TỚI BẾN TRE BA DƯƠNG TỬ TRẬN
NĂM HÀ KỂ CHUYỆN THIÊN ĐỊA HỘI
Đầu năm 1946, Ba Dương triệu tập hội nghị tại Rạch Su trình bày việc đưa quân xuống tăng cường chiến khu Bến Tre, tiếp cứu mặt trận An Hóa – Giao Hòa bị Tây uy hiếp nặng.
Theo lệnh Khu trưởng Nguyễn Bình, Ba Dương chỉ thị cho các bộ đội chọn đơn vị có thành tích lập liên quân đi Bến Tre. Đích thân ông chỉ huy đại đội Tân Thuận trong chuyến đi này.
Năm Hà được giao trọng trách thủ trại.
Bây nhờ nhằm cuối tháng chạp, Tết cũng gần kề. Nhiều người ngại đánh giặc trong mấy ngày giáp Tết, nhưng không ai dám nói ra.
Tại Nhà Tròn, xã An Thới Đông, các cánh quân Nhà Bè, Tân Thuận, Tân Quy, Thủ Thiêm tổ chức ăn Tết trước đồng bào ba ngày. Đây là một cái Tết khó quên giữa sông cái mênh mông và rừng xanh chằn chịt. Khung cảnh giống hệt vùng Lương Sơn Bạc.
Tám giờ đêm 30 Tết, tất cả vượt sông Soài Rạp, theo vàm Bao Ngược tới đóng quân ở xã Tân Dân trước bốn giờ sáng mùng một Tết Bính Tuất. Vừa đi vừa đánh tạo khí thế. Cánh Nhà Bè đánh Cần Giuộc, cánh Tân Thuận đánh Cần Đước, cánh Tân Quy đánh Chợ Trạm. Ngày hôm sau, các cánh tới Bình Phục Nhứt trong quận Chợ Gạo. Dù mệt nhoài anh em vẫn đào công sự phục kích địch trước khi hành quân vô tỉnh Bến Tre. Nhưng đến bờ Nam Cửa Tiểu thì được tin mặt trận An Hóa Giao Hòa đã mất. Bộ chỉ huy quyết định kéo qua xã Châu Bình đánh đoàn tàu ghe thực phẩm. Ba Dương đích thân chỉ huy cánh quân Tân Thuận phục kích tại ngã ba Giồng Trôm, sau đó rút về xã Bình Khương. Mối quan tâm của Ba Dương là lập liên quân.
Khi kéo đại bộ phận xuống Gò Công gặp bọ đội Hai Lung, Ba Dương đề nghị thống nhất lực lượng. Hai Lung là con nhà giàu làm nghề lưới biển bị phá sản. Đang học ban tú tài, anh xin qua học trường Bá nghệ để sớm đi làm kiếm sống. Tốt nghiệp, anh bị bắt đi hạ sĩ quan trong đại đội 7 lính thợ pháp thuộc địa (ème Compagnie d’Ouvriers d’Artillerie Coloniale – COAC). Đến lúc Nhật đảo chánh Pháp, Hai Lung trốn về Gò Công và được giao chỉ huy quân đội Cộng hòa tự vệ, lực lượng trên ba trăm quân. Anh rể Hai Lung là Maurice nhắn Hai Lung về giữ chức phó tỉnh trường, nhưng Hai Lung viết thư nói rõ mỗi người một mặt trận. Đất ai nấy giữ. Đơn vị của Hai Lung có điểm đặc biệt là bộ ba chỉ huy đều là cựu học sinh trường máy do Tây đào tạo, đó là trường Kỹ nghệ thực hành. Hai chỉ huy phó của Hai Lung là Ba Trứ và Ba Hậu.
Tới Bình Đại, Ba Dương triệu tập hội nghị bàn về phối hợp lực lượng giải giới Đệ tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp đã có hành động quân phiệt làm nhân dân ta thán. Đến dự có Hai Lung, Trương Văn Giàu, Bùi Sĩ Hùng. Trương Văn Giàu là chỉ huy Cộng hòa Vệ binh, Bùi Sĩ Hùng là sinh viên y khoa. Đang hội nghị tại Giao Hòa thì nghe tin Tây sắp tấn công. Hai Lung dàn quân nghênh chiến, còn Ba Dương rút qua sông Ba Lai đóng tại Châu Phú theo kế hoạch đã định.
Hai chiếc Xpít-phai (Spitfire) lên bắn phá dọn đường cho bộ binh. Trong lúc chưa đào phòng tuyến, Ba Dương chạy ra cây rơm sau nhà trú quân. Ông xoay quanh cây rơm vừa tránh đạn vừa ra lệnh cho đơn vị tản khai. Không may trúng đạn tử thương. Cái chết bất ngờ của Ba Dương khiến lực lượng Bình Xuyên trên đường hành quân xa phải quay trở về.
Ăn Tết được vài ngày, Năm Hà đang ở Tam Thôn Hiệp thì trình sát thuộc đại đội 2 chi đội 3, tốc xuồng về báo tin buồn: “Anh Ba Dương tử trận ở Bến Tre rồi anh Năm ơi!”. Tin như sét đanh bên tai khiến mọi người bàn hoàng. Năm Hà nhớ lại ngày ra đi, anh Ba dặn riêng: “Chú phải giữ kỹ anh em, đừng để chúng xách súng đi lung tung. Bây giờ mình là bộ đội cách mạng rồi”. Càng suy ngẫm, càng thương tiếc không nguôi…
*
* *
Cũng trong khoảng thời gian đó, Chi đội 2 mất vị chỉ huy. Trong cuộc càn tại Rạch Mới, Từ Văn Ri trúng đạn khi băng qua rạch. Năm Chảng lên năm quyền chỉ huy.
Lúc này cũng là lúc Pháp đang cho các giang đỉnh càn quét. Năm Hà và đội chỉ huy của Bảy Rô rút vô Tam Thôn Hiệp. Trời mưa dầm dai dẳng, gió rít từng cơn, dưới sông Lòng Tàu nước cuộn sóng, xa xa nghe tiếng máy màu tuần xình xịch lúc xa lúc gần. Năm Hà cùng anh em rút vô ngôi đình gần bờ sông cái, lòng buồn không thể tả. Trong đời giang hồ của Bảy Rô, chưa lúc nào thấy bi quan như lúc này. Chủ tướng tử trận, lực lượng phân tán, địch càn mạnh, trời như thông cảm tâm trạng của những kẻ thất cơ, sụt sùi mưa gió.
Một lúc sau, tiếng “xình xịch” tàu tuần nhỏ dần rồi im bặt. Tàu đã đi xa rồi nhưng cơn mưa vẫn còn rả rích lê thê. Bảy Rô vốn tánh hiếu động, nhìn quanh thấy ông từ đang nấu nước pha trà. Anh đến gạ chuyện:
- Bác năm nay được mấy mươi? Trụ trì tại đình này từ bao giờ? Đình này thờ thần nào vậy?
Ông từ nhìn Bảy Rô rồi thong thả trả lời:
- Năm nay tôi đúng lục tuần, già rồi nên xin vô đình trông nom nhanh khói để dưỡng già. Vô đây cũng được năm sáu năm. Còn đình thờ ai thì thú thật tôi không rõ, vì ít ai dám mở sắc thần ra xem. À, cách đấy mấy năm, có nhà khảo cổ xin phép mở sắc thần. Theo ông ta, thì đình này thờ các chiến sĩ trận vong của vua Tây Sơn đã đánh cháy thuyền của tên Mạn Hòe. Tên hải tặc này là người Pháp, đánh giặc thuê cho vua Gia Long lúc còn mang tên Nguyễn Ánh. Trận đánh này diễn ra từ nữa Cần Giờ đến Ngã Bảy, trước đây trên một trăm năm mươi năm…
Năm Hà cùng đám Ba Ray, Chín Mập đều xúm lại ngồi quanh nghe chuyện đời xưa. Năm Hà vừa nhắm trà vừa hỏi:
- Ông có phải là người vùng này không?
Ông từ gật:
- Tôi sanh ra tại đây, lớn lên làm nghề chài tại đây và – ông cười hiền lành – chừng chết cũng chôn tại đây…
Năm Hà liền hỏi:
- Từ lâu tôi muốn gặp người địa phương để hỏi về miền đất này. Tại sao lại gọi là Rừng Sác? Có người viết Sác với chữ T, có người viết Sác với chữ C. Cái nào trúng, cái nào sai?
Ông từ lắc đầu:
- Về chữ nghĩa thì tôi không rành. T hay C, tôi không được rõ. Nhưng vùng này thì tôi biết nhiều hơn ai hết vì tôi chuyên nghề chài lưới trên sông. Tôi nghe ông bà cắt nghĩa như thế này: Rừng Sác là rừng nước mặn trên bãi sình lầy. Bởi vậy cho nên có cây Sác, mướp Sác. Vùng này sông rạch lớn nhỏ chằn chịt, nhưng lớn nhất là hai con sông Lòng Tàu, Soài Rạp. Ở đây có rất nhiều tắt tức là những con rạch ngắn nối hai khúc sông rạch khác. Tắt Chàng Hảng nối liền hai sông Lòng Tàu và sông Soài Rạp. Chỗ nước xoáy, nguy hiểm cho ghe thuyền đi lại. Có nhiều tên lạ như Ăn Thịt; sau này người ta đọc trẹo là An Thịt, nhưng thật ra là Ăn Thịt. Nơi đây có nhiều cọp, khách thương hồ chết về nạn cọp vồ nên mới có cái tên như vậy. Có nơi mang tên dễ sợ như ngã ba Chó Tru. Chỉ rõ nơi này hoang vắng đến nỗi chó cũng phát sợ… Đi ngược về miệt Long Thành, có nơi cảnh đẹp mang tên là Vũng Gấm. Trời nước long lanh như gấm vóc, nhưng tới đó phải coi chừng… sấu lên như củi mục…
Cả bọn giật mình lè lưỡi vì trước đây, khi chạy Tây, họ đã từng đóng quân tại Bàu Bông, Vũng Gấm, thuộc xã Phước An.
- Tại sao Vũng Gấm có nhiều sấu hơn nơi khác?
Ông từ suy nghĩ một lúc. Mắt ông nhìn đăm đăm bếp lửa như cố tìm hồi ức trong đống tro tàn:
- Ông thân tôi kể chuyện như thế này: Dân Nam Kỳ thích ăn thịt sấu, mà sông cái miệt mình rất hiếm sấu. Có một thằng Tây mãn lính xoay nghề đi buôn. Hắn ta sắm ghê lên Biển Hồ mua sấu chở về Sài Gòn bán. Đi hai ghe nhưng tới miệt Vũng Gấm thì sấu quậy chìm một ghe. Sấu ngày nay có lẽ là sấu chắt của mấy trăm con sấu nói trên.
Năm Hà cười:
- Tôi thì nghe người ta kể khác ông anh. Sông Bến Nghé rất nhiều sấu. Nghé là tiếng kêu của sấu chứ không phải của trâu. Bến Nghé là bến sấu.
Ông từ say sưa nói tiếp:
- Đó là thời xưa. Nhưng khi Tây tới, tàu bè đi lại trên sông tấp nập, sấu hoảng sợ rủ nhau tìm nơi vắng vẻ. Còn cọp thì lúc Tây chưa tới, cọp lền nghển miệt Cần Giuộc. Giữa ban ngày, Tết năm nào tôi quên mất rồi, cọp về tới chợ Tân Kiểng gây náo động. Có một nhà sư tên Tăng An ra tay đánh hổ như Võ Tòng trong Thủy Hử. Hạ được cọp rồi Tăng An cũng chết. Một nhà sư khác tên Tăng Ngộ cũng được bà con Cần Giuộc nhắc nhở về tại võ nghệ tuyệt trần đánh chết cọp.
Ông từ càng nói càng thêm hứng thú. Lâu ngày mới có nguời chịu nghe vốn sống của ông:
- Miệt Lý Nhơn có nhiều chuyện hay. Gần đó có một nơi gọi là Đá Hàn. Tàu lớn đên đây thường bị đụng đá hàn. Nghe nói là Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định đã ra lệnh cho nghĩa quân lên miệt Biên Hòa bắn đá dùng bè đưa về nhận chìm ở đó để ngăn tàu giặc. Mấy ông bà già ưa kể chuyện ngoài Quản Định đã đóng quân ở Lý Nhơn trước khi rút qua Đám Lá Tối Trời.
Đến đây, ông từ vụt cười xòa:
- Còn một chuyện này nữa: Vùng Rừng Sác ăn thông với miệt Chợ Đệm, nơi đây có xóm Ba Cụm chuyên nghề bối đại tài. Thuyền ghe đi qua đầy đều bị bối. Day qua day lại thì nồi cơm bắc trên cà-ràng đỏ lửa biến mất. Bọn bối ở đây lọi dưới nước giỏi như rái cá. Tôi có qua đó mấy lần. Lần nào cũng bị bối. Nhưng mình không hiểu tại sao dân Rừng Sác lại thích nghề lục lâm thảo khấu như vậy.
Ông từ vô tình đặt câu hỏi trước đám lục lâm thảo khấu chánh cống. Mọi người cười rộ. Nhưng sau cái cười vô ý thức đó, một chút đắng cay chua chát làm tê đầu lưỡi. Lão giữ đình đã khêu gợi vết thương lòng. Cả quãng đời cơ cực, tủi nhục hiện ra trước mắt họ. Sanh ra với hai bà tay trắng, họ phải bán sức lực để đổi láy bát cơm. Làm tá điền thì bị chủ đất coi như toi mọi.
Bảy Rô không thể nào quên những lời thủ thỉ của vợ mới về nhà chồng. Vợ anh đã kể lại chuyện đi Tết nhà tên chủ đất lúc chị mới lên mười. Nhà nghèo, cô bé phải mượn ái dài đi mừng tuổi chủ đất. Ba má phải mượn tiền trả góp để mua một ký hồng tươi, một cặp rượu chát cho con xách qua cúng ông bà tên chủ đất. Mới mười tuổi, nhưng cũng đã sơm biết căm tức, cô bé muốn bóp nát những trái hồng tươi, muốn đập tan hai chai rượu quý thay vì đem nạp cho vợ chồng tên ác độc khốn khiếp. Điều làm cô bé bất bình nhất là sau khi dâng quà Tết, phải lên nhà thờ lạy đủ hai mươi bốn bà thờ không sót một cái rồi mới đến chúc thọ ông bà chủ đất. Lòng căm thù ấy đã lây qua Bảy Rô; khi theo Mười Nhỏ, hễ nghe nói “đi hát” “ăn hàng” bọn điền chủ, là Bảy Rô tán thành ngay…
Đó là số phận của những người theo nghề nông. Còn những kẻ ra thành thị làm phu khuân vác thì bị nạn cặp rằn, cai thầu, đứng bên chuyên ăn chặn, ăn xới, ăn bớt trên mồ hôi nước mắt người lao động. Đó là chưa kể đến quán nhậu, tiệm thuốc, sòng bạc và nhà thổ. Không đủ tiền đóng thuế thân, họ phải sống theo kiểu “dân lậu”, như thằng Chơn, thằng Chó ơ xóm “săn-chê” – Đã là dân lậu thì không được vào hương chức hội tề, không được dự tiệc đình làng, không được kiện cáo bất cứ ai, dù kẻ đó hà hiếp, áp bức mình. Trong hòan cảnh đó, không làm nghề lục lâm thì làm nghề gì để sống cuộc đời đáng sống?
Bảy Rô toan trả lời, nhưng ông từ đã đi lấy nước mưa cho bình trà thứ hai. Để thay đổi không khí, Bảy Rô đề nghị Năm Hà kể chuyện “đi hát”:
- Có vụ nào làm cho làng lính Tây tà khiếp vía không anh Năm?
Năm Hà mỉm cười:
- “Đi hát” không phải là nghề của tao… Tuy vậy tao cũng biết chút đỉnh. Vùng Rừng Sác này rất thuận tiện cho giới lục lâm làm ăn. Đây là yết hầu của thành phố. Tàu buôn nước ngoài theo ngã Lòng Tàu vô Sài Gòn. Ghe thuyền từ Nam Vang hay lục tỉnh theo ngã sông Soài Rạp vô Chợ Lớn, cho nên các con kinh Cây Khô, Rạch Đỉa, Rạch Bàng ngày đêm tấp nập thuyền bè. Có những đoàn ghe chài hàng chục chiếc chở gạo, heo, bò, do tàu kéo chạy qua miễu Ông, rúc còi liên hồi nghe thật vui tai. Miễu Ông đây là miễu thờ Cá Ông, chứ không phải là thờ Ổng Bổn…
- Ông Bổn là ai vậy anh năm? – Chín Mập hỏi.
- Vùng này rất nhiều người Tàu, phần lớn là người Tiều. Họ qua đây trong nhóm mấy nghìn người “phù Minh diệt Thanh”. Ông Bổn là nhà hàng hải Trịnh Hòa, chỉ huy đoàn thương thuyền trên 200 chiếc. Trịnh Hòa được thờ như vị phúc thần gọi là Tảm Bảo Công, Bổn Đầu Công, gọi tắt là ông Bổn. Sống ở đây, người Tàu vẫn quên lề thối cũ là lập hội kín, mà nổi tiếng nhất là Thiên Địa Hội. Có hai nhóm, Nghĩa Hưng – gọi là Kèo xanh và Nghĩa Hòa gọi là Kèo vàng. Nghĩa Hưng là của người Phước Kiến, còn Nghĩa Hòa là của người Triều Châu (Tiều). Có chuyện buồn cười là dân mình cũng vô Thiên Đại Hội của người Tàu. Không ai đâu xa chính ông thân của tao đây. Ông ở nhóm Nghĩa Hòa “Kèo vàng”. Hồi đó tao còn nhỏ nhưng nghe lỏm các cuộc họp kín, còn nhơ tới bây giờ. Khách tới nhà luôn luôn xách dù. Dù không chỉ che nắng che mưa mà còn để làm ám hiệu. Móc dù ở cán vô trong là có người theo dõi. Đội nón cũng để làm ám hiệu. Nón úp thì ở lâu, nón ngửa thì đi liền. Nếu đi ghe thì chiếc gàu úp trên cần bánh lái là ám chỉ chủ ghe là người trong hội. Về sau tụi lính kín biết các mật hiệu, giả dạng hội viên để thâm nhập bắt bớ. Đằng mình cũng rút kinh nghiệm, hễ thấy khả nghi là truy tới cùng. Có nhiều cách truy. Chẳng hạn như quẹt một lúc năm ba que diêm cho lửa cháy phừng phừng lên, nếu là hội viên thứ thiệt thì khách sẽ đọc mấy câu thơ:
Hòn núi Diệm Sơn rất nêu cao,
Trực nhìn thấy ngọn lửa hỏa hào
Liều mình bước đại qua ngọn núi
Được gặp hiền lương kết nghĩa hào.
Ba Bay liền hỏi:
- Nếu gặp thứ giả thì sao hả anh Năm?
Năm Hà làm dấu chém gió. Ba Bay cười lớn:
- Cho “mò tôm” hả anh Năm? Hay quá!
Nhưng Bảy Rô nhắc lại đề nghị của mình:
- Anh Năm nói lòng dòng mà chưa kể chuyện “đi hát”…
Năm Hà cười:
- Không đi lạc đâu. Đi lòng vòng rồi cũng tới đó. Ông bà mình biết Thiên Địa Hội là của người Tàu, nhưng cũng vô để lần lần lái mục tiêu đấu tranh về phía mình là đòi Tây trả lại đất nước mà chúng đã chiếm từ thời Gia Long, Minh Mạng… Hồi nãy mày hỏi có trận “đi hát” làm làng lính Tây khiếp vía, tao trả lời đây nè. Có chớ! Có tới hai vụ chớ không phải một. Không phải đánh bọn nhà giàu mà đánh ngay thằng Tây. Đó là chuyện đời xưa do ông thân tao kể lại. Vụ thứ thứ nhất là vụ Phan Xích Long phá Khám Lớn năm 1913 và vụ thứ hai là vụ Tư Mắc phá Khám Lớn năm 1916. Hai tay này chịu ảnh hưởng Thiên Địa Hội, huy động nông dân các vùng ngoại thành, xuất phát từ Cần Giuộc, Cần Đước và các quận lân cận, nổi lên cướp chính quyền xưng bá đồ vương. Có đến năm sáu trăm người mặc áo đen quần trắng, đeo bùa, xuống đường với võ khí thô sơ. Tây thằng tay đàn áp và sau đó xử bắn một lúc năm mươi mốt người để khủng bố tinh thần dân chúng. Nhưng trái với sự tính toán của Tây, chúng càng khủng bố dân càng căm thù càng làm tới. Dân Bình Xuyên mình mang ít nhiều dòng máu của Phan Xích Long và Tư Mắc.
Bảy Rô nhắc lại câu hỏi:
- Đó là chuyện đời xưa… tụi tôi muốn nghe những vụ đánh cướp ác liệt nhất gần đây…
Cả bọn hưởng ứng:
- Phải đó. Kể đi anh Năm.
Năm Hà gật gù:
- Theo tao thì vụ đánh cướp đáng kể ở Sài Gòn, Chợ lớn là vụ đánh cướp sòng bạc của Sáu Ngọ. Cách đây mười nằm, Sài Gòn Chợ Lớn có hai tay chứa cờ bạc nổi tiếng, đó là Sáu Nhiều và Sáu Ngọ. Sáu Ngọ là tay giao thiệp rộng, vô dân Tây, lấy tên là Paul Daron, bỏ tiền ra mua hết lính ở Sài Gòn, làm ăn suôn sẻ, dân cờ bạn an tâm lui tới sát phạt. Chỉ có một lần tên chưởng lý mới đổi tên là Lafrique quyết tâm dẹp sòng bạc ngày càng thách thức chính quyền, không coi luật pháp ra sao hết. Muốn đóng cửa sòng bạc Sáu Ngọ, tên chương lý phải vận động đưa lính từ Mỹ Tho về, vì lính ở Sài Gòn đều “ngậm xôi chùa” của chủ sòng bạc. Đó là về mặt cò bót lính tráng, còn về mặt du đãng, ăn cướp, Sáu Ngọ nuôi một tiểu độii “mặt rằn mặt rện” từng can án đâm thuê chém mướn để trị bọn lưu manh trà trộn vào sòng bạc giở trò giật dọc…
Vậy mà Bảy Viễn đánh được sòng bạc này mới hay. Bảy Viễn giả làm tay cờ bạc, nhiều lần lui tới để nghiên cứu đường đi lối về. Sòng bạc Sáu Ngọ là một vi-la bánh ếch, chung quanh có rào sắt cao khỏi đầu. Tại cổng ra vào duy nhất có nhà gác do bọn bảo vệ canh giữ. Ở dãy nhà sau dành bồi bếp, luôn luôn có một đám vệ sĩ, sẵn sàng chạy lên can thiệp khi có báo động. Tụi này võ trang dao bảy và dao găm. Thời đó Tây cấm ngặt sắm súng. Sòng bạc của Sáu Ngọ gồm đủ các tầng lớp xã hội, giới sang có bác sĩ, kỹ sư, phủ huyện, giới trung lưu có thầy thông, thầy ký, giáo viên, giới hạ lưu cũng có cai thầu dắt mối… Có nhiều thứ chơi nhưng phần đông chỉ “mặn” món me. Chỉ có bốn cửa, yêu, lượng, tam, túc mà thiên hạ mê tới bán vợ bán con, gia đình tan nát. Sau khi nghiên cứu xong, Bảy Viễn chọn ngày lành tháng tốt ra quân. Ngày lành là ngày thiên hạ lãnh lương, bóp phơi no nóc. Cùng đi với Bảy Viễn có ba đệ tử ruột, một ngồi ngoài xe, đến giờ hành động là rồ máy chờ sẵn. Lúc đó Bảy Viễn có nhiều xe hơi cho thuê, gọi là xe “lôcaxông”. Còn các tên kia thì tới trước Bảy Viễn, mỗi tên thủ sẵn trong túi môt bao vải. Bảy Viễn ăn mặc sang trọng, áo ba túi ngắn tay, miệng ngậm xì-gà, đi xe bóng loáng. Bọn vệ sĩ trông thấy là mở banh cửa sắt, chào hỏi tử tế.
Bảy Viễn chọn một chỗ tốt trong sòng me. Ở chỗ này anh ta có thể làm chủ tình hình phía trước mặt, còn phía sau lưng đã có hai thằng đệ tử bảo vệ. Khi mọi người hoàn toàn chăm chú vào tên “phá hỏa” đang cầm chiếc đưa gạt các hột me từng chùm bốn hột, thì Bảy Viễn nhanh tay quơ hết tất cả các xấp tiền gom lại thành đống, đạp dưới chân, đồng thời móc súng đuổi tất cả lùi về phía trước, tấn vô vách. Tức thì hai tên đệ tử nhào tới hốt tiền tuôn vào bao đầy nhóc rồi chạy ra xe. Lúc bây giờ bọn vệ sĩ đã được báo động chạy túa lên nhà trên, nhưng Bảy Viễn nhanh chân rút lui, súng vẫn chỉa vào đám đông, chân đi thụt lùi về phía cửa. Lúc này hai tên đệ tử đã vứt hai bao tiền vô xe và chạy trở vô yểm trợ cho Bảy Viễn rút lui an toàn. Xe đã nổ máy chờ sẵn. Cả ba vừa nhảy lên là vọt nhanh, tiếng bánh xe rít trên đường tráng nhựa nghe đến ê răng. Bọn vệ sĩ chạy túa theo chỉ kịp hít bụi và khói.
Bảy Rô kêu lên:
- Đúng là ăn cướp kiểu Bách Sa Mi, Hoàng Ngọc Ẩn…
Năm Hà gật gù:
- Đúng vậy. Người ta nói Bảy Viễn là ăn cướp chợ còn Mười Trí là ăn cướp vườn, nghĩa là vẽ mặt mầy rằn rện để dọa thiên hạ…
Ba Bay tham lam:
- Anh Năm kể vài vụ cướp của Mười Trí đi..
Năm Hà khoát tay:
- Để bữa khác! Chuyện của Mười Trí thì phải kể dài dòng, nếu có ai chịu khó ghi chép thì cũng thành một cuốn sách dầy mấy trăm trang, đọc hòai không thấy chán…
BỘ ĐỘI GÒ CÔNG GIA NHẬP BÌNH XUYÊN
BẢY VIỄN TOAN TÍNH THAY THẾ BA DƯƠNG
Hai Lung và Ba Trứ đem bộ đội Gò Công cùng hai chi đội của Ba Dương vượt biển tới Vàm Láng, ngược sông Soài Rạp về đóng tại Lý Nhơn để từ đó trở về chiến đấu trong tỉnh Gò Công.
Lý Nhơn là xã nằm trong Rừng Sác, địa thế hiểm trở, là yết hầu của thành phố Sài Gòn- Chợ Lớn, dùng làm bàn đạp để bám lấy tỉnh nhà rất thuận lợi. Khi quyết định về Lý Nhơn. Hai Lung hăng hái đưa cả vợ con theo. Anh muốn con cái lớn lên trên mảnh đất “địa linh nhơn kiệt” từng in dấu chân Trương Định.
Ba Trứ có hơi ngại khi liên kết với bộ đội Bình Xuyên, vì từ lâu anh đã nghe danh những tay lục lâm thảo khấu này. Tuy không hẳn là trí thức, nhưng Ba Trứ thấy giữa mình với các tay anh chị này có một khoảng cách khó san bằng. Anh Tâm sự với Hai Lung vì anh xem như anh cả. Hai Lung mỉm cười bảo:
- Trong lịch sử mình chưa thấy thời nào đẹp cho bằng thời đại chúng ta. Tất cả các tầng lớp đều một lòng một dạ đánh Tây giành độc lập. Bạn có thấy bác sĩ, luật sư bỏ hết nhà cao cửa rộng, từ biệt cuộc sống gấm hoa để chen vai thích cánh với dân quê dốt nát? Thế thì tại sao bạn lại không thể xáp lại gần anh em Bình Xuyên? Theo mình, số giang hồ chỉ là một chấm nhỏ không thấm vào đâu so với phần đông là anh em lao động thành thị và ngoại ô.
Một đoàn ghe cửa đồng loạt giương buồm tách bến Bình Đại. Suốt đời có lẽ Hai Lung và Ba Trứ không thể quên được chuyến vượt biển từ Bình Đại về núi Eo Ông, Bà Rịa. Bà con Bình Đại bịn rịn không nỡ chia tay. Hai đơn vị của Hai Lung và Ba Trứ được củng cố lại, chỉ giữ một đại đội, còn hai đại đội thì giải ngũ nhập vào dân quân địa phương. Đại đội ra đi chia làm ba trung, mỗi trung đi một ghe cửa loại lớn. Đồng bào mang tặng đủ thứ, gạo, mắm, tôm khô, chuối, dừa… Đoàn ghe hướng theo ánh đèn pha của Vũng Tàu mà đi. Dự định đi một đêm là tới miền Đông. Nhưng trời sáng hẳn mà vẫn còn lênh đênh trên mặt biển. Hai chiếc máy bay săn giặc đến, ba chiếc ghe cửa vội vàng hạ buồm, tấp vô cồn. Hết máy bay mới tiếp tục. Mất hai ngày hai đêm mới tới Eo Ông. Cuộc sống ở rừng miền Đông vô cùng vất vả với bộ đội Gò Công. Nhưng với quyết tâm cao, họ vượt qua mọi gian lao
***
Ba Trứ rất hài lòng về cơ ngơi mới xây dựng ở Eo Ông, núi ông Trịnh, giữa Long Thành và Bà Rịa, dọc con lộ 15 Sài Gòn- Vũng Tàu. Vùng này chuối rừng nhiều vô kể. Ba Trứ cùng anh em trong đơn vị đốn chuối, tách bẹ, lợp trại, xinh xắn như những gian hàng chợ Tết. Nhưng niềm vui của Ba Trứ như phù du sớm nở tối tàn vì qua ngày sau, dưới nắng hè gay gắt, bẹ chuối teo lại nhăn nhúm và mưa đổ ụp xuống thì trong nhà cũng như ngoài sân. Nhưng vấn đề gạo mới là chuyện sống chết. Muốn mua gạo, phải băng qua con lộ 15. Hồi đầu kháng chiến, ta đã đào hầm đắp mô, nhưng địch bắt dân hai bên đường sửa chữa để xe nồi đồng đi tuần tiễu. Qua lộ 15 phải bố trí tác chiến hẳn hoi. Quân đội Anh- Ấn từ Bà Rịa đi càn, ta chặn đánh bắt được ba đứa. Ba Trứ cho anh Tấn, sinh viên Sài Gòn biết tiếng Anh, tuyên truyền giải thích nửa tiếng rồi thả.
Trong thời gian trú quân tại núi Eo Ông, Hai Lung và Ba Trứ củng cố Chi đội 3 trong Liên chi Bình Xuyên. Sau khi anh Ba Dương tử trận, anh Năm Hà được đưa lên làm chỉ huy trưởng. Chi đội 2 do Năm Chảng nắm sau khi Từ Văn Ri tử trận. Hai Soái làm chi đội phó, Nguyễn Lộc chính trị viên. Chi đội 3 do Mười Lực nắm, Hai Lung chi đội phó, Ba Hậu chính trị viên, Chi đội 3 có 3 đại đội, Bảy Môn nắm đại đội 1. Ba Trứ nắm đại đội 2 và Tư Huỳnh nắm đại đội 3. Ba đại đội trưởng này mỗi người một vẻ. Bảy Môn là dân anh chị Thủ Thiêm, ngang với Mười Lực, nên lúc nào cũng xử sự như một Mạnh Thường Quân, Ba Trứ là “công nhân quý tộc” được đào tạo từ nhà trường Pháp. Tuy là “công nhân áo trắng”, anh sống gần gũi đội viên vì đa số là dân lao động thành thị. Tư Huỳnh là dân giang hồ, chịu anh hưởng của “Từ Hải chết đứng chớ không chết quỳ”, khi lâm trận, đứng thẳng người mà chỉ huy. Tư Huỳnh chỉ phục có một người và người đó là Bảy Viễn. Tư Huỳnh đã có lần thích huyết ăn thề kết nghĩa anh em với Bảy Viễn. Lễ thích huyết đó là kỷ niệm sống mãi với anh.
Trong ba đại đội này, nổi bật nhất là đại đội 2 của Ba Trứ. Nổi bật ở Ban chỉ huy. Ba người đều là công nhân. Đại đội phó là Nguyễn Huỳnh Ngân, công nhân ngành mộc ở Gò Công. Chính trị viên là Huỳnh Văn Được, cùng tốt nghiệp trường Bá nghệ như Ba Trứ và Hai Lung. Vì cùng chung một thành phần giai cấp, một trình độ văn hóa nên Ban chỉ huy đại đội 2 sát cánh với nhau và gần chi đội phó Hai Lung hơn là Mười Lực. Trong khi đó, hai đại đội kia, nhất là đại đội của Bảy Môn gần Mười Lực hơn Hai Lung. Vấn đề tình cảm rất quan trọng. Vì nhóm Hai Lung, Ba Trứ không phải là Bình Xuyên và lúc nào họ cũng nặng tình quê hương là Gò Công. Nguyện vọng của họ là đóng ở Lý Nhơn dọc sông Soài Rạp để được nghe hơi hớm của tỉnh nhà ở bên kia bờ sông. Nguyện vọng ấy vài tháng sau đã được mãn nguyện. Sau thời gian rèn cán chỉnh quân, Chi đội 3 “xuống núi”; đại đội 1 và 3 đóng ở Phước An, còn đại đội 2 của Ba Trứ đóng tại Lý Nhơn. Công tác đáng nhớ của Ba Trứ là liên lạc với Ba Son, đưa thợ rành nghề ra khu. Nhờ có anh Ngô ở hãng FACI mang máy móc ra Lý Nhơn mà đại đội Ba Trứ có công binh xưởng sửa chữa súng và sản xuất lựu đạn. Bình công xưởng này được dựng lên ở các gò núi đất mà một số bô lão quả quyết ngày xưa có lúc Trương Định đã đóng quân ở đó trước khi hy sinh tại Đám Lá Tối Trời bên Gò Công. Gần một trăm năm sau, mảnh đất Lý Nhơn vẫn còn là căn cứ của con cháu Trương Định: tiểu đoàn 5, bộ đội chủ lực của Gò Công cũng đóng ở Lý Nhơn. Nơi đây có lúa gạo tôm cá, than củi, bộ đội có thể tự túc, bồi dưỡng giữa hai trận chiến đấu.
Sau khi Ba Dương tử trận, Pháp đánh mạnh vào Rừng Sác, Năm Hà hợp các gia tướng đề nghị đánh một trận lấy uy thế. Mười Lực nắm Chi đội 3 mạnh nhất, hiệp cùng Chi đội 2 của Năm Chảng, bàn kế hoạch đánh tàu trên sông Lòng Tàu. Mười Lực làm chỉ huy trưởng, Năm Chảng chỉ huy phó. Địa điểm được chọn là Thiềng Liềng ngã sông dập dìu tàu biển từ Vũng Tàu vô Sài Gòn. Kế hoạch tác chiến phạm một sơ sót lớn: đánh xong rút quân vào lúc nước cạn. Máy bay săn giặc lên bắn kinh hồn. Dù vậy, ta vẫn cướp được tàu chở quân làm lễ truy điệu Dương Văn Dương tại Đèn Xanh, Cần Giờ.
Ba Dương tử trận ngày 16-1-1946, vài tuần sau Liên chi 2- 3 tổ chức lễ truy điệu cố khu bộ phó Dương Văn Dương tại Phước An. Anh Năm Hà viết thư mời Bảy Viễn tới dự. Trong lễ này, anh em Bình Xuyên phấn khởi được nghe đọc quyết định của Trung ương truy phong đồng chí Dương Văn Dương thiếu tướng, đồng thời cải danh con kinh Lagrange chạy từ kinh 12 tới gẫy Cờ Đen là kinh Dương Văn Dương.
Anh em Bình Xuyên cũng lên tinh thần khi anh Năm Hà đọc thư của Hồ Chủ tịch chia buồn cùng gia đình đồng chí Dương Văn Dương đã anh dũng hy sinh trên chiến trường Nam bộ.
Ba Dương tử trận đánh thức tham vọng trong lòng Bảy Viễn. Giấc mơ sơn trại chủ mà hắn đã tiết lộ với Mười Trí trong chuyến vượt ngục Côn Đảo bằng xuồng ba lá có cơ thực hiện. Ba Dương chết rồi, Năm Hà lên thay là một chuyện tạm bợ. Bởi Năm Hà không phải là tay anh chị có vai vế. Tư Hoạnh đã công khai tuyên bố không phục Năm Hà. Người có thể thay thế Ba Dương là ông Tám Mạnh, nhưng ông Tám đã già, không có hoạt động gì nổi tiếng. Hai Vĩnh tuy được việc nhưng vẫn phải dựa vào uy thế của ông già vợ. Cho nên người nắm Bình Xuyên phải là Bảy Viễn. Trong ngày đầu kháng chiến, bộ đội Bảy Viễn đã chiến đấu nhiều trận chống càn nổi tiếng như ở Phú Thọ, Gò Cát, Hiệp Hòa và Bàu Cò Láng Le. Trận nào cũng rút chạy; nhưng Bảy Viễn muốn chứng tỏ mình là tướng trước ba quân, anh rút lui sau cùng. Nhờ tác phong anh chị đó mà tạo được tiếng vang trong bộ đội xuất thân từ giới giang hồ. Riêng cá nhân Bảy Viễn được đề cao, nhưng Chi đội 9 thì không hãnh diện chút nào, nhất là trận Cầu Xáng, Hiệp Hòa. Chi đội 9 thiệt hại nặng, phải chôn súng mà chạy xuống bưng “chém vè”. Sau trận này, Bảy Viễn giao cho Tám Tâm công tác “thu dọn chiến trường”, tìm lại vũ khí chôn giấu. Vùng này nhằm lãnh địa đóng quân của Mười Trí. Gặp
Tám Tâm, Mười Trí chửi nhắn:
- Bộ đội Bảy Viễn đánh giặc như con c! Đồ sọc dưa!
Tám Tâm cũng ngạc nhiên trước sự thay đổi đột ngột này. Anh chú ý từ ngày có hai anh em Lại Văn Sang, Lại Hữu Tài gia nhập, thì chi đội 9 “sọc dưa”, đúng như Mười Trí chửi. Trường hợp hai anh em họ Lại gia nhập Chi đội 9 cũng đáng nghi ngờ. Tám Tâm đang làm thư ký văn phòng chi đội, thì được Bảy Viễn giao công tác thu tiền nuôi quân ở nhiều nơi. Công tác này mất trọn một tuần và khi trở về, anh mất chức thư ký văn phòng. Bảy Viễn giới thiệu Năm Tài:
- Từ nay Năm Tài đảm trách thư ký văn phòng cho tôi. Năm Tài có tú tài, viết công văn tiếng Pháp cũng ngon lành như tiếng Việt. Anh Tám Tâm làm phụ tá cho Năm Tài, chịu không?
Tám Tâm gật:
- Làm công tác việc gì ích quốc lợi dân là tôi vui lòng, không đợi chức trưởng hay phó…
Bắt đầu từ đó, Tám Tâm bí mật dòm ngó hai anh em họå Lại. Thỉnh thoảng anh thấy chúng liên lạc với Mô-rit Thiên. Dường như trước đó Mô-rit Thiên đã làm trung gian cho Bảy Viễn phóng thích Ba Huy sau khi công tử Bạc Liêu “cúng” vào quỹ nuôi quân một số tiền kếch sù cả chục triệu.
Liền đó Bảy Viễn xuống Liên chi 2- 3, kéo theo 11 tay súng và 20 người nữa: - Anh Năm tiếp tế tụi tôi một ít đạn…
Lúc đó Năm Hà giữ kho đạn của Bình Xuyên.
- Được! Anh Bảy cần bao nhiêu, cứ lấy.
Nhưng mục đích của Bảy Viễn không phải xin đạn, mà dọ tình hình, muốn thay Ba Dương, Bảy Viễn ngỏ ý khéo, Năm Hà cũng trả lời khéo:
- Anh Ba Dương được Khu trưởng Nguyễn Bình phong khu bộ phó, muốn thay ảnh phải do Chính phủ…
Bộ tham mưu của Năm Hà lập tức họp bầu anh Năm lên thay chủ tướng để chặn trước tham vọng của Bảy Viễn. Một bức thư được gởi lên Khu trưởng Nguyễn Bình báo cáo về việc bầu cử đó, đồng thời hỏi ý về việc mượn tiền của dân để nuôi quân. Ngày 12-4-1946, Nguyễn Bình viết thư trả lời, nguyên văn như sau:
VNDCCH
Vệ quốc Đoàn
Số 713/KB
TỔNG HÀNH DINH
Ngày 12-4-1946
Nguyễn Bình, Khu bộ trưởng Khu thứ 7 nước Việt Nam.
Kính gửi đồng chí Dương Văn Hà, Tư lệnh Vệ quốc đoàn Bình Xuyên. Về việc đồng chí được cử thay đồng chí Dương, tôi rất tán thành. Mong đồng chí đừng phụ lòng mong mỏi ký thác của anh em chiến sĩ Bình Xuyên, của tôi, của đồng chí Dương Văn Dương đã quá cố, nhất là giữ tiếng tăm cho đồng chí Dương là người lỗi lạc, khác hẳn với Đệ Tam, Đệ Tứ sư đoàn phản động và chỉ lôi kéo bè phái. Có được như vậy mới thật là xứng đáng với anh linh đồng chí Dương Văn Dương, người đã hy sinh oanh liệt cho Tổ quốc. Ngoài ra, tôi không đồng ý việc mượn tiền dân. Bộ đội nên tăng gia sản xuất để dân được nhẹ phần đóng góp.
Mặt khác, tôi không cho phép vợ con theo bộ đội, tránh tình trạng ô hợp như Đệ Tam, Đệ Tứ sư đoàn, HT 29…” (1)
Chú thích:
(1) HT 29 là bộ đội Hồng Tảo. 29 là 29 tay súng
BẢY VIỄN ÂM MƯU CHỐNG NGUYỄN BÌNH
HAI VĨNH VỀ KHU TRÌNH NỘI VỤ
Biết Năm Hà đã được Nguyễn Bình công nhận là người thay Ba Dương nắm Bình Xuyên, Bảy Viễn vẫn không bỏ mộng tiếm quyền từ lâu hằng mơ ước.
Để chuẩn bị cho kế hoạch thay thế Ba Dương, Bảy Viễn gửi thư mời các chi đội trưởng Bình Xuyên về hội nghị bầu ban chỉ huy thống nhất, Bảy Viễn cũng đề nghị chia vùng đóng quân: Hai Vĩnh ở Phước Thọ, Trương Văn Giàu ở cầu Lò Rèn, Phước Long; Bảy Viễn ở Phước An.
Bảy Viễn tin tưởng sẽ được bộ hạ bầu mình làm tham mưu trưởng Liên khu Bình Xuyên. Nhưng Bảy Viễn không biết đa số Bình Xuyên xem hắn là kẻ tiếm quyền. Hai Vĩnh một mặt đề nghị chỉ có cấp đại đội trở lên mới được dự hội nghị, mặt khác vạch rõ cho anh em thấy Bảy Viễn không có công trận gì trong bộ đội Bình Xuyên mà chỉ liên kết với các tay cờ bạc như Lâm Ngọc Đường, Mô-rit Thiên, chuyên môn chứa bạc lấy xâu.
Hội nghị bầu ban chỉ huy thống nhất lực lượng Bình Xuyên thất bại, Bảy Viễn kéo bộ đội về Eo Ông, còn Hai Vĩnh trở về Phú Mỹ. Pháp tấn công, Bảy Viễn rút ra Tắt Cây Mắm, Năm Hà vô Rạch Su. Vùng Hai Vĩnh đóng trở nên quan trọng vì là điểm tập kết của quân Nhật trên đường xuống tàu về nước. Hai Vĩnh tức tốc địch vận bọn sĩ quan Nhật để lại súng ống, thuốc men cho bộ đội Việt Nam đánh Pháp thay vì đem về nước. Nhờ khéo tuyên truyền, Hai Vĩnh lấy được ba xe bò thuốc men, riêng thuốc ký-ninh bộ đội dư dùng, cấp cho dân chúng lân cận. Nhật giấu 15 máy bay trong rừng Phú Mỹ, Hai Vĩnh cho thợ vô tháo gỡ lấy nhôm và máy móc phụ tùng, tha hồ sản xuất súng đạn.
Pháp quyết tâm chiếm lại con đường 15 để dân Sài Gòn có thể đi Vũng Tàu vào cuối tuần. Chúng nhằm vào mục đích tuyên truyền với những chánh khách từ Pháp qua, cho rằng cuộc sống đã trở lại bình thường. Cố nhiên mục đích quân sự vẫn là nhắm dồn bộ đội Bình Xuyên xuống Rừng Sác. Hai Vĩnh tạm thời rút quân qua chiến khu Hắc Dịch để thỉnh thoảng đánh giao thông chiến trên đường 15, tiêu hao sinh lực địch. Điểm phục kích thuận tiện nhất là xã Phước Hòa. Bà con vùng này rất tốt, một chủ nhà dám giấu Hai Vĩnh trong buồn khi Hai Vĩnh đi nghiên cứu chiến trường bất ngờ bị đoàn xe nổi đồng lên. Dân chúng các xã quanh đó cũng nuôi vài anh bộ đội bị sốt rét rừng vì vùng suối Cây Chanh trong chiến khu Hắc Dịch rất độc; ngủ trưa thế nào cũng ớn lạnh, xây xẩm mặt mày.
Vào tháng 10-1946, đoàn thanh tra Quân khu 7 xuống, Phan Đình Công quyết định nâng Trung đội số 2 của Mai Văn Vĩnh lên Đại đội số 2. Cũng trong thời gian này, đồng chí Hai Của, Chủ tịch quận Nhà Bè đến Hắc Dịch tìm Hai Vĩnh than thở về nạn Bình Xuyên thu thuế bừa bãi khiến thương nhân rất khổ sở, Ty Thuế vụ Nhà Bè không nỡ thu thuế họ nữa, thành thử bộ đội Nhà Bè không hoạt động được vì không tiền nuôi quân. Hai Của đề nghị Hai Vĩnh đưa Trung đội số 2 về Nhà Bè hoạt động. Nặng tình quê hương, Hai Vĩnh để hai phần ba lực lượng ở lại Bà Rịa còn một phần ba về hoạt động vùng Nhà Bè. Đơn vị này đóng ở An Thới Đông, Tắt Từ Miêu, ngang Tiều.
Vấn đề thu thuế là một bất hòa giữa bộ đội Bảy Viễn và Trung đội số 2 của Hai Vĩnh. Từ lâu, Bảy Viễn sống khỏe nhờ thu thuế các ghe thương hồ trên các ngả đường về Sài Gòn- Chợ Lớn. Bộ phận thuế vụ Bảy Viễn giao trọn cho Sáu Tuấn. Sáu Tuấn là con Hội đồng Thì mà trước kia Bảy Viễn đã tá túc khi bị mật thám truy nã. Sáu Tuấn đang chuẩn bị thi tú tài thì gặp Cách mạng Tháng Tám. Chưa biết đi theo bộ đội nào cha khuyên “nên theo thầy Tư Vincent là người ba quen thân”. Thế mà Sáu Tuấn trở thành người thân tín của Bảy Viễn và do đó giữ trọn quỹ “nuôi quân” của Bình Xuyên.
Hai Vĩnh gặp Sáu Tuấn, trình bày về nạn vô chính phủ trong vấn đề thu thuế và cần có sự thống nhất có lợi cho giới thương hồ mà cũng có lợi cho các cơ quan cần có thuế để nuôi quân. Sáu Tuấn là thanh niên có học thức nên sẵn sàng nghe điều phải. Anh nhận thấy các nhân viên thu thuế của mình đôi khi quá quyền hạn. Nhờ vậy mà việc thu thuế không giẫm chân nhau. Huyện Nhà Bè không còn “thất thu” nữa. Chủ tịch Hai Của thấy Hai Vĩnh giúp huyện đắc lực như vậy, liền bàn với Phó Chủ tịch Quới nên kết nạp Hai Vĩnh vào Đảng. Cả hai hỏi ý kiến Bảy Trân và được Bảy Trân đồng ý. Nhưng chuyện bất ngờ xảy ra: Chính Hai Vĩnh xin hoãn lại ngày kết nạp vì anh tự thấy chưa xứng đáng. Anh chưa khắc phục được khuyết điểm tự do cá nhân, sợ vào Đảng sẽ phạm tội vô kỷ luật.
Đầu năm 1947, quân khu chánh thức quyết định nâng Đại đội số 2 của Hai Vĩnh lên thành Chi đội 7. Trước đây, Chi đội 7 là chi đội của nhóm Cao Đài Tây Ninh do Thảo chỉ huy. Chi đội này có hành động vô chính phủ và bị giải thể. Hai Vĩnh được bổ nhiệm chi đội trưởng. Chi đội không có chính trị viên vì Nguyễn Xuân Thanh (trước đây do Bảy Trân giới thiệu với ông Tám Mạnh và Hai Vĩnh) đã bỏ về khu sau khi bất hòa với Hai Vĩnh. Nguyên nhân sâu xa là hầu hết các chỉ huy Bình Xuyên không muốn chia quyền với kẻ xa lạ không chuyên về đánh giặc mà chỉ giỏi về lý thuyết chính trị. Các chính trị viên trong Chi đội 9 của Bảy Viễn đều lần lượt biến mất. Nguyễn Văn Tư tự Tư Ca-rê đã bị Tây xử bắn tại Trường đua Phú Thọ đúng vào ngày bầu cử Quốc hội đầu tiên- ngày 6-1-1946. Sau đó là Nguyễn Văn Hườn cũng biến mất. Chi đội 9 không có chính trị viên. Đó là một trong hai điều cấm kỵ trong bộ đội Bảy Viễn: “Không có dân Bắc kỳ và không có chính trị viên trong bộ đội của tao”. Tám Tâm đã báo cáo về cấp trên, cho biết ảnh hưởng đầu tiên của hai anh em Lại Văn Sang và Lại Hữu Tài trong Chi đội 9 và lời tuyên bố “xanh dờn” của Bảy Viễn.
Hai Vĩnh hợp đồng với Bảy Viễn đánh ba trận để gây uy thế cho Bình Xuyên vào ngày 1-5-1946. Một trận tại Bà Rịa, hai trận tại Nhà Bè, Hai Vĩnh giao cho Thanh chỉ huy trận đánh ở Bà Rịa, khoảng núi Ông Trịnh. Còn anh thì chỉ huy hai trận ở Nhà Bè. Chi đội 7 quyết tâm đánh một trận cho Bảy Viễn “nể mặt”. Nhưng trận đánh ở Bà Rịa không đạt kết quả như ý. Hai Vĩnh kiểm điểm Thanh. Tranh luận chưa ngã ngũ thì Hai Vĩnh được thư Bảy Viễn mời hội nghị. Hai Vĩnh bảo Thanh ở nhà “chờ anh về sẽ hay”. Thanh thấy không thể làm việc với Hai Vĩnh ở Chi đội 7, bỏ về khu. Từ đó Chi đội 7 không có chính trị viên.
***
Hai Vĩnh được thư Bảy Viễn mời họp tại Ba Giồng. Nội dung: nghe Mười Trí báo cáo về cuộc họp các giáo phái do Hộ pháp Phạm Công Tắc triệu tập tại Tòa thánh Tây Ninh.
Hai Vĩnh và Tám Mạnh tới Ba Giồng. Tại đây có đủ mặt các chi đội trưởng và phó. Hội trường được trang hoàng rực rỡ, có cả cờ Đảng. Bảy Viễn bắt đầu hội nghị bằng một phút mặc niệm Dương Văn Dương. Kế Bảy Viễn trịnh trọng mời Mười Trí báo cáo trước đại hội về cuộc họp giáo phái tại Tòa thánh Tây Ninh do Hộ pháp Phạm Công Tắc triệu tập.
Mười Trí báo cáo gần một tiếng đồng hồ về cuộc họp ở Tây Ninh. Hai Vĩnh nghe một cách lơ là, nhưng anh đặc biệt chú ý một chi tiết; Mười Trí suýt bị Việt minh bắt trên đường từ căn cứ Chi đội 4 ở Đức Hòa đến Tây Ninh. Bận về cũng bị truy kích.
Bảy Viễn nói tiếp khi Mười Trí báo cáo xong:
- Như vậy ta thấy rõ là Nguyễn Bình và Chánh ủy Khu 7 là Hai Trí muốn tiêu diệt giáo phái, mà trước tiên là Cao Đài, rồi tới Hòa Hảo, Bình Xuyên. Chúng ta là những người bạn chiến đấu của anh Ba Dương. Chúng ta cương quyết phất cao ngọn cờ Bình Xuyên do Ba Dương để lại. Chúng ta không để cho một đảng phái nào bức hiếp.
Ông Tám Mạnh và Hai Vĩnh toát mồ hôi ướt áo. Hai Vĩnh làm hiệu cho ông già vợ bình tĩnh. Riêng anh thì suy nghĩ về những điều nghe thấy. Anh thấy có nhiều điều vô lý. Phạm Công Trắc trước đây đã bị Pháp đưa đi đày tại Madagascar vì lúc đó Cao Đài ra mặt thân Nhật. Bây giờ Pháp lại đưa Phạm Công Tắc về với ý đồ gì? Phải chăng Pháp muốn nắm Cao Đài theo Pháp chống Việt minh? Vấn đề vô lý thứ hai là Mười Trí lấy tư cách gì đi dự hội nghị này?
Ai cử Mười Trí đi?
- Những cái vô lý đó Hai Vĩnh thấy nhưng không biết phải giải quyết như thế nào. Anh đành dụng kế “dục hoãn cầu mưu”:
- Đây là chúng ta nghe một tiếng chuông của anh Mười Trí mà thôi. Không phải chúng ta không tin anh Mười. Nhưng vì đây là chuyện sống chết của Bình Xuyên nên tôi đề nghị chúng ta phải thận trọng. Để cho vấn đề thêm sáng tỏ, tôi tình nguyện lên quân khu chất vấn các anh Nguyễn Bình và Hai Trí.
Bảy Viễn cắt ngang:
- Không được! Đi lên trên đó chẳng khác gì anh tự ký bản án tử hình!
- Dù có chết tôi cũng cam tâm! Tôi phải đến tận nơi để gạn đục khơi trong. Bình Xuyên chúng ta có rất nhiều công trạng trong công cuộc kháng Pháp, lẽ nào người ta lại tính chuyện đó? Xin hội nghị quyết định xem tôi có nên đi quân khu hay không?
Với sự vận động của ông Tám Mạnh, đa số bỏ thăm tán thành. Với hai phần ba phiếu ủng hộ, chuyến đi quân khu của Hai Vĩnh được đại hội thông qua. Bảy Viễn tỏ ý lo ngại:
- Ta phải cho một đại đội chủ lực theo hộ tống anh Hai Vĩnh, mỗi chi đội phải rút hai tiểu đội cứng để thành lập ngay.
Hai Vĩnh khéo léo từ chối:
***
- Đường từ đây lên quân khu rất xa xôi cách trở, phải băng qua sông qua lộ. Nếu đi rầm rộ như vậy, địch hay chặn đánh, biết bao giờ mới tới? Tôi muốn đi một mình dễ xoay trở.
- Đâu được! Rừng nào cọp nấy. Hai Vĩnh là hùm xám của Bình Xuyên, nhưng về quân khu mà không có lực lượng thì nói ai nghe?
Cực chẳng đã, Hai Vĩnh phải nhận một đại đội “cứng” gồm 14 tiểu đội với 14 trung liên Brenn. Việc bầu ban chỉ huy cũng khó bởi 7 chi đội đưa 7 đại đội trưởng thuộc hạng cừ.
Cũng trong đại hội này, Bảy Viễn trở lại vấn đề bầu ban chỉ huy thống nhất bộ đội Bình Xuyên lúc bấy giờ lấy tên Liên khu Bình Xuyên. Đã được cha con Tám Mạnh vận động, các chi đội trưởng và phó bầu Năm Hà tư lệnh liên khu, Sáu Đối, phó tư lệnh và Nguyễn Đức Huy chánh ủy. Đây là một cuộc bầu quan trọng, Bảy Viễn không nắm được liên khu như dự tính, nhưng hắn đã đưa Sáu Đối vô nắm phó tư lệnh. Sáu Đối là “em út” của Bảy Viễn, vốn là dân anh chị ở Khánh Hội. Nhưng nhân vật nắm chức chánh ủy là người hoàn toàn mới đối với Hai Vĩnh; Nguyễn Đức Huy lấy tên Hai Đại vì người to lớn, khoảng trên thước bảy, ký tên chữ “Đại” như người ta viết chữ nho, tức một gạch ngang và một chữ nhân. Đặc điểm của Hai Đại là bộ râu mép rất dày, tỉa xén cẩn thận, do đó có thêm biệt hiệu “ông già râu kẽm”. Hai Vĩnh không nắm được lai lịch của Hai Đại, chỉ nghe nói “đây là người thân tín của chính ủy khu 7- tức Hai Trí- đưa tới để nắm Bình Xuyên”. Không biết lai lịch, Hai Vĩnh và các đồng chí căn cứ vào hành động mà đánh giá chánh ủy của mình. Với tướng mạo và nhất là với bộ râu, cộng thêm chức chánh ủy, Hai Đại đã có một vài sáng kiến nhằm cải thiện đời sống binh sĩ. Sáng kiến thứ nhất là các đơn vị phải tự túc, nói theo danh từ lúc đó là “tự lực cánh sinh”. Rừng Sác có nhiều cá tôm, cây củi, chỉ cần quyết tâm là có ăn. Riêng anh em ở văn phòng phải trồng rau muống, rau dền, cải xanh, bầu bí để có chất tươi rất cần cho cuộc sống trong rừng. Chính Hai Đại nêu gương lao động buổi sáng cho mọi người. Ông thức dậy sớm, tập thể dục chừng chục phút rồi cuốc đất lên lếp trồng rau muống. Ông có kinh nghiệm, trồng rau cải phân tán để máy bay trinh sát địch không phát hiện mà bỏ bom hoặc nhảy dù xuống “chụp” cơ quan. Sáng kiến thứ hai của Hai Đại là quyết tâm trị cho được chứng ghẻ lở của binh sĩ. Ông nhờ đồng bào trong khu chở than củi tự túc ra thành bán rồi mua vải xiêm và xà bông cho anh em tắm giặt. Đã là binh sĩ Bình Xuyên, không ai quên được cảnh ghẻ lở xuống sông tắm nước mặn, rát không chịu nổi, lại thêm nạn cá chốt theo rỉa các mụn ghẻ, đau thấu xương.
Nhờ hai sáng kiến trên mà Hai Đại tức “ông già râu kẽm” rất có uy tín, không những với binh sĩ Bình Xuyên mà còn với các đơn vị khác đóng trong vùng.
***
Từ ngày theo Chi đội 7 về núi Nứa, cô Tư Xóm Cỏ vẫn tiếp tục làm nội trợ trông nom nhà cửa, chồng con. Trước ngày Hai Vĩnh đi Đồng Tháp Mười, cô Tư thấy nét ưu tư của chồng:
- Có việc gì mà coi anh lo nghĩ quá vậy?
Hai Vĩnh:
- Pháp đang cố kéo giáo phái chống kháng chiến. Pháp cũng đang cố nắm lấy Bảy Viễn để kéo Bình Xuyên. Anh phải gặp Khu trưởng Nguyễn Bình để tường trình mọiviệc.
Cô Tư lo lắng:
- Chừng nào anh đi?
- Ngày mai.
- Em có thể giúp anh được gì không?
Hai Vĩnh cảm động ôm vai vợ:
- Chuyện quân sự, em biết gì mà giúp… Nhưng em có thể giúp anh về việc này…
Cô Tư hăm hở:
- Việc gì đó anh?
- Trong chi đội mình có nạn ghẻ lở đang lan rộng, coi bộ các cô y tá không trị nổi…
Cô Tư thở dài:
- Em cũng thấy như vậy. Các cô y tá có cho em biết là các cô rất ngại đến các tiểu đội.
- Tại sao?
- Anh không biết à? Tại vì các anh chiến sĩ của mình chỉ có bộ đồ dính da. Khi tắm giặt thì…
Hai Vĩnh chợt hiểu:
- Vải xi-ta xấu quá, đã mau mục mà lại dễ chứa rận… Mình cố kiếm vải Xiêm may quần áo cho anh em. Nhưng trước mắt phải làm sao trị cho dứt chứng ghẻ lở. Em có cách nào không?
Cô Tư suy nghĩ một lúc:
- Các cô y tá phần lớn là nữ sinh hay mắc cỡ. Nếu có chồng con rồi thì việc đó… cũng là chuyện bình thường.
Hai Vĩnh khuyến khích:
- Hay là em cùng đi với các cô y tá tới các đơn vị. Mình sẽ đánh kẻng cho anh em mặc quần cẩn thận trước khi các cô y tá đến rửa ghẻ và xức thuốc. Tính vậy được không em?
Cô Tư gật đầu:
- Anh ra thông tư trước đi. Ngày mai chị em chúng tôi bắt đầu.
***
Từ đó, mỗi sáng đều có kẻng báo giờ rửa ghẻ. Anh em có đủ thì giờ xỏ quần vô để nghinh tiếp các nàng tiên y tá. Dù vậy cũng có nhiều “trục trặc kỹ thuật” vì những mụn ghẻ trớ trêu cứ chọn các nơi hiểm yếu như kẽ háng hay xương khu mà mọc.
Ban đầu các cô nữ sinh còn ngại ngùng, nhưng với sự động viên của cô Tư, dần dần họ bạo dạn. Có cô tinh nghịch bảo: “Của mấy ông thì mấy ông giữ, còn công việc của chị em tôi thì chị em tôi làm”.
BẢY VIỄN PHÁI HAI HUỲNH DÒ XÉT HAI VĨNH
NGUYỄN BÌNH NẮM VỮNG NỘI TÌNH BÌNH XUYÊN
Trước ngày đi Quân khu 7 ở Giồng Dinh, Hai Vĩnh giao Chi đội 7 cho ông Tám Mạnh và các đồng chí. Trong dịp này, anh em nhận định về thái độ gần đây của Bảy Viễn. Tình báo cho biết vùng Tiều, Lý Nhơn có nhiều thay đổi từ khi bộ đội Bảy Viễn đến đóng. Hàng quán mọc lên như nấm. Chiều chiều cán bộ các cơ quan ra đó ăn hủ tiếu, uống la-ve. Đây là một hiện tượng hiếm trong khung cảnh kháng chiến. Lại còn có vài cô áo xanh áo đỏ, tóc uốn quăn kiểu thành thị xuất hiện. Tin này khiến các tay ghiền cảnh thành phố bắt thèm. Mặt khác, tình báo cũng thấy lui tới tổng hành dinh của Bảy Viễn có các tay lạ mặt như Lãm Ngọc Đường, Môrit Thiên với đám “com măng đô” mang toàn súng “ru lô” mới toanh. Chính mắt Hai Vĩnh trông thấy Phạm Công Tắc tới Tắc Cây Mắm gặp Bảy Viễn. Theo tình báo thì thầy Tư Hòa Hảo, tức Huỳnh Phú Sổ, cùng đi với Năm Lửa cũng có tới gặp Bảy Viễn bàn tính chuyện quốc sự.
Với những tin thu thập được, Hai Vĩnh nghiệm thấy Bảy Viễn muốn nắm Liên khu Bình Xuyên để tạo uy thế với các đảng phái khác như Cao Đài, Hòa Hảo. Cánh tay mặt của Bảy Viễn là Mười Trí, người đã được hắn ủy nhiệm “đại diện Bình Xuyên” dự hội nghị giáo phái tại Tòa thánh Tây Ninh. Hai Vĩnh bàn với ông Tám Mạnh:
- Đi chuyến này, con phải gặp cho được Khu trưởng Nguyễn Bình, trình bày nội tình Bình Xuyên cho quân khu biết để đối phó. Con thấy giáo phái và bọn cơ hội đã xen vô Chi đội 9 của Bảy Viễn...
Ông Tám gật gù:
- Ba cũng thắc mắc về chuyện Việt minh diệt giáo phái mà Mười Trí báo cáo trước hội nghị. Thằng Chín An, Chi đội phó Chi đội 4 của Mười Trí, bị Việt minh bắt là vì hành động quân phiệt chứ đâu phải là vì lý do chính trị?... Ba thấy Bảy Viễn không muốn cho con đi lên quân khu. Hắn đưa hai đại đội chủ lực, tiếng là theo hộ tống con, nhưng dụng ý là gây chia rẽ con với Khu trưởng Nguyễn Bình. Bởi vậy con đi phải cẩn thận...
Hai Vĩnh gật:
- Ngay từ đầu con đã thấy ý đồ đó, con đã từ chối nhưng không được. Vào giờ chót. Bảy Viễn đưa Ký Huỳnh đi với con. Ký Huỳnh là tay tâm phúc của nó, đi theo con chắc chắn nó sẽ dòm ngó để về báo cáo lại mọi việc.
Tám Mạnh thở dài:
- Chuyến đi của con nguy hiểm từ nhiều phía. Con phải cẩn thận...
Tuy đã phòng trước các khó khăn, Hai Vĩnh vẫn còn gặp nhiều nguy hiểm bất ngờ trên đường đi. Đây là thủ đoạn thâm độc của hai anh em Tài, Sang. Chẳng hạn đi được vài ngày, Hai Vĩnh bắt được một bản tin đánh máy, in giấy sáp của Chi đội 9, loan tin “Bộ đội Bình Xuyên cử Hùm xám Mai Văn Vĩnh lên Quân khu 7 chất vấn Bộ Tư lệnh”. Đến căn cứ Chi đội 4 ở Bình Hòa, Hai Vĩnh được Mười Trí mời ở lại ăn uống, rồi khuyên bỏ ý định gặp Nguyễn Bình “e khi họa hổ bất thành, khi không mình lại đưa mình vào hang”. Hai Vĩnh nghĩ rằng Mười Trí hành động theo ý đồ của Bảy Viễn, đem việc chết chóc ra hù dọa anh. Ngoài các trở ngại trong nội bộ, Hai Vĩnh gặp các chướng ngại như tới Kinh Xáng, thì gặp tàu lên chặn đường, quân đội Pháp nhảy dù tấn công ngoài rìa Đồng Tháp Mười. Anh họp Ban chỉ huy lại, phổ biến rõ chủ trương không nổ súng, trừ trường hợp thật bất đắc dĩ.
Một tuần ròng rã, Hai Vĩnh mới tới Giồng Dinh. Nhưng anh gặp phải một sự từ chối hết sức phũ phàng: Võ Bá Nhạc, Chánh văn phòng Bộ Tư lệnh quân khu, báo tin Khu trưởng Nguyễn Bình đau mắt, bác sĩ không cho phép làm việc trong thời gian điều trị.
Ký Huỳnh cười lạt bảo Hai Vĩnh:
- Đây là cái cớ để người ta không tiếp mình. Mình về đi thôi!
Hai Vĩnh nghĩ thầm: “Mình đã vượt gian nguy tới đây, không lẽ lại trở về tay không? Khu trưởng Nguyễn Bình không tiếp ta, có lẽ là do bản tin gieo chia rẽ của bọn Tài, Sang, Minh phải ở nán lại tìm cách gặp cho được Khu trưởng Nguyễn Bình, mà phải gặp riêng, không cho Ký Huỳnh dự”.
Bộ Tư lệnh quân khu tiếp đón bộ đội Bình Xuyên rất chu đáo nhưng Võ Bá Nhạc vẫn không cho Hai Vĩnh gặp khu trưởng. Ký Huỳnh một hai đòi về. Qua mấy đêm không ngủ. Hai Vĩnh đã nghĩ một mưu chước nhỏ...
***
Sáng sớm hôm sau, Hai Vĩnh ra ao cá vồ, cẩn thận bỏ trong túi một tờ giấy trắng và một bao thư. Trong khi làm công việc “coi cá”, anh bí mật viết vội bức thư cho Khu trưởng Nguyễn Bình, đề nghị được khu trưởng cho gặp mặt một mình để báo cáo tình hình nội bộ Bình Xuyên. Còn Ký Huỳnh là người của Bảy Viễn, nếu thấy cần thì khu trưởng gặp sau. Anh cho lá thư vào phong bì, cất kỹ trong túi bên phải. Một lúc sau, anh gặp Ký Huỳnh, đề nghị hai người nên viết thư cho Nguyễn Bình xin được tiếp, nếu không thì cả hai bỏ về. Ký Huỳnh đồng ý, Hai Vĩnh viết thư ngay và cho Ký Huỳnh xem. Ký Huỳnh gật gù bảo “được”. Hai Vĩnh bỏ vào túi áo trái. Cả hai tới gặp Võ Bá Nhạc nhờ chuyển lá thư lên khu trưởng. Hai Vĩnh trao bức thư cất trong túi áo mặt. Vì phong bì giống nhau nhau nên Ký Huỳnh không nhận ra việc tráo thư này. Một lúc sau, Võ Bá Nhạc ra bảo:
- Khu trưởng hãy còn đau mắt, chỉ có thể tiếp từng người một. Buổi sáng tiếp đồng chí Hai Vĩnh, còn đồng chí Ký Huỳnh thì hẹn gặp vào buổi chiều.
Hai Vĩnh thở một hơi nhẹ nhõm. Anh đã chặt được cái đuôi Ký Huỳnh. Anh theo một trung úy đến nơi gặp Nguyễn Bình.
Sau khi nghe Hai Vĩnh báo cáo tình hình nội bộ Bình Xuyên, Nguyễn Bình phấn khởi nói:
- Bộ Tư lệnh cũng nhận được một số báo cáo giống như những việc anh vừa báo. Nhưng nay nhờ anh nói có đầu đuôi mạch lạc mà tôi nắm được tình hình rõ hơn.
Nguyễn Bình cho biết rằng những biến động của Bình Xuyên vẫn được Công an Nam bộ và Sài Gòn- Gia Định theo dõi sát, không chỉ ở vùng ta mà cả tại cơ quan đầu não của địch tại Sài Gòn.
Theo tài liệu công an thì vấn đề Bình Xuyên không bó hẹp trong những chuyện về phẩm chất, tính khí của người này, người khác, hay chuyện tranh giành quyền lực giữa nhóm này, nhóm khác!... Xứ ủy và quân khu nhất trí với nhận định của các đồng chí lãnh đạo công an đánh giá vấn đề Bình Xuyên có ý nghĩa to lớn hơn nhiều.
Đối với Pháp, vì phải tập trung quân viễn chinh cho chiến trường chính ở miền Bắc nên không còn cách nào khác là phải dựa vào các giáo phái chống cộng để bình định Nam bộ. Phạm Công Tắc được thả về vùng Cao Đài Tây Ninh. Huỳnh Phú Sổ đang đòi quyền tự trị ở mấy tỉnh theo đạo Hòa Hảo. Tên Tây lai Léon Leroy gây dựng các binh đoàn bảo vệ đạo Cơ đốc ở vùng Bến Tre... tất cả những hiện tượng ấy đều là những mắt xích trong chuỗi âm mưu dài của Pháp ở Nam bộ... Thế mà cái mắt xích quan trọng nhất, có quan hệ đến sự sống còn của Sài Gòn, thì chúng chưa nắm được. Đó là vùng Rừng Sác bao la, bí hiểm đang kiểm soát con sông Lòng Tàu mở cửa cho Sài Gòn thông với biển Đông và thế giới; vùng Rừng Sác khống chế mạng lưới đường sông, đường bộ nối liền Sài Gòn với vựa lương thực thực phẩm các tỉnh miền Tây...
Nhưng Rừng Sác là một căn cứ kháng chiến hùng mạnh trực thuộc Liên khu Bình Xuyên; mà Bình Xuyên lại là một lực lượng chống Pháp quyết liệt, có tổ chức, có lý tưởng, có bộ đội vũ trang và nhiều vị chỉ huy yêu nước, giác ngộ cách mạng chứ không phải là một tôn giáo để cho Pháp chỉ cần mua được người cầm đầu là nắm xong hạ tầng cơ sở...
Mặt khác, Bình Xuyên cũng là một hiện tượng đặc biệt mà Pháp hiểu rõ từ lâu. Nó bao gồm nhiều con người chọc trời khuấy nước rất khác nhau về cá tính nhưng vẫn ràng buộc với nhau bằng mối quan hệ vô hình của một tập quán và tâm lý lâu năm hình thành như một thứ luật giang hồ... Tâm lý và tập quán ấy đã tạo ra những nhược điểm khiến cho họ đi theo cách mạng một cách khá vất vả ở số đông; còn ở một số ít, thì nó biến thành những vết thương độc khó tiếp nhận các liều thuốc đắng của cách mạng... Pháp hiểu rất rõ rằng muốn nắm được Bình Xuyên, phải đi từ những con người như vậy. Trong số ấy, Bảy Viễn là hình tượng nhiều gai góc nhất... Vì vậy, vấn đề Bảy Viễn không còn là vấn đề cá nhân ông ta! Giải quyết vấn đề Bảy Viễn lúc này đã trở thành chuyện đối phó với âm mưu giặc Pháp đối với Bình Xuyên nói riêng, hay là vấn đề chiến thuật chiến lược giữa ta với Pháp chung quanh mặt trận Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam bộ nói chung...
Nghe Nguyễn Bình phân tích, Hai Vĩnh tỉnh người! Lúc ra đi cũng chỉ mong được báo cáo một số hành động khả nghi của Bảy Viễn để trên cho ý kiến xử lý. Không dè câu chuyện nó khó khăn đến thế... Thật là may cho mình chưa kịp tỏ thái độ gì rõ rệt đối với Bảy Viễn... Cuộc đấu tranh với hắn ta còn dài...
Nghĩ vậy, Hai Vĩnh thấy yên tâm hơn và anh vui vẻ tuân phục khi chia tay, Nguyễn Bình nhắc riêng anh về tới Liên khu Bình Xuyên, hãy tiếp tục làm tai mắt cho Bộ Tư lệnh, báo cáo kịp thời để tránh được những việc không hay.
Trưa đó, Nguyễn Bình bảo cô Thanh làm gì đãi anh em Bình Xuyên. Ký Huỳnh rất hãnh diện được cụng lý với Tư lệnh quân khu!
Chuyến đi của Hai Vĩnh mang lại một kết quả bất ngờ cho Bảy Viễn: Trung ương điện vào quyết định phong Bảy Viễn chức Khu bộ phó Khu 7.
Bảy Viễn tập hợp đám thân tín lại báo tin vui đồng thời tổ chức làm gà, làm vịt ăn mừng.
Đêm ấy, ăn nhậu say mèm, thức tới khuya để nghe đàn ca hát xướng; quá nửa đêm Bảy Viễ mới xuống ghe với cô vợ bé, đào chánh của gánh hát bội Bầu Xá.
***
“Gạo Cần Đươc, nước Đông Nai”, vùng đóng quân của Bình Xuyên phì nhiêu nổi tiếng từ xưa, nhưng trong những năm kháng chiến, các đơn vị đóng quân ở Rừng Sác bị giặc phong tỏa cắt đường tiếp tế, thiếu gạo, thiếu nước ngọt, thiếu nước ngọt có khi kéo dài đến đôi ba ngày.
Lúc Hai Vĩnh đi Đông Tháp Mười gặp Khu trưởng Nguyễn Bình, binh công xưởng Chi đội 7 đóng ở Núi Bà Trau bị tàu lồng cu bao vây nên thiếu gạo. Liên lạc tốc qua Rạch Chanh báo tin khẩn cấp cho ông Tám Mạnh. “Cứu đói như cứu hỏa”, ông Tám sai cô Tư mang tiền, qua xóm Ông Kèo, xã Phước Lý mua gạo chở về Bà Trau tiếp tế cho “thằng Thức với đám thợ Ba son của nó”.
Ông Tám rất mến đồng chí Thức, anh này là thợ giỏi của Ba son. Anh kéo theo một số lượng công nhân đầu quân bộ đội Chánh hưng như Năm Dương, Tám Xích ngay từ đầu. Anh Thức là người Bắc vô Nam từ lâu, tính tình vui vẻ, cởi mở. Tuổi của anh Thức cùng một lứa với cô Tư nên ông Tám xem như con cháu. Tay nghề của Thức rất giỏi nên ngay từ đầu anh đã giữ chức giám đốc binh công xưởng, Năm Dương phó giám đốc.
Cô Tư nhét bạc đầy hai túi áo đi mua gạo. Đoàn ghe chở gạo gồm ba xuồng và một ghe nhỏ có sức chở hai chục giạ. Cô Tư đi ghe ở phía sau, ba xuồng nhẹ nhàng lướt nhanh đi trước. Bất ngờ dọc đường đoàn ghe bị phục kích. Súng nổ vang, đạn bay vèo trên đầu. Tất cả bỏ xuồng nhảy xuống sông. Cô Tư ở sau nhưng lội theo kịp mấy anh ở trước cùng nhay lủi rừng về tới Bàu Bông. Chừng ngớt tiếng súng mới thấy đói. Nhờ dân để lại vài lon gạo nấu cơm ăn, nhưng dân cũng đang khan gạo, ăn cháo thay cơm. Dù vậy, khi biết cô Tư và các bạn là quân nhu Chi đội 7, bà chủ nhà vét hủ gạo nấu cơm để “mấy cháu có sức đi công tác”. Tiền ướt căng hai túi, cô Tư móc ra phơi và trước khi tiếp tục lên đường, cô xin trả tiền gạo, bà già nhất định không lấy. Cô Tư nhét tiền vào túi đứa cháu nhỏ, bà già cũng chạy theo, “một bữa cơm mà nhiều nhỏi gì!”
Có gạo rồi, anh Thức lên tinh thần, nửa đùa nửa thật:
- Chị Hai có tài đổ bánh bò, nghe đồn mà chưa dịp thưởng thức…
Cô Tư biết anh em trong rừng thèm nên tổ chức xay bột, nạo dừa làm bánh bò thật ngọt, thật béo. Mỗi người được một bánh to bằng chén ăn cơm, nhưng xem ra ai cũng còn thèm thuồng…
Mỗi lần được ông tám giao cho công tác như vậy, cô Tư rất vui. Cô muốn bước ra ngoài phạm vi nhỏ hẹp của gia đình. Nhờ những công việc nho nhỏ, vừa với sức mình, cô gắn bó gia đình với tập thể, đúng theo lý tưởng của ông Tám là “tứ hải giai huynh đệ”.
BẢY VIỄN NHẬM CHỨC KHU BỘ PHÓ
SỐNG MỘT THỜI VUA CHÚA RỪNG XANH
Để đánh dấu ngày nhậm chức, khu bộ phó Bảy Viễn ra lệnh cho các đơn trong Liên khu Bình Xuyên tổ chức liên hoan tưng bừng, náo nhiệt. Các tổ đi săn càn rừng lướt bụi tìm cho được nai, cheo, heo rừng phục vụ quan khách từ các nơi tơi, kể cả khách trên thành. Tiệc liên hoan phải có dàn nhạc đủ cả tân lẫn cổ. Còn mít tinh thì tổ chức ngoài trời, mời hết tất cả các cơ quan đóng trong vùng và mở rộng cho dân chúng. Một bài diễn văn được soạn thảo cho ngài bộ phó đọc trước ba quân. Cũng trong dịp này, ngài Khu bộ phó phải mặc bộ đồ mới, rước thợ may từ trên thành xuống đo, cắt và máy cấp tốc. Tiếng “ngài” đặt trước chức tước Khu bộ phó là sáng tác của Năm Tài. Ban đầu Bảy Viễn vẫn còn lạ tai, nhưng về sau quen đi.
Suốt một tuần, cả văn phòng Khu bộ phó rộn rịp chạy đua với thời gian. Họa sĩ ở các đơn vị được tập trung lại, kẻ lo hội trường, người chạy sân khấu. Liên lạc thành ba chân bốn cẳng chạy đi tìm thợ may, nhạc sĩ. Nhân viên văn phòng lo bài diễn văn. Chánh văn phòng Năm Tài bảo Tam Tâm:
- Lâu nay nghe ngài Khu bộ phó khen anh Tám có tài thảo diễn văn, đây là dịp để anh Tám múa bút đó.
Tám Tâm thoái thác:
- Lúc đó chưa có thầy Năm. Bây giờ có thầy Năm, tôi đâu dám vẽ bùa trước cửa Lỗ Ban?
Năm Tài cười thích thú:
- Viết tiếng Pháp thì tôi ngoáy một chút là xong, nhưng viết tiếng Việt thì tôi chịu! Lại nữa… không quen nói láo.
Tám Tâm ngạc nhiên:
- Thầy Năm nói gì là vậy? Soạn diễn văn là nói láo sao?
Năm Tài gật lịa:
- Chớ sao! Qui dit politique dit mensonge (kẻ nói chính trị là kẻ nói dối). Anh Tám làm dùm tôi đi. Tôi còn lo viết thư mời quan khách trên thành xuống.
Tám Tâm không thể chối từ vì Năm Tài là thân tín của Bảy Viễn. Hắn nói sao, Bảy Viễn nghe vậy. Năm Tài cũng là “sếp” của anh, ra lệnh là phải tuân theo. Vả lại Tám Tâm cũng muốn nhân dịp này, khéo léo nhắn nhủ cùng binh sĩ Bình Xuyên cần cảnh giác đối với những người chỉ huy mình. Từ lâu Tám Tâm thấy rõ Bảy Viễn giao lưu với nhiều phần tử nguy hiểm qua trung gian của hai anh em Tài, Sang. Có lần Hộ pháp Phạm Công Tắc cùng Mười Trí xuống Tắt Cây Mắm gặp Bảy Viễn bàn việc cơ mật. Ngày ấy Năm Tài không cho Tám Tâm vào văn phòng dù anh là phó văn phòng. Thầy Tư Hòa Hảo tức Huỳnh Phú Sổ, cũng tới Tắt Cây Mắm cùng với đệ tử ruột là Năm Lửa to nhỏ với Bảy Viễn. Có chuyện nực cười là lúc ăn nhậu, Bảy Viễn và Huỳnh Phú Sổ ngồi mâm trên, dọn trên đi-văng gõ, còn Năm Lửa thì ngồi mâm dưới, dọn trên chiếu trải trên sàn chà là. Tám Tâm trông thấy Năm Lửa nhấp nha nhấp nhỏm, ăn không yên, chốc chốc lại ngóc đầu lên mâm trên, chờ Giáo chủ nhểu nhảo để lật đật khúm núm rút khăn trong tui áo Hùynh Phú Sổ lau miệng cho “Phật thầy”.
Như vậy là hai đạo lớn Cao Đài và Hòa Hảo đều có tới lui to nhỏ với Bảy Viễn vào lúc Bảy Viễn được phong chức Khu bộ phó. Tám Tâm còn thấy các “chính khách xa long” như giáo sư Lê Văn Hanh và các tay Lâm Ngọc Đường, Tư Thiên tự Morit Thiên bí mật vô ra. Theo hai tên này có cả đám vệ sĩ ăn mặc theo kiểu lính côm măng đô mang súng colt 12 ly mới toanh.
Tám Tâm để ba ngày soạn thảo bài diễn văn nhậm chức Khu bộ phó của Bảy Viễn. Nếu là bài diễn văn thông thường thì chỉ một buổi là xong, nhưng đây là bài diễn văn đặc biệt. Tám Tâm muốn “lồng” vô đó một câu nhắn nhủ anh em đội viên cảnh giác, nhưng không biết nhét vào chỗ nào. Bởi bài diễn văn này phải do Năm Tài kiểm duyệt trước khi trình lên ngài Khu bộ phó. Và sau cùng, anh đã tìm được một mưu chước nhỏ…
Bài diễn văn được Năm Tài khen hay và trình lên Bảy Viễn không thêm bớt chút nào. Trước ngày lễ, Tám Tâm bí mật đánh tráo một bản khác cũng đánh máy y như vậy nhưng có nhét vô một câu “động trời” như sau:
“… Anh em binh sĩ Bình Xuyên nên đề phòng những kẻ bất lương sông phè phỡn trên xương máu đồng đội”
Đêm mít tinh tại Tiều, thuộc xã Lý Nhơn, Ngài Khu bộ phó ngồi trên ghế “phô tơi” đặt trên khán đài cao, chủ tọa buổi lễ. Khi xướng ngôn viên kính mời Ngài Khu bộ phó đọc diễn văn, Tám Tâm hồi hộp chờ đợi… Bảy Viễn đọc câu động trời của anh một cách thản nhiên, không chút ngờ ngợ. Tiếng vỗ tay như sấm khiến hắn bất ngờ thích chí. Nhưng Năm Tài đứng ngồi không yên, hắn nhấp nha nhấp nhổm như đứng trên ổ kiến lửa, miệng lẩm bẩm:
- Làm gì có câu đó trong bài diễn văn? Mình đã kiểm duyệt kỹ mà! Sao lại vậy?
Chờ Bảy Viễn đọc xong, Năm Tài đến xin mượn bài diễn văn. Bảy Viễn càng thêm phấn khởi:
- Đ.m thằng Tám Tâm viết diễn văn hay thiệt! Khán giả vỗ tay như pháo Tết làm mình phát nôn!
Năm Tài rút viết păcke (parker) gạch đít câu động trời của Tám Tâm:
- Ai thêm vô câu này? Hồi kiểm duyệt không có! Tôi quả quyết là có ai thêm vô.
Bảy Viễn nhìn sơ qua, khoát tay:
- Chính câu đó mới “ăn tiền” đó mầy! Tao nhớ rõ trước đó khán giả nín khe làm tao mất hứng. Nhưng tới câu đó thiên hạ vỗ tay điếc con ráy… mà làm sao thêm vô cho được? Bài diễn văn đánh máy hẳn hoi, nhét vô chỗ nào?
Dù vậy Năm Tài cũng tìm Tám Tâm cự nự. Tám Tâm lật hồ sơ đưa ra một bản thứ hai cũng như vậy.
- Thầy Năm đã kiểm duỵêt rồi, ai dám thêm bớt chữ nào?
Năm Tài đành ngậm miệng, nhưng từ đó ngấm ngầm theo dõi Tám Tâm không một chút lơi lỏng.
Công việc rước dàn nhạc thành phố công phu hơn. Tư Sang chịu trách nhiệm về công tác này. Trong văn phòng Bảy Viễn có nhạc sĩ Ngọc Thới – là cháu vợ Bảy Viễn. Ngọc Thới quê xã Phước Lâm, Cần Giuộc, bà con với hội đồng Đống ở Đa Phước. Năm 45, Ngọc Thới cũng “nớp với giáo mang ngang vai”, chưa biết theo bộ đội nào thì gặp “dượng Bảy” bắt theo Chi đội 9. Ngọc Thới được dượng Bảy yêu cầu lập ban nhạc. Trong Chi đội 9 chỉ có Hai Dậu và Paul Thìn, không đủ, phải về thành rủ thêm. Đích thân Ngọc Thới về Sài Gòn, tới vũ trường Tabarin mời hai bạn thân là Lê Yên và Chí Minh. Chín Minh là nhạc sĩ tài hoa nhất Sài Gòn, chơi được nhiều nhạc cụ, vĩ cầm cũng như Tây ban cầm, dương cầm cũng như đàn gió. Nhưng lắm tài nhiều tật, Chín Minh ghiền rượu đến mức thượng thừa. Không có rượu thì dứt khoát không đàn được. Rượu càng nhiều thì tiếng đàn càng “thần sau quỷ khóc”. Ngọc Thới không dám nói thật mà chỉ “rủ chí Chín đi chơi”. Lê Yên cũng là dân thành thị, nếu biết Ngọc Thới đưa vô khu thì nhất định từ chối. Đến khi xuồng chèo khỏi Nhà Bè, Ngọc Thới mới dám nói thật. Chín Minh và Lê Yên bật ngửa ra, nhưng chuyện đã lỡ cùng đành nhắm mắt đưa chân.
Nhờ có ban nhạc thượng thặng từ Sài Gòn xuống, cuộc mít tinh và đêm liên hoan tưng bừng nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Quan khách trên thành xuống lúc đầu cứ ngỡ Rừng Sác là nới “chó ăn đá, gà ăn muối”, không ngờ được gặp một thành phố mới dựng lên trên vùng hoang dã. Máy đền thắp sáng choang, dàn nhạc Chín Minh chẳng kém bất cứ dàn nhạc nào của đám Phi-lip-pin ở Sài gòn. Nước đá, la-ve, cà phê, hủ tiếp đầy đủ; cháo gà, chè đậu ở đâu cũng có. Riêng trên bàn thượng khách có cả Cô-nhắc, Mac-ten… Và thêm một chi tiết này mới “lé mắt thiên hạ”: có cả chục bông hoa biết nói vốn là “cave” trẻ đẹp thơm như múi mít, trên thành xuống chung vui với Ngài Khu bộ phó.
Bên cạnh dàn nhạc cổ cũng không chịu lép. Dàn nhạc cổ có Hai Dậu, Paul Thìn, Mười Nguyên, Mười Một. Các danh ca như Năm Cần Thơ, Ba Bến Tre cũng được mời xuống giúp vui. Bảy Viễn rất khoái ca cổ, càng về khuya càng rỉ rả sau câu vọng cổ mới “mùi”. Còn tân nhạc thì cũng cần để gây không khi tưng bừng của ngày vui lớn.
Những khuôn mặt không thể thiếu được đều tề tựu đầy đủ trong đêm liên hoan. Phạm Công Tắc, Huỳnh Phú Sổ, Lâm Ngọc Đường, Môrit Thiên, các Chi đội trường Chi đội phó bảy chi đội trong Liên khu Bình Xuyên tay bắt mặt mừng, rượu vào lời ra…
Tám Tâm thấy rõ vai trò quan trọng của hai anh em họ Lại trong đêm liên hoan này, nhất là Năm Tài. Hắn bặt thiệp, xã giao, khi thì đến bàn Lâm Ngọc Đường, Môrit Thiên nói mấy câu tiếng Tây thật giòn, lúc tới bên Phạm Công Tắc, Huỳnh Phú Sổ tán tỉnh vào lời rồi gật gù cười híp mắt với nhau.
Tiệc đang tưng bừng bỗng một loạt trây-đơ nổ vang rền khiến mấy em cave giật mình nhảy tới ôm cổ các quan khách. Tư Sang lập tức chạy ra ngoài – hắn chịu trách nhiệm về an ninh trật tự. Năm Tài bình tĩnh trấn an mọi người:
- Xin quý vị an tâm. Tiếng súng vừa rồi là anh em binh sĩ đón chào một vị quan khách tới trễ.
Đúng vào lúc đó Tư Sang trịnh trọng đưa Huỳnh Văn Nghệ, Khu bộ phó khu 7vào, Tám Nghệ đúng là một võ tướng, vạm vỡ, gọn gàng trong bộ quân phục ka-ki vàng. Sự xuất hiện bất ngờ của Tám Nghệ nhưng một ngọn sóng thần làm cả hội trường lặng trang. Bảy Viễn lật đật bước tới bắt tay:
- Chào Anh Tám! Tưởng anh Tám không tới được chớ! Thật là một vinh dự to lớn cho tôi được tiếp anh Tám đúng vào đêm nhận chức Khu bộ phó của tôi… Anh Tám ngồi đây – y trịnh trọng chỉ một ghế “phô-tơi” tên vệ sĩ vừa đặt kế bên “phô-tơi” của mình. Nhận thấy anh Tám Nghệ đang đứng đảo mắt nhìn quanh như tướng lãnh quan sát trận địa, Bảy Viễn vội vàng giới thiệu:
- Trong số quan khách hôm nay có Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc và Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, còn đây là ông Lâm Ngọc Đường và Tư Thiên là cơ sở của Bình Xuyên trong thành. Ngoài ra là các chỉ huy chi đội trong Liên khu Bình Xuyên mà anh tám biết rồi…
Tám Nghệ đi bắt tay từng người.
Bảy Viên giới thiệu tiếp:
- Anh Tám Nghệ đây là Khu bộ phó Khu 7 kiêm luôn chi đội trường Chi đội 10 đóng ở chiến khu Đ. Chắc quý vị đều nghe trận vang dội như Đồng Xoài, Bàu Cát… Đó là chiến công của anh Tám đây…
Tám Nghệ đứng lên cúi chào mọi người, khiêm tốn:
- Đó là chiến công chung của cả chi đội chớ đâu phải của riêng tôi…
Tiệc liên hoan lại tiếp tục. Hai Lung đứng lên có ý kiến:
- Tôi được xem tập Thơ Đồng Nai của anh Tám vừa được xuất bản trên giấy vàng nghệ, trình bày thật mỹ thuật. Trong đơn vị tôi ai cũng khoái. Ước chi được tác giả cho anh em thưởng thức vài câu!
Tám Nghệ đứng lên tươi cười:
- “Đến đây không hát thì hò, không phải con cò ngóng cổ mà nghe”. Anh Hai Lung đã yêu cầu thì tôi xin ngâm một bài. Bài này cùng nằm trong tập Thơ Đồng Nai. Đó là bài Bến Cũ, có lẽ hợp với không khí ở đây:
… Đây bến cũ, chốn muôn thuyền đợi sóng.
Buồm phập phồng như phổi nhịp bên hông,
Neo buông sâu như những sợi tơ lòng,
Thuyền lớn nhỏ đều chứa đầy hy vọng.
*
Thuyền lớn nhỏ đều chứa đầy hy vọng
Thuyền ra đi bến đã động lòng thương,
Ai phăng neo vội vã để đoạn trường
Nhưng gió mới căng buồm thuyền chuyển động.
…
Về đây thôi, hỡi những thuyền hy vọng.
Chở về đây những mộng đẹp xa xôi
Lưu luyến chi bến lạ chốn quê người
Kẻo bến cũ ngỡ thuyền xưa đà lạc lối…
Tiếng vỗ tay vang cả hội trường, Tám Tâm thích thú vì bài thơ có ý nghĩa cảnh tỉnh Bảy Viễn.
Sau đêm liên hoan nhậm chức Khu bộ phó, khach khứa ra về, cuộc sống trở lại nhịp điệu bình thường, Năm Tài giở giọng mỹ nhân ngư kéo Bảy Viễn trở về thực tế:
- Em út nói điều này, sợ Ngài Khu bộ phó không vui, nhưng vì nhiệm vụ không thể bỏ qua…
- Điều gì mà tao không vui? Nói mau đi!
- Ngài Khu bộ phó hứa nghe rồi bỏ qua thì em út mới dám nói.
Bảy Viễn tánh nóng như lửa:
- Nói mẹ nó ra đi, cứ rào đón hoài!
Năm Tài nói nhỏ:
- Nguyễn Bình vừa cho Ngài Khu bộ phó một cái bánh vẽ… Em muốn nói cái chức Khu bộ phó đó mà.
Bảy Viễn trợn trừng:
- Nói bậy! Bánh vẽ cái gì! Tám Nghệ đánh giặc rầm rầm, biết bao nhiêu chiến công nó mới leo lên tới chức Khu bộ phó, còn tao đánh đấm gì mà cũng ngang hàng với nó? Mày còn nói vô nói ra chỗ nào?
Năm Tài cười lạt:
- Tám Nghệ khác, Ngài bộ phó khác. Tám Nghệ đâu phải là tay giang hồ hảo hớn như Ngài bộ phó? Cho nên hắn phục Nguyễn Bình là phải. Còn Ngài không không thể hạ mình làm phó cho Nguyễn Bình. Nguyễn Bình là người Bắc, trôi sông lạc chợ vô đây, chưa thấy công trận gì đã tự xưng là Khu bộ trưởng, xem mọi người như kẻ dưới tay. Mình đâu có dại gì làm cho hắn hưởng?
Bảy Viễn cau mày suy nghĩ> Năm Tài nói tiếp:
- Bây giờ em út nói về cái chức Khu bộ phó – hắn đưa ra từ công văn – Đấy, nói có sách, mách có chứng, đây là quyết định phong chức Khu bộ phó đồng thời quy định về quyền hạn và nhiệm vụ hẳn hoi. Theo đây thì Bộ tư lệnh Khu muốn ra chỉ thị gì cũng phải mang hai chữ ký, một chữ ký không có giá trị. Như vậy, Ngài Khu bộ phó muốn ra chỉ thị phải cho người mang xuống Giồng Dinh để lấy chữ ký của Nguyễn Bình hay của chính ủy Hai Trí, hoặc lên chiến khu Đ để Tám Nghệ ký. Rõ ràng cái chức Khu bộ phó của ngài là cái bánh vẽ không hơn không kém.
Bảy Viễn như bị một gáo nước lạnh tạt vào mặt. Hắn khoát tay:
- Im đi! Để tao suy nghĩ đã! Đ.m. mày nói nhiều quá, tay nghe không kịp.
Năm Tài biết mình đã đạt được mục tiêu rồi, lặng lẽ bỏ đi để Bảy Viễn một mình ngồi suy nghĩ về cái chức Khu bộ phó. Không rõ ông ta có đồng ý với những lời lẽ của Năm Tài hay không, chỉ thấy ông ta xuống ghe mui ống đậu dưới bến tổng hành dinh.
Ghe mui ống là nét đặc trưng của cuộc sống bồng bềnh trên sông nước của chốn Lương Sơn Bạc kiểu Bình Xuyên. Nếu dân du mục trên sa mạc lấy lạc đà làm phương tiện di chuyển, thì dân Bình Xuyên xê dịch bằng ghe xuồng. Các chỉ huy đều có ghe, lớn nhỏ tùy theo chức tước. Cấp từ trung đội trở lên đi ghe lườn mui ống ghọn đẹp. Riêng Bảy Viễn có rất nhiều ghe mui ống, loại hai chèo thông thường và một chiếc bốn chèo để dùng trong những trường hợp khẩn cấp. Loại này lướt sóng nhanh như gió, dùng để vượt sông Lòng Tàu hay sông Soài Rạp trong những lúc giang đỉnh tuần tiễu lên xuống như thoi đưa. Trước mũi có đặt một “con gà cồ” – tiếng lóng để chỉ FM đầu bạc. Khi hữu sự thì con gà cồ sẽ “gáy” nguyên băng để giải vây. Trong ghe của Bảy Viễn có đầy đủ mọi thứ tiêu khiển. Máy hát với cả chồng đĩa “tròng vàng tròng bạc” của hãng ASIA, với những bản vọng cổ lâm ly như “Viếng mồ bạn” do nghệ sĩ Năm Nghĩa ca, hoặc những tuồng Huệ Dung, San Hậu v.v… Rượu đủ loại chất đầy khoang, toàn thứ đắt tiền như Mạc-ten, Cô-nhắc, sâm-banh, và không vài “cái tuốt” thuốc “Ách chuồn” hoặc “con mèo Craven A”… la ve, nước ngọt, cà phê, trà, sữa là thứ phải có mặt thường trực.
Bảy Viễn có rất nhiều vợ. Bà Vợ thứ nhất ở Cần Đước, sinh hai con gái tên Tính và định. Bà hai là má thắng Paul quê Chợ Đệm. Bà ba là má thằng Hoảnh (Vincent) quê ở Gò Dầu (Tây Ninh) cũng là dân lao động.
Bà Tư là cô đào hát bội của gánh Bầu Xá. Bảy Viễn lúc còn xưng anh chị ở Phú Thọ đêm đêm rất thích đi dạo mát và khi cao hứng vô các rạp hát xem cải lương và hát bội. Cách xem hát của anh chị cũng khác thường. sau khi nhậu lai rai ở các tửu lầu, bốc đồng lên xe kéo tới rạp hát, thấy gánh nào hấp dẫn thì xuống xe nhào vô xem. Một hôm Bảy Viễn gặp bầu Phước Georges chủ gánh “Huỳnh Kỳ tái sanh” đứng trước cửa rạp. (Trước đó, gánh Huỳnh Kỳ từ Pháp về bị chìm tàu ở Biển Đỏ, nay lập lại và ra mắt khán giả Sài Gòn). Bảy Viễn xuống xe tới bắt tay Georges, hỏi thăm xã giao. Ông bầu Huỳnh Kỳ móc túi trao một cọc thiệp mời nhưng Bảy Viễn cười thật tươi:
- Dân anh chị đi coi hát đâu cần thiệp, ông bầu – Rồi ung dung bước thẳng vô cửa, đám nhân viên soát vé dạt ra nhường lối cho y vào. Bảy Viễn tới hàng ghế đặc biệt dành cho khách quý. Ghế phải ngay giữa sân khấu, vào hàng thứ ba để khách quý không phải ngóc đầu lên mỏi cổ như hai hàng ghế đầu. Ghế danh dự cũng phải gần quạt máy nhưng không được ngay dưới quạt máy để tránh nạn lạnh “mỏ ác”…
Nhưng dù ghế có tốt đến đâu và tuồng có hay đến mấy, Bảy Viễn cũng không ngồi lâu. Hắn đi chơi chứ không phải đi coi hát. Coi vài màn rồi đi ra, qua rạp bầu Xá coi hát bội. Và đêm ấy, Bảy Viễn gặp cô đào hạp nhãn. Cô này là đào chánh của gánh bầu Xá. Hắn ngõ lời cưới cô đào chánh làm vợ bé. Cô đào đồng ý, bầu Xá chới với nhưng đành “bợ” xấp bạc của Bảy Viễn để kiếm cô đào chánh khác.
Bà Năm là cô Lúa, con gái hội đồng Đống xã Đa Phước. Bảy Viễn lạm dụng danh nghĩa ủy viên quân sự buộc Hội đồng Đống gả con gái cho hắn. Hồi đầu kháng chiến, cô Lúa ở trên một ghe mui ống đầy đủ tiện nghi cũng như bà Tư.
Ghe đậu trước tồng hành dinh ngài Khu bộ phó hôm đó thuộc quyền sở hữu của một cô vợ mới cưới của Bảy Viễn, không rõ là thứ mấy. Cô này vốn là một “tắc xi-gượt”, nói theo kiểu Hồng Kông (taxi-girl), dân làng chơi gọi là “ca ve” hay gái nhảy. Nàng ca ve này có kỹ thuật quyến rũ đàn ông nên những lúc “đau đầu” Bảy Viễn xuống ghe để được giải trí…
Dù là Năm Tài chê chức Khu bộ phó của Bảy Viễn là bánh vẽ, Bảy Viễn cũng thành lập đủ ban bệ, rườm rà, nổi đình nổi đám.
Ngoài các lán trại cho ban nhạc vừa mới “tậu”, hắn còn cho cất nhà khách để dân trên thành phố xuống có chỗ nghỉ ngơi tươm tất.
Nhà khách vừa cất xong, nàng ca ve bỏ ghe bầu lên chiếm ngụ làm của riêng. Đêm đêm nàng bắt dàn nhạc của Ngọc Thới và ông Chín Minh tới biểu diễn. Biết tánh Chín Minh chỉ chơi hay khi có rượu, nàng đãi ông mỗi đêm vài chầu. Tức thì mắt người nhạc sĩ tài hoa sáng hẳn lên, ông độc tấu vĩ cầm toàn những bài “cổ chiến” như dòng sông Danube (Đanuýp). Khu rừng Vienne (Viên) v.v… Đôi khi cao hứng, nàng ca ve mời Ngài Khu bộ phó “nhảy với em một bản”… Ở rừng sâu mà nàng ca ve vẫn đài các như ở thành, mặc kimônô áo ngủ bằng hàng mỏng – như khiêu khích, như mời mọc. Chính Ngài Khu bộ phó cũng xốn mắt ra lệnh dựng vách làm hàng rào để lính văn phòng không được chiêm ngưỡng vẻ đẹp nóng bỏng của cô vợ mới cưới của ông Bảy.
Một hôm, Mười Trí từ Bình Hòa xuống tổng hành dinh Bảy Viễn bàn chuyện cơ mật. Ngày ấy Bảy Viễn có việc đi đâu đó, Mười Trí đi vòng vòng ngắm giang sơn Ngài Khu bộ phó. Bước lạc qua nhà khách, thấy nàng ca ve ăn mặc hở hang lạ đời, Mười Trí nhìn sững. Nàng ca ve xác láo hất hàm hỏi:
- Mày là ai? Ở đâu tới? Vô đây có việc gì?
Mười Trí nóng mặt:
- Tao là tao, còn mày là con nào?
Nàng ca ve cười ngạo nghễ:
- Tao là bà Khu bộ phó biết chưa, đồ nhà quê!
Mười Trí giận rụn:
- Mày là con ** chó chứ bà Khu bộ phó gì! Thằng Bảy Viễn không biết dạy vợ thì dạy dùm nó vậy – Mười Trí móc súng nổ một phát vỡ sọ nàng ca ve. Bắn xong, ông ung dung đi tìm Bảy Viễn. Không bao lâu thì Bảy Viễn về.
Mười Trí đưa khẩu súng còn bốc khói ra trước mặt Bảy Viễn:
- Vợ mới cưới của mày hỗn láo, tao vừa trị tôi, bây giờ mày tính sao với tao cũng được.
Bảy Viễn tái mặt, chạy qua nhà khách. Nàng ca ve nằm sõng sượt, tim đã ngừng đập. Bảy Viễn giận run, mặt hầm hầm, đi tới đi lui, mắt trừng trừng nhìn Mười Trí. Mười Trí vẫn ngồi khoanh tay trước ngực, khẩu súng sáu đặt trên bàn như chờ đợi.
Một lúc sau, Bảy Viễn nguội lại, ra lệnh cho nhân viên tẩm liệm người xấu số đưa đi chôn. Đêm ấy Bảy Viễn uống rượu say mèm. Hắn tiếc một bóng sắc kiều diễm hiếm có.
Qua ngày sau, chờ khi Bảy Viễn đã tỉnh hẳn, Mười Trí nhỏ to:
- Đàn ông thằng nào cũng háo sắc. Chỉ có mấy thằng liệt dương mới dửng dưng với gái đẹp. Nhưng mày đã đi quá trớn. Mày để con ** chó đó lộng hành quá. Tao là bạn nối khố với mày mà nó dám vô lễ với tao. Nó đúng là quỷ nhền nhện hiện hình để hại mày. Nên nhớ binh sĩ Bình Xuyên có ý thức chính trị chớ không phải đám lâu la dốt nát của mình thời xa cưa đâu. Chúng nó chiến đấu, sống chết không phải để cho bọn chỉ huy như mày ngày đêm đú đởn với mấy con quỷ cái trên thành xuống.
Bảy Viễn thở ra:
- Thôi, mày đừng nói nữa. Tao hiểu rồi. Nhưng mày làm mạnh tay quá!
Mười Trí cười:
- Mày còn tiếc rẻ phải không? Bạn sống chết như tao với mày mới khó kiếm chớ mấy con quỷ cái đó thì muốn bao nhiêu chẳng có? Hai thằng Lâm Ngọc Đường với Môrit Thiên sẵn sàng cung phụng cho mày mà! Nhưng tao khuyên mày, từ nay nên chơi bời kỹ, đừng để binh sĩ thấy. Ghe mui ống của mày thiếu gì, chèo vô chỗ khuất rồi thì làm chay hát bội gì đó tùy ý.
Mười Trí đổi sắc nghiêm nghị:
- Mày vừa bảo tao mạnh tay quá! Nhưng trường hợp gặp gián điệp của Phòng Nhì, phải mạnh tay mới được.
Bảy Viễn kêu lên:
- Con nhỏ đó là gián điệp à?
Mười Trí gật:
- Nó là gián điệp chánh hiệu. Từ ngày có nó về đây, Chi đội 9 của mày bị máy bay bắn mấy lần, mày có nhớ không? Mà lần nào cũng bắn trúng bộ chỉ huy. Vậy thì còn nghi ngờ gì nữa?
Bảy Viễn ngẩn ngơ khá lâu. Khi đã lấy lại bình tĩnh, Bảy Viễn hỏi:
- Mày xuống gặp tao có việc gì?
- Bảy Trấn vừa ghé thăm tao trên đường đi dự ĐẠi hội Nam Bộ. Nó làm lớn lắm: Chánh ủy khu 9. Mày nhớ hồi ba đứa “chém vè” ở Bến Tranh, ngày tối cứ thả rểu đánh bài tứ sắc không? Vậy mà bây giờ tao làm chi đội trưởng, mày làm Khu bộ phó, còn Bảy Trấn thì làm Chánh ủy khu 9! Tụi mình toàn là số đỏ cả!
Bảy Viễn tò mò hỏi:
- Rồi sao? Có gì hay?
- Bảy Trấn cự tao quá trời. Cự về vụ tao tự động đi dự đại hội giáo phái do Phạm Công Tắc triệu tập tại Tòa thánh Tây Ninh.
- Cự cái gì? Nó có phải cha mình đâu!
- Ấy, đừng nóng! Để tao nói cho mà nghe. Tụi mình phải coi chừng hai cha Phạm Công Tắc với Huỳnh Phú Sổ lợi dụng. Hai cha đó muốn nhảy theo Pháp nhưng hai đạo Cao Đài và Hòa Hảo tuy đông dân số mà chẳng làm đách gì được! Muốn lấy tiền của Tây thì phải có lực lượng quân sự hùng hậu. Bởi vậy hai cha đó mới “dụ khị” mình đứng chung trong Mặt trận Quốc gia chống Việt Minh.
Bảy Viễn ôm đầu suy nghĩ, Mưới Trí nói tiếp:
- Bảy Trân “xưng dựng” tao với mày thật nhẹ nhàng. Nó nói như giả ngộ mà rất thấm. Chẳng hạn nó nhắc hồi nhỏ đi học, thầy giáo kể chuyện con mèo thò tay vô lửa khều mấy trái ma-rông để con khỉ ngồi ngoài bốc ăn tỉnh bơ. Tụi mình là con mèo, còn hai cha Phạm Công Tắc và Huỳnh Phú Sổ là con khỉ đó. Mày nghĩ coi có đúng không?
Một lúc sau, Bảy Viễn hỏi:
- Bây giờ mày tính sao?
- Còn tính sao nữa! Tụi mình không nên để mấy cha buôn thần bán thánh chơi gác kèo trên. Chỉ có vậy thôi.
Bảy Viễn lại suy nghĩ:
- Giữa Tây với Việt Minh, phải chọn bên nào đây?
Mười Trí cười lớn:
- Làm tới Khu bộ phó mà còn hỏi lẩm cẩm như vậy sao? Theo Việt Minh tụi mình mới được như ngày nay, tao chi đội trưởng Chi đội 4, mày chi đội trưởng chi đội 9 rồi lại nhảy lên làm Khu bộ phó. Còn với thằng Tây như cò Bazin, đại úy Savani, thằng chúa ngục A-gốt-ti-ni thì tao với mày chỉ là thằng tù lợi hại cần nhốt cátsô vì đã nhiều lần vượt ngục Côn Đảo…
- Nhưng mới hôm trước đây mày nói Việt Minh tiêu diệt giáo phái, bây giờ mày trở cờ lẹ vậy?
- Đâu phải trở cờ! Hôm trước tao nghe tiếng chuông của Phạm Công Tắc, Huỳnh Phú Sổ, nghe sao về báo cáo lại cho mày, báo cáo y nguyên văn, không thêm bớt. Kế tao lại nghe tiếng chuông thứ hai của Bảy Trấn. Nó là thằng trí thức, học cao hiểu rộng hơn bọn mình. Nó nói có căn cơ bài bản hơn hai cho nội kia. Tây đưa Phạm Công Tắc về là để làm tay sai, chúng muốn nắm Cao Đài chống lại Việt Minh. Chúng cũng mua luôn Huỳnh Phú Sổ. Tao chưa biết Việt Minh có tính tiêu diệt giáo phái hay không, nhưng nếu mày là Việt Minh mà hai cha Phạm Công Tắc và Huỳnh Phú Sổ đầu Tây thì mày có cho tụi nó đi “mò tôm” hay không? Mày trả lời câu hỏi đó nghe coi?
- Vậy là mày theo Việt Minh mặc dầu tụi nó bắt vuột mày?
Mười Trí cười:
- Bắt là phải! Bởi tụi nó sợ tao nhảy ra đầu Tây như đám chỉ huy Chi đội 5. Tụi nó đâu biết tao đi dự đại hội giáo phái là do tánh tò mò?...
- Vụ Chi đội 5 ra sao, kể nghe coi?