–– Anh có thể đi ra từ lối ra dưới kia không? Đúng, đấy chính là overland... được rồi, lại rẽ phải. Trước mặt là pico, đi tiếp, thấy Olympic chúng ta sẽ rẽ trái... được rồi, chính đây, đúng, rẽ trái... bây giờ anh đã nhìn thấy trước mặt có biển của cây xăng “76”, chúng ta đi qua nó rồi rẽ phải vào... đúng, lại tiến về phía trước, qua chỗ stop sign... tốt, chính đây, chúng ta dừng bên đường một lát, không cần xuống xe, nhìn qua rồi đi.
–– Khi vừa tới Los Angeles là ở một gian tầng hai phía đông kia. Chỗ cửa sổ bị cây bồ kết che kia chính là phòng ngủ của tôi. Góc bên kia thực ra còn có ban công nho nhỏ, trên đó tôi trồng mai tam giác, lưu ly, hoa huệ tây, cây thạch xương bồ... có một lối nhỏ thông với buồng ngủ. Nhưng ở chỗ chúng ta bây giờ không nhìn thấy. Được rồi, chúng ta đi, nếu không sẽ cản trở xe phía sau. Anh có thể rẽ phải đến Santamonica blvd, sau đó đi thẳng về phía tây, độ khoảng năm sáu phút là đến chỗ tham quan bến cảng Santamonica.
–– ái chà, anh không nói trước. Sớm biết anh cũng đã từng ở khu tây này, tôi đã không làm người chỉ đường cho anh. Ai chẳng biết, tôi là người nhớ phương hướng cực kém, lái xe thường xuyên quên đường. Anh nhìn kìa, tôi đã đến bờ biển mấy lần rồi, thế mà chẳng biết trong chợ còn có chỗ đỗ xe miễn phí...
–– ờ, đông du khách quá. Trước đây anh có thường ra đây không?
–– Khi mới đến, mỗi khi nhớ nhà tôi đều ra đây, đa số vào buổi tối. Sau nghe nói ở đây đã từng xảy ra tai nạn, còn có người chết, mới ít đến. Anh hít gió biển, ngửi mùi mằn mặn tanh tanh của biển, ngắm thuỷ triều là thấy tinh thần sảng khoái ngay. Hơn nữa, bên kia bờ đại dương chính là trường xưa, quê cũ, sẽ cảm thấy rất gần nhà, tưởng chỉ với tay một cái là có thể tới được. Có lúc, tôi cũng đã đứng hàng giờ trước mũi tận cùng của bến cảng này. Tôi luôn có cảm giác rất kỳ lạ, dường như tôi chẳng phải ngồi máy bay bay tới, mà là ngồi thuyền –– một chiếc thuyền con dạt trôi tới đây. Anh nói đại dương mênh mông này, ngồi máy bay cũng mất mười mấy tiếng, cũng đủ biết rồi, nhưng có lúc lại nghĩ rất nhỏ, có lẽ cũng chỉ như con kênh Long Bối. Thế giới thật nhỏ bé.
–– Còn có việc này, đến nay tôi vẫn còn chưa rõ. Chúng ta nhìn từ Thượng Hải, nước Mỹ là phía tây, nhưng chúng ta đứng từ đây, Thượng Hải lại ở phía tây. Trong lòng tôi hiểu, đó là bởi vì trái đất tròn, nhưng có lúc càng nghĩ càng không thông, càng nghĩ càng lú lẫn...
–– Tán gẫu xa quá rồi. Nhưng, tôi vẫn còn muốn hỏi một chút, anh có hứng thú đối với triết học và lịch sử không?
–– Tôi biết mà, đàn ông các anh chẳng ai không thích triết học và lịch sử. Các anh lại giỏi đấu, triết học chính là khẩu súng săn trong tay các anh, mà lịch sử lại cung cấp cho các anh những âm mưu quỷ kế vô tận, dùng không bao giờ hết, để các anh “tư trị thông giám”. Nhưng tôi lại chẳng ưa gì lịch sử. Ngẫm thấy mình đã đầu thai nhầm, lại chọn nhầm nghề. Tôi cũng không biết vì sao khi điền vào tờ nguyện vọng ở đại học F năm xưa lại điền vào khoa Lịch sử. Chẳng những đây là chuyên ngành rất khó xin việc hiện nay, mà còn là ngành mà tôi chẳng có hứng thú gì. Lịch sử Trung Quốc cổ đại quá nhiều đao kiếm, toàn hơi hướng chém giết và chinh phục, tuy nhiên cũng có phồn vinh và huy hoàng, nhưng dường như đều chóng vánh như sao băng. Lịch sử cận đại thì khiến tôi bị dồn nén và uất ức, thậm chí là hận gang không thành thép... cho nên, lịch sử ư, tôi thường nghĩ: lịch sử này rốt cục là cái như thế nào? Hứng thú đối với triết học của tôi còn khá hơn một chút, nhưng tôi không thích “triết học kinh viện” quá tư biện, quá lý tính như Aristotle, Kant, Hegel gì đó, Nietzsche còn khả dĩ, nhưng “triết học siêu nhân”, “duy ý chí luận” của ông ta luôn khiến tôi cảm thấy ông ta bởi vì bất đắc chí mà nổi xung với người khác. Đương nhiên, có thể là rắp tâm khó dễ với Thượng đế. Trong các nhà triết học chỉ có Schopenhauer và Sartre là tôi còn tương đối thích. Đương nhiên, có lẽ thực sự khiến tôi thích thú chẳng qua là tinh thần nhân văn được thể hiện trong triết học của họ. Sartre quan tâm đến nỗi khổ muộn và ngại ngùng của nội tâm con người hiện đại. Cơ sở triết học của Schopenhauer lại là sự tương thông giữa Phật và Đạo. Không ai phủ nhận được, con người sinh ra đã khổ, biển khổ vô biên...
–– Được rồi, chúng ta xuống bãi biển vừa đi dạo vừa nói chuyện...
Los Angeles quả là thành phố tươi đẹp, quanh năm đều như mùa xuân, đặc biệt khu vực phía tây toàn những người giàu ở.
Khi vừa mới đến Los Angeles, Dabruce đã từng đánh xe đưa tôi tham quan sơn trại Beverly, ngắm nhìn những ngôi nhà sang trọng của các đạo diễn, minh tinh lớn ở Hollywood, những ngôi nhà ở đó đều ẩn núp trong rừng cây, giống như tiểu thư khuê các “sống tại thâm khuê người chửa biết”, không dễ để người khác nhìn thấy dung nhan. “Ngẫu nhiên ngất nghểu trên đường” đều tỏ vẻ cao nhã quyền quý, lấp lánh và xa hoa. Đường sá sạch sẽ tịnh không chút bụi trần, yên tĩnh đến nghe được cả tiếng chim hót dế kêu. Chỉ mấy ngôi nhà mà chiếm cả quả đồi, trông xa lại giống như thành luỹ và trang trại thời Trung cổ.
Khu phố người giầu Maryd sát bờ tây lại mang một quang cảnh khác. Những toà nhà ở đây phần lớn dựa vào núi hướng mặt ra biển, tao nhã đoan trang, tráng lệ, khu vườn nhà nào nhà nấy hoa nở như gấm, cỏ mọc xanh rì, sau lưng là tùng biếc cỏ xanh, trước mặt bể xanh sóng bạc đầu...
Hai anh của Dabruce làm luật sư đều ở Maryd, bố mẹ thì ở Santamonica ngay sát cạnh. Sau khi tới Los Angeles, chúng tôi đã từng đi thăm viếng họ. Nhưng họ để lại cho tôi ấn tượng chỉ là khách khí, và không nhiệt tình. Người đứng ra bảo lãnh kinh tế cho chúng tôi là anh hai, một người đàn ông gầy đét đến mức có phần khắc khổ, nhưng ánh mắt lại rất sáng và sắc sảo. Khi tiếp chúng tôi, thần sắc có vẻ không vui. Sau này, tôi mới hiểu, hoá ra gia đình Dabruce thuộc gia đình người da trắng rất chính thống, luôn có thiên kiến về văn hoá phương Đông. Mới đầu, Dabruce bỏ không chịu học thương mại mà kiên trì theo học châm cứu Trung Quốc, họ đã có thành kiến, nay anh lại lấy một người con gái phương Đông làm vợ thì càng cảm thấy thất vọng. Thêm vào đó, trước đây Dabruce đã sang Đài Loan học nửa năm, và đã nhờ bố mẹ bảo lãnh cho một cô gái Đài Loan, sau này trong thời gian học tập cô ta gặp một số phiền phức về kinh tế, có lúc còn gửi hoá đơn thanh toán đến nhà bố mẹ anh và đã làm cho bố mẹ anh không vui...
Cho nên, sau khi tôi đến Los Angeles, cũng chỉ nói là chúng tôi kết hôn du lịch, muốn mời mọi người đến dự một bữa cơm thân mật, rồi sau đó rất ít qua lại. Chúng tôi cũng chưa từng ở nhà bố mẹ của anh, vừa xuống máy bay là thuê một nhà trọ xe thùng, sau đó lại thuê một căn hộ hai phòng.
Buổi tối hôm chúng tôi chuyển tới khu chung cư, tôi và Dabruce đã bàn bạc rất kỹ.
Đầu tiên, anh nói với tôi, anh đã thông qua người anh trai làm luật sư về vấn đề di dân và biết rằng, kể từ hôm tôi đến Mỹ, đại khái trong vòng hai ba tháng thì có thể lấy được thẻ xanh hôn nhân do cục Di dân gửi cho. Nhưng tấm thẻ xanh này trong vòng hai năm vẫn mang tính chất tạm thời, nhân viên cục Di dân có thể gõ cửa kiểm tra tính chân thực của hôn nhân bất cứ lúc nào. Nếu phát hiện ra bất cứ hành động giả dối nào, tấm thẻ xanh đó lập tức bị tiêu huỷ, đương sự còn bị truy cứu tránh nhiệm pháp luật, hoặc sẽ bị trục xuất. Sau hai năm, cục Di dân sẽ bố trí một cuộc phỏng vấn, nếu không nghi ngờ gì thì mới chính thức cấp thẻ xanh. Một năm sau khi có được tấm thẻ xanh thì mới có thể xin nhập quốc tịch Mỹ...
- ... Cho nên, trong hai năm này chúng ta đồng thời là vợ chồng, vừa là bạn cùng phòng. Em cần phải diễn cho tốt vai trò của người vợ, đừng lộ một chút sơ hở gì trước mặt nhân viên kiểm tra của cục Di dân. Như vậy, hai năm sau em mới có thể thuận lợi lấy được thẻ xanh. Bấy giờ, em có thể chính thức tự do.
Dabruce rất kiên trì sử dụng tiếng Trung, chỉ trong tình hình không thể biểu đạt được rõ ràng, anh mới chêm vào những từ đơn và câu ngắn bằng tiếng Anh; còn tôi thì ngược lại, chủ yếu thử dùng tiếng Anh. Gặp khi có việc không thể nói rõ ràng được, bèn viết ngay ra giấy, sau đó tra lại từ điển tiếng Anh hoặc từ điển Hán – Anh.
- Thế –– nói như thế, anh vẫn còn bị em trói trong hai năm nữa, có ảnh hưởng đến anh không? Cái này...
Tôi thấp thỏm nhấp nhổm nói.
Tôi còn nhớ lúc đó mình ngồi trên chiếc sô pha đơn tàng tàng hoa văn xám, còn Dabruce nặng nề vùi trong chiếc sô pha ba chỗ ngồi. Trong suốt thời gian chúng tôi nói chuyện, anh luôn ôm chiếc gối trước ngực và không ngừng rút rút dài sợi tua màu tím trên gối. ánh sáng của ngọn đèn cây chiếu thẳng xuống tay anh, trông rõ cả một đám lông măng lấp láp màu vàng.
- Không sao, em đừng bận tâm. Anh đã quyết định giúp đỡ em, cần phải giúp đến cùng. Hơn nữa, một mình anh thuê phòng, cũng cần phải tìm người thuê chung. Có em làm bạn là vinh dự rất lớn của anh. Đúng rồi, anh phải nói với em, anh đã tìm được việc làm rồi, một người bạn giới thiệu, cũng gần đây, đấy là một phòng mạch châm cứu. Đúng lúc họ đang thiếu người, bảo anh hai ngày sau phải đi làm. Nhưng còn em, em tính sao? Anh nghĩ, em cũng nên đi học bổ túc tiếng Anh đã. Trước cửa không xa có lớp học màu xanh, nửa tiếng một ca. Đợi khi tiếng Anh kha khá rồi hẵng tìm việc, dành dụm được ít tiền rồi đi học... anh rất lấy làm tiếc, mặc dù bố mẹ anh giầu có, hai ông anh cũng có tiền, thế mà anh lại nghèo kiết xác, chẳng giúp gì được em. Tiền thuê khách sạn, tiền đặt cọc và thuê căn hộ này anh đều vay của bố mẹ. Cho nên, anh rất mong em lượng thứ...
Anh nói rồi cố vươn người đứng dậy, đi qua phòng ngủ vào nhà vệ sinh.
Tôi cũng đứng dậy, đi đi lại lại trong gian phòng khách, vung duỗi chân tay.
Những lời anh vừa nói cũng đã gắn liền với những lo lắng và bất an sâu kín trong lòng tôi.
Tục ngữ có câu: thiên hạ chẳng ai mời không ai. Điều này, Ngô Nguyên cũng đã một lần nhắc nhở tôi (tôi quên mất thú thật, khi rời Thượng Hải, anh đã từng đến sân bay đưa tiễn tôi, va li cũng như một số quần áo và vật phẩm hàng ngày của tôi đều do anh và em gái anh mua tặng). Tôi muốn tin rằng, cũng cảm thấy rằng, đích xác Dabruce là một người rất tốt, ở một chừng mực nào đó, thậm chí còn có thể nói là “Lôi Phong sống” có phẩm chất cao thượng trong xã hội Mỹ hiện đại. Nhưng trong thẳm sâu tâm linh tôi không tránh khỏi những lo nghĩ vấn vương –– anh thật sự không hề có động cơ và mục đích cá nhân ngấm ngầm nào? Cô tôi cũng đã phân tích, nếu như thật sự anh ta có mưu đồ nào khác, chẳng qua là hai con đường “tài sắc”, về phương diện “sắc”, anh ta đã biết tôi là “thạch nữ”, đương nhiên sẽ không có ý nghĩ nào khác. Còn về “tài”? Vừa rồi anh ta đã nhắc đến mình nghèo rớt mùng tơi, tiền thuê phòng cũng phải vay của bố mẹ, chẳng phải là ngầm bảo với tôi rằng, tôi cần phải bồi thường thích đáng cho anh ta về mặt kinh tế sao?
Dabruce cũng đã từ phòng trong đi ra, lại đè cót ca cót két lên chiếc sô pha.
Tôi nắm chủ định, mạnh dạn nói với anh:
- ... Thế này, Dabruce, anh đã giúp tất cả những việc này, thực sự em rất cảm động, em không biết lấy gì để báo đáp anh. Em cũng đã nghĩ, vì giúp em, anh đã phải trả giá rất nhiều. Ví như, trong hai năm này, vì em, anh có muốn tìm bạn gái cũng bất tiện. Cho nên, em nghĩ, cho dù là thế nào, em cũng sẽ bù đắp cho anh về mặt kinh tế. Chỉ có điều em vừa mới tới, cũng chưa hiểu chuyện ở đây. Cho nên, anh tính xem, nên chăng anh cho em biết một con số, sau này em đi làm thuê và sẽ trả anh dần dần...
- Em nói cái gì thế? Anh vẫn chưa hiểu ý em.
Dabruce khó khăn ngồi thẳng trên sô pha.
Tôi lại cố thử giải thích lại một lần nữa.
Thần sắc Dabruce lúc đầu có chút ngại ngùng, kế đó như có vẻ phẫn nộ, đôi mắt xanh mở rất to, hàng ria không ngừng giật giật:
- Sao em có thể nói vậy được chứ? Nếu như anh cần tiền của em, em chẳng phải... em, em sao có thể như vậy....?!
Từ khi tôi quen biết với anh, đây là lần đầu tiên tôi thấy Dabruce tức giận, lần đầu tiên tôi thấy anh nổi nóng, lần đầu tiên tôi thấy anh ta dùng khẩu khí hoàn toàn lạ lẫm để nói chuyện với tôi. Ngay lúc đó, tôi chẳng biết phải làm thế nào.
- Xin lỗi, thật sự, ý em không phải như thế, em chỉ nghĩ, anh giúp đỡ em đã quá nhiều, em cần... thể hiện ý nghĩ cảm ơn. Nhưng em chẳng thể ngờ được, điều này lại... xin anh lượng thứ, thật mà, không phải em có ý...
Tôi nói như sắp oà khóc.
Tâm trạng của Dabruce mới dần dần nguôi ngoai. Anh nhìn tôi rồi bỗng nhiên nằm vật ra sô pha, hai tay ôm mặt, nhắm mắt dưỡng thần một lát. Nhưng sau khoảnh khắc ấy, anh lại ngồi dậy, nói với tôi giống như một đứa trẻ mắc lỗi:
- ... Xin lỗi, anh hiểu nhầm em. Anh cũng không nên cộc cằn với một phụ nữ... xin em lượng thứ. Nhưng, anh thật sự hy vọng em có thể hiểu, anh chỉ muốn giúp đỡ em. Nếu như em nói đến chuyện tiền nong thì việc này quả là sai lầm. Văn hoá ở xứ anh là phản đối nói dối và giở trò xảo trá –– đương nhiên, trong xã hội ấy có thể thuê luật sư chuyên môn nói dối và giở trò xảo trá, nhưng anh xem nó là một phẩm chất không tốt. Anh và em kết hôn tuy ở một ý nghĩa nào đó là giả, là việc không tốt, nhưng anh vẫn kiên trì làm, bởi vì anh cảm thấy em thật sự cần được giúp đỡ, Chúa sẽ tha thứ và hiểu cho anh. Nhưng nếu như em muốn trả anh tiền, tính chất sự việc này sẽ hoàn toàn thay đổi... cho nên, anh cũng hy vọng em có thể hiểu...
Tôi nghe những lời anh bộc bạch, trong lòng rất cảm động và cũng vui mừng vì mình đã gặp được một chính nhân quân tử phong độ chỉ thấy trong những cuốn tiểu thuyết phương Tây trước đây. Tôi dụi dụi mắt, nhìn anh cười cười:
- ... Em hiểu rồi, từ nay về sau sẽ không nhắc đến chuyện ngu xuẩn ấy nữa...
Dabruce cũng cười, vẻ áy náy nói:
- Khi anh cục cằn có chỗ không phải, hy vọng không làm cho em hoảng sợ.
Chúng tôi lại hoà hảo như ban đầu, tiếp theo do Dabruce chủ đạo, tiến hành thương thảo tiếp về “gia chính”. Để ứng phó với sự kiểm tra và hỏi han đột xuất của nhân viên cục Di dân, anh cũng đã kể cho tôi mấy nốt ruồi trên đùi, bụng dưới, cũng như vết sẹo ở bả vai anh. Lại còn dặn tôi biết kích cỡ, số hiệu của quần lót, áo lót của anh, cũng như mùi nước hoa, keo xịt tóc, dầu gội đầu thuộc hãng nào...
Còn về những chi phí liên quan như tiền phòng, điện nước, khí đốt, điện thoại trong thời gian chúng tôi ở chung, thì theo nguyên tắc chia đôi. Tiền ăn chủ yếu xét đến những thói quen ăn uống rất khác nhau –– Dabruce tự nhiên là một loại “thùng rác thực vật”, anh ưa thích các loại như hamburger, còn tôi vẫn là dạ dày của người Trung Quốc, quen những món canh nước và các loại rau xào; ngoài ra, trừ bữa sáng Dabruce húp một chút súp sữa, hai bữa còn lại cơ bản ăn ở ngoài. Cho nên, về nguyên tắc của ai người ấy lo (đương nhiên, tôi cũng đã nghĩ kỹ, vào những buổi cuối tuần Dabruce được nghỉ, tôi sẽ bày biện mấy món đặc sắc như “sườn xào chua ngọt”, “tôm muối tiêu” mà tôi đã học được ở mẹ Doãn Hoa khi còn ở nhà cô ấy để chiêu đãi anh. Chí ít anh cũng không ngớt lời tán thưởng hai món ăn Trung Quốc này).
Thời gian sau, Dabruce lại nói, hy vọng mỗi ngày tôi sẽ bỏ ra một hai giờ đồng hồ để dạy tiếng Trung cho anh, nói rằng lúc đầu sẽ trả mười đô la cho mỗi tiếng, ba tháng sau sẽ tăng lên mười lăm đô la...
Vừa nghe, tôi đã lắc đầu lia lịa:
- Không được, tuyệt đối không được. Dạy anh tiếng Trung còn là trách nhiệm của em, không có lý do gì để thu tiền cả...
Nhưng anh lại rất bướng bỉnh kiên trì một nguyên tắc của mình –– bất kể một ai cũng không được chiếm hữu thời gian của người khác mà không có sự bù đắp. Bởi vì thời gian là tiền bạc, không bồi thường thời gian chiếm hữu đó chẳng khác gì kẻ cướp.
Tranh luận mãi, rồi tôi cũng đưa ra nguyên tắc của mình –– bảo tôi lấy tiền, tuyệt đối tôi không làm, thực sự không làm, đổi lại, anh có thể dạy tôi một hai giờ tiếng Anh. Như vậy, xem như miễn cưỡng đạt được hiệp nghị.
Cuối cùng, cần phải đi ngủ, nhưng tôi nhìn vào gian nhà trong, đánh trống ngực –– ngủ thế nào đây? Lẽ nào chúng tôi cần phải ngủ chung một gian, một giường?
Khi mới thuê nhà nghỉ xe thùng, Dabruce đã hỏi ?ý kiến tôi. Bấy giờ, tôi đã thành thực mà nói:
- Em vẫn chưa quen. Nếu như có thể, em hy vọng chúng mình ngủ riêng ra.
Còn bây giờ, chúng tôi đã có căn hộ của mình, có phòng ngủ của mình, trong phòng ngủ lại còn một chiếc giường nệm kiểu bậc vua chúa (cũng là việc sắp đặt bất đắc dĩ để che mắt việc kiểm tra của cục Di dân)... Nhưng, quả là tôi vẫn chưa chuẩn bị tâm lý cùng chăn gối với anh.
Tôi chủ động đề xuất:
- Anh ngủ trong giường nhé, em nhỏ, nằm ở sô pha ngoài này là được rồi.
Anh vẫn ngồi đó, ánh mắt trầm tư điều gì đó, nghe tôi nói vậy, hơi sững sờ nhưng anh phản ứng rất nhanh, nói:
- Không, thế không được. Nếu thế này, anh sẽ ngủ ngoài này. Anh là đàn ông, tiện hơn...
Anh nói rồi đứng dậy, sắp bước vào nhà trong lấy chăn.
- Thế, không được. Hay là em...
Tôi cũng nhổm dậy, hòng chặn lại. Nhưng cánh tay to lớn như cái xà gồ của anh đã chắn ngang mặt tôi:
- Không được tranh, ở xứ anh lúc nào cũng phải ưu tiên phụ nữ...
Nhưng nghe khẩu khí của anh có chút gì đó không vui.
Cho nên, buổi tối đó, sau khi uể oải nằm vật trên chiếc giường rộng êm ái, tôi cứ trăn trở mãi không sao ngủ được. Nghĩ đến con người đã vô tư giúp đỡ tôi còn nằm trên sô pha ở gian ngoài, lòng tôi day dứt và cũng nghi ngờ cách ứng xử của mình phải chăng là quá đáng. Lòng tin, lòng tin giữa con người với con người là quan trọng nhất. Nói thẳng ra, tôi còn có gì không yên tâm về Dabruce? Anh đã tính ngủ chung giường với tôi, động cơ phần nhiều cũng là vì... nghĩ đi nghĩ lại, nếu như thật sự có nhân viên cục Di dân đến kiểm tra giữa đêm, há chẳng phải thêm rắc rối, rách chuyện sao? Hơn nữa, căn hộ của chúng tôi chỉ có một nhà vệ sinh, nó nằm phía bên trong phòng ngủ. Cho nên, buổi tối nếu Dabruce cần phải đi vệ sinh, ắt sẽ vòng qua đầu giường của tôi... nói như vậy, tôi không còn có không gian riêng của mình...
Đã vậy thì anh ngủ trên sô pha hay ngủ ở giường, với tôi mà nói thì có gì khác nhau?