Đạo học Phật Giáo khác với các môn phái thần bí khác ở chỗ nó dựa vào sự dọn mình có phương pháp để bước vào đời sống nhiệm mầu. Ngành đạo đức này biến việc định tâm thành một nghệ thuật, trong đó phần kỹ thuật không chỉ đóng vai trò đích thực của nó như trong các ngành nghệ thuật khác, mà còn chiếm một vị trí rộng lớn lạ thường. Như vậy, Đạo học Phật Giáo đã làm một việc có công đức khôn lường là cứu sự tu luyện tâm linh thoát khỏi cảnh may nhờ rủi chịu. Hơn nữa, ngành Đạo học này còn trình bày những nổ lực được tập trung để đạt đến sự trầm lắng như một "đường lối" và không nơi nào khác có được đường lối tức phương pháp định tâm đạt tới mức quan trọng căn bản như thế.
Có thể nói Á Đông đã nhờ vào đường lối của Đức Phật tức "Đạo Phật", "Phật Pháp" rất nhiều. Đường lối này đã tạo ra một mẫu người tu hành độc đáo. Đối với chúng ta thì không cần tìm xem trình độ thượng thừa mà thời xưa đã đạt có còn lưu giữ khắp nơi trong Phật cho đến ngày nay hay không, cũng chẳng cần biết phương pháp tu hành chặt chẽ có trở nên lề thói quen thuộc hoặc giác ngộ có biến thành tri thức bí truyền hay không.
Cái mà chúng ta quan tâm là Thiền tông Phật Giáo. Ở đây sẽ không đề cập tới thời điểm, cách thức và người nào khởi xướng tông phái này, mà chỉ bàn luận tại sao Thiền mặc dù bắt nguồn từ Đạo Phật, nhưng xét về phương pháp tu tập thì lại phát triển thành một hướng đi khác biệt với bí pháp định tâm cổ điển của Phật Giáo.
Có điều đáng lưu ý là trong Phật Giáo, sự giác ngộ nằm ngay trong sự nhìn thấy tỏ sáng những chân lý mà công việc định tâm cũng dựa vào đó để bắt đầu. Những cảm nhận bên trong từng thôi thúc người ta xa lánh đời thường, bây giờ lại nổi lên dưới hình thức trừu tượng, không còn mọi cảm xúc lộn xộn, và như vậy chứng thực cho sự thấy biết bắt đầu của Đức Phật đã khiến Ngài bước vào con đường tu hành dẫn đến giác ngộ. Vậy phải chăng có thể giải thích kết quả này bằng sự kiện là chủ đề để hành Thiền trở thành một ý niệm cố định, không thay đổi như đã từng là thế?
Người theo đạo Phật bắt đầu với giả thuyết sống ở đời là khổ, nhưng giả sử họ thấy biết ban đầu khác đi, sống được xem là đáng hưởng thụ, và cõi đời là thuận hợp sướng vui, thì chẳng lẽ sự giác ngộ cũng nhuốm màu theo đó hay sao? Lúc ấy nếu có người mong mỏi thoát ra khỏi cõi đời sướng vui thuận hợp này thì quả là khó hiểu!
Rõ ràng chưa có ai định tâm theo chiều hướng đó vượt được chính bản thân mình, nghĩa là vượt ra khỏi vòng suy tính được mất, sướng khổ v.v... mà chỉ có thể đạt đến trạng thái hững hờ, lãnh đạm rồi tự cho là "vượt qua đến bờ bên kia", là "giải thoát". Vậy thì trạng thái "huyền đồng", "hiệp thông mầu nhiệm" (unio mystica) nhờ cái gì mà có được? Tất cả công việc mà người định tâm đã làm là tách mình ra khỏi những gì không thuộc con người chân thực của mình, nên dù có lắng nghe đến mức sâu nhất của bản thân, người này cũng chỉ tìm thấy chính mình.
Vì vậy, xét đúng lý thì chắc hẳn người ta có thể thực hành định tâm mà không cần chủ đề định sẵn, bước đi mà không cần bám vào một cái gì chắc chắn và khách quan hoặc nương vào một loại giả thuyết triết học nào, và nghiệm thấy cuộc đời chẳng trọn buồn cũng chẳng trọn vui, chẳng đáng ghét cũng chẳng đáng yêu, dù có thể thấy nó vô thưòng tạm bợ. Nên để "triết lý" cho giác ngộ sinh ra; mà giác ngộ là có thật, chính Đức Phật đã hứa hẹn điều đó. Có lẽ sự giác ngộ như vậy sẽ hóa ra khác hẳn trạng thái giác ngộ của Phật Giáo nếu Đức Phật cho thấy điều này chắc chắn là có. Tu hành theo Phật Giáo có một giai đoạn tâm trí dửng dưng, lạnh nhạt khi tu sinh đứng ở điểm trung hòa giữa hai trạng thái biết và không biết, không còn để tâm hướng về cái gì nữa, nhưng khi theo phép định tâm của Phật Giáo, tu sinh luôn bị tất cả những giai đoạn trước đó làm trở ngại.
Điều gì sẽ xảy ra nếu ta định tâm theo cách "không có định kiến" từ đầu, mà chỉ tập lắng sâu vào trong con người mình, trở thành trống vắng hoàn toàn, không theo chương trình nào cả và để mặc cái gì thì đến.
Đây chính là đường lối của Thiền. Chúng ta không thể nói được phải lùi lại bao xa để tìm thấy cái "Không" theo kiểu cách này, nhưng sự tồn tại của Thiền ở Trung Quốc và Nhật Bản cho thấy việc tìm kiếm đã thành công. Sự thành công rạng rỡ đó được chứng minh bằng sự sống của Thiền còn mãi đến ngày nay. Chỉ còn mỗi một điều khó hiểu: Người tu Thiền có lý do gì mà ngoảnh mặt khỏi cuộc đời trong khi xét về quan điểm triết lý thì thái độ của họ với cuộc đời là trung dung? Lịch sử có thể trả lời câu hỏi này: họ biết có giác ngộ và có con đường dẫn đến giác ngộ. Sau cùng, họ có thể cho rằng kinh nghiệm mà họ đã trải qua là "đại giải thoát". Nhưng thoát khỏi cái gì? Và theo ý nghĩa nào?
__________________
Trong Thiền, con người không chiếm vị trí trung tâm như trong thần bí học Âu Tây, nơi mà sự huyền đồng (hiệp thông mầu nhiệm) (unio mystica) dường như là một ơn phước trọn đầy mà con người, chỉ riêng con người, mới được quyền thọ hưởng. Trong muôn loài sinh vật của tạo hóa, chỉ có con người được ban cho khả năng nghiệm biết ơn phước này, và khi đạt được điều đó, con người sẽ bước ra khỏi tình trạng sống ở thế gian. Trạng thái bước ra này gọi là "lìa thể" (xuất thần) (ekstasis): để mất mình rồi tìm thấy lại mình, chết đi rồi sống lại. Cái mà con người tìm thấy lại đó là trung tâm đích thực, là bản ngã không thể chuyển nhượng của y, cái đã bị loại bỏ nhưng lại được lưu giữ trong trạng thái huyền đồng. Trong Thượng đế, trong Thánh thần hoặc bất cứ cái gì khác mà các nhà thần bí học Âu Châu cho là con người thực hiện được sự hiệp thông với và hòa nhập vào đó, cái bản ngã không phải cuối cùng bị tuyệt diệt, mà được cứu rỗi, được ân xá và số phận của nó lại được niêm phong lưu giữ đời đời. Sự "diệt ngã" (làm cái ngã chết đi) là một yêu cầu tạm thời để thực hiện sự hiệp thông tối hậu không chấp nhận tình trạng nhị nguyên vì Thượng đế chỉ nảy sinh trong những linh hồn đã hiến dâng "nguyên thể của mình" làm vật tế lễ cao cả rốt cùng. Nhưng một khi sự sinh đã có, thì nhờ vào sự sinh đó, linh hồn trở thành cái trung tâm được ban cho quyền năng thiêng liêng để tự sống đời đời, tiến hóa hơn lên từ chính bản thân mình như bánh xe lăn mãi của Nietzche (8).
Tuy nhiên, xét theo Thiền, trạng thái sống như thế của con người là trạng thái vừa là "lìa thể" vừa là "tha tâm" (tách xa trung tâm) (ek-centric) dù chúng ta có biết hay không. Con người càng cảm thấy mình là cái tôi, càng cố tăng cường cái tôi này và cố đạt đến sự toàn thiện không thể nào đạt được, thì họ càng quyết liệt bước ra khỏi cái trung tâm sự sống, bấy giờ thì không còn là trung tâm của chính họ nữa, và họ càng làm cho mình lìa xa cái trung tâm ấy.
Đối với người tu Thiền, mọi vật, ngoài con người ra, như thú vật và cỏ cây, đá, đất, không khí, lửa, nước v.v... đều sống an nhiên dựa vào trung tâm của sự sống, không lìa khỏi và cũng không thể lìa khỏi cái trung tâm đó. Nếu con người, đã đi lạc ra khỏi cái trung tâm này, quyết định tìm biết cách sống êm ả và hồn nhiên như muôn vật kia đang sống vì xét cho cùng sống không mưu cầu mục đích, thì chẳng có sự chọn lựa nào khác cho y ngoài sự đảo ngược tận gốc.
Y phải đi ngược lại dọc theo con đường mà muôn nỗi ưu phiền khổ não đã cho thấy đó là con đường lầm lạc, y phải vất bỏ mọi thứ hứa hẹn mang y đến chính cái tôi của mình và từ đó mọi ảo ảnh quyến rũ của một đời sống hưởng thụ những của cải riêng mình để trở về quê xưa sống lại trong "ngôi nhà chân lý" mà vì ham chơi phóng đãng y đã bỏ ra đi để theo đuổi những bóng ma phù ảo khi chưa đủ lông đủ cánh. Y không phải "trở thành như con trẻ" mà như rừng và đá, như hoa và trái, như gió và bão.
Do đó, sự hiệp thông mầu nhiệm hay huyền đồng trong Thiền có thể nghĩa là quay về nhà, phục hồi trạng thái nguyên sơ đã mất, và như vậy, để có thể sống dựa vào trung tâm sự sống như thú vật, cỏ cây cùng muôn loài khác, con người phải đi theo con đường buông bỏ mọi thứ trong mình mang tính lìa tâm.
__________________
Ở Á Đông, sự đảo ngược và trở về nhà này không phải phó mặc cho ngẫu nhiên may rủi. Đường đi thường được chuẩn bị tiến hành có phương pháp nhất là ở Nhật.
Chắc sẽ có người bài bác lối giải thích về cách sống của Thiền tông Phật Giáo với lập luận là người Á Đông, trong suốt quá trình lịch sử của họ và cả đến ngày nay, không bao giờ lìa xa thiên nhiên một cách vô vọng như người Âu Tây. Lập luận này rất đúng và có thể xác minh bằng cách nhìn vào cuộc sống hằng ngày của họ, nhất là trong lãnh vực nghệ thuật, nhưng phải nhận thấy rằng sự gần gũi không hở với thiên nhiên vẫn còn xa hơn sự gần gũi với Thiền. Thiên nhiên, dù xét bằng lý trí, không phải là cái chân lý bao trùm tất cả mà dựa theo đó Thiền tìm cách sống. Cũng chẳng ích lợi gì khi nêu ra rằng người Á Đông - đặc biệt là người Nhật - chưa gỡ mình ra khỏi những trói buộc của truyền thống mặc dù cuộc sống của họ trở nên hiện đại trong lãnh vực kinh tế, chính trị và kỹ thuật. Nếu như vậy là không trúng chỗ vì vào lúc Thiền tông Phật Giáo truyền đến Nhật Bản thì không có vấn đề cuộc sống được hiện đại hóa. Như vậy, dù người thời đó vẫn sống gần gũi liền sát với thiên nhiên và chịu sự chi phối của một truyền thống mà họ chấp nhận không hề thắc mắc, điều đó vẫn không ngăn cản người tu Thiền Phật Giáo lúc bấy giờ đừng xem nếp sống an toàn là "lìa tâm", sa đọa và nói cho cùng là một tội lỗi.
Đối với người tu Thiền Phật Giáo, trong cái khả năng sinh tồn phần lớn dựa vào tài soay sở tháo vát của chính mình có bóng dáng của sự sa đọa và tội lỗi. Người đời cảm thấy và tự cho mình là một bản ngã, cái tôi. Sự chấp ngã dẫn đến tính vị kỷ và tự khẳng định mình trước mọi cái không phải là mình và do đó, làm tâm hồn chai cứng. Con người tự cảm thấy mình và cố làm cho mình trở thành trung tâm nếu không ra mặt thì cũng âm thầm. Thái độ này có xu hướng càng ngày càng mãnh liệt, nhưng cũng không nhất thiết phát triển đến cực độ. Đối với người tu Thiền, những manh động vị kỷ đầu tiên của một đứa bé đã là điều khó tránh và nguy hại rồi. Vì vậy, không có lý do gì để bảo rằng người Á Đông chẳng hề lìa xa thiên nhiên như người Âu Tây và vẫn còn sống trong khung cảnh cổ truyền. Điều này không ngăn được một cuộc chiến đấu thường xuyên với tính chấp ngã và kết quả là người ta sống khác xa đời sống bên ngoài con người mình như thể đang bị buộc phải sống, nhưng đồng thời lại sống khác xa tình cảnh bị buộc phải sống như thể đang sống bên ngoài con người mình.
Có mối nguy đặc biệt là người đời (phàm nhân) ở trong một trạng thái không hiểu biết (vô minh) đến độ họ chẳng biết điều này, và dù được nhắc nhở chăng nữa, họ cũng không hiểu nổi. Tính chấp nhận đi kèm với sự nhìn sai sự thật. Cái nhìn của họ rối rắm đến độ không thể thấy sự khác biệt giữa cái họ đang là và cái họ nên là. Trong khi cái họ nên là và phương cách để có thể trở thành cái đó thì không thể được nêu ra trước mặt như một hình ảnh hướng dẫn cụ thể. Đó không phải là một lối sống khác hoặc một phương hướng mới cho đời sống hằng ngày, cũng không phải là một hình ảnh để có thể áp dụng ngay vào thực tế, hoặc là một việc có thể hoàn thành với ý thức và ước muốn, với chủ tâm quyết liệt và cảm giác trách nhiệm. Đó là một cái gì hoàn toàn khác với những điều vừa nói, cái gì đó vượt ngoài ý muốn và lý trí, chỉ có thể hoàn thành nhờ một cuộc chuyển hóa tận gốc.
Đó là lý do vì sao Thiền tông không rao giảng. Các bài thuyết pháp vẫn chỉ là một lời nói. Thiền vẫn đợi chờ đến khi người ta cảm thấy nghẹt thở, bất an và trong lòng có một nỗi khát khao thầm kín thôi thúc.
__________________
Mặc dù sự thấy biết thần bí là huyền nhiệm, khó dò khó tả, nhưng con đường dẫn đến đó không nên có những tính chất như thế, nghĩa là ai có thiện chí cũng bước vào được, dù chỉ đi vài chặng, tùy theo duyên phận xui khiến. Như vậy, ta thấy nơi Thiền có một tính chất thực tiễn gây được niềm tin; bởi thế chẳng đáng ngạc nhiên nếu chính vì lý do đó, mà con đường Thiền cần được phân chia thành từng giai đoạn riêng rẽ trên sơ đồ cũng như về lý thuyết, và việc học tâp các giai đoạn này phải trở thành thói quen đều đặn hằng ngày. Trong Thiền có một lối tập luyện nghiêm ngặt làm người ta thấy nó có vẻ cứng nhắc không hồn. Mọi sự phải tiến hành một cách đúng đắn như kim đồng hồ.
Điều làm cho người Âu Tây hoặc người quen với lối sống Âu Tây hiện đại cảm thấy buồn bực là các vị thầy cổ truyền dường như không chú ý đến những cá tính khác nhau của từng đứa học trò. Những vị thầy này không dung thứ cho những hình thức phát triển cá nhân đặc thù cũng như những kết quả riêng biệt từng người do sự phát triển này mà có; họ trấn áp chúng, khinh thường chúng, cắt gọt mọi thứ theo cùng một mẫu.
Để giải thích điều đó, nếu bảo: "Á Đông vốn là phi cá nhân" thì cũng chẳng ích gì vì các thầy biết rất rõ có những khác biệt ngấm ngầm trong các cá nhân, và họ lại biết chính xác - đây cũng là điều họ khác với người Âu Tây - nơi nào trong phạm vi đạo học những khác biệt này được phép xuất hiện và nơi nào chúng có thể không những được dung chứa mà còn được biện minh thực sự. Và dĩ nhiên đây không phải trên con đường đẫn đến kinh nghiệm thần bí, vì ở đó điều chính yếu là phủ nhận mọi cái có tính cách cá nhân, làm chúng kiệt sức lực để người ta hoàn toàn được "trống vắng" ngay cả những tính chất riêng tư nhất. Bởi lý do này, ở mức cao nhất ta có thể thắc mắc chẳng biết những cái riêng tư mà thiên nhiên phú cho ta thật sự có chút giá trị "cá nhân" nào không? Các vị thầy sẽ trả lời là không - điều này đối với tôi hoàn toàn đúng. Mọi ngóc ngách của cá tính mà chúng ta rất tự hào, có lẽ tận cùng đều là phi cá nhân (chẳng riêng ai).
Các vị thầy đã thành công khi bắt học trò phải chịu đựng cái kỷ luật trông có vẻ vô hồn này nhờ có sự hiểu biết tâm lý lạ thường bởi chính họ đã đi qua con đường như thế; hơn nữa, họ còn có cả một kho kinh nghiệm tích lũy hàng bao thế kỷ để tùy ý sử dụng. Các bậc thầy vĩ đại có thể làm hầu hết những điều đáng kinh ngạc về phương diện này, đôi khi gần như khó tin. Người học trò nào nghi ngờ khả năng nhìn thấu mọi góc cạnh tâm hồn của thầy sẽ biết ngay sự chống đối của mình, dù hữu ý hay theo bản năng đều vô ích. Lẽ tự nhiên, người Á Đông hiếm khi thấy mình lọt vào vị thế này. Sự tôn kính vô hạn đối với thầy dạy nằm ngay trong máu huyết của họ, và đó là một phần trong truyền thống vốn có; vì thầy cho học trò cái quý nhất của mình, và đó cũng sẽ là cái quý nhất của học trò - cái quý nhất theo nghĩa tinh thần. Cái này không hề nằm trong những gì thuộc lý trí có thể bị tách khỏi người cho ban đầu khiến người này bị lãng quên mà nằm trong sự phong phú của năng lực tinh thần mà chỉ ai đã chứng ngộ mới có được và xét đúng lý thì năng lực tinh thần ấy không phải của riêng người này.
__________________
Nếu người học trò có thể được những chứng ngộ tâm linh, thì đó là hoàn toàn nhờ ở thầy. Đối với người thầy, số phận của học trò cũng quan trọng như số phận của chính mình; ông sẵn sàng hy sinh mình để thực hiện phận sự của ông, và trên hết - cần phải nhấn mạnh điều này - người thầy luôn luôn dành thời giờ cho học trò. Do đó mà mối quan hệ của trò đối với Thầy là mối quan hệ dựa vào niềm tin tuyệt đối và sự kính mộ không hề thắc mắc. Về phần mình, người Thầy chấp nhận lòng tri ân, kính trọng và thương thảo như là cái gì đó không phải dành riêng cho cá nhân ông, vì uy lực của ông không phát xuất từ chính ông và từ những gì mà ông đã nổ lực tạo ra cho mình, mà từ sự huyền đồng - hiệp thông mầu nhiệm. Vì vậy, ông thấy trong việc này chẳng có lý do gì để tự mãn cả. Nhưng ông không cấm học trò tỏ sùng bái; mà chấp nhận điều này như là chuyện dĩ nhiên khi học trò vẫn còn lệ thuộc vào sự chỉ đạo tinh thần của ông và chưa tự liên lạc được với trung tâm sự sống. Một khi trung tâm đã được tìm ra, mối quan hệ thầy trò sẽ không còn mang tính chất tin cậy và giao phó, mà là sự tương giao về tri thức.
Bất cứ điều gì thầy yêu cầu đều được người học trò thi hành, không phải vì tính vồn vã phô trương của một người muốn tiến thân trong tôn giáo (những người học trò có tính như thế rất dễ bỏ học nửa chừng), mà phát xuất từ sự thúc đẩy nội tâm của lòng tận tụy. Điều này có thể thấy trong cách học trò nói với nhau về thầy mình, đầy vẻ kính sợ thiêng liêng. Đối với họ, thầy là khuôn mẫu, là tiêu biểu, là thần tượng; và dù có cái nhìn cực kỳ sắc bén, rạch ròi, họ cũng không thấy lầm lỗi nào ở ông, tuy thường xuyên tiếp kiến với ông. Nếu không như thế thì quả là tai họa, toàn thể thế giới của họ sẽ sụp đổ. Về phần người thầy, nếu ông nhận thấy ở mình có khuyết điểm dù nhỏ nhặt nhất, ông sẽ tự giác từ giã ngôi vị cao quý của mình và ngưng dạy dỗ cho người khác, vì trên nẻo Thiền dằng dặc quên mình có rất nhiều trở ngại, chán chường và thất bại, nếu các học trò không tin tưởng tuyệt đối vào thầy và không luôn luôn thấy tin như vậy là đúng thì họ không thể tiếp tục cuộc hành trình. Chỉ có niềm tin này mới giữ được họ, đó không phải là tin mình sẽ đạt mục đích, mà là tin thầy đang dẫn mình đi đúng hướng, đến độ cho đó là cái số mình phải đi như thế.Và dù có đứt gánh trước khi đến đích, họ vẫn biết được chừng đó cũng xứng cả cuộc đời. Cái giữ họ đi tiếp không phải là niềm tin trực tiếp vào việc sẽ đến được mục đích rốt cùng vì việc đó quá xa xôi và chưa có hiệu quả gì. Những việc này trở nên được tin là có thật qua vị thầy; như vậy, tin vào thầy là gián tiếp tin vào mục đích.
Vạch sơ đồ của đường đi, dạy dỗ theo cách máy móc, mối quan hệ của trò đối với thầy - tất cả điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao ngay từ khởi thủy đã có nhiều môn phái "thần bí" ở Á Đông, và tại sao từ cách thức tu tập cùng sự thấy biết chân lý cho đến cả đời sống của người tu học không bị phó mặc cho sự rủi may mà lại chịu sự dạy dỗ và tác động có hệ thống. Ở phương Tây không hề có những môn phái thần bí nào theo kiểu đó, dù là thí nghiệm thử. Ở phương tây, một bậc thầy thần bí được cho là từ trời hiện xuống, sáng lóe lên một lúc như sao băng rồi lại biến mất. Bất kỳ lời thuyết giáo và văn bản của người này để lại cũng được nhiều người học tập và ca ngợi một thời gian, và không phải là không lưu lại ảnh hưởng cho một nhóm tín đồ thành tâm. Nhưng về lâu về dài, tất cả những gì đã có còn được giữ lại đó là nguồn cảm hứng ban đầu; mỗi người rút ra từ đó những gì thích hợp với mình, và cuối cùng cả nhóm tách ra thành nhiều tông phái tùy theo cách hiểu lời thầy. Giới thần bí học phương Tây có thể nhóm lên ngọn lửa cho tâm người nhưng nó không tiếp tục cháy vì người ta không được đặt vào con đường cung cấp đầy đủ nhiên liệu lấy từ kinh nghiệm tự thân để ngọn lửa không bao giờ tắt ngấm.
Ở các phần sau tôi sẽ cố gắng mô tả sự học tập và chuyển hóa của những người đi vào con đường tu tập tâm linh trong các Thiền viện Phật Giáo ở Nhật Bản.
Nhưng trước tiên, tôi xin đưa ra một nhận xét tổng quát. Bất cứ ai có may mắn trải qua nhiều năm giao du thân mật với giới tu Thiền Nhật Bản đều không thể cầm lòng không quan sát dù những chi tiết tầm thường nhất trong cuộc sống hằng ngày của họ, như thể bằng cách này mới có thể giải đoán được bí ẩn mà họ đang có. Khi đó người ta hiểu ra, hầu như với sự sửng sờ là mình đang giao thiệp với một nhóm người sống theo một khuôn mẫu khác thường. Dường như họ được một vì sao đặc biệt điều khiển, không chỉ trong những gì họ làm, trong nói năng hoặc yên lặng, mà đặc biệt là trong những hành vi tình cờ của họ; trong cách họ đứng hoặc đi, hoặc uống trà, hoặc đuổi muỗi. Dường như cái thế giới họ đang sống đã in dấu vô song lên con người họ đến nỗi không có gì xảy ra trong họ và chung quanh họ mà không - hoặc đang bắt đầu - tham dự vào mối quan hệ chặt chẽ với họ, với cái trung tâm vô hình định đoạt số phận cùng tính chất cuộc đời họ. Tự họ chẳng bao giờ nói đến cái gì tác động họ ở bên trong (và không tác động họ), mà họ cũng không cảm thấy có gì bức xúc để khai ra điều đó. Bằng nụ cười bí hiểm, họ lãng tránh cuộc điều tra và thờ ơ trước mọi câu hỏi được nêu ra chỉ vì tò mò. Bí ẩn của họ chỉ có thể dò ra được bởi người đang tự mình bước đi trên con đường dẫn tới chỗ tự chứng nghiệm điều này.
__________________