XƯNG ANH CHỊ, HAI VĨNH NỔI DANH
LÀM LỄ CƯỚI VỚI CÔ TƯ XÓM CỎ
Sau ngày khởi nghĩa bất thành, Hai Vĩnh vẫn tiếp tục lui tới gia đình ông Tám Mạnh. Chuyện hôn nhân của anh kể như được gia đình nhà gái đồng ý tuy thỉnh thoảng có người bàn ra tán vào.
Đứng đầu nhóm này vẫn là cô Chín hãy còn cay cú vì vụ làm mai thất bại. “Thằng mạt từ đường đó làm sao bằng thằng thầy ký của tao? Để rồi bây coi, nó chẳng có tiền đâu mà sắm sanh lễ cưới”.
Một hôm, nhân lúc nhà vắng người, cô Tư lén nhét vào tay Hai Vĩnh một gói nhỏ:
- Anh cầm số tiền này sắm đôi bông…
- Tiền đâu vậy cô Tư?
- Tiền nuôi heo của tôi đó.
Hai Vĩnh trả lại:
- Không! Đôi bông cưới phải do tiền của tôi mua sắm. Tôi không phải là hạng “thực- lộc- chi- thê”…
- Nhưng biết chừng nào anh mới có tiền? Không lẽ mình ở vậy hoài? - Cô Tư nhét gói vào túi Hai Vĩnh nhưng anh vội vàng chặn lại:
- Tôi nói không là không. Nếu cô Tư thật lòng thương tôi thì xin vui lòng chờ một thời gian. Tôi hứa với cô Tư chậm nhất là một năm tôi sẽ có “chưn đứng” và sẽ xứng đáng là rể nhà này. Tôi không muốn vì cô Tư ưng tôi mà trong gia đình xào xáo. Cô Tư hãy cất số tiền này đi!
Từ giây phút ấy, ý nghĩ làm anh chị lại trở về với Hai Vĩnh. Không còn con đường nào khác. Cách mạng đang lúc thoái trào, Bảy Trân cùng các đồng chí của ông ta rút vào bí mật. Tin tức về những vụ đàn áp đẫm máu được bí mật truyền miệng. Tây xử tử Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn. Tây bắt cả trăm người tình nghi nhốt đầy các khám. Tại Vĩnh Kim, Chợ Giữa, máy bay bỏ bom ngay lúc chợ đang nhóm, tàn sát cả trăm người. Tại Cà Mau, Tây xử bắn thầy giáo Ngọc Hiển và các đồng chí của ông đã cướp chính quyền tại Hòn Khoai, giết thằng Tây Oliviê (1). Có những hình phạt tàn bạo hơn thời trung cổ: dùng dây thép xỏ vào lòng bàn tay tội nhân cột cả xâu, đưa xuống sà lan nhận chìm ngoài biển khơi, xuất phát từ Nhà Bè.
Có điều Hai Vĩnh ngạc nhiên là thay vì gây khủng khiếp, định làm mất tinh thần những người yêu nước thì những biện pháp cực kỳ độc ác đó càng làm nung chí căm thù. Các đám giang hồ vùng ngoại thành Sài Gòn- Chợ Lớn trước đây ngưng hoạt động để dành sức đánh Tây nay tiếp tục “đi hát” và chĩa mũi nhọn vào đám làng xã, cai tổng, hội đồng. Đêm nào trống mõ cũng khua vang. Trong tổng Tân Phong Hạ, nhóm Năm Nhỏ đánh nhà đại hương cả Sảnh tại xã Bình Đăng. Nhà máy kín cổng cao tường, lại có bầy chó “bẹc giê” hung hăng như cọp dữ. Nhưng Năm Nhỏ chỉ cần bắn một phát “sơ-vơ-rô-tin” hạ con chó đầu đàn, đám còn lại cụp đuôi chạy hết. Cả Sảnh là cậu ruột Bảy Trân. Bên ngoại Bảy trân toàn dân giàu có, làm làng, làm tổng; ngoài cả Sảnh là cậu Năm, còn có hương trưởng Quyên ở Đa Phước là cậu Chín, cai tổng Quốc là cậu Mười.
Nhóm Ký Huỳnh ở xã Hưng Long, Cần Giuộc cũng đánh nhà Hội đồng Mùa. Tại đây, khi chống cự, Hội đồng Mùa bị bắn chết. Cũng cần giới thiệu sơ về tướng cướp Ký Huỳnh. Con nhà giàu, đậu Đíplôm (2), làm thư ký quận trong tỉnh Chợ Lớn, nhưng Ký Huỳnh thích sắm súng đi ăn cướp hơn là làm ký cóp. Bảy Trân cũng đã tranh thủ Ký Huỳnh tiếp tay trong cuộc khởi nghĩa vừa qua. Ký Huỳnh hướng ứng bằng cách “để lại” cho ông một khẩu súng sáu 7,65 ly với giá một trăm đồng. Cò súng đã gãy nhưng không hề gì, Bảy Trân nhờ một công nhân Ba Son bí mật sửa giùm.
Tướng cướp lừng danh Tư Hoạnh ở cầu Ông Thìn cũng hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Tư Hoạnh xưng là “cố”- chức cao nhất trong giới lục lâm: cha, ông nội, cố nội- nhưng lại xưng là cháu với Bảy Trân vì cha hắn là sui gia với người anh thứ hai của Bảy Trân. Sau vụ xuống đường bất thành, Tư Hoạnh “đi hát” trở lại.
Trong một tổng nhỏ chỉ có năm xã mà có ba nhóm giang hồ chia nhau “đi hát” và “ăn hàng”, làng lính nào chịu nổi! Các cuộc đi ruồng của bọn GCL, (chữ tắt của Garde Civile Locale)- mà dân làng gọi là bọn “chân xanh mắt ếch” vì chúng quấn xà cạp xanh nơi ống quyển- cũng chỉ tiến hành cho có lệ. Chúng không dám nhũng nhiễu, bắt hương chức hội tề đãi đằng rượu thịt như ở các nơi khác.
Bọn này tới đâu như bầy hung thần gieo tang tóc tù đày tới đó. Thường thì chúng đi từng trung đội, được trang bị xe đạp, mùng mền, ngoài súng trường, còn có một khẩu trung liên FM.
Nhờ Bảy Trân nhiều lần căn dặn, các nhóm tham gia khởi nghĩa giữ bí mật tuyệt đối nên làng lính trong tổng không hề hay biết. Cuộc sống vẫn tiếp diễn như trước. Bên ngoài, trại ruộng ông Tám Mạnh chỉ là nơi dạy võ, nhưng bên trong, đây là đầu não của các nhóm Tư Phương, Mười Nhỏ, Năm Hồi.
***
Hai Vĩnh quyết chí về Long Kiểng làm anh chị tại quê nhà. Với ý đồ đó, anh chấp nhận những vụ “thử lửa” để xác định ngôi thứ. Đúng vào lúc ấy, có ba tên du đãng từ xa tới tác oai tác quái. Chúng là Sáu Hóa, Bảy Huê, Bảy Tui, từng chém Năm Nhàn là anh chị nổi tiếng, chủ sòng bạc và trường gà ở Phú Lạc, rồi chạy sang các xã lân cận ẩn náu. Chúng kéo tới nhà Hai Thạnh chọc ghẹo các cô em gái một cách sỗ sàng. Ông già của Hai Thạnh bực mình đuổi đi thì chúng sanh sự. Hai Thạnh chạy tới nhờ Hai Vĩnh can thiệp. Từ lâu luyện tập võ nghệ, Hai Vĩnh chưa có dịp thi thố, nay nghe bạn cầu cứu, anh vui vẻ nhận lời. Anh áp dụng lời dạy của ông Tám “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.
Trận đánh diễn ra trong một quán nước tại ngã ba đường, sát nhà hội xã Nhơn Đức. Ba tay du đãng này vừa cướp tiền ông già của Hai Thạnh. Thức nhậu cùng chai la-ve (3) đầy bàn. Hai Vĩnh và Hai Thạnh bước vô quán, ngồi ở bàn đối diện. Hai Vĩnh đi ngay vô đề:
- Các anh chém Năm Nhàn ở cầu Xóm Rượu, Đa Phước, trốn qua Phú Lễ, lại cướp sòng bạc, trường gà rồi chạy qua đây. Bây giờ lại tái diễn trò ăn nhậu trên tiền của mồ hôi nước mắt của thiên hạ…
Sáu Hóa mặt đỏ gay, cất giọng sặc mùi rượu:
- Mày là ai? Đừng có xạo sự! Đi chỗ khác chơi!
Bảy Huê dằn mạnh ly rượu:
- Rồi sao, mày muốn gì?
Hai Vĩnh vẫn một giọng ôn tồn:
- Tôi muốn các anh trả tiền lại cho ông già anh bạn tôi đây- anh chỉ Hai Thạnh- rồi đi chỗ khác chơi.
Bảy Tui xô ghế đứng lên:
- Làng lính, cai tuần, hương quản sở tại còn không dám hó hé, mày là cái thá gì mà tới đây ọ ẹ?
Hai Vĩnh cũng đứng lên:
- Tôi đã nói chuyện tử tế, các anh không nghe lại toan sanh sự. Vậy thì đừng trách- Chưa dứt lời anh phóng một đá vào mặt Bảy Tui. Tên này nhanh mắt lách kịp chụp chai la-ve phang vô ngựa Hai Vĩnh. Hai Vĩnh xoay mình né, cái chai rơi xuống sàn gạch bể tan. Tức thì hai tên kia nhào ra vây lấy Hai Vĩnh và Hai Thạnh. Hai Thạnh cũng là tay có nghề nên cùng với Hai Vĩnh đương cự. Trong đám này, Bảy Tui hầm hừ hơn hết nên Hai Vĩnh quyết hạ cho được để dằn mặt hai tên kia. Một cú đá của anh tống Bảy Tui văng ba thước. Tức thì Sáu Hóa chụp cây “độc lá hẹ” xông tới đâm nhầu.
Hai Vĩnh cười lạt lùi ra xa:
- Màn tay không thua rồi, bây giờ tới màn võ khí! Được!- Anh đảo mắt nhìn quanh. Trong góc có một cán cuốc cùn. Anh với ngay và biến cán cuốc cùn thành ngọn roi lợi hại. Sáu Hóa chịu không nổi vác cây độc chạy dài. Bên kia, Bảy Huê đang xách dao chém Hai Thạnh, thấy Sáu Hóa bỏ chạy, cũng co giò chạy luôn. Hai Vĩnh và Hai Thạnh đuổi theo tới cầu Rạch Tôm, cách nhà hội Nhơn Đức khoảng một cây số, Hương quản Thể chặn Hai Vĩnh lại, năn nỉ:
- Cho tôi xin đi chú Hai. Như vậy là biết ai ai thắng ai bại rồi. Hôm nay là mùng ba Tết, không nên gây đổ máu…
Sau trận này, tên tuổi Hai Vĩnh bắt đầu lan khắp vùng. Các tay du đãng tôn anh lên hàng anh chị. Từ đó mỗi khi gặp khó khăn hiếp đáp, dân chúng đều nhờ “anh Hai” hay “chú Hai” giúp giùm. Các ghe thương hồ qua lại cũng nhờ “anh Hai” cho ám hiệu để các tay “thủy khẩu” trong vùng không “ăn hàng”.
Dần dần Hai Vĩnh trở thành một sở bảo hiểm đủ loại mà không cần đóng “pa-tăng”.
Nhưng vụ “thử lửa” sau đây mới đưa tên tuổi Hai Vĩnh tới cò bót trên tỉnh Gia Định và thành phố. Đó là vụ đấu giá hoa chi chợ Long Kiểng. Thằng Chà ở cầu Rạch Dơi, xã Long Hậu chuyên nghề “anh-đi-ca-tơ”- loại lính kín hạng bét- quyết đấu giá chợ Long Kiểng cho được để vợ bé hắn thu thuế hoa chi. Vợ bé hắn ở sát chợ này nên rất tiện trong việc thu thuế chợ. Để cho chắc ăn, hắn mua một số du đãng làm hậu thuẫn và bắn tiếng “với giá nào cũng chơi” nếu có ai “xâm mình” ra đấu thầu tranh giành với hắn. Hai Vĩnh không ưa lính kín, nhất là sau ngày được tiếp xúc với Bảy Trân. Cho nên khi có người tới nhờ giúp tranh với tên Chà, anh nhận lời ngay…
Địa điểm đấu thầu là tòa bố Gia Định. Ngày ấy tất cả những người đấu thầu đều tập trung tại mấy tiệm nước bên hông Lăng Ông, Bà Chiểu. Cũng tại đó, hai bên dàn trận, phô trương lực lượng. Không bên nào nhân nhượng bên nào. Dao con chó, bàn tay sắt đều thủ sẵn trong người. Trong lúc đó, Hai Vĩnh ngồi quán nước tại Chợ Cũ, chờ em út về báo cáo diễn tiến cuộc đấu giá tại Bà Chiểu. Hai Vĩnh đang ngồi quay lưng vô vách, mắt nhìn ra ngoài- đó là thế thủ anh thường dùng, không sợ kẻ thù tấn công từ phía sau- bỗng một người to cao xăm xăm bước vô, miệng hô “chém!”, tay quơ dao. Ngày ấy, cùng ngồi với Hai Vĩnh có bạn nối khố Bảy Rô. Hai Vĩnh chưa kịp phản ứng thì Bảy Rô nhanh tay hất tung mặt bàn lên. Lưỡi dao chặt “phụp” vào cạnh bàn, Hai Vĩnh nhảy trái mấy bước, nhận mặt kẻ hành hung:
- Ủa anh Bảy Môn! Tôi với anh có thù oán gì?
Người chém anh đúng là Bảy Môn, tay anh chị ở Thủ Thiêm.
Bảy Môn hầm hừ:
- Không thù oán gì, nhưng người ta nhờ tao…
Hai Vĩnh cười lạt:
- Bọn giang hồ mình đâu phải ai nhờ cũng giúp! Thằng Chà “anh-đi-ca-tơ” là thằng có nợ máu với nhiều người, tại sao anh giúp nó? Mình phải biết phân biệt chánh tà, phải trái.
Bảy Môn hơi ngượng, nạt ngang:
- Tao không biết!
Nhưng hai bên không có thì giờ đấu lý. Tên Chà đã bố trí mọi việc. Đúng lúc Bảy Môn vào quán sanh sự với Hai Vĩnh thì cảnh sát ập vào bắt Hai Vĩnh giải về bót Thương Khẩu ở bến sông Sài Gòn về tội du đãng.
Thằng cò Tây nhìn anh không chớp: trước mắt hắn không phải là một tên đâm thuê chém mướn mà là một thanh niên ăn mặc tươm tất, quần “tuýt-xo” áo lụa lèo, giày “béc-ca-na”, mũ phờ-rết-sê mười tám đồng một cái, bán tại hiệu Phan Bá, cửa hàng sang trọng nhất ở đường Đết-pan (d’Espagne).
- Theo đơn tố cáo, mày là du côn đứng bến…
Với tất cả bình tĩnh, Hai Vĩnh tranh thủ tên cò:
- Du côn đứng bến có nghĩa là mặt thẹo, mình xâm, mặc áo banh ngực, nói tục chửi thề. Nhưng ông thấy tôi đây, mặt không thẹo, mình không xâm- anh cởi áo sơ-mi vạch lưng, ngực cho tên cò xem rồi cài nút lại- ông cũng đã thấy cách ăn mặc, nói năng của tôi, bây giờ tùy ông phán đoán.
Thằng cò giải quyết thật gọn: chuyển đơn và người lên cấp trên. Hai Vĩnh được đưa về bót Catina (Catinat) gần nhà thờ Đức Bà. “Thế là lần đầu tiên mình được vào Lít-xê (4) Khám Lớn”, nói theo cách trào lộng của ông Bảy Trân. Hai Vĩnh nghĩ thầm như vậy khi nằm khám Catina. Nhưng tương lai không mù mịt như anh tưởng. Ngay khi anh bị giải về bót Thương Khẩu thì em út của anh đã phóng về cấp báo với ông Tám Mạnh. Lập tức ông Tám nhắn Huyện Bảo, chủ sự phòng tư pháp, vận động cho Hai Vĩnh sớm được trả tự do. Huyện Bảo từng học võ tại lò ông Tám. Nhờ Huyện Bảo chạy lo kịp thời, Hai Vĩnh chỉ nằm khám có bảy ngày rồi được thả về. Điều anh vui mừng hơn hết không phải là được tự do ra về, không lãnh án tiết gì hết- mà là hay tin thằng Chà rút lui vào giờ chót và người nhờ anh giúp đã đấu thầu được. Người này gởi đến anh một số tiền lớn gọi là đền bù sở phí 1 tuần lễ anh kẹt trong bót Catina. Đây là số tiền lớn nhất trong những ngày đầu Hai Vĩnh đứng ra làm anh chị. Với số tiền này, anh trích một ít gởi về giúp cha mẹ và bầy em, còn lại mua sắm đôi bông và chiếc nhẫn xoàn làm quà cưới cô Tư. Anh xem lịch cẩn thận và thấy mình giữa đúng lời hứa: chưa đầy 1 năm anh đã tạo được chân đứng và đủ sức sắm lễ vật bằng đồng tiền do mình tạo ra. Anh tự thấy xứng đáng với gia đình nhà vợ.
Ngày Hai Vĩnh mang lễ vật sang chính thức xin cưới cô Tư, người ngạc nhiên nhất cố nhiên là cô Chín. Nhìn những viên thạch xoàn năm ly, bảy ly, bà chóa cả mắt. Bà có hơi ngượng về những lời lẽ chê bai Hai Vĩnh trước kia, nhưng bà xoay trở cũng hay: “Nếu hồi đó mình dễ dãi với nó thì nó đâu được như ngày nay. Người xưa nói “Nhi nữ tạo anh hùng” là phải lắm”! Bà con xa gần đều khen cô Tư có mắt tinh đời, biết chấm Hai Vĩnh từ lúc anh còn hàn vi dưới lớp áo làm công trong nhà máy xay lúa của Sáu An tại ngã tư sông cầu Rạch Đỉa.
Người vui nhất là ông Tám Mạnh. Ông mến Hai Vĩnh ngay từ ngày Hai Vĩnh mới tới lò võ. Là thầy dạy võ, ông Tám có con mắt nhà nghề. Chỉ nhìn thoáng qua, ông biết người mới đến có đáng cho ông truyền nghề hay không và truyền hết bài bản hay giữ lại vài miếng đề phòng trường hợp trò phản thầy? Với Hai Vĩnh ông không hề bận tâm về những chuyện rắc rối ấy. Khi bắt tay vào dạy, ông Tám càng phấn khởi hơn. Cậu học trò mới này sáng dạ làm sao! Chỉ biểu diễn qua một lần là cậu ta đã “lấy nghề” dễ dàng, không cần phải ôn đi tập lại nhiều lượt. Đó là nhờ Hai Vĩnh biết kết hợp lý thuyết với thực hành, biết tập trung vào những cái chính và lướt qua những cái thứ yếu…
Tết năm 1943, Hai Vĩnh chính thức là rể ông Tám Mạnh.
Chú thích:
(1) Olivier: Phụ trách hải đăng tại Hòn Khoai
(2) Diplôme (Bằng thành chung - tốt nghiệp cấp 2)
(3) La-ve (Tiếng Pháp là bière) bia
(4) Lít-xê (Lycée) Trường trung học thời Tây
ĐƯỢC RỄ QUÝ, LẬP ĐỘI LÂN ĂN TẾT
TRẬN CẦU DỪA MÁU ĐỔ ĐẦU RƠI
Tết năm 1943, để mừng nhà được rể quí, ông Tám Mạnh lập đội lân vui chơi trong ba ngày xuân. Ông Tám có tất cả 12 người con, trong đó bốn trai. Bảy Hải được ông thương hơn hết vì giống ông về tánh tình, tư cách, đạo đức.
Đến khi có Hai Vĩnh, ông Tám coi chàng rể như người tâm phúc, phụ tá kiêm cố vấn. Những chuyện quan trọng, cha vợ chàng rể đều bàn bạc với nhau rất tâm đầu ý hiệp.
Năm Hồi vụt nẩy ra một sáng kiến:
- Mình phải làm 1 con lân khác hẳn thiên hạ. Mình làm một con lân râu bạc!
Hai Vĩnh can ngăn:
- Không được đâu, cậu Năm! Lân râu bạc là lân cha lân ông các con lân râu đen hay râu xám. Mình làm lân râu bạc chẳng khác nào tự xưng cha, xưng ông nội thiên hạ. Như vậy là mình thách thức mọi người.
Năm Hồi cười lớn:
- Ai muốn nghĩ sao tùy ý. Mình chơi trên đất của mình mà. Mình đâu có qua lãnh địa của người ta!
Một số võ sinh háo thắng tán thành ý Năm Hồi:
- Tụi bây là thứ “ngựa non háu đá”. Bày trò “vỗ ngực xưng tên” là tự chuốc lấy rắc rối cho mình đó!
Nhưng Năm Hồi vẫn nhất định làm lân râu bạc cho được mới nghe. Năm ấy, ông Tám xin phép cho đội lân hoạt động tại Chánh Hưng và xóm Cầu Dừa, đối diện cầu Ông Lãnh, lấy Cầu Dừa làm ranh. Bên kia cầu là vùng hoạt động của đội lân Ba Lại, một tay anh chị đứng bến cầu Ông Lãnh. Đúng như Năm Hồi nghĩ, con lân râu bạc đi đến đâu gây sôi nổi tới đó. Đây là một hiện tượng hiếm thấy; nhiều người nghĩ rằng thế nào cũng có một cuộc so tài giữa các nhóm giang hồ về sự thách thức táo bạo này. Khi con lân râu bạc xăm xăm đến gần Cầu Dừa, đàn em của Ba lại hấp tấp chạy về báo cáo:
- Có con lân râu bạc không biết của ai sắp qua lãnh thổ của mình.
Ba Lại đang ngà ngà, thét lớn:
- Hễ nó qua phần đất của mình là chém nát đầu nó cho tao, bất kể là của thằng nào!
Sáu tay võ sĩ ăn mặc gọn gàng chạy ra: đúng là lân râu bạc đang mon men gần cầu. Khi biết lân râu bạc của ông Tám Mạnh, vài người hơi ngại nhưng số háo thắng, xốc nổi cứ theo lệnh đại ca nhào tới chém nhầu, con lân đang múa may quay cuồng ngã quỵ xuống, máu tuôn đỏ đường nhựa. Ông địa khiếp vía vội vàng ném quạt, tháo nịt vừa chạy vừa la: “Tụi nó chém đầu lân, bớ Năm Hồi”!
Trong lúc hốt hoảng, ông địa quên cởi bỏ mặt nạ.
Năm Hồi ở phía sau, nghe báo động lật đật chạy lên thì đã muộn: con lân bị chém nát, Bảy Sến võ sĩ thủ đầu lân cùng với võ sĩ thủ đuôi lân đều bị chém gục. Năm Hồi cấp tốc huy động võ sĩ nhào ra ứng chiến, đồng thời cho thằng Mười chạy về gọi ông Tám ra ngay.
Ông Tám không theo đội lân ra Cầu Dừa mà ngồi uống trà tại nhà bạn ở bến đò. Tuy vậy, ông vẫn nai nịt gọn gàng theo thói quen: áo thun Đầu Nai dệt từ Trung Quốc, quần lãnh đen, dây nịt to bản, đi giày bố đế cao su nhựa, đội nón bành lông chiên. Hay tin dữ, ông hối hả chạy tới Cầu Dừa. Hai bên đang hỗn chiến ác liệt. Không mang binh khí theo, ông Tám nhổ đại cột chèo chiếc ghe bầu gần nhất, xông vào trận chiến. Ông ví sáu võ sĩ lợi hại nhất của Ba Lại vào một hẻm rồi bịt hai đầu để diệt gọn. Bọn này biết ý đồ đó, nỗ lực mở đường máu đánh bật ra đường cái, trước vựa nước mắm Hội đồng Khá. Với cột chèo ghe bầu, ông Tám đánh gục mấy mạng, đoạt đồ binh khí của địch đánh lại chúng. Càng đánh ông càng hăng, càng dẻo, đánh tên này gục, ông rượt tên khác. Có lúc một mình đương cự ba bốn tên. Năm Hồi vừa đánh vừa liếc chừng ông, tấm tắc khen: “Chẳng khác gì Triệu Tử Long tại Đương Dương trường bản”. Nhiều võ sĩ không cự nổi ném dao chạy chết. Chúng nhảy nhào xuống sông cầu Ông Lãnh. Nhằm lúc nước lớn, chúng bám dõi ghe bầu, trầm mình dưới nước, ngóc đầu lên theo dõi trận đánh ác liệt có 1 không 2 trong lịch sử thành phố Sài Gòn. Cả một khu phố bỗng nhiên trở nên náo động! Những người bị kẹt trong khu vực xung đột kinh hoàng đâm sầm vào cửa nhà gần nhất xin ẩn náu trong khi nhiều gia đình bạo dạn hé cửa thập thò nhìn. Lính cảnh sát bót “ Se-nho”(1) ở cầu Ông Lãnh chạy qua, nhưng chỉ dám đứng xa xa bắn chỉ thiên, thị oai cho hai bên ngưng chiến. Một giờ sau, trận xung đột mới kết thúc sau khi đã kéo dài ngót hai tiếng đồng hồ, ông Tám Mạnh đã đưa đội lân về nhà an toàn. Số võ sĩ còn kẹt trong khu vực Cầu Dừa bị hốt hết về bót “Se-nho”, còn ba mươi xác chết hay trọng thương được xe cứu thương chở về bệnh viện đô thành. Bên ông Tám có 6 người thiệt mạng. Không đợi ông Tám trừng mắt, Năm Hồi cũng biết lỗi về ai, mấy ngày liền không dám nhìn mặt ông Tám.
Huyện Bảo, chủ sự phòng tư pháp và Hai Trực, sếp bót “Se-nho” nhất trí với nhau trong việc làm biên bản cuộc xô xát đẫm máu này, cả hai nhấn mạnh lân râu bạc của ông Tám Mạnh chưa vượt Cầu Dừa, tức còn trong lãnh địa đã xin phép nhà cầm quyền. Như vậy phần lỗi về phía Ba Lại và đồng bọn. Sau khi điều tra cẩn thận, nội vụ được đưa ra tòa. Nhờ có tay trong là Huyện Bảo vận động, ông Tám Mạnh được tòa tha bổng. Ba Lại lãnh án chung thân khổ sai, bị đày ra Côn Đảo. Ra đó chưa được vài tuần, Ba Lại bị một em út của ông Tám bí mật thủ tiêu bằng cách cột đá vào khăn rằn, quất vào thái dương khiến Ba Lại té bất tỉnh rồi đạp luôn xuống suối lúc tù được đưa lên núi đốn củi. Thì ra luật giang hồ, dù trên đất liền hay ngoài hải đảo, cũng sắt máu như nhau.
Sau trận lân năm ấy, tên tuổi ông Tám Mạnh nổi như cồn. Có một nghệ sĩ vô danh nào đó hứng khởi làm bài vè cho những người mù hát dạo tại các bến xe buýt và nhà ga xe lửa, ca ngợi chiến công bất hủ trong giới giang hồ. Bài vè đó mang tên là “Tiền Tư Mắc, Hậu Tám Mạnh”.
***
Ông Tám Mạnh vừa được trắng án thì gia đình lại được một tin vui khác, lớn lao hơn. Cả nhà đang chăm chú nghe ông Tám kể lại những ngày bị tạm giam- các thầy chú và tù nhân đều có cảm tình với ông- thì có tiếng chó sủa ngoài sân. Nghe cách chó sủa, người nhà biết khách là người quen.
- Ai đó? - Năm Hồi lên tiếng hỏi.
- Quen mà!- Một người quê mùa xăm xăm bước tới. Chừng ông ta lột bỏ cái nón lá, ông Tám mới reo lên:
- Thầy Bảy! Lâu quá!…
Bảy Trân đây! Ông Tám nhớ dai ghê!
- Quới nhơn mà làm sao tôi quên cho được! Ông Tám kéo khách ngồi nơi trường kỷ, giục con làm gà, nấu cháo đậu xanh mừng ngày tái ngộ. Bà Tám đích thân rót trà mời Bảy Trân:
- Lâu nay thầy Bảy ở đâu?
Bảy Trân thoải mái như cá trong nước:
- Bốn năm nay tôi lặn vô bí mật, ở đâu cũng có nhưng chỉ ở một đôi ngày lại đi. Dù vậy tôi vẫn theo dõi những bước thăng trầm của các anh em trong giới giang hồ, nhất là trong việc gia đình ông Tám. Hôm nay tôi đến để chia vui về việc ông Tám được trắng án.
Cả nhà đều vui tươi trước tới chia vui đúng lúc của khách. Bảy Trân thấy Hai Vĩnh đứng gần, thân mật bắt tay:
- Tôi cũng xin chia vui “nguội” với chú em đây và cháu Tư… “Đất lành chim đậu”, chú em về làm rể nhà này là điều đáng khen.
Không bao lâu, tiệc rượu được dọn lên. Trong buổi tiệc, khách trình bày lý do trở lại Xóm Cỏ:
- Bốn năm trước, khi chia tay, tôi có hứa sẽ trở lại khi có dịp tốt. Dịp tốt đã có rồi đó ông Tám.
Mọi người nôn nóng đón nghe khách nói chuyện thời cuộc:
- Tình hình thế giới và tình hình trong nước biến chuyển thuận lợi cho ta. Trận giặc thế giới đang bước tới giai đoạn phản công của Đồng minh. Tháng hai vừa qua, Nga đã đẩy lùi được quân Đức tại thành phố Xít-ta-lin-grát. Đây là một thắng lợi có tính quyết định. Tại Đông Nam Á thằng Nhật coi ồ ạt vậy rồi cũng kẹt cứng tại Trung Hoa, Miến Điện, Ấn Độ… Thế nào phát xít Đức- Ý- Nhật cũng thua trước Đồng minh Anh- Mỹ- Pháp- Nga- Tàu. Thằng Tây tuy ở trong Đồng minh, nhưng là thứ Đồng minh yếu xịu, vì lực lượng kháng chiến của Đờ-gôn(2) chỉ là một nhóm nhỏ không đáng kể, còn phần lớn ngả theo bọn đầu hàng Pê-te (Pétain). Sớm muộn gì bọn Nhật cũng sẽ đảo chánh Pháp tại Đông Dương. Theo sự nhận định của Đảng, đó là cơ hội ngàn năm một thuở, ta phải chớp lấy thời cơ cướp chính quyền, chấm dứt cả trăm năm nô lệ. Trước đây ba năm, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã về nước sau ba mươi năm tìm đường cứu nước. Chiến khu Việt Bắc đã được thành lập và từ đó Đảng lãnh đạo cuộc chuẩn bị cướp chánh quyền. Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh- gọi tắt là Việt minh- đã được thành lập vào ngày 19-5-1941, tức là nửa năm sau ngày chúng ta bạo động non ở Nam kỳ. Ở miền Bắc, du kích Việt minh đã đánh các đồn nhỏ vùng rừng núi, phục kích cướp súng bọn làng lính, tạo lực lượng, mở rộng vùng giải phóng. Nghe mà nôn nao cả ruột gan.
Ông Tám sôi nổi:
- Bây giờ mình phải làm gì đây hả thầy Bảy?
Bảy Trân nghiêm trang nói:
- Tôi được Xứ ủy phái tới đây để báo cáo tình hình thuận lợi đó và gợi ý cho ông Tám chuẩn bị sẵn sàng, hễ thời cơ đến là nắm lấy. Lần này ta quyết tâm làm cho đúng bài bản, hễ ra quân là chắc ăn.
- Chuẩn bị như thế nào?
- Đó là điều tôi sẽ trình bày rõ ràng cho ông Tám và các em “gia tướng” của ông Tám… Sau cuộc khởi nghĩa bất thành tại tổng Tân Phong Hạ, tôi nghiệm thấy anh em giang hồ phần đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, ngưng “đi hát” để chuẩn bị đánh Tây cùng bọn làng lính tay sai. Trong cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền tới đây, tôi muốn vận động sao cho giới giang hồ tham gia đông đủ hơn nữa. Nhiều tay vỗ nên kêu. Tôi đã vận động được một ít. Nhưng công việc này ông Tám làm hay hơn tôi. Vì ông Tám là người trong giới, còn tôi là kẻ ngoại đạo. Liệu ông Tám có thể giúp tôi được điều đó không?
Ông Tám gật gù:
- Được! Tôi sẽ hết sức cố gắng!
Bảy Trân vui vẻ nói với Hai Vĩnh:
- Chú em cũng cố gắng giúp vào việc đại sự nghe. Bốn năm trước, chú em ngỏ lời muốn đi theo tôi tập làm cách mạng, ngặt vì lúc đó nhằm thoái trào. Bây giờ chính là lúc thuận tiện cho chú em thực hiện hoài bão to lớn của chú em đó.
Lúc ăn cháo gà, Bảy Trân và ông Tám trao đổi thêm về công tác tuyên truyền, vận động giới giang hồ đi theo cách mạng. Với giọng “ăn giỗ”, Bảy Trân gây hứng thú lạc quan cách mạng trong gia đình ông Tám:
- Thằng Tây ngu như trâu bò mà cứ tưởng khôn nhất trên đời. Nội một việc nó nhốt chung thường phạm với bọn này chứng tỏ nó ngu quá sức tưởng tượng. Thâm ý của nó là “lấy độc trị độc”, tức là mượn tay các cha ăn cướp giết người đánh đập hành hạ những người làm cách mạng.
Năm Hồi tía lia quen tánh:
- Nhưng kết quả trái ngược lại: chẳng những các cha thường phạm không hành hạ mà còn tôn mấy tay cách mạng lên làm “sư”…
Ông Tám trừng Năm Hồi:
- Cái thằng giỏi tài xía bậy!
Bảy Trân dễ dãi:
- Thằng Năm xía đúng chớ không bậy đâu ông Tám. Để tôi kể chuyện chí sĩ Nguyễn An Ninh với thằng cặp rằng Khám Lớn cho bà con nghe chơi: Lúc thấy chú giải ông Ninh vào khám 5, thằng cặp rằng bắt chúng tôi trình diện:
- Mấy người mới vô, lại đây trình diện tôi coi!
- Nó chỉ ông Ninh, hỏi:
- Mày tên gì? Làm nghề gì?
- Tôi là Nguyễn An Ninh, bán dầu cù là.
- Vậy hả? Ngồi xuống đấm lưng tao coi!
Ông Ninh ngồi xuống đấm lưng thật tự nhiên.
Thầy chú hoảng hồn kêu lên:
- Trời! Đúng là điếc không sợ súng! Bộ không biết ông Ninh là tiến sĩ luật sao mà bắt ông đấm lưng?
Tên cặp rằng ngóc đầu trừng trợn:
- Giả bộ hoài! Tiến sĩ luật mà đi bán dầu cù là! Tiến sĩ luật mà phải ngồi ghế tòa áo đỏ xét xử tụi này. Cha này là tiến sĩ giả!
Ông Ninh cười:
- Mấy ông tòa áo đen, áo đỏ xử phạt các anh mới là tiến sĩ giả đó. Bởi họ không còn là người Việt Nam mà là tay sai của thực dân.
Tiếng vỗ tay của cả khám làm tên cặp rằng bàng hoàng:
- Ông là tiến sĩ thật à? Tại sao ông không nói?
Ông Ninh thở dài:
- Khoe với anh để làm gì chớ?
Tên cặp rằng ngồi dậy thật gọn, chia chiếu bông cho ông Ninh nhưng ông Ninh không nhận.
Hôm sau, thấy hai người trong phòng có vẻ lo lắng, ông Ninh hỏi mới biết ngày kia họ ra tòa. Ông bảo họ kể đầu đuôi mọi việc, suy nghĩ một lúc rồi nói: “Anh này nhiều lắm là ba năm tù ở, còn anh kia thì trắng án. Có gì mà lo lắng?”. Tên cặp rằng bán tín bán nghi: “Thiệt chơi? Ai có giấy mực, ghi giùm tôi coi”! Hai ngày sau, tòa tuyên án, một anh ba năm và một anh tha bổng. Tên cặp rằng coi ông Ninh như ông thánh sống, có món gì ngon cũng đem ra mời ông tiến sĩ bán cù là.
Tất cả đều muốn nghe nữa, nhưng đêm đã khuya, Bảy Trân hẹn còn nhiều dịp khác.
Chú thích:
(1) Bót Senior giam bọn phạm pháp vị thành niên ở Cầu Muối, gần cầu Ông Lãnh
(2) De Gaulle
THỰC DÂN PHÁP LO NHẬT ĐẢO CHÁNH
SỢ TÙ PHÁ NGỤC GÂY RỐI SÀI GÒN
Đại úy Sa-va-ni có thói quen sáng nào cũng thức sớm bắt đài “nước Pháp tự do” để nghe tin tức chiến sự. Sáng nay có một tin quan trọng khiến hắn vừa mừng, vừa lo. Nga đã đẩy lùi cuộc tấn công ồ ạt của Đức vào thành phố Sta-lin-grát và đã phản công. Đây là một khúc ngoặt quan trọng trong đệ nhị thế chiến. Phe Trục đã bắt đầu núng thế.
Sa-va-ni thiên về phe kháng chiến Đờ Gôn mặc dù vẫn giữ chức trưởng Phòng Nhì Nam kỳ của Chính phủ Visy (Vichy) do thống chế Pê-te cầm đầu. Tin quân Nga phản công làm đại úy vui mừng, nhưng cũng rất lo vì, “chó cùng cắn bậy”, bọn Nhật ở Đông Dương sẽ đảo chính bất cứ lúc nào chưa biết được. Sa-va-ni thay quần áo, sửa soạn tới sở. Trên đường đi, hắn đổi ý, gọi xích lô:
- Đến đầu đường Duranton. (nay là đường Bùi Thị Xuân)
Đường Duy-răn-tông là một trong những con đường đẹp của thành phố Sài Gòn.
Đường nhỏ và ngắn, hai bên có hai hàng cây dầu già vươn thẳng lên trời xanh, giao cành che rợp bóng mát mặt đường nhựa phẳng phiu. Các dãy phố lầu một tầng, trước có sân gạch, hàng rào, cửa sắt, trên có bao lơn xinh xinh. Đây là xóm tiểu tư sản thành thị, có nếp sống ổn định, có trình độ văn hóa trung bình.
Cho nên bước tới đây, khách sẽ thấy yên tĩnh, dễ chịu, không ồn ào, náo nhiệt như ở Ngã Sáu, cách đấy chừng trăm thước.
Sa-va-ni xuống xích lô ở đầu đường, lững thững đi bách bộ. Đến một căn nhà đầu dãy hắn nhận chuông. Một cô gái chạy ra đưa hắn vào.
Từ khung cửa, một thiếu phụ khoảng 30, vén bức màn tuyn bước ra bắt tay Sa-va-ni.
- Ngọn gió nào đưa đại úy tới đây?- Bộ đồ hàng màu hột gà tôn vẻ tươi tắn của thiếu phụ. Nàng có vẻ đẹp của cô gái lai Pháp, dáng thanh thanh, mặt trái xoan, mũi cao mắt sáng, mi dài và cong. Đôi môi trái tim cười thật hấp dẫn.
- Ngọn gió nào hả? Ngọn gió độc làm tôi nhức đầu quá nên sáng nay tới đây tìm chút “khói”…- Sa-va-ni nói tiếng Việt rành rõ như các tay thực dân cưới vợ Việt, ăn được mắm sống- cô Bảy làm cho tôi một cặp đi.
- Có ngay! Mời đại úy lên lầu!
Trên lầu có đi-văng gõ, trang bị đủ thứ cho khách “đi mây về gió” như gối sành, ống nhổ, bàn đèn dọc tẩu. Dọc tẩu bằng gỗ mun cẩn bạc, thật sang, Sa-va-ni cởi giày, ngả lưng xuống đi-văng trong khi cô Bảy làm thuốc:
- Bồi thẩm Ếch-teo (Estève) với tổng giám thị A-gốt-ti-ni (Agostini) có thường tới đây không?
- Cặp bài trùng có tuần nào không tới? Đại úy nằm đây một lát, là họ tới ngay đó!
Ếch-teo và A-gốt-ti-ni cũng như Sa-va-ni, không thích tới nhà “xẹc” (1) vì ở đó không có bàn đèn như ở đây. Ếch-teo và A-gốt-ti-ni gắn bó với nhau vì nghề nghiệp, một người chuyên nghề bỏ tù thiên hạ, còn một người là chúa ngục. Sáng nay Sa-va-ni tới đây cốt ý là để gặp hai nhân vật này.
Sau khi làm đủ một cặp, Sa-va-ni nằm nhắm mắt thả hồn bay về đảo Coóc (Corse) giữa muôn trùng sóng biếc Địa Trung Hải.
Dân đảo này có máu giang hồ, thích phiêu lưu, tình nguyện đi phục vụ tại các thuộc địa xa xôi, say mê những nghề nguy hiểm như làm chúa ngục hay đấu trí đấu lực với những đối thủ cao tay nhằm giành quyền khai thác thuộc địa.
Không bao lâu cặp bài trùng Ếch-teo và A-gốt-ti-ni tới. Sau màn nhả khói phun mây, cả ba tỉnh như sáo. Sa-va-ni đi thẳng vào đề:
- Ba đêm rồi tôi không ngủ được. Nếu Nhật đảo chính, mình phải làm sao đây?
Ếch-teo nhún vai:
- Khéo lo chuyện bao đồng! Đã có đô đốc Đờ-cu (1) đã có thống đốc Nam kỳ! Pa-giét (2) đi, thì Hốp-phen (3) tới!
- Sao không nói là đã có thống chế Pê-te (4)? Mấy ông cam phận quá!- Sa-va-ni lắc đầu tỏ vẻ thương hại.
- Chứ đại úy tính đánh à? Thôi, cho tôi xin! Đừng đi vào con đường tự sát!- A-gốt-ti-ni cười ranh mãnh.
- Tôi chiến đấu tới cùng! Còn nước còn tát- Để vài phút trôi qua, Sa-va-ni nói tiếp- Thằng Nhật không đáng sợ. Nó từ xa tới, không rành nơi đây như chúng mình. Tôi sợ nhất là mấy thằng tù trong tay ông đó. Chúng mà phá khám ra được thì đại loạn!
Ếch-teo hớp một ngụm trà ướp sen, gật gù:
- Như vậy mình sẽ lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”, một đầu là mấy thằng phát xít lùn, một đầu là mấy thằng tù phá khám, nguy quá chớ!
- Càng nguy hơn nữa là Cộng sản nắm được đám đầu trộm đuôi cướp… Sa-va-ni như nói với chúng mình.
A-gốt-ti-ni kêu lên:
- Làm gì có chuyện đó! Với tư cách là chúa ngục, tôi am hiểu nhiều về mấy thằng tù của tôi. Cộng sản thì sống chết với lý tưởng viển vông của chúng. Còn đám ăn cướp thì rất thực tế, chỉ biết có tiền, rượu và gái… cũng y như bọn mình. Cộng sản không thể nào nắm được đám du đãng…
Sa-va-ni ngắt ngang:
- Đừng chủ quan!
A-gốt-ti-ni gằn giọng:
- Tôi không chủ quan! Cộng sản với du đãng là hai cực âm, dương, làm sao gặp nhau được!
Sa-va-ni nhấn mạnh:
- Đồng ý chúng là hai cực âm dương. Nhưng chính ông đã chập hai cực âm dương đó lại nó biến thành dòng điện xẹt lửa.
A-gốt-ti-ni ngơ ngác:
- Hồi nào?
- Ông đã nhốt chung mấy thằng “rô-li-tíc” với đám đầu trộm đuôi cướp. Ông đã giúp Cộng sản nhuộm đỏ bọn tù án. Ông đã tiếp tay với Cộng sản.
Ếch-teo nhảy dựng lên:
- Sao lạ vậy? Tôi đã ra lệnh giam riêng chúng nó mà, A-gốt-ti-ni?
A-gốt-ti-ni lúng túng:
- Trước đây thì nhốt riêng. Nhưng từ năm 40, sau vụ bạo động cuối tháng 11, ta bắt giam nhiều quá, không đủ khám nên bắt buộc phải nhốt chung- hắn cười gượng- Tôi nghĩ rằng như vậy cũng hay hay: Mình lấy độc trị độc, để bọn thường phạm trừng trị Cộng sản cứng đầu cứng cổ.
Ếch-teo kêu lên:
- Đúng là ngu như chúa ngục! Chút nữa, về nhốt riêng ra! Muộn còn hơn không, nghe chưa?
A-gốt-ti-ni sượng sùng như chó ăn vụng bột.
Sa-va-ni nói tiếp:
- Bọn trong tù chỉ cần xiết vô khuôn khổ, canh gác cẩn thận. Đáng ngại là đám còn ở bên ngoài. Đây là một lực lượng quan trọng, vì chúng rất đông, xóm nào cũng có, đặc biệt ở bến xe, cầu tàu, sòng bạc, trường gà, trường đua, rạp hát, cao lâu, vũ trường. Trong cuộc tranh chấp giữa chính quyền và bọn phản loạn, ai nắm được lực lượng này, người đó sẽ thắng. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử Pháp. Na-pô-lê-ông đệ tam (Napoléon III) cũng đã nhờ đám du đãng Bô-hêm (Bohême) mà nhảy lên ngôi Hoàng đế.
Ếch-teo gật gù:
- Đúng. Nhưng đại úy đã nắm được tình hình du đãng trong đô thành Sài Gòn- Chợ Lớn chưa?
Sa-va-ni gật:
- Được chớ! Theo cuộc điều tra của Phòng Nhì sau cái gọi là Nam kỳ khởi nghĩa, du đãng ở thành phố này có nhiều biến đổi khác xa các tổ chức du đãng trên thế giới, như Ma-fia ở Ý hay bọn KKK ở Mỹ… Muốn hiểu du đãng ở Việt Nam phải đi ngược dòng lịch sử, từ ngày người Pháp mới tới đây dưới lớp áo những nhà truyền giáo như Cha cả Bá-đa-lộc và quân đội đánh thuê của Gác-niê (Garnier). Du đãng Việt Nam đã từng liên kết với giặc Cờ Đen và giặc Cờ Vàng, với phong trào Thiên Địa Hội, kèo xanh kèo vàng, đời Pháp trả lại đất nước. Du đãng trong Nam kỳ còn có màu sắc nghĩa hiệp, là một đặc tính của người dân “đàn trong” trọng danh dự và nhân nghĩa.
Ếch-teo sốt ruột:
- Tôi không lạ gì những điều đại úy vừa nói. Điều tôi muốn biết là du đãng có hưởng ứng cuộc bạo động vừa qua hay không? Chứ theo hồ sơ đến tay tôi thì chưa thấy gì về việc ấy.
Sa-va-ni trịnh trọng nói:
- Chính thức đưa ra tòa thì chưa có vụ nào, nhưng theo báo cáo của bọn mật báo viên thì Cộng sản đã nắm được một số du đãng. Bằng cớ là trước ngày 23-11-1940, tức ngày Cộng sản cướp chính quyền ở nhiều nơi như Chợ Giữa, Hóc Môn, Bà Điểm, Hòn Khoai… thì tại Sài Gòn này, đặc biệt là vùng ngoại ô chạy dài Nhà Bè tới Cần Giuộc, Cần Đước, Bình Chánh gần nửa tháng trời không hề có một vụ cướp nào đáng kể. Đó là một dấu hỏi lớn, bởi trước đó đêm nào cũng có trống mõ báo cướp. Chưa hết đâu! Đến đầu tháng 12 năm đó, tức là sau khi chúng ta thẳng tay đàn áp bọn cộng sản, thì các vụ đánh cướp lại tiếp diễn còn ồ ạt hơn trước nữa. Đó là dấu hỏi thứ hai. Ông bồi thẩm nghĩ gì về hai câu hỏi này?
Ếch-teo cười:
- Phòng Nhì tay nào cũng đeo kính màu, mà thường thì màu đen, màu đỏ, nên ngó đâu cũng toàn màu đen, ngó đâu cũng toàn Cộng sản.
Sa-va-ni nghiêm trọng:
- Lúc này không phải là lúc nói đùa nghe ông bồi thẩm! Tôi chính thức báo động đó.
Ếch-teo nhún vai:
- Nếu thế thì đại úy nên báo động thẳng với ông Hốp-phen.
BẢY VIỄN, MƯỜI TRÍ BỊ ĐÀY CÔN ĐẢO
ĐÃ BỊ CÒNG LẠI CÒN NHỐT CÁT SÔ
Bồi thẩm Ếch-teo suy nghĩ nhiều về lời báo động của Sa-va-ni: “Nếu Nhật đảo chính thì đám tù phá khám sẽ nguy hiểm hơn bọn giặc lùn”.
Hắn thấy Sa-va-ni có lý và bắt tay vào việc sửa sai do tổng giám thị A-gốt-ti-ni vô tình gây ra. Trước hết hắn chỉ thị tách tù chính trị ra khỏi các khám giam thường phạm, không cho các nhà cách mạng có dịp tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản trong đám tù án. Hắn biết các nhà trí thức yêu nước có tài hùng biện đám đăng đàn diễn thuyết cả mấy tiếng đồng hồ trong các cuộc mít-tinh tại rạp hát Thành Xương trong thời kỳ Mặt trận Bình Dân và Đông Dương Đại hội vào những năm 30. Hắn biết một số trí thức này được đào tạo tại Nga như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trân… có sở trường vận động quần chúng đi theo cách mạng. Càng nghĩ hắn càng bực sự ngu dốt của A-gốt-ti-ni “đã làm công không cho Cộng sản”.
Công việc cấp bách thứ hai của Ếch-teo là duyệt lại các hồ sơ để đưa ra Côn Đảo những phần tử nguy hiểm, giải tỏa các khám giam đã chật, đồng thời cũng phòng xa trường hợp phá khám ngày Nhật đảo chính.
Trước mặt Ếch-teo là một chồng hồ sơ cao ngất. Hắn với lấy hồ sơ đứng đầu. Ngoài bìa có kẻ chữ to: Lê Văn Viễn tức Bảy Viễn. Lật hồ sơ ra, Ếch-teo ngắm bức ảnh bán thân cỡ 4x6cm: một người khoảng ba mươi lăm, mặt vuông chữ điền, mày rậm, mắt dữ. Trước ngực là số đính bài dài sọc. Tiếp theo sau là lai lịch vắn tắt: “Lê Văn Viễn tức Bảy Viễn, sinh năm 1904 tại xã Phong Đước, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn, thuộc gia đình có điền đất. Cậu thứ năm Bảy Viễn là Lê Văn Xuân tức Năm Xuân làm xã nên cũng được gọi là Xã Xuân. Bảy Viễn học hết trường làng, lớp ba, thì bỏ nhà đi lưu lạc giang hồ.
Trong thời gian khoảng 10 năm này, Bảy Viễn học võ ở nhiều nơi. Sau đó Bảy Viễn xưng anh chị tại trường đua Phú Thọ, tập hợp được một số du đãng em út. Vùng hoạt động của nhóm Bảy Viễn bây giờ là Chợ Thiếc, An Bình, Cù lao Chánh Hưng và xóm Phạm Thế Hiển từ cầu Hiệp Ân đổ xuống cầu Chữ Y. Một đường dây liên lạc nối liền các địa điểm bí mật ở các xóm kể trên giúp hắn tẩu thoát mỗi khi có báo động. Xuồng, tam bản của hắn luôn luôn túc trực dưới bến giúp hắn vượt hai con Kinh Đôi và Kinh Tẻ trước khi cảnh sát tới. Với tiền đánh cướp ở các chợ vùng ngoại ô như Cần Giuộc, Nhà Bè, Giồng Ông Tố, Bảy Viễn sắm xe lô-ca-xông cho thuê. Đôi khi hắn dùng các xe này để đi ăn cướp. Bảy Viễn chịu ảnh hưởng nặng loại tiểu thuyết ăn cướp bắn súng lái xe đua như Bách-si-ma, Hoàng Ngọc Ẩn của nhà văn Phú Đức nổi tiếng thời bấy giờ. Hắn ăn mặc đúng thời trang, lái xe tới những tiệm vàng ở các chợ quận, mua cả bụm vàng rồi để lại một băng đạn trước khi lên xe vọt mất.
Năm 41, Bảy Viễn vị bắt với 17 tiền án ăn cướp có súng, bị kêu án 15 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo. Mười lăm ngày sau, Bảy Viễn vượt ngục bằng bè và được thuyền đánh cá vớt. Một năm sau hắn lại bị bắt đưa ra Côn Đảo. Hai tháng sau hắn lại trốn về đất liền. Nhà tù Côn Đảo mở cuộc điều tra tìm hiểu vì sao Bảy Viễn trốn quá dễ dàng như vậy. Nguyên do là Bảy Viễn có tay em ngoài đảo sẵn sàng giúp đàn anh đóng bè làm buồm, tiếp tế cơm khô nước ngọt. Một số thầy chú cũng ngán Bảy Viễn nên cố tình nhắm mắt làm ngơ.
Sau hai lần đi Côn Đảo, Bảy Viễn thay tên đổi họ, lấy tên Tây là thầy Tư Hoảnh-xăng (Vincent) bỏ đất Sài Gòn lên tận Bến Tranh, một làng nhỏ cách quận Dầu Tiếng ba cây số, mua nhà sắm xe bò cho thuê. Ngày ngày hắn vận xà-rong đi đánh bài tứ sắc với dân cờ bạc trong vùng. Tại đây có ba tay cờ bạc hào hoa ăn tiêu rộng rãi. Đó là thầy Tư Hoảnh-xăng, ông Năm Mắm và thầy Bảy Dầu Tiếng. Ông Năm Mắm là Huỳnh Văn Trí tức Mười Trí, là tướng cướp lợi hại chuyên đánh xe đò, ghe hàng ở lục tỉnh. Y có vợ là lái mắm Châu Đốc, mở vựa mắm ở Bến Tranh để làm bình phong che mắt làng lính. Thầy Bảy Dầu Tiếng chính là tay Cộng sản Nguyễn Văn Trấn, quê ở Chợ Đệm, quận Bình Chánh, tỉnh Chợ Lớn, cũng được gọi là Bảy Trấn. Trong thời Mặt trận Bình Dân và Đông Dương Đại hội Bảy Trấn đã ra hoạt động công khai trong nhóm Le Peuple, (báo Dân chúng). Nhiều lần đăng đàn diễn thuyết, có lần bị bắt vô Khám Lớn. Cả ba tên này chạy về đây ẩn náu trong khi địa bàn hoạt động của chúng bị “bể”, nhưng vẫn tiếp tục làm ăn. Thỉnh thoảng em út của thầy Tư Hoảnh-xăng và ông Năm Mắm mang tiền lên cho hai đại ca “đậu chếnh”. Còn thầy Bảy Dầu Tiếng thì thường lén lút vào các làng cao su vận động anh em cạo mủ đoàn kết tranh đấu đòi tăng lương, bớt giờ làm, cải thiện đời sống.
Tại sao lại chọn Bến Tranh làm căn cứ an toàn? Vùng này có anh em Hội đồng Thì là dân có máu mặt. Hội đồng Thì là điền chủ lớn, em y là Xã Mỹ, một tay cờ bạc nổi tiếng. Vợ bé Xã Mỹ là chị vợ Bảy Viễn. Với sợi dây ràng buộc đó, Bảy Viễn và Mười Trí ung dung nghỉ xả hơi tại đây, hễ có làng lính về thì nhảy xuống xuồng bơi qua sông, tới nhà Hội đồng Thì lánh nạn thì kể như an toàn một trăm phần trăm.
Hệ thống mật báo viên của Pháp thật bén nhạy nên sau nhiều tháng trời theo dõi, mật thám đã bao vây Bến Tranh, bắt được hai tên cướp lợi hại này. Còn tên Cộng sản Bảy Trấn thì nhanh chân trốn trong các làng cao su.
Ếch-teo đọc xong bản lai lịch, cầm tấm ảnh 4x6 lên nhìn lần nữa, lẩm
bẩm: “Đúng là mặt ăn cướp”. Hắn lấy bút mực đỏ ghi trên đầu hồ sơ “Phần tử tối nguy hiểm, cần tống ngay ra Côn Đảo. Nhốt riêng trong cátsô”. Hắn gạch đích hai lần chữ “nhốt riêng trong cátsô” đến rách giấy.
Hồ sơ thứ hai ngoài bìa kẻ chữ Huỳnh Văn Trí, tức Mười Trí, Ếch-teo ngắm tấm ảnh bán thân 4x6 lẩm bẩm: “Thằng này có cặp mặt sáng quá. Chắc là thông minh”. Hắn nghiên cứu lai lịch: Huỳnh Văn Trí, tức Mười Trí, sinh năm 1903 tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định, học trường làng, đi giang hồ học võ một thời gian, trở về cư ngụ tại Bà Quẹo. Nhóm Mười Trí làm ăn kín đáo hơn các nhóm khác ở thành phố Sài Gòn. Thường Mười Trí tổ chức đánh xe đò miền Tây, đánh ghe chài từ Cà Mau lên, phục kích tại các nơi hẻo lánh, đánh chớp nhoáng, rút cũng chớp nhoáng, không để lại dấu vết gì giúp nhà cầm quyền truy tìm xuất xứ…
Vụ đánh cướp Chợ Nhỏ Trà Vinh của nhóm Mười Trí cho thấy là một thiên tài về chiến thuật đánh một mục tiêu xa cách sào huyệt hai trăm cây số. Tất cả đều được nghiên cứu cẩn thận, bố trí chính xác, các sông rạch chung quanh thị xã đều được bám sát để biết nước lớn nước ròng, giờ nào tiến vô, giờ nào rút ra. Khi tấn công, chiến lợi phẩm cũng được phân ra rành rẽ, thứ nào đem xuống ghe mang đi, thứ nào ném ra đường cho dân nghèo. Nếu Bảy Viễn là tướng cướp hào hoa nặng mùi kiếm hiệp thì Mười Trí là tướng cướp thiên về chiến thuật quân sự.
Mười Trí 4 lần bị đày Côn Đảo, 4 lần trốn về đất liền bằng bè. Với tiền cất giấu, y mua chuộc thầy chú ở Sở Củi nhắm mắt cho đám tù lên núi vô rừng bứt mây đan bè bện bao bố trét chai.
Mười Trí và Bảy Viễn quen biết nhau từ ngày Bảy Viễn tự xưng anh chị ở trường đua. Sau cùng, cả hai lại gặp nhau tại Bến Tranh, dưới lốt cờ bạc để đánh lạc hướng đội “rờ-sẹt” Sài Gòn. Trong cuộc “ráp” vừa qua, cả hai đều sa lưới. Đề nghị nên nhốt riêng vì hai tên cướp lợi hại này mà liên kết lại thì trở thành lực lượng đáng ngại…
Ếch-teo nhìn lại lần nữa bức ảnh Mười Trí, gật gù: “Thằng này có thể trở thành một nhà chiến thuật đây. Cần nhốt kỹ”. Chụp cây bút đỏ, hắn phê trên đầu hồ sơ: “Rất nguy hiểm. Đưa ra Côn Đảo, nhốt cátsô cẩn thận”.
Xem xong hai tập hồ sơ, Ếch-teo thấm mệt. Hắn bước ra cửa sổ. Từ pháp- đình Sài Gòn nhìn sang Khám Lớn chỉ cách một con đường La-răn-đie (Lagrandière). Bỗng hắn bật cười khan:
- Thằng cha nào thiết kế thành phố Sài Gòn này chơi xỏ nước Pháp! Ai lại xây Khám Lớn giữa trung tâm thành phố, sát bên dinh Toàn quyền và dinh Thống đốc Nam kỳ? Đúng là chửi cha nền văn minh Đại Pháp!”.
Chú thích:
(1) Cercle Sportif Saigonnais (CSS) nhà xẹc, Tây tới chơi thể thao - nay là Tao Đàn
VÔ KHÁM LỚN BẢY RÔ LỘT XÁC
BỎ KIẾP GIANG HỒ THEO CÁCH MẠNG
Tổng giám thị A-gốt-ti-ni bị Sa-va-ni và Ếch-teo “xát xà bông hối hả trở về hòn đảo ngục tù của lão giữa Sài Gòn hoa lệ điều tra xem hư thực thế nào. Từ lâu lão chủ ngục này đã thấm mệt vì khí hậu nhiệt đới. Vào mùa hè, từ trưa đến chiều, hắn cởi hết nút áo, bạch ngực mà vẫn không chịu nổi cái nóng nung người. Bao nhiêu công việc hắn đều khoán trắng cho thầy chú. Hắn chỉ lo dưỡng già với cảnh tối sâm-banh, sáng sữa bò và cà phê đá buổi trưa. Hôm nay hắn nhất định mở cuộc điều tra để xem Sa-va-ni nói có đúng không. Riêng hắn thì không đời nào tin Cộng sản và ăn cướp bắt tay nhau được.
Hôm ấy nhằm ngày thăm nuôi. Hắn đảo một vòng. Các khám nhộn nhịp hơn ngày thường. Tại cổng lớn, mấy chục người xếp hàng chờ đợi được đưa giỏ xách đồ ăn vào trong cho thân nhân trong các khám, đám tù nhân nôn nao chờ gọi tên để ra phòng ngoài nhận quà và trao đổi vài câu vắn tắt với cha mẹ hay vợ con. A-gốt-ti-ni vẫn chưa thấy có gì đáng báo động như Sa-va-ni lên tiếng hôm qua. Lão chịu khó đi sâu thêm một chút nữa. Đi sát một “xan” (salle), lão thấy một chiếc chiếu được trải gần cửa, một người lom khom sắp xếp các thức ăn mà các tù nhân đi lãnh về giao cho anh ta. Người này là “cặp-rằng”. Hắn xếp đồ ăn làm hai loại, loại ăn liền và loại có thể để dành hai ba ngày sau không thiu thối. Đến giờ cơm, các món tiếp tế ấy được chia đều, không phân biệt người được gia đình thăm nuôi với những kẻ “sinh vô gia cư, tử vô địa táng”.
- A, chuyện mới, chuyện lạ đây! - A-gốt-ti-ni khẽ kêu lên- Trước đây làm gì có chuyện này! Của ai nấy ăn, hồn ai nấy giữ! Những người được tiếp tế giữ khít rim cái giỏ xách không thích ai dòm ngó, soi bói; hạ lạnh lùng ăn lén ăn lút, mặc kệ các kẻ đồng cảnh đồng thuyền có được thăm nuôi hay không.
- Ê, cặp-rằng! Tên gì?
- Dạ, Bảy Rô, Nguyễn Văn Rô.
- Ba giờ chiều nay lên phòng tổng giám thị- Lão A-gốt-ti-ni cẩn thận ra lệnh thầy chú đưa Bảy Rô lên phòng lão vào giờ nói trên.
Có nhiên là Bảy Rô lo lắng, ăn không thấy ngon, ngủ cũng chẳng yên. Chỉ mong đến 3 giờ theo thầy chú lên gặp chúa ngục. Trong khi chờ đợi, anh quay lại khúc phim cuộc phiêu lưu của mình vào “đại học Khám Lớn”. Anh học được rất nhiều từ khi bước chân vào tòa biệt thự mang số 69 La-răn-đie. Nhà ngang, dãy dọc, nhà trệt, lầu một, lầu hai. Tầng dưới nhốt thường phạm, tầng trên nhốt tù chính trị. Lúc mới vô, Bảy Rô đinh ninh mình ở tầng trệt, nhưng không ngờ được dẫn tuốt lên lầu hai, ở một phòng mang cái tên rất lạ là “ca-ba-nông” (cabanon).
Đây là phòng giam mấy cha “pô-li-tic”. Bảy Rô nằng nặc đòi đổi khám giam vì anh là ăn cướp can án giết Ba Tần. Bảy Rô kêu nài mãi, thầy chú phải xem lại hồ sơ. Đúng Bảy Rô là ăn cướp, có giết người, nhưng lại ở trong nhóm Mười Nhỏ, mà Mười Nhỏ bị liệt vào loại phá rối trị an. Hồ sơ Bảy Rô gắn liền với hồ sơ Mười Nhỏ mà lai lịch như sau “Mười Nhỏ giật một súng đi săn calip 16 và một súng 6,35 của thằng Tây chủ sở cao su ở Phước Lý, chuyên đánh các tay hội tề có máu mặt, lấy của người giàu giúp cho người nghèo. Một trong những nạn nhân của Mười Nhỏ là hương quản Trong, xã Bình Đăng. Hương quảng Trong qua Chánh Hưng bắt ăn cướp, bị Mười Nhỏ hạ sát”. Chừng đó Bảy Rô mới yên tâm ngồi ca-ba-nông, không còn thấp thỏm sợ “lộn nhà”. Vì tính hay khiếu nại đó mà anh bị thầy chú ghét, tên Pôn (Paul) Hiền kiếm chuyện đánh Bảy Rô ba chục “ma-trắc”. Nhưng “cái nết đánh chết không chừa”. Vài ngày sau, Bảy Rô kêu gọi anh em đấu tranh đòi đủ cơm ăn và nhất là bỏ nạn cho tù ăn bằng miểng dừa” (sọ dừa khô cưa đôi làm chén đựng cơm). Để trị tội xúi giục đấu tranh, thầy chú giam chung Bảy Rô với đám tù mắc bệnh cùi. Tại đây, cặp-rằng cùi chia cơm, cố tình cho Bảy Rô ăn đói trong 3 ngày liền. Đến ngày thứ ba, Bảy Rô phản đối. Tên cặp rằng chửi thề “Đ.mẹ, không ăn thì thôi. Cho mày chết đói”. Không đợi hắn dứt lời, Bảy Rô chụp thùng cơm đánh hắn té nhào. Tức thì 9 tên khác nhào tới cứu bồ. Một mình Bảy Rô tả xung hữu đột, đánh túi bụi xà ngầu, hạ hết chín tên.
Thầy chú trả lại anh về ca-ba-nông I. Tại đây Bảy Rô làm quen với anh em Thắng và Châu, sinh viên từ miền Trung vào Sài Gòn, bị bắt về tội hoạt động chính trị trong giới học sinh. Bảy Rô rất thích Châu. Hai người nằm đêm thủ thỉ với nhau về dự tính tương lai. Châu thích đi dạy học môn văn, sử:
- Đi vào sử rất thích thú. Chẳng hạn như nhìn bảng tên đường, mình có thể hình dung được cuộc kháng chiến cách đây gần trăm năm, như tên La-răn-đie (Lagrandière) chính là thằng hải tặc đã kéo rốc pháo thuyền xuống Vĩnh Long buộc kinh lược Phan Thanh Giản ký hàng ước nạp nốt ba tỉnh miền Tây năm Đinh Mão 1867. Còn đại lộ Sạt-ne (Charner) thì lấy tên thằng hải tặc đã đánh thành Gia Định khiến tướng Nguyễn Tri Phương bị thương năm Tân Dậu 1861, gây cảnh tang tóc mà nhà thơ mù Đồ Chiểu làm mấy vần thơ để lại đời sau:
…Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây…
Bảy Rô cũng hứng lây, bàn chuyện văn chương chữ nghĩa:
- Anh thích dạy văn, để tôi nói về màu sắc của các loại ngựa. Không ai rành bằng tôi, bởi tôi là tay đánh xe ngựa cả chục năm. Ngựa có đến tám sắc; ngựa trắng bốn sắc và ngựa đen bốn sắc. Toàn trắng là bạch, chen lông đen là kim, đen pha chút đỏ là đạm, pha nhiều đỏ là hởi; toàn đen là ô, pha tí đỏ là khứu, đỏ tươi là vang, đỏ sậm là hồng. Tôi đố anh tìm thấy điều này trong sách vở- Rồi anh cười vang lên thích thú. Sống với giới trí thức cũng hay hay.
Khúc phim “chung sống với anh em chính trị phạm” trong mấy tháng qua như hiện ra trước mắt anh:
Năm 1944, trong một vụ “đi hát” bị tổ trác, hai tên Chơn, Chó xộ khám cùng với một gã hung hăng tên Thắm. Gặp lại Bảy Rô trong ca-ba-nông cả ba vui mừng như cá gặp nước. Các tay anh chị ở Hố Bần xưng danh Bình Xuyên, được thầy chú vị nể.
Tháng 6-1944, một nhóm chính trị bị đưa vào nhốt chung. Nhóm này gồm 9 người, đứng đầu là sinh viên Thắng (tên thật là Trần Văn Trà). Vừa ngồi xuống chưa nóng đít, Thắng được hai tên Chơn, Chó tới mời:
- Cặp-rằng Sáu Khải gọi anh hỏi chút việc.
Thắng tới đứng trước mặt Sáu Khải, cặp-rằng hỏi:
- Mấy anh làm gì mà vô khám?
- Bị tình nghi làm chính trị.
Sáu Khải cười gằn:
- Làm chính trị càng phải trọng tôn ti trật tự. Sao vào đây mà không ra mắt?
Thắng ôn tồn:
- Mới vô chưa biết gì. Chưa ở tù lần nào, chưa biết cách thức…
Thắng chưa dứt lời, tên Thắm nhào tới đấm vào quai hàm. Thắng đấm trả đũa ngay. Cả dãy tù nhao nhao lên, hai bên dàn trận. Thắng thấy rõ là cặp-rằng Sáu Khải đã nắm được anh em Bình Xuyên. Nhưng nhóm chính trị không lùi bước.
Hôm sau, anh Ngoạn trong nhóm anh Thắng bị địch tra tấn chết giấc. Xe đưa vô Chợ Quán thì chết. Dù vậy, anh em vẫn giữ vững tinh thần.
Vài tuần sau lại có thêm một nhóm sinh viên bị bắt. Tất cả 4 người trong đó có nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng và họa sĩ Nguyễn Hải Trừng. Nhóm này tặng Thắng một chiếc mùi soa để tỏ cảm tình.
Sau khi quan sát sinh hoạt của nhóm Thắng, Sáu Khải và các tay Bình Xuyên đổi thái độ. Thắng bàn cùng các bạn cố tranh thủ một số anh em Bình Xuyên tốt. Bước đầu kéo được hai người: Bảy Rô và Mười Một. Hai tay anh chị tiến bộ Trình Giảo Kim và Năm Tửu đóng vai trò quan trọng trong việc thu phục Bảy Rô. Bảy Rô rất mê súng. Năm Tửu hứa chia cho anh một cây 6,35 sau khi ra khám. Bảy Rô cũng mê truyện Tàu. Trình Giảo Kim là một kỳ tài về môn đọc truyện Tàu. Anh không biết một chữ “nhất một” vậy mà đêm đêm đọc “tuồng bụng” không sót một chữ. Anh đọc luôn cả câu “muốn biết đoạn tiếp ra sao, xin xem hồi sau phân giải”.
Nhờ kéo được Bảy Rô, nhóm tù chính trị biết được âm mưu ghê gớm của đám thường phạm. Chẳng hạn như tên Thắm mài một căm xe đạp nhọn hoắt, định thanh toán anh Thắng. Hay tin “động trời” này, nhóm chính trị thay phiên nhau canh gác ngày đêm không để xảy ra chuyện đáng tiếc.
Không riêng gì Bảy Rô, Mười Một mà đến các thầy chú, cặp-rằng cũng nể anh em chính trị. Tên Béc-na (Bernard) Tây lai bị án tử hình được giao coi các khám cũng có cảm tình với nhóm sinh viên hoạt động chính trị.
Từ ngày làm quen với hai anh em Thắng, Châu, Bảy Rô thấy mình học hỏi được nhiều điều bổ ích. Anh gật gù thú vị khi nhớ lại chuyện Tái ông mất ngựa: trong cái rủi có điều may. Điều may nhất của Bảy Rô là nhờ sinh viên Thắng vạch rõ chân tướng của mình.
Trong lúc trò chuyện, Thắng hỏi:
- Tại sao các anh đi hát?
Bảy Rô đáp thật tự nhiên:
- Tại cái nghèo.
Thắng kêu lên:
- Bậy! Nói như anh thì tất cả những người nghèo đều đi ăn cướp hết sao?
Bảy Rô ú ớ, Thắng nói tiếp:
- Theo tôi, nghèo không phải là yếu tố quyết định đẩy các anh đi vào con đường quấy.
- Vậy thì cái gì? Bảy Rô háo hức muốn biết.
- Yếu tố quyết định là chất lưu manh trong các anh. Do chất này mà các anh muốn làm cha thiên hạ, muốn không làm mà hưởng, muốn ngồi mát ăn bát vàng, muốn vui sướng trên mồ hôi nước mắt kẻ khác. Có đúng vậy không?
Bảy Rô im lặng suy nghĩ. Càng nghĩ anh càng thấm. Vài ngày sau, Thắng tiếp tục tranh thủ tình cảm Bảy Rô:
- Trong nhóm Bình Xuyên, tôi thấy anh là người tốt vì hoàn cảnh đưa đẩy mà lạc bước sa chân.
Bảy Rô thở dài:
- Anh nói đúng. Tôi là tay ăn cướp bất đắc dĩ. Nhưng mà đã lỡ rồi…
Thắng vỗ vai anh, giọng chân tình:
- Vẫn còn kịp. Nhà tù là lò luyện thép. Sắt vụn, sắt rỉ nung mãi cũng thành thép mới. Muốn trở thành người tốt, trước nhất phải thấy chân tướng mình. Anh phải lột xác bỏ chất lưu manh thì sẽ tiến bộ như mọi người.
Bảy Rô nhớ mãi lời khuyên chí tình này.