Màn đêm buông xuống cũng là lúc những cơn gió phương Bắc ngưng rít gào. Trong không gian tĩnh mịch, từng bông hoa tuyết vô thanh vô tức rơi xuống phủ kín hoàng cung nước Đại Kim, khiến sự cô đơn lạnh lẽo nơi đây càng thêm nồng đậm.
Ba năm trước kể từ sau khi được Hy Tông hoàng đế cho mở rộng, hoàng cung ở Thượng Kinh có thêm vô số đình ốc, lại chạm trổ thêm không biết bao nhiêu kim ngân bảo thạch, vẻ quý phái hùng vĩ chẳng thua gì thành Biện Lương nhà Tống năm xưa. Từ trong đêm sâu nhìn ra xa, Kiền Nguyên điện, Khánh Nguyên cung, Minh Đức điện, Vũ Đức điện... các cung điện lầu các trùng trùng điệp điệp như những dãy núi đồ sộ. Những mặt hồ bị đóng băng, những hòn giả sơn khẳng khiu, những mái hiên so le đọng đầy mảng tuyết trắng, tất cả dưới ánh đèn lồng đỏ hiu hắt phản chiếu nên một thứ ánh sáng mông lung, u uất.
Chính vào lúc này, vài đại hán đầu đội mũ chồn, thân khoác áo lông dày đội tuyết mà tiến về phía cửa cung.
- Đứng lại. Có chuyện gì?
Phát hiện ra đám người, các thị vệ trước cửa cung bèn cất giọng hỏi.
- Không nhận ra ta sao?
Một người trong đám đại hán cất giọng sang sảng hỏi lại. Nghe vậy thị vệ liền đưa đèn lồng lên chiếu vào, nhận ra người nói là phò mã đương triều Đường Quát Biện, sau đó lại nhận ra còn có cả Nội thị tổng quản Đại Hưng Quốc. Đại Hưng Quốc là thống lĩnh cấp cao nhất của thị vệ trong cung, nhận ra y tất cả mười mấy người thị vệ đều chỉnh đốn tư thế nghiêm trang thêm vài phần.
Đại Hưng Quốc lắc lắc chùm chìa khóa trong tay, cười khan:
- Sắp tới sinh nhật Tấn vương điện hạ, đám thị vệ chúng ta cũng nên tận tâm một chút.
Đám thị vệ nhất tề cười bồi theo, họ không nhận ra sự run rẩy trong tiếng cười của thượng cấp.
Đám người Đường Quát Biện, Đại Hưng Quốc vừa bước chân vào hoàng cung một luồng gió lạnh liền ập tới, khiến ai nấy đều bất giác rụt cổ vào trong tấm áo lông cừu, không chỉ ngoài mặt buốt, mà trong lòng cũng nổi lên một thứ cảm giác lạnh lẽo khó tả.
Tuy nhiên trong số họ có một người vẫn giữ được sắc mặt điềm tĩnh, bước chân khoan thai mà tiến lên. Người này thân hình cao lớn, khoác chiếc áo hồ ly màu hoàng kim, ngực áo mở phanh ra theo phong cách của người Nữ Chân, bên trong lộ ra chiếc khâm bào làm từ vải bông trắng như tuyết. Thời Tống Kim, vải bông sản lượng cực ít, trân quý chẳng kém chi lụa tơ tằm, mà chiếc áo bông này lại mang mà trắng, là màu mà người Nữ Chân sùng bái nhất, tất cả tạo nên một vẻ phi phàm bất tục, khiến người mặc nổi bật lên trong giữa đám người.
Phò mã Đường Quát Biện nhìn chằm chằm người nọ, bất giác nghĩ: "Hoàn Nhan Lượng thực xứng là bậc đại kiêu hùng. Hành thích hoàng đế là chuyện đại nghịch bất đạo, một khi chuyện không thành thì thân bại danh liệt, tru di cửu tộc là không trảnh khỏi, vậy mà y vẫn có thể trấn định được như vậy."
Thì ra vị hoàng đế nước Đại Kim hiện nay Hy Tông Hoàn Nhan Đản, vốn cũng có thể coi là một vị hoàng đế có chí lớn. Từ sau khi y đăng cơ làm hoàng đế, trọng đãi hiền tại, nam chinh bắc chiến, bắt Tây Hạ, Cao Ly xưng phiên, lại dùng vũ lực ép Đại Tống cùi đầu xưng thần, ký vào bản hòa ước Thiệu Hưng, mỗi năm phải cống nạp cho Đại Kim hai mươi lăm vạn lượng. Nhưng mấy năm trở lại đây, Hy Tông ngày càng sa đà vào tửu sắc. Tửu sắc vô độ đã bào mòn vị hoàng đế cơ trí uy dũng năm xưa, tính cách y trở niên hung bạo, tâm trạng hỷ nộ vô thường, thậm chí đã bắt đầu sát hại đại thần bừa bãi, bất kể thân thích, bất kể tội danh, chỉ cần tâm trạng y không tốt liền giết. Vài năm nay quan chức trong triều bất luận lớn nhỏ, mỗi lần lên triều là một lần lên pháp trường, trước khi đi đều phải dặn dò thân thích chuẩn bị sẵn hậu sự.
Hành vi của Hy Tông dĩ nhiên khiến quan lại trong triều cảm thấy bất an, càng khiến cho một số trọng thần bắt đầu nảy sinh dị tâm, mà đứng đầu trong số đó chính là Hoàn Nhan Lượng.
Cha của Hoàn Nhan Lượng là Hoàn Nhan Tông Cán, vốn là thúc phụ, đồng thời cũng là người nuôi nấng Hy Tông hoàng đế. Hoàn Nhan Lượng mười tám tuổi tòng quân chinh chiến, lòng nuôi chí lớn, tầm mắt cao xa. Vì y là đường đệ của Hy Tông nên con đường làm quan cũng thuận buồm xuôi gió lắm, hai năm trước thăng lên làm Thượng Thư Tả Thừa quyền cao chức trọng, một năm sau lại thăng lên làm Bình Chương Chính Sự, kiêm chức Đại Đô Soái. Hoàn Nhan Lượng nắm được đại quyền trong tay dã tâm càng trở nên bành trướng, điều ấy thể hiện qua những câu thơ mà y từng lén ngâm:
等待一朝头角就
Đẳng đãi nhất triều đầu đầu giác tựu
( Đợi tới một ngày tài hoa nở rộ)
撼摇霹雳震山河
Hàm diêu phích lịch chấn sơn hà
( Như sấm sét chấn động sơn hà)
一朝扬汝名天下
Nhất triều dương nhũ danh thiên hạ
(Đợi tới một ngày vang danh thiên hạ)
也学君王着赭黄
Dã học quân vương trước giả hoàng
(Cũng học đấng quân vương khoác lên tấm áo hoàng bào)
Mắt thấy Hy Tông hai năm qua vì tham tửu mà biến tính, khiến quần thần oán nộ, Hoàn Nhan Lượng tự thấy thời cơ đã chín muồi, bèn gấp rút bồi dưỡng vây cánh. Phò mã Đường Quát Biện, Tả Thừa Tướng Hoàn Nhan Bỉnh Đức và tổng quản nội thị Đại Hưng Quốc vốn đều là cận thần của Hy Tông, nhưng tất cả đều vì sự ngang ngược hung tàn của y mà nảy sinh oán hận, tất cả bọn họ đều đã bị Hoàn Nhan Lượng lôi kéo về bên người. Ngoại trừ Đại Hưng Quốc, hai cận vệ khác bên người Hy Tông là A Lý Xuất Hổ và Bộc Tán Hốt Thổ cũng đều đã bị Hoàn Nhan Lượng mua chuộc.
Việc Hoàn Nhan Lượng không ngừng củng cố vây cánh đã dần khiến Hy Tông sinh lòng ngờ vực, Hy Tông cũng đã không ít lần tỏ thái độ bất mãn. Hoàn Nhan Lượng biết rõ kẻ làm đại sự phải biết chớp thời cơ, do đó y đã hạ quyết định mạo hiểm một phen.
Tháng vừa rồi Hy Tông trong lúc say rượu đã tự tay giết hại hoàng hậu Bùi Mãn thị, sau đó lại liên tiếp sát hại các phi tần Ô Cổ Luân thị, Giáp Cốc thị, Trương thị. Hoàn Nhan Lượng chứng kiến Hy Tông tâm trí điên dại như vậy liền nhận định thời cơ đã tới, chờ đợi tới đêm hôm nay là phiên trực của A Lý Xuất Hổ và Bộc Tán Hốt Thổ, sau khi tính toán cẩn thận tỉ mỉ liền đem theo Hoàn Nhan Bỉnh Đức, bịnh bộ thị lang Tiêu Dụ cùng mấy người thân tín, dùng thân phận của phò mã Đường Quát Biện và Đại Hưng Quốc để tiến thẳng vào hoàng cung.
Đêm hôm ấy là một buổi đêm tháng mười hai năm Hoàng Thống thứ chín nước Đại Kim.
Quãng đường từ cửa cung tới tẩm cung của Hy Tông hoàng đế Tiêu Y bỗng trở nên dài dằng dặc. Mấy người eo cài lợi đao chỉ nhằm phía trước mà đi, tuyệt không để lộ một chút âm thanh. Bầu trời lúc này dày đặc những bông hoa tuyết che kín tầm mắt mọi người. Gió đã nhỏ đi, sự tĩnh lặng chốn thâm cung khiến người ta phải run sợ, tiếng dày da đạp trên mặt tuyết nghe sao mà chói tai lạ thường.
Tả thừa tướng Hoàn Nhan Bỉnh Đức chợt đạp phải vũng tuyết tan mất thăng bằng, cả người lảo đảo chớm ngã. Phò mã Đường Quát Kiện liền đưa tay đỡ y, trầm giọng hỏi:
- Sao thế, chùn chân rồi ư?
Hoàn Nhan Bỉnh Đức ngẩng khuôn mặt đã toát đầy mồ hôi lên, nhếch miệng cố nở nụ cười, song cười không ra tiếng. Nội thị tổng quản Đại Hưng Quốc thở ra một hơi, nhỏ giọng:
- Chớ nói Hoàn Nhan Tướng Quốc, ngay cả ta cũng có chút sợ hãi đây. Chuyện hôm nay vạn nhất có điều sơ sảy...
Lời chưa dứt, một người bỗng đưa tay bịt miệng y lại, quát khẽ:
- Tới nước này rồi há còn đường lui? Nam tử hán đại trượng phu đã làm thì làm tới cùng.
Đại Hưng Quốc bị bịt miệng, đang muốn phát tác thì chợt nhận ra người nói chính là Binh Bộ Thị Lang Tiêu Dụ. Đại Hưng Quốc biết kẻ này là thân tín của Hoàn Nhan Lượng, trước nay nổi tiếng túc trí đa mưu, hành sự quả cảm quyết đoán, bèn cười khan hai tiếng không nói gì nữa.
- Đi!
Người ra lệnh là Hoàn Nhan Lượng. Mặt y tuy chẳng hiện ra chút dị thường nào, song trong lòng cũng khẩn trương lo lắng chẳng kém gì ai: "Đám người chúng ta đem theo lợi khí tiến vào hoàng cung giữa đêm khuya, tuy nói đám thị vệ A Lý Xuất Hổ và Bộc Tán Hốt Thổ đã bị mua chuộc, nhưng chỉ cần một tên không nghe hiệu lệnh hô lên một tiếng thì tất cả lập tức rơi vào cảnh cửu tử nhất sinh. Hoặc giả hai hai kẻ kia vì sợ hãi mà bán đứng ta, vậy thì hiện tại nơi đây nói không chừng đã bố trí sẵn thiên la địa võng."
Nghĩ đến đó chợt một cỗ nộ khí từ thâm tâm bốc thẳng lên đầu y: "Cùng là con cháu thái tổ, dựa vào cái gì mà hắn lại được chọn làm hoàng đế? Hừ, ban đầu phụ vương lập hắn lên làm hoàng đế chẳng qua là kế sách tạm thời. Luận vai vế, Hoàn Nhan Lượng ta là trưởng tôn trưởng tử của thái tổ, Hoàn Nhan Đản hắn là cái thá gì?! Huống hồ, hắn vốn là do phụ vương ta một tay nuôi dưỡng, không có cha ta Hoàn Nhan Tông Cán thì lấy đâu ra hoàng vị cho hắn? Hơn nữa, chuyện tới ngày hôm nay ta cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi.
Y vô thức hít một hơi thật dài, tuyết hoa theo hơi thở tràn vào miệng, hàn ý từ đầu lưỡi xông thẳng tới tâm can phế phủ. Hoàn Nhan Lượng rùng mình một cái, trong lòng bỗng dâng lên một sự thành kính hiếm có: "Liệt tổ liệt tổng tại thượng, Hoàn Nhan Đản hung tàn bạo ngược, nếu không tru sát hắn e đại nghiệp thiên thu của liệt tổ liệt tông sẽ chôn vùi theo mây khói. Xin liệt tổ liệt tông hiển linh, phù hộ Hoàn Nhan Lượng ta mã đáo thành công!". Cầu nguyện xong, trong lòng Hoàn Nhan Lượng chợt có chút dao động, y có cảm giác liệt tổ liệt tông đang thực sự dõi theo y.
Hoàn Nhan Lượng ngoảnh đầu nhìn lại, tới khi trông thấy hai người phía sau vẫn giữ ánh mắt lăng lệ bức nhân, y mới dần lấy lại bình tĩnh.
Hai người ấy một kẻ cao gầy như cây trúc, một kẻ lại vạm vỡ như lực sĩ, thoạt nhìn chẳng lấy gì làm ghê gớm, song họ lại đều những cao thủ hàng đầu võ lâm được Hoàn Nhan bỏ tiền thuê tới. Tráng hán vạm vỡ tên Bồ Sát Nộ, ngoại hiệu Liệt Hỏa Đao, là một trong ngũ đại để tử của tuyệt thế cao nhân Đao Bá - một trong Phong Vân Bát Tu. Hán tử cao gầy là một đạo nhân, đạo hiệu Vô Ưu Tử, sư thừa cũng là một trong Phong Vân Bát Tu - Vu Ma.
Đao Bá, Vu Ma được liệt vào Phong Vân Bát Tu, đều là tuyệt đỉnh cao thủ trong giới võ lâm, vì thế Vô Ưu Tử cùng Bộc Sát Nộ đều không chịu thua kém đối phương. Ngay tại thời khắc cửu tử nhất sinh như thế này, hai người cũng không ngừng ngầm giao đấu so tài. Vô Ưu Tử triển khai khinh công cao diệu, chân bước trên tuyết nhưng không hề lưu lại dù chỉ một dấu chân, mà Liệt Hỏa Đao Bộc Sát Nộ thì mỗi một lần chân chạm đất kình khí lập tức thổi tung toàn bộ tuyết ra tứ phía, bước chân nhìn mạnh mẽ khí thế là vậy, song tuyệt nhiên không phát ra chút thanh âm nào.
Đại Hưng Quốc thân là cận vệ của Hy Tông tất nhiên võ công cũng không tầm thường, song nhìn khinh công của hai người này cũng không nhịn được thầm than: " Khinh công Đạp Tuyết Vô Ngân của người cao gầy đạt tới cảnh giới này thực đáng nể! Nhưng tráng hán kia còn có thể đem cương nhu dung hợp làm một, xem ra có phần nhỉnh hơn, đó phải chăng là thứ công phu tuyệt đỉnh Vô Huyền Cung?" Hoàn Nhan Lượng có thể chiêu mộ được những cao thủ bậc nhất như thế này, xem ra y đã chuẩn bị cho ngày hôm nay từ rất lâu rồi.
...
Cuối cùng cũng nhìn thấy tẩm cung của Hy Tông, Tiêu Y điện.
Hai dãy hành lang trước điện treo đầy những chiếc đèn lồng đang dập dờn đung đưa, thoạt nhìn giống như một con rồng lớn đang nằm nghỉ. Trước cửa điện treo hai chiếc đèn lồng đỏ lớn, ánh lửa hồng chiếu vào những bông hoa tuyết ngoài trời tựa như vô số sợi bông đan xen vào nhau dệt nên một tấm lưới trắng toát bao phủ lấy bầu trời đêm.
Trước điện có hai người đang đứng, A Lý Xuất Hổ và Bộc Tán Hốt Thổ, trên mũ họ đều phủ kín tuyết trắng, xem ra đã đứng đây từ lâu. Hoàn Nhan Lượng thấy hai người họ thì mới yên tâm một chút, lại đánh mắt ra hiệu cho mọi người tiến tới.
Ánh đèn rọi vào khiến mặt ai nấy đều ánh lên nét ám hồng. A Lý Xuất Hổ đưa tay chậm rãi đẩy cửa điện. Tiếng mở cửa kẽo kẹt tuy nhỏ, song lại khiến chúng nhân chói tai vô cùng. Cửa điện hé ra từng chút một. Từ trong khe cửa hiện ra toàn một màn đen, cũng chẳng chút âm thanh dao động, tựa như sau cánh cửa chính là vực sâu vạn trượng đang trực chờ nuốt chửng đám người.
Chính tại lúc này, từ phía trên đột nhiên vang lên những tiếng leng keng giòn tan, dọa cho đám người sợ tới kinh hồn táng đảm. Hoàn Nhan Lượng vội ngẩng đầu nhìn lên, phát hiện thì ra chỉ là chiếc chuông đồng treo trên mái hiên bị gió thổi tạo ra âm thanh. Biết là không có chuyện gì, mọi người ai nấy thở ra một hơi, mồ hôi lạnh đã toát ra đầy mặt.
Nhưng ngay sau đó, từ trong điện lại truyền ra tiếng quát lớn:
- Ai?
Là tiếng của Hy Tông. Giọng nói phát ra sự quyền uy sau nhiều năm làm quân vương, lại kèm theo vài phần men say, khiến chúng nhân lại thêm một hồi kinh hoảng, sau lưng đã ướt đẫm mồ hôi, thân thể cứng ngắc lại như tượng đá. Giây lát sau, binh bộ thị lang Tiêu Dục thở hắt một hơi, cắn răng quát lên một tiếng:
- Chuyện tới mức này không xông lên còn chờ gì nữa?
Con trai duy nhất của Kim Hy Tông, Hoàn Nhan Quán, lúc này chẳng còn nhớ rõ tối nay đã uống bao nhiêu rượu. Lần đầu tiên trong đời uống rượu, hơn nữa còn là uống cùng vị phụ hoàng mà hắn vẫn luôn tôn kính như thần, lòng hắn lúc này thực hưng phấn không sao kể xiết. Trong ký ức của hắn, sắc mặt phụ hoàng lúc nào cũng lạnh như băng, tuy phụ hoàng luôn dùng ánh mắt tràn đầy yêu thương và kỳ vọng nhìn hắn, nhưng lại cực ít cùng hắn nói chuyện, hôm nay mới là lần đầu tiên phụ hoàng đưa hắn vào tẩm cung cùng uống rượu.
Hai ngày nữa là sinh nhật mười hai tuổi của Hoàn Nhan Quán. Hy Tông luôn cực kỳ sủng ái đứa con trai duy nhất của mình, trong mắt y, đứa bé này tuy tính cách hơi nhu nhược, song thông minh lanh lợi cực kỳ. Hy Tông quyết định sau lễ sinh nhật sẽ phong cho con trai làm Kim Quốc thái tử.
Đêm nay Hy Tông cao hứng đưa Hoàn Nhan Quán vào cung, cùng nhi tử đối ẩm, ngoài ra còn có một trung niên hán tử, người này thân hình nhỏ nhắn, mục quang sáng quắc. Người ấy tên Đồ Đan Ma, ngoại hiệu Ải Tu La, tướng mạo tầm thường song kiếm pháp lại tuyệt cao, nửa năm trước được Hy Tông điều từ Long Tương lâu về. Ngoài bảo vệ an toàn cho Tấn Vương, lúc rảnh rỗi Đồ Đan Ma liền dạy cho vị hoàng tử này chút kiếm pháp thượng thừa, đợi tới ngày sinh nhật Hoàn Nhan Quán còn muốn tự mình thể hiện một chút tài nghệ trợ hứng.
Hoàn Nhan Quán lúc này hưng phấn lắm, sự vui vẻ trong lòng chuyển hóa hết thành sắc hồng nhuận trên mặt. Uống thì uống, phụ hoàng đã nói nam tử hán sống một đời mong gì hơn được " chết say"? Uống được hai ba chén vào bụng liền cảm thấy cả tẩm cung đồ sộ dường như đang xoay tròn, uống thêm vài chén nữa hắn chẳng còn biết rượu này có mùi vị gì nữa rồi.
Ánh đèn lồng nhuộm đỏ cả căn phòng, khiến quang cảnh mông lung như mộng. Sắc đỏ phủ lên tấm màn che, phủ lên làn yên hương tạo thành một sắc tím huyền ảo lung linh lạ thường, ngay cả tiếng cười của phụ hoàng hắn cũng màu tím... Cuối cùng Hoàn Nhan Cán gục xuống thư án, thần trí mơ mơ hồ hồ, bên tai chỉ còn nghe một tiếng thở dài đầy cô đơn.
Cũng không biết bao lâu sau, tẩm cung chợt vang lên tiếng quát chói tai của phụ hoàng: "Ai". Thần trí Hoàn Nhan Quán bị tiếng quát này chấn động, muốn mở mắt ra, lại không tài nào kéo mi mắt lên được.
Ầm một tiếng, cửa cung đột nhiên bị người đạp ra, một luồng gió lạnh mang theo tuyết hoa cuốn tới. Hoàn Nhan Quán hé mắt nhìn, phát hiện một đám người từ ngoài cửa xông vào. Hắn chẳng nhìn rõ tướng mạo họ, chỉ biết ai nấy y phục đều đỏ sắc máu.
Ngay lúc Hoàn Nhan Quán muốn nhìn rõ hơn, một đường đao quét thẳng tới mặt hắn, hắn muốn tránh, nhưng thân thể chẳng còn nửa điểm sức lực. Mắt nhìn lưỡi đao quét tới đầu, Hoàn Nhan Quán chợt bị một cỗ lực đạo truyền tới lưng, đẩy hắn lùi ra nửa xích. May giữ được mạng, nhưng lưỡi đao cũng đã kịp vạch lên cổ hắn một vệt máu dài.
Một tia máu bắn lên cẩm bào, đau đớn từ cổ thấu vào tận xương cốt khiến men say trong người Hoàn Nhan Quán giảm đi quá nửa. Hắn "a" lên một tiếng, lăn một vòng trên đất, sau đó ngẩng đầu lên nhìn thì thấy hai đạo thân ảnh một to một gầy lao tới như vũ bão, sau đó lại có một đạo thân ảnh nhỏ nhắn xông tới chắn trước người, đó chính là sư phụ hắn Ải Tu La Đồ Đan Ma. Hoàn Nhan Quán đau tới ứa nước mắt, nhất thời cảm thấy bản thân dường như đang rơi vào một cơn ác mộng.
Bộc Sát Nộ nhe răng cười:
- Không ngờ chỗ này vẫn còn một tảng đá cứng ngáng đường. Bình Chương gia, các ngươi đi làm đại sự, tiểu tử này để bọn ta lo được rồi!
Dứt lời cương đao trong tay sử mỗi lúc một nhanh, đao quang như hàng trăm con rắn lao thẳng về phía Ải Tu La.
- Các ngươi thực muốn tạo phản sao?
Đồ Đan Ma vốn không đem theo binh khí, lúc này bị đối phương ép cho chân tay luống cuống, thanh âm trở nên gấp gáp run rẩy.
Đêm nay Tấn vương cùng Hy Tông đối ẩm, Đồ Đan Ma đứng hầu bên cạnh, thấy Hy Tông cao hứng cũng uống cùng không ít. Rượu vào khiến đầu óc y có chút choáng váng, cộng thêm tay không binh khí, giao chiến không bao lâu thì Đồ Đan Ma hét thảm một tiếng, trước ngực trúng một đao, máu thấm đỏ y sam.
- Có thích khách!
Đồ Đan Ma vận toàn lực gầm lớn một tiếng.
Hoàn Nhan Quán nghe tiếng gầm mà giật nảy mình, hắn rốt cuộc nhận ra chuyện đêm nay không phải mộng. Hắn chẳng quản được vết thương trên cổ nữa, đưa mắt nhìn về phía nội điện thì thấy vài bóng người đã xông vào trong, phụ hoàng hắn đang ngủ trong đó.
Từ nội điện vọng ra tiếng rống của Hy Tông:
- Cẩu tặc Hoàn Nhan Lượng, ngươi muốn làm gì?
Tiếng rống như sấm sét chấn rung cả đại điện, ngay cả Vô Ưu Tử và Bộc Sát Nộ ở ngoài cũng có chút giật mình.
Ngay sau đó là một giọng nói lạnh như băng:
- Còn không mau động thủ!
Giọng nói mang theo tiếng nghiến răng nghiến lợi chói tai như cương châm đâm vào tim Hoàn Nhan Quán, hắn cả đời này cũng không bao giờ quên được thứ âm thanh lạnh lẽo ấy. Hoàn Nhan Quán nghe thấy tiếng gào thét, tiếng đao kiếm, và cả tiếng kêu thảm thiết của phụ hoàng hắn. Hắn muốn chạy tới, nhưng hai lại mềm nhũn ra không còn chút sức lực.
- Dừng tay...
Đồ Đan Ma nghe tiếng kêu thảm của Hy Tông thì kinh sợ khôn xiết, rượu vừa uống theo mồ hôi lạnh mà toát hết ra ngoài. Y muốn xông vào nội điện cứu người, nhưng đao kiếm của Vô Ưu Tử và Bộc Sát Nộ như cuồng phong cuốn tới, nào để cho hắn cơ hội thoát thân?
Loảng xoảng một tiếng, tấm rèm thủy tinh bị đâm vỡ, Hy Tông toàn thân nhuốm máu điên cuồng chạy ra ngoài, chạy chẳng được mấy bước thì ngã quỵ xuống, đám người cũng ùa ra như ong vỡ tổ, kẻ nào kẻ nấy mắt đỏ tơ máu.
Tấm áo mộc miên trên người Hoàn Nhan Lượng loang lổ vết máu, mắt thấy Hy Tông gục trên đất liền tiến tới, nhấc chân đạp lên người y, hay tay nắm chặt cán đao dùng toàn lực đâm thẳng xuống. Một chùm máu phun thẳng lên, vẩy thẳng vào mặt, vào y phục Hoàn Nhan Lượng. Hy Tông ngẩng đầu hét thảm một tiếng, sau đó không còn một chút động tĩnh nào nữa. Hoàn Nhan Quán cảm giác như toàn bộ máu trong cơ thể dâng lên yết hầu, bỗng chốc hai mắt tối sầm lại, đổ gục xuống hôn mê bất tỉnh.
Tiếng thét của Hy Tông khiến chúng nhân ai nấy đều không khỏi rùng mình. Hoàn Nhan Lượng nhìn máu Hy Tông bắn lên mà tâm can phát run, đây chính là máu của bậc cửu ngũ chí tôn! Đấng quân vương trị vị thiên hạ mười lăm năm trời, cuối cùng cũng chết trong tay y!
Cuồng hỷ, đắc ý, kinh ngạc, bất an, các loại cảm xúc lan tràn ra khắp tâm trí Hoàn Nhan Lượng, y ngẩng khuôn mắt nhuốm đầy máu tươi lên, nhất thời đứng bất động tại chỗ.
- Hoàng thượng...
Tiếng hét từ tâm can phế phủ của Đồ Đan Ma, ngay sau đó nhân lúc mọi người còn đang bần thần, y đỡ Hoàn Nhan Quán từ dưới đất lên, phi thân ra khỏi cửa sổ.
Cũng vào lúc này, đám hộ vệ thủ hạ của A Lý Xuất Hổ nghe thấy âm thanh khác thường liền kéo tới, lấy can đảm xông vào đại điện. Chứng kiến Hy Tông hoàng đế toàn thân đẫm máu nằm gục trên mặt đất chúng sợ tới mức mặt trắng bệch, hai chân run rẩy quỵ trên đất.
- Hoảng cái gì?!
Nội thị tổng quản Đại Hưng Quốc cao giọng quát.
- Võ sĩ Long Tương Lâu Đồ Đan Ma cả gan làm loạn, còn không mau đuổi theo?
Đám hộ vệ sợ tới mức chỉ biết dập đầu liên tục, xiêu xiêu vẹo vẹo chạy ra khỏi điện, ra khỏi điện lại gặp thêm một nhóm hộ vệ khác đang kéo tới, cục diện bỗng chốc trở nên hỗn loạn vô cùng.
Đường Quát Biện nhìn vị hoàng đế mới tháng trước còn chửi mắng mình nay đã nằm lịm trên vũng máu, không khỏi ngây người ra. Người đã chết, nhưng sao khuôn mặt vẫn uy nghi, dữ tợn như vậy, khuôn mặt đó dường như vẫn đang phát ra những tiếng cười dữ tợn dọa người.
Vẫn là Hoàn Nhan Bỉnh Đức định hồn lại trước tiên, y ho nhẹ một tiếng nói:
- Chư vị, nước không thể một ngày không có vua! Hôm nay hôn quân đã phế, phải chăng nên chọn trong số con cháu của thái tổ lập làm vua? ( Tg: Theo thông lệ nước Kim, vua chết thường sẽ lập anh em lên nối ngôi chứ không phải con cháu, cũng vì điều này mà những vị vua nước Kim khi nối ngôi đều đã có kinh nghiệm, kiến thức, đây cũng là một trong những yếu tố giúp người Nữ Chân quật khởi. Con cháu thái tổ ở đây chính là chỉ anh em họ hàng của Hy Tông).
Hoàn Nhan Bỉnh Đức nói xong thì hai mắt rực sáng, lòng nghĩ: "Đúng vậy, hiện tại quần long vô thủ, cha ta Hoàn Nhan Tông Hàn chinh chiến bao năm đem về cho đại Kim non nửa giang sơn này, hoàng vị này đương nhiên có phần của ta!". Hoàn Nhan Lượng liếc mắt nhìn y, trong mắt bắn ra quang mang như dã thú:
- Ngươi nói gì?
Giọng y trấn định như thường, song ánh mắt thì như muốn xé xác Hoàn Nhan Bỉnh Đức thành trăm mảnh.
Binh bộ thị lang Tiêu Dụ lập tức bước lên thét:
- Trước khi hành sự đã sớm giao ước lập Bình Chương ( chỉ Hoàn Nhan Lượng) làm vua, lúc này cần chi phải tranh cãi nữa?
Dứt lời kéo long ỷ tới, đẩy tới trước mặt Hoàn Nhan Lượng.
- Mong thánh thượng lấy đại sự làm trọng, thuận theo thiên mệnh, lập tức thân đăng đại bảo!
Hoàn Nhan Lượng nhìn chằm chằm vào long văn được điêu khắc tinh xảo trên long ỷ, trong lòng dao động như sóng biển. Tại thời khắc thế này, vốn dĩ nên nhún nhường một chút, song nhìn ánh mắt như lửa đốt của đám người Đường Quát Biện, Hoàn Nhan Bỉnh Đức, y chỉ mấp máy môi mà không biết nên nói gì. Bộc Tán Hốt Thổ không chờ được nữa bèn kéo Hoàn Nhan Lượng tới long ỷ, ấn y ngồi xuống, hét:
- Mong Bình Chương sớm làm hoàng đế để chúng ta sớm ngày hưởng phú quý!
Y xuất thân nhà binh, nghĩ gì nói nấy. Tiêu Dụ thấy đám Hoàn Nhan Bỉnh Đức vẫn có vẻ không phục, liền rút kiếm chặt gãy một góc thư án quát:
- Kẻ nói lời nuốt lời sẽ như chiếc án này!
Sau lưng y Bộc Sát Nộ cũng trừng mắt hung tợn nhìn chúng nhân. Hoàn Nhan Bỉnh Đức cũng là một kẻ thức thời, cảm thấy sát khí mỗi lúc một nặng, lập tức quỳ xuống quy phục. Đường Quát Biện, A Lý Xuất Hổ thấy y quỳ thì cũng lục tục quỳ xuống theo, lòng hối hận đáng ra nên quy phục ngay từ đầu mới phải. Hoàn Nhan Lượng thấy tất cả đều đã quỳ xuống mới thở ra một hơi khoan khoái. Toàn bộ người trong điện quỳ trên mặt đất nhuốm đầy máu Hy Tông, nhất tề hô vang " vạn tuế".
Hoàn Nhan Lượng nắm chặt hay tay long ỷ, chặt tới mức toàn thân run rẩy, đôi mắt đỏ au bỗng trở nên mê mang, hai dòng nước mắt chảy xuống. "Chúa thượng nếu không chìm đắt tửu sắc đánh mất lý trí, làm lung lay xã tắc, Hoàn Nhan Lượng ta làm sao phải đi bước đường này?!" Đám người ở dưới vội vã ra điều khuyên giải, xưng tụng Hoàn Nhan Lượng vì đại nghĩa diệt thân.
Hoàn Nhan Lượng gạt nước mắt, lau đi vết máu trên mặt, xong chợt nhớ ra điều gì, trợn mắt quát lớn:
- Đường Quát Biện!
Lại chỉ tay vào thi thể Hy Tông ra chỉ dụ:
- Lấy danh nghĩa của y, cấp tốc triệu Hoàn Nhan Tông Hiền vào cung, nói là cần thương nghị chuyện lập hoàng hậu!
Hoàn Nhan Tông Hiền vốn là tử địch của Hoàn Nhan Lượng trên triều đình, trước giờ luôn trung tâm với Hy Tông. Chúng nhân nghe khẩu dụ lòng không khỏi rét run. Ngay sau đó Hoàn Nhan Lượng lại quay sang Bồ Sát Nội ra lệnh:
- Bộ Sát Nộ, lập tức dẫn người đi bắt Tấn Vương Hoàn Nhan Quán về đây, sống phải thấy người chết phải thấy xác!
Mắt thấy Bồ Sát Nộ sắp bước khỏi cửa điện y lại nói thêm:
- Không bắt được nó ngươi cũng không cần trở về nữa!
...
Đồ Đan Ma cắp theo Hoàn Nhan Lượng chạy như bay ra khỏi tẩm cung.
- Phụ hoàng, ta muốn gặp phụ hoàng!
Hoàn Nhan Lượng vừa khóc vừa gào, lập tức bị Đồ Đan Ma bịt miệng lại.
- Tiểu tổ tông, đừng kêu nữa, trời sắp sập tới nơi rồi!
Giọng y cũng đã có chút run rẩy.
- Chỉ mong sao chúng ta bình an ra được khỏi hoàng cung.
Hy Tông vốn tôn sùng văn hóa Hán tộc, vì thế Hoàn Nhan Lượng từ nhỏ cũng thường đọc sách sử của người Hán, cũng đã biết ít nhiều về chuyện tranh quyền đoạt vị. Lúc này thấy sư phụ thường ngày vốn trầm ổn trấn định, nay cũng đã lo lắng tới mức toàn thân run rẩy, bền cố nén bi thương định thần lại. "Phải, trời sắp sập rồi, tổ chim nát thì trứng có lành được bao giờ. Đại Kim bây giờ xem ra chẳng còn chốn dung thân cho chúng ta rồi." Chợt lại có một âm thanh khác vang lên trong lòng hắn "Không được, Hoàn Nhan Lượng, ngươi phải tiếp tục sống, không thể làm mất mặt thái tổ thái tông được!". Hắn mím chặt môi ép bản thân nín khóc, nhưng nỗi sợ hãi, thống khổ từ sâu thâm tâm khiến hắn khống kìm được nước mắt, cổ họng vang lên từng tiếng nức nở.
Gió nổi lên rồi. Gió phương Bắc cuốn theo tuyết hoa vỗ lên mặt khiến Hoàn Nhan Lượng đau rát như bị đao cắt. Nương theo ánh đèn lồng dập dờn hai bên hành lang, hắn nhìn thấy những đám mây trên bầu trời đêm vẫy dày đặc như vậy, vẫn âm u như vậy, vẫn kinh khủng đáng sợ như một cơn ác mộng không hồi kết.
Tiếng ẫm ĩ từ phía Tiêu Y điện vọng tới. Hai người cũng chẳng dám quay đầu lại nữa, xuyên thẳng qua Diên Quang môn, dùng hết sức bình sinh mà chạy. Hộ vệ bên đường thấy Tấn vương kinh hoảng bỏ chạy thì đều lấy làm lạ, song không ai dám hỏi, chỉ là đánh tiếng vấn an mà thôi. Tới trước Anh Vũ môn, Hoàn Nhan Lượng cùng Đồ Đan Ma cố ra vẻ trấn định, theo bảo đám lính canh mở cửa, sau đó ung dung bước khỏi hoàng cung.
Vừa bước khỏi cung không bao lâu, phía sau lại vang lên tiếng vó ngựa, theo đó là tiếng gọi "Tấn vương điện hạ xin dừng bước". Sư đồ hai người giật thót người, chuyện tới nước này chẳng thể tin ai nữa rồi, cứ cắm đầu cắm cổ mà chạy thẳng.
Trong đêm tuyết tối đen như mực, truy binh nhất thời không thể xác định hai người chạy về phương nào. Đồ Đan Ma chẳng quản thân mang trọng thương, thi triển tuyệt đỉnh khinh công, hai chân chạy mà dường như không chạm đất.
- Chúng ta đang đi đâu vậy?
Hoàn Nhan Quán nức nở hỏi, hắn biết bản thân đã từ trên trời rớt xuống địa ngục, hiện tại chẳng còn chỗ nào dung hắn nữa rồi.
- Đi đâu à, trước mắt cả nước đại Kim này xem ra cũng chỉ còn Long Tương Lâu chịu thu nhận ngài thôi!
- Long Tương Lâu? Nơi ấy ở đâu, rất xa phải không?
- Xa.
Đồ Đan Ma trả lời cụt ngủn.
- Trước giờ Hoàn Nhan Lượng sợ nhất chính là Long Tương Lâu, một năm trước y lấy cớ người Biện Lương tư thông đại Tống, Long Tương Lâu cần chiếm cứ vùng đất trọng yếu, tâu lên Hoàng thượng điều động Long Tương Lâu Lâu chủ Hoàn Nhan Hanh đi tới tận Nam Dương ở phía nam sông Hoàng Hà.
- Nhuế vương Hoàn Nhan Hanh?
Hoàn Nhan Quán tuy luôn sống trong thâm cung, nhưng cũng từng nghe sư phụ đề cập tới đại danh Hoàn Nhan Hanh, y chính là đệ nhất cao thủ của Đại Kim.
Đồ Đan Ma dương hai hàng lông mày đã đọng đầy tuyết lên nói:
- Đúng vậy! Nhuế vương Hoàn Nhan Hanh là con trai của anh hùng dân tộc Nữ Chân Hoàn Nhan Tông Bật, dũng võ cơ mưu chẳng thua kém phụ thân. Hiện tại cũng chỉ còn người này chịu ra tay trượng nghĩa mà thôi!
Ngừng một lát, Đồ Đan Ma lại nói:
- Phải rồi, khối long văn ngọc bội của điện hạ hãy còn chứ?
Hoàn Nhan Quán chột dạ, vội đưa tay mò vào trong áo, sờ thấy khối ngọc vẫn còn đó liền nắm lại thật chặt, run rẩy đáp:
- Vẫn còn.
Đồ Đan Ma cười nhẹ:
- Tốt! Khối ngọc ngày là vạn tuế gia tại trước mặt văn võ bá quan trao cho ngài, sau này nó sẽ làm vật chứng để ngài đòi lại ngai vàng. Ha ha, nếu ta có chuyện gì, điện hạ phải tự mình đi tìm Nhuế vương, lúc ấy đưa cho Nhuế vương xem khối ngọc, y sẽ làm chủ cho điện hạ.
Đồ Đan Ma nhắc tới Hòa Nhan Hanh và Long Tương Lâu tâm trạng bỗng ổn định lại rất nhiều, ôm chặt Hoàn Nhanh Quán quát lớn:
- Điện hạ nhất định phải sống, trọng trách diệt trừ lũ gian ác, chấn chỉnh giang sơn tất cả đều đặt lên vai người rồi!
Hoàn Nhan Quán toàn thân run lên một cái, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời. Bầu trời vẫn tối đen như mực, mùi máu tanh như vẫn lẩn quẩn đâu đây. Hoàn Nhan Quán tim như chảy máu, nhịn không được òa lên khóc:
- Sư phụ, ta... ta không làm được... ta sợ lắm!
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của BM.KimDung
Nửa tháng sau, dưới chân núi Phục Ngưu ở phía Bắc Nam Dương, hai hoa thượng y phục rách rưới dắt nhau mà đi. Hai người này chính là Đồ Đan Ma và Hoàng Nhan Quán.
Hai người đêm ấy thoát được khỏi kinh thành, suốt một đường may nhờ dịch dung thuật của Long Tương Lâu, hai người lúc thì giả trang khất cái, lúc thì giả trang hòa thượng, còn có lần Hoàn Nhan Quán phải giả trang nữ hài, trải qua không biết bao gian khổ, sau nửa tháng thì đi tới nơi này.
Sắp tới Nam Dương, hai người lại gặp phải Vô Ưu Tử, trải qua một phen kịch chiến, Đồ Đan Ma giết được Vô Ưu Tử, song cũng chúng phải ám khí tẩm độc của đối phương.
Hai người liều chết mà chạy, đám lính triều đình vẫn bám riết phía sau. Tuy Vô Ưu Tử chết, nhưng đám thủ hạ của y thấy Đồ Đan Ma trúng trọng thương như vậy liền gia sức đuổi theo. Đồ Đan Ma thấy Hoàn Nhan Quán thở gấp từng hơi, bước không nổi nữa, bèn một tay xách hắn lên vai, một tay nắm chặt thanh Tang Môn kiếm, cố sức mà chạy. Thanh Tang Môn kiếm này là lấy từ Vô Ưu Tử, vừa hay để lại cho Hoàn Nhan Quán phòng thân.
Hoàng hôn xuống, gió núi lạnh buốt người thổi vào những chiếc cây già phát ra thứ âm thanh xào xạc, khiến người nghe không khỏi rùng mình. Hai người chạy vào trong khu rừng. Hoàn Nhan Quán gối đầu trên vai sư phụ, giọng hãy còn đem theo tiếng nức nở:
- Sư phụ, bọn chúng... sắp đuổi kịp rồi!
Sườn dưới của Đồ Đan Ma trúng ám khí của Vô Ưu Tử đau đớn tê tái, hừ một tiếng nói:
- Chúng ta thà nhảy xuống vực cũng không thể để chúng bắt được!
Tiếp đó tìm một gốc cây ngồi nghỉ, chợt thấy bên cạnh có một tảng đá xanh lớn.
Tảng đá to bằng cao tới eo người, bề mặt nhẵn nhụi, phía trên khắc tám chữ lớn:
- Núi nhiều hổ báo, cẩu Kim chớ vào.
Hoàn Nhan Quán thấy hai chữ "hổ báo" thì rùng mình, nhìn cảnh sắc xung quanh, không nhịn được mà hít một ngụm lãnh khí, sợ sệt nói:
- Sư phụ, chỗ này... hẳn là có thú dữ, hay là chúng ta rời đi thôi.
Nhưng Đồ Đan Ma hai mắt lại sáng lên, lẩm bẩm:
- Thì ra đây là Phong Lôi bảo, sao ta lại quên mất nơi này nhỉ?
Hoàn Nhan Quán hãy còn sợ hãi, hỏi lại:
- Phong Lôi bảo là nơi thế nào?
Đồ Đan Ma bế hắn lên vừa đi vừa nói:
- Phong Lôi bảo ở chân núi Phục Ngưu, nghe nói do một người Biện Kinh nhà Tống tên Dịch Hoài Thu lập nên. Từ sau khi đại Kim ta diệt Bắc Tống (Biện Kinh bị nước Kim chiếm) người này vẫn giữ lòng yêu nước, tiềm nhập vào đại Kim, sau đó thì xây dựng căn cứ ở chân núi Phục Ngưu. Phong Lôi bảo nằm nơi hẻo lánh, cậy địa hình hiểm trở, trước nay chẳng coi quan phủ ra gì. Cứ nhìn tám chữ "Núi nhiều hổ báo, cẩu Kim chớ vào" này đủ biết y hận người Kim ra sao. Nhuế vương gia từ lâu đã muốn diệt trừ Phong Lôi bảo này, chỉ là vẫn chưa tiến hành được, không ngờ hiện tại lại thành toàn cho chúng ta!
Dứt lời y cười khổ hỏi Hoàn Nhan Lượng:
- Tiểu hòa thượng, ta định để ngươi tạm trú ở Phong Lôi bảo này, ngươi nghĩ sao?
Hoàn Nhan Quán kinh hoảng:
- Phong Lôi bảo chủ chẳng phải hận người Kim lắm sao? Ta sao có thể lưu lại đây?
- Ngươi lại quên rồi, hiện tại ngươi là một tiểu hòa thượng cô độc không nơi nương tựa.
Đồ Đan Ma lộ ra thần sắc buồn khổ.
- Hiện tại cũng chỉ còn nơi này nằm ngoài tầm kiểm soát quan phủ.
Tiếng truy binh đuổi theo mỗi lúc một gần. Đồ Đan Ma lại nói:
- Sư phụ trúng Bích Lân độc châm của Vô Ưu Tử, chẳng rõ còn gắng gượng được tới khi nào, huống hồ bọn chúng sớm đã biết chúng ta đang đi về Nam Dương, hiện tại thành Nam Dương e là đã giăng sẵn thiên la địa võng chờ chúng ta rồi. Chúng ta dẫu dịch dung, song một già một trẻ đi với nhau thực sự quá lộ liễu, nghĩ tới nghĩ lui cũng chỉ còn cách tách nhau ra mà đi thôi. Ta sẽ một mình tới Long Tương lâu cầu cứu Nhuế vương Hoàn Nhan Hanh trước.
Hoàn Nhan Quán nghĩ cũng phải, hắn tính tình nhút nhát, gặp quan phủ chỉ e chân tay lóng ngóng để lộ thân phận, bèn gật đầu:
- Vâng, vậy tất cả nghe theo sư phụ sắp xếp.
Đồ Đan Ma thấp giọng nói:
- Ngươi ở Phong Lôi bảo phải nhớ nhất định không được để lộ ra khẩu âm người Nữ chân. Lát nữa vào trong bảo, ta sẽ nói ngươi bị câm, ở trong bảo ngươi cứ việc giả ngây giả ngốc là được.
Hoàn Nhan Quán lòng có chút căng thẳng, song cũng không nói gì thêm.
Lại chạy thêm một lát, gió mỗi lúc một mạnh, sắc hoàng hôn mỗi lúc một trầm, cánh rừng già này dường như đi mãi không thấy đường ra. Chợt Đồ Đan Ma dừng bước, mắt trừng lên như gặp quỷ, thốt lên một tiếng "Tà môn". Hoàn Nhan Quán đưa mắt nhìn theo, phát hiện trước mắt lại chính là tảng đá xanh ban nãy.
Tịch dương đã tàn, tám chữ " Núi nhiều hổ báo, cẩu Kim chớ vào" trở nên khó nhìn hơn nhiều. Gió núi thổi qua, Hoàn Nhan Lượng vừa lạnh vừa sợ run giọng:
- Sư phụ, chúng... chúng ta sao lại quay về chỗ này rồi?
Đồ Đan Ma đưa mắt nhìn xung quanh, thở dài:
- Dịch Hoài Thu quả là cao nhân, cánh rừng này đã bị bố trí theo trận pháp ngũ hành bát quái rồi.
Lời chưa dứt chợt nghe tiếng quát từ sau lưng vọng tới. Bốn thị vệ áo vàng từ đâu bước tới, hai người cầm đao, một người cầm phán quan bút, một người cầm song câu. Nếu là ngày thường Đồ Đan Ma chẳng ngại gì mấy người này, xong lúc này độc đã ngấm vào người, y chẳng dám liều lĩnh, lập tức cõng Hoàn Nhan Quán lên quay đầu bỏ chạy. Chạy càng gấp độc tốc lan ra càng nhanh, bốn thị vệ phía sau cũng đã đuổi tới mỗi lúc một gần.
Ngay lúc này, một tiếng gầm chấn động cả khu rừng, lá cây bay loạn khắp tứ phía, một con hổ vằn thình lình nhảy vọt ra.
- Hổ...
Hoàn Nhan Quán sững người nhìn con hổ chắn giữa đường. Ngay cả Đồ Đan Ma võ công cao cường, nhìn thấy con mãnh thú mắt sáng như đuốc, miệng đỏ như máu này cũng không khỏi thất kinh. Ngay sau đó lại một tiếng hổ gầm khác vang lên như sấm đánh bên tai khiến người nghe hồi phi phách lạc. Đồ Đan Ma thầm kêu khổ, một con y cũng không đối phó nổi, lại có tận hai con thì làm sao giữ mạng đây.
Bỗng lại nghe có tiếng người kêu lên:
- Tiểu Hoa, lại đi gây chuyện à?
Âm thanh non nớt, tựa hồ tuổi còn nhỏ. Từ trong rừng một con Bạch Ngạch hổ chậm rãi bước ra, so với con hổ vằn kia to hơn một chút, quái lạ là trên lưng nó lại có một thiếu niên áo đen đang ngồi.
Hổ vằn nhìn thấy thiếu niên thì gầm một tiếng, lăn một vòng trên đất rồi bước tới bên con Bạch Ngạch hổ. Thiếu niên ha hả cười, đưa tay vỗ vỗ chiếc trán loang lổ của con hổ vằn cười:
- Tiểu Hoa, lúc nào thì ngươi mới ngoan ngoãn được như Đại Hoa đây! Cả ngày điên điên cuồng cuồng như vậy không gả được cho ai đâu!
Con hổ vằn tên Tiểu Hoa ấy ô ô vài tiếng, âm thanh nhỏ dần như đứa trẻ phạm lỗi bị phụ huynh mắng, chậm rãi phủ phục xuống đất.
Đồ Đan Ma cùng Hoàn Nhan Quán đều ngây người ra, nếu không thấy tận mắt thì thực khó tin trên thế gian có chuyện thế này. Thiếu niên thấy họ thì cả cười hỏi:
- Các ngươi là ai?
Hoàn Nhan Quán thấy thiếu niên lớn hơn mình một hai tuổi, dù y phục có phần cũ nát, song không che giấu được thứ khí chất lỗi lạc bất phàm của y. Nước da ngăm đen, lông mày nghiêng, con ngươi sáng trong như bảo thạch, thần thái thanh tịnh như cổ tuyền. Hoàn Nhan Lượng lần đầu tiên trông thấy thứ ánh mắt kỳ lạ như vậy, vừa hoạt bát lanh lợi, lại có thêm vài phần hoang dã tự nhiên. Đồ Đan Ma vội đáp:
- Chúng ta là người trong giang hồ, bị đám người Kim truy sát!
Thiếu niên đưa mắt nhìn đám thị vệ áo vàng, lông mày hơi nhếch lên, hắc hắc cười hai tiếng:
- Lại là lũ chó Kim!
Chợt y huýt một tiếng sáo dài, thanh âm sắc bén vang ra tứ phía. Tiếng huýt vừa dứt thì khắp nơi nổi lên thứ âm thanh như cả một đàn sói đang tru khiến người nghe kinh hồn táng đảm. Hoàn Nhan Quán không biết trong cách rừng này rốt cuộc có bao nhiêu dã thú, trong lòng sợ hãi không thôi, tay nắm chặt lấy Đồ Đan Ma.
Bốn tên thị vệ muốn xông lên, song nhìn hai con mãnh hổ thì hoảng sợ mà lui lại. Người cầm phán quan bút có vẻ gan dạ hơn, quát lên:
- Hai con mèo mà thôi, có gì đáng sợ! Mục tiêu đã trọng thương, bắt được chúng chúng ta cả đời này hưởng phú quý!
Câu nói kích thích ba người còn lại, hán tử cầm song câu lao lên trước tiên, vòng qua mãnh hổ lao về phía Đồ Đan Ma.
Thiếu niên nọ nhếch mày lạnh giọng quát:
- Tiểu Hoa!
Con hổ ấy như hiểu tiếng người, bật người lên dùng móng vuốt quét bay một chiếc ngô câu của hán tử. Hán tử kinh mà không loạn, lách người qua một bên, ngô câu bên tay trái cắt thẳng tới yết hầu của con hổ. Nào ngờ con hổ lại gầm một tiếng, lắc người một cái tránh thoát lưỡi câu, dùng chiếc đuôi cứng như roi sắt quật xuống, đánh văng hán tử nọ ra một bên.
Hán tử cũng chẳng phải dạng vừa, trước khi ngã xuống cũng kịp phóng ngô câu trúng đầu vai con hổ. Đây vốn là một biến chiêu có khả năng chuyển bại thành thắng, song đối thủ của y lại là mãnh hổ chứ không phải người thường, một chiêu này cũng chỉ như gãi ngứa nó, lại làm nó càng thêm hung tợn. Mãnh hổ tức giận gầm lên một tiếng bổ về phía hán tử, cắn thẳng vào đầu y.
Ba người còn lại nghe tiếng kêu gào thảm thiết thì kinh hãi khôn xiết, lập tức muốn xông lên cứu. Thiếu niên áo đen cũng nhảy khỏi lưng hổ, vỗ vỗ đầu con hổ vằn cười:
- Tiểu Hoa khá lắm, giờ tới phiên Đại Hoa rồi!
Con Đại Hoa kia sớm đã muốn lao lên, nghe lệnh thiếu niên thì gào lên một tiếng rung chuyển cả cánh rừng, phi thân lên vồ lấy hán tử cầm đao. Hai người con lại sợ vỡ mất, chẳng quản đồng bọn kêu gào, lập tức quay người bỏ chạy.
Có điều chẳng chạy được mấy bước thì mười mấy con sói từ trong rừng vọt ra. Nhìn đám sói con nào con nấy chân thô vuốt sắc, to lớn suýt soát người trưởng thành, hai người kinh hãi:
- Ở đâu ra lắm mãnh thú như vậy?!
Người cầm phán quan bút rống lên:
- Lều chết xông qua!
Song bút múa lên đẩy dạt hai con sói hoang ra. Ngay lúc muốn mở đường máu thoát thân, Tiểu Hoa nhảy vọt qua cắn thẳng vào yết hầu khiến y chết ngay lập tức. Hán tử còn lại thấy đồng bọn lần lượt chết thảm thì hồn phi phách lạc đứng đờ người ra, cuối cùng cũng bị đàn sói vồ tới cấu xé ra hàng trăm mảnh.
Cùng lúc ấy tiếng vó ngựa vang lên, một đại hán mập mạp phóng ngựa tới. Con ngựa của đại hán có vẻ không sợ đám dã thú, chạy thẳng qua đám sói. Đại hán hét một tiếng dài, muốn quát bảo đám sói dừng lại, song bản tính sói vốn tham lam, con mồi trước miệng nào có thể buông bỏ. Đợi tới lúc đại hán xuống ngựa đuổi lũ sói ra thì thị vệ nọ đã chết từ lâu. Đại hán cau mày than:
- Không còn kẻ nào sống, thực đáng tiếc!
Rồi y huýt một tiếng dài, đàn sói lập tức cúp đuôi tản ra chạy vọt vào rừng.
- Nam Nhạn!
Hán tử quay người về phía thiếu niên.
- Có chuyện gì thế?
Thiếu niên chẳng đáp lời, chỉ liếc mắt về phía Đồ Đan Ma hai người. Đồ Đan Ma lúc này đã trấn định lại, đưa mắt quan sát hán tử mập mạp nọ, thấy thì thần thái bất phàm, bèn nhìn kỹ một chút. Chợt lòng chớp động, vội cung tay hỏi:
- Các hạ phải chăng là Phong Lôi bảo Diệu Thủ Càn Khôn Quý Loan Quý nhị gia?
Hán tử cũng cung tay cười đáp:
- Tại hạ chính là Quý Loan.
Đồ Đan Ma cười nói:
- Sớm nghe danh Phong Lôi Song Long, nay được gặp Quý nhị gia thực là phúc ba đời! Hai người chúng tôi vốn lưu lạc giang hồ, phải giả dạng hòa thượng, gặp phải hiểm nguy, muốn xin Dịch bảo chủ xuất thủ tương trợ!
Quý Loan sớm phát hiện hai người chỉ là hòa thượng giả, nay thấy Đồ Đan Ma chủ động nói thật thân phận thì bớt đi vài phần cảnh giác, cười nói:
- Phong Lôi bảo tất nhiên không ngại kết giao huynh đệ giang hồ, chỉ là chẳng hay các hạ danh tính là chi, gặp phải nguy hiểm gì?
- Tại hạ Đan Thiên Mã, vốn người Giang Nam, luyện được công phu Ngũ Độc Chưởng, mọi người gọi Ngũ Độc Thiên Mã. Hai năm nay hành tẩu ở Nam Dương, làm chút buôn bán lá trà.
Đồ Đan Ma nói năng trôi chảy lưu loát như đang thực sự kể chuyện của chính mình vậy:
- Tại hạ bình sinh hận nhất chính là lũ cẩu Kim, gây không ít thù oán với chúng. Mấy ngày nay bị đám cẩu Kim này truy sát nên phải dịch dung mà chạy, mới hôm rồi giết được thằng khốn này!
Dứt lời ném thanh kiếm của Vô Ưu Tử xuống đất.
Quý Loan nhận ra thanh Tang Môn kiếm mặt biến sắc nói:
- Đây là kiếm của Vô Ưu Tử, nghe nói kẻ này sớm đã bị người Kim dùng phú quý mua chuộc!
Lại quay đầu nhìn thi thể đám người Kim, quả nhiên là y phục thị vệ nước Kim, liền cười to:
- Tốt, ngài đã giết được kẻ ấy, vậy có thể coi là bằng hữu của chúng ta, mời vào trong bảo một chuyến!
Đồ Đan Ma lập tức cung tay nói:
- Thực chẳng dám giấu diếm, Đan mỗ trúng phải độc trâm của Vô Ưu Tử, đem theo vị tiểu huynh đệ này thực không tiện. Cả gan khẩn cầu tiên sinh cưu màng tiểu huynh đệ đây vài ngày. Hắn là con một vị cố nhân của ta, trời sinh tàn tật nghe được mà không nói được, đi theo ta chỉ e không giữ nổi mạng.
Quý Loan sớm nhìn ra Đồ Đan Ma trên mặt lờ mờ độc khí, nghe vậy thì gật đầu đáp:
- Đan bằng hữu trúng phải loại Bính Lân độc châm này chúng ta cũng không có cách nào giải được, vậy ngài định đi đâu?
Đồ Đan Ma cười đáp:
- Đan mỗ có vài vị bằng hữu tinh thông y thuật ở Nam Dương, nếu may mắn tới kịp Nam Dương thì còn có hy vọng!
Quý Loan hơi trầm tư, cuối cùng lông mày dãn ra nói:
- Được, vậy hài tử này Quý mỗ sẽ thu lưu lại, Đan bằng hữu cưỡi con ngựa này mà đi! Hôm nay lão phu không lưu giữ ngài nữa, nhưng sau này chúng ta nhất định có cơ hội gặp lại!
Nói xong dắt con tuấn mã của mình qua, lại cẩn thận dặn dò:
- Sau khi ra khỏi Huyền Cơ cốc nhớ phải rẽ trái, bất kể nghe thấy âm thanh kỳ quái gì cũng không được quay đầu lại!
Đồ Đan Ma thấy đối phương hào sảng như vậy thì lộ ra thần sắc cảm kích, vái Quý Loan một vái dài nói:
- Tại hạ nếu còn giữ được mạng nhất định báo đáp gấp bội!
Quý Loan cười:
- Từ trước tới nay anh hùng mệnh lớn, lão phu còn mong ngài sớm ngày trở lại trả lão phu con ngựa này đó!
Đồ Đan Ma lúc này đã ngồi lên ngựa, nghe y nói vậy thì cười hắc hắc. Đang muốn vung roi phóng ngựa, chợt nghe Hoàn Nhan Quán dùng cổ họng phát tiếng động. Đồ Đan Ma quay đầu sang nhìn thì thấy Hoàn Nhan Quán đã phủ phục trên mặt đất, hướng về phía y dập đầu bình bịch.
Đồ Đan Ma cổ họng nghẹn ngào, vành mắt ươn ướt, cuối cùng giơ tay lên nói:
- Ngươi từ nay phải tự bảo trọng, hy vọng hai người chúng ta còn có ngày gặp lại.
Lại quay đầu về phía Quý Loan nói:
- Thi thể Vô Ưu Tử vẫn còn ở rừng táo dưới núi, tiên sinh mau cho người chôn đi kẻo có chuyện phiền phức!
Nói xong cũng không đợi Quý Loan đáp lời, lập tức phóng ngựa mà đi.
Quý Loan chứng kiến hết thảy nhưng chẳng nói một lời, chỉ là trong lòng cảm khái không thôi. Nhìn hình bóng Đồ Đan Ma chìm vào bóng hoàng hồn, y thấp giọng nói:
- Người này hào sảng khoáng đạt, thực xứng là bậc hào kiệt! Đồ Thiên Mã, Đồ Thiên Mã, hình như ta chưa từng nghe tới cái tên này bao giờ.
...
Màn đêm buông xuống, gió núi mỗi lúc một lớn cuốn theo vô số lá khô bay mù mịt. Đồ Đan Ma đang thúc ngựa chạy, chợt nghe có thứ âm thanh kỳ quái vang lên, vừa giống tiếng quái thú gầm ghừ, lại vừa giống tiếng ma quỷ ai oán, không khỏi rùng mình một cái.
Y không biết nơi đây địa hình quái dị, trọng lực không bình thường tạo ra những thứ âm thanh kỳ quái, khiến cho người qua núi thường ngộ nhận là tiếng ma quỷ, bèn đặt cho nó cái tên Quỷ Minh quan. Đồ Đan Ma nhớ lời Quý Loan, chẳng dám quay đầu nhìn, dốc sức mà chạy thật nhanh.
Rốt cuộc cũng chạy qua được Huyền Cơ cốc, cánh tay Đồ Đan Ma lúc này đã tê dại đi vì độc khí làn tràn, y tự biết bản thân cầm cự được tới lúc này là nhờ từng luyện qua độc chưởng, bằng không sớm đã phơi thây chốn hoang dã. Lại chạy thêm vài ngày, cả người đã ê ẩm sưng tấy lên, cảm giác ngứa ngái bứt rứt lan từ cánh tay vào tận tim phổi. Đồ Đan Ma hai mắt tối sầm lại, may thay không ngã khỏi ngựa.
Sắc trời mỗi lúc một đen, thừa lúc trời hãy còn vài ngôi sao sáng, Đồ Đan Ma rốt cuộc bước được tới trước Long Tương Lâu.
Muốn xoay người xuống ngựa, xong Đồ Đan Ma cảm thấy trời đất lộn vòng vòng, rốt cuộc ngã gục xuống đất, đôi mắt mơ mơ màng màng nhìn thấy có vài người chạy lại.
- Vương gia... ta phải gặp vương gia!
Phát hiện âm thanh của mình mỗi lúc một nhỏ dần, Đồ Đan Ma tâm trạng hoảng hốt, y sợ bản thân không đợi được tới lúc gặp Nhuế vương Hoàn Nhan Hanh.
Chợt một cỗ nội lực hùng hậu truyền thẳng vào lưng Đồ Đan Ma, sau đó lan ra sưởi ấm toàn cơ thể y. Giọng nói trầm ổn quen thuộc vang lên bên tai:
- Đại sự xảy ra, ta liền biết ngươi sớm muộn sẽ tới!
Giọng nói kiên định vững chắc, tựa hồ sơn băng địa liệt cũng chẳng thể làm người này mảy may kinh động.
Đồ Đan Ma hai mắt như có vẻ sáng lên, y duỗi tay nằm chặt lấy tà áo người nọ, khàn khàn kêu to:
- Nhuế vượng, lão Ma ta không xong rồi.
Nói xong y lại hít một hơi dài, dùng hết sức bình sinh nói ra một câu cuối cùng trong đời, nói một cách chậm rãi, một cách rõ ràng:
- Tấn vương điện hạ ở Phong Lôi bảo núi Phục Sơn, trên cổ có một vết sẹo dài, vết đao!
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của BM.KimDung
Thiếu niên cùng Quý Loan dẫn theo Hoàn Nhan Quán tiến về Phong Lôi bảo. Thạch bảo từ xa nhìn lại cao to sừng sững như ngọn núi nhỏ, trước bảo có một tảng đá lớn khắc ba chữ nổi bật " Phong Lôi Bảo".
- Thiếu gia cùng Nhị đương gia về rồi!
Vài hán tử từ trong bảo chạy tới nghênh đón. Hoàn Nhan Quán lần đầu tiên bước tới một nơi nghèo nàn như thế, lần đầu tiên gặp những người bần cùng như thế. Những hán tử này y phục cũ nát, mồ hôi nhễ nhại, áo khoác đã bục chỉ lộ cả ra những sợi bông trắng, thậm chí có kẻ còn chẳng có áo mà mặc, chỉ khoác bừa lên người tấm da thú. Chỉ có Quý Loan và thiếu niên nọ ăn mạng coi như đàng hoàng, nhưng y phục cũng đã bạc hết màu.
Toàn bộ Phong Lôi bảo được xây từ đá chuyển từ trên núi xuống, khối nào khối nấy nhẵn nhụi góc cạnh như bộ ngực gầy trơ xương của nạn dân chết đói (???) ngay cả mái phòng ốc cũng chẳng có mấy cọng cỏ tranh, ngoài trời vài con dê núi, vài con chó hoang ướt nhẹp bùn đất chạy qua chạy lại. Cảnh tượng bần cùng, khốn khó là vậy, song kỳ lạ là người ở đây giữa hai hàng lông mày ai nấy đều lộ ra vài phần anh khí, tinh thần phấn chấn lạ thường.
Tiếng dã thú gầm rú nặng nề trong buồi chiều muộn khiến bầu không khí càng thêm hiu quạnh, vắng vẻ. Hoàn Nhan Quán bước vào trong bảo, lòng có chút sợ hãi, thân thể hơi co lại. Thiếu niên nọ quay đầu nhìn hắn cười:
- Chớ sợ.
Thiếu niên khoác tay lên vai Hoàng Nhan Quán nói:
- Có Nam Nhan ta ở đây không gì có thể làm hại ngươi!
Hoàn Nhan Quán gật gật đầu. "Thì ra y tên là Nam Nhạn".
Trong sân có một đại hán đang nửa nằm nửa ngồi, tay cầm một hồ lô rượu tự uống một mình. Thấy đám người tiến vào đại hán lập tức đứng dậy.
Hán tử vừa đứng dậy Hoàn Nhan Quán liền kinh ngạc. Dưới ánh sáng lờ mờ của hoàng hôn, hắn phát hiện người này thân hình cao lớn uy mãnh lạ thường, trời lạnh như vậy nhưng y chỉ mặc một chiếc áo mỏng, hai tay áo vén lên lộ ra bắp thịt cuồn cuộn, phối thêm bộ râu quai nón rậm rạp, thoạt nhìn thực giống như Cự Linh Lực Sĩ trong truyền thuyết.
Càng kỳ lạ hơn, trên người hán tử quấn lên rất nhiều sợi xích sắt, cổ, ngực, eo khắp nơi đều là xích, cứ mỗi bước y di chuyển xích sắt lại vang lên tiếng leng keng. Nam Nhạn ở một bên chợt than:
- Lệ Bát Phong Lệ đại thúc này trước đây không biết gặp phải chuyện gì mà lúc nào cũng buồn rầu không vui, uống say rồi cứ ngơ ngơ ngốc ngốc như vậy.
- Lệ huynh.
Quý Loan nói với đại hán.
- Trời đông đất lạnh, tội gì phải giày vò bản thân như vậy!
Đại hán chẳng để tâm lời Quý Loan, tiếp tục nghiêng hồ lô dốc rượu vào miệng. Nam Nhạn thấy y đã say đỏ cả mắt, bèn bước lên thấp giọng nói:
- Lệ đại ca, ngươi lại có chuyện gì đau lòng à?
Lệ Bát Phong không đoái hoài Quý Loan, nhưng vừa nghe tiếng Nam Nhạn thì hai mắt như phát sáng, đột nhiên hai chân quỳ xuống ôm lấy Nam Nhạn mà khóc:
- Thiếu gia, Lệ Bát Phong đáng chết, Lệ Bát Phong đáng chết a!
Quý Loan thấy vậy thì hoảng hốt vội nói:
- Lão Lịch, ngươi lại phát bệnh rồi, đừng làm Nhạn thiếu gia sợ!
Mấy chữ " Đừng làm Nhạn thiếu gia sợ" không ngờ thực sự có tác dụng, Lệ Bát Phong kinh hoảng buông Nam Nhạn ra, Quý Loan thừa lúc ấy lôi hắn về.
Lệ Bát Phong cơ mặt co giật mấy cái, lại tiếp tục tu rượu. Trong bình hết rượu, Lệ Bát Phong lắc lắc vài cái, thấy chẳng còn giọt nào, y tức giận đưa chân đá thẳng vào tảng đá xanh trước mặt. Tảng đá chí ít cũng phải nặng hai ba trăm cân, ấy vậy mà bị y đá một cái văng thẳng lên không trung. Tảng đá bay lên cao vài trượng rồi xé gió rơi thẳng xuống, chúng nhân thấy vậy nhất tề kêu to. Lệ Bát Phong lại cười dài một tiếng, bước lên nửa bước, đưa một tay ra đỡ lấy tảng đá, sau đó lật tay ấn chặt tảng đá xuống đất.
Mọi người thấy tảng đá vài trăm cân ở trong tay Lệ Bát Phong giống như quả bóng da tùy y đùa nghịch, ai nấy đều ngơ ngác bần thần. Lệ Bát Phong xoay thân hình hùng vĩ như tòa tháp, kéo lê theo đống xích sắt lẻng xẻng rời đi. Hoàn Nhan Quán trong lòng càng thêm hoảng sợ, hắn ở trong cung cũng gặp qua không ít lực sĩ, nhưng đám lực sĩ ấy nếu đấu với đại hán này chỉ e không chịu nổi một kích.
...
Nam Nhạn dẫn Hoàn Nhan Quán tiến vào đại sảnh, dưới ánh nến chập chờn hắn tỉ mỉ đánh giá thiếu niên gầy gò trắng trẻo trước mặt một phen, lòng có chút cao hứng: "Phong Lôi bảo cái gì cũng tốt, chỉ là chẳng có ai cùng tuổi để chơi cùng ta, tên nhóc này tới đúng lúc lắm, tiếc là y không biết nói." Bỗng thấy vết thương trên cổ Hoàn Nhan Quán, bèn hỏi:
- Vết thương trên cổ ngươi do ai gây ra thế?
Nghe Nam Nhạn hỏi Hoàn Nhan Quán bất giác đưa tay xoa xoa vết thương trên cổ, miệng vết thương đã lên sẹo, xong sờ lên vẫn có chút tê buốt, tê buốt không chỉ ở ngoài da mà còn từ sâu trong tim, những ký ức kinh khủng hiện về khiến hắn không nhịn được lại muốn khóc, nhưng hắn không muốn để người lạ thấy mình rơi lệ, rốt cuộc cắn răng nén lòng lại.
Nam Nhạn thấy bộ dạng nín nhịn đáng thương của Hoàn Nhan Quán, bèn vỗ vỗ vai hắn nói:
- Được rồi được rồi, Dịch bá bá nói đại trượng phu không phải không thể rơi lệ, chỉ là chưa gặp phải chuyện thương tâm mà thôi! Gặp phải chuyện buồn cứ khóc một trận, nước mắt cũng chỉ như cơn mưa ngấm xuống đất rồi thôi!
Được Nam Nhạn an ủi, Hoàn Nhan Quán cuối cùng cũng bật khóc ra, càng khóc càng lớn, cổ họng nấc lên từng tiếng. Nam Nhạn thấy hắn khóc thảm thiết như vậy thì cũng có chút thương hại, tay chân lóng ngóng lau nước mắt cho hắn nói:
- Dừng, dừng! Còn khóc nữa thì ngươi chính là đồ đàn bà!
- Đó là vết đao! Một đao này thực độc, sâu hơn chút thì hắn chẳng còn mạng nữa rồi.
Quý Loan thong dong bước tới ngồi xuống trước người Hoàn Nhan Quán, đưa mắt quan sát một lượt Hoàn Nhan Quán.
- Tiểu tử này mệnh cũng lớn lắm! Phải rồi, ngươi tên gì?
Hoàn Nhan Quán lòng chớp động, chỉ ú ớ kêu hai tiếng, tỏ vẻ bị câm không nói được. Quý Loan a lên một tiếng:
- Quên mất ngươi bị câm. Thế chúng ta nên xưng hô thế nào? Chẳng lẽ gọi ngươi là tiểu hòa thượng?
Hoàn Nhan Quán đảo đảo mắt nghĩ thầm: "Dù sao cũng nên đưa cho họ một cái tên, gọi tiểu hòa thượng mãi cũng không ổn." Bèn giơ tay lên không trung vạch vạch vài nét. Quý Loan ồ một tiếng cười:
- Không ngờ tiểu hòa thượng còn biết chữ, vậy viết tên tuổi ngươi ra là được!
Nói rồi đưa cho hắn giấy bút. Hoàn Nhan Quán chậm rãi đưa tay ra viết, nghĩ nghĩ một chút, bèn cố ý đổi thế cầm bút, dùng cả bàn tay cầm lấy bút viết một cách vụng về. Đám người xung quanh thấy hắn cầm bút ngộ nghĩnh như vậy thì khúc khích cười. Nam Nhạn vỗ vỗ vai hắn ra vẻ người lớn nói:
- Đừng để ý bọn họ, cứ viết đi là được.
Quý Loan trong mắt cũng lộ ra vài phần khích lệ. Chỉ thấy Hoàn Nhan Quán đã viết xuống ba chữ " mười hai tuổi", ngừng một chút, lại viết thêm hai chữ "Cô Thiên".
Quy Loan cau mày:
- Ngươi họ Cô à?
Hai chữ Cô Thiên được tách âm ra từ chữ Quán, trong đó hàm chứa ý nghĩa: "Cô gia quả nhân, quân lâm Thiên hạ". Nghe Quý Loan hỏi vậy hắn bèn thêm một chữ "Dư" vào phía trước, chữ Dư đồng âm với con cá, ý là như cá gặp nạn mắc vào lưới.
Viết xong, Hoàn Nhan Quán trong lòng cũng tự nhủ: "Từ nay trở đi ta là Dư Cô Thiên! Cái tên Hoàn Nhan Quán kia chẳng biết bao giờ mới có thể dùng lại nữa".
- Thì ra là Dư Cô Thiên, mười hai tuổi, kém Nam Nhạn hai tuổi. Khà khà, Nam Nhạn cuối cùng cũng được làm đại ca rồi!
Vừa nói Quý Loan vừa xoa xoa đầu Dư Cô Thiên cười:
- Chớ sợ, đại ca ngươi ở đây, sau này trong bảo không ai dám khi phụ ngươi đâu!
Nhất thời trong phòng vang lên tiếng cười nói huyên náo. Tiếng cười làm Dư Cô Thiên động lòng: " Đám người này tuy áo quần cũ nát, lăn lộn ở cái thạch bảo bần cùng này, nhưng ai nấy đều vui vẻ lạc quan, còn ta thân là đại Kim hoàng tử, rốt cuộc lại phải lưu lạc tới nương nhờ đám di dân nước Tống này."
Quý Loan tuy vẫn cười nói với Nam Nhạn, song mục quang sớm đã trầm xuống vài phần. Y cảm giác Dư Cô Thiên này tuy y phục rách nát, không biết nói chuyện, song giữa hai hàng mi vẫn ẩn ẩn hiện hiện một cỗ ngạo khí cao sang, hiện tại chẳng qua bị kinh sợ quá độ mà mờ nhạt đi.
Dư Cô Thiên tình cờ liếc mắt thấy thần sắc của Quý Loan thì chột dạ, tâm thần bất định. Quý Loan thở dài một tiếng, nhẹ nhàng nói:
- Cô Thiên, không cần sợ hãi, ở Phong Lôi bảo này ngươi cũng như con cháu chúng ta, áo ngươi cũ quá rồi, không cần mặc nữa. Đợi lát nữa tắm rửa rồi lấy một bộ y phục của Nam Nhạn mà mặc.
Nam Nhạn ứng tiếng, chạy về phòng lấy cho Dư Cô Thiên một bộ y phục. Quý Loan cười:
- Ngươi cũng hào phóng thật, ngay cả bộ quần áo cả năm chỉ dám mặc một lần ngày tết cũng đem ra tặng!
Nam Nhạc ngẩng đầu hi hi cười:
- Dịch bá bá dạy ta Luận Ngữ có nói, thời cổ đại có một người không huynh không đệ giống ta, tên là Tư Mã Ngưu, Tử Hạ bèn nói với ông ta: " Tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã ( tứ hải giai huynh đệ), người quân tử sống trên đời có gì đáng sợ hơn là không huynh không đệ?" Tiểu tử này tới với ta chẳng phải chính là huynh đệ ta sao?
Dư Cô Thiên nhìn bộ y phục này tuy không phải mới tinh, nhưng so với bộ quần áo bạc màu trên người Nam Nhạn thì tốt hơn nhiều lắm. Thấy Nam Nhạn hào phóng như vậy Dư Cô Thiên lòng sinh hảo cảm, gật gật đầu với hắn.
Tắm rửa xong, thay y phục, Dư Cô Thiên đi cùng Nam Nhạn tới sảnh trước. Tuy mấy ngày nay phải bỏ chạy bán mạng, ăn uống thiếu thốn, nhưng đối diện với bàn thức ăn đầy đặc sản vùng rừng núi, hắn với giữ được cử chỉ nho nhã lễ độ, ăn uống từ tốn chậm rãi lắm. Quý Loan ngoài mặt tỏ ra không để ý, song trong lòng thầm lấy làm lạ.
Vừa xong cơm thì có người tới báo tìm thấy một cỗ thi thể ở rừng cây ngoài bảo, hiện đã đem vào trong. Quý Loan nghĩ bụng hẳn là thi thể Vô Ưu Tử, thần sắc hơi trầm xuống, bèn gọi người mang đuốc tới, đem theo Nam Nhạn cùng Dư Cô Thiên đi ra ngoài viện. Dư Cô Thiên từ xa trông thấy diện mục hung tợn của Vô Ưu Tử không khỏi hoảng hồn quay mặt qua chỗ khác.
Quý Loan tiến lại vén đạo bào của Vô Ưu Tử lên, thấy trước ngực y hằn lên hai dấu chưởng ấn đen kịt. Lồng ngực gầy gò giờ chỉ còn giống như một túi da, toàn bộ xương cốt đã bị hai chưởng này chấn vỡ hết. Quý Loạn trầm ngâm một lát, nói:
- Nam Nhạn, ngươi xem thế nào?
Nam Nhạn ngưng thần nhìn giây lát, đưa hai ngón tay lên gãi gãi trán, nói:
- Vết thương đen sì như vậy hiển nhiên do độc chưởng gây ra. Kẻ xuất chiêu này độc công cũng thực ghê gớm, chỉ một chưởng đã khiến y toàn thân ngấm độc, thi thể để đó cả nửa ngày mà dã thú cũng không dám động vào. Máu tử mũi từ miệng y chảy ra màu tím đen, mà máu ở tay áo y lại phiếm xanh, ấy hẳn là máu của đối thủ.
Ngừng lại một lát, lại nói:
- Đối thủ của y có lẽ trúng thương trước, máu bắn lên hai tay áo, nhưng cuối cùng lại dùng một chưởng kết liễu y... Hẳn là Đan Thiên Ma sau khi trọng thương đã cố tình giả thua, khiến Vô Ưu Tử không phòng bị mà mất mạng!
Dư Cô Thiên nghe hắn nói mà cả kinh, sư phụ hẳn quả thực trúng độc châm của Vô Ưu Tử trước, sau đó giả trang độc phát mà ngã xuống đất, Vô Ưu Tử tiến lên quan sát mới trúng phải một chưởng kia.
- Tặc tiểu tử khá lắm!
Quý Loan thấy Dư Cô Thiên liên tục gật đầu thì cười khà khà.
- Không uổng công đại ca ta dạy dỗ. Đây quả thực là công phu độc chưởng, nhưng độ hiểm ác tàn độc vượt xa loại độc chưởng thông thường. Thực chẳng hay Đan Thiên Ma ấy là người nào?
Nói xong nhìn chằm chằm vào Dư Cô Thiên không che giấu vẻ nghi hoặc. Nhưng dẫu y hỏi thế nào thì Dư Cô Thiên cũng chỉ ú ớ khua tay múa chân loạn lên, hỏi vài câu hắn liên khóc òa lên.
Ngay lúc Quý Loan thúc thủ vô sách, chợt nghe có tiếng hắng giọng từ phía sau:
- Hà tất làm khó đứa bé tàn tật này, khiến nó sợ hãi?
Một lão giả gầy gò chậm rãi bước tới. Người hầu hai bên vội khom người hành lễ. Quý Loan hai mắt phát sáng, nói:
- Đại ca đêm muộn thế này không phải là đã sớm nhập quan thiền định rồi sao? Tiểu đệ không dám vì chút chuyện nhỏ mà làm phiền đại ca thanh tu!
Dư Cô Thiên lúc này mới biết lão giả trước mặt là Phong Lôi bảo bảo chủ Dịch Hoài Thu.
- Tâm tình bất an, nhập định cũng vô dụng... Chuyện này đúng là có chút cổ quái!
Dịch Hoài Thu tỉ mỉ quan sát thi thể, ho lên hai tiếng, ra lệnh cho hạ nhân:
- Đem thi thể này ra sau núi mai táng đi thôi, chôn sâu một chút, chớ để lại dấu vết!
Dứt lời khoát tay áo quay người bước vào trong đại sảnh.
Quý Loan lòng bối rối, dẫn Nam Nhạn và Dư Cô Thiên đi vào theo. Dưới ánh đèn sáng tỏ chỉ thấy Dịch Hoài Thu cau mày trầm tư, Quý Loan lòng trầm xuống, liếc qua Dư Cô Thiên, không nhịn được hỏi:
- Đại ca, Đan Thiên Mã này có gì không ổn sao?
Dịch Hoài Thu lắc đầu:
- Chuyện này nhất thời cũng khó nói rõ, nhưng hiện tại khiến ta lo lắng nhất là chủ nhân của Vô Ưu Tử, Hoàn Nhan Lượng! Kẻ này trước giờ dã tâm to lớn, mới đây đã soán vị đăng cơ, đoạt được thiên hạ đại Kim. Nghe nói y đang tích cực chiêu mộ thủ hạ, ngay cả đệ tử của Đao Bá là Bồ Sát Nộ cũng đã về dưới trướng y.
Dư Cô Thiên nghe nhắc tới Hoàn Nhan Lượng trong lòng liền nóng như lửa. Hắn đưa mắt nhìn kỹ lão giả trước mặt, người này gầy gò như vị la hán trong miếu, mái tóc xám bạc buông xõa, nếp nhăn trên mặt hằn sâu như có ai dùng đao khắc lên, hai con mắt lõm xuống như người bị bệnh nan y lâu ngày vậy.
- Hầy, đợi tới lúc y ổn định nội bộ, ngồi vững hoàng vị, đại Tống ta e gặp nguy mất!
Dịch Hoài Thu thở dài một hơi.
- Sợ là chẳng tới mười năm, Hoàn Nhan Lượng nhất định sẽ suất quân nam chinh.
Quý Loan nghe lời ấy mà kinh hoảng:
- Hiện nay triều đình ở giang nam đã bị lũ cẩu tặc Tần Cối thao túng, quan lại ngu dốt, chướng khí mù mịt, Nhạc nguyên soái thì đã mất, lấy ai mà chống lại thiết kỵ của người Kim?
Nam Nhạn nhìn Dịch Hoài Thu lo lắng như vậy bèn hỏi:
- Dịch bá bá, ngươi từng nói người Nữ Chân cả thảy chẳng qua cũng chỉ vài vạn, vì sao đại Tống ta hàng ngàn hàng vạn hảo hán lại sợ họ?
Dịch Hoài Thu lông mày khẽ run, ho khan một trận, cười lạnh đáp:
- Một là triều đình vô dụng, Triệu quan gia ( chỉ hoàng thất đại Tống) để mặc lũ loạn thần tặc tử hoành hành, khiến trung thần không còn chỗ đứng. Hai là đại Tống nhân khẩu đông đúc nhưng lại không có sự đồng lòng, trước giờ chỉ lo tính kế tranh đấu lẫn nhau. Đất nước đã như vậy, võ lâm cũng chẳng khác là bao, một lũ ngu xuẩn cả ngày chỉ biết chém giết lẫn nhau...
Nam Nhạn gật gật đầu, cười nói:
- Ta hiểu rồi. Vậy nếu có người đứng ra hiệu lệnh mọi người cùng nhau chiến đấu, hợp sức chống Kim chẳng phải là ổn rồi sao?
- Tiểu tử còn nhỏ tuổi mà hiểu được đạo lý này, khá lắm!
Dịch Hoài Thu hai mắt như phát sáng nhìn Nam Nhạn nói:
- Nói không sai, hảo hán đại Tống nếu đồng lòng đứng lên, trung nguyên dẫu lớn hơn nữa cũng chẳng còn chỗ dung thân cho quân Kim! Thực ra hơn chục năm trước cũng từng có một người liên kết được võ lâm, cùng nhau kháng chiến chống Kim...
Nói tới đó y dừng lại một chút, mục quang bỗng trở nên xa xăm.
Gió núi gào thổi qua lớp giấy dầu cửa sổ khiến ánh nến trở nên run rẩy dập dờn, chiếu lên khuôn mặt già nua của Dịch Hoài Thu lúc mờ lúc tỏ.
Nam Nhạn trầm tư, không nhịn được hỏi:
- Người ấy tên họ là gì? Nay đang ở đâu?
Dịch Hoài Thu thân thể hơi run lên, ánh mắt nhìn sang hiện lên một tầng mây mù, trầm giọng nói:
- Người ấy là một trong Phong Vân Bát Tu, được giang hồ xưng Kiếm Cuồng, Trác Tàng Phong. Mười mấy năm trước, hắn là Nguyệt Tôn Giáo Chủ của Minh Giáo, ở Đồng Tâm đàn một thanh Đằng Uy Thần Kiếm đánh bại tông chủ mười ba phái, khiến anh hùng hào kiệt hai bờ Hoàng Hà thành tâm quy phục, dùng "Tứ Hải Quy Tâm Minh" là danh xưng, quyết chí phá giặc Kim.
Nam Nhạn nghe tới xuất thần, tròn mắt nói:
- Dùng một thanh trường kiếm đánh bại anh hùng bốn phương, người ấy bản lĩnh thực lớn!
Dư Cô Thiên trong lòng bối rối, thấy Nam Nhạn nhìn mình cười thì cũng gật đầu cười bồi theo. Quý Loan từ đầu tới giờ chỉ nghe, nay cũng cười nói:
- Trác đại hiệp dùng võ công áp quần hùng là sự thật, nhưng để khiến chúng anh hùng hào kiệt đồng tâm hiệp lực thì võ công là chưa đủ. Quần hùng tôn Trác đại hiệp làm minh chủ không chỉ vì võ công, mà còn vì đức tính trượng nghĩa hào hiệp, trung quân ái quốc của ngài.
Trước mắt Nam Nhạn như hiện ra hình ảnh ngày hôm ấy, hán tử đứng trên đài cao, áo dài phất phơ, trường kiếm nghênh phong. " Có thể khiến quần hùng võ lâm quy phục, bậc anh hùng ấy rốt cuộc là người thế nào?!"
- Sau này Tứ Hải Quy Tâm Minh cùng Trác đại hiệp về dưới trướng Nhạc nguyên soái. Dịch bá bá của ngươi lúc ấy cũng là thủ hạ của Trác đại hiệp, cùng người vượt sông tiến lên phương bắc hỗ trợ nghĩa quân. Nghĩa quân có sự giúp sức của Tứ Hải Quy Tâm Minh khí thế mạnh mẽ như lưu tinh, nhân số chẳng mấy chốc đạt tới bốn mươi vạn, đánh đâu thắng đó không gì cản nổi. Nhạc nguyên soái được Trác minh chủ hỗ trợ thực như hổ thêm cánh... nếu không phải lũ gian tặc Tần Cối lộng quyền, chúng ta sớm đã có thể đón nhị thánh về triều rồi ( chỉ hai vị vua Tĩnh Khang).
Nghĩ về thời tráng niên hào hùng viền mắt y đã trở nên ướt át.
Dư Cô Thiên vẫn im lặng lắng nghe, hắn dường như biết Nhạc nguyên soái ấy, biết vị dũng tướng năng chinh thiện chiến ấy , ngay cả anh hùng của đại Kim Hoàn Nhan Tông Bật cũng mấy lần bại dưới tay y mà. Thì ra họ đều là bộ hạ cũ của Nhạc gia, đáng cười thay, ta một hoàng tử nước đại Kim cuối cùng lại chạy tới đây nương nhờ họ.
Căn phòng tĩnh lặng trong giây lát, chợt Nam Nhạn lên tiếng:
- Vị Trác minh chủ kia sau này thế nào?
Dịch Hoài Thu thân hình hơi chấn động, nhìn về phía Nam Nhạn đáp:
- Trác Tàng Phong trở thành minh chủ Tứ Hải Quy Tâm Minh, nhưng đã đắc tội với hai người. Người đầu tiên chính là Tần Cối. Minh chủ là cánh tay đắc lực của Nhạc nguyên soái, dĩ nhiên không đội trời chung với Tần Cối. Một người khác nữa là Nhật Tôn Giáo Chủ của Minh Giáo Lâm Dật Yên. Nhật Nguyệt Song Tôn của Minh giáo, luận địa vị Nhật Tôn Giáo Chủ còn trên Nguyệt Tôn Giáo Chủ một bậc, thiết nghĩ Trác Tàng Phong hắn lên làm minh chủ Tứ Hải Quy Tâm, vậy có khác nào chẳng coi Nhật Tôn Giáo Chủ ra gì? Bản thân Trác Tàng Phong muốn kháng Kim, song Lâm Dật Yên lại muốn thừa cơ chiến loạn chấn hưng Minh Giáo, sau này trong giáo liền chia thành hai phe phái một bên muốn hộ quốc, một bên muốn hộ giáo. Giữa hai người họ rốt cuộc có ân oán ra sao người ngoài chúng ta không biết được, chỉ biết cuối cùng Trác Tàng Phong dẫn theo vài thân tín rời khỏi giáo.
- Lúc đó là năm Thiệu Hưng thứ tám, Tần Cối nắm toàn quyền triều bính, kiêu căng phách lối vô cùng. Cẩu tặc ấy chỉ một lòng muốn cầu hòa với Kim, liền sắp đặt gian kế, đầu tiên triệt tiêu dần thủ hạ của Trác minh chủ, sau đó lại sai lũ ưng khuyển toàn lực truy sát ngài. Trác minh chủ thân cô thế cô, rốt cuộc mãnh hổ nan địch quần hồ...
Nam Nhạn nghe Dịch Hoài Thu nói tới đó thì âm thanh trở nên run rẩy, vội hỏi:
- Nói như vậy... lẽ nào Trác đại hiệp đã chết?
Dịch Hoài Thu trầm giọng:
- Có lẽ. Nghe nói sau khi bị truy sát, không còn ai nghe được tin tức gì về ngài nữa. Ta cũng đã nhiều lần phái người đi tìm nhưng chẳng thu hoạch được gì, e là ngài đã ngộ nạn...
Nam Nhạn trừng đôi mắt hắc bạch phân minh lên nhìn Dịch Hoài Thu, chợt nói:
- Vị Trác đại hiệp ấy là anh hùng vô địch thiên hạ, ngài sẽ không chết đâu!
Dịch Hoài Thu trên khuôn mặt già hiện lên nét cười:
- Phải, bậc đại anh hùng như ngài không thể chết dễ thế được, cũng có thể là ngài đã quy ẩn giang hồ mà thôi!
Trong lòng đứa trẻ như Nam Nhạn đương nhiên không muốn một bậc đại anh hùng cứ như vậy mà chết. Dịch Hoài Thu cũng không cùng hắn tranh cãi, cười khổ nói:
- Chỉ là Trác đại hiệp vừa rời đi, võ lâm lại chia năm sẻ bảy như xưa, cũng chẳng còn nhân vật nào đứng lên hiệu lệnh quần hùng như Trác đại hiệp nữa.
Nói xong thở dài một hơi, cảm khái vô tận. Nam Nhạn nhếch hai hàng lông mi dài mỏng lên, nói dõng dạc từ chữ:
- Đợi vài năm nữa, ta cũng sẽ giống như Trác đại hiệp, lại mở Tứ Hải Quy Tâm đại hội, liên kết hào kiệt bốn phương, đồng lòng đánh đuổi lũ cẩu Kim ra khỏi trung nguyên.
- Hài tử ngoan!
Câu nói của Nam Nhạn khiến Dịch Hoài Thu lòng chớp động, đôi mắt còn ướt không giấu được sự hân thưởng, duỗi cánh tay già nua nắm lấy vai hắn run giọng nói:
- Có thể nói ra những lời ấy, thực không uổng công Dịch bá bá dạy dỗ mấy năm nay...
Lão còn muốn nói gì đó nhưng lại bị cơn ho nặng nề ngăn lại. Ho thực mạnh, mạnh tới mức run rẩy cả tấm áo bào vàng như lá thu. Dư Cô Thiên nghe mấy người họ đối đáp, trong lòng vừa buồn vừa khổ, chẳng biết nên làm gì cho phải.
- Đại ca.
Quý Loan nghe tiếng ho ghê gớm quá mức bèn đứng lên nhẹ giọng nói:
- Vết thương cũ lại phát tác rồi à?
Dịch Hoài Thu gật đầu, cơn ho khiến lão không nói ra lời.
- Khụ khụ... Thương tích này mỗi ngày một nặng, cũng chẳng biết còn cầm cự được tới khi nào!
Quý Loan sắc mặt ảm đạm, vội khoát tay nói:
- Sắc trời đã muộn, đại ca nên nghỉ ngơi sớm một chút.
Dứt lời liền dẫn hai đứa trẻ rời đi.
...
Tối hôm ấy Dư Cô Thiên được sắp xếp cho một căn phòng. Phong Lôi bảo tuy nghèo nhưng khá rộng rãi, phòng ốc cũng không ít. Phòng hắn không lớn lắm, nhưng giấy dán tường khá sạch sẽ ưa nhìn, nội thất sắp xếp theo tập quán sống của người phương Bắc, dưới giường có bếp sưởi, nằm lên ấm áp dễ chịu lắm, so với những chùa miếu hoang hắn ngủ tạm mấy đêm trước thực chẳng khác chi thiên đường. Nhưng Dư Cô Thiên không ngủ được.
Lần đầu tiên trong đời hắn ngủ một mình. Nến trong phòng vẫn đang cháy. Dưới ánh nến dập dờn, Dư Cô Thiên nằm trên giường ngước đầu nhìn lên trần nhà màu ám vàng, nỗi sợ hãi, đau thương như nước biển tràn ngập ra lòng hắn, thế rồi chợt hắn kéo trăm chùm kín lấy mặt ô ô mà khóc.
Khóc một hồi tâm trạng Dư Cô Thiên rốt cuộc cũng tốt hơn chút, bỗng nghe ngoài cửa sổ vọng lại tiếng hô hét nhẹ. Hắn chậm rãi ngồi dậy, đưa mắt nhìn qua khe cửa, thấy một thiếu niên đang vung tay mua chân luyện võ công. Dư Cô Thiên lòng hiếu kỳ, bèn đẩy cửa đi ra ngoài xem. Trên bầu trời đêm mùa đông trăng khuyết rọi sáng cả một khoảng sân lớn, thiếu niên đang luyện võ chính là Nam Nhạn.
Nam Nhạn cũng đã nhìn thấy Dư Cô Thiên, hướng về phía hắn mỉm cười một cái, lại tiếp tục luyện quyền. Dư Cô Thiên nhận ra quyền pháp Nam Nhạn đang luyện, ấy là Phục Hổ Quyền, môn công phu nhập môn của đệ tử Thiếu Lâm. Môn Phục Hổ Quyền này truyền bá phổ biến khắp bắc nam, Dư Cô Thiên cũng từng luyện qua một thời gian.
Nhìn thêm một lát, Dư Cô Thiên không khỏi lắc đầu thở dài. Bộ pháp của Nam Nhạn không chút bài bản, quyền đánh ra cũng yếu ớt vô lực, đánh không được nửa bài quyền thì đã hồng hộc thở dốc, nhưng hắn vẫn tiếp tục chăm chú đánh ra từng chiêu từng thức. Tới chiêu cuối cùng Khoa Hổ Quy Sơn, sau khi xoay người đáng lẽ phải quét chân một vòng rồi thu thế, nhưng Nam Nhạn hai chân không đủ lực, cuối cùng ngã lăn ra đất.
Dư Cô Thiên hơi cau mày, muốn chạy qua đỡ, lại thấy Nam Nhạn đã xoay người đứng dậy, tiếp tục luyện lại một lần chiêu Khoa Hổ Quy Sơn ấy, lần này có vẻ đã rút kinh nghiệm, thân thể chỉ hơi nghiêng ngả một chút chứ không ngã.
- Xem ta mồ hôi nhiều chưa này!
Nam Nhạn thu quyền, phì phò cười nhìn Dư Cô Thiên, vừa nói vừa vỗ vỗ y phục trên người. Dư Cô Thiên cũng cười với hắn, thấy Nhạn Nam giữa trời đông chỉ mặc một chiếc áo mỏng, áo sớm đã ướt đẫm mồ hôi, đứng giữa gió lạnh mà dường như không lạnh.
Nam Nhạn cũng chẳng còn hơi sức mà lau mồ hôi đang chảy dầm dề trên mặt, hít một hơi dài nói:
- Dịch bá bá nói ta thể chất không hợp luyện võ, thân thể quá yếu ớt...
Nghe Nam Nhạn nói vậy Dư Cô Thiên lòng lại có chút vui vẻ. Thấy Nam Nhạn người ướt như vừa ngã xuống sông, bèn lấy khăn lau giúp hắn mồ hôi.
- Họ nói ta từ nhỏ đã nhiều bệnh tật, năm ba tuổi suýt chết vì bạo bệnh, may có vị hòa thượng từ nơi khác đi ngang qua, y sờ sờ đầu ta rồi nói cái gì mà " bách chiết bất náo, ngọc nhữ vu thành", sau đó giúp ta chữa gần như khỏi bệnh. Có điều thân thế ta quá mức hư nhược, động một cái là mồ hôi đầm đìa.
Vừa nói vừa tung chân đã văng một hòn đá.
- Ta chỉ mong hòa thượng kỳ quái ấy lại tới lần nữa, chữa khỏi hết bệnh cho ta, nhưng ông ta không tới nữa. Ta vẫn muốn tập võ, nhưng cứ luyện như thế này, vung tay múa chân bừa bãi thực chẳng làm nên tích sự gì.
Dư Cô Thiên thấy hắn thần sắc ảm đạm, trong lòng cũng có chút đồng tình: " Người thông minh hoạt bát như hắn không ngờ lòng cũng nhiều phiền muộn như vậy!"
- Hắc hắc, bách chiết bất náo, có trời mới biết ta rốt cuộc phải "chiết" bao nhiêu lần nữa mới thành được khối ngọc!
Vừa nói hắn vừa ngẩng đầu ngơ ngẩn nhìn lên trăng sáng, chợt đôi mắt đen nhánh chuyển qua người Dư Cô Thiên nói:
- Ngươi biết không, ta thường hay gặp một giấc mơ kỳ quái! Mơ thấy bản thân chạy vào trong một ngọn núi kỳ quái, nơi ấy có rừng có suối, có một người cực cao lớn cực anh tuấn, tay cầm thứ đồ vật đen sì, mục quang lấp lánh nhìn chằm chằm ta! Lần nào mơ tới đó ta cũng hoảng sợ mà tỉnh lại.
Dư Cô Thiên nghe y kể chuyện kỳ quái quỷ dị cũng cảm thấy rùng người, gióng lạnh vi vu thổi sau lưng khiến hắn bất giác rụt cổ vào trong áo.
Nam Nhạn có lúc một câu cũng lười chẳng muốn nói, lại có lúc nói mãi không dứt. Hắn lại nói:
- Dịch bá bá dạy chúng ta một môn thuần thú bí thuật. Dựa vào công phu này mỗi lúc rảnh rỗi ta lại chạy khắp sơn lâm, lão hổ, dã lang đều là bạn ta! Nếu không vào rừng chơi thì có thể đánh cờ, tiếc là Phong Lôi bảo chẳng có mấy người chịu cùng ta đánh cờ!
Nói tới đó mắt hắn bỗng sáng rực lên, duỗi tay kéo cổ tay Dư Cô Thiên kêu lên:
- Phải rồi, đi, ta đưa ngươi tới phòng ta chơi cờ!
Thực ra phòng hắn nằm ngay cạnh phòng Dư Cô Thiên. Dư Cô Thiên vừa bước vào phòng, nhìn khắp phòng toàn là cờ vây, không khỏi giật nảy mình. Trên ghế, trên bàn, thậm chí trên mặt đất cũng đầy các quân cờ, trên giường đặt một bàn cờ, trên bặt bày sẵn các quân cờ đen trắng lẫn lộn.
Dư Cô Thiên a lên một tiếng, chút nữa thì bật ra thành tiếng: "Ngươi thích chơi cờ thế sao?". Lúc ấy cờ vậy thịnh hành khắp thiên hạ, giới quý tộc nước Kim cũng rất chuộng thứ này, Hy Tông cũng có thể coi là một cao thủ cờ vây, mà Dư Cô Thiên hắn tự thấy bản thân đánh cũng không tồi. Ở chốn hoang lâm thâm sơn này nhìn thấy cờ vây, nhìn thấy có người thích cờ vây như vậy khiến Dư Cô Thiên có chút bất ngờ, lại có chút hoan hỷ.
Nam Nhạn thấy Dư Cô Thiên biểu tình hưng phấn như vậy, liền đắc ý nói:
- Dịch bá bá không cho ta luyện võ, nhưng lại rất thích ta chơi cờ.
Hắn kéo tay Dư Cô Thiên ngồi lên giường, cầm lên một quân cờ trắng bóng nói:
- Thứ này cũng thực khiến người ta say mê, đã chơi là chơi tới quên ăn quên ngủ. Cứ mỗi lần sinh nhật Dịch bá bá lại tặng ta một bộ cờ vây. Cờ trong phòng này đều là ngài ấy tặng.
Dư Cô Thiên nghe thấy hai chữ "sinh nhật" lòng lại đau như bị đau cắt. Sinh nhật, đêm trước ngày sinh nhật, bầu trời của hắn đã sập xuống, bản thân hắn như rơi xuống địa ngục. Ngày sinh nhật đầu tiên hắn phải lang bạt bên ngoài.
Sợ Nam Nhạn phát hiện bản thân lại rơi lệ, hắn vội cúi đầu nhặt lên một quân cờ, giả bộ nhìn ngắm cẩn thận. Có điều Nam Nhạn sớm đã phát hiện, lòng thầm nghĩ: "Phải rồi, Dư Cô Thiên là một đứa trẻ cô khổ, đến ăn còn chẳng đủ no, ta lại nói chuyện sinh nhật được người nọ người kia tặng quà, chẳng trách hắn buồn lòng như vậy!". Bèn cười:
- Ngươi biết chơi cờ không? Dịch bá bá nói ta là kỳ tài, trời sinh để chơi cờ. Người ở đây tính cả Dịch bá bá đều bị ta tàn sát, nhường bọn họ bốn quân họ cũng chẳng dám chơi. Ngươi chơi cùng ta, ta cũng nhường ngươi bốn quân.
Dư Cô Thiên từ nhỏ sống trong cung quen được người khác tâng bốc tán tụng, nghe Nam Nhạn nói lời ấy liền cảm thấy không phục, muốn lập tức bày cờ đánh cho tiểu tử này không còn manh giáp, nhưng lại nghĩ sư phụ Ải Tu La đã dặn " Giả ngốc giả câm", đành dằn lòng: " Ta hiện tại sống giữa ổ giặc, nên đặt an toàn lên hàng đầu thì hơn." Bèn cắn răng lắc đầu tỏ ý không biết chơi cờ, lại giả ngáp một cái tỏ vẻ mệt mỏi.
- Ồ, ta quên mất, ngươi đi đường dài e là đã mệt mỏi lắm rồi, vậy chúng ta nghỉ ngơi thôi!
Nói rồi thu thập bàn cờ, thổi tắt nến.
Hai đứa trẻ nằm song song trên giường. Nam Nhạn cầm quân cờ trên tay lật qua lật lại, chợt than:
- Thực ra cuộc đời ta còn khổ hơn ngươi, ít nhất ngươi biết thân thế của bản thân, ta thì ngay cả cha là ai, mẹ là ai cũng... Dịch bá bá nói ông nhặt được ta ở ngoài về, nhưng ta luôn cảm thấy ông giấu ta điều gì đó!
Dư Cô Thiên bị lời của y đánh động, trong lòng cũng trở nên buồn khổ, thở dài một hơi nghĩ thầm: "Thiên hạ còn có người khổ hơn ta sao? Bầu trời đại Kim đã thay đổi, ta nay đã như cá nằm trong lưới, sư phụ thì trọng thương chẳng hay tung tích...". Tiếng dã thú xa xa vọng lại, âm thanh không lớn nhưng đủ khiến lòng người lo lắng bất an.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của BM.KimDung
Hoàng hôn ngày hôm sau, Nam Nhạn theo lệ tới vấn an Dịch Hoài Thu, vừa tiến vào phòng thiền liền cảm giác bầu không khí có gì đó không đúng. Lệ Bát Phong hai mắt nhắm nghiền đi đi lại lại trong phòng, trên người mặc một bộ đồ đen, đống xích sắt vẫn quấn trên người, sau lưng lại cài thêm một thanh đại đao, cứ mỗi lần ngừng bước là đao xích va chạm leng keng, thanh thế kinh người. Dịch Hoài Thu cùng Quý Loan thì ngồi im không nói một lời, diện mục ngưng trọng nhìn chằm chằm lá cờ đen trước mặt.
Nam Nhạn nhìn lá cờ ấy cũng chỉ to cỡ bàn tay, không biết làm từ chất liệu gì, sắc đen như mực, ẩn ẩn ước ước toát ra một cỗ khí tức bức nhân. Nam Nhạn tiến lại quan sát kỹ, thấy trên mặt cờ được thêu đồ án long hổ tương đấu bằng chỉ tím, không khỏi thốt lên:
- Thứ đồ này thực kỳ quái, ở đâu ra vậy?
Quý Loan cười khổ:
- Trưa nay rút nó ra từ tảng đá ngoài bảo. Cũng không rõ là kẻ nào có nội lực thâm hậu đáng sợ như vậy, đem cán cờ cắm sâu vào tảng đá.
Nam Nhạn biết tảng đá ấy chính là tảng đá có khắc tám chữ "Núi nhiều hổ báo, cẩu Kim chớ vào", hắn cầm cây cờ lên, sờ sờ lên lá cờ làm bằng mao nhung, lòng bỗng sinh ra cảm giác sợ hãi chưa từng có, run giọng nói:
- Dịch bá bá, cây cờ này có ý gì, vì sao có kẻ cắm nó ở trước bảo?
Dịch Hoài Thu nhíu mày, trầm giọng:
- Cây cờ này là tín vật của Long Tương Lâu nước Kim.
- Long Tương Lâu?
Nam Nhạn tuy là lần đầu nghe tới cái tên này, nhưng cảm giác lo sợ trong lòng càng thêm mãnh liệt, run giọng hỏi:
- Đó là nơi nào?
Dịch Hoài Thu phiền muộn đáp:
- Tuy ngươi không luyện võ, nhưng cũng nên biết một chút chuyện trong giang hồ.
Nói tới đó lão thở dài một hơi quay sang Quý Loan:
- Lão nhị, ngươi nói cho hắn nghe đi...
Quý Loan hắng giọng rồi nói:
- Võ lâm thiên hạ hiện nay đứng đầu là Tứ Hùng Bát Tu. Phong Vân Bát Tu bao gồm tám người Thiền Thánh Dị Tuyệt, Kiếm Cuồng Đao Bá, Kỳ Tiên Trà Ẩn, Y Vương Vu Ma. Tứ Hùng bao gồm bốn thế lực mạnh nhất là Long Tương Lâu nước Kim, Hùng Sư Đường ở Kiến Khang, Minh Giáo ở Đại Vân đảo hồ Động Đình và Cách Thiên Xã bên hồ Tây Tử. Trong đó Hùng Sư Đường mấy chục năm trở lại đây là thế lược kháng Kim kiên cường nhất, Cuồng Kiếm Trác Tàng Phong năm ấy cũng là được La đường chủ của Hùng Sư Đường trợ giúp rất nhiều mới lập nên được Tứ Hải Quy Tâm Minh. Sau khi Trác minh chủ... mai danh ẩn tích, La đường chủ tuổi đã gần bảy mươi lại tiếp tục dương cờ khởi nghĩa kháng Kim. La đường chủ đại danh là La Tuyết Đình, được xưng là Sư Đường Tuyết Lãnh.
- Cách Thiên Xã hồ Tây Tử thì lại là vây cánh của gian tặc Tần Cối, đào tạo ra vô số Cách Thiên Thiết Vệ chuyên giúp Tần Cối diệt trừ các thế lực đối địch. Tổng quản của đám Cách Thiên Thiết Vệ là Triệu Tường Hạc, võ công tuyệt cao, được xưng Giang Nam Đệ Nhất Thủ. Vì trong tên hắn có chữ Hạc, võ công liền đặt tên là Khống Hạc Thủ, mọi người gọi là Ngô Sơn Hạc Minh.
Quý Loan nói rất nhanh, giọng nói có vẻ gấp gáp, tựa như có chuyện gì đó cấp bách.
- Nói tới Minh Giáo không khỏi khiến người ta thở dài. Ban đầu Minh Giáo hành sự quỷ dị, vốn không đồng đạo với võ lâm trung nguyên, chỉ tới khi Trác Tàng Phong hoành không xuất thế mới hóa giải được khúc mắc hai bên. Nhưng từ khi Trác Tàng Phong không còn, Lâm Dật Yên tự phụ thần công vô địch, đường ta ta đi, Minh Giáo lại quay trở về như trước kia. Giang hồ gọi hắn là Động Đình Yên Hoành, thực ra là chửi hắn độc chiếm Động Đình hồ khiến nơi ấy chướng khí mù mịt.
Nam Nhạn nghe y thao thao bất tuyệt, lòng không khỏi kinh ngạc: " Thường ngày Dịch bá bá với Quý nhị bá cũng thường kể cho ta nghe một số chuyện trên giang hồ, nhưng đều là kể tóm tắt qua loa, hôm nay lại kể nhiều như vậy là có ý gì đây?". Đôi mắt chớp động nói:
- Nói như vậy, Minh Giáo, Các Thiên Xã và Hùng Sư Đường ba đại thế lực đều ở Giang Nam, hẳn là không thể tránh khỏi những màn minh tranh ám đấu rồi. Ừm, Động Đình Yên Hoành, Sư Đường Tuyết Lãnh, Ngô Sơn Hạc Minh, danh hiệu nghe thực hay, vậy Long Tương Lâu thì sao?
- Trong tứ hùng thì thanh thế của Long Tương Lâu là lớn nhất. Chủ nhân của Long Tương Lâu Hoàn Nhan Hanh chỉ tự nhận là Long Tương Lâu Chủ, nhưng mọi người vẫn xưng y là Thương Hải Long Đằng.
Quý Loan nhắc tới bốn chữ Thương Hải Long Đằng liền cảm giác miệng đắng lưỡi khô, nhấp một ngụm trà rồi nói tiếp:
- Hoàn Nhan Hanh vốn là con trai của Đô Nguyên Soái quyền cao chức trọng nước Đại Kim Hoàn Nhan Tông Bật, hiện cũng là Nhuế vương gia của Đại Kim. Nghe nói y thông tuệ tuyệt đỉnh, văn thao võ lược không thua kém bất kỳ ai. Nghe kể hồi ấy ở Giang Nam có kẻ nịnh nọt tôn Triệu Tường Hạc của Cách Thiên Xã là thiên hạ đệ nhất nhân, Triệu Tường Hạc lập tức từ chối không dám nhận, nói Nhuế vương vẫn còn đó, hắn cùng lắm chỉ là Giang Nam đệ nhất. Hắc hắc, Triệu Tường Hạc nói như vậy, một là muốn theo ý chủ hẳn Tần Cối tâng bốc người Kim, hai là Hoàn Nhan Lượng người này thực sự có chỗ hơn người... Vết thương của Dịch bá bá ngươi cũng là do Hoàn Nhan Lượng gây ra đó!
Nam Nhạn cả kinh hỏi:
- Dịch bá bá, ngươi đã từng giao thủ với Hoàn Nhan Lượng?
Dịch Hoài Thu khụ khụ hai tiếng, cười khổ:
- Nào dám gọi là giao thủ... khụ khụ... Nói ra cũng thực xấu hổ, ta lúc ấy chỉ là bị hắn tiện tay đả thương mà thôi.
Nam Nhạn nghe vậy giật mình. Thương thế Dịch Hoài Thu trước giờ ít ai biết rõ, ngay cả Lệ Bát Phong lúc này cũng đã dừng bước lắng nghe.
- Lúc ấy là năm Thiệu Hưng thứ hai, tính ra cũng hơn chục năm rồi.
Dịch Hoài Thu nhắc lại chuyện cũ mục quang trở nên xa thẳm.
- Lúc ấy người Kim lập tên hoàng đế bù nhìn Lưu Dự, ngang ngược phách lối, chuyên quyền bạo ngược khiến lòng người oán thán. Lão phu lúc ấy phụng mệnh Nhạc nguyên soái, ở núi Phục Ngưu này bắt đầu xây dựng Phong Lôi bảo, đợi sau này Nhạc gia đem quân tiếng đánh phủ Hà Nam sẽ làm nội ứng. Có một lần lão phu đi do thám, may mắn tiến lại được gần hoàng cung, phát hiện cha con Lưu Dự đang cung cung kính kính tiễn một tên sử giả người Kim ra khỏi cung. Tên sứ giả ấy tuổi tác không ngoài ba mươi, nhìn bộ dạng cha con Lưu Dự như chó vẫy đuôi chủ, địa vị y hẳn rất cao. Dịch bá bá nhìn cảnh ấy mà nhất thời xung động, lại thấy bên người y không có hộ vệ, liền động sát tâm.
Nam Nhạn biết tính Dịch Hoài Thu, cứ mỗi lần nhắc tới quan viên đại Kim lão đều chửi là "cẩu Kim", lần này lại gọi là "người Kim", có thể xem như cực kỳ khách khí.
Nhắc lại chuyện thời tráng niên, Dịch Hoài Thu mặt già không khỏi hơi đỏ lên, ngay cả ho cũng ít đi.
- Nào ngờ còn chưa ra tay thì có bốn năm cao thủ cũng đang chuẩn bị hành thích y, ta đoán họ có chuẩn bị từ trước. Vì ta trước giờ không có thói quen tranh công với người khác, nên thấy họ muốn ra tay ta chỉ đứng ngoài quan sát. Ha ha, thực không ngờ cuối cùng vì thế mà thoát một mạng!
Tiếng cười của lão nghe thực thê thảm.
- Đám người bám theo người Kim ra khỏi Khai Phong thì bắt đầu ra tay. Họ vừa ra tay ta liền nhận ra là các cao thủ của võ lâm trung nguyên, luận võ công mỗi người trong số họ đều cao hơn ta không biết bao nhiêu mà kể. Nhìn họ xuất chiêu, một kẻ vốn tính tự phụ như ta lúc ấy mới biết cái gì gọi là núi cao còn có núi cao hơn. Nhưng kỳ lạ là, những tuyệt chiêu diệu thức khiến ta cảm thấy hoa mắt chóng mặt của họ, trước mặt người Kim kia dường như chẳng chút ý nghĩa. Nhìn y thoắt ẩn thoắt hiện giữa vô số chiêu thức như cuồng phong bạo vũ, ta dẫu chỉ đứng một bên nhìn mà cũng kinh hồn táng đảm, quên cả việc lao lên trợ giúp.
Nam Nhạn nghe giọng lão run rẩy, bất giác liếc qua Quý Loan, hai người nhìn nhau, lòng không khỏi toát lên một cỗ hàn ý.
- Lúc ấy chợt nghe người Kim thét lên:" Lưu Dụ lão phế vật, cho các ngươi xem công phu của Hoàn Nhan Hanh ta!". Tiếng ấy chưa dứt, hai tay y đã vung lên, cũng chẳng biết y dùng chiêu thức quái dị gì, khiến cả năm người trúng chiêu, đồng loạt ngã ra đất.
Lệ Bát Phong không nhịn được hỏi:
- Tất cả đều trúng chiêu một lúc sao?
Dịch Hoài Thu ảm đạm gật đầu:
- Bao năm nay ta vẫn không quên được một chiêu như thiên ngoại thần long ấy. Nghĩ tới nghĩ lui, trong thiên hạ có thể thi triển chiêu thức ở mức cao diệu như vậy cũng chỉ có Cuồng Kiếm Trác Tàng Phong mà thôi. Lúc ấy ta ngây người ra, người Kim nọ chợt quay về phía ta quát lên: "Quay về báo cho Lưu Dự, yên yên ổn ổn mà làm bổn phận của hắn, chớ có si tâm vọng tưởng!". Thì ra y sớm đã biết ta ở đó, vừa nói xong y tung một cước, đá cành cây trên đất đập thẳng vào ngực ta, đau tới mức ta suýt ngất đi. Đợi hắn đi khỏi, ta chạy tới xem năm người kia, phát hiện trước ngực mỗi người họ có một dấu chưởng ấn xanh ngắt, không còn bất kỳ một vết thương nào khác, tất cả đã chết!
Nói một hơi hết câu lão lại họ lên sằng sặc.Gió đêm đã bắt đầu nổi lên, Nam Nhạn nghe mà tim đập thình thịch, tựa như tận mắt nhìn thấy năm cỗ thi thể nọ nằm trước mặt. Quý Loan gật đầu nói:
- Phải, cha của Hoàn Nhan Hanh Hoàn Nhan Tông Bật sợ đuôi to khó vẫy, muốn phế bỏ Lưu Dự, nên lúc ấy mới cử Hoàn Nhan Hanh tới thăm dò. Họ Lưu dường như cũng đánh hơi thấy gì đó, thế nên mới muốn ám sát Hoàn Nhan Hanh, chỉ là không ngờ...
- Đó cũng là lần đầu Hoàn Nhan Hanh đặt chân vào trung nguyên, sau đấy cũng chẳng nghe tin tức gì về y. Nghe nói người này làm việc cẩn thận chu toàn, đối với võ công bản thân vẫn chưa hài lòng, liền bế quan khổ luyện, ba năm sau mới lại tái xuất giang hồ, theo lệnh cha xây dựng Long Tương Lâu.
Những nếp nhăn trên trắn Dịch Hoài Thu như càng sâu hơn, lão thở dài nói:
- Sau đó Nhạc soái bị Tấn Cối hãm hại, thảm tử ở Phong Ba đình, sự nghiệp Bắc phạt tan theo mây khói. Lão phu lòng như tro tàn, bèn quay về Giang Nam cùng một số lão binh ẩn cư ở Phong Lôi bảo này.
Quý Loan thở dài nặng nề hỏi:
- Đại ca, viết thương của ngươi là do cành cây ấy để lại?
Dịch Hoài Thu vỗ vỗ lên ngực than:
- Lúc ấy may mắn còn giữ được cái mạng, sau này ta nghe ngóng mới biết công phu mà Hoàn Nhan Hanh luyện gọi là Thương Hải Hoành Lưu, được xưng là Nhất Ba Tài Động, Vạn Ba Tương Tùy (một cơn sóng chuyển động, vạn cơn sóng cuốn theo), bá đạo tàn độc, quả nhiên vết thương này mỗi năm lại nặng hơn một phần.
Trác Nam Nhạn lòng phát lạnh: " Chỉ tùy ý đánh ra một chiêu lại có thể khiến người ta trúng nội thương triền miên cả đời, thủ đoạn của Hoàn Nhan Hanh này thực đáng sợ".
Lại nghe Quý Loan nói:
- Hoàn Nhan Hanh này không chỉ võ công tuyệt cao, tài trí mưu lược cũng quán tuyệt nhất thời, hắn một tay dựng lên Long Tương Lâu, xâm nhập tình báo sâu vào trong các nước đại Tống, Tây Hạ, Thổ Phồn. Võ sĩ trong lâu tuy không đến một trăm, song ai nấy đều là nhất đẳng cao thủ, lại được Hoàn Nhan Hanh truyền cho các bí pháp độc môn, ai nấy đều tinh thông dịch dung, truy tung, ám sát... thực sự đáng sợ.
Nói tới đó giọng y bất giác run lên:
- Long Tương Lâu vốn tọa lạc ở Thượng Kinh, chẳng rõ vì sao một năm trước bị quyền thần Hoàn Nhan Lượng, nay đã là vua nước đại Kim, điều tới Nam Dương trấn thủ ngay trước mặt chúng ta.
Nam Nhạn càng nghe càng kinh ngạc, mồ hôi toát ra mỗi lúc một nhiều, hỏi:
- Họ cho người cắm lệnh kỳ ở đây phải chẳng là muốn hạ thủ với chúng ta?
Cơ thịt trên khuôn mặt béo của Quý Loan nhăn lại, y chậm rãi gật đầu:
- Trước mỗi lần ra tay tiêu diệt các bè đảng kháng Kim Long Tương Lâu đều đem Long Hổ kỳ cắm tại trước cửa nhà địch nhân, có thể là để phô trương thanh thế, cũng có thể là để đe dọa. Giang hồ đồn rằng " Long Hổ kỳ hiện, kê khuyển nan kiến", ám chỉ sau khi họ đã cắm kỳ, nếu như địch nhân không đầu hàng, họ sẽ hạ độc thủ, đuổi tận giết tuyệt mới thôi!
Nói xong y lại bần thần nhìn về phía chiếc Long Hổ kỳ. Dịch Hoài Thu cũng nhíu chặt hai hàng lông mày chẳng nói năng gì. Trong bầu không khí im lặng tới đáng sợ ấy, Nam Nhạn lòng lại nóng như lửa đốt, dương mày nói:
- Bọn họ đã đánh tới tận cửa, lẽ nào chúng ta khoanh tay chờ chết?
Quý Loan liếc nhìn hắn, thở dài:
- Hôm nay nói với ngươi nhiều như vậy, Dịch đại bá của ngươi hẳn đã có sắp xếp rồi!
Dịch Hoài Thu chậm rãi gật đầu, nhãn thần như lớp băng mỏng tan ra dưới nắng xuân:
- Long Tương Lâu đã tìm tới cửa, chỉ dựa vào nhân lực của Phong Lôi bảo chẳng thể nào kháng cự được. Cũng chỉ còn cách cho mọi người rời đi lánh nạn, chạy được người nào hay người nấy. Dịch Hoài Thu ta không có gia thất, Quý nhị bá thì đã đưa con cái tới Giang Nam từ lâu, trước mắt Phong Lôi bảo cũng chỉ còn mình ngươi là đáng lo. Nhạn nhi, duyên phận hai chúng ta đến đây thôi...
Nói tới đó Nam Nhạn đã hiểu ý lão, vội hét lên:
- Dịch bá bá, ta không đi! Nam Nhạn ta là nam tử hán của Phong Lôi bảo, quyết không làm con rùa đen rụt đầu!
Nói rồi hắn nghĩ tới Phong Lôi bảo hắn sống từ nhỏ tới lớn như chốn thế ngoại đào nguyên, nay sắp phải gặp họa diệt môn, lòng như sôi lên, hận không thể lập tức xông ra ngoài chém giết một phen.
Dịch Hoài Thu cười lạnh:
- Nam Nhạn ngươi vùi thây ở đây cùng đám lão già chúng ta, ấy là hành động của kẻ đại trượng phu sao?
Nam Nhạn nhất thời á khẩu chẳng nói được một lời. Quý Loan ấn vai hắn xuống nhẹ giọng:
- Không chỉ mình ngươi, những người không biết võ công trong bảo sẽ đều rời khỏi đây hết. Người biết võ công không phải là bộ tướng của Nhạc nguyên soái thì cũng là những nghĩa binh từng tung hoành hai bờ Hoàng Hà bao năm, bọn họ dĩ nhiên sứ không khuất phục người Kim.
Nam Nhạn lúc này máu nóng dâng lên khắp người, nào còn nghe lọt lời y, hắn chỉ muốn cùng đám người Kim ngọc thạch câu phần, bèn hét lên:
- Ta không đi! Nói gì đi nữa ta cũng phải ở lại!
Đột nhiên Lệ Bát Phong quay phắt lại thét:
- Ngươi nhất định phải đi! Bọn chúng tới đây chỉ e chính là vì ngươi mà tới!
Tiếng quát đột ngột chấn động cả ba người trong phòng. Nam Nhạn sửng sốt hỏi:
- Bọn chúng sao lại vì ta mà tới?
- Lão Lệ!
Dịch Hoài Thu nói giọng như cầu khẩn:
- Ngươi hà tất nói ra!
Lệ Bát Phong gạt phắt đi:
- Các ngươi lại hà tất phải che giấu hắn? Định giấu hắn cả đời sao?
Dứt lời y xé toang vạt áo trước ngực, để lộ ra hình xăm ngọn lửa năm cánh đỏ rực. Nam Nhạn thấy hình xăm ấy thì cả kinh, vội cởi áo mình ra, ngực hắn cũng lộ ra hình ngọn lửa bảy cánh tương tự, vội nói:
- Lệ thúc thúc, ngọn lửa này ta cũng có! Đây... là vì sao?
- Vì ngươi vốn là người của Minh Giáo!
Tiếng thét như sấm đánh vào đầu Nam Nhạn.
- Vì phụ thân ngươi là Nguyệt Tôn Giáo Chủ của Minh Giáo, Minh chủ Tứ Hải Quy Tâm Minh Trác Tàng Phong!
Nam Nhạn trợn tròn hai mắt, lại quay đầu nhìn Dịch Hoài Thu, thấy lão run rẩy gật gật đầu, hắn nhất thời chấn động như bị điện giật, lẩm bẩm:
- Thì ra cha ta là Trác Tàng Phong, thì ra ta là Trác Nam Nhạn... Ta sống mười bốn năm nay, rốt cuộc giờ mới biết mình là ai!
Lệ Bát Phong nắm vai hắn nói:
- Ngọn lửa này là ấn ký của Minh Giáo! Năm cánh tượng trưng cho Hào, sáu cánh là Anh, bảy cánh là Hùng.
Y càng nói giọng càng lớn.
- Cha ngươi là bậc đại anh hùng, tất nhiên không muốn ngươi trở thành một kẻ an phận thủ thường cả đời. Hắn đưa ngươi lên phương Bắc tạm lánh nạn, lại xăm lên người ngươi ấn ký mà chỉ có các nhân vật xuất chúng của Minh Giáo mới xứng được xăm, còn đặt cho ngươi cái tên Nam Nhạn, chim nhạn lớn lên ắt phải bay về phương Nam, ngươi sớm muộn cũng có ngày phải tự mình bay về đại Tống!
Trác Nam Nhạn thuở nhỏ thấy hình xăm này từng hỏi Dịch Hoài Thu vài lần, lão đều không nói. Nay nghe Lệ Bát Phong nói vậy, lồng ngực hắn như có luồng nhiệt lưu tràn lên, giọng nói run rẩy đem theo vài phần nức nở:
- Trác Nam Nhạn, Trác Nam Nhạn, thì ra cha ta sớm đã muốn ta bắc nhạn nam phi, quay về cố quốc! Hắn muốn ta làm một đại anh hùng!
Dịch Hoài Thu mắt cũng rưng lệ, thở dài:
- Đừng trách Dịch bá bá giấu ngươi, thân thế của ngươi... ta vốn định cả đời không nói cho ngươi biết. Tính ngươi cương liệt như vậy, biết chuyện chỉ khiến ngươi lòng mang thù hận, dấn thân vào chỗ chết mà thôi!
Trác Nam Nhạn khóc nức nở nói:
- Ta không trách ngài. Ta chỉ là muốn biết cha mẹ ta... họ còn sống không?
Dịch Hoài Thu ảm đạm lắc đầu:
- Trác đại hiệp tính tình cương nghị, nếu còn sống ngài sớm đã tới đây đón ngươi. Còn lệnh đường Triệu Phương Nghi Triệu nữ hiệp chính là người đưa ngươi tới Phong Lôi bảo này. Lúc ấy ngươi mới hai tuổi, thân mắc trọng bệnh, Triệu nữ hiệp thì đã trúng nội thương từ trước. Bà tìm mọi cách cứu ngươi mà không được, cuối cùng kiệt sức mà vong...
Nghe tới đó Trác Nam Nhạn lòng đau xót khóc rống lên. Tuy Dịch Hoài Thu cùng mọi người đối xử với hắn rất tốt, nhưng hắn vẫn mong có một ngày được thấy cha mẹ mình, hắn từng nhiều lần nằm mơ gặp cha mẹ, dù chỉ là những hình ảnh mơ hồ, nhưng luôn khiến hắn cảm thấy ấm áp vô bờ. Nay biết tin cha mẹ đều không còn, trong tâm hắn chỉ còn lại một khoảnh trống rỗng.
- Thì ra Trác Nam Nhạn ta thực sự là một đứa cô nhi không cha không mẹ!
Dịch Hoài Thu nghe Trác Nam Nhạn khóc thảm như vậy lòng cũng phiền muộn, đang định an ủi vài câu thì đã thấy hắn ngẩng đầu lên, quắc mắt hỏi:
- Dịch bá bá, cha mẹ ta có phải là do lão cẩu tặc Tần Cối hại chết?
Dịch Hoài Thu mục quang chớp động, xong rốt cuộc lại lắc lắc đầu:
- Chuyện này nói ra dài lắm, lệnh đường lúc lâm chung đã có di ngôn, dặn ta không được để ngươi có ý định báo thù. Có một số chuyện ngươi tốt nhất là không nên biết!
- Vì sao?
Trác Nam Nhạn uất ức kêu:
- Ta nhất định phải biết ai hại chết cha mẹ ta!
Hai mắt hắn trợn trừng, hai hàng nước mặt giàn giụa chảy xuống má. Dịch Hoài Thu chau mày quát lên:
- Không được là không được! Chuyện này không phải do ngươi làm chủ!
Lão quát quá lớn liền ho lên sù sụ. Quý Loan thở dài ôm Trác Nam Nhạn vào lòng, lau nước mắt cho hắn, nói:
- Nam Nhạn, đã là lúc nào rồi, đại địch trước mắt, còn giận dỗi cái gì nữa, đợi tới lúc đuổi được kẻ địch...
Y nói tới đó thì ngừng. Trác Nam Nhạn nghe lời ấy quả nhiên không nói gì nữa, đầu óc tỉnh táo lại vài phần.
- Với sức của Phong Lôi bảo muốn đối kháng với Long Tương Lâu là không thể.
Dịch Hoài Thu trầm ngâm nói.
- Bát Phong, ngươi chờ ở đây, trời tối thì lập tức đưa Nam Nhạn đi, đem luôn cả Dư Cô Thiên kia theo. Nếu nó quả thực là hậu duệ của người trung nghĩa, chúng ta không nên đó nó rơi vào tay Long Tương Lâu. Còn nếu nó có liên quan tới Long Tương lâu... Một chưởng giết ngay!
Lệ Bát Phong ứng tiếng. Trác Nam Nhạn nghe câu cuối cùng mà lòng giật thót, không nhịn được nói:
- Ta thấy Dư huynh đệ... không giống người xấu!
Dịch Hoài Thu nào quan tâm hắn nghĩ gì, thấy Lệ Bát Phong bộ dáng nóng nảy bồn chồn bèn dặn thêm:
- Bất kể Phong Lôi bảo xảy ra chuyện gì các ngươi cung không được quay lại, cấp tốc đi về phương Nam, tới Hùng Sư Đường nương náu. Ta đã để sẵn thư gửi La đường chủ trong tay nải rồi.
Nói rồi lão quay sang đưa cho Nam Nhạn hai cái tay nải nói:
- Dịch bá bá đã thu dọn đồ đạc cho ngươi, mau nhìn xem còn thiếu thứ gì không.
Nam Nhạn thấy ngoài tay nải có dắt một thanh đoản kiếm tinh xảo, biết đây là Dịch Hoài Thu để cho mình phòng thân, lại đưa tay vào trong mò mẫm một hồi, thấy còn có hai tấm áo bông mới, có lẽ là được may từ trước để cho hắn mặc đón tết. Rồi chợt sờ thấy cái gì đó cứng cứng, hắn kéo ra thì phát hiện là một bộ cờ vây cùng hai hộp đựng quân cờ.
Dịch Hoài Thu chậm rãi cười:
- Bộ cờ này Dịch bá bá mới làm cho ngươi mấy ngày trước, coi như để lại cho ngươi chút kỷ niệm. Qua đêm này hai ta có lẽ...
Trác Nam Nhạn đưa mắt nhìn khuôn mặt già nua mà quen thuộc của lão, không nhịn được hét lớn một tiếng chua xót "Dịch bá bá", lập tức muốn lao vào lòng lão mà khóc một trận.
- Bá bá ghét nhất là khóc lóc như đàn bà!
Dịch Hoài Thu đưa tay đỡ lấy vai hắn cười:
- Hắc, có sinh tất có tử, có hợp tất có tan, hà tất phải đau khổ quá mức như vậy!
Giọng nói lão như có một cỗ lực lượng truyền vào người Trác Nam Nhạn khiến hắn bình tâm trở lại, nhưng nước mắt vẫn không kìm được mà chảy xuống. Dịch Hoài Thu lại ngẩng đầu nói:
- Chuẩn bị xong hết chưa?
Quý Loan gật đầu:
- Vâng, các cơ quan trong Huyền Cơ cốc đã được khởi động. Ba người Tống Thiết Thương, Lý Trường Tháp và Lỗ Kim Cương đã chuẩn bị sẵn bẫy rập, cũng đã dùng Dẫn Thú Thuật kéo bầy sói hoang tới, hai con hổ cũng đã chờ sẵn, Phong Lôi bảo hiện tại coi như đã phòng thủ kiên cố nhất có thể.
Nói rồi gọi lớn một tiếng, ba người Tống Thiết Thương, Lý Trường Tháp cùng Lỗ Kim Cương nhất loạt tiếng vào khom người đợi lệnh. Trác Nam Nhạn dĩ nhiên biết ba người này, họ đều là mãnh tướng của Phong Lôi bảo. Ngay sau đó tiếng sói tru từ bốn phía nổi lên, mỗi lúc một vang dội, thực không biết có bao nhiêu con sói đang ở ngoài đó.
Dịch Hoài Thu sắc mặt ngưng trọng, sương lạnh đã phủ đầy trán, nếp nhăn trên mặt như run rẩy lên, lão trầm giọng bảo Tống Thiết Thương:
- Đem Trung Nghĩa Kỳ tới đây!
Tống Thiết Thương ngẩn ra giây lát, lập tức bước ra ngoài, sau đó đem tới một cây cờ được bọc kỹ. Dịch Hoài Thu nhận lấy, chậm rãi cởi vải bọc ra, bên trong là một lá cờ lớn màu xanh nhạt, trên mặt cờ còn dính không ít vết máu, trải qua bao năm màu máu đã nhạt đi nhiều. Giữa lá cờ thêu một chữ "Nhạc" cực bắt mắt. Nam Nhạn vừa nhìn hai mắt liền sáng lên:
- Đây là cờ của Nhạc gia!
- Phải. Hiện nay khắp thiên hạ cũng chỉ còn một là cờ Nhạc gia quân này!
Dịch Hoài Thu đưa tay vuốt vuốt lá cờ mỉm cười:
- Ông bạn già, lâu rồi không gặp!
Lão lại ngẩng đầu, con ngươi thâm thúy như lóe ra kim quang:
- Ngươi đi bảo mọi người, nếu như Huyền Cơ Cốc không ngăn được lũ cẩu Kim, các ngươi lập tức đem toàn bộ phích lịch trong bảo chôn tại dưới đại kỳ ở Đông viện.
Nam Nhạn nghe vậy liền biết Dịch Hoài Thu đã chuẩn bị cùng người Kim ngọc thạch câu phần, toàn thân bất giác run lên, muốn nói gì đó, song lại nhớ những lời Dịch Hoài Thu vừa nói, hắn lại kìm lòng im lặng, chỉ là sự chua xót trong lòng càng thêm khó chịu.
Tống Thiết Thương ứng tiếng cắn răng bước ra ngoài. Tịch dương đã xuống, bầu trời chỉ còn một mảng mênh mang. Trác Nam Nhạn trong lòng vẫn giữ một tia hy vọng mỏng manh: " Dịch bá bá cùng Quý bá bá võ công cao cường, Phong Lôi bảo lại bày bố vô số cơ quan mật đạo, đám cẩu Kim kia chắc gì đã phá được!"
Dịch Hoài Thu nhìn về phía hắn nhỏ giọng:
- Lát nữa ta bảo các ngươi đi các ngươi lập tức đi, không được nán lại. Chạy thoát rồi thì sau này nhớ tuyệt đối không được để lộ thân phận, rõ chưa?
Trác Nam Nhạn dương mày ủy khuất nói:
- Tại sao?
Hắn trong lòng chỉ muốn để cả thiên hạ biết bản thân là con trai của Trác Tàng Phong. Dịch Hoài Thu thởi dài giữ lấy vai hắn nói:
- Dịch bá bá còn một lời cuối cùng muốn dặn ngươi!
Trác Nam Nhạn nghe giọng lão thảm thiết lòng cũng đau khổ, cố sức kìm nén cảm xúc run giọng nói:
- Bá bá cứ nói!
- Ngươi là con trai Trác Tàng Phong, từ nhỏ lớn lên ở Phong Lôi bảo, cả đời này e là phải chịu khổ! Nhưng phải nhớ kỹ, dương đao bạt kiếm liều mạng, ấy chỉ là cái dũng nhất thời! Nhẫn được chuyện người khác không thể nhẫn, ấy mới là cái dũng của thiên hạ.
Lão nói tới đó hai mắt nhìn vào mắt Trác Nam Nhạn, nếp nhăn trên mặt như cuốn lên:
- Còn nhớ lời lão hòa thượng chứ, bách chiết bất náo, ngọc nhữ vu thành!
Trác Nam Nhạn lặng người, trong đầu như tỉnh ra. " Phải, cừu nhân của cha ta nhiều như vậy, ta không thể để cái dũng nhất thời mà bỏ mạng vô ích!". Hắn ra sức gật đầu nói:
- Vâng. Bách chiết bất náo, ngọc nhữ vu thành! Nam Nhạn sẽ nhớ kỹ!
Đầu vừa niệm lên tám chữ ấy liền cảm giác bản thân như trưởng thành lên rất nhiều. Dịch Hoài Thu lúc này mới gật đầu:
- Được rồi. Chúng ta lên trên Phong Lôi tháp quan chiến!
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của BM.KimDung