Nữ Thần Mê Cung
Joe Alex
Dịch giả: Trạng Khang - Quốc
Lời mở đầu
Nguyên tác: Từ nguyên bản tiếng Ba Lan: Zmącony spokój Pani Labiryntu
Warsaw 1965
"... Ở nơi đó vô sinh vô tử Chẳng kẻ nào dám thử liều mình Đụng vào mảnh đất thần linh Trồng cây, bới của cho mình giàu sang Chỉ vì dạ những tham lam Hay vì kẻ đó lòng đang hiếu kỳ Dù kẻ đó muốn gì cũng kệ Keros này đâu để kẻ trần, Đụng vào những phiến đá thần Sẽ gây náo động Nữ Thần Mê Cung. Kẻ đó sẽ khốn cùng tuyệt vọng Chết chìm trong lòng của biển khơi Và tên tuổi hắn trên đời Biến đi mà chẳng một người nào hay."
NHỮNG DÒNG CHỮ ĐỌC ĐƯỢC TRÊN MẢNH GIẤY TÌM THẤY TRONG NGÔI MỘ CỔ [/B]
Chương I "CHUYỆN NÀY THẬT ĐÁNG KINH NGẠC, JOE Ạ"
Tiếng gõ êm và đều đều của chiếc máy chữ nhỏ, dẹt, nhãn hiệu Olivetti bỗng nhiên ngừng lại và phải sau một lúc Alex mới hiểu ra rằng mảy chữ đã ngừng làm việc. Anh nhìn xuống nó sau khi rời mắt khỏi tấm ảnh đã bạc màu cha mình treo trên tường. Giờ đây anh mới nhận thấy những ngón tay mệt mỏi của mình đã trượt khỏi phím máy chữ và chuyển động chậm chạp trên mặt bàn, dường như nó vẫn còn đang đánh những dòng chữ mà nội dung và ý nghĩa chính anh cũng không thể hiểu nổi. Anh rất mệt, mệt đến nỗi không thể tưởng được. Anh giơ hai bàn tay lên và ngắm nghía chúng một cách lơ đãng. Anh lại từ từ hạ tay xuống, ngồi thẳng người trên ghế, nhắm mắt lại rồi đột ngột mở ra để chống cơn buồn ngủ đang kéo đến. Anh nhìn trang giãy đã đánh gần hết, đọc lướt qua và bình thản vặn nó ra khỏi trục máy chữ, vo tròn một cách cẩn thận rồi ném vào sọt giấy ở cách bàn hai bước chân. Như thường lệ anh đã ném trúng, điều đó gây cho anh một cảm giác thích thủ nhỏ nhoi, ngắn ngủi. Anh đứng dậy vươn vai.
Đêm nay anh đã đánh trọn bốn mươi trang. Mặc dầu có ít hơn mười trang so với dự định, nhưng vào lúc này anh biết rằng mình không thể làm thêm được nữa bởi vì tâm trí đã quá mỏi mệt. Chúng thật vô tích sự: Việc viết cuốn tiểu thuyết này sẽ lại kéo dài thêm một tuần nữa đây. Anh đứng dậy giống như người thủ lĩnh già đưa mắt giám sát toàn bộ quang cảnh chiến trường, lần lượt từ chiếc mặt bàn phẳng nhẵn đến những chồng sách, máy chữ và những chiếc bút chì còn cắm trong chiếc cốc. Một lần nữa anh nhắm mắt lại và với sự bực tức ngấm ngầm, anh quay lưng lại với tập giấy đánh máy và giấy than, chậm chạp bước đến cửa sổ vén rèm. Nắng xuân sớm đã tràn ngập đường phố, trên các mái nhà. Alex mở rộng cửa sổ, cặp mắt còn ngái ngủ ngắm nhìn đám khói thuốc lá đang bay lên cao và lan tỏa ra bầu không khí trong lành buổi sớm. - Lạy Chúa - anh nói khẽ - đến bao giờ thì mọi chuyện mới kết thúc? Hỏi vậy thôi chứ Joe biết rõ hơn ai hết rằng sau quyển sách này, anh sẽ viết tiếp quyển khác rồi lại quyển khác nữa. Tuy nhiên câu hỏi đó không chỉ về những quyển sách. Caroline vẫn biệt tăm, anh không biết bao giờ sẽ gặp lại cô. Trong cuộc sống của họ, những lúc như thế này không xảy ra thường xuyên, nhưng một khi Caroline thực sự muốn tách riêng khỏi mọi người thì không ai tìm thấy được cô. Một con sẻ nhỏ lông xám đậu trên dàn ăng-ten vô tuyến ở mái nhá phía đối diện, đầu ngó nghiêng vẫy vẫy cái đuôi,hót líu ríu vô tư, toàn thân nhuộm vàng ánh nắng, rồi nó bay vút đi vào hẻm phố còn tối. Joe nhìn theo theo con chim. Suốt cả đêm qua anh cố không nghĩ về Caroline, nhưng bây giờ khi đã quá mệt mỏi anh đành chịu thua. Dù không tự thú nhận với mình nhưng anh rất nhớ cô. Đã hai tuần nay Caroline giam mình trong căn hộ nhỏ ở tít phần bên kia thành phố. Khi hỏi qua điện thoại, bà Downby – người chủ cho thuê nhà – lúc nào cũng chỉ trả lời rằng cô Beacon còn đang bận không thể đến nghe máy được. Theo cách hiểu của mình, Joe tin chắc rằng Caroline yêu anh, nhưng anh cũng biết rằng niềm say mê lớn nhất và thực sự của cô gái bất thường này là những phiến gạch nhỏ viết đầy những dòng chữ dạng vạch của người Crêt cổ xưa. Caroline là nhà khảo cổ học trẻ tuổi, có năng lực, người mà các giáo sư danh tiếng tiên đoán rằng sẽ có triển vọng lớn. Những triển vọng riêng của cô thì liên quan gì với những bí ẩn xung quanh vương quốc trên biển cả của người Crêt, cái vươn quốc đã có thời ngự trị trên hầu hết các hòn đảo của vùng biển Ê-giê kéo dài đến tận Tiểu Á? Có phải cô thực sự muốn giải mã loại chữ mà chưa ai đọc được và muốn tìm hiểu lịch sử của một dân tộc đã tạo ra một nền văn minh rực rỡ, đã để lại những lâu đài, những bình gốm quý giá, những tranh vẽ và hàng nghìn đồ vật các loại, đồng thời quanh dân tộc đó cũng bị che phủ một tấm màn bí mật hoàn toàn mà người ta chỉ có thể đưa ra những giả thuyết về nguồn gốc, quá trình lịch sử và sự sụp đổ của nó. Suốt hai tuần gần đây anh chỉ nghe thấy tiếng cô có một lần khi cô gọi điện thoại vào buổi tối cách đây vài ngày. - Chào Joe! Nó bị hỏng một ít và em đã phải vất vả khá nhiều với nó, nhưng có lẽ mọi chuyện sẽ kết thúc tốt đẹp. Thật đáng kinh ngạc, nếu như em không bị lầm. Mà có lẽ em không lầm đâu. - Ai đáng kinh ngạc? - Mảnh giấy có chữ của em. Em sẽ gọi lại khi nào em làm xong và anh sẽ được biết hết mọi chuyện. Nhiều lúc em có cảm giác là việc này không phải dành cho em, mà là cho anh. Có nhiều điều hoàn toàn không thể hiểu nổi. - Liệu em có thể nói rõ hơn được không? - Chưa được đâu. Câu chuyện thật đáng kinh ngạc, Joe ạ! Vài ngày nữa em sẽ nói cho anh tất cả. Chúc ngủ ngon, tác giả yêu quý nhất của em. Tối hôm qua em phấn khởi quá đến nỗi phải đọc thử một quyển sách của anh để cho nó dịu đi. Em không thể nói quyển nào bởi vì em đã ngủ thiếp đi ngay. Em hy vọng rằng các độc giả của anh thường đọc một mạch tới sáng. Thôi, chúc anh ngủ ngon. Cô cười vang và cúp máy trước khi Joe định nói lại. Từ lúc ấy đến giờ đã gần một tuần rồi. Alex nhớ cô và để giết thời gian trôi đi quá chậm chạp, trong tuần vừa rồi anh đã viết được nửa cuốn tiểu thuyết trinh thám. Nhà xuất bản giục anh làm nhanh vì mùa hè sắp đến rồi, người ta nghỉ hè và nghỉ phép, thời kỳ vợ mua cho chồng, chồng mua cho vợ, bố mẹ mua cho con cái và con cái mua cho bố mẹ truyện trinh thám để đọc khi đi tầu. Vì vậy, anh viết và hầu như không ra khỏi nhà. Tiếng gõ cửa khẽ đến nỗi Joe không nghe thấy, anh tựa người trên bậu cửa sổ, tiếng ồn ào của thành phố mới thức giấc đang lọt vào. Cánh cửa mở ra không có tiếng động. Trên ngưỡng cửa là Higgins đứng im bất động, điềm đạm, mày râu nhẵn nhụi và nghiêm trang như một viên thủ đền. Ngay cả cái cách cúi đầu chào ông chủ của mình cũng mang dáng dấp của người giáo sĩ. - Chào ông chủ. Thưa ông, ông có nhận thấy là trời hôm nay rất đẹp không ạ? Joe quay ngoắt người lại. Mãi tới lúc này anh mới hiểu rằng hình như anh đã ngủ mà không nhắm mắt. - Chào Higgins. Phải, hôm nay trời tuyệt đẹp. - Bây giờ là đúng bảy giờ, thưa ông. Bữa ăn sáng đã chuẩn bị xong ở phòng ăn. Hôm nay có trứng, giăm bông, cà phê, rượu vang hâm nóng, đúng những món mà ông đã yêu cầu - Ừ, thật là tuyệt – Joe lẩm bẩm một cách không thích thú lắm. Anh không cảm thấy đói, chỉ thấy mệt mỏi. Xoay lưng lại cửa sổ, anh đón nhận những tia nắng ấm áp và gây buồn ngủ đang chiếu trên cổ mình. - Mùa hè đang tới. Có lẽ chúng ta phải đi khỏi Luân Đôn thôi, phải không Higgins? - Tất nhiên rồi, thưa ông. Rượu vang đang nóng và tuy tôi đã đậy lại nhưng… - Ngay sau khi tôi giải quyết xong một số công việc, chúng ta sẽ cùng cho nhau nghỉ hè vài tuần, như thế có lợi cho cả hai ta. - Cám ơn ông – Higgins không bao giờ mỉm cười đáp lễ khiến Joe nhiều lúc có cảm tưởng rằng sự nghiêm túc này xuất phát không phải do sự kính trọng quá mức mà do không dám thân mật mới ông chủ và tự tạo cho mình một hàng rào cách biệt – Thưa ông, tôi vừa đặt tiền trước cho chuyến du lịch nước ngoài, thời gian cụ thể tôi xin báo với ông sau. Nếu ông cho phép, tôi xin được nhắc ông về món rượu vang hâm nóng. - Du lịch nước ngoài à? Đến nước nào vậy? - Đến Hy Lạp, thưa ông. Đây là chuyến du lịch rất tuyệt và không đắt lắm do hãng Cook tổ chức. - Thế tại sao lại đến Hy Lạp? Higgins hắng giọng: - Cô Beacon, khi tới chơi ở đây lần trước đã phải đợi mất gần một tiếng đồng hồ vì lúc đó ông ra ngoại ô và ô tô lại bị hỏng. Có lẽ ông còn nhớ chứ? - Đúng. Tôi rất buồn vì điều này. - Vâng, chính thế, thưa ông. Cô Beacon đã kể cho tôi nghe chút ít về công việc của cô ấy. Cô nói về Hy Lạp, thưa ông, và cô nói hay đến nỗi tôi quyết định chính mình phải được ghé thăm đất nước này nếu như có dịp. Điều đó có nghĩa là nếu như tôi có được thời gian rỗi, thưa ông. - Hừm… Joe mỉm cười – Tôi thấy là tôi đang bị bao vây bởi những người yêu chuyện cổ. Tôi không dám tin cô Beacon lắm về những câu chuyện cổ vì cô ấy là nhà khoa học, như mọi người đều biết là các nhà khoa học thực sự chỉ coi chuyên môn của mình mới đáng chú ý. Nhưng dù sao Hy Lạp cũng là đất nước rất xinh đẹp và nếu như thời tiết tốt mà mùa này thì ở đó thời tiết thường tốt, chúng ta sẽ gặp lại nhau sau vài tuần nghỉ ngơi, cơ thể tràn đầy sinh lực mới để chống lại cái mùa thu nước Anh đẹp đẽ nhưng đáng nguyền rủa ấy. - Vâng, thưa ông. Báo đã để sẵn trên bàn trong phòng ăn. Còn về món rượu vang hâm nóng thì… - Cám ơn. Tôi sẽ đến đó ngay. Alex bước lại bàn, thu dọn đám giấy đã đánh máy xong và xếp nhanh theo thứ tự số trang. Đây cũng là thói quen: sắp xếp lại thật gọn gàng những đồ để sau đấy anh có thể ngồi viết tiếp mà không cần phải bày xếp lại chỗ làm việc. - Còn một việc nữa, thưa ông… Joe ngoái nhìn lại. Higgins vẫn đứng ở lối cửa ra vào. - Sao? Gì nữa? Rượu vang hâm không cần phải nóng lắm đâu. Tôi đi ngay đây. - Tôi muốn nói thêm là trước đây nửa giờ cô Beacon đã gọi điện thoại và… Joe vụt đứng thẳng người. - Thế là thế nào? Tại sao mãi đến bây giờ tôi mới được biết? - Bởi vì cô Beacon đã cấm tôi không được quấy rầy khi ông làm việc. Cô ấy đã bảo tôi chỉ bảo cho ông việc gọi điện thoại khi nào ông làm xong việc và… - Làm xong việc, trời ơi! - Alex phẩy tay – Thế cô Beacon còn nói gì nữa? - Cô nói rằng, ông hãy gọi điện thoại khi nào ông có thời gian rỗi và… Higgin chưa kịp nói hết thì Joe đã vọt qua không kịp nghe, chạy dọc theo hành lang về phía buồng khách nơi có máy điện thoại đặt trên cái tủ gỗ cũ kỹ và nặng nề. Anh quay nhanh đĩa số bằng ngón tay trỏ còn bị bẩn đen vì thay ruy băng máy chữ tối hôm trước. Anh đợi một lúc chờ nghe tiếng tín hiệu điện thoại, sốt ruột gõ gõ ngón tay vào mặt bàn sần sùi. - Tôi Caroline Beacon đang nghe đây… Tiếng cô gái trong trẻo và tươi mát. Alex thầm ghen với cô vì đêm qua trong khi cô ngủ ngon trên chiếc giường ấm áp thì anh còn đang cặm cụi miêu tả một trong số những án mạng đầy bí ẩn và khó phát hiện. - Anh đây, cô nương bé bỏng và thông minh ơi. Higgins nói là em đã hỏi anh. Anh không thể tin được nên phải gọi ngay cho em. - Vâng, em đã gọi đấy. Em làm xong rồi. Bây giờ thì em tự do như một con chim. Anh đã ăn sáng chưa? - Chưa. Higgins đã không thận trọng và báo tin quá sớm về cú điện thoại của em. Trong ống nghe vang lên tiếng cười trong trẻo, hiền hòa, hệt như tiếng trẻ nhỏ. - Vậy thì, nếu như Higgins đồng ý và nếu như anh thích, chúng ta có thể cùng ăn sáng chứ? - Tuyệt vời. Thế còn mảnh giấy của em? - Em đã giải mã xong nửa giờ trước đây. Sau đó em đứng dậy gọi điện ngay cho anh. - Em làm việc suốt đêm à? - Em đã không rời khỏi bàn làm việc trong suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Bây giờ mọi việc đã xong. Chuyện này hết sức kinh ngạc, Joe ạ! - Mình cũng đoán được như vậy – Alex lẩm bẩm, trong óc anh sự yêu thích môn khảo cổ học tỷ lệ nghịch với nỗi nhớ cô Beacon – Này, thế ai mời ai tới ăn sáng đấy, em mời anh hay anh mời em? - Em mời anh. Anh có thể có mặt ở đây sau nửa giờ được không? Em vừa mới tắm xong, đã thay quần áo và trông giống như một thiếu phụ. Em đang đói sắp chết đây. - Anh sẽ tới sau nửa phút nữa! Đặt vội ống nghe lên máy, anh chạy ngay về phía buồng tắm, vừa chạy vừa xoa tay lên cái cằm chưa cạo râu. - Tôi đến cô Beacon đây! - Anh gọi qua cánh cửa khép vội – Tôi sẽ ăn sáng ở chỗ cô ấy! - Vâng, thưa ông…
Alex cảm thấy sau câu trả lời này anh nghe thấy tiếng thở dài. Higgins là bậc thầy có một không hai về nghệ thuật làm món trứng rán và rượu vang hâm nóng. Và đây là bữa ăn sáng thứ bao nhiêu không được đụng tới trong vòng hai năm từ khi họ biết nhau.
Khi anh bấm chuông, Carroline mở cửa ngay tức khắc. Cách đây không lâu cô đã cắt bỏ cái “đuôi ngựa” trên đầu, hôm nay cô mặc chiếc quần chẽn mầu đen, áo sơ mi trắng. Cô giống như một cậu bé mảnh dẻ và rám nắng. - Chào cậu bé – Joe vuốt bàn tay trên mái tóc cắt ngắn của cô rồi vòng tay ôm lấy cô nhìn một cách chăm chú. Đôi mắt của Carroline vẫn sáng và ánh lên dường như cô mới dậy sau một đêm ngon giấc. - Trông em cứ như là chẳng mất ngủ tí nào cả - Anh hôn cô và mỉm cười – Lạy chúa, Đức Chúa duy nhất của con ơi, cái gì sẽ xẩy ra với khoa học nếu tất cả các nhà nghiên cứu đều giống như em. - Em không hiểu anh nghĩ gì – cô nói một cách nghiêm nghị, nhưng sau một giây lại mỉm cười – Joe, em van anh, hãy ngừng tán dóc một lúc để nghe em nào! Anh phải nghe, tuyệt đối phải nghe toàn bộ câu chuyện. Em không thể nghĩ về cái gì khác được… -Cô gỡ khỏi vòng tay anh đứng ở giữa phòng, hai tay chống vào eo lưng mảnh dẻ, giống con trai của mình – Anh có thể tin em hay không thì tùy, nhưng nếu như những gì em nghĩ về những dòng chữ trên mảnh giấy là sự thật thì cô Caroline Beacon sẽ viết thêm một vài dòng có ý nghĩa vào lịch sử của nền văn minh chúng ta. Alex gật đầu vẻ hiểu biết. - Sếch xpia đã viết rằng nên nói tốt về mình bởi vì những người khác chẳng bao giờ làm điều này được bằng ta. Tuy nhiên từ trước đến nay anh vẫn nghĩ em là người khiêm tốn và ….. - Bởi vì em khiêm tốn! - Carroline nói dài giọng. - Em rất khiêm tốn và rất đói. Cô Beacon xin mời vào phòng ăn Cô khẽ nghiêng người vòng tay một cách duyên dáng, ngón tay gần như chạm sàn nhà giống như nhà quí tộc đang ngả mũ chào. Sau đó cô biến ngay vào bếp. Alex đứng im lặng một lúc, mỉm cười nhìn theo cánh cửa bếp vừa khép lại sau cô. Anh chậm rãi bước vào phòng ăn, ngồi xuống bàn đã dọn sẵn và nhắm mắt lại. Ở đây ấm áp và yên lặng. Đâu đấy có tiếng radio. Cánh cửa cọt kẹt mở, Carroline hai tay bê chiếc khay trên có hai ly cà phê đang bốc khói. - Em pha cà phê rất đặc, rất đặc đấy – cô nói và đặt khay lên bàn – mặc dù em biết rằng anh thích nước chè hơn. Nhưng mà em muốn để anh nghe kỹ hơn, và không nhất thiết phải là Joe Alex mới đoán được rằng ai làm việc cả đêm sẽ ngủ quên ngay lặp tức nếu để cho người đó một mình trong một phút. Sau khi nghe xong câu chuyện em kể, anh sẽ tự nhận thấy câu chuyện quả thật là kinh ngạc. Joe gật đầu và cố nén cái ngáp và nhắm mắt lại. Sau đó anh cố mở mắt ra và mỉm cười. Đây nhất định sẽ là một trong những buổi sáng thú vị nhất đời anh. - Anh cứ cười đi, hãy cười không thương xót con người yếu ớt này đi, người mà tí nữa sẽ chăm cho anh ăn hết lòng. Nội dung mảnh giấy của em có thể sẽ thú vị gấp trăm lần so với nội dung của năm nhà xác chất đầy tận nóc những thây ma hạng bét của anh. Đấy là em chưa kể tới những kẻ kế thừa đần độn và sốt ruột mà sau này anh phải khám phá một cách vất vả như báo chí đã viết, mặc dù cái việc này chẳng đòi hỏi tý sức lực nào bởi vì thông thường người nọ giết người kia vì những lý do đơn giản thì chỉ cần nghĩ một lúc là….. - Anh hiểu – Joe gật đầu – Em muốn nói rằng anh là thằng ngốc và anh được nổi tiếng một chút trong các độc giả người Anh chẳng qua là vì kẻ sát nhân mà anh giúp thám tử Parker bắt được còn ngu hơn cả anh có phải không. - Không phải như vậy! Em chỉ muốn giải thích là nhà khảo cổ giỏi phải là nhà thám tử giỏi! Tất nhiên nhà khảo cổ giỏi không chỉ là thám tử mà còn là… - Là đầu bếp – Joe gật đầu tán thưởng – Anh nhìn thấy cà phê rồi. Thế anh được thêm gì nữa để nghe những điều hay ho mà cô Beacon sẽ nói về cô Beacon? - Tất cả những gì anh muốn, sau một giây nữa, nhưng hãy để em nói nốt đã. - Anh đang nghe đây – Alex đứng dậy, bước lại gần cô, nhấc bổng cô lên và đung đưa nhẹ nhàng trên không dường như cô chỉ là con búp bê lớn. Anh hôn cô rồi đặt cô xuống – Có lẽ có gì thú vị thật đây. Anh chưa bao giờ thấy em trong trạng thái này. - Bởi vì chưa bao giờ… À thôi, anh hãy đợi đã. Trước hết là ăn sáng. Mẹ em luôn nói rằng người đàn ông đang đói thì như thú dữ ấy, muốn dụ nó chỉ có thể bằng đĩa thức ăn đầy. - Hãy chuyển đến mẹ em lời chào kính trọng nhất của anh. Sau bữa sáng, họ ngồi cạnh nhau trong phòng khách nhỏ sáng sủa, cũng đồng thời là phòng ngủ và phòng làm việc của Caroline. Cô nhấc tấm vải trắng đang phủ lên một vật nằm trên cái bàn giấy xinh xắn của cô. Thoạt đầu Alex ngỡ đó là bức tranh dài, khổ nhỏ, nhưng khi Caroline nghiêng nó về phía anh và đưa sát vào mắt thì anh nhận thấy đó là một mảnh giấy màu nâu đã nát, được đặt giữa hai lớp kính, chung quanh dán băng dính như một cái khung vậy. - Hãy nhìn kỹ vật này, Joe. Chỉ xin anh thật cẩn thận. Alex im lặng xem xét mảnh giấy. Trên mảnh giấy là nhưng hàng chữ Hy lạp đều đặn, đẹp và đã mờ, đôi chỗ hoàn toàn không đọc được. Phía dưới có một hình vẽ. Đó là hình một phụ nữ đứng, mặc váy dài phủ kín bàn chân. Hai tay giang rộng và nắm vật gì trông như những con rắn. Trên đầu là chiêc mũ có con chim xòe hai cánh. Hình vẽ được giữ tốt hơn chỗ có viết chữ, có lẽ nó được cuộn vào phía trong nên mặc dù chôn dưới đất có đến ngàn năm mà vẫn còn trông khá rõ. Joe cúi xuống đọc dòng chữ viết dưới hình vẽ người đàn bà: ATANA POTNIA GIÓ BỒ CÂU MÊ CUNG. Anh ngẩng đầu lên. - Vốn hiểu biết tiếng Hy lạp anh không khá lắm nhưng theo anh đây có lẽ không phải tiếng Hy lạp cổ. Carroline mắt tròn xoe nhìn anh một cách ngạc nhiên. - Joe, thành thật làm sao anh có thể biết được điều này? - Anh không biết. Anh suy luận thôi. Atlanta là tên gọi cũ của Athena[1]. Chắc không sai đâu. Người có kiểu chữ viết đẹp như thế này hẳn là phải biết cách viết cái tên khá phổ biến đó. - Đúng, tuyệt thật! Thế còn những suy luận khác? - Em đừng đòi hỏi quá nhiều ở một người viết truyện trinh thám khiêm tốn. Chữ PTONIA, theo anh nghĩ, nhà thơ Homer đã dùng để nói về nữ thần. Có thể dịch chữ này là NỮ THẦN có được không? – Anh lại ngắm nghía kỹ mảnh giấy – Như vậy dòng chữ dưới hình vẽ có nghĩa là: ATLANTA, NỮ THẦN CỦA GIÓ, CHIM CÂU VÀ MÊ CUNG. Anh ngẩng đầu lên. Một nụ cười rộng lượng xuất hiện trên mặt anh. - Thế mà em phải mất bao nhiêu thời gian cho cái mảnh giấy này – anh nói với giọng hơi đắc thắng – Tất nhiên, Nữ thần Mê cung là vị thần chính của dân Crêt. Carroline cầm mảnh giấy lên tay. Cô ngắm nhìn Alex một lúc mà không mảy may thay đổi nét mặt. Rồi bỗng nhiên cô cười phá lên. - Tại sao chẳng bao giờ anh nói với em về điều này? - Về điều gì cơ? - Rằng anh cũng chú ý tới những công việc này này! - Anh không thích thú những công việc về cái nền văn minh Ê giê như em nghĩ. Dân Crêt đối với anh chả là cái gì. Anh chỉ thấy vô cùng hạnh phúc nếu như em trở thành vợ anh và lo công việc khác như nội trợ chẳng hạn. Còn nếu như em không có ý định làm việc này thì hãy đọc mảnh giấy đi và sau đó anh muốn được có thêm một ly cà phê nữa. - Anh sẽ có thậm chí cả một đồn điền cà phê, Joe, nhưng trước hết phải nghe những điều em nói đây – cô do dự một chút rồi tiếp – Em nghĩ rằng anh sẽ giúp ích cho em – cô giơ tay chỉ vào mảnh giấy – Thực sự mà nói không còn nghi ngờ mảy may gì về tính chính xác của tài liệu này. Anh không phải là chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ, nhưng anh sẽ ngạc nhiên giống như khi em nói với anh về nó. Mảnh giấy này đã có khoảng hai nghìn ba trăm năm trước và được tìm thấy ở Ai cập năm ngoái trong khi khai quật một ngôi làng cổ ven biển của người Hy lạp, trên ranh giới giữa châu thổ sông Nin và sa mạc. Chỗ đó khô ráo nhưng không phải là không bị ẩm. Em cho là phải có phép nhiệm mầu nên mảnh giấy này mới tồn tại được dù chỉ một phần. Họ đã đem nó về nước Anh cùng nhiều thứ khác. Sau đó, hoàn toàn ngẫu nhiên, một nhà cổ ngữ học trẻ tuổi, bạn em từ thời sinh viên, tiến hành đọc nó. Như anh thấy, mảnh giấy này bị nát nhiều chỗ và phải chiếu tia hồng ngoại để đoán được nét bút viết bằng cây sậy trên đó. Nhưng những chi tiết đó để sau đã. Trước tiên, em muốn anh nghe bản dịch ra tiếng Anh của em: có thể nó chưa hay nhưng hoàn toàn trung thực. Hãy nghe đây: “Ở nơi đó vô sinh vô tử Chẳng kẻ nào dám thử liều mình Đụng vào mảnh đất thần linh Trồng cây, bới của cho mình giàu sang Chỉ vì lòng da tham lam Hay vì kẻ đó lòng đang hiếu kỳ Dù kẻ đó muốn gì cũng kệ Keros này đâu để kẻ trần Đụng vào những phiến đá thần Sẽ gây náo động Nữ thần Mê cung Kẻ đó sẽ khốn cùng tuyệt vọng Chết chìm trong lòng của biển khơi Và tên tuổi hắn trên đời Biến đi mà chẳng một người nào hay” Cô ngừng lại một lúc. Joe im lặng gật đầu giục cô đọc tiếp. - Đến đây là hết phần thơ – Caroline nói – Tiếp theo là lời do cùng một người viết: “Những lời cổ xưa này về Đức Bà được chép lại trung thực từ tay ta, thủy thủ Perimos, người cả cuộc đời sống lênh đênh trên biển cả. Ta đã nhìn thấy Keros một lần khi bơi thuyền chở lúa mì và rượu vang tới Bi dăng tin. Ta đã nhìn thấy hòn đảo, nhưng không hướng thuyền về phía đó. Ta đã bơi vòng quanh đảo, cúi chào hòn đảo khi đêm xuống. Ta tự cầm lái khi gia nhân của ta đã ngủ say. Ngôi sao hàng hải đã chiếu trước mặt ta, sau lưng ta, rồi lại trước mặt ta khi ta dâng lễ vật cho thần bằng cách rót rượu vang xuống biển và rắc lúa mì trên sóng. Ta không đánh thức một kẻ nào dậy và không ai trong số chúng nhìn thấy ta làm gì cho đến khi ta lại cho thuyền tiến về phía ngôi sao hàng hải. Ta đã không đánh thức một ai, vì ta không muốn sau này khi chúng lại thấy Keros, chúng sẽ lên đảo quấy rầy sự yên tĩnh của Nữ thần Mê Cung. Trước đó Cụ của ta đã ở đấy, trước đó nữa là cha và ông của Cụ ta, và trước nữa là những người khác trong dòng họ của ta. Cụ của ta đã mất mà không có con trai. Từ đó đảo không có thủ đền, Mẹ của ta, con gái của người đã thuộc và nói cho ta những lời trên về Nữ thần. Ta không có anh em trai cũng như có con trai để nói lại cho họ những lời này. Thời gian của ta đã hết. Ta viết lại những lời này để Đức Bà biết rằng khi ta về cõi hư vô, ta đã dâng Người lễ vật. Cuộn giấy này, được niêm phong bằng triện của ta, sẽ được đặt vào mộ khi chôn, ta dặn phải đặt nó ở trong bàn tay phải của ta để ta trao lại cho Đức Bà khi trông thấy người. Và ta sẽ không còn là người sống nữa khi biết rằng Người đang ở trong Mê Cung. Và khi họ bơi qua đây như là vượt qua một nơi không có bến đỗ, nơi không có gì sinh ra cả. Và dù cho có kẻ nào liều mình tiến vào các mỏm đá hiểm trở, còn sống sót để lên bờ cũng sẽ rơi vào vực thẳm, biến mất cùng với tên tuổi của nó. Đức Bà đã ngủ như những người thường vẫn ngủ và sẽ thức dậy trong ánh hào quang của mình khi tới lúc.” Carroline dừng lời, đặt mảnh giấy một cách thận trọng lên bàn. - Phía dưới là hình vẽ và dòng chữ mà anh đã được đọc rồi đấy – cô nói khẽ. Rời khỏi ghế, cô đi về phía cửa sổ, đứng im lặng một lúc với đôi mắt nhắm nghiền, trán tì vào kính cửa sổ rồi đột ngột quay lại – Nếu như anh muốn biết điều này có ý nghĩa gì thì hãy nghĩ tới một điều: người Crêt xây dựng vương quốc của mình cách đây đã sáu ngàn năm. Vương quốc hùng mạnh này tồn tại rất lâu và cuối cùng đã sụp đổ vào ba nghìn rưởi năm trước đây. Tất cả đều sụp đổ: các thành phố, tổ chức nhà nước, các thần linh, tiếng nói cũng mất đi, chỉ còn lại những dấu vết mờ nhạt trong thần thoại của người Hy lạp, những người đã phá hủy cái vương quốc này. Và lúc đó, khi triều đại Hy lạp đang đi tới chỗ suy vong thì trong một ngôi làng nhỏ nằm rất xa Hy lạp có một người con của vương quốc bị diệt vong đang hấp hối và viết nên những dòng chữ này. Ông ta kể tằng cụ của ông ta là người thủ đền thờ Nữ thần Mê Cung, mà việc thờ cúng vị Nữ thần này đã không còn từ ít nhất một nghìn năm trước khi ông ta sinh ra. Mảnh giấy này mô tả kỹ lưỡng Atlanta, Potina, Nữ thần của Gió, Chim Câu, và Mê Cung, vị thần chính của người Crêt. Hơn thế nữa, ông ta còn giải thích rằng đền thờ của vị Nữ thần này nằm ở một nơi hiểm trở, hoàn toàn không phải ở trên đảo Crêt mà là trên hòn đảo nhỏ không có người ở, được giấu kín đến mức không tìm ra được. Điều đó có nghĩa là đền thờ này tồn tại qua hàng nghìn năm, mặc dù người Hy lạp đã ra sức tìm kiếm khắp các đảo vùng Địa trung hải, và có thể nó vẫn còn tồn tại! Alex gật đầu một cách không tin tưởng mấy. - Chưa hết đâu – Carroline vội lấy tay che miệng anh lại – Một nghìn năm sau khi vương quốc Crêt sụp đổ, nhà sử học Hy lạp Tukidydes đã viết: “Như chúng ta đã từng nghe, Minos là người đầu tiên có trong tay hạm đội hùng mạnh. Ông ta đã thống trị phần lớn vùng biển mà ngày nay gọi là biển Hê len, đặt chính quyền lên toàn vùng Cyklad….” Cái từ “Như chúng ta đã từng nghe” có nghĩa là trong các câu chuyện kể của người Hy lạp có chứa dấu vết của những cuộc giao tranh với người Crêt, và cái tên Minos còn tồn tại bởi vì thực tế ông ta đã thống trị đất nước này. Ông ta ta là kẻ thù của các bộ tộc Hy lạp, những người từ những miền sâu trong đất liền ra sinh sống trên bờ biển, bị rơi vào ách thống trị của ông ta. Họ đã cố thoát khỏi ách thống trị này và phá hủy cả cái vương quốc rộng lớn của người Crêt, từ đó mở thông đường biển sang chinh phục các đảo và bờ biển vùng Tiểu Á. Nhưng em muốn nói sang vấn đề khác. Truyền thuyết các cuộc giao tranh với người Crêt có vài truyện có ý nghĩa lịch sử to lớn. Trước hết là về Mê Cung do Đêdal xây dựng cho quốc vương Minos để nuôi giấu đứa con Minotaur, nửa người nửa bò của mình. Chúng ta cũng biết qua các khu khai quật rằng bò được thờ trên đảo Crêt. Có thể người ta đã cúng lễ nó bằng việc hành hình các tù binh hoặc các con[2] tin người Hy lạp, từ đó có chuyện kể là nó ăn thịt người. Sau đó là truyền thuyết về người Hy lạp tên là Têdê đã tới hòn đảo này, yêu công chúa Ariadna, thâm nhập vào sâu trong mê cung, giết Minotaur và lấy công chúa làm vợ. Có thể Têdê là thủ lĩnh của đội quân Hy lạp đã phá hủy thủ đô vương quốc Minos và lật đổ tượng đài con bò đáng căm ghét. Ariadna có thể thực là công chúa của vương quốc Crêt mà người thắng trận đã chiếm làm vợ, để có thể hòa hợp với dân tộc này và đứng ở vị tri cao quí hơn là bị coi là kẻ xâm lược. Từ thời điểm này tiếng Hy lạp bắt đầu dùng trên đảo. Qua những công trình nghiên cứu thiên tai của Ventris, chúng ta biết rằng người Crêt dùng chữ khác, nói tiếng khác, đến giờ chúng ta vẫn chưa tìm được cách đọc. Người Hy lạp chưa thể tiếp quản hết những kho báu của nền văn minh Crêt, và có thể những cuộc xâm chiếm về sau của những bộ tộc Hy lạp nguyên thủy hơn đã phá hủy cả cái nhà nước Hy lạp – Crêt? Nói gọn là hệ chữ đó đã biến mất, hai trăm năm sau khi chinh phục được đảo Crêt, người Hy lạp vẫn mù chữ. Mãi sau này người Hy lạp mới lấy bảng chữ cái của người Phê ních để tạo ra hệ chữ mà ngày này gọi là chữ Hy lạp. Từ những vùng khai quật trong khu vực văn minh Crêt, chúng ta biết rằng họ đã thờ thần chính là Nữ thần Mê Cung, đồng thời cũng là nữ thần của Gió và Chim Câu. Bà ta cũng có tên là Atana. Còn cái tên Atena vẫn được gọi sau này có lẽ là tên vị thần thời kỳ tiền Hy lạp do người Hy lạp truyền lại. Ngược lại người Hy lạp chưa bao giờ thờ Nữ thàn Mê Cung mặc dù họ biết tới nữ thần Persefon và ám chỉ Hades cũng là nơi khó tới được giống như vào Mê Cung….. - Nhưng ông thủy thủ Perimos của chúng ta…. Joe nói nhỏ. - Chính thế! Ông thủy thủ Perimos gọi nữ thần của mình bằng cái tên mà chính ông ta cũng không tự biết bởi vì nó bị lãng quên từ hàng nghìn năm rồi. Khi ông ta viết những giòng chữ này trên giấy, các thành phố Crêt đã bị phá hủy thành đống gạch từ lâu. - Có nghĩa là em muốn nói với anh rằng nếu ông ta biết được cái tên mà chính ông ta không thể tự tìm ra thì đó là chứng cớ rõ nhất về sự tồn tại hòn đảo nhỏ Keros đã được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác của ông ta. - Phải, em coi đó là luận cứ khoa học chắc chắn – Caroline trả lời dứt khoát – Bởi vì một người bình thường không thể biết được tên vị nữ thần này bằng cách khác. Anh có thấy hình vẽ người đàn bà giang hai tay cầm những con rắn không? Trên toàn bộ khu vực văn minh Crêt đều thờ tượng nữ thần này. Perimos có thể tìm được bức tượng này nhưng không tự biết nó là ai nếu không có những thông tin được truyền lại. Alex nhướng mày. - Khoan đã. Dù cho pho tượng này là ai thì Mê Cung đó vẫn nằm trên đảo Crêt chứ không nằm trên một hòn đảo nhò nào khác, có phải không? - Joe, thế chúng ta đã biết gì về đảo Crêt và dân cư ở đấy? Chúng ta đã khai quật các thành phố của họ, chúng ta biết tới những hình vẽ, đồ gốm họ làm ra, chúng ta cũng biết họ ăn mặc thế nào, xây dựng ra sao, chúng ta có thể suy luận ra họ ăn gì và giải trí thế nào. Nhưng chúng ta hoàn toàn không biết tí gì về lịch sử của Crêt, bời vì chúng ta chưa biết đọc dạng chữ vạch mà dân tộc đó sử dụng. Cho đến bây giờ chúng ta vẫn chưa vượt qua được trở ngại này. - Cứ cho là người thủy thủ Perimos kia đã viết chúng đúng sự thật và nhóm nghiên cứu của em sẽ tìm ra Keros với đền thờ của Nữ thần Mê Cung, nhưng có thể đó chỉ là một trong số những nơi thờ cúng nhỏ bé của địa phương còn tồn tại vì ở cách xa những nơi người Hy lạp chiếm đóng. Hòn đảo nhỏ khó tới gần, từ xa trông không như có người ở và hiếm nước (theo lởi ông ta kể) và không có cây mọc sẽ không thu hút sự chú ý của ai. Những đền thờ như vậy, có thể rất nhiều. Tất nhiên, mảnh giấy này rất thú vị. Nhưng anh không thấy nguyên nhân nào làm cho nó có thể trở thành một tài liệu đặc biết. - Thế mà em lại thấy đấy – Caroline đáp lại bình thản – Nếu như đảo Keros không bị phá phách từ trước và nếu như ở đó tồn tại đền thờ Nữ thần Mê Cung, còn dòng họ người thủ đền trong vòng một nghìn năm đã bí mật tới đó để dâng lễ vật thì chúng ta có thể thực hiện những phát hiện bất ngờ. Hãy nhớ rằng, dòng họ ấy đã tới đảo thường xuyên trong vòng một nghìn năm, họ nhất định phải để lại dấu vết. Tập quán ghi nhận lại những lễ vật hiến tế rất phổ biến ở Hy lạp. Perimos chưa bao giờ đến Keros nhưng lại vẽ được hình Nữ thần Mê Cung giống như người Crêt đã thể hiện, như vậy có khả năng là dòng họ này đã truyền cho nhau kỹ năng viết chữ và ý nghĩa biểu tượng của Nữ Thần. Trong trường hợp những người nói tiếng Hy lạp cổ cũng đến thăm viếng đền thờ nữ thần thì họ sẽ để lại những ký hiệu hoặc văn tự của ngôn ngữ tiền Hy lạp và ta có thể tìm thấy những dòng chữ song ngữ ấy trên tượng, trên tường hay ở đâu đó. Đó chính là cuốn tử điển chuyên ngành khảo cổ học Crêt đang cầu mong. Anh đã hiểu em chưa? - Anh hiểu – Joe nói – Tất cả đều rất có thể xảy ra, mặc dù khẳ năng đó rất bé và thời gian hàng nghìn năm đã trôi qua. Tuy nhiên cho dù em không tìm ra những dòng chữ song ngữ, thì việc phát hiện ra đền thờ Nữ Thần Mê Cung theo những chỉ dẫn trong tài liệu cách đây 2.300 năm cũng làm chấn động thế giới. - Em thèm vào cái chấn động thế giới ấy! – Carroline nhíu mày – Điêu quan trong nhất là có lợi cho khoa học. Em nói điều này có vẻ hơi viễn tưởng về truyền thuyết Mê cung nổi tiến do Đêdal xây dựng. Khi nhà khảo cổ Evans phát hiện ra cố đô Crêt là Knosos và khai quật lâu đài của nhà vua với hàng trăm hành lang, phòng ở, buồng khách, sân chơi thì người ta cho đó là Mê Cung bởi vì người ta có thể lạc ở trong đó. Nhưng điều đó chưa chắc chắn. - Em muốn nói rằng, Cung điện ở Knosos không phải là Mê Cung do Đêdal xây dựng? - Phải. - Tại sao? - Em đã nghĩ như vậy vài năm trước đây khi em đọc những dòng chữ kiểu vạch trên các miếng gạch viết về Nữ thần Mê Cung. Cô bỗng nhiên ngừng lời, nhìn Alex và mỉm cười. - Nào, xin mời thám tử nổi tiếng cho ý kiến! Joe gật đầu. - Có phải em định nói rằng nếu như họ viết về Nữ Thần Mê Cung thì có nghĩa đó phải là mê cung thật sự, chứ không phải là cung điện nhà vua. Người ta có thể gọi là mê cung chứ người dân ở đấy không thể nói như vậy, bởi vì đối với họ đó chẳng có gì bí mật cả. Họ chẳng đời nào gọi Nữ Thần của mình là Nữ thần Mê Cung chỉ vì cung điện nhà vua có nhiều phòng và hành lang. Có phải thế không? - Chính là như thế. Suy luận tiếp theo như sau: ở Knosos cũng như ở những nơi khác thuộc về nền văn minh Crêt không phát hiện ra công trình nào giống như Mê cung trong truyền thuyết của người Hy lạp. Tất nhiên Mê Cung trong đó không nhất thiết phải nằm trên đảo Crêt. Crêt là vương quốc trên biển đã thống trị toàn bộ vùng đông Địa trung hải. Người Crêt có thể chọn bất kỳ hòn đảo nào trong bán kính hàng trăm dặm cách đó là thủ đô để làm trung tâm tín ngưỡng, nhằm mục đích đảm bảo không kẻ nào cướp phá đền thờ của họ. Nếu như những khó khăn như Perimos mô tả thì điều đó càng trở nên đúng hơn. Anh có thể hỏi tại sao một dân tộc giầu có và hùng mạnh lại muốn có đền thờ thần linh của mình ở cách xa trung tâm? Trong khu vực này điều đó không phải là hiếm. Thí dụ Aten và Spac trong suốt một thời gian dài là hai vương quốc hùng mạnh nhất ở Hy lạp, thế mà những trung tâm tín ngưỡng lớn lại ở cách khá xa hai nơi thành phố này, nhiều đền thờ còn được dựng ở những hòn đảo đông người hoặc những nơi hẻo lánh. Hình như đó chính là tập quán của người Hy lạp, muốn để thần linh của mình ở nơi yên tĩnh cách xa những trung tâm buôn bán, chiến tranh và hỗn độn – cô ngừng lời – Vị vậy có một khả năng dù rất nhỏ nhoi, là mảnh giấy nát tìm thấy trong ngôi mộ cổ kia sẽ chỉ ra cho chúng ta ví trí của một trong những công trình nổi tiếng nhất của thế giới cổ đại: Mê Cung của đức vua Minos. Họ im lặng một lúc lâu, cuối cùng Alex nở một nụ cười thoải mái. Anh không còn buồn ngủ nữa. - Tốt – anh nói giọng nghiêm chỉnh – Anh muốn hỏi chỉ một điểu thôi: đảo Keros ở đâu? Caroline giang tay bất lực. - Năm phút sau khi đã giải mã xong mảnh giấy, em bắt đầu tìm trong tất cả các Atlas và tử điển khảo cổ. Em có ở đây Đại Atlas thế giới cổ đại, em có các tử điển chỉ dẫn với các tên sông ngòi, địa danh, núi, đảo, vịnh, thành phố lớn nhỏ đã nói trong các tài liệu cổ… - Và sao nữa? - Chẳng có gì cả - Caroline giang tay – chẳng ở đâu có đền Keros. - Em đã hỏi ai chưa? - Chưa. Trước hết em có nhiệm vụ phải tường trình lại toàn bộ sự việc cho giáo sư Lee Alex đứng dậy. - Chúng ta đi thôi – anh nói và tiến về phía cửa. - Đi đâu? – Carroline cũng đứng dậy nhìn anh dò hỏi. - Còn đi đâu nữa? – anh nắm tay trên quả đấm cửa, nét mặt nửa đùa nửa thật – tất nhiên đi tìm đảo Keros! Ngạc nhiên, cô bước theo anh không nói một lời.
Chú thích: [1] Atena: - Tên một nữ thần trong thần thoại Hy lạp (ND) [2] Minos, Đêdal, Minotaur, Têdê, Ariadna, Persefon, Hades: tên những nhân vật trong thần thoại Hy lạp – ND
Nữ Thần Mê Cung - Joe Alex - Nguồn: vnthuquan.net(new:chuongIII)
Chương III “ĐẢO KEROS, THƯA BÀ…”
Mãi đến khi ô tô chuyển bánh hòa lẫn vào dòng xe cộ trên đại lộ Edgware, Caroline mới phá tan sự im lặng. - Anh Joe này, nhiều lúc anh coi em cứ như đứa trẻ nhỏ ấy, em đảm bảo với anh rằng em đã trưởng thành từ lâu và… - Em muốn biết là chúng ta đi đâu chứ gì? - Anh liếc nhìn cô cười rồi lại tập trung nhìn về phía tay lái – Theo em, ở đâu trong Luân đôn có thể biết được vị trí của một hòn đảo nào đấy? - Ở đâu à? Em không hiểu… - Caroline nắm lấy cánh tay của anh – Joe, đừng có đùa như thế, nếu không thì em thề là sẽ bịt mắt anh lại và chúng ta cùng đâm vào cái cột điện nào đó trên đường. - Ấy đừng! Em sẽ không làm được điều đó đâu vì em còn mơ tới đảo Keros và người đàn bà cầm rắn trong tay. Còn nếu em không biết tìm những hòn đảo mất tích ở đâu thì anh sẽ bảo cho em biết: tìm ở Bộ Hải quân Hoàng gia Anh. - Ở bộ Hải quân? Anh ơi, em chỉ quen có vài sĩ quan hải quân, em đánh cược rằng chẳng ai ở bộ này có thể biết Keros nằm ở đâu và chưa từng nghe tới người cổ đại Crêt. - Về điều này thì anh không đánh cược, nhưng anh có thể cược rằng Phó Đô đốc Holinshead sẽ nói cho chúng ta tất cả những gì cần biết về hòn đảo của em – anh ngừng lời rồi vừa cười vừa nói thêm – tất nhiên là nếu như nó tồn tại. - Thế Phó Đô đốc Holinshead là ai? - À, đó là người mê truyện trinh thám và yêu thích nhà văn Joe Alex – anh trả lời một cách khiêm tốn – Chính ông ta nói với anh như vậy. - Nhưng… - Caroline không nói tiếp. Cô không tin rằng một vị đô đốc hải quân Anh nào đấy lại có thể biết về Keros hơn là những quyển Atlas và từ điển về thế giới cổ đại. Cô thở dài. Cô mệt mỏi về mười mấy ngày làm việc, thiếu ngủ và thiếu không khí trong lành. Mải cho tới lúc này cô mới nhớ ra rằng từ hai tuần nay cô chưa bước ra khỏi cửa. Joe khéo léo lách xe giữa luồng xe đông đúc của buổi sáng. Vừa đi anh vừa nghĩ sẽ nói gì về Keros cho Holinshead. Vị Phó đô đốc này quả là người yêu thích truyện trinh thám. Alex biết ông ta trong một bữa tiệc tại nhà người bạn thân. Khi chia tay, Holinshead nói một câu xã giao với những người vừa quen biết. Nếu như tôi có thể giúp được ông điều gì, xin hãy đến gặp tôi ở Bộ hải quân. Joe chưa từng quên điều gì và cũng không quên cả những lời này. Xe dừng lại trước toà nhà lớn, trụ sở của Bộ Hải quân. Họ đi vào. Khi người sĩ quan thường trực đi khỏi với tờ danh thiếp của Joe Alex, Caroline lại thở dài. Đáng lý ra phải báo cáo trước hết cho giáo sư Lee và cùng ông xác định vị trí của hòn đảo. Nhưng mà thế cũng chả hơn gì. Chỉ một điều duy nhất có ý nghĩa: đảo Keros nằm ở đâu? Liệu nó có tồn tại như Joe đã nhận xét không? Viên sĩ quan đã quay lại và đứng trước Alex. - Xin mời theo tôi, Đô đốc sẽ tiếp ông. Caroline do dự nhưng Joe đã kéo cô cùng đi. Herbert Holinshead chưa phải đã già lắm, thậm chí Caroline còn cho rằng ông rất trẻ. Cô không biết tại sao nhưng cái từ “Đô đốc” làm cô nghĩ ngay tới tóc bạc. Trong khi đó, vị sĩ quan Hải quân này chưa quá năm mươi, dáng người cao lớn và đẹp, trong bộ quân phục ông giống diễn viên hơn là sĩ quan Hải quân thực thụ. Thế nhưng Holinshead chính là Đô đốc Hải quân, vì vậy ông hơi ngạc nhiên nhìn Caroline. Trong vài giây, trông ông như người bị chóng mặt, lúc này cô gái mới nhận thấy mình vẫn mặc áo sơ mi và quần dài. Có lẽ ít nhất từ một trăm năm mươi năm nay chưa có một phụ nữ trẻ đẹp nào bước qua ngưỡng cửa văn phòng này, và cũng chắc chắn là chưa có người phụ nữ nào mặc quần dài được bước vào đây[1]. Tuy nhiên Đô đốc trấn tĩnh ngay được. Bên cạnh cô gái này là Joe Alex, như vậy mọi sự có thế xảy ra được. Có thể sự đến thăm của họ che đậy một điều bí ẩn rùng rợn gì chăng? Còn công việc của vị trưởng phòng hải đô Bộ Hải quân Anh chẳng lấy làm mơ mộng và thú vị như trước đây ông tưởng khi còn là chàng trai muốn trở thành sĩ quan hải quân. Nếu được tự do nói thật, có lẽ ông thừa nhận ngay là công việc chán lắm. Mùa hè đang tới, ông chờ đón nghỉ hè như chờ cứu nạn. - Xin mời, xin mời, mời ông bà ngồi – ông nói hơi do dự, nghiêng đầu chào Caroline. - Tôi hi vọng là ông tha lỗi cho sự viếng thăm đường đột này – Alex nói nghiêm túc – nhưng sự việc đối với chúng tôi rất quan trọng. Có lẽ ông là người duy nhất ở Luân đôn này có thể giúp chúng tôi được. Cô Beacon đây là đại diện của Viện khảo cổ, và cứ trông quần áo thì ông thấy đấy, cô ấy tới thẳng đây từ hiện trường làm việc. Không để ý tới cái nhìn đầy biết ơn từ Caroline, anh nói tiếp: - Công việc vô cùng phức tạp giống như giải mật mã vậy. Chúng tôi muốn nói về hòn đảo… - Về đảo à… - vị phó đô đốc tươi tỉnh hẳn lên – Tất nhiên nếu như chúng tôi có thể giúp được – ông mỉm cười – Đảo là một chuyên ngành của chúng tôi, một trong số… - Vâng – Joe nói – nhưng chúng tôi muốn nhờ ông, thưa Đô đốc, tìm hộ chúng tôi một hòn đảo mà chúng tôi biết là có tồn tại nhưng không biết nó ở đâu và gọi là gì. - Chuyện vặt! – Holinshead cười thoải mái – Rất may là ông bà còn biết là nó tồn tại. - Ấy, ngay điều này chúng tôi cũng chưa rõ. Sau những lời đó, Joe tóm tắt cho ông ta nghe câu chuyện. Càng về cuối nét mặt của vị Phó đô đốc càng tập trung. Khi Alex nói xong, ông nói: - Câu chuyện này rất thú vị. Tôi biết một người có thể giúp được ông bà. Để tôi hỏi xem anh ta có ở trong khu vực này không – ông nhấc máy điện thoại, không cần quay số và nói: - Đại úy Brown có đấy không? – ông đợi một lúc – Hãy bảo anh ta lại chỗ tôi… Phải, ngay lập tức – Ông đặt máy xuống quay lại nói với Alex – Anh ta sắp tới đây. Đại úy Brown biết rõ vùng phía đông Địa trung hải hơn là những người khác biết vị trí đồ đạc trong nhà mình. Anh ta biết tất cả những hòn đảo nằm trên và dưới mặt nước, hơn nữa cả những hòn đảo đã mất tích và những hòn đang trồi lên phía trên nhưng vẫn còn nằm dưới sóng biển. Cùng lúc đó có tiếng gõ cửa và đại úy Brown bước vào phòng. Sau khi giới thiệu khách, đô đốc nói rõ mục đích cuộc viếng thăm của khách. Đại úy Brown, theo Caroline, trông có vẻ thủy thủ hơn chỉ huy của mình, người chắc nịch, rám nắng, tóc cắt ngắn. Anh ta bước vào phòng với dáng đi đặc biệt của người thủy thủ. Anh suy nghĩ không lâu. - Những tư liệu ông đưa ra khá chính xác, có lẽ đủ để xác định vị trí của hòn đảo này – anh nói và nghiêng người bên tấm bản đồ vùng biển Địa trung hải treo kín cả một bức tường trong phòng đô đốc – Người này bơi theo hướng “sao hàng hải” có nghĩa là từ nam lên bắc, vì đó chính là sao Bắc đẩu. Ông ta đến Bi-dăng-tin, bây giờ là Công-stăng-ti-nô-pôn, như vậy có thể cho rằng ông ta đi từ Ai cập tới. Như ông bà nhận thấy khi đó sao Bắc đẩu hơi lệch về phía trái, tuy nhiên trong sách cổ hàng hải, hướng đi chỉ gọi theo cách tương đối, trong trường hợp này độ sai lệch không lớn lắm… Đại úy ngừng lời, ngón tay vạch chậm theo con đường biển mà người thủy thủ Perimos đã đi cách đây hàng thế kỉ. - Thế… thế liệu ông có tìm thấy trên tuyến này có hòn đảo mà chúng tôi đang tìm không? - Caroline hỏi, cố giữ giọng bình tĩnh. - Loại đảo như vậy có ít nhất là vài hòn – Brown nhíu mày – Cả vùng này toàn những đảo đá màu trắng – Brown ngừng lời - Bà có thể cho tôi xem lại lời văn được không? Anh cầm lên tay bản dịch sang tiếng Anh những lời của Perimos. Anh đọc từ từ và bỗng nhiên đứng thẳng người. - Có lẽ tôi đã tìm thấy. Vào thời đó người ta chèo thuyền dưới gió. Nhưng lúc đó thuyền không thể đi được vì cả đoàn thủy thủ đã đi ngủ. Như vậy Perimos muốn bơi từ nam lên bắc nhờ buồm để đến cạnh hòn đảo này phải đi vào dòng hải lưu chảy từ bắc xuống nam. Trong trường hợp khác, ông ta không thể làm được điều này nếu không có người chèo. Chỉ có một chỗ phù hợp với lời văn này. Do cấu tạo của đáy biển, dòng hải lưu này tạo ra dòng chảy quanh đảo và Perimos có thể lái thuyền đi mà không cần chèo, sau đó khi thuận gió ông ta có thể ra khỏi đó – anh ngừng lời và lắc đầu - nhưng ở đây nói có một đền thờ cổ rất lớn phải không ạ? Tôi e rằng ông bà sẽ thất vọng. Nơi đó hoàn toàn trơ trụi, không có cây cối, và điều quan trọng là trước đây không lâu không có chỗ cập bến tự nhiên. Chung quanh đảo là vách đá dựng đứng, lại có những mỏm đá ngầm làm cho biển lúc nào cũng sủi bọt, gầm réo ngay trong những ngày yên tĩnh. Có một sườn núi nghiêng thoai thoải làm thành một mặt phẳng dài rộng khoảng vài trăm thước, nhưng ra phía biển lại có vách gần như dựng đứng. Có lẽ chưa bao giờ có người và súc vật ở đó cả. Giả sử rằng có ai đó ngẫu nhiên lại tới đây thì nếu như không rơi xuống vực thẳm của biển thì cũng sẽ chết đói vì ở đó không có cây cỏ, còn động vật, ngoài chim không có loại nào sống ở đấy cả. - Ông nói rằng trước đây không lâu đảo không có bến cập tự nhiên phải không ạ? - Caroline cúi người xuống bản đồ nhưng mắt vẫn nhìn viên đại úy. - Vâng – Brown gật đầu – trước đại chiến thế giới thứ hai, đảo này thuộc Italia. Sau chiến tranh nó được về Hy lạp. Trước đây, người Italia đã đục đá thành một bến có bậc lên xuống dẫn tới chỗ bằng phẳng trên sườn núi, ở đây họ đặt một trạm quan sát nhỏ để theo dõi sự di chuyển của hạm đội Anh. Trạm có đài phát tin. Gần đây người Hy lạp dùng bến này để đặt trên đảo một cây đèn biển công suất không lớn lắm. Mật độ tàu biển trên Địa trung hải ngày càng tăng nên cần phải đặt đèn biển trên đó mặc dù đảo không nằm trên tuyến đường biển chính. Chính vì vậy nó không có tên trên bản đồ và từ lâu lắm chẳng ai nói tới nó cả. Phía đông của Địa trung hải có rất nhiều đảo đá lớn nhỏ. Một số đảo có bến đổ kín hoặc hở, thời cổ xưa và trung cổ đây là nơi trú ẩn của bọn cướp biển. Còn một điểm nữa là núi đá có rất nhiều hang động. Chúng ta biết về điều này không phải vì chúng có ý nghĩa với hàng hải mà đơn giản là trong trường hợp cần thiết có thể biến chúng thành nơi trú ẩn hoặc điểm tựa – anh giang tay – Có lẽ ông bà cũng hiểu được như vậy chứ? - Tất nhiên – Joe gật đầu – nhưng chúng tôi không chú ý đến vấn đề chiến lược lắm. - Thế hòn đảo này tên gì? – Caroline hỏi khẽ. - À… - Brown khẽ nhún vai – Trên hải đồ chi tiết nhất ông bà cũng nhìn thấy một chấm đen. Đấy để cho thoáng chứ không thì nhiều dấu với chữ quá sẽ làm cho bản đồ khó nhìn, mà những đảo như vậy ở đó có hàng chục cái. Mỗi mỏm đá nhỏ từ dưới nước lên không thể có tên riêng được. Người Ý đã đánh số cho chúng. Nhưng gần đây sau khi tiếp nhận các hòn đảo, người Hy lạp đã trả lại tên cho hàng loạt đảo, thậm chí cả những đảo rất nhỏ. Bản đồ mới của họ có tên những đảo đó. Hòn đảo này đã có bến và đèn biển nên chắc chắn là có người trực thường xuyên mặc dù trông nó chẳng có vẻ mến khách. Chắc là nó sẽ có một cái tên, một cái tên truyền thống do những người đánh cá đặt ra. Họ đặt tên cho các điểm mốc. Nếu như ông bà muốn tôi có thể tìm ở chỗ tôi… - Chúng tôi vô cùng biết ơn – Caroline nói và cười với vẻ hào hứng của đứa trẻ khiến Joe phải vội nói để dẹp bớt sự vui mừng thái quá của cô. - Tất nhiên sau khi nghe những điều ông nói, khả năng xác định hòn đảo của chúng tôi nhỏ lại đi. Khó có thể cho rằng những người dân trên biển như người Crêt lại đặt đền thờ nữ thần của họ tại một nơi không thuyền nào tới được. Nhưng dù sao thì chúng tôi vẫn muốn kiểm tra ở mức độ có thể. - Vâng tất nhiên rồi – Đại úy quay lại thượng cấp của mình – Xin đô đốc cho phép tôi được đi kiểm tra lại ở chỗ của tôi. - Tất nhiên, xin mời. Brown đứng nghiêm chào và bước ra khỏi phòng, khép cửa một cách nhẹ nhàng. - Tôi rất tiếc là phải làm cho bà thất vọng – đô đốc nói với Caroline – nhưng tôi nghĩ rằng cái tên cổ Keros có lẽ đã không tồn tại từ lâu và… Có tiếng chuông điện thoại. Vị đô đốc nhấc máy. - Holinshead đây… phải… Tôi nghe đây, đại úy… Cái gì? À phải, tôi hiểu… Rất cám ơn. Ông đặt máy và quay lại phía Alex. - Vâng – ông nói – Người Hy lạp quả đặt tên cho hòn đảo này năm năm trước đây theo cách gọi của dân đánh cá. Tên của nó là KEROS. - Keros? – Caroline lắc đầu như muốn tỉnh dậy khỏi cơn mơ – Thật thế ư? Keros? Vị đô đốc giang hai tay. - Tôi hy vọng cái tên này sẽ thích hợp với bà hơn tất cả những tên nào khác mà người ta có thể nghĩ ra, có phải không? Và ông cười rất thoải mái.
[b]Chú thích: [1] Ở châu Âu, khi tới những nơi trang trọng, người phụ nữ thường mặc váy
Nữ Thần Mê Cung - Joe Alex - Nguồn: vnthuquan.net(new:chuongIV)
Chương IV
LỜI NGUYỀN ĐÃ BẮT ĐẦU ỨNG NGHIỆM
Họ ngồi vào xe và sắp đi ra phố; Caroline đặt nhẹ bàn tay lên vai Alex. - Đừng đi vội – Cô nói thầm thì – Em muốn tập trung suy nghĩ đã. - Đi đâu bây giờ? – Joe rời tay khỏi chùm chìa khoá, quàng tay ôm tấm lưng mảnh mai của cô - Đến giáo sư Lee nhé? Nếu ông ta thực sự là nhà bác học quan trọng như người ta nói, thì chắc ông ta sẽ đuổi em về trường với câu chuyện cổ tích cho trẻ con về cái kho báu trên đảo này. Cô quay lại nhìn anh với cặp mắt không hề đùa cợt. - Lúc đầu em cứ ngỡ là mơ. Joe, anh có hiểu không? Keros, thế có nghĩa là lời mô tả của Perimos là đúng. - Hừm…, anh chỉ lo có một điều. - Điều gì? - Nếu như Keros thực chất là một hòn đảo nhỏ trơ trụi, không người, không dấu vết của sự đào bới thì em sẽ khóc nhè mất. Còn nếu như ở đó vẫn tồn tại đền thờ Nữ thần Mê cung và lời mô tả của Perimos đúng sự thực thì em sẽ rơi vào vực thẳm và tên của em cũng sẽ mất đi. - Em không biết vực thẳm nào sâu hơn cái vực thẳm mà một cô gái phải hạ mình làm quen với tác giả những truyện rẻ tiền, mặc dù phải thừa nhận rằng anh đã giúp em tuyệt vời – không để ý đến người qua đường, cô ôm lấy cổ và hôn anh – Ôi, Joe, Joe, Joe! Anh không biết là em nóng ruột đến như thế nào! Cô đột ngột buông anh ra và ngồi ngay ngắn lại trên ghế - Ta đi thôi, đi thôi! - Đi đâu – tác giả truyện rẻ tiền hỏi lại. - Tất nhiên là đến giáo sư Lee – cô nhìn đồng hồ - Mười hai giờ rồi! Chỉ lát nữa là có cuộc họp nhóm nghiên cứu hàng tuần. Nhanh lên, Joe! Em không muốn chúng ta bị muộn. - Chúng ta bị muộn! – Alex khẽ nhún vai - Chắc em không bắt anh phải tham gia họp với nhóm của em chứ? - Anh phải đến giáo sư cùng em… Joe ạ! - Anh? – Alex suýt đâm phải chiếc ô tô đang phanh phía trước. Anh có lý do để ngạc nhiên. Từ khi quen Caroline, cô đã cấm anh không được tiếp xúc với những đồng nghiệp của cô. Vì vậy mặc dù có lẽ tất cả bạn cô đều biết rằng cô đã gắn bó với một trong những người nổi tiếng nhất quần đảo Britain và anh cũng biết tất cả họ qua lời kể của cô, nhưng anh với họ chưa có lần nào gặp mặt. Hơn nữa anh cũng chẳng quan tâm đến điều đó lắm. - Anh bắt đầu tin rằng – anh nói khi chiếc xe phía trước đã chuyển bánh – hòn đảo Keros đã làm em mất bình tĩnh hơn anh nghĩ. Anh, một tác giả truyện rẻ tiền, một chuyên gia nghiệp dư tồi của phòng hình sự thuộc Scotland Yard (1) có thể làm gì được trong nhóm bạn của em. Thôi, anh sẽ ở nhà đợi tin em. Hay là ta hẹn nhau ăn trưa ở đâu đấy, nếu…
Anh ngừng lời và ngáp dài một cách ngẫu nhiên. Mãi bây giờ anh mới nhớ rằng cả đêm hôm qua anh không hề chợp mắt. Anh nhìn sang Caroline. Cả cô nữa, đêm qua cũng không ngủ, nhưng nét mặt cô hoàn toàn tỉnh táo. Cô lập tức quay ngay lại phía anh. - Không, Joe! Anh phải giúp em! Bọn họ bao nhiêu lần bắt em phải giới thiệu anh. Em không biết tại sao tất cả các bạn em đều coi anh là nhân vật quan trọng và nổi tiếng. Họ nói về anh cứ như không phải là người mà là… thánh ấy, và và… và em có cảm giác rằng họ đều ghen tị với em rằng anh với em, rằng chúng ta… rằng… thôi, anh biết đấy… - Anh chả biết gì cả. Bởi vì em có nói gì với anh về chuyện này đâu – Alex khẽ mỉm cười – Em hãy làm ơn nói với các bạn của em rằng nếu như có ai trong số họ bị mất tích trong khu vực Viện khảo cổ trong những trường hợp khó hiểu thì anh sẽ cố gắng tới và thực hiện những điều họ mong đợi. Còn anh không hiểu tại sao hôm nay anh phải xuất hiện trong cuộc họp nhóm công tác của em? Giáo sư Hugh Lee sẽ coi anh như một kẻ hiếu kỳ không mời mà đến. Mà anh có thể cũng không muốn giáo sư tới thăm khi anh đang bận, có phải không em? Anh dừng xe bên hè đường, xuống xe, mở cửa. - Chúng ta sẽ gặp nhau vào lúc mấy giờ? Caroline nhảy ra khỏi xe và đứng trước anh. Cô cúi mặt – Joe – cô nói giọng cầu khẩn – em đã kể cho anh nghe về tất cả câu chuyện kỳ lạ này và mọi giả thuyết đều mới chỉ dựa trên một số hiện tượng. Viện của em, cũng như nhiều viện nghiên cứu khác trên thế giới, tổ chức rất nặng nề, kém linh hoạt. Mà đi tìm đảo Keros đòi hỏi phải có dụng cụ, tiền nong và trước hết là sự cho phép của chính phủ cũng như các thủ tục với người Hy Lạp. - Nhưng anh không phải là vua Hy Lạp, cũng chẳng phải giám đốc viện của em. Vì vậy anh không hiểu tại sao… - Alex vừa nói vừa giang hai tay. - Joe! Giáo sư Lee cũng đọc truyện trinh thám. Nếu như em không thuyết phục được mọi người đi đến đảo Keros thì có lẽ phải đợi đến hai mươi năm nữa mới có người nhìn nhận em và mảnh giấy cổ kia một cách nghiêm túc. Anh sẽ giúp em tạo khí thế trong lần thuyết trình đầu tiên. Anh hoàn toàn không phải nói gì cả. Còn việc mời anh tham gia cuộc họp của chúng em sẽ được thực hiện ngay bây giờ. - Nhưng… - anh nói vẻ không cương quyết. Cô không để cho anh nói tiếp. - Em chưa bao giờ cầu xin anh cái gì, còn bây giờ em xin anh hãy làm theo. Joe Alex đóng cửa xe, ngoan ngoãn bước theo cô. Phòng hợp có vẻ khá rộng nằm ở cuối một hành lang tối có cửa ra vào hẹp. Alex phải đứng đợi ngoài hành lang. Anh ít khi bị mất binh tĩnh, ấy thế mà cũng hơi hoảng khi Caroline để anh ở đây. Lát sau cô quay lại nói: - Giáo sư Lee và những người còn lại tha thiết muốn gặp anh. Anh bước vào, tầm mắt bị lạc đi trong phòng rộng được ngăn lại bởi tủ và bàn làm việc, trên đó có hàng đống sách vở. Căn phòng này thoang thoảng mùi hơi mốc, dường như từ lâu không được thông gió mặc dù có hai cửa sổ to đang mở rộng nhìn ra phía vườn.
Lúc đầu Joe chẳng nhìn thấy ai. Mãi sau vài giây anh mới nhận thấy một nhóm ít người tập trung quanh một bàn tròn nhỏ được phủ khăn xanh đã hơi cũ. Nhìn thấy anh, một người cao, gầy đứng dậy bắt tay. Cứ theo vết nhăn trên trán ông ta vào khoảng sáu mươi tuổi, nhưng dáng đi nhanh nhẹn và nhẹ nhàng, có lẽ thời trai trẻ ông là người thích nhiều môn thể thao. Alex nhận ra khuôn mặt quen vẫn thỉnh thoảng được in trên tuần báo ở Luân Đôn. - Trước tiên tôi muốn xin lỗi giáo sư về cuộc đột nhập này – anh bắt đầu nói, nhưng giáo sư đã vội vã lắc đầu: - Cuộc đến thăm của ông, ông Alex ạ, là niềm vui bất ngờ đối với chúng tôi – ông nói vui vẻ - Nếu như ông tìm tài liệu cho cuốn sách mới thì tôi vô cùng vui sướng. Lúc nào tôi cũng cho rằng đọc truyện trinh thám là hính thức giải trí tốt nhất sau ngày làm việc và truyện của ông, theo tôi, hay hơn những loại khác. Vâng đúng thế. Ông đừng quá khiêm tốn. Tôi nghĩ rằng, tiểu thuyết trinh thám viết về sự việc xảy ra trong khi khai quật di tích cổ hẳn là phải rất thú vị. Hiện trường thật tuyệt vời, phải không ông? Đêm đến trên nơi khai quật, một thành viên đoàn khảo cổ bỗng nhiên bị mất tích, nơi đó lại hẻo lánh và có lời nguyền của Pha - ra – ông trong ngôi mộ cổ. Rồi sau đó hoá ra là một mưu đồ được chuẩn bị rất tinh vi và xảo quyệt của một người… Ông cười phá lên.
Nắm chặt bàn tay gầy guộc nhưng rất khoẻ của ông, Joe Alex hơi nghiêng mình đáp lễ. - Chúng tôi, những người dân thường, coi công việc của giáo sư cao đẹp hơn mọi thứ trên đời. Còn tội ác, thưa giáo sư, chỉ xảy ra với những thị hiếu tầm thường mà có lẽ không bao giờ có trong cuộc sống và công việc của nhà khảo cổ. Độc giả có lẽ không thể tin được, họ chờ đợi những chuyện giật gân kiểu khác. Giáo sư nắm lấy tay anh dẫn về phía bàn. - Lịch sử đã dạy rằng nhân loại chưa bao giờ tạo ra một nhóm người hay một quần thể xã hội thoát khỏi ảnh hưởng xấu cùng những nỗi bất hạnh của các nhóm khác. Nhưng thôi, tôi không phải nói thêm điều này với ông nữa, chắc ông cũng biết rõ như tôi. Cô Caroline có nói với tôi rằng ông đã giúp cô ấy trong một việc mà lát nữa cô sẽ kể cho chúng tôi. - Chưa thể gọi được đấy là sự giúp đỡ thưa giáo sư. Anh ngừng lời và tiến lại gần phía bàn.
Anh tưởng rằng sẽ phải gặp những người tuổi ít nhất cũng trung niên và Caroline thuộc loại em út trong số họ. Thế nhưng anh ngạc nhiên thấy rằng chưa ai vượt quá tuổi ba mươi. Có năm người cả thảy. Ba người đàn ông trẻ tuổi, họ đứng dậy chào khi trông thấy anh. Còn hai cô gái ăn mặc khá đẹp, trạc tuổi Caroline. Thực ra, anh chưa biết rõ Caroline bao nhiêu tuổi, nhưng... Anh nhìn cô. Caroline hơi đỏ mặt, tay nắm chặt lưng chiếc ghế tựa còn để trống. Cô đang mải đoán ấn tượng mà Joe đã gây ra đối với đám bạn của cô. - Các bạn thân mến, đây là ông Joe Alex, nhà văn nổi tiếng, công việc của ông gần giống với chúng ta. Ông cũng quan tâm tới những bí ẩn của các nấm mộ, nhưng có phần mới hơn so với những cái của chúng ta. Còn đây – giáo sư Lee giơ tay chỉ ra nhóm người có mặt – là các bạn cộng tác viên gần gũi nhất của tôi: Bà Gordon, cô Sandera, ông Gordon, anh Caruthers và anh Meliow. Joe cúi chào và bắt tay từng người. Khi mọi người đã ngồi xuống, giáo sư lại quay lại phía anh lần nữa. - Rất tiếc là chúng tôi hôm nay không thể giới thiệu với ông những công việc thường ngày của nhóm, nhưng có lẽ thế lại hay hơn vì hôm nay cuộc họp bàn về một vấn đề đặc biệt, mà ông thì lại thích những chuyện không bình thường. Tôi muốn để cô Beacon sẽ kể lại những nhận xét của mình về mảnh giấy cổ mà cô đã đọc được. Có lẽ cô muốn nói về cái này phải không, Caroline? - Thưa giáo sư, vâng ạ. Caroline lấy bản dịch từ trong túi ra. Khi cô nói Joe vô tình theo thói quen quan sát những người có mặt. Tuy nhiên chốc chốc lại có người đảo mắt nhìn trộm anh. Anh cười thầm và không khỏi tự hào một chút về mình, tuy điều đó là không khiêm tốn, nhưng anh cũng tự tha thứ cho bản thân. Mặc cho quan điểm của Caroline về tiểu thuyết trinh thám, sự có mặt bất ngờ của anh trong nhóm giáo sư Lee là một sự kiện lớn đối với họ, những người thuộc tầng lớp tri thức của xã hội. Anh thở dài không lấy gì làm hứng thú lắm. Trong thâm tâm anh ghen với họ về nghề nghiệp vì theo anh, cái việc anh đang làm không thể gọi là nghề được.
Anh cảm thấy nhẹ nhõm khi sau những lời nói đầu tiên của Caroline, những người có mặt dường như đã quên mất anh. Tất cả các cặp mắt đều nhìn về phía cô. Khi cô ngừng lời, không một ai nói gì cả. Có lẽ họ đợi ý kiến của giáo sư Lee.
Sau một hồi im lặng, giáo sư Lee bất ngờ quay sang Alex, ông mỉm cười. - Bây giờ tôi mới hiểu nguyên nhân cuộc viếng thăm chúng tôi của ông. Tôi cũng nhận thấy rằng ít khi có thể nghe thấy trong cuộc họp khoa học điều gì bất ngờ cả. Giả sử không có sự giúp đỡ của chúng tôi thì ông cũng có thể từ mảnh giấy này nghĩ ra mọi tình huống để viết một câu chuyện về nhóm nghiên cứu đổ bộ lên hòn đảo nhỏ trơ trụi không người, lại được bảo vệ bằng lời nguyền của Nữ thần Mê cung – ông cười to hơn, rồi quay sang những người cộng sự của mình - Xin lỗi các bạn. Cuộc họp hôm nay quả có hơi khác so với thường lệ. Vì không được biết rằng cô Beacon đã mang đến cho chúng ta những kết quả bất ngờ như vậy nên tôi định họp để thông báo một việc cũng bất ngờ: Viện khảo cổ, mà cụ thể là nhóm chúng ta đã bỗng nhiên được thừa kế một khoản tiền lớn. Một phụ nữ quý phái, rất giàu có đã di chức lại cho chúng ta một trăm nghìn bảng. Điều kiện của bản di chúc là số tiền này được sử dụng để tổ chức một chuyến đi khai quật di tích dưới sự chỉ đạo của tôi. Mục tiêu và đặc điểm của chuyến đi sẽ do chúng ta tự quyết định. Tất nhiên là tôi phải trao đổi với các bạn, bởi vì số tiền này đến quá bất ngờ và không nằm trong ngân sách của Viện cũng như không được dành cho những mục đích khác, cho nên chúng ta phải sử dụng số tiền này với hiệu quả cao nhất cho khoa học. Theo ý kiến riêng, chúng ta nên chọn nơi khai quật trong một khu vực hẹp để số tiền này khỏi bị mất hút như giọt nước giữa biển cả. Tôi cũng nói thêm là người đàn bà quá cố đã muốn không đưa chuyện này lên báo chí. Như vậy khoản tiền này không có tên người cấp. Tôi muốn các bạn đề xuất dự kiến của mình.
Ông ngừng lời, đưa mắt nhìn những khuôn mật như muốn kiểm tra xem họ có hiểu hết không. - Thưa giáo sư. – Caroline khẽ nói. - Thế nào, cô gái bé nhỏ của tôi? - Tôi có thể nói ngay cho giáo sư biết dự định của mình. Tôi sợ là chúng ta phải đợi hàng năm để người ta cấp kinh phí cho việc tìm kiếm ở Keros. – Cô ngừng lại. Giáo sư gật đầu. - Cô nói tiếp đi. Caroline hồi hộp nói tiếp: - Mảnh giấy này nằm ở chỗ chúng ta năm năm thì mọi sự cũng chẳng có gì thay đổi nếu không có ai tiến hành nghiên cứu sơ bộ. Chúng ta biết rất rõ cái gì sẽ tới. Có thể chúng ta tìm ra một chỗ rất quan trọng. Trường hợp xấu nhất chúng ta sẽ chẳng tìm thấy gì cả, nhưng đó không phải là lần đầu hoặc lần cuối đoàn nghiên cứu không tìm thấy gì. Điều này có thể xảy ra như mọi người đều biết. Người phụ nữ quá cố đã di chúc lại cho Viện với hy vọng rằng chúng ta sẽ phát hiện ra điều gì quan trọng. Tôi nghĩ rằng nếu như bà ta còn sống, bà ta hẳn sẽ vui lòng với dự kiến của chúng ta về mảnh giấy này. Hơn nữa lúc đâu không cần phải dùng đến một phần tư số tiền đó. Để tiến hành nghiên cứu, theo tôi nghĩ chỉ cần khoảng mười đến mười hai nghìn bảng là đủ. Như chúng ta rõ, đảo này là đảo đá nên không cần phải đào, mà khoản chi phí này mới là tốn kém. Chúng ta cũng không cần thuê nhân công, ít nhất cho đến khi chúng ta phát hiện ra cái gì đó đòi hỏi phải có phương tiện vận tải và nhân lực lao động. Tôi nghĩ là chỉ cần một nhóm người đi thăm dò hòn đảo và các hang động. Chi phí sẽ hạn chế ở mức chở người tới đó, mua thực phẩm dự trữ vài tuần lễ và vận chuyển một số thiết bị cần thiết cho nghiên cứu. Các khoản này không tốn bao nhiêu. Sau này… nếu khi chúng ta phát hiện ra điều gì thú vị thì có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu. Nếu như dự kiến của tôi được chấp nhận, tôi sẽ dành hai đến ba tuần lễ để lập dự toán, kế hoạch vận tải, danh mục đồ dùng và giải quyết các thủ tục cần thiết. Cô ngưng lời, giáo sư Lee mỉm cười. - Các bạn nghĩ gì về dự kiến của cô Caroline Beacon? – ông lại đưa mắt nhìn mọi người.
Cô gái trẻ có mái tóc đen, dài, xoã xuống ngang vai ngẩng đầu lên nhìn Caroline, vẻ thiện cảm. Cặp mắt cô ta đen, và theo Alex nghĩ, nó phù hợp với khuôn mặt của một vũ nữ Tây Ban Nha hơn là khuôn mặt của nhà khảo cổ người Anh. Tên cô ta là gì nhỉ? – Anh nghĩ – Sanders? Phải rồi, có lẽ là Sanders… - Theo chị thì số lượng người và thời gian ở lại Keros là bao nhiêu? Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ khác nữa, hơn nữa một chuyến đi như vậy chưa được dự kiến trong kế hoạch của năm nay có phải không? - Tôi biết điều đó, Mary ạ - Caroline nói giọng buồn hẳn – Dĩ nhiên là tôi không thể đưa ra cái gì làm đảo lộn công việc của nhóm. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta cùng đi tới đó, làm việc ở đó từ ba đến bốn tuần tuỳ thuộc vào kết quả nghiên cứu. Còn về thời gian, thì… - cô hơi ngập ngừng – trong tháng tám toàn Viện hầu như không làm việc và… Tôi không rõ liệu giáo sư có đồng ý như vậy không? Cô nhìn giáo sư Hugo Lee nửa muốn hỏi, nửa cầu khẩn. - Vào tháng tám à? - Người thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai, mặt rám nắng kêu lên. Alex có thiện cảm với anh ta ngay từ phút đầu. Anh ta có vầng trán cao, thông minh của người tri thức, cặp mắt lanh lợi, sắc sảo. Anh ta nhìn lên trời, làm điệu bộ sợ hãi một cách khôi hài – Vào tháng tám thì tôi sẽ đi câu cá ở Scotland. Tôi không muốn để mất cái thú vui này. Mặc dù nói như vậy nhưng anh ta vẫn nhìn sang phía giáo sư, vẻ dò hỏi. - Simon Caruthers bỏ phiếu chống – giáo sư Lee nói – Còn ai muốn nói gì nữa không? John. anh nghĩ thế nào? - Ông nhìn sang một người tóc sáng, dáng thể thao, khuôn mặt gần như bị che kín bởi cặp kính cận gọng đồi mồi – Anh có lẽ cũng muốn câu cá trong tháng tám chứ? - Tôi kinh tởm những con cá - người tóc sáng trả lời giọng nhỏ và ấm – Tôi không ăn cá, cũng chẳng câu cá. Tôi không quan tâm đến bất cứ dạng nào của chúng ngoài hình vẽ trên các lọ gốm cổ. - Anh bạn Mellow đã không thích đề tài về cá – giáo sư giang tay – nhưng chúng tôi muốn nghe ý kiến của anh về đề nghị của cô Beacon cơ. - Nếu giáo sư muốn hỏi về điều này, tôi thấy chẳng có gì vướng mắc cả. Người đàn bà quá cố Mỹ hào phóng di chúc cho chúng ta một khoản tiền lớn, còn Caroline đã giải mã được mảnh giấy cổ. Vì vậy tôi không phản đối việc nghỉ hè ở một hòn đảo nào đấy ở Hy Lạp, nhất là đảo không người. Chúng ta đã biết là khó chịu như thế nào khi làm việc trong đám hàng nghìn khách du lịch. Anh ta cười vẻ khinh khỉnh, tháo kính ra lau rồi lại đeo vào. - Pamela và Robert Gordon? – Giáo sư với tay cầm bản dịch của Caroline, đặt trên bàn và bắt đầu đọc lại, thỉnh thoảng lại nhìn về phía cô.
Bộ đạng bên ngoài của Robert Gordon trông giống như một nhà nghiên cứu khoa học kiểu mẫu. Người gầy, điềm tĩnh, hầu như bị hói hoàn toàn, quanh đầu chỉ còn lại một vành tóc sáng cắt ngắn. Joe nhìn sang vợ anh ta. Đấy là một phụ nữ đẹp, trắng trẻo, ôn hoà, một dạng phụ nữ không bao giờ biết nói to là gì. Khi nào bực tức lại nói điềm tĩnh hơn thường lệ. Khuôn mặt được chăm chút cẩn thận theo kiểu phụ nữ Anh chính cống, thuộc tầng lớp trung lưu và mang đầy đủ sắc thái của tầng lớp này. Alex không thích tầng lớp này cũng như kiểu phụ nữ như vậy. - Tôi đồng ý với John – Robert Gordon trả lời sau khi đưa mắt nhìn thấy vợ khẽ gật đầu - Đối với chồng tôi điều này không hề gây cản trở gì vì chúng tôi đã dự định bơi thuyền tới biển Địa Trung Hải trong kỳ nghỉ hè này. - Ái chà! Thuyền buồm cơ à! – Caruthera nói nhanh với cái giọng như thể rất kính trọng người có thuyền nhưng đồng thời cũng vô cùng khinh rẻ họ. Giáo sư liếc nhìn Alex. Trong ánh mắt trẻ trung của ông thoáng thấy sự vui thích. Điều này quá rõ ràng: giáo sư Lee coi tất cả học trò của mình như những đứa trẻ to xác và có lẽ chính vì thế mà ông hỏi ý kiến của họ. - Hừm… - Giáo sư nói, sau một lúc cân nhắc – Đúng, chúng ta có thể coi chuyến công tác ở Keros vào tháng tám là kỳ nghỉ rất thú vị nếu như không có trách nhiệm nặng nề phải gánh vác trước khi lên đường. Tất nhiên ở đó sẽ không có chuyện tắm biển và nằm phơi nắng… mặc dù một số chúng ta thích câu cá thì có thể đi câu vào lúc rỗi rãi. Còn theo đúng thủ tục mà nói, tôi sẽ phải nộp mảnh giấy cổ này cho hàng loạt các hội đồng xem xét và cân nhắc trước mục đích của chuyến đi. Như vậy phải mất một năm hoặc lâu hơn. Sau đó, nếu như các hội đồng chấp thuận thì tôi sẽ phải tiến hành lập hồ sơ lý thuyết và trao đổi với các nhà sử học, địa lý, địa chất trong và ngoài nước. Rồi sau nữa tôi phải đề nghị cô Caroline đang sốt ruột đây viết luận án dưới đầu đề “Những lợi ích có thể đem lại cho khoa học từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt và tầng dưới đảo Keros”. Chà, thậm chí tôi còn có thể phải nhờ người nào đó có uy tín và có tầm cỡ phản biện. Là một giáo sư đầu bạc, có kinh nghiệm và sắp về hưu, tôi có trách nhiệm phải làm như vậy. Nhưng tôi không thích làm theo các con đường mòn cổ hủ ấy. Thực lòng mà nói, mảnh giấy này đã hấp dẫn tôi. Và món quà di chúc lại xem như của trời cho để thực hiện nó. Vì vậy tôi nghĩ rằng chúng ta nên đi tới đó. Hơn nữa các chuyên gia trẻ như các bạn đây cần phải rèn luyện nghiêm chỉnh tại hiện trường khó khăn. Có ai muốn nói thêm gì không? - Không ạ - Caruthers nói sau một lúc im lặng – Có lẽ quanh đảo sẽ có cá chứ nhỉ? - Tôi sợ rằng cậu sẽ phải mua riêng một sà lan để ra biển câu cá – Mellow lau kính đứng dậy nói. - Hòn đảo này có lẽ quá nhỏ nên mỗi lần cậu văng cần câu, có thể sẽ đe doạ ai đó trong bọn mình bị móc mắt mất. - Không bao giờ có chuyện này đâu – Caruthera cười lịch sự một cách giả tạo - Cậu quên là Nữ thần Mê cung sẽ đẩy tất cả chúng ta xuống vực thẳm, còn riêng tớ sẽ được yên ổn vì tớ không muốn quấy rầy bà ta. - Chúng ta hy vọng rằng Nữ thần Mê cung đã bị lãng quên như mọi thứ trên thế giới này. Một khi người ta không thờ thì thánh cũng hết thiêng có phải không? - Giáo sư cũng đứng dậy nháy mắt với Alex. - Chúng ta chưa hẳn đã tin hoàn toàn như vậy - Robert Gordon cúi người trên bàn cầm lấy tờ chúc thư của Perimos đưa lên đọc – Tôi nghĩ rằng lời nguyền đã bắt đầu ứng nghiệm. - Anh định ám chỉ cái gì đấy? – Mary Sanders giật lấy tờ giấy khỏi tay của Gordon và đọc lướt nhanh. - Tôi nghĩ về cái bà đã tặng tiền cho chúng ta đi chơi. Có thể coi bà ta là người khởi xướng ra chuyến đi này vì nhờ bà chúng ta sẽ phá rối sự yên tĩnh của Nữ thần Mê cung. - Thế thì đã sao? Caruthers nhíu mày - Cậu nói cứ như thấy bói ấy. - Không đâu. Bà ấy đã chết rồi phải không? Tức là đã rơi vào vực thẳm. Và tên của bà ta cũng biến mất, bởi vì bà ấy đã giấu tên tuổi của mình.
Anh ta khẽ cười lấy làm hài lòng về câu đùa của mình.
Vài tháng sau, Joe Alex đã phải nhớ lại cái lúc này và cân nhắc rất lâu, liệu anh có thể giúp họ tránh được tai hoạ nếu như sau lời nói đùa đó anh đã linh cảm được một điều gì chẳng lành. Thế nhưng, cả anh cũng như nhiều người khác không có khả năng đoán trước được cái gì sẽ đến. Họ cùng cười vui vẻ sau câu đùa không có ẩn ý gì của Gordon.
Chú thích: (1) Scotland Yard – cơ quan hình sự và mật vụ của Anh.
Nữ Thần Mê Cung - Joe Alex - Nguồn: vnthuquan.net(new:chuong V)
Chương V
HỌ ĐÃ NGHĨ GÌ NGÀY HÔM ĐÓ…
Thời gian trôi qua. Joe Alex đã viết xong một cuốn sách và đang viết cuốn tiếp theo. Anh ngồi bên bàn viết nhưng trong đầu nghĩ về Caroline. Anh đợi điện thoại của cô. Tất cả các thủ tục đã làm xong và chuyến công tác sẽ được khởi hành sau vài ngày nữa. Họ sẽ lại chia tay nhau, tuy chỉ vài tuần, nhưng sau đó là mùa thu. Mùa đông họ dự định sẽ cùng nhau đi nghỉ ở một nơi nào đó ven biển Châu Âu ấm áp, họ sẽ tránh mọi người bằng cách không cho ai biết địa chỉ cả. Bây giờ thì khó có thể nói cho Caroline cái kế hoạch này. Cô rất muốn tới Kenos. Anh cảm thấy rằng cô tin vào mảnh giấy của Perimos một cách ngây thơ như đứa trẻ vậy. Cô tin một cách tuyệt đối rằng chỉ cần được tới hòn đảo đó, tìm kiếm kỹ một tý là trước mắt sẽ hiện lên một cái đền thờ Nữ thần mê cung, trong đó có một chìa khóa giải mã mọi bí ẩn của đời sống người dân Crêt. Hai tháng lại đây cô sống bằng viễn cảnh của chuyến đi. Ngay hôm sau, hai thành viên của đoàn khảo cổ sẽ lên đường. Đó là Pamela và Robert Gordon, họ sẽ khởi hành trên chiếc thuyền buồm nhỏ xinh xắn của họ. Anh nhìn đồng hồ. Bốn giờ kém năm, Caroline chắc sẽ gọi điện ngay bây giờ. Họ dự định đi ra biển để tiễn vợ chồng Gordon. ****
Simon Caruthers đang thắt ca-vat trước gương, trong chiếc buồng hẹp của căn hộ ở Mendow Street. Anh vuốt thẳng chiếc cổ áo, tự ngắm mình một cách hãnh diện. Phải, anh chắc chắn là người đẹp trai. Tuy nhiên, lúc này không nghĩ tới điều đó. Anh khoác chiếc áo vét và bước vào phòng. Trên bàn để tờ giấy dày đặc số và ký hiệu. Caruthers cầm tờ giấy lên đọc lướt qua. Anh nhíu mày. Có thể như thế này sẽ đạt được kết quả. Có thể nhưng chắc. Anh nhìn lại một lần nữa và lắc đầu đặt xuống bàn. Anh đang ngồi suốt bốn giờ đồng hồ để nghĩ ra một cách chơi xổ số thể thao nhằm đoạt giải độc đắc một trăm nghìn bảng. Nhưng cách chơi này vẫn chưa hoàn chỉnh. - Trời ơi - Caruthers lẩm bẩm – Tại sao mình lại không gặp may nhỉ? Mình thuộc loại thông minh cơ mà … thực sự thông minh. Mìình không biết mình có phải là một người trí thức đặc biệt không? Có lẽ không. Điều này chẳng có nghĩa lý gì trên thế giới cả . – Anh liếc nhìn đồng hồ. Bốn giờ kém năm, Anh định ngồi suy nghĩ thêm về cách chơi nhưng không còn thời gian nữa. Anh phải ra bến chia tay với Gordon vì một giờ nữa họ sẽ rời bến. Chỗ bạn bè mà. Mọi người và cả giáo sư chắc cũng tới – Một thằng ngốc đáng nguyền rủa - nhưng từ này không phải dành cho giáo sư Lee mà là dành cho Gordon - một kẻ tầm thường, có trí thông minh của một con lừa nhưng lại được số phận nâng đỡ. Trời ơi, giá mình có chỉ được một phần mười số tiền của nó thôi. Mình sẽ viết sách và không sợ những thằng cha cổ hủ và không cần phải ngửa tay xin học bổng trợ cấp. Anh lại cúi xuống nhìn cách tính toán gần như tối ưu của mình. - Rồi xem … - Anh lẩm bẩm, cầm lấy mũ phớt và đi ra khỏi nhà.
*** Pamela Gordon đang đứng trên chiếc thuyền buồm xinh xắn có gắn máy, trên mũi thuyền màu da trời nổi bật tên thuyền, là tên của cô. Cô nghe thấy bước chân của Gordon đang chất vào trong khoang các hòm mà Caroline gửi họ mang đi trước, Caroline chịu trách nhiệm về toàn bộ chuyến đi. Trong hòm có các thiết bị nghiên cứu, máy chữ, giấy, bìa vẽ, cùng hàng trăm thứ lặt vặt cần thiết khác. Thực phẩm và hành lý cá nhân sẽ được mang đi với người theo tàu thủy tới Hy Lạp. Pamela ngả người trên cần lái, đưa mắt nhìn bờ biển ẩm ướt. Giờ này vẫn chưa có ai. Chắc họ sắp tới. Chỉ tí nữa thôi vợ chồng chị sẽ rời bến, Gordon sẽ mở máy và họ sẽ đi dọc theo sông Thames ra cửa biển. Sau đó là kênh La Manche, nước Pháp, bờ biển Tây Ban Nha, eo biển Gilbranta và chặng đường dài dưới nắng nóng trên biển Địa Trung Hải. Chị hơi mỉm cười. Không một ai lại nghĩ rằng niềm vui sướng nhất của Pamela Gordon lại là được lái thuyền trong lúc biển động. Chị là người can đảm, biết suy xét và không bao giờ bị mất bình tĩnh. Gordon trèo lên mui thuyền lấy tay lau mồ hôi trên mặt và mỉm cười với vợ. Chị đáp lại bằng nụ cười. - Mọi thứ sẵn sàng rồi chứ? - Chị hỏi - Rồi. Chúng ta có thể khởi hành. - Chúng ta phải đợi họ đã? - chị nhẹ nhàng sửa lại cổ áo sơ mi cho chồng bị quăn. – Robert anh có biết là em rất sung sướng không? - Em nghĩ là chúng ta sẽ tìm thấy gì trên đảo Keros? - giọng nói của anh đầy sự hoài nghi - Mảnh giấy này rất thú vị, nhưng quả thực anh ngạc nhiên khi giáo sư nhanh chóng quyết định lên đường. Chúng ta đã biết gì về hòn đảo này đâu… - Ôi, em có nói về cái hòn đảo này đâu. Mặc kệ nó. Em đang nghĩ về chuyến đi biển của chúng ta cơ. Chưa bao giờ người ta lại cảm thây gần gũi với nhau như đi trên biển trong khoang thuyền chật hẹp – cô lấy chân đạp khẽ xuống sàn thuyền - Em thích chúng ta sẽ hoàn toàn một mình với nhau suốt một tuần lênh đênh trên sông - Chị lại đặt khẽ bàn tay lên vai chồng rồi quay đi. Chị đi về phía bánh lái và nhìn lên bờ. Chị đang đợi. Simon Caruthers sẽ tới trong chốc lát.
Hai năm trước đây, khi Robert Gordon được thừa hưởng một gia tài kếch xù do cha để lại, Pamela đã quyết định ngay là sẽ trở thành vợ anh. Mặc dù vậy, không một giây phút nào cô ngừng yêu Simon Caruthers. Tình yêu của chị với Simon là tình cảm nóng bỏng thiếu chín chắn nhất trong con người phụ nữ lạnh lùng và tỉnh táo này. Điều này chị cũng không biết làm thế nào để tránh khỏi.
*** John Mellow vẫy taxi và chui vào xe một cách khó nhọc vì nó quá hẹp so với khổ người của anh. Dựa tấm lưng to bè vào đệm ghế, anh cảm thấy mệt mỏi. Suốt đêm qua anh phải hiệu đính lại quyển sách được viết từ nhiều năm nay. Lẽ ra anh phải cảm thấy vui khi nghĩ về quyển sách này vì trước họ chưa có ai tổng hợp một vấn đề rộng đến như vậy, nhưng trong thâm tâm anh lại cho rằng việc hợp tác cùng với Gordon viết chung quyển sách này là một sai lầm lớn nhất trong đời. Không phải Gordon không đủ thông tin cần thiết về đồ gốm Crêt. Nguợc lại người bạn của anh biết vấn đề này rõ hơn ai hết từ truớc đến nay. Nhưng quyển sách của họ không phải loại bách khoa thư. Tầm quan trọng của đồ gốm trong khảo cổ học không lấy gì ghê gớm lắm, nó chỉ dùng để xác định niên đại của thành phố, vương quốc của nền văn minh. Vì vậy những giả thuyết rút ra từ việc hệ thống hoá đồ gốm cổ mới là điều quan trọng. Họ đã nêu một vài giả thuyết mới có ý nghĩa quan trọng và làm thay đổi quan điểm từ truớc tới nay về niên đại của một số nhóm đồ gốm Crêt. Những giả thuyết này là cơ sở tuyệt vời và tạo nên giá trị cho tác phẩm của họ. Mặc dù trên bìa cuốn sách sẽ có hai cái tên, nhưng John Mellow biết rằng tất cả những cái gì có giá trị mới đều đuợc rút ra từ bộ não của anh, Gordon không phải là người phát minh. Anh ta chỉ là người thợ cần cù, chăm chỉ, có ích cho công việc đòi hỏi sự cần mẫn như là công tác khảo cổ. Còn việc đối chứng những vấn đề tưởng chừng cách xa nhau, hoặc mạnh dạn phê phán những quan điểm do người khác trong quá khứ đã đưa ra thì chẳng bao giờ xuất hiện trong đầu anh ta cả.
Mellow thở dài. Anh không bao giờ hé ra với ai là anh bị ăn cắp. Điều tệ hại hơn là bản thân kẻ ăn cắp lại không biết điều đó, Gordon rất dè dặt đồng ý để đưa vào cuốn sách những điều mà anh ta không hiểu. Nhưng khi đã hiểu ra rồi thì anh lại đưa đến hàng tá những điều vụn vặt để nhằm củng cố các kết luận. Điều đó là cần thiết nhưng liệu nó có ý nghĩa cơ bản không?
Mellow lại thở dài. - Thôi, sẽ không bao giờ để lặp lại nữa … - Anh lẩm bẩm. Xe taxi chạy nhanh trên đường nhựa rộng dọc theo bờ sông. Trên sông có đến một rừng cột buồm và bóng dáng lênh khênh của những chiếc cẩu cảng. John nghĩ thoáng qua về biển rồi lại về Gordon. Chiếc thuyền buồm nhỏ này sẽ bơi qua vùng vịnh Biskay. Từ hồi còn học sinh, Mellow nhớ rằng có đến một nửa số nhân vật chính trong các truyện phiêu lưu trên biển đều kết cục thảm thương ở vùng vịnh Biskay đầy giông tố. Nếu như có một con sóng lớn nào lật chìm cái con thuyền bé nhỏ này thì có thể sẽ hơi buồn nhưng có lẽ công bằng với quyển sách về đồ gốm Crêt. Nếu không chẳng bao lâu nữa quyển sách sẽ đem lại niềm vinh quang không xứng đáng cho Robert Gordon.
Mellow vẫn mãi nghĩ ngợi thêm một lúc nữa vì bản thân anh sẽ xúc động như thế nào về tin chiếc thuyền buồm “Pamela” bị chìm. Phải, đó sẽ là một chuyện bi thảm thực sự … anh bạn Gordon đáng mến của chúng ta không phải là nhà khoa học đầu đàn, nhưng đó cũng là một tổn thất lớn lao cho tất cả chúng ta và… mặc dù anh ta không phải là một nhà khoa học chân chính. Không thuộc loại tài năng nhưng phải nói là anh ta cũng chân thực, một người bạn đáng mến.
Luồng suy nghĩ của anh bị cắt đứt bởi vòng cua đột ngột của xe tắc xi. Truớc mắt anh chiếc “Pamela” đã hiện ra, màu da trời, thon dài lịch sự đang thả neo trên bến.
*** Giáo sư Hugh Lee ra khỏi nhà, buớc chân ông nhanh nhẹn thoải mái mặc dù tóc đã bạc và mặt cổ có nhiều nếp nhăn. Ông qua đường tiến tới xe của mình đang để ở phía bên kia hè. Xe chuyển bánh. Ngồi sau tay lái, ông nghĩ về Robert Gordon. Chốc nữa ông sẽ chia tay với anh ta để rồi gặp lại nhau ở đảo Keros sau vài ngày nữa. Ông là người chỉ huy nhóm nghiên cứu, người thầy và là người cha tinh thần của họ, nhưng không một ai biết rằng ông luôn luôn nghĩ về Robert Gordon từ nhiều năm khi Robert hãy còn là một đứa trẻ con. Ông không nghĩ rằng một ngày nào đó nó sẽ trở thành nhà khảo cổ.
Trong suốt những năm đó, ý nghĩ về Robert Gordon đã làm đau đớn thâm tâm giáo sư Hugh Lee.
*** Mary Sanders hãy còn trần truồng trong buồng tắm. Cô đang chải mớ tóc đen, dài óng ả của mình. Liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay bé tí tẹo mà cô cởi ra khi tắm đang treo trên chiếc móc khăn mặt. Bốn giờ kém năm. Bàn tay cầm lược vội chuyển động nhanh hơn. - Mẹ ơi!
Mary sống cùng với mẹ trong một căn hộ ba phòng nhỏ ở tầng một của một ngôi nhà lớn. Ngôi nhà này trước đây của cha cô. Khi cha cô mất, cô mới mười sáu tuổi. Mẹ cô không đủ tài ba để duy trì cửa hàng đồ cổ. Hơn nữa sự cạnh tranh của các hãng buôn đồ cổ lớn vượt quá sức của người đàn bà đã già yếu này. Bà bán cửa hiệu, bán nhà và bộ sưu tập cổ, chỉ giữ lại phần buồng ở. Số lãi tiết kiệm hàng tháng vừa đủ để duy trì cuộc sống của hai mẹ con và cho cô học hành. Thỉnh thoảng lại phải chi thêm từ vốn. Hiện nay nếu không có thêm luơng của Mary thì có lẽ họ sẽ sống ở mức trên nghèo một tý. Mỗi một sự vi phạm ngân sách hàng tháng dù nhỏ nhặt nhất cũng có thể gây tai hoạ lớn. Bây giờ, nhờ khả năng tháo vát của bà mẹ nên Mary không bị thua kém bạn bè là mấy, mặc dù loại váy cô mặc thuộc loại vải tồi hơn của Caroline Beacon. Còn đồ trang điểm thì không thể so với những thứ đắt tiền nhưng kín đáo của Pamela Gordon. Cô nhíu mày cau có: - Mẹ ơi ! Đưa cho con cái váy màu mận chín nào! Nhanh lên không con muộn mất! - Váy đã sẵn sàng rồi đây! - Giọng mẹ cô từ tốn. Mary chạy ra buồng mình mặc vội vàng. Cô vẫn đang nghĩ ngợi về Robert Gordon. Cô đã cố quên anh ta đi, không, không, không phải anh ta mà là cái sự việc ấy. Đã mấy năm qua rồi nhưng cô vẫn không làm sao quên được. Hôm nay cô lại nghĩ tới nó từ sáng. - Có lẽ vì họ rời bến hôm nay chăng? – cô nói thầm, chân xỏ vội vào giày. Phải, có lẽ do cái kỷ niệm không hay ho ấy lại liên quan tới sự ra khơi của thuyền “Pamela”. Có lẽ là như vậy. - Một thằng ngốc đáng nguyền rủa – cô nghĩ mà không biết rằng đúng vào lúc đó Simon Caruthers cũng nói như vậy về Robert Gordon - một kẻ đáng nguyền rủa. Đáng lẽ mình phải nhìn thấy trước sự có mặt của hắn ở đấy chứ.
Sự việc mà cô đang nghĩ về nó là sự việc duy nhất trên đời, cô muốn quên đi mà không được.
Đó là vào kỳ thực tập cuối cùng trước khi tốt nghiệp, mọi người tham gia khai quật khu thành cổ do người La Mã xây dựng ngăn chia nước Anh và Scốt len. Cô nhớ rất rõ cái buổi sáng hôm đó. họ đang sàng đất giữa móng của tưòng thành và một ngôi nhà vừa mới đào lộ ra cách đấy vài tuần. Đó cũng là thời kỳ mà việc mua một đôi tất dài, mới, là một khoản chi phí thực sự quan trọng. Vừa sàng đất, cô vừa nghĩ về đôi tất. Các mảnh vật như tiền cổ, sắt rỉ, mảnh sứ vỡ được sàng ra để vào hộp giấy bên cạnh. Bỗng nhiên trên mặt sàng ánh lên màu của một chiếc nhẫn vàng, tròn, nặng sáng và nhẵn bóng như thể ai vừa mới chôn cách đây một giờ dưới đất. Không nghĩ ngợi gì, Mary cúi người nhặt chiếc nhẫn và đút ngay vào túi quần. Cô nhìn quanh. Bên cạnh đấy vài bước chân, Robert Gordon vẫn đang sàng cát một cách cần mẫn. Không có một ai nữa ở quanh đấy.
Vào lúc nghỉ buổi chiều họ phải nộp lưu tất cả những vật tìm thấy và đánh dấu vị trí, độ sâu của vật trên bản đồ hiện trường. Người thủ kho lưu trữ có một chiếc bàn nhỏ trước lều để thu nhận các vật tìm thấy khi khai quật. Mary viết tờ khai kèm theo cái hộp giấy đựng các vật tìm thấy của mình. Cô giao nộp xong và quay đi thì nghe thấy giọng nói bình thản của Gordon: - Tôi nghĩ là hình như bạn đã quên khai chiếc nhẫn vàng mà bạn tìm thấy lúc sáng phải không? - À vâng, cảm ơn bạn đã nhắc tôi, Robert. Tôi đã cho nó vào túi quần vì tôi sợ đánh rơi mất nó. Giọng cô hoàn toàn bình tĩnh. Cô quay lại mang nộp cho người thủ kho chiếc nhẫn, đánh dấu vào bản đồ nơi tìm thấy nó rồi đi. Tất cả chỉ có vậy. Sau này không bao giờ họ nói với nhau về việc này. Nhưng cô có cảm giác rằng lúc nào Gordon cũng nhìn cô với một vẻ khinh bỉ thầm kín. Điều tệ hại nhất đối với cô là Gordon có lý khi nhìn cô như vậy. Mặc dù cô không bao giờ chịu thừa nhận việc này trước bất kỳ người nào, nhưng Mary Sanders tự biết rằng cô sẽ ăn cắp chiếc nhẫn đó nếu Gordon không nói. Trong công tác khảo cổ việc ăn cắp đồ vật khai quật là một tội phạm lớn nhất, giống như lừa đảo vậy.
Từ ngày ấy cô trở thành người làm việc mẫn cán nhất trong nhóm. Cô cũng tự xác định rặng nếu cô làm việc chỉ có một mình mà đào đựoc viên ngọc to bằng cái bánh mì chăng nữa thì chắc chắn cô cũng sẽ đem nộp ngay không do dự một giây.
Nhưng cũng chính vì thế mà Mary Sanders căm thù Robert Gordon hơn ai hết. Cô cầu mong cho anh ta chết đi, chỉ khi đôi mắt của anh ta nhắm vĩnh viễn thì cô mới có thể thở phào nhẹ nhõm và quên được chuyện này.
**** Sau những lời tạm biệt, chiếc thuyền từ từ rời bến, chân vịt làm sủi bọt trên mặt nước đầy váng dầu và một lúc sau đã biến nhất trong màn sương mờ của buổi chiều tối. Mọi người chậm rãi đi bộ dọc theo bờ biển một lúc rồi tản ra, mỗi người một ngả. Chỉ còn lại Alex với Caroline. - Chúng ta cũng lên xe về chứ? – Anh hỏi. - Chúng ta hãy đi dạo một lúc đã – cô chỉ tay về phía con đuờng chạy vòng theo bến cảng đi về phía những dãy nhà màu xám từ thế kỷ mười chín.
Họ chậm rãi đi bên nhau trong ánh nắng nhạt dần của mặt trời đang lặn, Joe cứ im lặng suốt cả thời gian, cuối cùng anh lắc đầu nói vẻ thiếu tin tưởng. - Cái thuyền buồm này thuộc loại đắt tiền nhất mà anh được trông thấy từ trước đến nay. Nó là cả một tài sản lớn. Anh không ngờ rằng công việc của một nhà khảo cổ trẻ tuổi lại đem lại lợi nhuận vật chất lớn đến như vậy. Caroline cười: - Đồ đạc của em như anh thấy đây, không đủ để mua lấy một chiếc ô tô và nếu như không có bố mẹ cho thêm thì em không thể tự sống độc lập ở Luân Đôn được. Anh thì có quá nhiều tiền nên không thể hiểu nổi những khó khăn vất vả của người dân thường đâu. - Nhưng vợ chồng Gordon trông cũng như những người dân thường đấy chứ? Thế mà cái thuyền của họ đáng giá bao nhiêu tiền? - Ồ, đối với Gordon thì đó lại là chuyện khác. Trong suốt một thời gian dài anh ta cũng ở trong tình trạng kinh tế như tất cả chúng em thôi. Cách đây hai năm, bố anh ta mất, để lại một gia sản. Gordon rất kín đáo nên mặc dù em biết anh ta từ thời sinh viên nhưng vẫn không biết là anh ta có bố. Anh ta đã sống cô độc và không bao giờ nói gì về gia đình của mình. - Thật là kỳ lạ…. - Vâng, đúng thế, nhưng Gordon là… - Anh không nói về Gordon mà anh nói về em. - Về em à? - Trong ráng chiều đỏ ối như thế này trông em đẹp một cách diệu kỳ. Anh lấy làm kinh ngạc là Gordon lại yêu Pamela trong khi em bên cạnh trong suốt bao nhiêu năm. - Em không thể nào yêu Gordon được – cô lắc đầu một cách dứt khoát – Không, anh ta quá nghiêm chỉnh. Em nói thật đấy, đó chưa phải là lý do xác đáng, nhưng ở anh ta có một cái gì… - cô ngừng lại - để người ta kính trọng chứ không phải để yêu – cô cười to – Anh biết em muốn nói gì chứ, em không biết chọn từ nào cho đẹp mà, Phụ nữ không bao giờ nói cụ thể cả. Em biết chắc là Gordon không thể yêu như những người bình thường được. Anh ta quá lãnh đạm. Phải, đấy là từ hợp phù hợp nhất: lãnh đạm. Có những người nghiêm chỉnh, nhưng có thể cảm thấy rằng dưới vẻ bình thản của họ có cái gì đấy đang sôi lên và sẽ bật ra khỏi vỏ khi có dịp. Nhưng Gordon thì vỏ bên ngoài và nội tâm như nhau. Khi nhìn anh ta, em có cảm tưởng rằng trong lồng ngực anh ta không phải có quả tim đang đập mà chỉ có quả lắc đang đều đặn làm việc, không nhanh cũng không chậm. - Thế nhưng Pamela lại yêu anh ta? Caroline lườm nhanh anh một cái. - Tất nhiên – cô nói khẽ - nhưng đó là một câu chuyện dài. Thế là chúng ta quay lại chủ đề này. - Chủ đề nào cơ? – Joe đang ngắm nhìn ngọn cây bên đường vội quay sang hỏi. - Em nói về bố anh ta. Em không biết kỹ về chuyện này nhưng nghe nói họ đối xử với nhau không tốt lắm. Đã có trường hợp giữa bố và con hoàn toàn không hiểu nhau. Em dám cuộc rằng Robert không sử dụng tiền của bố anh ta khi ông bố còn sống. Phải đến khi ông ta chết, anh ta trở thành người thừa kế duy nhất thì anh ta mới nhận số tiền nay. Có lẽ đó là một số tiền lớn, chúng ta tin như vậy và cả Pamela cũng thế.
Cô im bặt. Joe chợt nhớ rằng ngày hôm nay anh còn phải viết hai chục trang sách nữa, vì vậy anh hỏi cho qua chuyện. - Vậy thì theo em cô ta cũng không thể yêu Gordon được à? - Em không biết. Nhưng em biết chắc rằng Gordon đã không có hy vọng được cô ta yêu dù cho suốt ngày chỉ mơ tới cô ta. Em cũng cho rằng thậm chí Pamela đã yêu một người khác. Nhưng chị ấy lấy anh ta chỉ một tháng ngay sau khi anh ta được thừa kế gia tài. Đó là một cô gái biết tính toán. - Tại sao có nhiều tiền như vậy mà họ vẫn ở lại nhóm nghiên cứu của em? - Thì điều đó đã sao trong trường hợp này? Robert thực sự yêu công tác khảo cổ. anh ta có triển vọng trở thành nhà khoa học tầm cỡ và chắc là danh hiệu giáo sư đang chờ đợi anh ta. Anh ta làm việc rất chăm chỉ, mấy năm nay anh ta viết chung một quyển sách với John Mellow về đồ gốm Crêt. Họ đã viết gần xong, có lẽ đó sẽ là tác phẩm đầu tiên trên thế giới viết về đề tài này. Em tin chắc nếu như bọn em tìm được tới Nữ thần Mê cung thì họ sẽ có thêm nhiều tư liệu có giá trị. Việc này đối với họ cũng là một cơ hội lớn: nếu chúng em tìm thấy ngôi đền còn nguyên vẹn thì ở đó sẽ có hàng trăm cổ vật bằng gốm. Đó sẽ là sự kiện cực kỳ quan trọng. Anh hãy nhớ rằng đồ gốm là đồng hồ của khảo cổ, nhờ nó mà chúng ta xác định được niên đại khu khai quật. Phát hiện này sẽ lấp đầy những chỗ trống trong hệ thống phân loại đồ gốm…. - Thế Pamela Gordon có giúp chồng mình không? Caroline lắc đầu: - Có lẽ không đâu. Chị ta và Caruthers đi chuyên về kiến trúc và vấn đề quy hoạch dân cư, đó là một lĩnh vực rất quan trọng trong công việc của chúng em.. Anh không thể tưởng tượng nổi một nhà chuyên môn giỏi có thể nói được những gì nếu như ông ta nghiên cứu kỹ lưỡng một mảnh tường vỡ hoặc một mảng sàn cổ. Caruthers rất có năng lực, mọi người đều phải thừa nhận rằng anh ta nổi bật nhất nhóm. Nhưng anh ta lại không chịu quan tâm tới những chi tiết nhỏ mà một nhà khảo cổ phải chú ý, anh ta chỉ thích tìm ngay ra những quy luật lớn. Giáo sư Lee có lần đã nói anh ta có máu phóng viên, có lẽ ông đã không lầm. Trong khảo cổ học không được chạy theo những cái giật gân, những thứ này… Joe mặc dù rất có cảm tình với Caruthers nhưng phải vội vàng chuyển hướng câu chuyện. - Thế còn Pamela Gordon? - Pamela bù lại cho anh ta – Caroline mỉm cười - mặc dù khó có thể nói chị ấy là người nổi bật. Trước đây khi chưa là vợ của Gordon, chị ấy giúp đỡ Caruthers rất nhiều. Pamela giống như một con ong: cả ngày làm việc cần cù chăm chỉ, tối đến ngủ ngon lành với cảm giác đã hoàn thành nhiệm vụ. Không làm hơn mà cũng không làm kém. Có thể em không nên nói như vậy về chị ấy. Nói chung thì những người như vậy là trụ cột của xã hội. Pamela quả thực là một người bạn đáng tin cậy. - Tất nhiên rồi, thế còn cô Sanders? Có phải đó là cái cô trẻ nhất, da ngăm ngăm không? - À, Mary thì lại hoàn toàn khác hẳn Pamela. Mary là bạn thân của em mà. Cả hai chúng em đều quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ cổ. Rất may là chúng em đi vào lĩnh vực chuyên sâu rất khác nhau, cho nên chúng em sống hòa thuận. Em có thể sống trong tình bạn thân thiết với Mary bất cứ trường hợp nào. - Còn giáo sư? - Giáo sư là người cao hơn tất cả. Ông đối với chúng em như trời phật ấy. Anh không biết được là ông ấy giỏi như thế nào. Ông quan tâm dạy dỗ bọn em, bọn em phục tùng không phải do kỷ luật mà vì ông biết hơn tất cả bọn em cộng lại. Khi nào ông mất đi – cô nói nhỏ lại – chúng em sẽ trở nên cô độc và trưởng thành. Và chúng em sẽ dạy lại những người trẻ hơn. Nhưng không làm được như ông ấy đâu. Những người như giáo sư Lee hiếm có lắm.
Chiều hôm ấy họ đi ăn tối và cùng nhau nhảy cho đến sáng trong một quán ăn nhỏ mà trước đây họ chưa từng lui tới. Đèn ở đó mờ ảo và dàn nhạc chơi êm dịu. Nhưng buổi tối đó không để lại ấn tượng sâu sắc cho Joe Alex bởi vì suốt cả thời gian cô chỉ nói về một đề tài: Hòn đảo Keros