với thời hiện đại, nơi mà nhân viên kỹ thuật được xem trọng hơn. Ở đây, nhân viên kỹ thuật là chỉ những thủy thủ không phụ trách chiến đấu mà chỉ lo việc kéo buồm, lái thuyền. Bọn họ có địa vị thấp nhất, do đó khi những người khác kéo lên bờ hưởng lạc thì bọn họ phải ở lại giữ thuyền, và nhờ đó đã thoát chết.
Xử lý bọn họ thế nào đây ? Sau một phen suy tính, Hoàng đã có chủ ý, liền quay sang nói với Hội Đồng Làng :
- Bọn chúng là hải tặc Tây Ban Nha, sau một chuyến cướp bóc, bị nạn nhân chống trả kịch liệt quá, nên thuyền bị hỏng, trôi dạt trên biển rồi gặp đảo ta. Sau một phen đói khát, lại là hải tặc, nên khi xông lên bờ đã gây ra thảm kịch trên đảo. Theo mọi người, chúng ta nên xử lý bọn này ra răng?
Ông Hưng nói:
- Giải bọn hắn lên nộp cho quan huyện là xong.
Ông Hoằng nói:
- Chúng ta mới nộp cho quan huyện một bọn, chừ nộp thêm bọn nữa e là không hay cho lắm. Nếu muốn nộp cho triều đình thì phải chờ thêm một thời gian nữa.
Ông Hưng noi:
- Chả lẽ để bọn hắn ở đây cho tốn cơm tốn gạo.
Ông Hoằng nói:
- Trông bọn hắn cũng lực lưỡng lắm, chắc có sức khỏe, chúng ta bắt bọn chúng làm việc, không tốn cơm vô ích mô.
Ông Hưng lo lắng nói:
- Bọn hắn không bải là hiền lành mô, để trong làng e là sinh chuyện.
Mọi người điều cười, Hoàng nói:
- Hải tặc tất nhiên là không hiền lành rồi.
Võ vỗ ngực đảm bảo.
- Có đội bảo vệ ở đây, bọn hắn chỉ có tay ko, không thể làm nên trò trống gì hết.
Hoàng nghe mọi người nói xong, mỉm cười nói.
- Được rồi, tạm thời để bọn chúng ở đây, dù răng bọn chúng chỉ ở trên thuyền nên cho bọn chúng một cơ hội. làm việc chuộc tội, hy vọng bọn chúng hối cải. Bằng không giải bọn chúng lên quan huyện.
Vận mện bọn hải tặc đã quyết định nên Hoàng lại nói:
- Sắp tới, khi thuyền sửa xong chúng ta đi Singapore một chuyến.
Mọi người nghe thế thì ngạc nhiên, Hùng hỏi:
- Đại nhân! Singapore là ở đâu
Hoàng lấy tấm bản đồ thu được trên thuyền của bọn hải tặc cho mọi người xem, rồi giải thích các địa danh trên đó. Bản đồ được in bằng tiếng Tây Ban Nha, những người khác nếu không được giải thích, có nhìn cũng không hiểu được. Tuấn Văn tuy không biết tiếng Tây Ban Nha, nhưng nhìn vị trí trên bản đồ, cũng đoán được nơi đó là nơi nào. Lần đầu mọi người biết được về thế giới bên ngoài nên đều thấy mới lạ, chú tâm lắng nghe. Tuy tấm bản đồ này không được chi tiết như các bản đồ thời hiện đại, nhưng vẫn biểu thị được hình dạng của thế giới, năm châu bốn biển. Lúc bấy giờ, trong thâm tâm của người Việt nói riêng, và người Á Đông nói chung, mọi người chỉ biết đến Trung Quốc là đất nước ở trung tâm thế giới, cùng với các nước xung quanh hợp thành “thiên hạ”. Khái niệm “thiên hạ” trong “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” là để chỉ loại thiên hạ đó. Nay biết được “thiên hạ” rất rộng lớn, Trung Quốc không phải là trung quốc, mà chỉ là một đất nước bình thường nằm ở một góc của thế giới, và so với Đế quốc Nga rộng lớn ở ngay phía trên thì Đại Thanh quốc rất nhỏ, rất nhỏ.
Phương chỉ tay vào Đế quốc Nga trên bản đồ, nói :
- Đại nhân. Nước này lớn ghê. Lớn gấp ba, bốn lần nước Tàu ấy chứ.
Hoàng nói:
- Đó là Đế quốc Nga. Người Tàu gọi là nước La Sát, hoặc Nga La Tư. Đế quốc Nga là nhất đẳng cường quốc trên thế giới đó.
Nếu không tính thuộc địa, Đế quốc Nga là quốc gia có diện tích lớn nhất thời bấy giờ, và nó nằm liền một dải, ngay trên Đại Thanh quốc, nên rất nổi bật. Còn nếu tính cả thuộc địa, Đế quốc Anh mới lớn nhất, có thuộc địa rải rác khắp thế giới, nên mới có câu “mặt trời không bao giờ lặn trên Đế quốc Anh”. Chỉ có điều, đất đai của Đế quốc Anh nằm rải rác khắp thế giới, nên không nổi bật bằng Đế quốc Nga.
Quỳnh là người thân với Hoàng nhất, vẫn thường hỏi Hoàng đủ thứ, liền hỏi vấn đề ai nấy điều hiếu kỳ.
- Anh Hoàng. Thiên hạ còn bao nhiêu cường quốc nữa ạ ? Nước Tàu thuộc mấy đẳng ? Nước ta thuộc mấy đẳng ?
Đây là điều mà mọi người đều thắc mắc, bởi trong thâm tâm mọi người xưa nay, nước Tàu vẫn là lớn nhất, mạnh nhất. Nay nghe thấy có nhiều nước lớn hơn, mạnh hơn nước Tàu nữa, nên ai nấy đều rất hiếu kỳ muốn biết.
Hoàng Mỉm cười trả lời:
- Các nước trong thiên hạ được phân thành tứ đẳng. Nhất đẳng và nhị đẳng là cường quốc, theo thông lệ, khi bang giao sẽ đặt quan hệ ở cấp đại sứ. Tam đẳng và tứ đẳng là nhược quốc, khi bang giao chỉ đặt quan hệ ở cấp công sứ. Nhất đẳng cường quốc gồm có Anh, Pháp, Phổ, Nga. Nhị đẳng cường quốc gồm có Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Hà Lan, Bỉ, Đan Mạch, Thụy Điển, Áo – Hung, Ba Lan, Ottoman. Tam đẳng quốc gia là những nước độc lập còn lại, như Đại Thanh, Đại Nam, Nhật Bản, Xiêm La, ... Còn tứ đẳng quốc gia là những nước bị bảo hộ, kiểu như Triều Tiên, Tây Tạng.
Quỳnh ngạc nhiên hỏi:
- Nước Tàu lớn như thế mà chỉ là tam đẳng quốc gia hay sao ạ ?
Hoàng nói:
- Nước Tàu lớn nhưng không mạnh, mấy chục vạn quân mà không đánh lại mười mấy nghìn quân Anh, phải cắt đất nạp tiền để cầu hòa, làm sao có thể xem là cường quốc được. Bọn họ thậm chí còn không đánh lại nước ta nữa mà.
Chương 4: Tình hình thế giới(Tiếp theo)
Đại quốc không có nghĩa là cường quốc. Đại Thanh quốc được công nhận là đại quốc, nhưng trừ những nước chịu ảnh hưởng của Đại Thanh quốc thì không ai công nhận nó là cường quốc cả. Trong cuộc chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất, Anh quốc chỉ phái vài nghìn quân là đã đánh bại mấy chục vạn quân Thanh. Khi quân Anh bắn pháo vào thành, quân Thanh thủ thành đã ném bỏ vũ khí, bỏ thành mà chạy. Quân Anh tấn công vùng duyên hải mà không gặp phải sự phản kháng đáng kể nào. Thanh triều yếu thế, buộc phải cắt đất nạp tiền để cầu hòa bằng Hiệp ước Nam Kinh (năm 1842), trong đó Thanh triều phải trả các khoản bồi thường chiến phí lớn, cho phép các thương gia Âu châu được đi lại không hạn chế tại các cảng của Đại Thanh quốc và nhượng Hương Cảng cho Anh quốc. Sau đó, nhiều nước khác như Pháp, Phổ, Nga, Ý, Tây Ban Nha, ... lại liên kết với Anh quốc tiến hành cuộc chiến tranh Nha phiến lần thứ hai, buộc Thanh triều phải nhượng bộ hơn nữa. Hiệp ước Thiên Tân (năm 1858) có nhiều điều khoản khắc nghiệt kiểu như yêu cầu tất cả các tài liệu chính thức của Đại Thanh quốc phải được viết bằng tiếng Anh, phải cho phép các chiến hạm của Anh quốc được đi lại không hạn chế trên các sông ngòi của Đại Thanh quốc, cắt nhiều vùng đất nhượng lại cho tây phương liệt cường làm tô giới.
Cho đến giai đoạn cuối thế kỷ 19, nước Mỹ vẫn chưa mạnh. Cuộc nội chiến giữa hai miền Nam – Bắc càng làm nước Mỹ yếu thêm. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Mỹ - Mexico thì nước Mỹ mới từ tam đẳng quốc gia biến thành nhị đẳng quốc gia. Nhưng cho đến trước cuộc chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha (năm 1898), thực lực hai nước được xem như tương đương nhau. Tây Ban Nha còn có một số thuộc địa ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ, trong khi nước Mỹ thì chẳng có chút thuộc địa nào. Tây Ban Nha cũng có tiếng nói quan trọng hơn trên trường quốc tế. Tây Tạng thời bấy giờ cũng là một quốc gia có chính phủ riêng, được bảo hộ bởi “Trung Quốc”, địa vị tương đương Triều Tiên quốc, bị xem như chúc quốc.
Trước đây, Đại Nam quốc cũng bị xem là chúc quốc của Thanh triều, nhưng chỉ trên danh nghĩa. Triều đình nhà Nguyễn cứ bốn năm mới phái sứ giả sang triều cống một lần, và cống phẩm cũng không nhiều. Các vua nhà Nguyễn chỉ xưng thần với Thanh triều một cách hình thức, còn thực chất họ cho rằng họ bình đẳng với Hoàng đế của Đại Thanh quốc, nên cũng xưng hiệu là Hoàng đế. Các phái đoàn đi cống của Đại Nam quốc, ngoài việc đưa đồ tiến cống còn thực hiện việc trao đổi mua bán sản phẩm không có trong nước, vì Thanh triều không cho phép thương nhân Đại Nam sang buôn bán ở Đại Thanh quốc, còn triều đình Đại Nam cũng duy trì lệnh cấm dân chúng xuất cảnh để ngăn chặn việc xuất lậu vật phẩm sang Đại Thanh như gạo, muối, vàng bạc, đồng, sừng trâu, ngà voi, ... Vì vậy, quan hệ triều cống chỉ có ý nghĩa tượng trưng. Nhiệm vụ chủ yếu của sứ đoàn, ngoài việc trao đổi hàng hóa, còn được lệnh quan sát cẩn thận tình hình của Đại Thanh quốc để về báo cáo lại với nhà vua. Các sứ thần không hoàn thành nhiệm vụ này đều bị trách phạt. Khi cảm thấy Đại Thanh đã suy yếu, vua Minh Mạng đã từng sai sứ sang Tàu xin Thanh triều cho phép đổi quốc hiệu “Việt Nam” (quốc hiệu mà Thanh triều đặt cho nước ta lúc bấy giờ) thành “Đại Nam” ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên triều đình Mãn Thanh không chính thức chấp thuận. Đến ngày 15 tháng 2 năm 1839, vua Minh Mạng mặc kệ phản ứng của Thanh triều, chính thức công bố quốc hiệu là Đại Nam (để đối ứng với Đại Thanh ở phương bắc). Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945. Hành động này chứng tỏ các vua nhà Nguyễn cho rằng họ bình đẳng với Hoàng đế Đại Thanh. Đồng thời, tây phương liệt cường cũng đánh giá cao vị thế của Đại Nam quốc. Trong việc bang giao, tây phương liệt cường đều xem Đại Nam quốc là Đế quốc, các vua nhà Nguyễn là Hoàng đế. Trên tấm bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp, nước ta có cương thổ rất rộng, và được gọi là “Empire D’Annam”. Ngoài ra, Đại Nam cũng là nước Á Đông đầu tiên mà nước Mỹ muốn thiết lập quan hệ ngoại giao. Vào các năm 1832 và 1836, Tổng thống Mỹ Andrew Jackson đã gửi đại sứ Edmund Robert sang đàm phán với vua Minh Mạng về quan hệ mậu dịch song phương, chỉ đáng tiếc đã bị triều đình nhà Nguyễn từ chối. Những hành động bế quan tỏa quốc và bất hợp tác đó của triều Nguyễn đã khiến tây phương liệt cường bất mãn, rồi cùng với sự cấm đạo, giết hại giáo sĩ đã khiến quan hệ dần dần trở nên đối lập, dẫn đến chiến tranh
Thời bấy giờ, Âu châu có khoa học kỹ thuật phát triển vượt trội hơn hẳn phần còn lại của thế giới nên đã trở thành trung tâm của thế giới, tây phương liệt cường cũng tự xem là đại biểu cho toàn thế giới, bởi chỉ cần xưng bá Âu châu cũng đồng nghĩa với việc trở thành đệ nhất cường quốc của thế giới và có thể buộc các nước khác phải làm theo ý mình.
Với lực lượng Hải quân hùng hậu, các chiến thuyền và thương thuyền của Đế quốc Anh tung hoành khắp bốn đại dương, khống chế hầu hết các tuyến hàng hải của thế giới, do đó cũng trở thành đệ nhất cường quốc. Đế quốc Nga bị bao vây trong lục địa, đang cố gắng mở đường ra biển, nên tuy quốc lực hùng hậu nhưng tạm thời vẫn chưa có tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế. Đế quốc Pháp dưới sự cai trị của Hoàng đế Napoleon III có lực lượng lục quân hùng mạnh, có nền kinh tế phát đạt, có số thuộc địa kém Anh quốc một chút, là đệ nhị cường quốc. Chỉ có điều, địa vị của Đế quốc Pháp đang bị uy hiếp bởi Vương quốc Phổ ở phía đông.
Vương quốc Phổ được thành lập năm 1701 trên nền tảng công quốc Phổ - Brandenburg, với vị quốc vương tự phong Frédéric I de Prusse. Các vua Phổ phần lớn đều anh minh và vũ dũng, phát triển một lực lượng quân đội hùng mạnh cho vương quốc Phổ và tham gia hầu hết các cuộc chiến tranh ở nội lục Âu châu với những chiến thắng huy hoàng, đến nỗi tờ báo “Times” ở Anh từng có bình luận :
“Hầu như tất cả mọi chiến thắng quyết định sự sa ngã của nhà chinh phạt này (Napoléon) đều có nước Phổ tham gia. Quân đội Phổ luôn luôn tham chiến trong cả hai trận đánh tại Lutzen và Bautzen; Quân đội Phổ cũng luôn luôn tham chiến trong cả hai trận đánh tại Grossberen và Leipzig; Quân đội Phổ cũng luôn luôn tham chiến trong những trận đánh trên nước Pháp, và cuối cùng, Quân đội Phổ luôn luôn tham chiến trong trận đánh tại Waterloo. Người chiến binh Phổ đã thể hiện anh ta là người chiến binh xuất sắc nhất trong những chiến dịch này”.
Sự trỗi dậy của vương quốc Phổ đã uy hiếp địa vị của Đế quốc Áo trong Liên minh các quốc gia Đức, cũng như địa vị của Đế quốc Pháp đối với lục địa Âu châu. Đến giữa thế kỷ 19, vương quốc Phổ đã kiểm soát được khoảng một nửa lãnh thổ trước đây của Đế quốc La Mã Thần thánh Dân tộc Đức, có một lực lượng quân đội đông đảo và thiện chiến, tạo ra nền tảng vững chắc cho những cải cách của Otto von Bismarck (lên làm thủ tướng Phổ năm 1862) trong tương lai, giúp vương quốc Phổ thống nhất các quốc gia Đức và phát triển thành Đế chế, với thời kỳ hoàng kim kéo dài đến mấy chục năm.
Trong lúc vương quốc Phổ đang tích cực chuẩn bị chiến tranh thì Đế quốc Pháp vẫn ngủ quên trên sự thịnh vượng của mình. Triều đình Pháp chỉ mải chú ý đến các lợi ích ở Viễn Đông, hết tấn công Mãn Thanh lại chuẩn bị xâm lược Đại Nam, mà quên đi mối nguy hại ở ngay bên cạnh. Có lẽ đó cũng là nguyên nhân cho sự thất bại thảm hại sau này của họ.
Ở nước Mỹ, sự phát triển mạnh mẽ của tư bản công nghiệp ở miền bắc đòi hỏi phải có nhiều lao động hơn nữa, do đó đã có cuộc vận động bãi bỏ chế độ nô lệ, dẫn đến xung đột với những thế lực ủng hộ chế độ nô lệ ở miền nam (chủ yếu là các chủ nông trại). Sự xung đột đó ngày càng trở nên trầm trọng, nhiều cuộc xung đột bạo lực đã nổ ra và nguy cơ nội chiến đang đến gần. Nước Mỹ lúc này rất yếu và hầu như không có tiếng nói gì trên trường quốc tế.
Ở Đông Bắc Á, Trung Hoa đại lục đang có cuộc nội chiến đẫm máu giữa triều đình Mãn Thanh và Thái Bình Thiên Quốc; Mạc phủ Tokugawa ở Nhật Bản đang gặp phải sự chống đối mạnh mẽ từ giới quý tộc, vũ sĩ, và đặc biệt là các đại danh lớn ở miền tây. Ở Đông Nam Á, trừ Xiêm La vẫn còn độc lập, Đại Nam đang có nguy cơ bị xâm lược, Miến Điện bị mất phần lớn lãnh thổ vào tay Đế quốc Anh, thì phần còn lại đều là thuộc địa của tây phương liệt cường. Và phần còn lại của thế giới cũng thế.
Thế kỷ 19 có thể xem là thời kỳ hoàng kim của Âu châu và cũng là đêm đen của phần còn lại.