* * *
Hóa ra tôi không phải tìm người đàn bà nọ mà chính cô ta nhận ra tôi. Bước vào tiệm cà phê, tôi nhìn quanh một lượt tìm chiếc mũ đỏ. Chẳng có người đàn bà nào đội mũ đỏ cả. Đồng hồ của tôi chỉ 4 giờ kém mười. Tôi tìm chỗ ngồi, uống cốc nước người ta mang tới rồi gọi một cốc cà phê. Ngay khi hầu bàn vừa đi khỏi, tôi nghe giọng một phụ nữ vang lên sau lưng: “Chắc hẳn ông là Okada Toru?”. Tôi ngạc nhiên ngoái đầu lại. Từ khi tôi nhìn quanh phòng rồi ngồi xuống gọi cà phê đến giờ mới chưa đến ba phút.
Cô ta mặc áo khoác trắng, áo blouse lụa màu vàng, đội mũ bằng vải vinyl màu đỏ. Theo phản xạ, tôi đứng dậy đối diện với cô ta. Hiển nhiên có thể gọi cô ta là “đẹp”. ít nhất là đẹp hơn nhiều so với tôi hình dung khi nghe giọng qua điện thoại. Thân hình cân đối, thon thả, trang điểm chừng mực. Cô ta biết cách ăn mặc. Áo khoác và áo blouse cắt may tuyệt khéo. Trên cổ áo khoác lấp lánh một cái ghim bằng vàng hình lông chim. Nhìn bên ngoài có thể cho cô ta là thư ký của một công ty tầm cỡ nào đó. Duy có chiếc mũ đỏ là không hợp tí nào. Chẳng hiểu tại sao, sau khi bỏ công chăm chút ngần ấy cho quần áo cô ta lại đội lên đầu cái mũ bằng vải vinyl màu đỏ không đâu vào đâu kia. Chắc hẳn cô ta làm thế để người ta dễ nhận ta cô trong những tình huống như thế này. Nếu quả vậy thì ý đó thật không tồi. Giữa đám đông người, cô ta nổi bậc lên ngay. Cô ta ngồi xuống chiếc ghế đối diện tôi, tôi thì ngồi xuống ghế của mình.
- Lạ nhỉ, làm sao cô biết là tôi, – tôi nói. – Tôi không tìm ra cái cà vạt chấm hạt đỗ. Tôi biết chắc nó ở đâu đó thôi, nhưng không cách nào tìm ra. Nên tôi đành phải đeo cà vạt kẻ sọc. Tôi cứ nghĩ mình sẽ phải tìm cô, nhưng làm cách nào cô lại nhận ra tôi thế?
- Dĩ nhiên là tôi biết ông, - cô ta vừa nói vừa đặt chiếc xách tay màu trắng lên bàn. Cô ta giở chiếc mũ màu đỏ ra, đậy kín lên chiếc xách tay. Tôi có cảm tưởng cô ta sắp biểu diễn một trò ảo thuật: khi cô ta nhấc mũ lên, chiếc xách tay đã biến mất.
- Nhưng tôi đeo cà vạt khác mà, - tôi độp lại.
- Cà vạt khác nào nhỉ? – Cô ta liếc nhìn cái cà vạt của tôi với vẻ băn khoăn, như thể muốn nói: Cái gã dở người này đang nói chuyện gì ấy nhỉ? Rồi cô ta gật đầu: - Chuyện ấy không quan trọng, xin ông chớ bận tâm.
Đôi mắt cô ta có cái gì đó thật lạ.Chúng thiếu chiều sâu một cách bí hiểm. Đôi mắy ấy đẹp thì đẹp thật, nhưng dường như chúng chẳng nhìn bất cứ cái gì. Chúng phẳng lì, như thể làm bằng thủy tinh. Song, dĩ nhiên đó không phải là cặp mắt thủy tinh. Chúng chuyển động, chớp chớp mi mắt, như mọi cặp mắt bình thường.
Làm sao cô ta nhận ra tôi trong đám đông ngồi chật cứng quán cà phê này? Thật không hiểu nổi. Hầu như ghế nào cũng có người, trong số đó có nhiều người trạc tuổi tôi. Tôi muốn yêu cầu cô ta giải thích, nhưng kìm mình lại. Tránh khơi lên những chuyện ngoài lề thì tốt hơn.
Cô ta vẫy tay một hầu bàn đi ngang qua, gọi một suất Perrier. Anh ta bảo nhà hàng không có Perrier, nhưng có thể thay bằng nước tonic. Cô ta suy nghĩ một chút rồi đồng ý. Trong khi đợi nhà hàng mang nước tonic ra, cô ta im lặng, tôi cũng vậy.
Đến một lúc, cô ta nhấc cái mũ đỏ lên, mở khuy móc cài chiếc xách tay nằm bên dưới, rút từ trong đó ra một hộp da đen bóng nhỏ hơn chiếc băng cát sét đôi chút. Đó là một chiếc hộp con đựng danh thiếp. Cũng như chiếc xách tay, nó được cài bằng khuy móc – lần đầu tiên tôi thấy một hộp đựng danh thiếp cài khuy móc như vậy. Cô ta rút trong hộp ra một tấm danh thiếp trao cho tôi. Tôi bèn đút tay vào túi ngực tìm danh thiếp của mình thì mới nhận ra rằng trong người chẳng có tấm nào.
Danh thiếp của cô ta làm bằng nhựa mỏng, hình như thoảng mùi trầm hương. Khi đưa nó lại gần mũi, mùi hương đó càng rõ rệt. Không nghi ngờ gì nữa: chính là trầm hương. Danh thiếp mang vỏn vẹn một dòng chữ cái màu đen:
Malta? Tôi lật xem mặt bên kia. Nhưng ở đó chẳng có gì.
Trong khi tôi ngẫm nghĩ về ý nghĩa của tấm danh thiếp, tay hầu bàn đến đặt trước mặt cô ta một chiếc cốc đầy nước đá rồi rót nước tonic đến lưng chừng cốc. Trên vành cốc có găm một mẩu chanh. Rồi một cô hầu bàn đến, tay bưng khay đựng một ấm cà phê màu bạc. Cô ta đặt một chiếc tách trước mặt tôi rồi rót cà phê vào. Sau đó len lén như kẻ đang dúi những que xăm xúi quẩy vào tay người khác, cô ta để hóa đơn lên bàn rồi bỏ đi.
- Ở đấy chẳng có ghi gì đâu, - Kano Malta bảo tôi.
Tôi vẫn đang nhìn chăm chăm nhìn vào mặt sau của tấm danh thiếp.
- Chỉ có tên tôi mà thôi. Không cần ghi địa chỉ hay số điện thoại. Chẳng ai gọi điện cho tôi cả. Tôi luôn luôn tự gọi cho người khác.
- Tôi hiểu, - tôi nói. Câu trả lời vô nghĩa đó treo lơ lửng trong không trung một hồi như hòn đảo bồng bềnh trên bầu trời trong Gulliver du ký.
Giữ cốc bằng cả hai tay, cô ta uống một ngụm nước qua ống hút. Khuôn mặt thoáng cau lại, cô ta đẩy cốc sang bên, như thể không quan tâm gì đến nó nữa.
- Malta không phải là tên thật của tôi, - Kano Malta nói. – Kano là họ thật, nhưng Malta là biệt danh ngề nghiệp. Theo tên hòn đảo Malta. Ông Okada đã bao giờ đến Malta chưa ?
Tôi bảo là chưa. Tôi chưa bao giờ đến Malta, cũng chưa có kế hoạch đến Malta trong tương lai gần. Thậm chí tôi chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ đó. Tất cả những gì tôi biết về Malta là bản nhạc jazz kinh khiếp của Herb Albert có tựa đế Cát Malta.
Tôi gật đầu, nhấp một ngụm cà phê.
- Vâng, nước ở Malta mùi vị thật khó chịu, nhưng một nguồn nước ở đó lại có tác dụng kì diệu lên cấu trúc thân thể của chúng ta. Đó là một thứ nước đặc biệt, thậm chí phải nói là huyền bí, chỉ một nơi duy nhất trên đảo mới có mà thôi. Dòng suối đó ở sâu trong núi, phải trèo mấy tiếng đồng hồ từ một ngôi làng dưới chân núi mới lên tới được. Nước ấy không thể vận chuyển đi nơi khác. Nếu mang đi nơi khác, nó sẽ mất hiệu lực ngay. Cách duy nhất để uống nước ấy là phải tự mình đến tận nơi. Người ta thường nhắc đến thứ nước này trong các văn bản từ thời Thập tự chinh. Người ta gọi nó là nước thần. Allen Ginsberg từng đến uống nước đó. Keith Richard cũng vậy. Tôi đã sống ở đó suốt ba năm trong ngôi làng nhỏ dưới chân núi. Tôi trồng rau và học nghề đan. Ngày nào tôi cũng leo lên dòng suối để uống thứ nước đặc biệt ấy. Từ năm 1976 đến năm 1979. Có lần, suốt một tuần, tôi chỉ uống nước đó mà không ăn một tí gì. Suốt một tuần không được cho cái gì khác vào miệng ngoại trừ thứ nước đó. Đó là một sự huấn luyện mà ai cũng phải làm. Theo tôi có thể gọi đó là một kiểu tu hành. Ta làm thế là để thân ta thanh khiết. Đối với tôi, cảm giác đó thật kỳ diệu. Vì vậy khi trở về Nhật, tôi chọn Malta làm biệt danh nghề nghiệp của mình.
- Xin lỗi, cho tôi hỏi nghề của cô là gì?
Cô ta lắc đầu.
- Nói đúng ra đấy không phải là nghề. Tôi làm không lấy tiền. Tôi là chuyên gia tư vấn. Tôi trò chuyện với mọi người về các thành tố của cơ thể. Tôi cũng nghiên cứu về loại nước có tác dụng tốt đối với các thành tố của cơ thể. Kiếm tiền không phải là chuyện khó đối với tôi. Tôi có tất cả các phương tiện mình cần. Cha tôi là bác sỹ, ông có mua cổ phiếu và bất động sản cho thuê nhắm chu cấp cho tôi và em gái tôi. Tôi có một kế toán lo sổ sách thu chi. Thu nhập hàng năm của tôi khá bộn. Tôi cũng viết vài cuốn sách kiếm được ít tiền. Còn việc tư vấn về các thành tố của cơ thể, tôi làm không vì lợi nhuận. Chính vì vậy, danh thiếp của tôi không có địa chỉ lẫn số điện thoại. Tôi luôn chủ động gọi cho người khác.
Tôi gật đầu, nhưng đó chỉ là cử động thuần tuý vật lý của cái đầu: tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì những điều cô ta nói. Tôi có thể hiểu những từ cô ta nói, nhưng ý nghĩa chung của chúng thì không sao nắm bắt được.
Các thành tố của cơ thể ?
Allen Ginsberg ?
Càng lúc tôi càng bứt rứt khó chịu. Tôi không phải loại người có trực giác thiên phú, nhưng càng ngồi lâu với người đàn bà này, tôi càng như ngửi thấy mùi những điều phiền toái.
- Xin lỗi cô, - tôi nói, - không biết cô có thể giải thích mọi chuyện từ đầu, từng bước một được chăng? Vừa rồi tôi có nói chuyện với vợ tôi, cô ấy bảo tôi gặp cô để bàn chuyện con mèo đi lạc. Thành thật mà nói, tôi không hiểu nãy giờ cô nói những điều kia với tôi để làm gì. Có liên quan gì đến con mèo không?
- Có chứ. Nhưng trước khi đề cập tới việc đó, có một điều tôi muốn báo cho ông biết, thưa ông Okada.
Cô ta mở khóa xách tay, lấy ra một cái phong bì trắng. Trong phong bì có một bức ảnh, cô đưa cho tôi. “Em gái tôi”, cô nói. Đó là một bức ảnh màu chụp hai phụ nữ. Một người là Kano Malta, trong một bức ảnh cô cũng đội mũ, một chiếc mũ đan màu vàng. Một lần nữa cái mũ rõ ràng không hợp với quần áo cô ta mặc. Cô em gái mặc bộ đồ màu lam nhạt, đội một chiếc mũ cùng tông, loại mũ thịnh hành vào thập niên 1960. Tôi nhớ đâu như tông màu này được gọi là tông “màu kem quả”. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn: hai chị em đều thích đội mũ. Kiểu tóc của cô em chính là kiểu của Jacqueline Kenedy hồi còn là phu nhân tổng thống, keo xịt tóc bóng nhẫy. Cô ta trang điểm hơi qua tay, tuy nhiên vẫn có thể gọi là đẹp. Cô ta trạc hai mươi lăm tuổi. Tôi đưa trả bức ảnh cho Kano Malta, cô cất ảnh vào phong bì, đút phong bì vào xách, cài khóa móc lại.
- Em gái tôi nhỏ hơn tôi năm tuổi. Nó bị Wataya Noburu phá trinh. Cưỡng hiếp tàn bạo.
Ôi chao! Tôi muốn đứng phắt dậy mà bỏ đi, không nói không rằng, ngay lập tức. Nhưng không thể làm thế được. Tôi rút khăn mùi soa khỏi túi áo comlê, lau miệng rồi lại đút vào. Rồi tôi hắng giọng.
- Thật kinh khủng, - tôi thốt lên. – Tôi không hề biết chuyện đó. Nếu em gái cô đã bị cưỡng hiếp, tôi xin có lời thông cảm chân thành. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng anh vợ tôi và tôi không có liên quan gì với nhau. Cho nên, nếu vì chuyện đó mà cô muốn...
- Không phải thế, ông Okada ạ, - cô ta tuyên bố với vẻ quả quyết. – Tôi hoàn toàn không bắt ông chịu trách nhiệm đâu. Nếu có một người phải chịu trách nhiệm cho chuyện đã xảy ra thì kẻ đó trước hết phải là tôi. Bởi tôi đã thiếu quan tâm. Bởi tôi đã không bảo vệ được nó mặc dù lẽ ra tôi phải bảo vệ. Thật không may, có một số sự kiện đã khiến tôi không làm được việc đó. Trên đời vẫn có những chuyện như thế, ông Okada ạ. Ông biết đó, chúng ta sống trong một thế giới đầy bạo lực và hỗn loạn. Và trong thế giớ này, có những nơi còn bạo lực hơn, còn hỗn loạn hơn thế. Ông Okada có hiểu ý tôi không? Điều gì xảy ra thì đã xảy ra rồi. Em gái tôi sẽ hồi phục khỏi sự tổn thương này, khỏi vết nhơ này. Nó phải hồi phục được. tạ ơn trời, cũng không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng. Như tôi đã nói với em tôi, lẽ ra còn có thể xảy ra những chuyện còn tồi tệ hơn thế nhiều. Điều tôi quan tâm nhất bây giờ là các thành tố của cơ thể nó.
- Thành tố của cơ thể, - tôi lặp lại. Cái ‘thành tố của cơ thể” hẳn là cái chủ đề trước sau như một của cô ta.
- Tôi không thể giải thích chi tiết cho ông rõ những tình huống này có liên quan với nhau ra sao. Chuyện rất dài và phức tạp, và mặc dù khi nói thế này tôi không có ý coi nhẹ ông, nhưng quả thật là ở giai đoạn này ông sẽ không có khả năng hiểu thấu ý nghĩa đích thực của câu chuyện đó. Dĩ nhiên, ông hoàn toàn không chịu trách nhiệm gì về chuyện đã xảy ra. Tôi chỉ muốn ông biết rằng các thành tố của cơ thể em gái tôi đã bị ông Wataya làm ô uế, dù chỉ tạm thời. Ông và cô ấy sẽ có liên hệ với nhau bằng cách này hay cách khác trong tương lai. Như tôi đã nói, cô ấy là trợ lý của tôi. Vì vậy, tôi nghĩ có lẽ tốt nhất là cho ông biết chuyện gì đã xảy ra giữa cô ấy với ông Wataya. Và tôi muốn ông biết rằng những chuyện như thế có thể xảy ra trên đời này.
Một thoáng im lặng. Kano Malta nhìn tôi như muốn nói: Hãy nghĩ kỹ về những gì tôi vừa nói với ông. Và tôi suy nghĩ. Về việc Wataya Noburu đã cưỡng hiếp em gái của Kano Malta. Về mối liên hệ giữa việc đó với các thành tố của cơ thể. Và về mối liên hệ giữa những điều đó với việc con mèo của chúng tôi biến mất.
- Có phải là cô muốn nói, - tôi rụt rè lên tiếng, - rằng cô và em gái cô đều không có ý định làm đơn tố cáo công khai về việc đó... hoặc báo cảnh sát?
- Không, dĩ nhiên chúng tôi không làm thế, - Kano Malta nói, vẻ vô cảm. – Nói đúng ra chúng tôi không buộc ai chịu trách nhiệm về chuyện đó. Chúng tôi chỉ muốn hiểu tận ngọn ngành những nguyên nhân nào khiến một chuyện như vậy xảy ra. Chừng nào chúng tôi chưa giải quyết được vấn đề đó thì có thể sẽ còn xảy ra những điều đáng sợ hơn thế nữa.
Tôi nhẹ người phần nào khi nghe nói vậy. Tôi hoàn toàn không chút động lòng nếu Wataya Noburu bị buộc tội cưỡng dâm và phải đi tù. hắn ta mà đến nước ấy thì cũng đáng lắm. Nhưng anh trai của Kumiko là kẻ có tiếng t ăm. hắn ta mà bị bắt và phải ra tòa thì chắc chắn báo chí sẽ làm rùm beng lên, và đó sẽ là một cú sốc ghê gớm đối với Kumiko. Tôi không muốn điều đó xảy ra, dù chỉ để tâm trí mình được thanh thản.
- Ông cứ yên tâm, hôm nay tôi xin được gặp ông chỉ là về chuyện con mèo đi lạc thôi, - Kano Malta nói. – Ông Wtaya đề nghị tôi cho lời khuyên về việc này. Phu nhân ông, bà Okada, đã nhờ anh trai là ông Wataya tư vấn về việc con mèo đi lạc, và đến lượt mình ông ta lại nhờ tôi tư vấn.
Ra là vậy! Giờ thì tôi đã hiểu. Kano Malta là loại người có thính giác thấu thị hay gì đó tương tự, và những người kia đã nhờ cô ta tìm tung tích con mèo. Gia đình Wataya xưa nay vẫn ưa mấy cái đoán hậu vận, « phong thủy » và những thứ tương tự thế. Vậy cũng chẳng sao: ai muốn tin việc gì cứ tin. Nhưng việc gì hắn phải đi hiếp em gái người cố vấn tinh thần của mình ? Dấy lên những chuyện phiền toái không đâu như vậy để làm gì ?
- Đó là lĩnh vực chuyên môn của cô phải không? Giúp người ta những vật thất lạc ? – tôi hỏi.
Cô ta nhìn tôi chẳm chằm bằng cặp mắt không có chiều sâu kia, cặp mắt như đang nhìn vào cửa sổ một căn nhà không người ở. Xét theo biểu hiện của chúng thì cô ta đã không hiểu nghĩa câu hỏi của tôi.
Không trả lời, cô ta nói :
- Ông Okada đang sống ở một nơi rất lạ lùng phải không?
- Tôi ấy à ? Lạ lùng theo nghĩa nào ?
Thay vì đáp lại, cô ta đẩy chiếc cốc nước tonic nãy giờ hầu như không động tơ`I ra xa thêm chừng mười xăng-ti-mét nữa.
- Ông biết đấy, mèo là loài vật hết sức nhạy cảm.
Im lặng lại trùm lên giữa hai chúng tôi.
- Vậy là chỗ chúng tôi ở rất lạ lùng, và mèo là loài vật nhạy cảm, – tôi nói. - Cứ cho là thế. Nhưng hai vợ chồng với con mèo sống ở đó bao lâu nay. Sao bỗng dưng nó lại quyết định bỏ chúng tôi mà đi? Sao nó không bỏ đi từ trước?
- Điều đó tôi không nói với ông được. Có lẽ vì dòng chảy đã thay đổi. Có lẽ một cái gì đó đã ngăn dòng chảy.
- Dòng chảy…
- Tôi không biết con mèo của vợ chồng ông còn sống hay đã chết, nhưng có một điều chắc chắn: nó không quanh quẩn ở gần nhà ông bà nữa. Ông bà sẽ không bao giờ tìm thấy nó trong khu hàng xóm kia đâu.
Tôi nâng cốc lên nhấp một ngụm cà phê giờ đã hơi nguội. Ngoài cửa sổ, trời đang mưa lâm thâm. bầu trời trĩu mây đen. Một đoàn người và ô buồn thảm trèo lên trèo xuống chân cầu ở đằng xa.
- Ông cho tôi xem tay nào, - cô ta nói.
Tôi đạt bàn tay phải lên bàn, lòng bàn tay ngửa ra, nghĩ rằng cô ta định xem chỉ tay tôi. Nhưng không, cô ta chìa tay ra, úp lòng bàn tay mình lên lòng bàn tay tôi. Rồi cô ta nhắm mắt lại, không nói không rằng trong tư thế đó, như thể đang lặng lẽ trách móc một người tình không chung thuỷ. Cô hầu bàn đến rót đầy tách của chúng tôi, vờ như không nhận thấy Kano Malta và tôi đang làm gì. Khách ở các bàn bên nhìn trộm chúng tôi. Tôi chỉ cầu mong đừng có người quen nào đang ngồi trong quán lúc này.
- Tôi muốn ông hình dung trong đầu một vật mà ông nhìn thấy trước khi đến đây.
- Chỉ một thôi sao?
- Chỉ một thôi.
Tôi nghĩ tới chiếc váy mino in hoa mà tôi đã thấy trong hộp đựng quần áo của Kumiko. Tôi không hiểu sao chính cái ấy chứ không phải gì khác nảy ra trong đầu tôi lúc đó.
Chúng tôi úp lòng bàn tay vào nhau như thế thêm năm phút nữa – năm phút dường như quá dài đối với tôi, không chỉ vì tôi bị người ta nhìn ngó mà còn bởi sự **ng chạm của lòng bàn tay Kano Malta có cái gì đó khiến tôi ngay ngáy, bất an. Bàn tay cô ta bé nhỏ, không nóng cũng chẳng lạnh. Không phải cái **ng chạm thân ái của bàn tay người yêu, cũng không phải cái **ng chạm nghề nghiệp của bàn tay bác sỹ. Bàn tay cũng có tác động đến tôi như cặp mắt của cô ta, nó biến tôi thành căn nhà không có người ở. Tôi cảm thấy mình trống rỗng: không bàn ghế, không rèm, không khảm. Chỉ là một cái vỏ chứa rỗng không. Cuối cùng Kano Malta rút tay lại, hít thở sâu mấy hơi liền. Rồi cô gật gật đầu.
- Thưa ông Okada, tôi tin rằng đời ông đang bước vào giai đoạn trong đó nhiều sự kiện sẽ xảy ra. Việc con mèo của vợ chồng ông biến mất chỉ là sự khởi đầu mà thôi.
- Nhiều sự kiện… Tốt hay xấu?
Cô ta nghiêng đầu suy nghĩ.
- Cả tốt lẫn xấu. Xấu song ban đầu ngỡ như tốt, và tốt song ban đầu tưởng là xấu.
- Nói vậy thì trừu tượng quá, - tôi nói. - Cô có thể nói cụ thể hơn không?
- Vâng, hẳn những gì tôi đang nói nghe có vẻ chung chung. Nhưng ông Okada ạ, khi nói về yếu tính của sự vật, thường ta chỉ có thể nói một cách chung chung như thế. Những gì cụ thể thì dễ khiến ta chú ý, nhưng đa phần chúng chỉ là những hiện tượng tầm thường, vặt vãnh. Ta càng thử nhìn sự vật từ một khoảng cách thì chúng càng có tính chung chung, khái quát hơn.
Tôi lặng lẽ gật đầu, tuy hoàn toàn không hiểu cô ta đang nói cái gì.
- Tôi có được phép gọi điện cho ông lần nữa không? – cô ta hỏi.
- Dĩ nhiên, - tôi nói, mặc dù thực ra tôi không muốn bất kỳ ai gọi cho tôi cả. “Dĩ nhiên” có lẽ là câu trả lời duy nhất tôi có thể thốt ra lúc này.
Kano Malta giật chiếc mũ đỏ trên bàn, túm lấy chiếc xách tay nãy giờ giấu dưới mũ rồi đứng dậy. Không biết phải phản ứng thế nào, tôi cứ ngồi nguyên tại chỗ.
- Tôi có thể cho ông biết một thông tin nho nhỏ, - đội mũ xong, Kano malta nhìn xuống tôi mà nói. – Ông sẽ tìm thấy chiếc cà vạt chấm hạt đỗ, nhưng không phải trong nhà ông.
*
Kumiko về nhà trong tâm trạng vui vẻ. Quá vui là khác. Gặp Kano Malta xong, tôi về tới nhà thì đã gần sáu giờ chiều nên không còn đủ thì giờ làm bữa tối cho ra hồn trước khi vợ đi làm về. Đành phải làm một bữa ăn quấy quá bằng những gì có trong tủ lạnh. Hai chúng tôi ăn tối uống bia. Kumiko kể chuyện về công việc. Nàng luôn luôn kể về công việc những khi tâm trạng vui vẻ: nào là nàng gặp ai ở cơ quan, nàng đã làm gì, đồng nghiệp nàng ai có năng lực, ai không. Đại loại thế.
Tôi lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu hoặc thốt vài câu lấy lệ. Tôi chỉ nghe thấy không quá một nửa những gì nàng nói. Chẳng phải vì tôi không thích nghe nàng nói những chuyện ấy. Không kể nội dung câu chuyện, tôi thích ngắm nàng ngồi bên bàn ăn say sưa nói về công việc của mình. Đây chính là "gia đình", tôi tự nhủ. Ở đây mỗi người đang làm đúng phận sự đã được phân công trong gia đình. Nàng nói về công việc của mình, còn tôi, làm bữa tối xong thì giờ lắng nghe nàng nói. Cảnh này rất khác với hình ảnh "gia đình" mà tôi từng hình dung trước khi lấy vợ. Nhưng đây là cái gia đình chính tôi đã chọn. Dĩ nhiên, tôi từng có gia đình, khi còn bé. Nhưng đó không phải cái gia đình mà tôi tự chọn cho mình. TÔi đã sinh ra trong gia đình đó, nhận lấy gia đình đó như một sự đã rồi. Còn nay tôi sống trong một thế giới do mình chọn bằng ý chí. Đó là gia đình tôi. Nó có thể khồng hoàn hảo, nhưng nguyên tắc của tôi về gia đình của mình là hãy chấp nhận nó cùng với mọi vấn đề nảy sinh từ đó. Bởi nó là lựa chọn của tôi, và nếu có những vấn đề này nọ nảy sinh thì hầu như chắc chắn phải tìm cội rễ sâu xa của chúng ở trong chính tôi.
-Thế con mèo thì sao? - nàng hỏi. Tôi tóm tắt cho nàng nghe cuộc gặp với Kano Malta tại khách sạn ở Shinagawa, Tôi kể với nàng về cái cà vạt chấm hạt đỗ; rằng chả thấy nó đâu trong tủ quần áo. Rằng dẫu vậy Kano Malta vẫn nhận ra tôi trong quán cà phê đông nghẹt khách. Rằng cô ta ăn mặc và nói năng khác người, và khác người ra sao. Kumiko tỏ vẻ thích thí nghe về chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ, nhưng khi tôi không thể nói rõ về tung tích của con mèo đi lạc thì nàng hết sức thất vọng.
- Vậy ra cô ta cũng không biết con mèo ở đâu? - Kumiko hỏi gặng. - Chỉ nói được mỗi một điều là nó không còn quanh quẩn bên hàng xóm nữa?
- Thì thế, - tôi nói. Tôi quyết định không đả động gì đến cái "dòng chảy bị ngăn" của nơi vợ chồng tôi đang sống hau về chuyện điều đó có thể liên quan tới chuyện con mèo bỏ nhà đi. Tôi biết điều đó sẽ khiến Kumiko lo lắng, mà chúng tôi đã có quá nhiều chuyện phải lo rồi. Nếu biết mình đang sống ở một "nơi không tốt", Kumuki sẽ nằng nặc đòi dọn đi nơi khác. Mà với tình hình tài chính hiện nay của chúng tôi thì dọn nhà là chuyện ngoài tầm tay.
- Cô ấy bảo anh thế, - tôi nói. - Con mèo không còn ở quanh đây nữa.
- Nghĩa là nó sẽ không bao giờ về nữa?
- Anh không biết. Cô ta nói gì cũng mơ hồ, không rõ ràng. Toàn bóng gió, gợi ý thôi. Tuy nhiên cô ta bảo nếu tìm được gì mới thì sẽ báo cho mình hay.
- Anh có tin cô ta không?
- Ai mà biết được? Anh có biết mô tê gì về những chuyện này đâu.
Tôi rót cho mình thêm ít bia rồi nhìn bọt lắng xuống. Kumiko chống cùi chỏ lên bàn, tựa cắm lên lòng bàn tay.
- Cô ta ắt có nói với anh rằng cô ta không nhận tiền thù lao hay quà cáp gì hết. - nàng nói.
- Ờ, ít ra cũng được điểm ấy, - tôi nói. - Đã vậy thì có vấn đề gì nào? Cô ta không lấy tiền chúng mình, không đánh cắp linh hồn chúng mình, không nhốt nàng công chúa trong lâu đài. Chúng mình chả mất gì cả.
- Anh phải hiểu một điều. Con mèo rất quan trọng đối với em. Nói đúng hơn là với cả em và anh. Chúng mình cũng tìm thâys nó chỉ một tuần sau ngày cưới. Anh còn nhớ chứ?
- Dĩ nhiên anh nhớ.
- Nó bé tí, ướt như chuột lột dưới trời mưa tầm tã. Em đội ô ra ga đón anh. Chú nhóc tội nghiệp. CHúng mình gặp nó trên đường về nhà. Ai đó đã vứt nó vào một thùng bia ở quán rượu. Nó là con mèo đầu tiên em nuôi. Nó rất quan trọng đối với em, nó như một thứ biểu tượng vậy. Em không thể mất nó được.
- Anh hiểu mà, - tôi nói.
- Vậy nó đâu? Nó đi mất mười hôm nay rồi. Chính vì vạy mà em gọi cho ông anh trai. Em nghĩ anh ấy có thể biết một người lên đồng hay một nhà ngoại cảm, ai đó có thể tìm ra một con mèo đi lạc. Em biết anh không muốn hỏi han anh trai em bất cứ chuyện gì, nhưng anh ấy học cha em, anh ấy rất rành những chuyện như vậy.
- À phải, truyền thống của gia đình Wataya, - tôi nó, lạnh tanh như cơn gió chiều lùa qua eo biển. - Nhưng Wataya Noboru có quan hệ thế nào với người đàn bà đó?
Kumiko nhún vai.
- Hẳn anh ấy tình cờ gặp cô ta ở đâu đó. Dạo sau này anh ấy có rất nhiều mối quan hệ.
- Chuyện đó thì khỏi bàn.
- Anh ấy bảo cô ta có những năng lực khác thường, song cô ta khá kỳ lạ. - Kumiko lấy nĩa chọc chọc một cách máy móc vào món macaroni. - Tên cô ta là gì ấy nhỉ?
- Kano Malta. Cô ta từng theo một kiểu tôn giáo khắc ký để tự hoàn thiện mình ở đảo Malta.
- Ra thế. Kano Malta. Anh nghĩ sao về cô ta?
- Khó nói. - Tôi nhìn hai bàn tay mình đang đặt trên bàn. - Ít nhất là cô ta không làm mình chán. Đó là điều tốt. Ý anh là trên đời đã có quá nhiều chuyện không thể giải thích, nên phải có ai đó lấp đầy cái khoảng trống này. Giao du với người không làm mình chán vẫn hơn với người làm mình chán. Đúng không nào? Như ông Honda chẳng hạn.
Kumiko phá lên cười khi nghe nhắc tới ông Honda.
- Ông già ấy thật tuyệt phải không anh? Em thích ông ấy lắm.
- Anh cũng thế, - tôi nói.
***
Từ khoảng một năm sau khi cưới nhau, tôi và Kumiko bắt đầu đến thăm ông Honda mỗi tháng một lần. Ông là người chuyên lên đồng, một trong những kiểu nhà ngoại cảm mà dòng họ Wataya coi là của quý., nhưng ông cực kỳ nặng tai. Thậm chí dù có mang máy trợ thính ông cũng chỉ nghe câu được câu chăng những gì chúng tôi nói. Chúng tôi phải hét to đến nỗi những tấm vách ngăn phòng bằng giấy shooji muốn bục cả ra. Toi thường tự hỏi, đã nặng tai đến cỡ đó thì liệu ông có nghe các linh hồn nói gì không. Nhưng có khi ngược lại không chừng: càng nặng tai, người ta càng có khả năng nghe thấy lời của các linh hồn. Ông bị mất thính giác từ hồi chiến tranh. Là một sĩ quan phi tác chiến đóng tại doanh trại Mãn Châu của đạo quân Quan Đông, ông bị vỡ màng nhĩ khi một vỏ đạn đại bác, quả lựu đạn hay một cái gì đó nổ ngay bên cạnh ông trong một trận đánh với một đơn vị hỗn hợp Hồng quân Liên Xô - Ngoại Mông ở Nomanhan trên biên giới Ngoại Mông và Mãn Châu.
Chúng tôi hay đến thăm ông Honda chẳng phải vì tin ở năng lực tâm linh của ông. Tôi chả bao giờ quan tâm đến những chuyện như thế, còn ở Kumiko, khuynh hướng tin vào những điều siêu nhiên cũng ít hơn nhiều so với cha mẹ và anh trai. Nàng cũng có chút mê tín, nàng có thể lo sốt vó vì những điềm được coi là gở, nhưng nàng chẳng bao giờ ra khỏi nhà để tham gia những việc như bói toán, lên đồng.
Lý do duy nhất để chúng tôi đến thăm ông Honda là cha của Kumiko bắt phải đến. Đó là điều kiện duy nhất ông đưa ra để chúng tôi có thể cưới nhau. Một điều kiện quả là hơi kỳ quặc, nhưng chúng tôi chấp thuận để tránh những điều rắc rối. Cả tôi và Kumiko không hế trông đợi mọi việc sẽ xuôi chèo mát mái với gia đình nàng. Cha nàng là quan chức chính phủ. Là con thứ trong một gia đình trung nông chả lấy gì làm khấm khá ở Niigata, ông xin được học bổng để theo Đại học Tokyo danh giá, tốt nghiệp bằng ưu và giành được một vị trí cao cấp trong Bộ Giao thông. Điều đó thật đáng khâm phục. Song, cũng như hầu hết những ai đã kinh qua con đường tiến thân như thế, ông ta là kẻ kiêu căng tự mãn. Đã quen ra lệnh, ông hoàn toàn không chút hoài nghi về giá trị của cái thế giới mà ông là một thành phần. Với ông, tôn ti trật tự là tất cả. Ông là kẻ thượng đội hạ đạp. Ông khúm núm trước cấp trên mà không hề thắc mắc và chà đạp những kẻ dưới mình mà không do dự mảy may. Cả Kumiko và tôi không hề tin rằng một người như vậy lại có thể nhận làm con rể một thằng khố rách áo ôm mới hai mươi bốn tuổi đầu, không địa vị, không dòng dõi, học chẳng lấy gì làm xuất sắc, tiền đồ công danh chẳng có, như tôi. Chúng tôi vẫn nghĩ rằng sau khi cha mẹ nàng khước từ chúng tôi sẽ tự làm đám cưới, tự xây dựng cuộc sống và chả liên hệ gì với họ.
Dẫu vậy tôi vẫn làm việc phải làm. Tôi đến gặp cha mẹ Kumiko để cầu hôn nàng. Bảo rằng họ đón tiếp tôi một cách lạnh nhạt là quá nhẹ. Có cảm tưởng như tất cả các cánh cửa tủ lạnh trên thế giới này đều mở toang ra cùng một lúc.
Nhưng cuối cùng họ cũng vẫn cho phép tôi, dù miễn cưỡng. Mọi việc đã diễn biến gần như nhờ một phép màu, nhưng ở đây công lao hoàn toàn thuộc về ông Honda. Ông đã hỏi cha mẹ Kumiko tất cả những gì hai ông bà biết về tôi, đoạn tuyên bố dứt khoát rằng nêu muốn gả chồng cho con gái họ thì chẳng có đám nào tốt hơn tôi, rằng một khi Kumiko đã chọn tôi làm ý trung nhân thì dù có thế nào họ cũng không được ngăn cản, nếu không thì sẽ phải hứng chịu những hậu quả khủng khiếp.Hồi đó cha mẹ Kumiko chuyện gì cũng nhất nhất tin cậy ông Honda, thế nên họ chẳng còn cách nào khác ngoài nhận tôi làm rể.
Dẫu vậy, tôi luôn luôn là người ngoài, khách không mời mà đến. Kumiko và tôi tới thăm gia đình họ và ăn tối hai lần một tháng, đều đặn như một cái máy, vậy thôi. Những lần như vậy thật đến là lộn mửa, nói không ngoa, một cái gì dó nằm giữa sự hành xác không đâu với cực hình tàn bạo. Suốt bữa ăn, tôi có cảm tưởng như cái bàn ăn nhà họ dài như cái ga tàu hỏa. Họ ngồi vừa ăn vừa trò chuyện gì đó ở mãi đầu bên kia, còn tôi ngồi đầu bên này, xa tít tắp đến nỗi họ không nhìn thấy. Điều đó kéo dài khoảng một năm, cho tới jhi cha của Kumiko và tôi cãi nhau một trận nảy lửa, từ đó trở đi tôi và ông ra không bao giờ gặp lại nhau. Tôi thở phào nhẹ nhõm, gần như sướng điên lên. Không có gì bào mòn sinh lực con người cho bằng sự nỗ lực vô nghĩa và vô ích.
Dẫu vậy, suốt một thời gian sau khi cưới, tôi đã nỗ lực hết mình để duy trì quan hệ tốt với cha mẹ vợ. Và không nghi ngờ gì nữa, trong tất cả những nỗ lực ấy, cái ít làm tôi mệt mỏi hơn hết là những cuộc gặp gỡ hàng tháng với ông Honda.
Mọi chi phí liên quan đến ông Honda đều do cha của Kumiko chu tất. Chúng tôi chỉ có mỗi việc đến chơi nhà ông Honda ở Meguro mỗi tháng một lần, xách theo một chai rượu sake to, nghe ông kể chuyện, xong thì về. Rất đơn giản.
Chúng tôi thích ông Honda ngay lập tức. Ông là một cụ già dễ mến, khuôn mặt luôn bừng sáng mỗi khi thấy chai rượu sake chúng tôi mang đến cho ông. Chúng tôi thích ông ở mọi phương diện, có chăng chỉ trừ một nỗi ông luôn mở tivi to hết cỡ vì ông nặng tai quá.
Chúng tôi luôn đến nhà ông chơi vào buổi sáng. Đông cũng như hè, ông ngồi trong phòng khách tiếp chúng tôi, hai chân thọc vào dưới chiếc bàn sưởi thấp. Mùa đông ông quấn mền bông từ thắt lưng trở xuống để giữ nhiệt tỏa ra từ ngọn lửa than. Mùa hè thì ông chẳng cần mền lẫn lửa. Ông rõ là một người xem bói khá nổi tiếng, nhưng ông sống rất giản dị, thậm chí phải nói là khắc khổ. Nhà ông bé tí, sảnh đón chỉ vừa đủ chỗ cho một người duy nhất cởi hay mang giày. Những tấm chiều tatami trải trên sàn nhà ông sờn rách, xác xơ, cửa kính nứt dán lại quấy quá bằng băng dính. Bên kia đường là một xưởng sửa ôtô, lúc nào cũng có ai đó đang thét lác chói tai. Ông Honda vận một bộ kimono nửa như áo ngủ nửa như áo khoác công nhân. Bộ đồ đó xem ra đã lâu chưa giặt. Ông sống một mình, chỉ có một bà hay lui tới để quét dọn và nấu nướng. Tuy nhiên, vì lý do nào đó ông chẳng bao giờ cho bà ta giặt bộ kimono. Đoi má hõm sâu của ông lởm chởm chòm râu quai nón bạc phơ.
Nếu có một cái gì đó đáng gọi là gây ấn tượng trong căn nhà của Honda, thì đó là chiếc tivi màu to tướng. Trong căn nhà bé tẹo như thế, kích cỡ khổng lồ của nó thật choáng ngợp. Nó luôn luôn được vặn sang kênh NHK của nhà nước. Khó mà nói được đó là do ông thích kênh NHK, do ông chẳng buồn chuyển sang kênh khác hay vì chiếc tivi này chỉ bắt được mỗi kênh NHK mà thôi, chỉ biết rằng ông luôn xem đọc một kênh đấy.
Thay vì một bình hoa hay một cuộn thư pháp, tokonoma trong phòng khách của ông được dùng để chứa cái tivi to đùng đó, và mỗi khi đến, chúng tôi luôn thấy ông ngồi đối diện cái tivi, đảo qua đảo lại mấy cây que bói trên nắp chiếc bàn sưởi trong khi đài NHK phát không thôi nào chương trình nấu ăn, dạy chăm sóc cây cảnh, nào tin mới nhất và các thảo luận chính trị.
- Nghề luật có khi chẳng tốt cho con đâu, con ạ, - một hôm ông Honda nói, nhưng không rõ ông nói với tôi hay với ai đó đang đứng sau lưng ông tới hai chục mét.
- Sao ạ?
- Ừ, đúng thế đấy. Rốt cuộc thì luật pháp cũng chi phối mọi sự trên thế gian này. Cái thế giới nơi bóng tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng, âm là âm và dương là dương. Tôi là tôi, anh ta là anh ta. "Tôi là tôi / anh ta là anh ta / Tàn thu". Nhưng con ạ, riêng con thì không thuộc về cõi đó. Con thuộc về một cõi nằm trên hoặc nằm dưới cõi đó.
- Vậy cõi nào hơn? - tôi hỏi, chỉ vì tò mò. - Trên hay dưới?
- Vấn đề không phải cõi nào hơn, - ông nói. Ông khúng khắng ho rồi khạc đờm lên một mảnh khăn giấy, săm soi một hồi rồi mới vò mảnh khăn mà ném vào giỏ rác. - Vấn đề không phải cõi nào hơn. Quan trọng là không cưỡng lại dòng chảy. Khi nào phải đi lên thì đi lên, khi nào phải đi xuống thì đi xuống. Hễ đã đi lên thì phải chọn ngay cái tháp cao nhất mà trèo lên đỉnh. Hễ đã đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà chui xuống đáy. Khi nào không có dòng chảy thì đứng yên. Nếu cưỡng lại dòng chảy, vạn vật sẽ khô kiệt. Nếu vạn vật khô kiệt, thế gian này sẽ tôi đen. "Tôi là anh ta / Anh ta là tôi / Sấm tối mùa xuân". Khi ta xả bỏ cái tôi thì có cái tôi.
- Hiện thời có phải là lúc không có dòng chảy không? - Kumiki hỏi.
- Gì kia?
- HIỆN THỜI CÓ PHẢI LÀ LÚC KHÔNG CÓ DÒNG CHẢY KHÔNG? - Kumiko gào to lên.
- Hiện thời thì không có, - ông Honda vừa nói vừa gật đầu với chính mình. - Hiện thời là lúc cần phải đứng yên. Chớ làm gì cả. Chỉ cần thận trọng về nước nôi. Biết đâu trong tương lai anh bạn trẻ này rồi sẽ phải nếm mùi thống khổ mà chuyện đó có liên quan đến nước. Nước không nằm ở nơi lẽ ra nó nằm. Nước hiện diện ở nơi lẽ ra không có nó. Dù thế nào đi nữa, các con phải thận trọng, hết sức thận trọng về chuyện nước.
Kumiko ngồi canh tôi, gật gù với vẻ vô cùng nghiêm trọng, nhưng tôi thấy rõ nàng đang cố kìm để không phá lên cười.
- Ông muốn nói loại nước gì kia ạ? - tôi hỏi.
- Ông không biết. Nước là nước thôi.
Trên tivi một giáo sư đại học nào đó đang nói rằng việc người ta sử dụng ngữ
pháp tiếng Nhật một cách bừa bãi là hoàn toàn tương ứng với sự bừa bãi trong lối sống của họ. "Dĩ nhiên, nói đúng ra, chúng ta không thể gọi là bừa bãi. Ngữ pháp cũng như không khí: ai đó ở trên có thể ra sức định ra những quy tắc cho việc sử dụng nó, nhưng người ta không nhất thiết phải nghe theo". Nghe thì cũng thú, nhưng ông Honda vẫn tiếp tục nói về nước.
- Nói thật với các con, ông đã từng phải chịu khốn khổ vì nước- ông nói. - Ở Nomonhan hoàn toàn không có nước. Tiền tuyến thì hỗn loạn, nguồn tiếp tế bị cắt. Nước không. Lương thực không. Bông băng không. Đạn dược không. Thật khủng khiếp. Các vị tai to mặt lớn ngồi ở hậu phương chỉ quan tâm một điều: chiếm đất càng nhanh chóng càng tốt. Chẳng ai nghĩ đến việc tiếp tế. Suốt ba ngày trời ông hầu như không có một giọt nước. Trải rộng khăn tay ra, đến sáng nó sẽ đẫm sương. Vắt ra cũng được vài giọt uống, nhưng chỉ có thế. Hoàn toàn không có thứ nước nào khac. Khổ không sao chịu thấu, chỉ muốn chết thôi. Trên đời này chẳng có gì đáng sơ hơn là khát như thế. CHhir muốn lao ra ngoài ăn một viên đạn cho xong. Những người bị trúng thương ở bụng gào thét đòi nước. Vài người phát điên vì khát. Như là địa ngục trần gian vậy. Ngay trước mặt bọn ông là một dòng sông lớn, ai cũng thấy, ăm ắp bao nhiêu là nước, tha hồ uống. Nhưng không thể đến đó được. Giữa bọn ông và dòng sông là một dãy dài dằng dặc những xe tăng Xô Viết kếch xù có súng phóng hỏa. Ở các vị trí xung yếu, súng máy chĩa lên tua tủa trông như những cái gối cắm kim. Các tay bắn tỉa độ hình trên những điểm cao, đêm đêm lại bắn pháo sáng. Lính tráng bọn ông mỗi thằng có độc một khẩu súng trường bộ binh M38 với hai mươi lăm viên đạn. Thế nhưng hầu hết lũ bạn ông đều cố ra bờ sông cho bằng được. Họ không chịu nỗi nữa. Không một ai trở về. Họ chết sạch. Chính vì vật ông mới nói: khi nào cần ngồi yên,hãy ngồi yên.
Ông rút ra một chiếc khăn giấy, xì mũi ầm ĩ, tỉ mẩn khảo sát kết quả thu được rồi mới vò khăn vứt vào sọt rác.
- Đợi cho tới khi dòng chảy bắt đầu thì cũng cam go đấy, - ông nói. - Nhưng hễ đã cần đợi thì phải đợi. Trong khi chờ đợi, hãy làm như mình đã chết.
- Có phải ý ông là tạm thời cháu chết thì hơn? - tôi hỏi.
- Gì kia?
- CÓ PHẢI Ý ÔNG LÀ TẠM THỜI CHÁU CHẾT THÌ HƠN?
- Ừ, thế. " Chết là cách duy nhất / để bạn được bơi tự do / Nomonhan".
Ông còn kể chuyện Nomonhan thêm chừng một tiếng đồng hồ nữa. Chúng tôi chỉ ngồi nghe. Chúng tôi đã được lệnh “nhận lời giáo huấn” của ông, nhưng trong suốt một năm đều đặn đến nhà ông hàng tháng, hầu như ông chẳng bao giờ có lời “giáo huấn” nào để chúng tôi “nhận” cả. Ông hiếm khi bói toán khi có mặt chúng tôi. Trước sau ông toàn kể về trận Nomonhan thôi: nào chuyện một quả đại bác làm vỡ tung nửa hộp sọ viên thiếu úy ở ngay bên cạnh ông, nào chuyện ông nhảy lên một chiếc xe tăng Xô Viết rồi đốt cháy nó bằng một quả cock-tail Molotov(9), nào chuyện họ vây bắt và bắn chết một phi công Xô Viết buộc phải nhảy dù xuống sa mạc. Những câu chuyện ấy đều thú vị, thậm chí rất hấp dẫn, nhưng cái gì cũng vậy, đã nghe đến lần thứ bảy thứ tám rồi thì cũng mất dần vẻ đẹp ban đầu. Mà cũng chẳng phải ông Honda “kể” chuyện. Ông gào lên những câu chuyện ấy thì đúng hơn. Có cảm giác như ông đang đứng bên bờ vực thẳm vào một ngày gió ùn ùn thổi, lấy hết sức bình sinh thét lên với chúng tôi ở bờ vực bên kia. Khác nào ngồi ở hàng ghế đầu một rạp chiếu phim tồi tàn mà xem một bộ phim cũ của Kurosawa(10). Lần nào cũng vậy, ra khỏi nhà ông Honda, vợ chồng tôi ù đặc cả hai tai mất một hồi.
Dẫu vậy, hai chúng tôi – hay ít nhất là tôi - vẫn thích nghe ông Honda kể chuyện. Các câu chuyện đó hầu hết đều đẫm máu, nhưng khi được thốt ra từ miệng một ông lão kề miệng lỗ mặc bộ đồ cũ mèm bẩn thỉu, chi tiết của những trận đánh mất đi vẻ hiện thực mà nghe cứ như cổ tích. Gần nửa thế kỷ trước, đơn vị của ông Honda đã có trận kịch chiến trên một mảnh đất hoang khô cằn trên biên giới Mãn Châu – Mông Cổ. Trước kia tôi hầu như chẳng biết gì về trận chiến Nomonhan, giờ mới được nghe ông già kể. Thế mà đó là một trận chiến thật bi tráng. Hầu như tay không, thế nhưng họ đã đương đầu với lực lượng Xô Viết trang bị cơ giới và mạnh hơn gấp nhiều lần và họ đã bị đè bẹp. Lần lượt từng phân đội bị giết sạch. Một số sĩ quan tự ý ra lệnh cho đơn vị mình rút lui để tránh bị tiêu diệt; thế là cấp trên buộc họ phải tự sát. Nhiều binh sĩ bị quân đội Xô Viết bắt giữ đã từ chối trở về Tổ quốc khi hai bên trao đổi tù binh sau chiến tranh, sợ rằng nếu trở về sẽ phải ra toà vì tội đào ngũ. Những người đó rốt cuộc gửi lại nắm xương mình ở đất Mông Cổ. Còn ông Honda nhờ bị nặng tai nên được giải ngũ trong danh dự, về nhà làm nghề xem bói.
- Trong rủi có may, - ông nói. – Giá như không bị lãng tai thì hẳn ông đã bỏ xác ở Nam Thái Bình Dương rồi. Hầu hết các đơn vị sống sót sau trận Nomonhan đều chịu chung số phận như vậy. Trận Nomonhan là một nỗi nhục cho quân đội Thiên hoàng, thành thử bất cứ ai sống sót sau trận đó đều bị đẩy đến những nơi chiến địa ác liệt nhất, khác gì vào chỗ chết. Còn các sĩ quan tham mưu đã làm bao nhiêu binh lính chết như rạ ở Nomonhan kia thì lại thăng quan tiến chức lên bộ tham mưu trung ương. Một vài tên khốn nạn trong lũ đó thậm chí còn trở thành chính trị gia sau chiến tranh. Còn những chàng trai đã xông pha chiến đấu theo lệnh chúng thì hầu như chết sạch.
- Nhưng tại sao quân đội lại cảm thấy nhục nhã đến thế vì trận Nomonhan? – tôi hỏi. – Quân đội đã chiến đấu anh dũng, rất nhiều người đã hy sinh kia mà. Tại sao những người sống sót lại bị ngược đãi đến vậy?
Nhưng dường như ông Honda không nghe thấy câu hỏi của tôi. Một lần nữa ông lại đảo mấy cây que bói. – Hãy cẩn thận với nước, - ông nói.
Cuộc trò chuyện đến đấy là chấm dứt.
* * *
Sau cuộc cãi vã om sòm với cha của Kumiko, vợ chồng tôi không đến nhà ông Honda nữa. Tôi không thể tiếp tục đến thăm ông một khi đã biết chi phí cho những chuyến đi này là bố vợ tôi thanh toán, mà vợ chồng tôi thì không có khả năng bỏ tiền túi ra cho mấy khoản đó. Hồi đó hai vợ chồng tôi vất vả lắm mới đắp đổi được qua ngày. Thế là chúng tôi quên bẵng ông Honda, cũng như hầu hết đám thanh niên bận rộn thường lãng quên hầu hết những người già.
* * *
Đêm đó, nằm trên giường, tôi cứ miên man nghĩ mãi về ông Honda. Cả ông lẫn Kano Malta đều nói với tôi về nước. Ông Honda đã cảnh báo tôi cần phải thận trọng. Kano Malta thì đã trải qua những nghi thức khổ hạnh trên đảo Malta liên quan đến việc nghiên cứu của cô ta về nước. Có lẽ ấy chỉ là trùng hợp, nhưng cả hai đều có mối liên hệ sâu xa đến nước. Giờ thì chuyện đó bắt đầu khiến tôi lo âu. Thế rồi hình dung cảnh chiến trường Nomonhan: xe tăng Xô Viết và các ụ súng máy, dòng sông chảy sau lưng họ. Cơn khát không thể nào chịu nổi. Trong bóng tối, tôi nghe tiếng chảy của dòng sông.
- Anh Toru, - Kumiko thầm thì gọi tôi. – Anh còn thức không?
- Ờ.
- Về cái cà vạt ấy mà. Em nhớ ra rồi. Em mang nó đến hiệu giặt từ hồi tháng Chạp cơ. Nó nhàu cả rồi, cần phải là. Chắc là em quên lấy.
- Tháng Chạp cơ à? Thế là nửa năm rồi còn gì hở Kumiko!
- Em biết. Anh cũng biết đó, thường thì em có thế đâu. Em chả bao giờ quên gì cả. Với lại, cái cà vạt ấy đẹp thế kia mà. – Nàng đặt tay lên vai tôi. – Em mang nó đến hiệu giặt gần nhà ga ấy. Anh thử nghĩ xem họ có còn giữ không?
- Mai anh sẽ tới đó. Chắc là vẫn còn.
- Sao anh lại nghĩ vậy? Sáu tháng rồi chứ có ít đâu. Hầu hết các hiệu giặt đều thanh lý tất cả những thứ không có người nhận trong vòng ba tháng. Họ có quyền làm thế. Luật là vậy mà. Sao anh lại nghĩ nó vẫn còn ở đó?
- Kano Malta bảo anh sẽ tìm thấy nó. Nhưng không phải ở trong nhà.
Tôi cảm thấy nàng nhìn tôi trong bóng tối.
- Vậy là anh tin cô ấy?
- Anh đang bắt đầu tin.
- Chả mấy chốc nữa anh và anh trai em sẽ có thể nhìn mặt nhau cho mà xem, - nàng nói, giọng nhuốm vẻ hài lòng.
- Chuyện gì cũng có thể, - tôi nói.
Sau khi Kumiko đã ngủ, tôi vẫn miên man nghĩ về chiến trận Nomonhan. Lính tráng đều đang ngủ. Bầu trời trên đầu chi chít những sao, cơ man nào là dế kêu ra rả. Tôi nghe tiếng dòng sông. Đang lắng nghe tiếng chảy của dòng sông thì tôi ngủ thiếp đi.
_______________________________
5. Đạo quân Quan Đông: một đơn vị của quân đội hoàng gia Nhật. Tên gọi này đặt theo tên nơi đạo quân đồn trú là bán đảo Quan Đông. Đại bản doanh đặt tại Tân Kinh (Hsinching hay Xinjing, nay là thành phố Trường Xuân (Changchun), tỉnh Cát Lâm (Jilin), đông bắc Trung Quốc). Là một trong các đơn vị lớn và có uy tín nhất của quân đội hoàng gia Nhật. Nhiều nhân vật cao cấp của đạo quân này được cất nhắc lên những vị trí cao trong cả quân đội và chính phủ dân sự, như Đại tướng Tojo Hideki sau trở thành Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng cho tới khi Nhật bại trận năm 1945 – ND.
6. Một ngôi làng ở Mông Cổ (tên đầy đủ là Nomon-Han-Burd-Obo), trong thập niên 30-40 của thế kỷ 20 ngay gần ngôi làng này là biên giới giữa Mông Cổ với quốc gia bù nhìn Mãn Châu Quốc do Nhật dựng lên và giật dây. Mùa hè năm 1939, tại vùng này đã diễn ra cuộc xung đột vũ trang lớn giữa quân đội hỗn hợp Liên Xô – Mông Cổ với một phần đạo quân Quan Đông của Nhật đồn trú tại Mãn Châu. Sự kiện này được giới sử học gọi là “sự biến Nomonhan”, riêng tại Liên Xô (cũ) và Nga, nó được gọi là “cuộc chiến ở Khalkhin - Gol”. Theo BTN.
7. Nguyên tác: kotatsu, thiết bị dùng để sưởi ấm trong nhà người Nhật, gồm một chiếc bàn thấp, ở dưới bàn là lò sưởi, phía trên bàn phủ mền (futon). Ngày xưa lò sưởi đặt ở dưới sàn nhà, đốt bằng than. Ngày nay bàn sưởi kotatsu có thiết bị sưởi ấm – dùng bóng đèn hoặc cắm điện – ngay dưới mặt bàn – ND.
8. Tokonoma: hốc tường trong căn nhà truyền thống của người Nhật, nơi trưng bày hoa, thư pháp hoặc các vật phẩm trang trí khác – ND.
9. Biệt danh của loại bom đơn giản, cầm tay, sử dụng chất nổ tự tạo - thường là xăng trộn thêm một số chất khác. Đặt theo tên của Vyacheslav Mikhailovich Molotov, một chiến sĩ cách mạng Bônsevich, người sáng chế ra loại vũ khí này vào năm 1906 – ND.
10. Kurosawa Akira (1910 -1998): đạo diễn điện ảnh lừng danh Nhật Bản, tác giả những bộ phim kinh điển quen thuộc với nhiều người Việt Nam như Rashomon, Bảy võ sĩ đạo, Rao v.v .. – ND.
5
Nghiền kẹo chanh
*
Chim không bay, giếng không nước
Ăn sáng và rửa bát xong, tôi đạp xe đến tiệm gặt nhần nhà ga. Chủ tiệm, một người đàn ông gầy gò xấp xỉ năm mươi tuổi, trán hằn sâu những nếp nhăn, đang nghe băng hòa tấu Phiên chợ Ba Tư phát từ một chiếc máy nghe nhạc đặt trên giá. Đó là một chiếc JVC to đùng có thêm vài chiếc loa trầm, bên cạnh là một đống băng cátxét. Dàn nhạc đang chơi Chủ đề Tara, phần tráng lệ nhất của nhóm đàn dây. Chủ nhân đang ở sâu trong tiệm, vừa huýt sáo theo điệu nhạc vừa là sơ mi bằng một chiếc bàn là hơi, động tác của ông ta vừa sắc gọn vừa mạnh mẽ. Tôi đến gần quầy, vừa thông báo vừa xin lỗi cho đúng phép rằng hồi cuối năm ngoái tôi có mang đến tiệm một chiếc cà vạt nhưng quên lấy. Với cái thế giới nhỏ bé bình yên của ông ta lúc 9 giờ rưỡi sáng thế này, lời thông báo của tôi chẳng khác nào sự xuất hiện một sứ giả mang theo hung tin trong bi lịch Hy Lạp.
- Chắc không còn biên lai phải không? – ông ta nói bằng giọng là lạ, xa vắng. ông ta không nói với tôi mà hướng về phía tấm lịch trên tường bên cạnh quầy. Trên trang lịch tháng Sáu là dãy Alpes – thung lũng xanh, đàn bò gặm cỏ, một đám mây trắng sắc cạnh đang trôi qua đỉnh Mont Blanc, đỉnh Matterhorn hay đỉnh gì gì đó. Thế rồi ông ta nhìn tôi, vẻ mặt như muốn nói: “Đã quên bẵng cái cà vạt chết giẫm kia lâu đến thế thì sao không quên phứt luôn cho xong!’. Cái nhìn đó thẳng thừng và thật hùng hồn.
- Từ cuối năm ngoái kia à? Gay đấy. Hơn sáu tháng rồi còn gì. Thôi được, tôi sẽ tìm xem, nhưng không chắc là có đâu.
Ông ta tắt bàn là, đặt lên giá là, rồi vừa huýt sáo theo giai điệu Một chốn hè vừa lục lọi ở phòng trong.
Bộ phim Một chốn hè tôi đã xem cùng bạn gái từ hồi trung học. Diễn viên chính là Troy Donnahue và Sandra dee. Chúng tôi xem một suất chiếu kép – ngoài phim kia ra còn xem cả Đuổi theo bọn trẻ của Connie Francis. Phim thì làng nhàng thôi, song lúc này đây, mười ba năm sau, nghe lại bản nhạc trong bộ phim, tôi chỉ nhớ lại những kỷ niệm ngọt ngào ngày đó.
- Cà vạt xanh dương chấm hạt đỗ phải không? Tên là Okada.
- Đúng rồi, - tôi nói.
- Ông gặp may đấy.
Về nhà xong tôi gọi ngay cho Kumiko. – Tìm ra cái cà vạt rồi, - tôi nói.
- Thật không thể tin được ! Anh cừ lắm, - nàng nói.
Lời khen nghe khá máy móc, kiểu như à mẹ khen con trai đi học về khoe điểm cao. Điều đó làm tôi thấy không thoải mái. Lẽ ra tôi đợi đến giờ nghỉ trưa hẵng gọi thì hơn.
- Em nhẹ cả người. Nhưng em đang nói chuyện dở với người khác. Xin lỗi nhé. Trưa anh gọi lại được không ?
- Ừ, anh sẽ gọi, - tôi nói.
Gác ống nghe xong, tôi cầm tờ báo ra ngoài hiên. Cũng như mọi khi, tôi nằm sắp, trải rộng trước mặt các trang quảng cáo tuyển dụng, nhẩn nha đọc từ đầu chí cuối, các cột báo đầy những mật mã và ký hiệu lạ lùng. Còn thứ nghề nào mà trên đời này không có! Mỗi nghề đều được phân một ô giữa những hàng chữ đều tăm tắp của trang báo, cứ như trong bản đồ nghĩa địa.
Cũng như mỗi sáng, tôi lại nghe con chim vặn dây cót đang vặn dây cót đâu đó trên ngọn cây. Tôi gấp báo, ngồi tựa lưng vào một thanh cột hàng hiên, nhìn ra vườn. Chẳng mấy chốc con chim lại cất tiếng kêu ken két lần nữa, từ trên ngọn thông nhà hàng xóm. Tôi căng mắt nhìn qua những cành cây, nhưng chẳng thấy chim đâu, chỉ nghe thấy tiếng kêu. Cũng như mọi khi. Vậy là thế gian đã được lên dây cót cho ngày mới.
Ngay trước 10 giờ, trời đổ mưa. Mưa không to. Những hạt mưa mịn đến nỗi khó lòng biết chắc có mưa hay không, nhìn kỹ mới thấy mưa. thế giới tồn tại dưới hai trạng thái; mưa và không mưa. Giữa hai trạng thái đó hẳn phải có đường phân giới. tôi ngồi ngoài hiên thêm một lát mà nhìn chăm chăm vào đường phân giới đó, cái đường lẽ ra phải có ở đây.
Tôi nên làm gì từ giờ đến trưa nhỉ? Đi bơi ở hồ bơi gần nhà hay ra ngõ tìm con mèo? Tựa vào cột hàng hiên, nhìn mưa rơi trong vườn, tôi cứ phân vân giữa hai đằng.
Hồ bơi.
Con mèo.
Con mèo thắng. Kano Malta đã nói con mèo không còn lai vãng quanh hàng xóm nữa. Nhưng sáng hôm đó tôi cảm thấy một nỗi thôi thúc khó cắt nghĩa rằng mình phải tới đó tìm con mèo. Lùng con mèo đã thành một phần cuộc sống hàng ngày của tôi. Hơn nữa Kumiko hẳn sẽ hài lòng nếu biết tôi đã thử tìm thêm lần nữa. Tôi khoác chiếc áo mưa nhẹ. Tôi quyết định không cầm ô. Tôi mang giày tennis rồi ra khỏi nhà, trong túi áo khoác là chìa khóa nhà với mấy cái kẹo chanh. Tôi băng qua khoảnh sân, nhưng khi tôi đặt một bàn tay lên bức tường bê tông thì điện thoại reo. Tôi đứng yên, căng tai nghe, nhưng không thể nhận ra đó là điện thoại nhà mình hay nhà hàng xóm. Ngay khi mình ra khỏi nhà thì điện thoại nào reo nghe cũng như nhau. Tôi phẩy tay chịu thua và trèo qua tường.
Tôi cảm thấy mặt cỏ mềm mại qua lớp đế mỏng của đôi giày tennis. Ngõ tĩnh mich hơn mọi khi. Tôi đứng yên một lát, nìn thở lắng nghe, nhưng chẳng có âm thanh nào. Điện thoại đã ngừng reo. Không nghe tiếng chim, cũng chẳng nghe tiếng động ngoài phố. Bầu trời trên đầu tuyền một màu xám. Vào những ngày như thế này, những đám mây dường như nuốt chửng mọi âm thanh từ mặt đất. Không chỉ âm thanh mà cả mọi vật. Cảm giác chẳng hạn.
Thọc hai tay vào túi áo mưa, tôi luồn vào ngõ hẹp. Chỗ nào những chiếc sào phơi quần áo nhô ra giữa lối đi thì tôi lách mình giữa các bức tường. Tôi băng qua ngay bên dưới mái hiên những căn nhà khác. Cứ thế tôi lặng lẽ lần theo cái lối đi tựa như con kênh bị bỏ hoang. Đôi giày tennis của tôi bước trên mặt cỏ không một tiếng động. Âm thanh duy nhất tôi nghe thấy trong đoạn hành trình ngắn của mình là tiếng radio phát ra từ nhà nọ. Đài đang phát một chương trình kiểu như “gỡ rối tơ lòng” cho những người gọi điện đến. Một ông trung niên than phiền với người dẫn chương trình về bà mẹ vợ của mình. Tôi nghe câu được câu chăng, đâu như bà ta đã sáu mươi tám tuổi nhưng vẫn máu mê đua ngựa. Khi tôi đã đi qua căn nhà dó, tiếng radio nhỏ dần đến khi không còn gì nữa, dường như cái đang dần dần biến vào hư vô kia không chỉ là tiếng radio mà cả ông trung niên và bà mẹ vợ nghiền đua ngựa của ông ta, cả hai phải đang tồn tại ở đâu đó trên thế giới này.
Cuối cùng tôi cũng đến chỗ căn nhà trống. Nó vẫn đứng nguyên đấy, lặng ngắt mọi khi. Trên nền trời xám trĩu nặng, căn nhà hai tầng với những cánh cửa đóng im ỉm trồi lên đen thẫm. Nó trông như một con tàu chở hàng khổng lồ đâm vào đá trong một đêm bão táp đã từ lâu lắm và bị thủy thủ đoàn bỏ rơi cho đến mục rửa dần. Nếu không có lớp cỏ mọc cao hơn kể từ lúc tôi tời đây lần trước thì có thể tin rằng riêng tại nơi này thời gian đã ngừng lại. Nhờ mưa rơi liên tục nhiều ngày qua, những nhánh cỏ óng ánh màu xanh thẫm, dậy lên mùi hương hoang sơ rất đặc trưng cho những gì cắm rễ sâu vào đất. Ngay giữa cái biển cỏ này là bức tượng chim, trong chính cái tư thế tôi đã thấy trước đây, dang rộng cánh như sẵn sàng nbay vút lên. Dĩ nhiên, đây là con chim không bao giờ có thể cất cánh. Tôi biết điều đó, con chim cũng biết. Nó sẽ cònphải đứng đó đợi cho tới ngày bị lôi đi nơi khác hoặc đập ra thành từng mảnh. Không còn khả năng nào khác để nó rời bỏ được khu vườn này. Vật duy nhất chuyển động nơi đây là một con bướm nhỏ màu trắng lượn trên cỏ, một con bướm ra đời hơi muộn, mấy tuần sau khi mùa bướm đã qua. Nó tiến về phía trước một cách ngập ngừng, như một người đang tìm kiếm mà chẳng nhớ mình tìm gì nữa. Sau năm phút săn tìm không hiệu quả, con bướm bay đâu mất.
Tôi mút một cái kẹo chanh., tựa lưng vào hàng rào mắt cáo mà ngắm khu vườn. Chẳng có dấu hiệu gì của mèo. Chẳng có dấu hiệu của bất cứ cái gì. Chốn này như một cái ao tù mà dòng chảy đã bị một sức mạnh to lớn nào đó hãm lại.
Tôi cảm thấy có ai đó sau lưng, liền ngoái lại. Nhưng nào thấy ai. Chỉ có hàng rào bên kia ngõ, cái cổng nhỏ trong hàng rào, nơi cô gái kia đã đứng. Nhưng lúc này cổng đóng, trong sân không một bóng người. Mọi vật ẩm ướt và câm lặng. Chỉ dậy mùi. Mùi cỏ. Mùi mưa. Mùi áo mưa tôi. Mùi cái kẹo chanh đã tan một nửa trong miệng. Tôi hít một hơi dài, thế là tất cả các mỳùi nhập vào nhau làm một. Tôi quay lại kiểm tra xung quanh mình lần nữa, nhưng chẳng có ai.. Lắng tai nghe, tôi bắt được tiếng đùng **c của cánh quạt trực thăng ở xa xa. Ai kia đang ngồi trên đó, bay trên những đám mây. Nhưng ngay cả âm thanh đó cũng lặng dần, tĩnh mịch lại bao trùm.
Rào mắt cáo bao quanh ngôi nhà không người ở có một cánh cổng cũng mắt cáo. Tôi thử đẩy. Nó mở ra dễ dàng đến mức hầu như khiến mình mất hứng, như thể nó giục tôi vào vậy. “Không sao đâu, cứ đi thẳng vào”, dường như nó bảo tôi thế. Tuy nhiên, không cần phải học luật tám năm trời tôi cũng biết rằng đường đột vào nhà người khác, cho dù nhà không người ở, là phạm pháp. Nếu một người hàng xóm phát hiện thấy tôi trong căn nhà không người ở và báo cảnh sát, họ sẽ xộc tới tra hỏi ngay. Tôi sẽ nói rằng tôi đi tìm mèo; nó đi đâu mất, tôi đang tìm nó khắp các nhà hàng xóm. Họ sẽ yêu cầu cho biết địa chỉ và nghề nghiệp. Tôi sẽ phải bảo họ tôi đang thất nghiệp.Họ sẽ chỉ càng nghi ngờ hơn. Gần đây cảnh sát đang lo sốt vó về những tên khủng bố cánh tả; họ đinh ninh rằng chúng nhan nhản khắp nơi ở Tokyo, chúng giấu hàng kho súng và lựu đạn tự chế. Họ sẽ gọi điện đến văn phòng Kumiko để kiểm chứng những gì tôi nói. E rằng Kumiko sẽ rất buồn phiền.
Thế nhưng tôi vẫn vào. Vào rồi khép cổng lại sau lưng. Chuyện gì tới, cứ tới. Nếu chuyện gì đó muốn xảy ra, cứ để nó xảy ra.
Tôi băng qua vườn, nhìn kỹ xung quanh. Đôi giày tennis của tôi giẫm lên cỏ vẫn êm ru như mọi khi. Có vài cây ăn trái thâm thấp mà tôi không biết tên, và một bãi cỏ khá rộng. Cỏ đã mọc qua cao, trùm lấp mọi thứ. Những dây trường xu6n xấu xí bò kín lên hai trong số cây ăn quả như thể muốn siết cho chết ngạt. hàng cây bụi dọc bờ rào đã biến thành màu trắng ma quái do bị phủ một lớp trứng côn trùng. Một con ruồi nhỏ ngoan cố kêu vù vù bên tai tôi hồi lâu.
Băng qua bức tượng đá, tôi đi đến chỗ một chồng ghế nhựa trắng dưới mái hiên. Chiếc gjế trên cùng bụi đóng dày, nhưng chiếc ngay bên dưới thì không đến nỗi quá bẩn. Tôi lấy tay phủi bụi rồi ngồi lên. Cây dại mọc um tùm giữa nơi này với hàng rào khiến người ta không thể nhìn thấy tôi từ ngoài ngõ, hàng hiên thì cho tôi trú mưa. Tôi ngồi, vừa huýt sáo vừa ngắm khu vườn đang hứng cơn mưa lâm thâm. Thoạt tiên tôi không biết mình đang huýt sáo bản gì, nhưng rồi tôi nhận ra đó là giai điệu vở Chim ác là ăn cắp của Rossini, chính giai điệu mà tôi đang huýt sáo khi người đàn bà kỳ lạ nọ gọi điện lúc tôi đang nấu dở món spaghetti.
Ngồi trong vuờn thế này, chung quanh không có một ai, nhìn bãi cỏ và con chim đá, huýt sáo (tồi) một giai điệu, tôi có cảm giác mình trở lại thời thơ ấu. Tôi đang trốn ở một nơi không ai nhìn thấy được. Điều đó khiến tôi yên lòng. Tôi thấy như mình vừa ném một hòn đá- nhỏ thôi cũng được – vào cái đích nào đó. Con chim đá hẳn là một cái đích tốt. Hòn đá sẽ đập vào con chim vừa đủ mạnh để nghe một tiếng “cạch” nhỏ. Hồi nhỏ tôi rất hay chơi một mình như vậy. Tôi dựng một cái hộp rỗng, lùi lại, ném đá vào cho đến khi hộp đầy. Tôi có thế chơi như vậy hàng giờ. Tuy nhiên, lúc này dưới chân tôi chẳng có hòn đá nào. Thì thôi vậy. Trên đời này có chốn nào để mình cần gì là có nấy đâu.
Tôi co chân lại, gập đầu gối, kê cằm lên bàn tay. Rồi tôi nhắm mắt. Vẫn tuyệt không tiếng động. Bóng tối đằng sau đôi mí mắt khép lại của tôi giống như một bầu trời đầy mây., chỉ có điều màu xám sẫm hơn. Cứmỗi năm phút ai đó lại đến tô lên màu xám đó một màu xám có sắc độ khác đi một chút, pha chút vàng, xanh lục hoặc đỏ. Tôi ngạc nhiên thấy màu xám lại có nhiều sắc độ đến vậy. Chỉ cần ngồi yên nhắm mắt khoảng mười phút thôi là sẽ mở ra vô vàn sắc độ màu xám ấy.
Trong khi lần giở cuốn sách gồm các mẫu màu xám ấy, tôi lại bắt đầu huýt sáo, trong đầu không nghĩ đến một điều gì.
- Này, - ai đó nói.
Tôi mở bừng mắt. Tựa người lên một tay, tôi nhổm dậy cố nhìn thấy cánh cổng qua ngọn các bụi cây. Cổng mở. Mở toang. Ai đó đã theo tôi vào vườn. Tim tôi đập thình thịch.
- Này, - ai đó lại lên tiếng. Giọng nữ. Người đó bước ra từ sau bức tượng và bước về phía tôi. Đó à cô bé đã tắm nắng trong sân phía bên kia ngõ. Cô bé vẫn mặc áo phông hiệu Adidas màu xanh nhạt và quần soóc. Và cô ta vẫn đi hơi khập khiễng. Điều duy nhất khác lần trước là cô ta đã gở kính râm.
- Anh làm gì ở đây? – cô ta hỏi.
- Đi tìm con mèo, - tôi đáp.
- Thật không đấy? Em có thấy thế đâu. Anh chỉ ngồi đây mà huýt sáo, mắt thì nhắm tịt lại. Ai lại đi tìm con mèo kiểu ấy?
Tôi cảm thấy mình đỏ mặt.
- Với em thì thế nào cũng được, - cô nói tiếp, - nhưng nhỡ ra ai đó không biết anh mà nhìn thấy anh, họ sẽ nghĩ anh là một tên đồi bại. Anh không phải là kẻ đồi bại chứ?
- Chắc là không, - tôi đáp.
Cô bé lại gần, săm soi rất kỹ chồng ghế nhựa rồi chọn một chiếc không quá bẩn, lại nghiên cứu cẩn thận thêm hồi nữa rồi mới đặt nó xuống cỏ mồi ngồi lên.
- Mà anh huýt sáo thì thật kinh quá, - cô nói. – Em không biết là bản gì, nhưng chả có giai điệu gì sất. Anh không phải là gay ấy chứ ?
- Chắc là không. Sao em hỏi vậy ?
- Có người bảo em dân gay huýt sáo rất tồi. Có đúng không ?
- Ai biết được ?
- Nhưng dù anh có là gay hay kẻ đồi bại thì với em cũng thế thôi. Mà này, tên anh là gì ? Em chả biết gọi anh thế nào cả.
- Okada Toru.
Cô bé nhẩm lại cái tên tôi mấy lần.
- Tên cũng làng nhàng thôi phải không ?
- Nói thế nào nhỉ ? Lúc nào anh cũng nghĩ tên mình nghe như tên của ông Bộ trưởng Ngoại giao thời trước chiến tranh : okada. Đúng không ?
- Chuyện đó có nói em cũng chẳng hiều gì đâu. Sử là môn em chúa ghét; em học môn ấy kém nhất mà. Nhưng thôi. Mà này, anh có biệt danh nào không ? cái tên nào dễ hơn là Okada Toru ấy ?
Tôi không nhớ nổi mình đã bao giờ có biệt danh hay chưa. Cả đời chưa một lần nào. Sao thế nhỉ ?
- Anh chả có biệt danh nào cả, - tôi đáp.
- Không hề cơ á ? « Gấu » chẳnghạn ? hay « Ếch » ?
- Không.
- Thôi thì nghĩ ra cái tên nào đó vậy ?
- Chim vặn dây cót, - tôi nói.
- Chim vặn dây cót ? – cô bé há hốc mồm nhìn tôi. – Nó là giống gì vậy ?
- - Con chim vặn dây cót ấy mà, - tôi nói. – Sáng nào nó cũng vặn dây cót trên ngọn cây. Nó vặn dây cót mùa xuân thời gian. Két...két...
Cô bé vẫn nhìn tôi trân trân.
Tôi thở dài.
- Chợt nảy ra trong đầu anh thế thôi, - tôi nói. - Chẳng nghĩ được gì hơn. Con chim ấy ngày nào cũng bay qua nhà anh rồi đậu lên ngọn cây nhà hàng xóm mà kêu Kétkéééét. Nhưng chẳng ai nhìn thấy nó cả.
- Thôi cũng được. Em sẽ gọi anh là Chim vặn dây cót. Gọi cũng líu lưỡi chứ chẳng không, nhưng so với Okada Toru thì vẫn tốt chán.
- Cám ơn em.
Cô kéo chân lên ghế, tựa cằm lên hai đầu gối.
- Còn em tên gì ? – tôi hỏi.
- Kasahara May. May... như là tháng Năm trong tiếng Anh ấy mà.
- Em sinh vào tháng Năm à?
- Còn phải hỏi! Có ai sinh vào tháng Sáu mà tên là tháng năm, thiên hạ họ cười cho.
- Em nói có lý. Chắc em vẫn chưa đi học?
- Em ngắm anh từ lâu lắm rồi, - cô đáp, lờ đi câu hỏi của tôi. - Từ phòng em. Em dùng ống nhòm. Em thấy anh đi qua cổng. Em luôn có một cái ống nhòm trong tầm tay, để quan sát những gì xảy ra trong ngõ. Chắc là anh không biết: ở đây ó đủ loại người lai vãng. Mà không chỉ người. Cả thú vật nữa. nãy giờ ở đây một mình anh làm cái gì vậy?
- Có gì đâu? Thư giãn một chút. Ngẫm ngợi về quá khứ. Huýt sáo.
Kasahara cắn móng tay.
- Anh lạ lắm, - cô nói.
- Anh chả có gì lạ cả. Ai người ta cũng làm vậy.
- Có thể, nhưng chẳng ai lại đi sang nhà hàng xóm để làm việc ấy ngoài anh ra. Nếu muốn thư giãn, nhớ về quá khứ và huýt sáo thì ngồi ở vườn nhà mình cũng được mà.
Cô ta hoàn toàn có lý.
- Này, thế Wataya Noburu vẫn chứ về nhà à ?
Tôi lắc đầu.
- Chắc là sau hôm trước em cũng không thấy nó lần nào phải không ?
- Không, em cũng đang tìm nó đây. Mèo nâu, vằn như lông cọp, chóp đuôi hợi quặp, đúng không ?
Cô ta rút trong túi quần ra một gói Họp rồi châm một điếu. Rít vài hơi xong, cô nhìn thẳng vào tôi mà nói :
- Dạo gần đây anh có rụng tóc một chút phải không ?
Tay tôi bất giác đưa lên vuốt phía sau đầu.
- Không phải ở đó, đồ ngốc. Tóc đằng trước kia mà. Anh có nhận thấy là nó mọc cao hơn bình thường một ít không ?
- Anh chả thấy gì cả.
- Em thì có. Anh sẽ bị hói ở chỗ đó đấy. Tóc trên trán anh ngày càng lùi lên cao hơn, như thế này này. – Cô túm một nắm tóc của trán mình mà kéo ngược ra sau rồi chìa cái trán trần trụi ra trước mặt tôi. – Anh phải để ý đấy.
Tôi sờ vào tóc trước trán mình. Có lẽ cô ta nói đúng. Có thể tóc đã lùi lên phía trên một chút. Hay tôi chỉ tưởng tượng ra thế ? Lại thêm chuyện để lo đây.
- Ý em là sao ? Để ý nghĩa là thế nào ?
- Thật ra có để ý cũng không làm gì được. Chẳng có cách nào ngăn được chứng hói. Những ai mà số trời đã bắt phải hói thì đến lúc là hói thôi. Chẳng cách nào ngăn được. Người ta nói có thể ngừa được chứng hói bằng cách dưỡng tóc này nọ, nhưng toàn vớ vẩn thôi. Anh đi mà xem mấy gã cầu bơ cầu bất ngù ngoài ra Shinjuku ấy : thằng nào thằng nấy tóc thôi là tóc, có đứa nào hói đâu. Anh tưởng là ngày nào chúng cũng gội đầu bằng Clinique hay Vidal Sassoon hoặc xức tóc bằng Lotion X chắc ? Đó là bọn sản xuất mỹ phẩm nói để moi tiền anh thôi.
Lời của cô gây cho tôi ấn tượng mạnh.
- Chắc em nói đúng. Nhưng sao em biết nhiều về chuyện hói thế ?
- Lâu nay em vẫn làm bán thời gian cho một công ty tóc giả mà. Anh biết đó, em không đi học nên có ối thời gian rảnh. Em đi điều tra, lấy ý kiến khách hàng, những việc kiểu như thế. Thành thử em biết hết về quý ông hói. Em nạp đầy ắp thông tin rồi còn gì.
- Chà !
- Nhưng anh biết không, - cô vừa nóu vừa buông mẩu đầu thuốc xuống đất rồi dí chân lên, - ở công ty em làm việc ấy, người ta cấm mình gọi bất cứ ai là «hói». phải gọi là «người đang có chứng thưa tóc». «Hói» là một từ có tính phân biệt đối xử. Có lần em đùa, đề nghị gọi là «quý ông có cái đầu đang bị hoang hóa», ấy thế mà họ nổi trận lôi đình, trời ạ! «Chả có gì đáng đùa ở đây, cô bé ạ», họ nói. Chao, sao mà họ nghiêêêm trọọọng thế. Anh có thấy không ? Thế giới này ai người ta cũng nghiêm trọng đến chết đi được.
Tôi móc kẹo chanh ra khỏi túi, ném một viên vào mồm, đưa một viên khác cho Kasahara May. Cô lắc đầu và lại rút ra một điếu thuốc.
- Nghe này Chim vặn dây cót, - cô nói. – Anh đang thất nghiệp. Chưa tìm được việc nào à ?
- Vẫn chưa.
- Anh thực sự muốn có việc làm đàng hoàng chứ ?
- Có chứ, - lời nói thốt khỏi mồm, tôi lại tự hỏi có thật là vậy không. - Thực ra anh không biết. Chắc anh cần thêm thời gian. Thời gian đề suy nghĩ. Chính anh cũng không biết mình cần gì. Điều đó khó giải thích.
Kasahara May vừa nhăn móng tay vừa nhìn tôi một hồi.
- Này Chim vặn dây cót, em bảo. Hôm nào đấy anh đi làm với em đi. Ở công ty tóc giả ấy. Lương họ trả không cao, nhưng công việc nhàn hạ, với lại giờ giấc làm việc do tự mình thu xếp. Anh bảo thế nào ? Đừng cả nghĩ làm gì, cứ thử xem. Gọi là thay đổi không khí. Biết đâu nó lại chẳng giúp anh suy xét được sáng suốt về mọi chuyện khác.
Cô ta có lý.
- Em có lý, - tôi nói.
- Hay lắm ! – cô nói. - lần sau em đi, em sẽ đón anh đi cùng. Nhà anh ở đâu ?
- Chà, khó nhỉ. Mà cũng chẳng khó. Em chỉ cần đi dọc theo ngõ, rẽ mấy lần, cho đến khi thấy ở bên trái có một cái nhà mà trong sân sau có một chiếc Honda Civic màu đỏ. Trên thanh hãm xung của xe có miếng băng dính ghi hàng chữ «Hòa bình cho mọi người trên trái đất». Nhà anh ở ngay kế bên, nhưng không có cổng mở ra ngõ. Chỉ có một bức tường bê tông, em sẽ phải trèo qua. tường cũng thấp, cỡ ngang cằm anh thôi.
- Đừng lo, tường cỡ ấy thì em trèo qua được.
- Chân em còn đau không ?
Cô phà ra một bụm khói thuốc, lẫn theo một tiếng thở dài.
- Anh đừng lo. Chả sao cả. Em đi cà nhắc mỗi khi có mặt bố mẹ vì em không muốn đi học. Em giả vờ ấy mà. Nhưng riết thành quen. Em đi cà nhắc ngay cả khi xung quanh chả có ai, chỉ một mình trong phòng. Em là kẻ cầu toàn mà. Người ta có câu gì ấy nhỉ, «Lừa mình trước rổi hẵng lừa người». Này Chim vặn dây cót, anh có gan không ?
- Không nhiều lắm.
- Chẳng bao giờ có gan cả à?
- Không, anh chưa bao giờ là kẻ có gan cả. Mà cũng chẳng muốn mình khác đi.
- Thế còn tò mò ?
- To mò là chuyện khác. Anh thì có hơi tò mò đấy.
- Anh không nghĩ rằng có gan và tò mò có cái giống nhau à? Có gan thì cũng tò mò, tò mò thì cũng có gan. Không đúng sao?
- Hừm, cũng có thể là giống nhau. Chắc em có lý. Có thể đôi khi tò mò và có gan lại nhập vào nhau làm một.
- Chẳng hạn như khi anh lén vào sân nhà người khác ấy.
- Ừ, kiểu như thế, - tôi vừa nói vừa đảo viên kẹo chanh trên lưỡi. – Khi lẻn vào sân nhà người khác, dường như mình vừa có sự tò mò vừa có cái gan. Đôi khi cái tò mò đẩy cái gan ra khỏi chỗ nấp, thậm chí còn thúc sau lưng buộc cái gan phải chạy. Nhưng cái tò mò thường chóng qua, cái gan thì còn lại lâu. Cái tò mò cũng giống như người bạn vui tính nhưng ta không tin tưởng hoàn toàn được. Nó làm ta thức tỉnh, hưng phấn, rồi lại bỏ ta đi, mặc ta hành động một mình, khi đó ta phải vận hết cái gan có ở trong ta.
Cô ta ngẫm nghĩ về điều đó một lúc.
- Cũng có thể. Đó là một cách nhìn, - cô nói. – này Chim vặn dây cót, anh có muốn thấy cái giếng không?
- Giếng á? – tôi hỏi. - Giếng nào nhỉ?
- Ở đây có một cái giếng cạn. Em thích nó. Ở mức độ nào đó. Anh muốn xem không?
Chúng tôi băng qua sân, đi về phía bên kia căn nhà. Đó lá một cái giếng tròn, đường kính khoảng một mét rưỡi, đậy vừa khít bằng một cái nắp tròn bằng gỗ dày. Có hai tảng bê tông dằn lên nắp giếng giữ cho nó không xê dịch. Thành giếng cao chừng một mét, bên cạnh là một cây già đơn độc, như gã lính canh. Đó là một loại cây ăn trái, nhưng tôi không biết tên.
Cũng như hầuhết những gì gắn liền với căn nhà này, cái giếng trông như đã bị bỏ hoang từ lâu lắm. Nó toát lên một cái gì đó có thể gọi là “sự vô cảm tuyệt đối”. Có cảm giác như chỉ cần ta rời mắt khỏi khung cảnh này, lập tức những vật vô tri sẽ càng vô tri hơn nữa.
Xem xét kỹ, tôi nhận ra rằng thật ra cái giếng này xưa hơn nhiều so với cácvật xung quanh. Hẳn nó đã được đào từ lâu trước khi người ta xây căn nhà này. Ngay cả cái nắp gỗ trông cũng rất cũ xưa. Thành giếng được phủ một lớp bê tông dày, chắc hẳn là để gia cố cho một công trình xây trước đó đã lâu. Cái cây bên cạnh giếng dường như muốn khoe rằng nó đã cómặt ở đó từ xa xưa hơn nhiều so với bất cứ cái cây nào khác ở nơi này.
Tôi đặt một trong hai tảng bê tông xuống đất rồi nhấc một trong hai nửa nắp giếng hình bán nguyệt ra. Tì tay lên thành giếng, tôi khom người nhìn xuống, nhưng chẳng thấy gì dưới đáy. Có thể thấy giếng khá sâu, nửa dưới giếng chìm trong bóng tối. Tôi thử ngửi – nghe thoang thoảng mùi rêu.
- Không có tí nước nào đâu, - Kasahara May nói.
Giếng không nước. Chim không bay. Ngõ không lối ra. Và…
May nhặt một mẩu gạch trên mặt đất rồi ném xuống giếng. Một hồi sau nghe có tiếng động nhỏ, khô khan. Không gì hơn. Âm thanh **c, khô không khốc, dường như có thễ bóp vụn trong bàn tay. Tôi thẳng người lên nhìn Kasahara May.
- Tại sao giếng không có nước nhỉ? Nó tự cạn đi à? Hay ai đó đã lấp lại ?
Cô ta nhún vai.
- Nếu lấp lại thì phải lấp cho đến tận miệng chứ. Ai lại để nguyên một cái hố sâu hoắm thế kia. Nguy hiểm lắm, nhỡ ai ngã vào thì chỉ có chết. Đúng không ?
- Chắc em nói đúng. Có cái gì đó đã làm giếng bị cạn đi.
Bỗng tôi nhớ lại lời ông Honda đã từ lâu lắm. « Nếu đã phải đi lên thì hãy tìm nhọn tháp cao nhất mà trèo lên tới đỉnh. Nếu đã phải đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà tụt xuống tận đáy ». Hóa ra tôi đã tìm thấy giếng đây rồi.
Tôi lại cúi mình trên thành giếng nhìn xuống bóng tối bên dưới., chờ đợi một cái gì không rõ. Tôi nghĩ : vậy là ở một nơi như thế này, lại có một bóng tối sâu hun hút thế kia. Tôi húng hắng ho rồi nuốt. Tôi có cảm giác tiếng ho vọng lại từ bóng tối kia nghe như của người nào khác chứ không phải tôi. Nước bọt của tôi vẫn đượm mùi kẹo chanh.
* * *
Tôi đậy nắp giếng lại rồi đặt tảng bê tông đè lên. Rồi tôi nhìn đồng hồ. gần 11 giờ rưỡi. Đã đến lúc về gọi cho Kumiko trong giờ nghỉ ăn trưa.
- Anh phải về nhà đây, - tôi nói.
Kasahara khẽ cau mày.
- Thế thì đi ngay đi, Chim vặn dây cót. Bay về nhà đi, - cô nói.
Lúc tôi băng qua sân, con chim đá vẫn đang nhìn trời bằng cẵp mắt khô queo. bầu trời vẫn phủ một lớp mây dày xám xịt, không có khe hở nào cho ánh nắng lọt qua, nhưng ít nhất mưa đã tạnh. Kasahara ngắt một búi cỏ ném lên trời. Vì không có gió cuốn đi nên những nhánh cỏ lại rơi lả tả dưới chân cô.
- Từ giờ cho đến khi mặt trời lặn còn bao nhiêu là thì giờ nữa nhỉ, - cô nói mà không nhìn tôi.
- Ừ, còn nhiều, - tôi nói.