Doãn Hoa đã trở lại trường, nhưng cô không muốn gặp tôi.
Giờ đây tôi mang một tâm trạng có lỗi sâu sắc với cô ấy.
Tôi thật sự hối hận rằng trong lúc ốm đau đã ăn nói lung tung. Tuy nhiên trong ký ức tôi chẳng hề để lại một dấu ấn nào, nhưng Ngô Nguyên nói với tôi, chính xác tôi đã nói như vậy.
Cũng chẳng thể trách được Doãn Hoa, cô ấy vừa chịu nỗi đau mất cha.
Quan hệ giữa chúng tôi vốn đã có những mắc míu, tôi nói như vậy, cô ấy nhất định sẽ cho rằng tôi nguyền rủa ác ý. Nhưng, vì sao tôi lại có lý do gì để nguyền rủa bố của cô ấy đây? Cô ấy, cũng như cả gia đình cô đã từng giúp đỡ tôi, trong lòng tôi luôn ấp ủ một tình cảm biết ơn chân thành... chính Doãn Hoa, thực ra cũng không thể trách cô ấy. Doãn Hoa thích hoặc phát triển đến tình yêu với Ngô Nguyên, đó cũng là quyền của cô ấy. Cô ấy còn xét đến chút tình cảm chị em giữa chúng tôi cũng không quá trâng tráo, cố giành lấy được, xét về tính cách của cô ấy, là rất khó rồi. Hơn nữa...
Trong lòng tôi bỗng nhiên có chút lo sợ –– nếu như những lời nói lung tung của tôi thật sự linh nghiệm như vậy, tôi sẽ không chỉ là một thạch nữ, mà còn là một mụ phù thuỷ hoặc một con ma nữ...
Tôi thật sự có chút kỳ lạ, những ngày sau trận ốm tôi luôn có các loại ảo giác.
Tôi nằm trên giường, thường nhìn thấy rất nhiều những hình ảnh hoa xanh biến ảo khôn lường. Lúc thì chúng như những bức tranh trừu tượng đen ngòm, lúc thì lại giống như những mảnh vụn xác pháo tả tơi trong không trung, lơ lửng xoay tròn, càng lúc càng nhanh, càng lúc càng lớn, càng lúc càng gần, rồi bỗng nhiên mất hút. Mà trong khoảnh khắc mất hút đó, một viễn cảnh lầu quỳnh điện ngọc lại manh nha xuất hiện, từ phía tận cùng của vũ trụ xa tít tắp từng đốm, từng đốm nổi lên, cuối cùng biến thành những xà và cột thẳng tắp ngời ngời trước mắt tôi. Cho dù tôi có nhắm mắt, bóng dáng nó vẫn hiển hiện ra rất sinh động, hệt như những hình ảnh trên ti vi không ngừng phát đi phát lại....
Điều càng khiến người ta khó có thể hiểu nổi chính là, có hôm, chúng tôi đang trên đường trở về phòng ngủ, gặp một cậu con trai khoa khác chẳng hề quen biết, tôi bỗng dừng lại, vẻ mê hoặc nhìn anh ta nói:
- Nhà anh có tang phải không? Mẹ anh mất, hôm nay tròn tháng, đúng không?
Vừa nói xong, tôi lập tức muốn vả vào miệng mình, bởi vì bình sinh lần đầu tiên trong lúc tỉnh táo, miệng tôi lại chẳng hề nghe sự chỉ huy của bộ não, toàn nói những chuyện hồ đồ.
Nhưng, điều khiến chúng tôi kinh ngạc mãi không thôi, cậu con trai kia sững sờ, bỗng nhiên lập bập nói:
- ... Đúng, mẹ tôi đã mất, hôm nay... tròn tháng... nhưng... làm sao cậu biết?
Tôi chỉ có thể lắc đầu xin lỗi anh ta.
Những bạn cùng phòng trợn tròn mắt nhìn tôi, đầu tiên là hoài nghi, sau đó là sự kinh ngạc, rồi sự kính phục.
- Thạch Ngọc, cậu bắt đồng linh thông từ lúc nào thế? Nói nghe xem nào.
Một người trong số họ kinh ngạc hỏi tôi. Những người khác thì hết sức thán phục, nói rằng tôi quả thật là “lời vàng lời ngọc”, và giằng kéo tôi rằng sau khi về phòng thì phải xem tướng cho họ.
Nhưng tôi chỉ có thể cười đau khổ. Nếu như tôi thật sự linh thông, hoặc giả được thần linh ứng nghiệm, tôi đoán đó cũng chỉ là thần tà ác, nếu không, vì sao cứ bắt tôi bạ đâu nói đấy toàn những lời nguyền rủa người khác chết, mà không phải là những lời tốt đẹp hoặc chúc phúc? Lẽ nào đây cũng là điều chứng thực truyền thuyết dân gian –– thạch nữ đều là hoá thân của tà ác? Hoặc giả, cũng là từ một góc độ khác đưa ra bằng chứng –– thể xác càng u bế thì càng dễ linh ứng? Chu Văn Vương chẳng phải trong ngục tối tại Dữu Lí, mới có thể diễn giải được bát quái sao? Lẽ nào bộ phận sinh dục đáng xấu hổ của tôi cũng là một “bát quái” mới mà chưa có người biết? Hơn nữa, nếu quả là linh ứng, vì sao tôi lại không thể xét tiên cơ vận mệnh của mình? Thậm chí không thể phá giải tám chữ “Một chìa khoá mở một ổ khoá” ...
Cho nên, thực tại tôi chẳng có tâm tình nào để giả thần giả quỷ xem tướng cho họ. Tóm lại, tôi mượn cớ thoái thác.
Tôi và Ngô Nguyên vẫn hò hẹn như cũ, vẫn giữ sự tiếp xúc và qua lại. Làm như vậy, xem ra lại có lợi cho tôi. Nếu không, biết rằng tôi đã cô độc, sẽ có không ít chàng trai khác vây xung quanh, sẽ làm cho tôi suốt ngày chẳng thể yên tĩnh.
Có lúc, chúng tôi còn quấn quýt như đôi uyên ương trong vườn trường, khiến cho ấn tượng của mọi người về chúng tôi vẫn như cũ. Nhưng chỉ hai chúng tôi mới biết, thực ra chúng tôi đã không còn ôm ấp và hôn nhau nữa.
Đây là mối quan hệ cắt không đứt, ghép cũng chẳng lành.
Về mặt lý trí, chúng tôi đều hiểu rõ sự phân ly đã là việc tất yếu, không thể cứu vãn, nhưng về mặt tình cảm vẫn còn có sự lưu luyến không thể hiểu nổi. Dường như tôi cũng nhìn thấy nhiều ưu điểm của anh hơn trước, cảm nhận được sự chân thành và khoan dung của anh đối với người khác, anh cũng chẳng phải là một chính khách thấy lợi vong nghĩa, chỉ giỏi luồn cúi. Tuy ở một số trường hợp anh không thể không nói những lời trái với lòng mình, nhưng phần lớn, anh vẫn giữ gìn tấc lòng của mình. Có lúc tôi cảm giác rằng anh dường như là con người có văn hoá trên chính trường, nhưng dù sao vẫn còn thiếu cơ trí và sự lão luyện của những con người làm chính trị –– đương nhiên còn phải khéo đưa đẩy, nhưng phần lớn dường như đại trượng phu không nên có tình cảm yếu mềm...
Đúng vậy, con người luôn luôn có mâu thuẫn.
Tôi biết, trong lòng anh luôn có tôi, và cũng không thể xa rời tôi.
Có lần, trong đêm trăng mênh mông, chúng tôi đến bên bờ hồ, bỗng anh cảm thán:
- Bây giờ anh mới hiểu, cái đẹp luôn tàn khuyết... nhưng vì sao em không thể lại...
Anh không nói hết câu, bỗng hai tay ôm lấy mặt, ánh mắt nhoà đi, thở dài.
Một thời gian tôi đã cảm động vì sự đau khổ của anh, chút nữa thôi thì tôi đã định đồng ý với anh thử lại một lần nữa. Nhưng bỗng nhiên, một ý nghĩ kỳ quái không thể lung lạc từ trong lòng vươn ra ngăn trở tôi: không cần phải thử, đừng có hại người khác nữa. Một thể xác chính là một đoạn kinh văn mà tổ tiên truyền lại, chính là một bản khế ước thoả thuận với thần linh, một chữ cũng không thể sửa, cho dù là chữ sai.
Sau này, dường như qua rất lâu, anh mới ngoảnh đầu lại, khẩn thiết hỏi tôi:
- Anh có thể hôn em được không?
Tôi hơi do dự, nhưng rồi cự tuyệt. Tôi lẳng lặng nói với anh:
- Không phải em không muốn thế, mà em đã hiểu được một thuyết pháp, nụ hôn của thạch nữ không trong sạch, em không thể hại anh.
- Anh không tin.
Anh kiên quyết lắc đầu.
- Anh hãy nhớ rằng chớ có tin là không có. Hơn nữa, em không thể biết rồi mà vẫn phạm sai lầm được.
Tôi nói, duỗi tay để anh nắm thật chặt.
Anh không còn kiên trì nữa.
Nhưng quan hệ có mà như không của tôi với Ngô Nguyên chẳng kéo dài được bao lâu. Bởi vì có một người càng ngày càng phiền não về sự tiếp tục gần gũi của chúng tôi. Tôi không nói thì anh cũng đoán biết là ai, đó chính là Doãn Hoa.
Cô ấy và tôi giờ đã thành kẻ qua đường, có lúc cô ấy còn xoi mói cay nghiệt nhìn tôi, dường như là tôi đã giết chết bố cô ấy.
Có lần, gặp cô ấy ngoài cổng trường, tôi muốn giải thích, nhưng cô ấy lại phủi tay, nói:
- Khỏi cần, tôi không quen biết cô.
Thần sắc ấy, thái độ ấy khiến tôi hồi tưởng cơn ác mộng trước đây, nó giúp tôi nhận thức được, hoá ra con người cũng có mấy bộ mặt hoàn toàn trái ngược.
Nhưng tôi vẫn thầm cầu mong trong lòng, hy vọng có ngày được cô ấy lượng thứ.
Nhưng sự hận thù của cô ấy đối với tôi dường như chẳng hề giảm, mà càng ngày càng tăng.
Có khi, trước mặt tôi Doãn Hoa biểu lộ thái độ khinh miệt tột cùng, chẳng thèm để ý đến tôi, dường như cô ấy chưa từng là một thạch nữ, cho dù là vậy thì việc “mở cửa môn hộ” cũng đã thành công giờ cô đứng vào hàng những người bình thường.
Thật vậy, cô ấy quả thực may mắn hơn tôi, chỉ có một lần “Minh Trị duy tân”, mà nơi đó đã “thông suốt không trở ngại”. Cô ấy có lý do để kiêu ngạo, có lý do để đắc ý, có lý do để chẳng xem tôi vào đâu cả...
Nhưng cô ấy không có lý do để lật mặt không thừa nhận “bà chị” mà trước đây cô ấy đã luôn mồm gọi tôi.
Tôi cũng dần dần cảm giác được, cô ấy không thể chịu nổi tôi và Ngô Nguyên ở bên nhau. Khi ấy, trong mắt cô ấy dường như nảy lửa, vằn tia máu. Cô ấy tỏ ra không hiểu, tôi là con người không thể bóc niêm phong, vì sao còn mặt dày mày dạn ở bên Ngô Nguyên... và Ngô Nguyên, dường như nhất định bị sự rắp tâm đầu độc của tôi, nên vẫn theo đuổi gặm mút gân gà “ăn chẳng được quẳng không xong”.
Một hôm, tôi có việc phải đến văn phòng Hội sinh viên tìm Ngô Nguyên, thấy cô ấy và Ngô Nguyên đang tranh luận chuyện gì đó rất gay gắt, thấy tôi, cô ấy căm hận liếc nhìn, đột nhiên quày quả, bật khóc và bỏ đi.
Chẳng mấy ngày sau, tin tức tôi là “thạch nữ” đã truyền đi khắp trường.
Mới đầu, có người còn chỉ trỏ sau lưng; sau này, khi tôi vào lớp, có người còn níu vào cửa sổ lén nhìn trộm. Tôi vốn đã quen trở thành trung tâm của mọi sự chú ý, hưởng những hư vinh của người phụ nữ, nhưng giờ đây, trong ánh mắt chú ?ý của mọi người không đơn thuần còn là sự ngưỡng mộ và trầm trồ đối với cái đẹp, mà là sự hỗn tạp của chọc ghẹo, chê cười, thương xót và cảm thông...
Có buổi trưa, tôi từ nhà ăn trở về phòng, bỗng nghe thấy các bạn cùng phòng đang bàn cãi xôn xao.
- ... Thật không thể ngờ nổi. Vốn cảm thấy gần đây nó kỳ kỳ thế nào ấy, cho rằng phòng chúng mình có một mụ phù thuỷ linh thông, chẳng ngờ lại là một thạch nữ...
- Nhưng cũng lạ, Ngô Nguyên và nó yêu nhau từng ấy năm, lẽ nào lại không biết?
- Có thể nó biết làm phép mà.
- Làm cái gì? Không thể biến ra một cái huyệt tạm thời. hi hi hi...
- Mày thật kinh khủng. Ngô Nguyên không chắc đã là một chính nhân quân tử.
- Ôi, chẳng phải cậu cũng thích anh ta à, có cơ hội thì tiến tới đi. Nhưng, nhưng nhanh chân lên một chút, chần chừ chẳng đến lượt đâu.
.....
Tôi nghĩ, nếu không có sự chuẩn bị tinh thần, thì tôi đã ngất ngay trước cửa phòng.
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:15 PM.
Đây lại là một ngưỡng cửa trong cuộc đời không may mắn của tôi.
Nhưng tôi đã trải qua những cảnh gió mưa, đã từng trải việc đời. Hoặc giả, qua một cơn bệnh nặng thì sức đề kháng của cơ thể cũng cao hơn. Tóm lại, tôi còn kiên cường hơn tưởng tượng, chẳng hề bị những lời bình phẩm xôn xao khắp trường quật ngã.
Tôi vẫn lên lớp đều, vẫn đến thư viện như thường, vẫn đến phòng tư liệu, vẫn đến nhà ăn, đi tất cả mọi nơi mà tôi có thể đi... đồng thời, tôi cũng hết sức giữ gìn sự an tường và bình tĩnh của thần thái và tư thế. Bởi vì tôi biết, nếu như tôi không thể làm được điều này, tức là đã chứng thực những lời bàn tán truyền miệng như mưa bão công kích vào tôi... nhưng ở mặt khác, tôi vẫn ra sức biến mình trở thành một con đà điểu –– Tôi cố gắng vùi đầu vào trong những bài vở và cuộc sống nội tâm. Như vậy, tôi mới là một kẻ đui mù, có thể không thấy những ánh mắt hiếu kỳ luôn bám riết không rời; như vậy, tôi mới trở thành một kẻ điếc lác, có thể bỏ ngoài tai tất cả những bàn tán trăm ngàn kiểu cách xung quanh mình.
Thực ra, tôi đã sớm dự cảm, giấy không thể bọc được lửa, tôi không thể giấu giếm mãi cái điều bí mật mà mọi người rất thích thú đó. Nhưng tôi chẳng thể ngờ, sự tình lại phát triển nhanh đến vậy.
Dù tôi có dùng chân tay để phân tích, cũng có thể hiểu được ai đã ra chiêu độc này với tôi. Xem ra, cơn ác mộng ngày đó chẳng phải là mũi tên không có đích, vấn đề là tôi không giác ngộ. Tôi đọc rất nhiều sách, tự cho là thông minh, thực ra cái tôi khiếm khuyết nhất của tôi lại là điểm hiểu biết nhỏ nhặt này. Vạn sự vạn vật của trời cao biển rộng, hồi tưởng kỹ càng, thực ra luôn có mối liên hệ và đối ứng nội tại, đều có những manh mối có thể dò tìm, vấn đề là ở tôi chỉ có một tấm thân phàm thai cốt tục...
Hiện tại, trước mặt tất cả mọi người, tôi dường như đều phải cúi đầu im lặng, nhưng trước Doãn Hoa tôi lại có thể ngẩng cao đầu mà bước, ánh mắt lạnh lùng... đương nhiên, tôi cũng có thể chẳng thèm chớp mắt, để thể hiện thái độ khinh miệt cao nhất của mình. Cô ấy có thể yêu Ngô Nguyên, có thể hận tôi trở thành kẻ cản đường, thậm chí không tiếc lời cãi vã với tôi, nhưng cô ấy không được giở trò như vậy.
Tôi nghĩ, tuyệt đối tôi không đổ oan cho cô ấy. Trong trường này, chỉ có cô ấy và Ngô Nguyên chia sẻ bí mật của tôi. Ngô Nguyên nhất định sẽ không tiết lộ, bởi vì vô hình sẽ làm tổn hại đến anh, hơn nữa, chúng tôi còn có cơ sở tình cảm sâu sắc bao năm.
Nhưng, tiểu muội đáng thương ơi (hãy để tôi một lần nữa được gọi em như vậy), em cho rằng làm như vậy thì em sẽ có được Ngô Nguyên sao?
Nhưng xin em hãy yên tâm, chị không quan tâm em đã nói cười thế nào đâu. Em cũng không cần phải làm việc trái với lương tâm, chẳng phải tìm cách trốn tránh, cho rằng chị cũng ác độc đến mức có thể tạt a-xít vào em... không, em đã từng giúp đỡ chị, cả nhà em nữa, chị luôn ghi nhớ điều đó. Cho nên, chị sẽ dùng đức báo oán.
Còn về Ngô Nguyên, anh càng không phải an ủi tôi. Tôi đã khiến cho anh phải xấu hổ, điều này đã lại khiến lòng tôi thêm một vết thương mãi mãi không lành. Mong anh trân trọng tất cả.
Được rồi, đến đi, cuộc đời còn có những gì tủi nhục nữa, còn có những toán tính gì nữa, còn có những mưa gió dập vùi gì nữa, hãy đến tất cả đi –– tôi gào lên trong giấc mộng.
Tôi thường chạy ra ngoài cánh đồng, tìm một nơi vắng bóng người, đối mặt với bầu trời, gào, hét và khóc to...
Như vậy, tôi có thể có được sự bình tĩnh và quên lãng tạm thời sau khi trút xả tất cả. Nhưng lâu dần, nó càng làm cho tôi thân xác và lòng tôi thêm mệt mỏi.
Tôi dần dần manh nha ý định bỏ học, thậm chí có ?ý nghĩ quay về quê.
Sau khi bỏ học, tôi sẽ đi đâu? Trong cái xã hội cạnh tranh khốc liệt này, tôi sẽ dựa vào cái gì để sinh tồn?
Tôi bỗng nhớ đến sau khi bước ra khỏi chùa Giác Tuệ hôm đó, cô tôi đã giải thích về sấm ngữ “Một chiếc chìa khoá mở một ổ khoá”. Có thể sẽ có một ngày nào đó, cửa Phật sẽ là chốn quay về không thể lẩn tránh.
Nhưng trong tôi luôn có điều gì đó không ổn.
Đương nhiên, tôi không yên tâm về cô, đấy là điều chắc chắn. Từ nhỏ tôi đã từng thề, sau khi lớn lên nhất định sẽ báo đáp ân nuôi dạy, tái tạo ân đức của cô. Tôi đã từng vô số lần nghĩ đến, một khi tôi có việc làm, mỗi tháng tiền lương tôi sẽ đưa cả cho cô lo liệu...
Nhưng trong lòng tôi dường như còn có một thứ bất ổn rất mơ hồ khác. Nó giống như con bọ vật vã trong lòng tay tôi, nhưng khi xoè tay ra, bỗng chẳng thấy gì; nó lại như một ánh chớp loé sáng trước mắt tôi, nhưng định thần nhìn kỹ thì đã mất hút. Sau này, tôi mới hiểu, đó thực ra là cái mà chúng ta thường gọi là hy vọng hoặc là mong mỏi. Nó vốn là viễn cảnh ảo nhưng không ngờ lại chính là ngọn lửa luôn tồn tại ẩn giấu tận thẳm sâu cõi lòng. Sau khi trải qua một loạt biến cố, nó không hề bị lụi diệt, mà lặng lẽ e dè ẩn trốn dưới lớp tro bếp lòng tôi, nhẫn nại đợi chờ khi tôi xào nấu lại có cơ hội bùng cháy và bành trướng lần nữa...
Cơ hội của tôi còn ở đâu?
Chắc chắn không phải ở đất cũ, quê cũ, trường cũ. ở đây, tôi đã bị phán xét là một dị loài, thậm chí ngay trong đất đai, trong không khí đã ươm mầm những lời nguyền rủa về sự cẩu thả của thể xác tôi. Hơn nữa, phải đối diện với bao người quen, đồng hương, bạn học và bạn bè, cũng như rất nhiều người quen tôi mà tôi không biết họ. Trước mặt họ, tôi mãi mãi sẽ trần truồng loã lồ. Còn trong ánh nhìn rắp ranh hiếu kỳ của họ, dung mạo xinh đẹp của tôi cũng chỉ càng làm nổi bật lên cái cơ quan sinh dục nửa kín nửa hở giữa háng tôi...
Mọi suy tính đều xám ngoét, có hôm đang trên đường, bỗng có một thuật sĩ lang thang đầu tóc phất phơ níu kéo tôi đòi bấm số cho tôi, lại nói chẳng lấy một xu. Tôi chối không nổi, đành để mặc ông ta. Đầu tiên ông ta bảo tôi nói giờ sinh, rồi lại xem tướng tay, tướng mặt, sau đó lại bấm đốt ngón tay, một lát sau mới nói rằng:
- Cô gái này số mệnh chẳng vừa, nhưng cũng chẳng phải rất tốt, mà là rất xấu, hơn nữa đại nạn, cần phải cẩn thận mới được.
Nói xong, chẳng đợi tôi hỏi, liền viết lên giấy ba câu đưa cho tôi: Thứ nhất, một của cải một hố; thứ hai, giữ thì nghi ngờ (mê hoặc), phá thì gặp hoạ; thứ ba, thích hợp với Tây không thích hợp với Đông.
Tôi xin ông ta giải thích cặn kẽ, nhưng ông ta lại lắc đầu, vẻ thần bí:
- Thiên cơ không thể tiết lộ.
Tôi trả tiền, ông ta kiên quyết không nhận, nói xong, ông lẩm nhẩm khúc Giang Nam thản nhiên bước đi, loáng chốc đã không thấy đâu nữa.
Sau này tôi suy đi nghĩ lại ba câu này, cho rằng “một của cải một hố”, đại để là “một chiếc chìa khoá mở một ổ khoá”; “giữ thì nghi ngờ, phá thì gặp hoạ”, rất có thể là nói thể xác tôi không thích hợp với việc phẫu thuật, nếu không sẽ gặp hoạ; còn “thích hợp với Tây không thích hợp với Đông”? Tây là nơi nào? chẳng phải là Thanh Hải hay Tây Tạng chăng, lẽ nào chỉ phương Tây?
Trong lòng tôi chợt loé sáng, bỗng tôi nghĩ đến du học nước ngoài, cho rằng đấy chính có thể là cái chìa khoá duy nhất có thể giải cứu vận mệnh khốn cùng của tôi. Hơn nữa, du học ngày nay đang trở thành trào lưu trong trường tôi, một dạng mốt, một dạng theo đuổi và vươn tới, đương nhiên cũng là sự trốn chạy.
Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn.
Chính xác tôi cũng cần trốn chạy, tốt nhất có thể mai danh ẩn tích sống trong môi trường hoàn toàn lạ lẫm, không người quen biết và mãi mãi không có lời nguyền rủa. Trong môi trường đó, chí ít tôi có loã lồ phần dưới đi trong ánh mắt soi mói của mọi người cũng không còn nhận được những lời bình luận và giễu cợt vô cùng vô tận khắp nơi... Hơn nữa, trong môi trường đó, vì sống nơi đất khách, có thể số mệnh tôi sẽ có những đổi thay mang tính căn bản, chí ít những bùa chú mà ông trời đã dán lên người tôi sẽ không còn linh nghiệm. Nói cho rõ điểm này, ở bên đó kỹ thuật và thiết bị y học tiên tiến hơn rất nhiều, có thể tạo cho tôi cơ hội tái sáng tạo “mở cửa môn hộ” mà không biến quẻ...
Khi tôi nghĩ vậy, trong lòng ít nhiều có những lo âu, tôi rất sợ người ta hiểu sai, cho rằng tôi sùng Tây chuộng ngoại, không yêu tổ quốc mình, chỉ ham muốn cuộc sống vật chất của thế giới phương Tây giàu có. Nhưng, nếu như tôi không đi, ở mãi mảnh đất này, cho dù tôi có tinh thần Ngu Công dời núi và dũng khí để mổ tiếp không dừng, tôi cũng chỉ nhận được những hoá đơn thanh toán phẫu thuật vừa nhìn đã khiếp sợ, đương nhiên, càng không thể chịu nổi một cú đánh chí mạng của một lần thất bại nữa. Cho nên, cái bức thiết của tôi là cần phải tìm cái để sống ở mảnh đất lạ lẫm chẳng người quen biết đó đã, có thể là, gom góp một món tiền, dùng để cứu chính mình...
Nhưng kế hoạch của tôi có khuyết điểm duy nhất –– tôi sẽ quá xa cách cô tôi.
Nhưng cũng chẳng còn cách cứu giúp nào hơn. Tôi có thể gửi nhiều tiền hơn cho cô, tương lai cũng có thể sẽ đón cô đến ở cùng...
Từ khi nảy sinh ý nghĩ này tôi càng lơ là chuyện học hành, hận không thể một bước vọt qua biên giới.
Nhưng quyết định quan trọng này, tôi cần phải bàn bạc với cô, được sự đồng ý của cô. Vạn nhất cô không thể xa rời tôi thì cũng đành thôi.
Cho nên, trước kỳ nghỉ cuối tuần, tôi xin nghỉ hai ngày, mua vé tàu thuỷ, trở về quê một chuyến.
Đêm đó, trời đen kịt không trăng không sao, trên đỉnh màn của cô có chùm đèn tuýp, lạnh lẽo rủ xuống, thắp suốt đêm.
Chúng tôi ngồi hai đầu giường, quấn chung một tấm chăn, nói chuyện một chốc thì nước mắt lại chảy, nước mắt chảy vơi rồi lại nói.
Khi vừa hửng sáng, trong ngõ không ngừng vang lên tiếng bước chân, tiếng chuông xe đạp của những người nông dân vào thành phố bán rau, thỉnh thoảng lại vẳng tiếng rao hàng.
-... Con à, làm theo cách nghĩ của con đi. Con thật sự cần xuất ngoại, món tiền lần trước không dùng tới nay để mua vé máy bay. Con cũng lớn rồi, những cái khác, cô cũng chẳng giúp gì được con. Cô chỉ có thể thắp nhiều hương cầu nguyện cho con trước Bồ tát thôi. Được rồi, ngủ đi...
Cuối cùng cô nói, rồi với tay tắt ngọn đèn ngủ.
Tôi vẫn cúi đầu, vẻ như chăm chú vuốt ve con mèo trắng đang nằm trong lòng, nghe cô nói vậy, tôi ngồi thẳng dậy, ngẩng đầu nhìn cô, có chút bất an:
- Tám chữ tuy bây giờ chẳng còn, nhưng con vẫn còn lo lắng một điều, một khi con đi rồi, nhỡ cô trái nắng trở trời, chẳng còn ai bên mình đưa cơm bưng nước...
Cô vội rụt cánh tay đang giơ ra tắt điện lại, nói:
- Điều này con đừng bận tâm cho cô, làng trên xóm dưới còn có thể giúp đỡ. Hơn nữa, cô thấy gân cốt mình vẫn còn khoẻ mạnh. Cô nghĩ kỹ rồi, nếu như con không ra nước ngoài, thì cũng đưa con đi trời nam biển bắc, cũng chẳng phải như vậy sao? Cho nên, tiền đồ của con là gấp... chỉ có điều... Cô lại không ngăn được dòng nước mắt, nghẹn ngào: - Cô nghĩ khi xưa con được vớt lên từ dòng nước, nay lại phiêu dạt qua biển, trong lòng thấy đau đớn...
- Cô, đừng nói nữa, bởi Thạch Ngọc bất hiếu...
Tôi nói, và cũng không kìm nổi những giọt nước mắt.
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:17 PM.
Khi toàn bộ tâm tư của tôi nỗ lực, bận rộn và chạy vạy vào việc xuất ngoại du học thì sức ép và gánh nặng tinh thần của “thạch nữ” đè nặng lên tôi đã giảm nhẹ đi rất nhiều. Đối với tôi mà nói, con đường cuộc đời dường như lại có hoa hồng và sắc cầu vồng. Hàng ngày, buổi sớm tôi ngồi trước gương bên cửa sổ chải chuốt, thấy hai gò má dần dần có sắc hồng.
Tôi đặt phương hướng lựa chọn nước Mỹ. Đây là quốc gia mà hầu hết mọi anh, chị đi du học trong trường tôi đã lựa chọn. Sự lựa chọn của tôi còn bởi mấy năm nay ngoại ngữ chung mà tôi chọn lựa là tiếng Anh, cơ sở cũng khá; hai là tôi thích kiểu tự do thoải mái bên đó, có không khí tôn trọng đời tư của người khác (đương nhiên là nghe bóng nghe gió, hoặc giả mỗi người một ý kiến).
Nhưng, muốn đi Mỹ du học nào có phải chuyện dễ.
Theo tìm hiểu, con đường bình thường, ít nhất cũng cần phải phải thi TOEFL hoặc GRE, cái quan trọng hơn là nếu như không lấy được học bổng toàn phần, thì bắt buộc phải tìm được người bảo lãnh kinh tế.
Tôi đánh giá trình độ Anh ngữ của mình, trong thời gian ngắn mà giành được điểm cao là rất không thực tế. Cho nên, tôi tránh những trường đại học nổi tiếng ở Mỹ, chỉ lựa chọn một số trường đại học bình thường không đòi thành tích TOEFL hoặc GRE để gửi đơn xin học. Rất nhanh, tôi nhận được thông báo của mấy trường liền. Trong đó có một trường gọi là “Đại học Quốc tế California”, học phí đặc biệt rẻ, rất hợp ý tôi. Nhưng cần tìm một người bảo lãnh kinh tế mới được. Tôi không có người thân nào ở nước ngoài, Ngô Nguyên biết được sự việc như vậy, giúp tôi viết hai bức thư, một gửi cho bạn anh ở New York, một gửi cho người họ hàng xa ở San Francisco. Kết quả là một đi không trở lại.
Tôi đang trong lúc tâm tình buồn chán, ngã lòng thậm chí có chút tuyệt vọng thì, một hôm ở phòng đọc khoa Văn bỗng trông thấy Dabruce. Lúc ấy, anh đang ngồi ở góc chăm chú hý hoáy ghi chép gì đó, đúng lúc ngửa mặt trông thấy tôi, anh ta mỉm cười gật đầu và giơ tay vẫy vẫy.
Bất chợt mắt tôi sáng lên, nhưng bấy giờ quá đông người, lại ở trong phòng đọc rất yên tĩnh, tôi không tiện nói với anh ta. Tôi cúi đầu ghi ra mảnh giấy, rồi đeo túi sách lại gần, nhân lúc mọi người không chú ?ý, nhẹ nhàng thả lên mặt cuốn sách trước mặt anh.
Trên mảnh giấy đó tôi ghi: Dabruce:
Tôi có chút việc muốn nhờ anh. Nếu tiện, lát nữa anh ra bãi cỏ ở cổng trường.
Cám ơn.
Thạch Ngọc
Ngày hôm nay.
Sau đó, tôi bước ra giữa thảm cỏ, thả túi sách ngồi xuống, ánh mắt không ngừng nhìn về lối cửa thư viện. Lát sau, tôi thấy Dabruce thấp thoáng qua những cây sồi bên ngoài bãi cỏ, đang tiến đến vườn hoa trước cổng trường. Dabruce dừng lại, dường như là tìm kiếm tôi. Tôi bèn hướng về phía anh vẫy tay, Dabruce nhìn thấy, giơ tay, xem như trả lời, sau đó xăm xăm bước tới.
Đây là lần đầu tiên tôi mới thực sự chú ý anh ta, Dabruce to sù sụ. Khẳng định anh phải cao hơn một mét chín mươi, bờ vai rộng và dày, bụng cũng rất to, còn cái đầu lại có vẻ hơi nhỏ. Những bước chân của anh trong nắng chiều khiến tôi tưởng tượng đến một con gấu đang tập tễnh trên thảm cỏ.
- Hoa hậu trường, xin chào.
Dabruce cao hứng chào hỏi tôi, đồng thời khom người tuột ba lô phía sau lưng xuống. Chiếc ba lô cầm trong tay bỗng nhiên trở nên xinh xắn và nhỏ gọn, dường như chuyên dành cho trẻ em trước tuổi đi học.
Tôi vội đứng dậy, bắt tay anh, nói:
- Cám ơn anh, lần trước đã giúp tôi mua số táo đó.
- Có gì đâu, có gì đâu. Bỗng nhiên lại chắp tay chào tôi: - Đúng ra tôi phải cảm ơn em mới phải, hai tháng tôi không phải ra phố mua hoa quả. Hơn nữa, mình tôi đi mua, nhất định họ chém, thu tiền gấp đôi.
Chúng tôi nhìn nhau cười.
- Tiếng Trung của anh lưu loát hơn nhiều rồi.
Sau khi ngồi xuống bãi cỏ, tôi chân thành khen ngợi.
- Đâu có, đâu có. Anh ta lại cúi đầu, làm ra dáng vẻ cụ đồ khiêm tốn, sau đó ngước mắt nhìn tôi, nói: - Không biết hoa hậu trường tìm tôi có chuyện gì thế?
- Vâng.
Tôi nói, bỗng nhiên chú ý có người đi ngang qua, vội dừng lại. Người này giống như một nghiên cứu sinh mặc áo hoa, mặt gầy, đeo kính, khi tôi đến bãi cỏ, đã thấy cô ta ngồi ở phía góc tây bắc bãi cỏ, tay cầm cuốn sách, một chốc gập lại, một chốc lại dở ra, dường như đang học thuộc từ mới. Nhưng khi Dabruce hướng đi đến chỗ tôi, tôi thấy cô ta cũng nhìn về phía này. Tôi chợt nghĩ có lần Ngô Nguyên nói, chúng ta đối với lưu học sinh nước ngoài trên thực tế là ngoài lỏng trong chặt, bề ngoài biểu hiện rất hữu hảo, bên trong là đề phòng mọi thứ, tôi bất giác rùng mình, nghi ngờ người phụ nữ giống như nghiên cứu sinh này phải chăng là người của cơ quan hữu quan chuyên môn giám sát. Cho nên, mặc dù cô ta đã đi xa chỗ chúng tôi, tôi vẫn còn cảm thấy rất căng thẳng, không biết hiện giờ tôi làm như vậy phải chăng là trái với kỷ luật ngoại sự, và cũng chưa quyết định có nên tiếp tục nói chuyện với Dabruce nữa không.
- Em tìm tôi phải chăng có chuyện gì? Dabruce dường như không chú ý tới người phụ nữ kia, anh nhún vai, làm ra vẻ không đồng ý, rồi cười đùa với tôi: - Yên tâm đi, tôi không phải là CIA đâu.
Dabruce nói xong, tôi lại thấy có chút không phải, cuối cùng quyết tâm, nói:
- ... Việc thế này, tôi mới xin du học, giấy thông báo nhập học cũng đã tới rồi, nhưng không tìm ra người bảo lãnh, cho nên, mới mạo muội muốn nhờ anh giúp đỡ.
Tôi mới nói được một nửa, thần sắc Dabruce đã trở nên rất nghiêm túc, cho đến khi kết thúc, trên gương mặt anh chẳng có lấy một nụ cười.
Vốn tôi định lấy tờ thông báo nhập học của “Đại học Quốc tế California”, nhưng liếc mắt nhìn thấy người phụ nữ lại đang hướng về phía chúng tôi, tay tôi vừa thọc vào túi vội rụt lại.
Dabruce cũng chú ?ý tới người phụ nữ đó, đợi khi cô ta lại gần, bỗng anh ngoảnh đầu lại, cười ha hả đóng kịch hướng về phía cô ta gọi với:
- Hello, cô có muốn tham gia gẫu chuyện với chúng tôi?
Người phụ nữ giật mình, đỏ mặt, vội vã lắc đầu, nhanh chân bước đi.
- Tôi nghĩ, đây mới là KGB của các em.
Dabruce cười cười nói với tôi.
Tôi không lên tiếng, cũng không biểu thị thái độ dễ dãi đồng tình, nhân lúc này tôi lôi tờ thông báo nhập học chuyển đến tay Dabruce, đồng thời căng thẳng đảo mắt nhìn ra xung quanh. Tôi hơi bất an, tự cảm thấy như không phải vừa chuyển một tờ thông báo nhập học bình thường mà là một văn kiện dấu đỏ tuyệt mật của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tôi cũng nghi ngờ rằng phải chăng mình đang “có bệnh thì vái tứ phương”...
Bỗng nhiên, Dabruce nói:
- Tôi –– rất muốn giúp em, có thể giúp được em cũng là vinh hạnh của tôi. Nhưng, khả năng kinh tế của tôi rất kém. ở Mỹ, tôi cũng chỉ là giai cấp vô sản. Hai anh của tôi rất giàu, nhưng họ đều là luật sư, rất ngại phiền phức. Cho nên, ngoài những mối quan hệ đặc biệt, họ sẽ không đứng ra bảo lãnh kinh tế cho một học sinh nước ngoài nào đâu. Nhưng...
Như nhìn thấy dáng vẻ thất vọng của tôi, Dabruce lại nói:
- Để tôi thể thử xem. Có thể làm một chút việc tốt cho hoa hậu trường đại học F, tôi cũng rất phấn khởi. Hơn nữa, tôi cũng rất sùng bái em, em là người phụ nữ phương Đông xinh đẹp nhất mà tôi được gặp. Được rồi, có tin thì tôi sẽ báo ngay.
Nói rồi, anh ta trả lại cho tôi giấy báo nhập học, chống tay đứng dậy.
Tôi cũng chỉ nói được “cám ơn”, rồi cáo từ.
Sau đó, tôi gần như quên việc này. Tôi chỉ xem những lời Dabruce nói khi ấy là câu khách sáo anh ta mới học được của người Trung Quốc chúng tôi. Tôi cũng đã chuẩn bị tư tưởng để thi TOEFL, cố gắng đạt điểm cao để có thể xin được học bổng toàn phần, như vậy sẽ không cần phải có người bảo lãnh.
Nhưng việc này lại phải tốn rất nhiều thời gian. Mà trong lòng tôi luôn nghĩ, chỉ hận rằng ngày mai không thể một bước vượt qua biên giới.
Nhưng một hôm sau giờ tan học, tôi bỗng nhìn thấy Dabruce đang đứng dưới đường đối diện với giảng đường tôi học. Thấy tôi vừa bước ra cửa, anh ta đã vẫy vẫy từ xa.
Tôi vội nhìn ngó xung quanh, hấp tấp bước tới.
- Tôi có việc phải báo với em.
Hai tay anh ta ra hiệu trước ngực.
Đấy là lúc tan tiết cuối cùng, con đường chính hướng về phía đông của khu giảng đường này chật cứng dòng người vội vã về ký túc xá hoặc đến nhà ăn. Những cao thủ xe đạp thì liên tục bấm chuông leng keng leng keng, len lỏi trong dòng người.
- Chúng ta đi bên này.
Tôi nói với Dabruce, chỉ ra sang con đường qua sân vận động lúc này tương đối yên tĩnh hơn.
Con đường này đi qua bãi cỏ trước cổng trường. Tôi liếc nhìn một cái, bỗng nhiên nhớ tới tình cảnh buổi nói chuyện hai tuần trước của chúng tôi. Tôi ngoái đầu lại, ngẩng nhìn Dabruce, dò đoán xem phải chăng tôi đã có tin vui –– đã tìm được người bảo lãnh cho tôi!
Nhưng những gì tôi nhìn thấy dưới hàng ria kiểu Stalin, bờ môi có vẻ thâm thâm kia vẫn mím chặt, dường như có điều gì khó nói.
Cuối cùng, sau khi chúng tôi đi qua bãi cỏ, Dabruce mới nói:
- Tôi đã liên hệ với gia đình. Tôi muốn nói –– xin lỗi –– em là vị hôn thê của tôi, như vậy họ sẽ sẵn lòng giúp đỡ. Nhưng sau khi bàn bạc, họ đã viết thư lại, bảo rằng phải nhìn thấy giấy đăng ký kết hôn, mới giúp đỡ. Cho nên, tôi rất lấy làm tiếc. Cho nên...
Dabruce nói, lắc đầu có vẻ cam chịu.
- Cám ơn, anh không phải xin lỗi. Tôi hiểu anh đã cố hết sức mình.
Tuy tôi có chút thất vọng, nhưng vẫn rất nhiệt tình cảm ơn anh ta.
- Chủ yếu bởi vì trước đây họ đã giúp một cô gái Đài Loan, nhưng cô ấy đã khiến họ thất vọng...
Lát sau, Dabruce lại nói.
- Vâng. Tôi thể hiện thái độ hiểu biết, rồi lại nói: - Cho dù thế nào, tôi cũng rất cám ơn anh.
Chúng tôi im lặng đi qua sân vận động, rồi lại qua căng tin, rồi hướng về phía lầu lưu học sinh mới xây. Khi tôi đang chuẩn bị tạm biệt anh ta, rẽ trái về khu phòng của tôi, bỗng Dabruce đứng lại, dường như phải quyết tâm lắm mới nói ra được:
- Như thế này, tôi có cách nghĩ này. Em cũng đừng giận. Tôi nghĩ, nếu như... nếu như em cho rằng có thể, đương nhiên, điều này cần em quyết định... Tôi nghĩ, chúng ta có thể dùng biện pháp kết hôn. Đương nhiên, đây là giả, sau khi tới Mỹ em có tự do của em, có thể muốn ly hôn lúc nào cũng được, nhưng về giấy tờ cần phải là thật... đương nhiên, đây chỉ là đề nghị của tôi, tôi chỉ muốn –– giúp đỡ –– em, đương nhiên,...
Dabruce bỗng cứng hàm, mặt đỏ bừng.
- Nếu như, nếu như tôi nói sai, xin em hãy tha thứ.
Dabruce càng nói càng cảm thấy bối rối
- Không, không phải. Có điều quá đột ngột, để tôi suy nghĩ rồi sẽ trả lời anh, được không?
Tôi vội nói.
- Đương nhiên, đương nhiên...
Anh ta gật đầu liên tục, khiến tôi cảm giác rằng anh ta đang cầu xin sự giúp đỡ của tôi.
Tôi suy nghĩ độ khoảng một tuần.
Giống như người đang mò mẫm trong hầm tối, tôi bỗng phát hiện ra một sợi dây đang đung đưa trước mắt, giá phải trả là tôi phải kết hôn với người đã thả cho mình sợi dây đó. Nhưng, tôi, một thạch nữ trong những lời đồn đại, hiện lại cưới một người nước ngoài, nghe ra phải chăng là hành động khác đời?
Tôi có thể tưởng tượng được, việc này vỡ lở, dư luận trong trường sẽ xôn xao. Chắc chắn có người cho rằng tôi có ?ý định gài bẫy “Tây”, nếu không thể xác và tinh thần tên “Tây” này nhất định có vấn đề. Cho nên, tôi bỗng hy vọng rằng Dabruce đã nghe được những thông tin về tôi, và hơn nữa hiểu gốc tích về tôi, chỉ có như vậy, đề nghị của anh mới mang tính chất hoàn toàn chỉ là giúp đỡ tôi, chứ không phải là vì động cơ và mục đích nào khác...
Nhưng, tôi nghĩ, cho dù động cơ và mục đích của anh ta thế nào, cho dù là không phải thật sự giúp đỡ tôi, rốt cục trong cuộc hôn nhân này, tôi chẳng mất gì cả, thậm chí chẳng mất đi trinh tiết của tôi. Hơn nữa, cho dù có mất đi cái gì đi nữa, đó cũng chỉ có thể là “xiềng xích”, mà tôi thì lại được một “thế giới hoàn toàn mới mẻ”...
Đã dự định, tôi chuẩn bị giơ tay ra nắm lấy sợi “dây thừng” đó. Đúng vừa may khi tôi từ thư viện trở về lại gặp ngay Dabruce, tôi bèn hẹn với anh đến cầu môn sân bóng đá.
- ... Như thế này, em đã nghĩ kỹ, em sẽ làm theo lời anh. Cám ơn. Em biết, anh cũng hoàn toàn là giúp đỡ em. Em thật sự cảm ơn anh. Em cũng nói để anh yên tâm, em nhất định sẽ không trở thành gánh nặng và phiền phức cho anh, cả cuộc đời em sẽ mang ơn anh rất nhiều. Nhưng có một việc, em cũng cần phải nói rõ. Hoặc giả, có lẽ anh đã được nghe rồi. Em là người mà người Trung Quốc gọi là “thạch nữ”, trong tiếng Anh là “the forbidden lady”. Cho nên, nói nghiêm túc, thực tại em không thể kết hôn, cũng không thể sống cuộc sống vợ chồng, em hy vọng anh có thể hiểu được điều này...
Tôi nói một mạch những điều đã đắn đo suy nghĩ nhiều lần. Tôi nghĩ, nếu như không có màn đêm che đậy, tôi đã không có dũng khí và mạnh dạn như vậy.
Nhưng dường như do sự thẳng thắn của tôi mà Dabruce trở nên rất cảm động, anh luôn miệng nói:
- Anh đã biết rồi. Nhưng đó là chuyện riêng, họ cũng không nên bàn luận như vậy về em. Văn hoá các em quá bất công với phụ nữ. Cho nên, anh cho rằng, em cần phải rời khỏi nơi này, thay đổi môi trường. Nếu không, em sẽ không thể chịu đựng nổi. Em tin tưởng anh, anh cũng rất phấn khởi, anh rất muốn giúp đỡ em...
Nhưng tối đó, khi quay về nằm trên giường, tôi không dám tin rằng mình đã đưa ra quyết định mà ngay bản thân tôi cũng khó có thể tin được, cũng khó có thể tưởng tượng được tương lai không xa –– cho dù là giả –– tôi sẽ trở thành một người ngoại quốc, một người Mỹ mà từ nhỏ chúng tôi đã luôn hò hét rằng phải đả đảo, vợ một người “to sù sụ” như con gấu...
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:19 PM.
“Hôn nhân có yếu tố nước ngoài” của tôi có gặp một số phiền hà trong việc kê khai làm giấy đăng ký kết hôn, nhưng về mặt visa lại vô cùng thuận lợi. Sau khi tôi điền vào tờ khai rồi gửi đi chưa đầy một tháng thì nhận được giấy hẹn phỏng vấn của toà lãnh sự quán Mỹ tại Quảng Châu. Quá trình phỏng vấn cũng rất giản đơn. Tóm lại, buổi chiều hôm ấy, tôi đã nhận được một phong thư đã dán kín từ ô cửa sổ nơi làm visa di dân. Một vị ở toà lãnh sự nói với tôi rằng, khi vào Mỹ thì đưa bức thư này cho nhân viên cục Di dân là được.
Nhưng lúc này tôi mới chợt nhận ra, chỉ còn ba tháng nữa là tốt nghiệp.
Dabruce hỏi tôi:
- Visa có thời hạn nửa năm. Em muốn đi ngay hay đợi khi tốt nghiệp rồi mới đi?
Nghĩ đến tiền đồ sau này của tôi, đương nhiên là có thể đợi đến khi tốt nghiệp, cầm được mảnh bằng là điều tốt nhất. Nhưng bởi vì việc “hôn nhân có yếu tố nước ngoài” này, tôi đã đắc tội với một số vị lãnh đạo khoa và người phụ trách quản lý công tác ngoại sự trường, trước mắt cảnh ngộ ở trường rất khó khăn, trên dưới thậm chí là nhân cách của tôi cũng bắt đầu bị bàn tán xôn xao. Ngoài ra còn một điều quan trọng nữa, tôi đã không thể ở lại trường để nhìn thấy, gặp gỡ hoặc chạm mặt với Ngô Nguyên...
- Em muốn đi sớm một chút, nhưng còn anh?
Tôi biết anh ở Mỹ học châm cứu Trung Quốc, cuối năm ngoái tốt nghiệp mới đến Thượng Hải để bồi dưỡng tiếng Trung, đến cuối tháng sáu này mới kết thúc.
- Đương nhiên là về cùng em. Chúng ta còn phải nghỉ “tuần trăng mật” nữa. Nếu không, cục Di dân người ta sẽ nghi ngờ.
Dabruce nửa đùa nửa thật nói.
- Chương trình học của anh vẫn chưa kết thúc...
- Chẳng sao. Bằng tốt nghiệp của em còn chẳng cần, tiến tu của anh đáng kể gì? Hơn nữa, sau khi về Mỹ anh còn có thể mời em làm gia sư cho nữa. Nhưng, xin hỏi “phu nhân”, em có đồng ý không?
Dabruce nói, bỗng nhiên chớp mắt nhìn tôi rất hạnh phúc.
- Sure(1).
Tôi vội vã gật đầu.
Như vậy, lại qua hơn một tuần, tất cả mọi chuyện đã được sắp xếp ổn thoả, vé máy bay cũng đã cầm trong tay, chỉ còn đợi ngày bay.
Trước lúc lên đường, tôi quyết định trở về quê một chuyến. Dabruce rất muốn về cùng tôi để thăm thú cảnh sắc nông thôn Trung Quốc cũng như phong tục tập quán vùng huyện lỵ ngoại ô Thượng Hải, nhưng tôi đã khéo léo từ chối.
Anh là người nước ngoài tóc vàng mắt xanh, tôi lo lắng phố huyện nhỏ bé của chúng tôi sẽ vì anh đến mà xảy ra những xáo động không bình thường.
Nhưng anh và cô đã từng gặp nhau ở đất Thượng Hải này.
Mỗi đường đi nước bước của tôi, tôi đều kịp thời biên thư hoặc gọi điện xin ý kiến cô. Cô biết tôi cũng bởi bất đắc dĩ mới đưa ra hạ sách như vậy, cho nên, mặc dù không muốn, cũng đành phó mặc tất cả “tuỳ duyên”.
Sau khi trở về nhà, nhằm đảm bảo an toàn, cô bắt tôi nằm nhà nghỉ ngơi, không được chạy lung tung. Nhưng tôi quyết định trở về quê một chuyến, một mặt thắp hương từ biệt cha tôi, mặt khác trong lòng cũng muốn tìm đáp án có nhiều câu hỏi.
Cô đề xuất sẽ đi cùng tôi, nhưng tôi kiên quyết từ chối.
- Con có còn trẻ con nữa đâu. Con đốt cho cha con mấy nén vàng rồi trở về ngay. Tôi nói.
Mấy ngày hôm nay khớp chân cô bị sưng đau nên cô cũng không quyết tâm đi.
Ngôi nhà tổ vẫn là nhà ngói ba gian, nhưng vào lúc nông nhàn mùa đông năm ngoái, thôn đã cử người tu sửa lại những chỗ bị dột nát. Nhưng trong khung cảnh của các ngôi nhà lớn bé xung quanh, trông nó nửa cũ nửa mới, cũng có chút cọc cạch, luộm thuộm. Đặc biệt là nóc nhà đầu hồi phía tây, rõ ràng nó thấp hơn một chút. Tóm lại, hình ảnh thô kệch, dường như chỉ là để chứng kiến lai lịch và vận mệnh của tôi.
Cây dải quạt cũng đã bị chặt đi, nói là bán lại cho thôn, xem như sung vào số tiền công sửa nhà mà lẽ ra chúng tôi phải trả. Không còn sự bảo vệ và bầu bạn của cây dải quạt, ngôi nhà tổ trông càng lạ lẫm.
Đúng vào ngày xuân hoa cỏ mơn mởn, những cây đậu tằm trước và sau nhà đua nhau khoe hoa màu tím nhạt. Chỉ có chúng dường như còn mỉm cười nghênh đón tôi trở về ngôi nhà cũ.
Tôi quỳ trên đất, từ xa vái lạy cha tôi, đương nhiên còn cả mộ ông bà nội (đáng tiếc là tôi chưa từng biết mặt họ), lặng lẽ đốt giấy tiền, nuốt nước mắt từ biệt cha:
- ... Cha ơi, con sắp “lấy chồng xa” sang Mỹ “lăn lộn giang hồ”. Con bất đắc dĩ mới phải làm hạ sách này, mong cha phù hộ cho con, tha thứ cho con, đứa con này từ sau không còn thường xuyên được thấy cha, nhưng con sang bên đó, cũng sẽ thường xuyên đốt giấy tiền cho cha. Con cũng sẽ mang theo ảnh cha, mang theo lá bạc cha cho con... để chúng và con nương dựa lẫn nhau...
Tôi đốt xong giấy tiền thì trưởng thôn cho người bảo tôi sang nhà anh ta ăn cơm.
Trong lúc ăn cơm, tôi không đừng được bèn thăm dò nguyên nhân cái chết của cha. Anh ta ngập ngừng muốn nói, nhưng vợ anh ta liên tục nháy mắt, vậy là cứ chùng chình hai ba lượt.
Trong lòng tôi không thoải mái, cơm nước xong xuôi liền mượn cớ cáo từ.
Đầu tiên tôi đến nhà thím Ba, nhà bà ta ở phía bắc sông nhánh, gần con kênh dẫn nước mạn tây. Nhưng chú Ba nói rằng thím ấy đã đi thăm người thân, ngày mai mới trở về.
Tôi đành phải vội vã quay trở lại con đê sông nhánh.
Con sông lớn này, một số năm trước sau khi Trấn Bình sở hữu nhánh sông Hà Đường, đã cho đào thêm một con sông lớn đâm thẳng ra mạn đông tây, người trong thôn đều gọi là nhánh. Nghe nói ngược nhánh sông lên sẽ gặp sông La Mã, thông với Trường Giang.
Tôi đứng trên bờ đê, hướng về ngôi nhà ngói ba gian của chúng tôi để định vị, lại hỏi một người phụ nữ trung niên đang xuống bến sông rửa rau, bỗng phát hiện ra nơi mình đang đứng là vị trí giữa con đập Long Bối năm xưa. Cũng có nghĩa là, hai mươi hai năm trước, phía dưới chân tôi chính là dòng nước cuộn đỏ, tấm thân bọc chiếc yếm nằm trong “nửa chiếc thuyền vuông” của tôi từ đây dạt qua... nhưng, ai có thể ngờ, đứa cô nhi phiêu dạt trong dòng nước năm xưa đến nay lại thật sự sắp phiêu diêu vượt bể?
Sau đó ánh mắt của tôi chăm chú hồi lâu vào mặt nước vân vẩn đục trong nhánh sông lớn. Tôi cố gắng tưởng tượng mình năm đó, đã từng yên lặng nằm trong chiếc chậu gỗ nhỏ đó, chẳng hề kinh sợ tiếng mưa tiếng gió gào thét bên ngoài tàu lá sen, chốc chốc bị xoáy tròn trong dòng lũ xiết, rồi thuận dòng trôi xuôi, cuối cùng hoàn thành một chuyến phiêu lưu huy hoàng có lẽ là ít tuổi nhất trong lịch sử nhân loại.
Nhưng đâu mới là điểm xuất phát của chuyến phiêu lưu của tôi? Lại là ai đã chuẩn bị cho tôi “con thuyền vuông” đó?
Sẽ là người đã từng kéo tôi đứng dậy trên bờ ruộng, người có hai lúm đồng tiền một to một nhỏ, và đã từng nhét cho tôi chiếc bánh ngô sao?
Người đàn mất trí, người đàn bà mất trí, mất trí... tôi thật sự là hậu duệ của một người đàn bà mất trí sao? Phải chăng cô ấy không thể nuôi dưỡng nổi tôi, mới không thể không...?
Nhưng, cô ấy còn sống không?
Đó là người gọi là Mỹ Hoa đã yên giấc ngủ dài trong khu vườn rau nhà bà Tư, phải chăng là cô ấy? Nếu như không phải cô ấy, vì sao cô tôi lại muốn dẫn tôi đến lạy trước ngôi mộ đó?
Tôi đã nói, tôi không phải là một người có tầm hiểu biết uyên bác, cho dù tôi có ngu si, cũng còn chút ít tâm linh ứng cảm của những người cùng máu mủ ruột rà bình thường... nhưng, bởi tâm tính tôi có chút kiêu ngạo và có lúc đột nhiên nảy sinh tình cảm oán hận, nhất thời còn chưa chịu thừa nhận mà thôi.
Nhưng bước chân của tôi đã hướng về phía trước, hướng đến bao nhiêu dấu hỏi dồn nén trong đầu tôi, hướng tới phía nhà bà Tư, cất bước...
Khi nhìn thấy ngôi nhà hai gian thấp lè tè của bà Tư, tôi dừng lại hỏi một ông cụ già đang tắm nắng trước thềm nhà:
- Ông cho hỏi, ở thôn ông có người đàn bà mất trí nào không?
- Người đàn bà mất trí? Ông già sững người giây lát, ngờ vực nhìn tôi hỏi lại, rồi ông ta ngồi thẳng dậy, nói: - Có. Nhưng cô ấy chết mười mấy năm rồi. Cô hỏi để làm gì?
- à, trước đây cháu đã gặp một lần, tiện đây hỏi vậy thôi. Cháu cảm ơn.
Tôi nói rồi vội vã bước đi.
Khi tôi tìm đến bà Tư, bà đang hái rau trong vườn.
Tôi gọi nhưng bà Tư chẳng hề nghe thấy. Tôi bèn gọi to lại một lần nữa, bà ta mới ngoảnh đầu lại.
- Cô tìm ai?
Bà Tư nghi ngờ hỏi, vẫn còng còng đứng đó, hai tay nắm hai túm cải còn cả gốc rễ đầy đất cát.
- Cháu là Thạch Ngọc.
Tôi nói, loạng choạng dậm dậm dũ đất bùn ruộng bám ở gót giầy.
- Thạch Ngọc?
Bà Tư hỏi lại, nhưng vẫn lắc đầu, biểu thị rằng không quen biết tôi.
- Cháu là cháu của cô Tiểu Lan.
Tôi nói to hơn, nghe rõ cả tiếng hét của mình
.
Bà già mắt mũi kèm nhèm lại lướt nhìn tôi một lượt từ đầu tới chân, cuối cùng chợt hiểu:
- Cháu là –– cháu của cô hai Thạch Lan...
Bà Tư nói, bờ môi lập bập, bỗng nhiên thả mớ rau ở tay ra, nghiêng ngả bước ra khỏi vườn rau, dường như muốn nắm lấy tay tôi, nhưng ý thức được tay mình còn đầy bùn đất, vội vã rụt tay lại, run run giơ lên trước ngực:
- à, à, vào đây.
Cuối cùng bà Tư cũng lên tiếng.
Chúng tôi bước vào gian phòng, bà Tư rửa tay trong bồn rửa chân gỗ trước cửa, rồi bước vào nhà nhặt một chiếc ghế con để tôi ngồi ngay sát cửa, nói:
- Trong nhà tối lắm, lại có khói, cháu ngồi đây đã, để bà đi pha trà.
Nói rồi bà lại loạng choạng đi về phía bếp.
- Thôi bà.
Tôi đứng dậy, muốn gọi bà Tư lại, nhưng bà vẫn kiên quyết nói.
- Thế sao được? Lần trước hai cô cháu cháu đến, ngụm nước cũng chẳng kịp uống...
Tôi đành phải nghe theo bà ta.
Nhưng, tôi ngồi trên chiếc ghế chưa đầy hai phút đã muốn đứng dậy, bước đến bếp giúp bà Tư nhen lửa. Lúc đầu, bà Tư không chịu, phải giằng co mãi mới thôi.
Thế là bà Tư lại hớt ha hớt hải cắt hành tỉa hẹ, lấy trứng gà trong chum ngô... Tóm lại, đợi khi tôi ngồi trước bàn ăn nho nhỏ của bà thì trước mặt đã bày một đĩa xôi lạc, một đĩa trứng rán, một bát trà táo đỏ, còn có cả nồi bánh rán dầu vàng vàng, mong mỏng và giòn.
Sau đó, bà Tư ngồi trên chiếc ghế đối diện với tôi, vừa giục tôi ăn, vừa rỉ rả vẻ có lỗi:
-... Không biết cháu đến, chẳng có gì để tiếp đãi. Hôm nay, cháu nhất định không được về, bà đi mua ít thịt, mua con cá...
Tôi mới dùng bữa trưa xong chưa lâu nên không đói, nhưng tôi biết, nếu như tôi không ăn, trong lòng bà sẽ cảm thấy rất buồn rầu, đành miễn cưỡng ăn cố một chút.
- Bà, bà cũng ăn một chút đi.
Tôi nhìn thấy bà Tư chỉ cầm đũa để trước mặt mà không gắp, bèn nói.
- Không, cháu ăn đi, cháu ăn đi, ăn nhiều vào, bà vừa mới ăn xong.
Bà Tư nói, ánh mắt chăm chú nhìn tôi, dường như tìm kiếm hồi ức xa xăm trên người tôi.
Cuối cùng, tôi đã uống xong “trà”. Đặt bát đũa xuống, do dự một lát, nói:
- Bà à, cháu muốn hỏi bà một chuyện.
- Chuyện gì?
Trên gương mặt đượm sương gió của bà thoảng qua chút kinh hoàng không dễ nhận thấy, hai tay lóng nga lóng ngóng lau lau vào cạp váy.
- Bà có biết ở thôn này trước đây có một người đàn bà mất trí không?
- Biết, đấy là con Mỹ Hoa. Nó chết rồi, cháu hỏi làm gì?
- Cháu muốn biết rốt cục có phải cô ấy là mẹ đẻ của cháu không?
Tôi bất ngờ hỏi.
Bà Tư nghe xong, bỗng nhiên hoảng loạn, nói năng lộn xộn:
- ừ, không, không. Cháu nghĩ gì mà hỏi đến điều... Cô Hai cháu đã nói với cháu những gì?
- Không, cô Hai không nói gì. Tự nhiên cháu đoán vậy.
- ừ, không phải, không phải đâu. Có thể cháu nhầm rồi.
Cuối cùng bà Tư thở phào, đứng dậy đi về phía bếp đun. Bà Tư như muốn lấy một cái gì đó, nhưng sờ sờ cái này, lần lần cái kia rồi lại bỏ xuống, cuối cùng vẫn hai tay không trở lại:
- Cô Hai cháu có khoẻ không?
Bà Tư xoay hỏi sang chuyện khác.
- Vẫn khoẻ. Tôi lại nói: - Bà Tư, bà có thể ngồi xuống không? Cháu vẫn còn rất nhiều câu hỏi muốn hỏi bà.
Bà Tư hốt hoảng dè dặt ngồi xuống trước mặt tôi.
- ... Cháu biết có thể bà không muốn nói, cô Hai cũng vậy. Nhưng cháu đã lớn rồi, rất muốn biết thân thế của mình. Cháu nghĩ bà biết, cho nên cháu mới quyết tìm đến chỗ bà. Bà yên tâm, cháu bảo đảm sẽ không nói lại chuyện với cô Hai đâu...
Bà Tư do dự giây lát, hai môi giật giật nhưng vẫn kiên quyết lắc đầu:
- Không, bà không biết, thật sự chẳng biết gì cả.
Tôi cũng do dự. Tôi tin bà Tư nhất định biết bí mật về thân thế của tôi và cũng tin rằng bà Tư có thể là bà ngoại của tôi, nếu không, những biểu hiện vừa rồi của bà sẽ không hoảng loạn và luống cuống như vậy. Nhưng nếu như một người già không muốn thổ lộ chân tình với mình, như vậy chứng tỏ nhất định có điều gì khó nói, mình nỡ bức bách người ta ư? Hơn nữa, thái độ của bà Tư cũng đã khiến tôi có một ấn tượng sâu sắc –– nguyên nhân bà Tư không chịu nói với tôi, đúng như những gì mà cô tôi luôn nói, dường như là để không gây hại gì đến tôi. Tôi chợt nản lòng, một thể xác chẳng xứng đáng đã mang lại cho tôi đủ điều tủi nhục rồi, hà tất phải lại phải tìm đến cái thân thế không rõ ràng của mình để chuốc thêm phiền não và khó xử?
Nhưng lòng hiếu kỳ vẫn khiến tôi hỏi tiếp những câu dưới đây ––
- Bà chỉ có một con thôi à?
- ừ.
Bà Tư gật đầu.
- Cô ấy có lấy chồng không?
- Không, một đứa con mất trí thì sao lấy được chồng.
- Nhưng –– có lẽ cháu không nên hỏi, vì sao cô ấy chết?
- Nhảy sông, ở bờ tây con sông này.
Bà Tư dụi dụi mắt.
- Cô ấy mất bao năm rồi?
- Gần mười bốn năm.
Bà Tư cẩn thận bấm bấm đốt tay rồi nói với tôi.
Trong lòng tôi chợt rùng mình, năm đó cha tôi cũng qua đời.
- Cháu đã gặp con gái bà một lần. Tôi nói: - Cô ấy đang làm ruộng, mặc chiếc áo cánh hoa, lại còn cho cháu một chiếc bánh ngô...
- ờ, lúc về nó cũng đã nói thế, nó biết cha cháu, ông ấy đã nom bệnh cho nó, nhưng ngày ấy tâm tình cha cháu không tốt, cũng không hỏi han nó, khi nó về nhà có vẻ không vui...
.....
Cuối cùng tôi kết thúc cuộc điều tra về thân thế của mình một cách đầu voi đuôi chuột.
Nói thật lòng, tôi chẳng còn hứng thú đối với việc làm rõ thân thế của mình.
Thực ra, từ khi tôi hiểu rõ người chôn trong vườn rau kia là một người đàn bà mất trí thì tôi đã dám chắc chắn cô ấy có một mối liên hệ gì đó với tôi. Cô tôi nói dối đó là em út của cô (làm sao bỗng dưng cô lại có một cô em út, mất trí được chứ), đó cũng chẳng ngoài mục đích để tôi có cơ hội được đến lạy trước mồ mẹ tôi một lần mà thôi. Hơn nữa, từ miệng của bà Tư tôi đã có được một thông tin quan trọng –– đó là Mỹ Hoa chưa từng lấy chồng. Cho nên, nếu như cô ấy thực sự là mẹ đẻ của tôi, tôi cũng chỉ có thể là một đứa con hoang.
Người đàn bà mất trí, đứa con hoang... đây lẽ nào lại chính là những việc mà tôi muốn làm sáng tỏ?
Tôi chợt hiểu, sở dĩ cô không muốn tôi biết về thân thế của mình, cũng vốn là sợ tôi không thể chịu đựng nổi cú sốc này...
Ôi, vận mệnh đau thương của tôi, còn người mẹ số mệnh khổ ải kia của tôi...
Chẳng biết sao, tôi bỗng muốn xuất xứ của mình là khoảng trắng mà không một ai biết, hoặc giả thật sự là từ khe đá nứt chui ra, trứng được ấp nở trong lá sen...
Nhưng tôi không thể không ? ý thức được rằng, bà Tư mắt lòa tai điếc, lưng còng trước mặt tôi đây, có thể chính là người thân duy nhất có cùng dòng máu với tôi trên thế gian này. Nhưng, vì sao bà lại không chịu thừa nhận mình là bà ngoại của tôi? Là bởi vì không có trách nhiệm nuôi dưỡng tôi nên cảm thấy đau khổ và ân hận, hay là lo lắng một khi tôi đã hiểu được thân thế của mình thì sẽ quay lại oán trách?
Đúng thế, năm xưa sao các người lại nhẫn tâm vứt bỏ thả tôi trôi sông?
Trong lòng tôi bỗng cuộn lên nỗi đớn đau và buồn thảm.
Nhưng tôi lại nhìn bà Tư đáng thương, trong lòng trào dâng sự cảm thông và thương hại. Ờ, một bà già cô độc như ngọn đèn tàn trước gió, vì sao tôi lại nỡ lấy chuyện xưa như cơn ác mộng để quấy quả bà? Vừa rồi bà Tư đã không muốn phá thủng cửa sổ giấy mỏng tang ngăn cách giữa chúng tôi thì hãy để thuận theo lòng của bà vậy!
Tôi đứng dậy, chỉ dành lại một chút tiền vé xe, số còn lại đặt tất trên bàn.
Bà Tư lại một phen đưa đẩy, nhưng tôi bắt buộc bà phải nhận.
Sau đó tôi bước đến vườn rau trước mặt, lặng lẽ đứng trước nấm mồ bên cây đào, lấy mấy nén tiền giấy còn lại ra, quỳ xuống, chậm rãi châm lửa...
- Người mẹ đáng thương, đứa con đáng thương, giữa chúng ta, ai sẽ bất hạnh hơn ai?...
Tôi nghĩ miên man, bỗng chợt thấy cô ấy chẳng phải là mẹ của tôi mà là người chị sinh song của tôi, hai quả mướp đắng cùng một dây gốc dây khô...
Đốt xong tiền giấy, bỗng một cơn gió ùa tới, cuốn tất cả những bụi tro bay vào thinh không. Tôi sững người, ngửng mặt nhìn những đóm tro tàn chao liệng trên không, mới? Ý thức được rằng đó có thể là người mẹ dưới đất của tôi đã bằng một phương thức đặc thù giao hoà với tôi...
Tạm biệt, mẹ, tạm biệt, mẹ; tạm biệt, quê hương...
Mặt trời sắp xuống núi. Tôi cáo từ bà Tư, hớt hải trên con đường trở về thành phố. Nhưng chưa đi được bao xa, tôi đã lạc đường. Đến khi tôi hiểu ra, tôi phát hiện mình đang đứng giữa sân đập lúa mì, bên trái là đống cỏ, bên phải là một trụ đá xanh xám vuông vuông dài dài, lớp ngoài sần sùi dùng để buộc trâu...
Tôi bỗng nhớ ra, đây chính là cảnh cuối cùng trong cơn ác mộng, cũng là nơi mà bảy tám thằng đàn ông và một mụ đàn bà thay phiên hãm hiếp tôi...
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:21 PM.
–– Anh có thể đi ra từ lối ra dưới kia không? Đúng, đấy chính là overland... được rồi, lại rẽ phải. Trước mặt là pico, đi tiếp, thấy Olympic chúng ta sẽ rẽ trái... được rồi, chính đây, đúng, rẽ trái... bây giờ anh đã nhìn thấy trước mặt có biển của cây xăng “76”, chúng ta đi qua nó rồi rẽ phải vào... đúng, lại tiến về phía trước, qua chỗ stop sign... tốt, chính đây, chúng ta dừng bên đường một lát, không cần xuống xe, nhìn qua rồi đi.
–– Khi vừa tới Los Angeles là ở một gian tầng hai phía đông kia. Chỗ cửa sổ bị cây bồ kết che kia chính là phòng ngủ của tôi. Góc bên kia thực ra còn có ban công nho nhỏ, trên đó tôi trồng mai tam giác, lưu ly, hoa huệ tây, cây thạch xương bồ... có một lối nhỏ thông với buồng ngủ. Nhưng ở chỗ chúng ta bây giờ không nhìn thấy. Được rồi, chúng ta đi, nếu không sẽ cản trở xe phía sau. Anh có thể rẽ phải đến Santamonica blvd, sau đó đi thẳng về phía tây, độ khoảng năm sáu phút là đến chỗ tham quan bến cảng Santamonica.
–– ái chà, anh không nói trước. Sớm biết anh cũng đã từng ở khu tây này, tôi đã không làm người chỉ đường cho anh. Ai chẳng biết, tôi là người nhớ phương hướng cực kém, lái xe thường xuyên quên đường. Anh nhìn kìa, tôi đã đến bờ biển mấy lần rồi, thế mà chẳng biết trong chợ còn có chỗ đỗ xe miễn phí...
–– ờ, đông du khách quá. Trước đây anh có thường ra đây không?
–– Khi mới đến, mỗi khi nhớ nhà tôi đều ra đây, đa số vào buổi tối. Sau nghe nói ở đây đã từng xảy ra tai nạn, còn có người chết, mới ít đến. Anh hít gió biển, ngửi mùi mằn mặn tanh tanh của biển, ngắm thuỷ triều là thấy tinh thần sảng khoái ngay. Hơn nữa, bên kia bờ đại dương chính là trường xưa, quê cũ, sẽ cảm thấy rất gần nhà, tưởng chỉ với tay một cái là có thể tới được. Có lúc, tôi cũng đã đứng hàng giờ trước mũi tận cùng của bến cảng này. Tôi luôn có cảm giác rất kỳ lạ, dường như tôi chẳng phải ngồi máy bay bay tới, mà là ngồi thuyền –– một chiếc thuyền con dạt trôi tới đây. Anh nói đại dương mênh mông này, ngồi máy bay cũng mất mười mấy tiếng, cũng đủ biết rồi, nhưng có lúc lại nghĩ rất nhỏ, có lẽ cũng chỉ như con kênh Long Bối. Thế giới thật nhỏ bé.
–– Còn có việc này, đến nay tôi vẫn còn chưa rõ. Chúng ta nhìn từ Thượng Hải, nước Mỹ là phía tây, nhưng chúng ta đứng từ đây, Thượng Hải lại ở phía tây. Trong lòng tôi hiểu, đó là bởi vì trái đất tròn, nhưng có lúc càng nghĩ càng không thông, càng nghĩ càng lú lẫn...
–– Tán gẫu xa quá rồi. Nhưng, tôi vẫn còn muốn hỏi một chút, anh có hứng thú đối với triết học và lịch sử không?
–– Tôi biết mà, đàn ông các anh chẳng ai không thích triết học và lịch sử. Các anh lại giỏi đấu, triết học chính là khẩu súng săn trong tay các anh, mà lịch sử lại cung cấp cho các anh những âm mưu quỷ kế vô tận, dùng không bao giờ hết, để các anh “tư trị thông giám”. Nhưng tôi lại chẳng ưa gì lịch sử. Ngẫm thấy mình đã đầu thai nhầm, lại chọn nhầm nghề. Tôi cũng không biết vì sao khi điền vào tờ nguyện vọng ở đại học F năm xưa lại điền vào khoa Lịch sử. Chẳng những đây là chuyên ngành rất khó xin việc hiện nay, mà còn là ngành mà tôi chẳng có hứng thú gì. Lịch sử Trung Quốc cổ đại quá nhiều đao kiếm, toàn hơi hướng chém giết và chinh phục, tuy nhiên cũng có phồn vinh và huy hoàng, nhưng dường như đều chóng vánh như sao băng. Lịch sử cận đại thì khiến tôi bị dồn nén và uất ức, thậm chí là hận gang không thành thép... cho nên, lịch sử ư, tôi thường nghĩ: lịch sử này rốt cục là cái như thế nào? Hứng thú đối với triết học của tôi còn khá hơn một chút, nhưng tôi không thích “triết học kinh viện” quá tư biện, quá lý tính như Aristotle, Kant, Hegel gì đó, Nietzsche còn khả dĩ, nhưng “triết học siêu nhân”, “duy ý chí luận” của ông ta luôn khiến tôi cảm thấy ông ta bởi vì bất đắc chí mà nổi xung với người khác. Đương nhiên, có thể là rắp tâm khó dễ với Thượng đế. Trong các nhà triết học chỉ có Schopenhauer và Sartre là tôi còn tương đối thích. Đương nhiên, có lẽ thực sự khiến tôi thích thú chẳng qua là tinh thần nhân văn được thể hiện trong triết học của họ. Sartre quan tâm đến nỗi khổ muộn và ngại ngùng của nội tâm con người hiện đại. Cơ sở triết học của Schopenhauer lại là sự tương thông giữa Phật và Đạo. Không ai phủ nhận được, con người sinh ra đã khổ, biển khổ vô biên...
–– Được rồi, chúng ta xuống bãi biển vừa đi dạo vừa nói chuyện...
Los Angeles quả là thành phố tươi đẹp, quanh năm đều như mùa xuân, đặc biệt khu vực phía tây toàn những người giàu ở.
Khi vừa mới đến Los Angeles, Dabruce đã từng đánh xe đưa tôi tham quan sơn trại Beverly, ngắm nhìn những ngôi nhà sang trọng của các đạo diễn, minh tinh lớn ở Hollywood, những ngôi nhà ở đó đều ẩn núp trong rừng cây, giống như tiểu thư khuê các “sống tại thâm khuê người chửa biết”, không dễ để người khác nhìn thấy dung nhan. “Ngẫu nhiên ngất nghểu trên đường” đều tỏ vẻ cao nhã quyền quý, lấp lánh và xa hoa. Đường sá sạch sẽ tịnh không chút bụi trần, yên tĩnh đến nghe được cả tiếng chim hót dế kêu. Chỉ mấy ngôi nhà mà chiếm cả quả đồi, trông xa lại giống như thành luỹ và trang trại thời Trung cổ.
Khu phố người giầu Maryd sát bờ tây lại mang một quang cảnh khác. Những toà nhà ở đây phần lớn dựa vào núi hướng mặt ra biển, tao nhã đoan trang, tráng lệ, khu vườn nhà nào nhà nấy hoa nở như gấm, cỏ mọc xanh rì, sau lưng là tùng biếc cỏ xanh, trước mặt bể xanh sóng bạc đầu...
Hai anh của Dabruce làm luật sư đều ở Maryd, bố mẹ thì ở Santamonica ngay sát cạnh. Sau khi tới Los Angeles, chúng tôi đã từng đi thăm viếng họ. Nhưng họ để lại cho tôi ấn tượng chỉ là khách khí, và không nhiệt tình. Người đứng ra bảo lãnh kinh tế cho chúng tôi là anh hai, một người đàn ông gầy đét đến mức có phần khắc khổ, nhưng ánh mắt lại rất sáng và sắc sảo. Khi tiếp chúng tôi, thần sắc có vẻ không vui. Sau này, tôi mới hiểu, hoá ra gia đình Dabruce thuộc gia đình người da trắng rất chính thống, luôn có thiên kiến về văn hoá phương Đông. Mới đầu, Dabruce bỏ không chịu học thương mại mà kiên trì theo học châm cứu Trung Quốc, họ đã có thành kiến, nay anh lại lấy một người con gái phương Đông làm vợ thì càng cảm thấy thất vọng. Thêm vào đó, trước đây Dabruce đã sang Đài Loan học nửa năm, và đã nhờ bố mẹ bảo lãnh cho một cô gái Đài Loan, sau này trong thời gian học tập cô ta gặp một số phiền phức về kinh tế, có lúc còn gửi hoá đơn thanh toán đến nhà bố mẹ anh và đã làm cho bố mẹ anh không vui...
Cho nên, sau khi tôi đến Los Angeles, cũng chỉ nói là chúng tôi kết hôn du lịch, muốn mời mọi người đến dự một bữa cơm thân mật, rồi sau đó rất ít qua lại. Chúng tôi cũng chưa từng ở nhà bố mẹ của anh, vừa xuống máy bay là thuê một nhà trọ xe thùng, sau đó lại thuê một căn hộ hai phòng.
Buổi tối hôm chúng tôi chuyển tới khu chung cư, tôi và Dabruce đã bàn bạc rất kỹ.
Đầu tiên, anh nói với tôi, anh đã thông qua người anh trai làm luật sư về vấn đề di dân và biết rằng, kể từ hôm tôi đến Mỹ, đại khái trong vòng hai ba tháng thì có thể lấy được thẻ xanh hôn nhân do cục Di dân gửi cho. Nhưng tấm thẻ xanh này trong vòng hai năm vẫn mang tính chất tạm thời, nhân viên cục Di dân có thể gõ cửa kiểm tra tính chân thực của hôn nhân bất cứ lúc nào. Nếu phát hiện ra bất cứ hành động giả dối nào, tấm thẻ xanh đó lập tức bị tiêu huỷ, đương sự còn bị truy cứu tránh nhiệm pháp luật, hoặc sẽ bị trục xuất. Sau hai năm, cục Di dân sẽ bố trí một cuộc phỏng vấn, nếu không nghi ngờ gì thì mới chính thức cấp thẻ xanh. Một năm sau khi có được tấm thẻ xanh thì mới có thể xin nhập quốc tịch Mỹ...
- ... Cho nên, trong hai năm này chúng ta đồng thời là vợ chồng, vừa là bạn cùng phòng. Em cần phải diễn cho tốt vai trò của người vợ, đừng lộ một chút sơ hở gì trước mặt nhân viên kiểm tra của cục Di dân. Như vậy, hai năm sau em mới có thể thuận lợi lấy được thẻ xanh. Bấy giờ, em có thể chính thức tự do.
Dabruce rất kiên trì sử dụng tiếng Trung, chỉ trong tình hình không thể biểu đạt được rõ ràng, anh mới chêm vào những từ đơn và câu ngắn bằng tiếng Anh; còn tôi thì ngược lại, chủ yếu thử dùng tiếng Anh. Gặp khi có việc không thể nói rõ ràng được, bèn viết ngay ra giấy, sau đó tra lại từ điển tiếng Anh hoặc từ điển Hán – Anh.
- Thế –– nói như thế, anh vẫn còn bị em trói trong hai năm nữa, có ảnh hưởng đến anh không? Cái này...
Tôi thấp thỏm nhấp nhổm nói.
Tôi còn nhớ lúc đó mình ngồi trên chiếc sô pha đơn tàng tàng hoa văn xám, còn Dabruce nặng nề vùi trong chiếc sô pha ba chỗ ngồi. Trong suốt thời gian chúng tôi nói chuyện, anh luôn ôm chiếc gối trước ngực và không ngừng rút rút dài sợi tua màu tím trên gối. ánh sáng của ngọn đèn cây chiếu thẳng xuống tay anh, trông rõ cả một đám lông măng lấp láp màu vàng.
- Không sao, em đừng bận tâm. Anh đã quyết định giúp đỡ em, cần phải giúp đến cùng. Hơn nữa, một mình anh thuê phòng, cũng cần phải tìm người thuê chung. Có em làm bạn là vinh dự rất lớn của anh. Đúng rồi, anh phải nói với em, anh đã tìm được việc làm rồi, một người bạn giới thiệu, cũng gần đây, đấy là một phòng mạch châm cứu. Đúng lúc họ đang thiếu người, bảo anh hai ngày sau phải đi làm. Nhưng còn em, em tính sao? Anh nghĩ, em cũng nên đi học bổ túc tiếng Anh đã. Trước cửa không xa có lớp học màu xanh, nửa tiếng một ca. Đợi khi tiếng Anh kha khá rồi hẵng tìm việc, dành dụm được ít tiền rồi đi học... anh rất lấy làm tiếc, mặc dù bố mẹ anh giầu có, hai ông anh cũng có tiền, thế mà anh lại nghèo kiết xác, chẳng giúp gì được em. Tiền thuê khách sạn, tiền đặt cọc và thuê căn hộ này anh đều vay của bố mẹ. Cho nên, anh rất mong em lượng thứ...
Anh nói rồi cố vươn người đứng dậy, đi qua phòng ngủ vào nhà vệ sinh.
Tôi cũng đứng dậy, đi đi lại lại trong gian phòng khách, vung duỗi chân tay.
Những lời anh vừa nói cũng đã gắn liền với những lo lắng và bất an sâu kín trong lòng tôi.
Tục ngữ có câu: thiên hạ chẳng ai mời không ai. Điều này, Ngô Nguyên cũng đã một lần nhắc nhở tôi (tôi quên mất thú thật, khi rời Thượng Hải, anh đã từng đến sân bay đưa tiễn tôi, va li cũng như một số quần áo và vật phẩm hàng ngày của tôi đều do anh và em gái anh mua tặng). Tôi muốn tin rằng, cũng cảm thấy rằng, đích xác Dabruce là một người rất tốt, ở một chừng mực nào đó, thậm chí còn có thể nói là “Lôi Phong sống” có phẩm chất cao thượng trong xã hội Mỹ hiện đại. Nhưng trong thẳm sâu tâm linh tôi không tránh khỏi những lo nghĩ vấn vương –– anh thật sự không hề có động cơ và mục đích cá nhân ngấm ngầm nào? Cô tôi cũng đã phân tích, nếu như thật sự anh ta có mưu đồ nào khác, chẳng qua là hai con đường “tài sắc”, về phương diện “sắc”, anh ta đã biết tôi là “thạch nữ”, đương nhiên sẽ không có ý nghĩ nào khác. Còn về “tài”? Vừa rồi anh ta đã nhắc đến mình nghèo rớt mùng tơi, tiền thuê phòng cũng phải vay của bố mẹ, chẳng phải là ngầm bảo với tôi rằng, tôi cần phải bồi thường thích đáng cho anh ta về mặt kinh tế sao?
Dabruce cũng đã từ phòng trong đi ra, lại đè cót ca cót két lên chiếc sô pha.
Tôi nắm chủ định, mạnh dạn nói với anh:
- ... Thế này, Dabruce, anh đã giúp tất cả những việc này, thực sự em rất cảm động, em không biết lấy gì để báo đáp anh. Em cũng đã nghĩ, vì giúp em, anh đã phải trả giá rất nhiều. Ví như, trong hai năm này, vì em, anh có muốn tìm bạn gái cũng bất tiện. Cho nên, em nghĩ, cho dù là thế nào, em cũng sẽ bù đắp cho anh về mặt kinh tế. Chỉ có điều em vừa mới tới, cũng chưa hiểu chuyện ở đây. Cho nên, anh tính xem, nên chăng anh cho em biết một con số, sau này em đi làm thuê và sẽ trả anh dần dần...
- Em nói cái gì thế? Anh vẫn chưa hiểu ý em.
Dabruce khó khăn ngồi thẳng trên sô pha.
Tôi lại cố thử giải thích lại một lần nữa.
Thần sắc Dabruce lúc đầu có chút ngại ngùng, kế đó như có vẻ phẫn nộ, đôi mắt xanh mở rất to, hàng ria không ngừng giật giật:
- Sao em có thể nói vậy được chứ? Nếu như anh cần tiền của em, em chẳng phải... em, em sao có thể như vậy....?!
Từ khi tôi quen biết với anh, đây là lần đầu tiên tôi thấy Dabruce tức giận, lần đầu tiên tôi thấy anh nổi nóng, lần đầu tiên tôi thấy anh ta dùng khẩu khí hoàn toàn lạ lẫm để nói chuyện với tôi. Ngay lúc đó, tôi chẳng biết phải làm thế nào.
- Xin lỗi, thật sự, ý em không phải như thế, em chỉ nghĩ, anh giúp đỡ em đã quá nhiều, em cần... thể hiện ý nghĩ cảm ơn. Nhưng em chẳng thể ngờ được, điều này lại... xin anh lượng thứ, thật mà, không phải em có ý...
Tôi nói như sắp oà khóc.
Tâm trạng của Dabruce mới dần dần nguôi ngoai. Anh nhìn tôi rồi bỗng nhiên nằm vật ra sô pha, hai tay ôm mặt, nhắm mắt dưỡng thần một lát. Nhưng sau khoảnh khắc ấy, anh lại ngồi dậy, nói với tôi giống như một đứa trẻ mắc lỗi:
- ... Xin lỗi, anh hiểu nhầm em. Anh cũng không nên cộc cằn với một phụ nữ... xin em lượng thứ. Nhưng, anh thật sự hy vọng em có thể hiểu, anh chỉ muốn giúp đỡ em. Nếu như em nói đến chuyện tiền nong thì việc này quả là sai lầm. Văn hoá ở xứ anh là phản đối nói dối và giở trò xảo trá –– đương nhiên, trong xã hội ấy có thể thuê luật sư chuyên môn nói dối và giở trò xảo trá, nhưng anh xem nó là một phẩm chất không tốt. Anh và em kết hôn tuy ở một ý nghĩa nào đó là giả, là việc không tốt, nhưng anh vẫn kiên trì làm, bởi vì anh cảm thấy em thật sự cần được giúp đỡ, Chúa sẽ tha thứ và hiểu cho anh. Nhưng nếu như em muốn trả anh tiền, tính chất sự việc này sẽ hoàn toàn thay đổi... cho nên, anh cũng hy vọng em có thể hiểu...
Tôi nghe những lời anh bộc bạch, trong lòng rất cảm động và cũng vui mừng vì mình đã gặp được một chính nhân quân tử phong độ chỉ thấy trong những cuốn tiểu thuyết phương Tây trước đây. Tôi dụi dụi mắt, nhìn anh cười cười:
- ... Em hiểu rồi, từ nay về sau sẽ không nhắc đến chuyện ngu xuẩn ấy nữa...
Dabruce cũng cười, vẻ áy náy nói:
- Khi anh cục cằn có chỗ không phải, hy vọng không làm cho em hoảng sợ.
Chúng tôi lại hoà hảo như ban đầu, tiếp theo do Dabruce chủ đạo, tiến hành thương thảo tiếp về “gia chính”. Để ứng phó với sự kiểm tra và hỏi han đột xuất của nhân viên cục Di dân, anh cũng đã kể cho tôi mấy nốt ruồi trên đùi, bụng dưới, cũng như vết sẹo ở bả vai anh. Lại còn dặn tôi biết kích cỡ, số hiệu của quần lót, áo lót của anh, cũng như mùi nước hoa, keo xịt tóc, dầu gội đầu thuộc hãng nào...
Còn về những chi phí liên quan như tiền phòng, điện nước, khí đốt, điện thoại trong thời gian chúng tôi ở chung, thì theo nguyên tắc chia đôi. Tiền ăn chủ yếu xét đến những thói quen ăn uống rất khác nhau –– Dabruce tự nhiên là một loại “thùng rác thực vật”, anh ưa thích các loại như hamburger, còn tôi vẫn là dạ dày của người Trung Quốc, quen những món canh nước và các loại rau xào; ngoài ra, trừ bữa sáng Dabruce húp một chút súp sữa, hai bữa còn lại cơ bản ăn ở ngoài. Cho nên, về nguyên tắc của ai người ấy lo (đương nhiên, tôi cũng đã nghĩ kỹ, vào những buổi cuối tuần Dabruce được nghỉ, tôi sẽ bày biện mấy món đặc sắc như “sườn xào chua ngọt”, “tôm muối tiêu” mà tôi đã học được ở mẹ Doãn Hoa khi còn ở nhà cô ấy để chiêu đãi anh. Chí ít anh cũng không ngớt lời tán thưởng hai món ăn Trung Quốc này).
Thời gian sau, Dabruce lại nói, hy vọng mỗi ngày tôi sẽ bỏ ra một hai giờ đồng hồ để dạy tiếng Trung cho anh, nói rằng lúc đầu sẽ trả mười đô la cho mỗi tiếng, ba tháng sau sẽ tăng lên mười lăm đô la...
Vừa nghe, tôi đã lắc đầu lia lịa:
- Không được, tuyệt đối không được. Dạy anh tiếng Trung còn là trách nhiệm của em, không có lý do gì để thu tiền cả...
Nhưng anh lại rất bướng bỉnh kiên trì một nguyên tắc của mình –– bất kể một ai cũng không được chiếm hữu thời gian của người khác mà không có sự bù đắp. Bởi vì thời gian là tiền bạc, không bồi thường thời gian chiếm hữu đó chẳng khác gì kẻ cướp.
Tranh luận mãi, rồi tôi cũng đưa ra nguyên tắc của mình –– bảo tôi lấy tiền, tuyệt đối tôi không làm, thực sự không làm, đổi lại, anh có thể dạy tôi một hai giờ tiếng Anh. Như vậy, xem như miễn cưỡng đạt được hiệp nghị.
Cuối cùng, cần phải đi ngủ, nhưng tôi nhìn vào gian nhà trong, đánh trống ngực –– ngủ thế nào đây? Lẽ nào chúng tôi cần phải ngủ chung một gian, một giường?
Khi mới thuê nhà nghỉ xe thùng, Dabruce đã hỏi ?ý kiến tôi. Bấy giờ, tôi đã thành thực mà nói:
- Em vẫn chưa quen. Nếu như có thể, em hy vọng chúng mình ngủ riêng ra.
Còn bây giờ, chúng tôi đã có căn hộ của mình, có phòng ngủ của mình, trong phòng ngủ lại còn một chiếc giường nệm kiểu bậc vua chúa (cũng là việc sắp đặt bất đắc dĩ để che mắt việc kiểm tra của cục Di dân)... Nhưng, quả là tôi vẫn chưa chuẩn bị tâm lý cùng chăn gối với anh.
Tôi chủ động đề xuất:
- Anh ngủ trong giường nhé, em nhỏ, nằm ở sô pha ngoài này là được rồi.
Anh vẫn ngồi đó, ánh mắt trầm tư điều gì đó, nghe tôi nói vậy, hơi sững sờ nhưng anh phản ứng rất nhanh, nói:
- Không, thế không được. Nếu thế này, anh sẽ ngủ ngoài này. Anh là đàn ông, tiện hơn...
Anh nói rồi đứng dậy, sắp bước vào nhà trong lấy chăn.
- Thế, không được. Hay là em...
Tôi cũng nhổm dậy, hòng chặn lại. Nhưng cánh tay to lớn như cái xà gồ của anh đã chắn ngang mặt tôi:
- Không được tranh, ở xứ anh lúc nào cũng phải ưu tiên phụ nữ...
Nhưng nghe khẩu khí của anh có chút gì đó không vui.
Cho nên, buổi tối đó, sau khi uể oải nằm vật trên chiếc giường rộng êm ái, tôi cứ trăn trở mãi không sao ngủ được. Nghĩ đến con người đã vô tư giúp đỡ tôi còn nằm trên sô pha ở gian ngoài, lòng tôi day dứt và cũng nghi ngờ cách ứng xử của mình phải chăng là quá đáng. Lòng tin, lòng tin giữa con người với con người là quan trọng nhất. Nói thẳng ra, tôi còn có gì không yên tâm về Dabruce? Anh đã tính ngủ chung giường với tôi, động cơ phần nhiều cũng là vì... nghĩ đi nghĩ lại, nếu như thật sự có nhân viên cục Di dân đến kiểm tra giữa đêm, há chẳng phải thêm rắc rối, rách chuyện sao? Hơn nữa, căn hộ của chúng tôi chỉ có một nhà vệ sinh, nó nằm phía bên trong phòng ngủ. Cho nên, buổi tối nếu Dabruce cần phải đi vệ sinh, ắt sẽ vòng qua đầu giường của tôi... nói như vậy, tôi không còn có không gian riêng của mình...
Đã vậy thì anh ngủ trên sô pha hay ngủ ở giường, với tôi mà nói thì có gì khác nhau?
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:23 PM.