(truyện HOÀNG ANH)
Thiên lý bình cân bốc ẩn cư
Tửu hương hoa khí mộng tinh sơ
Lương duyên ưng vị mai hoa đố
Xử sĩ phong lưu chuyển bất như
Huyện Thuận Thiên, tỉnh Hà Bắc, có người họ Mã, tên Tử Tài, có vợ họ Lã, tính rất hiền thục.
Gia tư Tử Tài cũng chỉ vào hàng khá giả, có hai dãy nhà nam bắc, cách nhau một chiếc sân lớn. Mỗi dãy dài chừng bốn chục thước, tiếp giáp với một khu vườn chừng nửa mẫu đất. Khu bắc có trồng hoa cúc còn khu nam thì bỏ hoang.
Ông, cha Tử Tài đều yêu hoa cúc song Tử Tài còn mê hoa cúc hơn cả cha, ông. Tử Tài chỉ trồng hoa cúc để thưởng ngoạn chứ chẳng đem bán bao giờ vì Tử Tài vẫn giữ ý nghĩ cổ truyền của cha, ông, cho việc bán hoa cúc là một việc làm vô liêm sỉ. Hễ nghe nói ở đâu có hoa cúc đẹp là Tử Tài lại lặn lội tìm tới mua, chẳng kể đường xá gần xa, giá cúc đắt rẻ. Vì thế mà gia tư lụn bại dần.
Một hôm, có người khách quen từ thủ phủ Kim Lăng, tỉnh Giang Tô, lên Thuận Thiên có việc, ghé thăm Tử Tài. Trong khi đàm đạo, khách nói có một người bà con ở Kim Lăng mua được hai giống cúc đẹp lắm, không thấy có ở miền bắc. Tử Tài mừng quá, tức khắc vào nhà trong bảo vợ sửa soạn tiền bạc, hành trang để mình theo khách xuống Kim Lăng tìm mua hai giống cúc ấy.
Tới nơi, Tử Tài đưa tiền nhờ người bà con của khách đi mua giùm được hai giò cúc lạ. Tử Tài quý hai giò cúc ấy lắm, chăm sóc như bảo vật.
Hôm sau, Tử Tài biệt khách, đem hai giò cúc về Thuận Thiên. Mới lên ngựa phóng đi được một quãng thì Tử Tài thấy một thiếu niên phong lưu, tuấn tú, cưỡi ngựa theo sau một cỗ xe. Thiếu niên thấy Tử Tài đi cùng đường với mình thì mỉm cười, chắp tay vái chào làm quen, nói:"Ðệ họ Ðào, tên Trọng Túy, quê ở đất Kim Lăng này, còn quý danh là gì, quý quán ở đâu?" Thấy Trọng Túy nói năng lịch sự, tao nhã, Tử Tài chắp tay đáp lễ, nói:"Ðệ họ Mã, tên Tử Tài, quê ở huyện Thuận Thiên tỉnh Hà Bắc" Hỏi:"Dám hỏi túc hạ xuống đây có việc chi?" Ðáp:"Ðệ xuống đây tìm mua hai giống cúc đẹp không thấy có ở miền bắc!" Trọng Túy cười, nói:"Cúc nào là cúc chẳng đẹp, chỉ có người trồng tỉa chẳng biết cách chăm sóc mà thôi!" Rồi thao thao giảng thuyết về cách thức chăm sóc cúc. Nghe xong, Tử Tài mừng lắm, hỏi:"Bây giờ túc hạ đi đâu thế?" Ðáp:"Ðệ theo gia tỉ dọn nhà lên Hà Sóc, phía bắc sông Hoàng Hà!" Hỏi:"Quê túc hạ ở miền nam này, sao lại dọn nhà lên ở miền bắc?" Ðáp:"Tuy chị em đệ quê ở miền nam, song gia tỉ chán cảnh ở đây rồi, muốn dọn nhà lên ở miền bắc!" Tử Tài mừng lắm, nói: "Nếu túc hạ cùng lệnh tỉ chẳng chê đất Thuận Thiên là nơi hoang lậu thì xin mời nhị vị lên tệ xá cư ngụ!" Trọng Túy bèn rong ngựa tới cạnh xe, hỏi vọng vào: "Em vừa làm quen với Mã huynh ở Thuận Thiên, Hà Bắc. Biết chị em mình đang dọn nhà lên Hà Sóc, Mã huynh mời chị em mình lên nhà Mã huynh cư ngụ, chị có thuận không?" Tử Tài chăm chú theo dõi thì thấy một nữ lang tuyệt sắc, tuổi chừng hai mươi, vén rèm xe lên nhìn Trọng Túy, đáp: "Lên đó ở nhờ thì cũng chẳng sao song nhà cửa phải rộng rãi, tuy chẳng cần phải sang trọng!" Nghe thấy thế, Tử Tài vội phóng ngựa tới cạnh xe, nói:" Tệ xá tuy thô lậu song cũng rộng rãi lắm!" Hai chị em bèn quyết định theo Tử Tài lên Thuận Thiên.
Tới nhà, Tử Tài vào nói chuyện với vợ. Lã thị cũng mừng vì có thêm bạn gái mới. Tử Tài bèn ra nói với Trọng Túy: "Vợ chồng đệ cùng lũ gia nhân chỉ ở hết dãy bắc, còn dãy nam thì bỏ trống, xin mời túc hạ cùng lệnh tỉ dọn vào đó cư ngụ!" Trọng Túy mừng lắm, liền dắt chị vào dọn dẹp dãy nam để ở. Rồi hai chị em cùng sang dãy bắc chào Lã thị. Lã thị vồn vã đón tiếp, hỏi nữ lang: "Hiền muội tên chi?" Nữ lang đáp:" Thiếp họ Ðào, tên Hoàng Anh" Thấy Hoàng Anh nói năng lịch sự nhã nhặn, Lã thị quý mến lắm. Khi hai chị em cáo biệt, Lã thị sai gia nhân đem gạo muối và rau thịt sang biếu.
Hôm sau, Trọng Túy sang trồng giùm Tử Tài hai giò cúc mới. Rồi ngày nào Trọng Túy cũng sang chăm sóc vườn cúc cho Tử Tài. Thấy cây nào khô, Trọng Túy liền nhổ lên, chiết cành mới trồng vào chỗ cũ. Vì thế, chỉ ít lâu sau, vườn cúc nhà Tử Tài trông thực tốt tươi đẹp đẽ, khác hẳn khi trước. Tử Tài thầm cám ơn Trọng Túy nên ngày nào cũng giữ Trọng Túy ở lại yến ẩm với mình. Hoàng Anh cũng thường qua dãy bắc kéo tơ, may vá giùm Lã thị nên Lã thị càng quý mến.
Tháng sau. Một hôm Trọng Túy nói với Tử Tài: "Túc hạ vốn chẳng giàu có chi mà ngày nào cũng giữ đệ ở lại yến ẩm, rồi còn sai gia nhân đem gạo muối rau thịt sang cho thì đệ thấy ngại ngùng quá. Ðệ đâu có thể ngồi không mà nhận ân huệ mãi như thế được? Bây giờ đệ tính xoay qua nghề trồng tỉa hoa cúc để bán lấy tiền, tự túc mưu sinh!" Nghe thấy thế, Tử Tài đâm ra khinh khi Trọng Túy, rồi nói thẳng: "Trước kia đệ cứ tưởng túc hạ thuộc hàng cao sĩ, nay nghe nói mới biết cũng chỉ thuộc loại phàm phu. Muốn bán hoa cúc để cầu lợi thì thực là nhục cho hoa cúc lắm!" Trọng Túy cười, nói: "Lấy việc bán hoa cúc làm nghề sinh nhai thì có chi là đáng khinh bỉ? Tuy con người chẳng nên làm giàu một cách bẩn thỉu song cũng chẳng nên cầu nghèo chỉ vì không dám làm một nghề lương thiện!" Tử Tài im lặng. Trọng Túy bèn đứng dậy, cáo biệt. Từ đó, Trọng Túy không sang chăm sóc vườn cúc cho Tử Tài nữa. Tử Tài đành phải chăm sóc lấy một mình, cứ thấy cây nào hơi héo là nhổ lên vứt đi, chất thành đống. Tuy thế, hai bên vẫn chưa đến nỗi tuyệt giao. Thỉnh thoảng Tử Tài vẫn sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang nhà mình đàm đạo.
Trọng Túy về nhà, đánh luống khu nam thành một khu vườn tuyệt đẹp. Rồi sang xin đống cúc vứt đi của Tử Tài, vác về lựa lấy những cây còn sống đem ra vườn trồng. Ngày nào Trọng Túy cũng làm cỏ, tưới nước, cuốc bỏ gốc xấu, chiết cành tốt trồng vào chỗ cũ. Chẳng bao lâu, vườn cúc của Trọng Túy trông thực tốt tươi đẹp đẽ. Mùa thu năm ấy, cúc nở kín vườn.
Sau tiết Trung thu. Một sáng, Tử Tài đang ngồi trong nhà thì chợt nghe có tiếng ồn ào như chợ vỡ ở phía nam. Lấy làm lạ, Tử Tài chạy ra coi thì thấy Trọng Túy đang đứng giữa cả trăm chậu cúc xếp trong vườn, phần lớn đều có trồng những giò cúc lạ, rất đẹp, mà mình chưa được thấy bao giờ. Dòng người đi chợ ghé vào mua cúc rất đông, ồn ào như thác lũ, liên miên chẳng dứt, kẻ thì chất lên xe, người thì vác lên vai. Cho là Trọng Túy tham tiền, Tử Tài khinh khi lắm. Lại thấy Trọng Túy giấu các giò cúc lạ để trồng bán lấy tiền, chẳng cho mình giò nào, Tử Tài càng thêm giận, nảy ý tuyệt giao. Tử Tài bèn xăm xăm chạy sang nhà Trọng Túy gõ cửa. Nghe tiếng gõ cửa, Trọng Túy từ ngoài vườn chạy vào mở. Thấy Tử Tài, Trọng Túy vồn vã cầm tay mời vào nhà. Thấy Trọng Túy vồn vã như thế, Tử Tài khựng lại, chẳng nói được lời nào. Ðưa mắt nhìn ra vườn, Tử Tài thấy nửa mẫu đất hoang của mình khi trước, nay đã biến thành một vườn cúc tuyệt đẹp. Trừ một miếng đất nhỏ được dùng để dựng chòi canh, còn các chỗ đất khác đều được trồng cúc.
Trọng Túy dẫn Tử Tài ra coi vườn cúc. Nhìn kỹ các cây cúc trong vườn, Tử Tài thấy toàn là những cây mà mình đã nhổ vứt đi! Sau khi dẫn Tử Tài đi coi những giò cúc mà mình mới trồng hồi sáng, Trọng Túy chắp tay nói: "Vì nhà đệ nghèo nên đệ phải xoay qua nghề bán cúc. Sáng nay đệ bán liền tay, cũng kiếm được chút ít, đủ để mời túc hạ lưu lại say sưa với đệ một bữa!" Thấy Trọng Túy vồn vã tiếp đãi mình như thế, Tử Tài chẳng nỡ chối từ. Trọng Túy bèn vào nhà lấy bàn ghế đem ra vườn đặt cạnh luống cúc, rồi trở vào lấy rượu và chén đũa đem ra. Chợt Tử Tài nghe thấy tiếng Hoàng Anh từ trong nhà gọi: "Tam đệ!" rồi thấy Trọng Túy chạy vụt vào nhà. Lát sau, Tử Tài thấy Trọng Túy bưng ra bốn đĩa thức ăn, đặt lên bàn, chắp tay nói: "Mấy món này đều do gia tỉ nấu. Xin mời túc hạ hãy cùng đệ nâng chén!" Tử Tài đành ngồi vào bàn yến ẩm với Trọng Túy song chẳng nói một lời nào. Lát sau, đột nhiên Tử Tài lên tiếng hỏi: "Sao lệnh tỉ chưa xuất giá?" Trọng Túy đáp: "Vì chưa tới lúc!" Hỏi: "Bao giờ mới tới lúc?" Ðáp: "43 tháng nữa!" Hỏi: "Sao túc hạ biết?" Trọng Túy mỉm cười, chẳng đáp, chỉ nâng chén mời Tử Tài. Thấy Tử Tài chưa cạn chén đã say, Trọng Túy bèn dìu về nhà.
Sáng sau, Tử Tài lại sang thăm vườn cúc của Trọng Túy. Thấy những giò cúc Trọng Túy mới trồng sáng qua, sáng nay đã cao đầy thước, Tử Tài ngạc nhiên lắm, nói: "Túc hạ chỉ cho đệ thuật trồng cúc mọc nhanh như thế này đi!" Trọng Túy đáp: "Thuật này chỉ dùng để chóng có cúc thường mà bán thôi chứ chẳng thể dùng để có cúc đẹp mà thưởng ngoạn được! Túc hạ đã chẳng muốn làm nghề bán cúc thì học thuật này làm chi?" Tử Tài bèn thôi không hỏi nữa.
Ðầu tháng chín, khi khách mua hoa đã vãn, Trọng Túy bèn gói những giò cúc dư vào bao cói mỏng, buộc thành bó, chất đầy một xe, rồi từ biệt chị và vợ chồng Tử Tài, đem xuống miền nam bán.
Nửa năm sau, vào độ cuối xuân, Trọng Túy lại đem từ miền nam về Thuận Thiên nhiều giống cúc lạ. Tới chợ huyện, Trọng Túy dừng chân, dựng một quán bán cúc. Mười ngày sau, bán hết cúc, Trọng Túy về nhà. Thế rồi, Trọng Túy lại bắt đầu trồng tỉa chăm sóc đợt cúc mới.
Tới mùa thu, cúc nở hoa, thiên hạ lại nô nức kéo nhau tới khu vườn của Trọng Túy để mua cúc. Nhiều người năm ngoái đã mua song vì không biết cách chăm sóc, để cúc chết, nên năm nay lại tới mua. Bán được nhiều cúc, Trọng Túy trở thành giàu có.
Năm sau, Trọng Túy để dành đủ tiền, bèn xin mua đứt dãy nhà với khu vườn phía nam. Tử Tài bằng lòng bán, rồi thuê người rào kín ranh giới hai khu nam bắc. Trọng Túy mua xong, thuê thợ nới rộng dãy nhà cũ ra, phá hết khu vườn cũ đi để xây biệt thự. Rồi đem tiền đi mua một khu vườn mới rộng rãi hơn, xây tường kín vây quanh, trồng cúc ở bên trong. Lại nuôi nhiều gia nhân để trồng tỉa cúc và giúp việc nhà.
Năm sau. Một hôm Trọng Túy nhẩm tính thời gian thì thấy hai chị em mình đã tới Thuận Thiên cư ngụ được hơn hai năm. Tới mùa thu, sau khi bán cúc cho dân chúng trong vùng, Trọng Túy lại chở cúc dư xuống miền nam bán. Trọng Túy vừa đi được ít lâu thì ở nhà, Lã thị bị bạo bệnh mà qua đời. Sau khi làm tang lễ cho vợ, Tử Tài thấy mình cô đơn nên nghĩ đến chuyện nhờ bà mối tới ướm ý Hoàng Anh xem có chịu làm vợ kế mình không. Bà mối tới hỏi thì Hoàng Anh mỉm cười, đáp rằng phải chờ hỏi ý kiến của em trai đã.
Hết mùa xuân, Trọng Túy vẫn chưa về. Hoàng Anh phải đứng ra đốc thúc gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc theo đúng cách thức cũ của em. Tới mùa thu, Trọng Túy cũng vẫn chưa về. Hoàng Anh lại phải đứng ra bán cúc. Thấy tiền thu vào nhiều quá, Hoàng Anh liền đem đi mua thêm hai chục mẫu vườn ở ngoài thôn để trồng cúc. Thấy tiền vẫn còn dư, Hoàng Anh lại đem ra tu bổ cửa nhà cho thêm phần khang trang, tiện lợi.
Nửa năm sau. Một hôm có khách buôn từ Kim Lăng lên Thuận Thiên có việc, tìm đến nhà Tử Tài, trao cho Tử Tài một lá thư. Tử Tài mời khách vào nhà ngồi dùng trà rồi mở lá thư ra coi thì thấy là lá thư của Trọng Túy hỏi thăm mọi chuyện trong gia đình mình. Cuối thư Trọng Túy viết: "Xin túc hạ cho tiện tỉ được coi lá thư này!" Rồi Trọng Túy lại viết: "Thân gửi chị Hoàng Anh: Em nghe tin Lã tẩu đã qua đời. Em nghĩ Mã huynh cô đơn, thế nào cũng hỏi chị làm kế thất. Nếu Mã huynh có hỏi, em khuyên chị nên ưng thuận!" Coi xong, Tử Tài gấp lá thư cất vào túi rồi hỏi khách: "Ðào lang nhờ tôn ông chuyển lá thư này từ bao giờ?" Khách đáp:"Từ năm ngoái, song vì bỉ nhân bận việc, phải ghé nhiều nơi, nên năm nay mới tới đây được!" Tử Tài nhẩm tính thời gian thì thấy Trọng Túy đã viết lá thư từ hồi vợ mình mới mất, tính ra cũng đã trên một năm. Nếu tính từ ngày mình ngồi đối ẩm với Trọng Túy trong vườn thì vừa tròn 42 tháng.
Lát sau, khách cáo biệt. Tử Tài cám ơn rồi đứng dậy tiễn khách ra cổng. Khách đi rồi, Tử Tài vội chạy sang nhà Hoàng Anh, đưa lá thư cho coi. Chờ cho Hoàng Anh coi xong, Tử Tài mới hỏi:"Hôm nọ bỉ nhân có nhờ bà mối tới đây thưa chuyện cùng nương tử thì nương tử trả lời là còn chờ hỏi ý lệnh đệ. Nay lệnh đệ đã đưa ý như ở trong thư thì phải chăng nương tử sẽ thuận theo lời khuyên của lệnh đệ?" Hoàng Anh mỉm cười gật đầu. Tử Tài bèn hỏi: "Thế thì bao giờ nương tử sẽ cho bỉ nhân làm lễ nghênh hôn?" Hoàng Anh đáp: "Tháng tới" Hỏi: "Nương tử muốn lấy sính lễ như thế nào?" Ðáp: "Thiếp không lấy sính lễ!" Rồi tiếp: "Nhà lang quân cũ kỹ tồi tàn quá! Sau ngày cưới, lang quân nên dọn sang nhà thiếp mà ở! Lang quân cứ coi như mình đi ở rể vậy, có sao đâu?" Tử Tài lắc đầu, nói:"Ðàn ông đi cưới vợ thì phải đón vợ về nhà mình chứ chẳng thể tới nhà vợ ở rể được!" Hoàng Anh im lặng, chẳng nói chi thêm.
Tháng sau, Tử Tài chọn ngày lành giờ tốt để làm lễ nghênh hôn. Sau ngày cưới, Hoàng Anh thuê thợ trổ một cổng xuyên qua hàng rào để hai nhà thông nhau.
Cưới Hoàng Anh về rồi, Tử Tài lại đâm ra ngượng ngập, cứ sợ thiên hạ cười mình là cưới vợ giàu để nhờ vả. Vì thế, Tử Tài cứ căn dặn vợ là phải làm sổ sách chi thu riêng biệt cho mỗi ngôi nhà. Hoàng Anh cười mà vâng lời. Vì nhà Tử Tài nghèo quá, Hoàng Anh thường phải về nhà mình lấy đồ gia dụng đem sang. Thế nhưng, hễ Tử Tài thấy có vật gì mới lạ ở trong nhà thì lại bắt gia nhân phải đem trả lại nhà vợ, cấm không được lấy sang nữa. Song le, vì nhà Tử Tài thiếu nhiều thứ quá nên chỉ một tuần sau, đâu lại vào đấy. Cuối cùng Tử Tài cũng đành bó tay. Thấy thế, Hoàng Anh cười, nói: "Có ai liêm khiết mà không bị mệt sức đâu!" Tử Tài ngượng lắm song chẳng biết cãi ra sao. Thế rồi Tử Tài buông xuôi, để mặc cho vợ muốn làm chi thì làm. Hoàng Anh được thể, thuê thợ phá hết hàng rào ngăn cách hai ngôi nhà, sửa lại ngôi nhà cũ của chồng rồi nối liền hai ngôi nhà làm một.
Hàng ngày, Hoàng Anh vẫn ghé về nhà mình, đốc thúc gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc. Vì bán cúc được nhiều tiền, hai vợ chồng chỉ ngồi hưởng thụ, chi tiêu còn rộng rãi hơn cả các thế gia trong vùng. Thấy thế, Tử Tài áy náy lắm, đứng ngồi chẳng yên. Một hôm Tử Tài hỏi vợ: "Nàng vẫn còn ham làm giàu để làm chi?" Hoàng Anh đáp: "Thiếp có ham làm giàu đâu? Thiếp chỉ muốn kiếm đủ tiền cho lang quân được sống sung túc thôi!" Tử Tài nói: "Ta đâu có cần được sống sung túc?" Hoàng Anh nói: "Nếu lang quân không được sống sung túc thì sẽ bị đời sau chê cười!" Tử Tài hỏi: "Sao lại bị đời sau chê cười?" Hoàng Anh đáp: "Vì đời sau, thế nào chẳng có kẻ cười rằng đời trước có một người mê hoa cúc đến độ nhà đang khá giả mà hóa ra lụn bại!" Tử Tài nói: "Suốt ba mươi năm qua, ta là một người đàn ông khí phách, nay vì lụy nàng mà phải chiều theo ý nữ nhân! Miếng cơm manh áo cũng phải nhờ vào nữ nhân, thực chẳng còn chút khí phách nào của kẻ trượng phu! Người ta ai cũng mong được giàu song riêng ta thì lại chỉ mong được nghèo thôi!" Hoàng Anh cười, nói: "Nghèo mà mong giàu thì mới khó chứ giàu mà mong nghèo thì dễ lắm. Cứ đem hết tiền trong nhà ném ra ngoài đường là sẽ được nghèo ngay. Lang quân cứ ném hết đi, thiếp chẳng tiếc đâu!" Tử Tài nói: "Thế nhưng phung phí tiền do người khác làm ra thì lại là kẻ vô liêm sỉ!" Hoàng Anh cười, nói: "Ðã thế thì thiếp thấy chúng mình khó lòng mà chung sống với nhau được. Lang quân thì chẳng mong giàu mà thiếp thì lại chẳng mong nghèo. Nếu chẳng thỏa thuận được với nhau thì chúng mình nên ở riêng ra, ai trong sạch cứ việc trong sạch, ai đục bẩn cứ việc đục bẩn, có trở ngại chi đâu?" Tử Tài đành im lặng. Thấy chồng chịu thua mình, Hoàng Anh cũng thương hại nên chiều ý chồng, đóng cổng vườn cúc, chẳng làm nghề bán cúc nữa.
Hoàng Anh bèn thuê thợ cất một túp lều tranh ở vườn sau rồi bảo chồng dọn ra đó mà ở. Tử Tài thích lắm, vội dọn ra ngay. Hoàng Anh liền chọn hai tì nữ xinh đẹp sai ra lều tranh ở để hầu hạ chồng. Ðược ba ngày, Tử Tài nhớ vợ, bèn sai tì nữ vào nhà gọi vợ ra lều tranh ở với mình. Hoàng Anh nhất định không chịu ra. Vì thế, cứ ban đêm thì Tử Tài vào nhà ở với vợ rồi ban ngày thì lại ra lều tranh ở một mình. Lâu rồi thành lệ.
Tháng sau. Một hôm Hoàng Anh cười, nói với chồng: "Ăn đông, nằm tây, có người quân tử liêm khiết nào mà cư xử như vậy chăng?" Tử Tài đuối lý, chẳng biết đối đáp ra sao. Suy đi nghĩ lại, Tử Tài cũng tự thấy là mình gàn nên lại dọn vào nhà ở với vợ như trước.
Mấy tháng sau. Tới mùa thu, hoa cúc lại nở.
Một hôm, Tử Tài có việc phải xuống Kim lăng. Tới nơi, thuê quán trọ để ngủ. Sáng sau, thu xếp xong công việc, Tử Tài ra chợ coi hoa thì thấy ở chợ có rất nhiều quán, bán đủ mọi loại hoa. Thấy có một quán bán toàn hoa cúc, Tử Tài bèn ghé coi. Thấy có nhiều giò cúc to, đẹp, giống như những giò cúc mà Trọng Túy vẫn bán trước kia, Tử Tài bèn vào quán nói với người bán cúc: "Xin cho gặp chủ nhân" Người bán cúc mời Tử Tài ngồi, rồi chạy vào nhà trong báo cho chủ nhân hay. Khi chủ nhân bước ra quán thì Tử Tài nhận ra là Trọng Túy. Tử Tài mừng quá, vội chạy tới nắm lấy tay Trọng Túy, hỏi chuyện ở Kim Lăng. Trọng Túy trả lời rồi hỏi lại chuyện ở Thuận Thiên. Tử Tài cũng trả lời rồi thuật chuyện mình kết duyên với Hoàng Anh. Nghe xong, Trọng Túy giữ Tử Tài ở lại quán cúc. Tối ấy, sau khi cơm nước, hai người ngồi đàm đạo. Tử Tài nói: "Bây giờ ngu huynh với lệnh tỉ đã thành gia thất, hiền đệ hãy về Thuận Thiên mà cư ngụ với vợ chồng ngu huynh" Trọng Túy lắc đầu rồi rút ra một gói tiền, nói: "Quê tiểu đệ vốn ở đất Kim Lăng này mà tiểu đệ lại đang làm ăn khá giả nên chẳng thể di cư đi nơi khác được. Vả lại tiểu đệ cũng sắp cưới vợ ở đây rồi! Tuy nhiên, cuối năm nay, tiểu đệ có việc phải lên Thuận Thiên và phải tiêu pha một món tiền ở trên ấy. Vì thế, tiểu đệ muốn nhờ đại ca cầm món tiền này về đưa cho gia tỉ, bảo cất đi giùm để cuối năm tiểu đệ lên trên ấy, sẽ tới xin lại!" Tử Tài từ chối, nói:"Chắc là hiền đệ sợ gia đình ngu huynh nghèo nên muốn giúp đỡ món tiền này chứ gì? Ngu huynh chẳng nhận đâu!" Trọng Túy đành nói:"Thú thực với đại ca, trong hai năm qua tiểu đệ mở quán bán cúc ở đây, phát tài lắm. Bây giờ tiểu đệ rất giàu, có thể nghỉ bán cúc mà vẫn đủ tiền chi tiêu tới già. Ðây là món tiền tiểu đệ vẫn dành riêng để biếu gia tỉ khi xuất giá" Tử Tài nhất định từ chối.
Sáng sau, Tử Tài từ biệt Trọng Túy, ra về.
Tử Tài vừa đi thì đột nhiên Trọng Túy đổi ý, muốn lên Thuận Thiên cư ngụ gần chị. Trọng Túy liền hạ giá cúc để bán cho mau hết. Vì giá rẻ, chỉ một tuần sau, Trọng Túy đã bán hết cúc. Trọng Túy bèn trả lại quán cho chủ, trả tiền công hậu hĩ cho gia nhân rồi cho gia nhân nghỉ việc. Sau đó, Trọng Túy thu xếp hành trang, thuê riêng một chiếc thuyền lên Hà Bắc, tới Thuận Thiên.
Tới nhà Tử Tài, Trọng Túy thấy chị đã dành riêng cho mình ngôi biệt thự mới, tựa hồ như biết trước là mình sắp về. Vào phòng ngủ, Trọng Túy thấy có giường đệm, chăn gối mới tinh. Sau khi cởi bỏ hành trang, Trọng Túy vội chạy ngay ra mở cổng vườn cúc, vào coi hoa.
Hôm sau, Trọng Túy sai gia nhân tới vườn trồng tỉa chăm sóc cúc, giống hệt như mấy năm về trước. Tuy nhiên, bây giờ Trọng Túy chỉ muốn có hoa cúc đẹp để thưởng ngoạn thôi chứ chẳng còn muốn có hoa cúc thường để bán nữa. Ngoài việc chăm sóc cúc để có hoa thưởng ngoạn, Trọng Túy chẳng làm ăn chi cả, chỉ sai gia nhân đi mời Tử Tài sang đấu cờ với mình suốt ngày. Vì Tử Tài ít uống rượu nên Trọng Túy thường uống một mình. Trọng Túy uống rượu hào lắm, chưa say bao giờ.
Hoàng Anh muốn kén vợ cho Trọng Túy song Trọng Túy từ chối, nói rằng mình chỉ thích sống độc thân. Hoàng Anh bèn sai hai tì nữ sang ở biệt thự để hầu hạ Trọng Túy. Bốn năm sau, một tì nữ hoài thai với Trọng Túy, sanh được một bé gái, đặt tên là Tiểu Cúc.
Tử Tài có một người bạn họ Tăng, tên Sính, tửu lượng rất cao, trong vùng chưa có đối thủ. Một hôm, Tăng Sính ghé thăm Tử Tài. Tử Tài liền sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang uống rượu. Khi Trọng Túy sang, Tử Tài giới thiệu hai người với nhau rồi đề nghị hai người uống thi. Ðôi bên cùng hoan hỉ nhận lời. Uống thi từ sáng tới tối, Tử Tài thấy mỗi người đã uống hết trên trăm chén. Hai người cùng phục tửu lượng của nhau, rồi cứ tiếc rằng chẳng được gặp nhau sớm hơn. Tăng Sính say khướt, nằm lăn ra ngủ, còn Trọng Túy cũng say mèm, đứng dậy trở về biệt thự. Tử Tài sợ Trọng Túy say quá, một mình chẳng về được nên theo sau để phòng khi cần dìu dắt.
Từ trong nhà Tử Tài, Trọng Túy bước ra tới vườn thì lảo đảo, dẫm bừa lên luống cúc rồi cởi chiếc áo choàng ném xuống đất, nằm vật xuống cạnh chiếc áo mà ngủ. Vừa chạm mình xuống đất, đột nhiên Trọng Túy biến thành một cây cúc cao bằng đầu người, trên cành có mười mấy đóa hoa to bằng nắm tay. Tử Tài kinh hãi quá, vội chạy vào nhà báo cho vợ biết. Hoàng Anh vội chạy ra vườn, nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên mà trách:"Sao hiền đệ lại uống say đến thế?" Trách xong, Hoàng Anh nắm tay chồng dắt vào nhà, dặn: "Từ giờ tới sáng mai, lang quân chớ có ra đây nhìn cây cúc này! Lang quân mà ra nhìn thì nguy hiểm cho tính mạng của Túy đệ lắm!" Tử Tài gật đầu.
Nhớ lời vợ dặn, hôm sau Tử Tài phải chờ tới giữa trưa mới dám ra vườn để coi xem cây cúc tối qua có biến hóa gì không. Ra tới nơi thì thấy cây cúc đã biến trở lại thành Trọng Túy, đang nằm đắp chiếc áo choàng mà ngủ trên luống cúc. Lúc đó Tử Tài mới hiểu rằng hai chị em Trọng Túy đều là thần hoa cúc. Từ đó, Tử Tài lại càng yêu thương, kính trọng hai chị em hơn.
Từ lúc Trọng Túy để lộ hình tích cho Tử Tài biết chị em mình là thần hoa cúc thì Trọng Túy chẳng còn giữ gìn gì nữa, cứ uống rượu liên miên. Trọng Túy tự tay ngâm một vò rượu thuốc lớn để uống dần.
Một hôm Trọng Túy viết thiếp, sai tì nữ đem đi mời Tăng Sính tới vườn nhà mình uống rượu, rồi sai gia nhân đem bàn ghế ra bày cạnh luống cúc, khiêng vò rượu thuốc ra đặt ở cạnh bàn. Khi Tăng Sính tới, Trọng Túy dẫn ra vườn rồi sai gia nhân bưng đồ nhắm ra. Trọng Túy mời Tăng Sính nhập tiệc, hẹn rằng hai người phải cùng nhau uống hết vò rượu mới thôi. Tăng Sính cười rồi gật đầu ưng thuận. Gia nhân bèn chạy đi báo cho Tử Tài hay. Tử Tài liền ra vườn để rình xem tửu lượng của hai người tới đâu. Khi thấy vò rượu sắp cạn mà hai người còn tỉnh, Tử Tài sai gia nhân vào nhà lấy thêm rượu ra, lén rót vào vò. Hai người cứ tiếp tục uống. Khi vò đã cạn, Tăng Sính say quá, gục đầu xuống bàn mà ngủ. Tử Tài bèn sai hai gia nhân thay phiên nhau cõng Tăng Sính về nhà. Trọng Túy cũng say, lại cởi chiếc áo choàng ném xuống đất rồi lại nằm lăn xuống luống mà ngủ. Ðột nhiên, Trọng Túy lại biến thành cây cúc. Vì đã được thấy Trọng Túy biến hóa như thế một lần nên lần này, Tử Tài chẳng sợ nữa, cứ bắt chước vợ mà nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên. Tử Tài đứng cạnh để chờ xem cây cúc biến trở lại thành Trọng Túy như thế nào? Thế nhưng lần này, Tử Tài chỉ thấy lá cúc héo dần. Kinh hãi quá, Tử Tài vội chạy vào nhà thuật lại cho vợ nghe. Hoàng Anh tái mặt, thốt lên:"Lang quân đã giết chết bào đệ của thiếp rồi!" Thốt xong, Hoàng Anh vùng chạy ra vườn. Tử Tài cũng vội chạy ra theo. Tới nơi, Tử Tài thấy gốc rễ cây cúc đã héo khô. Hoàng Anh đau khổ lắm, bẻ một cành còn tươi, cắm vào một chậu đất sẵn có ở trong vườn, rồi tưới nước, bưng về trưng trong phòng mình. Tử Tài theo vợ về phòng, trong lòng hối hận là đã giết chết Trọng Túy. Suy nghĩ miên man, Tử Tài đâm ra oán hận Tăng Sính.
Hôm sau, Tử Tài toan sang nhà Tăng Sính để trách mắng thì nghe tin Tăng Sính đã chết vì cơn say rượu bữa trước ở vườn cúc nhà Trọng Túy.
Hàng ngày, Hoàng Anh tưới nước cho cành cúc trong phòng mình. Ít lâu sau, cành cúc bén rễ rồi sinh ra nhiều nhánh nhỏ. Chín tháng sau, cành cúc nở hoa. Hoàng Anh chiết các nhánh nhỏ đem trồng thì các nhánh này lại sinh ra một giống cúc mới, thân thấp lè tè, cánh hoa có phấn, tỏa ra một mùi thơm tựa như mùi rượu. Vì thế, về sau giống cúc này được gọi là Túy Ðào Cúc (Cúc Ðào Say). Nếu được tưới bằng rượu thì giống cúc này nở đầy hoa rất đẹp.
Từ đó, trong nhà Tử Tài chẳng còn chuyện gì lạ xảy ra nữa. Hoàng Anh sống rất hạnh phúc bên chồng.
Mười lăm năm sau. Con gái của Trọng Túy là Tiểu Cúc đã tới tuần cập kê. Hoàng Anh bèn đem gả cho con trai của một thế gia trong vùng.
(truyện LIÊN TỎA)
Hoang thảo thùy hương dạ sắc hôn
Ngâm hoài bi sở nguyệt vô ngôn
Thập niên nhất giác tuyền đài mộng
Hà tất chân hương thủy phản hồn
Tỉnh Sơn Tây có nho sinh họ Dương, tên Tử Úy, gia tư khá giả nhờ ở gia sản của cha mẹ để lại.
Năm ấy, Tử Úy bỏ Sơn Tây sang Sơn Ðông, mua một ngôi nhà ở huyện Tứ Thủy để cư ngụ. Ngôi nhà nằm giữa một vườn bạch dương, có hàng rào dâm bụt vây quanh. Ðêm đêm, gió thổi vào lá bạch dương gây nên tiếng rì rào như tiếng sóng vỗ. Cổng chính ngôi nhà trông ra một cánh đồng trống trải, đầy cổ mộ.
Một tối, Tử Úy vừa thắp đèn lên để đọc sách thì chợt nghe có tiếng thiếu nữ ngâm thơ, từ ngoài hàng rào vọng vào nhà. Âm thanh trong vắt song đượm vẻ ai oán thê lương, ngâm đi ngâm lại mãi hai câu:
Nguyên dạ thê phong khước đảo xuy,
Lưu huỳnh thông thảo phục triêm vi.
(Ðêm xuân gió nhẹ lạnh căm căm,
Ðom đóm theo hoa lướt buổi rằm)
Tử Úy cứ thắc mắc, chẳng hiểu là tiếng người hay tiếng ma. Sáng sau, Tử Úy ra ngoài hàng rào để coi xem có vết chân người hay không thì chẳng thấy gì ngoài một chiếc nịt bít tất mắc trong bụi cỏ gai. Tử Úy nhặt lên, đem về nhà, để trên thành cửa sổ. Tối ấy, quá canh hai, lại nghe có tiếng ngâm thơ, Tử Úy bèn bắc ghế đứng nghển cổ nhìn qua hàng rào xem là ai thì bỗng thấy tiếng ngâm im bặt. Vì thế, Tử Úy nghĩ chắc là ma. Tuy nhiên, Tử Úy vẫn ưa thích tiếng ngâm ấy.
Tối sau, Tử Úy ra phía ngoài hàng rào, nấp trong bụi rậm để rình. Sắp sang canh hai, chợt thấy từ trong bụi cỏ ở đằng xa, có một nữ lang, dáng điệu tha thướt, lướt tới một cây nhỏ cạnh hàng rào nhà mình, đứng tựa vào cây, cúi đầu ngâm thơ, Tử Úy khẽ lên tiếng đằng hắng. Nữ lang nghe có tiếng người, vội lướt trở lại bụi cỏ rồi lẩn mất.
Từ đó, tối nào Tử Úy cũng ra nấp trong bụi rậm để chờ nghe lén. Ðến khi nữ lang ngâm xong, lẩn vào bụi cỏ, Tử Úy mới quay vào nhà.
Một tối, khi nghe nữ lang ngâm xong, Tử Úy chợt nghĩ ra hai câu kế, liền cất giọng ngâm tiếp:
U tình khổ tự hà nhân kiến,
Thúy tụ đan hàn nguyệt thượng thì.
(Nỗi niềm buồn tủi nào ai thấy,
Áo biếc cô đơn dưới bóng trăng)
Ngâm xong, thấy chung quanh vắng lặng, Tử Úy bèn quay vào nhà. Vừa ngồi xuống ghế, chợt thấy nữ lang từ ngoài sân bước vào, chắp tay vái chào, Tử Úy mừng lắm, vội chắp tay đáp lễ, hỏi:"Nương tử họ tên chi?" Nữ lang đáp:"Thiếp họ Chu, tên Liên Tỏa" Hỏi:"Nhà ở đâu?" Ðáp:"Cũng ở gần đây thôi" Hỏi:"Quê cũng ở huyện này phải không? Ðáp:"Không phải! Ở huyện Lũng Tây tỉnh Cam Túc!" Hỏi:"Sao lại sang đây lưu ngụ?" Ðáp:"Vì khi trước gia phụ dời nhà sang đây, nên dắt sang theo!" Hỏi: "Nương tử có phải là người sống không?" Ðáp:"Không phải! Thiếp là ma!" Hỏi:"Sao qua đời sớm thế?" Ðáp:"Vì bị bạo bệnh!" Tử Úy hỏi:"Mộ ở đâu?" Nữ lang lấy ngón tay chỉ về phía cánh đồng trước cổng, đáp:"Cách đây một dặm, nằm cạnh gốc cổ thụ cao!" Hỏi:"Qua đời đã lâu chưa?" Ðáp:"Ðã được 20 năm rồi! Từ năm mới 17 tuổi!" Hỏi:"Sao đêm nào cũng tới đây ngâm thơ?" Ðáp:"Vì ở chốn cửu tuyền hoang dã quá! Lang thang tới đây ngâm thơ cho đỡ buồn!" Hỏi:"Hai câu thơ vẫn ngâm là của thi sĩ nào?" Ðáp:"Của thiếp!" Hỏi:"Sao lại làm thơ ai oán, thê lương thế?" Ðáp:"Vì muốn gửi gấm mối u tình!" Hỏi: "Thường lẩn trốn người sống, sao tối nay lại dám vào đây?" Ðáp:"Vào để cám ơn!" Hỏi:"Cám ơn về việc gì?" Ðáp:"Về việc đã nghĩ giùm hai câu kế vô cùng tuyệt diệu! Thiếp chỉ nghĩ được hai câu đầu, còn hai câu kế thì chịu! Nay được kẻ sĩ phong nhã nghĩ giùm cho, thiếp khâm phục lắm, nên vào đây để cám ơn!" Hai bên bèn chuyện trò thân mật, cách xưng hô cũng mỗi lúc một thân hơn. Gần tới nửa đêm, bỗng Tử Úy dang tay ra đùa bỡn. Liên Tỏa chỉ đưa tay chống cự yếu ớt. Chợt Tử Úy đưa mắt nhìn chằm chặp xuống hai chân Liên Tỏa. Thấy thế, Liên Tỏa cười, nói:"Cuồng sinh này sàm sỡ quá!" Tử Úy nói: "Chẳng phải là sàm sỡ đâu! Thấy nịt bít tất lạ thì nhìn đó thôi! Bên phải là nịt màu tím mà bên trái lại là tơ màu vàng!" Lúc đó Liên Tỏa mới vỡ lẽ. Liền đáp:"Tối nọ ngỡ là bị đuổi bắt, hốt hoảng bỏ trốn, nên bị tuột mất một chiếc nịt, chẳng biết ở đâu!" Tử Úy nói:"Ðể ta biếu nàng một chiếc khác!" Rồi tới thành cửa sổ lấy chiếc nịt đưa cho. Thấy đúng là chiếc nịt của mình, Liên Tỏa hết sức kinh ngạc, hỏi:"Lấy ở đâu ra?" Tử Úy nói thực cho nghe. Liên Tỏa liền tháo tơ ra, cột nịt vào. Thế rồi, hai người ngồi đàm luận văn thơ. Thấy Liên Tỏa thông tuệ, dễ thương, Tử Úy coi như một bạn văn tri kỷ. Quá nửa đêm, Liên Tỏa cáo biệt. Sáng sau, Tử Úy đi về phía đằng trước cổng nhà chừng một dặm thì thấy quả có một ngôi mộ nằm cạnh một gốc cổ thụ cao.
Từ buổi ấy, tối nào Tử Úy cũng nghe thấy tiếng ngâm thơ, rồi một lát sau thì thấy Liên Tỏa tới. Hai bên gặp nhau, nói cười vui vẻ, đàm luận văn thơ rất tương đắc, tựa hồ như cá gặp nước vậy.
Một tối, Tử Úy ngỏ ý muốn ái ân song Liên Tỏa chẳng chịu. Thế nhưng, khi Tử Úy ngỏ ý muốn kẻ lông mày cho thì Liên Tỏa lại chịu ngay.
Tối khác, Liên Tỏa tới, dặn:"Xin chớ nói chuyện đôi ta cho ai biết!" Tử Úy hỏi:"Tại sao?" Ðáp:"Vì thiếp nhát lắm! Ngoài chàng ra, thiếp chẳng dám cho người nào gặp mặt vì sợ người ta bắt nạt mình!" Tử Úy gật đầu.
Mấy hôm sau. Một bữa, Tử Úy mượn được cuốn Liên Xương Cung Từ, đem về để trên bàn. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, thấy cuốn cung từ thì bất giác thở dài. Tử Úy hỏi: "Sao lại thở dài?" Liên Tỏa đáp:"Vì sinh thời, thiếp thích đọc cuốn này lắm! Nay thấy nó, thiếp lại nhớ tới thủa sinh thời nên ngậm ngùi mà thở dài đó thôi!" Tử Úy nói: "Cuốn này hay lắm! Ta cũng muốn chép lại một bản để thỉnh thoảng ngâm nga!" Liên Tỏa nói:"Nếu thế thì để thiếp chép cho!" Nói xong, liền ngồi dưới đèn mà chép, nét chữ rất ngay ngắn, mảnh mai. Rồi tự chọn cho mình một trăm bài ưa thích, chép thành một tuyển tập. Sáng sau, Tử Úy cất bản chép vào rương, để tuyển tập trên bàn, còn bản chính thì đem đi trả.
Một tối, Liên Tỏa tới, nói:"Chàng nên mua lấy một bàn cờ với một cây đàn để chúng mình giải trí với nhau!" Tử Úy gật đầu. Sáng ra, Tử Úy đi mua. Tối đến, khi Liên Tỏa tới, thấy có bàn cờ với cây đàn thì mỉm cười, nói: "Chàng hãy đấu thử với thiếp vài ván xem sao!" Tử Úy gật đầu rồi ngồi vào bàn, đấu cờ với Liên Tỏa. Tử Úy thua liền hai ván.
Tối sau, Liên Tỏa tới, nói:"Thiếp mới viết được khúc Tiêu Song Linh Vũ, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn ôm đàn mà gảy, âm thanh ai oán. Mới nghe được nửa chừng, Tử Úy đã xua tay, nói:"Thôi đừng gảy nữa! Âm thanh buồn lắm!" Liên Tỏa bèn ngưng, rồi nói:"Thiếp có thuộc khúc Hiểu Uyển Oanh Thanh, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa lại ôm đàn mà gảy, âm thanh hoan lạc, khác hẳn khúc trước. Tử Úy thích khúc này lắm. Bèn cùng nhau vui chơi, quên cả thời khắc. Khi nhìn qua cửa sổ, thấy vừng đông đã ló rạng, Liên Tỏa mới kinh hãi, vội đứng dậy ra về.
Nửa năm sau.
Một trưa, Tử Úy đang nằm ngủ ở phòng khách, bỗng có người bạn nho sinh họ Tiết, tới thăm. Thấy Tử Úy đang ngủ, Tiết sinh đảo mắt nhìn quanh thì thấy có nhiều quân cờ vứt ngổn ngang trên bàn, cạnh một cây đàn. Vốn biết Tử Úy chẳng thích những thứ này, Tiết sinh lấy làm lạ nên đoán là Tử Úy mới có bạn gái. Tới bàn coi, Tiết sinh bắt gặp một bản chép các bài cung từ. Lật trang đầu ra coi, thấy nét chữ mảnh mai, ngay ngắn, lật trang cuối ra coi, thấy có ba chữ Liên Tỏa chép, Tiết sinh càng tin là mình đoán đúng.
Lát sau, khi tỉnh giấc, thấy bạn tới chơi, Tử Úy vùng dậy mặc quần áo, ngồi tiếp chuyện. Trong lúc hàn huyên, Tiết sinh hỏi:"Sao lại có bàn cờ với cây đàn?" Tử Úy đáp:"Vì muốn học đấu cờ với gảy đàn!" Hỏi:"Ai chép cho bản cung từ để trên bàn?" Ðáp:"Mới mượn được của một người bạn chứ có ai chép cho đâu!" Cười, nói:"Liên Tỏa là tên con gái chứ đâu có phải là tên người bạn nào? Nói dối làm chi?" Tử Úy chẳng biết phải trả lời ra sao nên chỉ ngồi im lặng. Tiết sinh gặng hỏi song Tử Úy nhất định không nói. Tiết sinh bèn giả vờ cắp bản cung từ ra về. Quẫn quá, Tử Úy đành phải thuật lại chuyện mình gặp Liên Tỏa. Nghe xong, Tiết sinh nói:"Chuyện này lạ lắm. Nhờ bạn nói với Liên Tỏa cho tôi gặp mặt một lần!" Tử Úy đáp:"Tôi đã hứa với nàng là sẽ chẳng nói chuyện tôi gặp nàng cho ai biết! Xin bạn đừng ép!" Tiết sinh năn nỉ: "Nghe chuyện, tôi ngưỡng mộ nàng lắm! Vì thế tôi mới nảy ý muốn xin gặp mặt một lần! Ngoài ra, tôi chẳng có ý gì khác!" Bất đắc dĩ, Tử Úy phải nhận lời. Tiết sinh bèn trả lại bản cung từ, hẹn:"Sáng mai, tôi sẽ trở lại!" rồi cáo biệt. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, Tử Úy thuật lại chuyện Tiết sinh yêu cầu. Nghe xong, Liên Tỏa giận lắm, nói:"Hôm nọ đã căn dặn thế nào, mà hôm nay lại đi tiết lộ cho người khác biết?" Tử Úy bèn đem tình trạng cùng quẫn của mình ra để biện bạch. Nghe xong, Liên Tỏa thở dài, nói: "Thế là đôi ta đã hết duyên nợ với nhau rồi!" Tử Úy bèn năn nỉ, giải thích, xin lỗi cả trăm lần song Liên Tỏa vẫn chẳng vui. Lát sau, Liên Tỏa đứng dậy, nói:"Thôi, thiếp đi đây! Phải tạm lánh người bạn của chàng một thời gian đã!" Nói xong, biến mất.
Ðúng hẹn, sáng sau Tiết sinh trở lại. Tử Úy nói: "Tôi đã nói giùm bạn rồi song Liên Tỏa chẳng chịu!" Tiết sinh nói:"Tôi nghi là bạn nói dối quá!" Tử Úy bất bình, nói:"Tôi nói thực, còn tin hay không là tùy bạn!" Tiết sinh bèn cáo biệt. Tối ấy, Tiết sinh trở lại nhà Tử Úy, dắt theo hai bạn nho sinh khác, một người họ Vương, một người họ Phùng, cùng tới nằm lỳ ở nhà Tử Úy như bộ ba ăn vạ, nói chuyện ồn ào suốt đêm, cố ý không cho Tử Úy ngủ, để chờ gặp Liên Tỏa. Thế nhưng, trong ba đêm liền, chẳng thấy Liên Tỏa đâu. Bộ ba chán nản, bèn bàn tính với nhau chỉ ở lại thêm một đêm nữa rồi sẽ ra về.
Tối ấy, vào khoảng canh hai, khi bộ ba sắp đi ngủ thì bỗng nghe có tiếng ngâm thơ ai oán thê lương từ ngoài hàng rào vọng vào. Vốn tính hung hãn, Vương sinh chạy ra sân nhặt một viên đá ném qua hàng rào, quát: "Làm bộ chẳng thèm tiếp chuyện ai, sao bây giờ lại tới đây mà ngâm thơ ư ử?" Lập tức, tiếng ngâm im bặt. Bộ ba bực tức với Liên Tỏa còn Tử Úy thì bực tức với bộ ba, nỗi bực tức hiện rõ trên nét mặt cũng như trong lời nói. Thấy thế, bộ ba bèn rủ nhau đi ngủ.
Sáng sau, bộ ba cáo biệt. Tử Úy hững hờ tiễn ra cổng. Bộ ba về rồi, Tử Úy lại cảm thấy vô cùng trống rỗng, chỉ cầu mong Liên Tỏa trở lại với mình. Tối ấy, Tử Úy thức chờ Liên Tỏa suốt đêm song chẳng thấy Liên Tỏa đâu.
Hai tối sau. Trong lúc Tử Úy đang buồn rầu thất vọng, ngồi gục đầu trên bàn, bỗng thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào phòng. Tử Úy mừng quá, vội đứng dậy, chạy ra đón. Liên Tỏa ôm mặt khóc, nói:"Bạn bè chàng hung hãn quá, chỉ muốn bắt nạt thiếp thôi!" Tử Úy nói:"Xin nàng thứ lỗi cho ta! Hãy ngồi xuống đây cho ta phân trần!" Ðáp:"Chàng chẳng cần phải phân trần làm chi nữa! Thiếp chỉ đến để chào vĩnh biệt chàng thôi!" Nói:"Thì hãy ngồi xuống đây đã!" Ðáp:"Ðã nói đôi ta hết duyên nợ với nhau rồi mà! Thôi, từ nay xin vĩnh biệt!" Tử Úy toan lên tiếng năn nỉ thì thấy Liên Tỏa đã biến mất.
Bẵng đi hơn một tháng, chẳng thấy Liên Tỏa trở lại, Tử Úy nhớ lắm, gày dộc hẳn đi, song cũng chẳng biết phải làm thế nào.
Một tối, Tử Úy buồn quá, lấy rượu ra ngồi độc ẩm. Chợt thấy có người đẩy cửa bước vào phòng, Tử Úy đưa mắt nhìn thì thấy là Liên Tỏa. Tử Úy mừng quá, vội hỏi: "Phải chăng là nàng đã thứ lỗi cho ta?" Liên Tỏa chẳng đáp, chỉ ứa nước mắt khóc. Tử Úy hỏi:"Sao lại khóc?" Liên Tỏa mấp máy môi toan nói song lại thôi. Tử Úy hỏi: "Toan nói gì rồi lại thôi?" Liên Tỏa nuốt nước mắt, đáp: "Thiếp tức giận chàng nên đã bỏ đi, quyết tâm chẳng bao giờ trở lại! Song, tối nay có việc gấp, lại phải tới đây nhờ chàng nên chẳng khỏi ngượng ngùng!" Tử Úy hỏi:"Việc gì mà gấp thế?" Liên Tỏa vẫn ngập ngừng chưa chịu nói. Tử Úy giục:"Có việc gì thì nói ra đi, ta sẽ tận tình giúp đỡ cho!" Bấy giờ Liên Tỏa mới nói:"Tối qua, tự nhiên có một con quỷ tục tằn bẩn thỉu, chẳng biết lai lịch ở đâu, tới bắt thiếp phải đi theo nó để làm vợ. Thiếp nghĩ mình là con nhà gia giáo nên quyết tâm chẳng chịu, nhưng cũng biết mình là kẻ yếu đuối, chẳng thể chống cự được với nó nên mới tìm kế hoãn binh, xin nó cho hai ngày để thu xếp. Nó ưng thuận, hẹn tối mai sẽ tới đón. Vì trộm nghĩ đôi ta đã thân mật như vợ chồng nên tối nay thiếp mới tới đây để nhờ chàng diệt trừ nó giùm thiếp!" Thoạt nghe, uất khí trào lên cổ, Tử Úy nói ngay:"Ta thề là sẽ giết chết nó cho nàng!" Nói xong, như chợt nghĩ ra điều gì, Tử Úy lại nói: "Thế nhưng, nó với ta, âm dương đôi ngả, làm sao mà ta có thể giết nó được?" Liên Tỏa đáp:"Chàng chớ lo về việc này! Thiếp đã có cách!" Tử Úy hỏi:"Cách nào?" Liên Tỏa đáp:"Tối mai thiếp sẽ nói, bây giờ xin đừng hỏi! Chỉ cần tối mai chàng đi ngủ sớm là được rồi!" Tử Úy thắc mắc lắm song cũng đành gật đầu. Liên Tỏa bèn ngồi lại đàm luận văn thơ với Tử Úy cho tới rạng đông mới đứng dậy ra về. Trước khi đi, Liên Tỏa còn dặn:"Tối mai, xin chàng nhớ đi ngủ sớm!" Tử Úy lại gật đầu.
Tối sau, Tử Úy mặc sẵn quần áo rồi lấy rượu đem vào phòng ngồi độc ẩm. Khi đã ngà ngà say, Tử Úy cứ để nguyên quần áo, lên giường nằm. Chợt thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào, tiến tới cạnh giường, trao cho mình một bội đao, Tử Úy vội vùng dậy để đỡ. Chú mục nhìn thì thấy bội đao dài hơn thước, chuôi có nạm minh châu. Tử Úy chưa kịp hỏi chuyện thì Liên Tỏa đã nắm lấy tay, kéo ra khỏi phòng, chạy nhanh như gió.
Lát sau, tới một ngôi nhà, Liên Tỏa đẩy cửa, kéo Tử Úy vào, rồi đóng sập lại, cài then thật kỹ. Tử Úy hỏi: "Nhà này của ai?" Liên Tỏa đáp:"Của thiếp!" Vừa đáp xong thì bỗng có tiếng đập cửa ầm ầm. Liên Tỏa tái mặt, nói:"Con quỷ tới rồi đó!" Tử Úy vội nắm chắc bội đao trong tay, chạy ra mở cửa, phóng mình ra sân. Thấy một con quỷ, đầu đội mũ đỏ, mình mặc áo xanh, đứng ở giữa sân, Tử Úy liền quát:"Loài quỷ tục tằn bẩn thỉu kia, mi ở đâu mà dám tới đây quấy nhiễu?" Con quỷ tức giận, trừng mắt nhìn Tử Úy, quát lại:"Cái thằng khốn nạn này! Mi ở đâu mà dám tới đây xen vào chuyện của tao?" Tử Úy nổi giận, múa tít bội đao, xông vào loạn trảm. Con quỷ bèn cúi xuống nhặt một viên đá, ném Tử Úy, trúng cổ tay, làm thanh bội đao suýt bị văng đi. Liên Tỏa ở trong nhà nhìn qua cửa sổ, thấy Tử Úy bị lâm nguy thì kinh hãi quá, vội chạy tới ngồi bệt ở góc phòng, co rúm người lại. Trong cơn nguy cấp, Tử Úy chợt thấy một thợ săn ở đằng xa, vội hét lớn:"Cứu tôi với! Cứu tôi với!" Thợ săn phóng mình chạy tới. Con quỷ lại cúi xuống nhặt một viên đá, ném thợ săn, nhưng không trúng. Thợ săn bèn giương cung bắn quỷ, mũi tên cắm phập vào bắp vế, làm quỷ ngã lăn xuống đất. Thợ săn vội bắn bồi một mũi nữa, xuyên qua sọ, làm quỷ chết ngay. Tử Úy mừng quá, chạy tới gần thợ săn để cám ơn thì chợt nhận ra thợ săn chính là Vương sinh. Vương sinh cũng nhận ra Tử Úy. Hai người cùng kinh ngạc. Vương sinh hỏi:"Bạn đi đâu mà lại tới đây?" Tử Úy đáp:"Liên Tỏa nhờ tôi tới đây để diệt trừ con quỷ giùm nàng song tôi bị nó lấy đá ném trúng cổ tay. Ðang bị lâm nguy thì may được bạn tới cứu! Xin cám ơn bạn nhiều! Ðây là nhà của Liên Tỏa! Vậy xin mời bạn hãy vào nhà nói chuyện một lát đã!" Vương sinh mừng lắm, nghĩ bụng mình vừa giết được con quỷ để cứu Tử Úy và Liên Tỏa thì chắc là đã chuộc được cái lỗi ném đá và quát thét trước kia. Vì thế, Vương sinh theo Tử Úy vào nhà. Thấy Liên Tỏa ngồi ở góc phòng Vương sinh gật đầu chào. Vì còn hồi hộp, Liên Tỏa chỉ khẽ gật đầu đáp lễ. Tử Úy đặt bội đao lên bàn. Vương sinh thấy bội đao lạ, bèn tới cầm lên coi. Thấy bội đao sáng quắc và nhọn hoắt, Vương sinh cứ tấm tắc khen:"Bội đao này đẹp quá! Bội đao này tốt quá!" Vương sinh cầm bội đao ngắm nghía hồi lâu rồi mới đặt trở lại bàn, hỏi:"Bạn lấy bội đao này ở đâu ra?" Tử Úy đáp:"Bội đao này là của Liên Tỏa trao cho tôi để diệt trừ con quỷ chứ chẳng phải là của tôi! Nay bạn đã giết được con quỷ giùm tôi rồi thì tôi chẳng còn phải dùng tới bội đao này nữa! Vì thế, bây giờ tôi đem trả lại cho nàng!" Thấy chẳng còn chuyện gì, Vương sinh bèn nói:"Thôi, tôi về đây!" rồi quay về phía góc phòng, gật đầu chào Liên Tỏa. Liên Tỏa cũng gật đầu đáp lễ. Vương sinh liền mở cửa, bước ra khỏi nhà. Thấy Vương sinh ra về, Tử Úy cũng muốn về theo nên quay nhìn Liên Tỏa, nói:"Thôi, ta cũng về đây!" Liên Tỏa chưa kịp đáp thì Tử Úy đã phóng mình chạy theo Vương sinh. Vì chạy nhanh quá, Tử Úy vấp phải đá rồi tỉnh giấc, biết là mình nằm chiêm bao. Thấy cổ tay đau nhức, Tử Úy kinh ngạc lắm, cứ thắc mắc chẳng lẽ chuyện mình bị ném đá trong mộng lại là chuyện có thực hay sao? Sáng ra, coi kỹ lại thì quả nhiên thấy cổ tay mình đã bị sưng vù.
Trưa ấy, Tử Úy thấy Vương sinh tới thăm mình thì càng kinh ngạc. Vương sinh bước vào phòng khách, nói: "Ðêm qua tôi nằm mộng thấy một chuyện lạ!" Tử Úy hỏi: "Có phải là chuyện đã dùng cung tên bắn chết một con quỷ hay không?" Vương sinh cực kỳ kinh hãi, hỏi:"Sao bạn biết?" Tử Úy bèn chìa cổ tay ra cho coi, rồi thuật lại giấc mộng cho nghe. Nghe xong, Vương sinh nói:"Tôi cũng nằm mộng thấy như thế!" Hai người cùng hết sức kinh nghi. Vì nhớ rõ nhan sắc của Liên Tỏa trong giấc mộng nên Vương sinh nói:"Nhờ bạn làm ơn nói với Liên Tỏa cho tôi được gặp mặt nàng một lần nữa!" Tử Úy đáp: "Ðược! Ðể rồi tôi sẽ nói cho!"
Tối ấy, Liên Tỏa tới, nói:"Cám ơn chàng đã diệt trừ được con quỷ cho thiếp!" Tử Úy nói:"Ðó là công của Vương huynh chứ có phải là công của ta đâu! Vương huynh muốn được gặp mặt nàng một lần nữa đó!" Ðáp: "Vương huynh đã cứu mạng thiếp, thiếp chẳng dám quên ơn! Tuy nhiên, vì Vương huynh hung hãn quá nên thiếp kinh hãi lắm, chẳng dám gặp lại nữa! Thiếp thấy Vương huynh thích bội đao của thiếp nên thiếp muốn nhờ chàng đem bội đao ấy biếu Vương huynh giùm thiếp để tạ ơn!" Hỏi:"Nàng lấy bội đao ấy ở đâu ra?" Ðáp:"Nguyên bội đao ấy là của gia phụ mua ở đất Việt với giá trên trăm lượng vàng. Thiếp thấy bội đao thì thích, cứ đòi xem. Gia phụ thấy thế bèn cho thiếp. Thiếp thuê thợ nạm minh châu trên chuôi và quấn kim tuyến chung quanh cho đẹp. Khi thiếp qua đời, gia phụ thương thiếp quá nên sai gia nhân chôn bội đao cùng với thi thể thiếp. Nay thiếp xin tình nguyện dứt tình với bội đao để đền ơn cứu mạng của Vương huynh. Vương huynh có bội đao thì cũng như đã gặp mặt thiếp một lần nữa rồi!"
Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy thuật lại ý của Liên Tỏa. Nghe xong, Vương sinh tỏ vẻ buồn vì chẳng được gặp lại Liên Tỏa song cũng mừng vì sắp được biếu bội đao. Tối ấy, quả nhiên Liên Tỏa đem bội đao tới trao cho Tử Úy, nói:"Chàng nhớ dặn Vương huynh giữ gìn bội đao này cho cẩn thận! Nó chẳng phải là vật tầm thường đâu! Ở Trung Quốc chẳng có ai chế tạo được loại bội đao này cả!" Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy đem bội đao ra biếu giùm. Vương sinh thích lắm, gửi lời cám ơn Liên Tỏa rồi cầm bội đao ra về.
Từ đó, Liên Tỏa lại lui tới với Tử Úy như trước.
Ba tháng sau. Một tối, Liên Tỏa đang ngồi đàm luận văn thơ với Tử Úy thì bỗng đôi má ửng hồng, đôi mắt cứ nhìn Tử Úy chằm chặp, đôi môi mấp máy tựa hồ như muốn nói điều gì rồi lại thôi. Tử Úy lấy làm lạ, hỏi: "Nàng muốn nói điều gì, sao chẳng nói ra?" Liên Tỏa đáp: "Bấy lâu nay thiếp đội ơn chàng quyến luyến nên đã tiếp thụ được sinh khí. Vì thế, bây giờ thiếp muốn sống lại. Tuy nhiên, muốn sống lại thì phải ân ái với nam nhân trần thế để có tinh huyết của người sống!" Tử Úy cười, nói:"Tưởng chuyện gì khó chứ chuyện ấy thì dễ quá mà! Trước kia ta đã đề nghị với nàng mà nàng chẳng chịu chứ có phải là tại ta tiếc gì nàng đâu!" Liên Tỏa càng ửng hồng đôi má, nói:"Thế nhưng nếu chàng chịu làm như vậy thì chàng sẽ bị bệnh nặng đó! Tuy nhiên nếu chàng chịu khó uống thuốc thì chỉ trên dưới mươi ngày là khỏi!" Tử Úy liền gật đầu rồi chạy tới bồng Liên Tỏa lên giường mà ân ái. Sau cuộc mây mưa, Tử Úy tưởng là đã xong thì lại nghe thấy Liên Tỏa nói:"Chưa xong đâu! Còn phải có ba giọt máu của người sống nhỏ vào rốn nữa! Chàng có thể chịu đau một chút mà cho thiếp ba giọt máu ấy không?" Tử Úy gật đầu rồi xuống giường, đi lấy dao sắc chích vào cổ tay, nhỏ ba giọt máu vào rốn cho Liên Tỏa.
Lát sau, Liên Tỏa ngồi dậy mặc quần áo, nói:"Bây giờ thì xong rồi! Xin tạm biệt. Tối tối thiếp sẽ chẳng trở lại đây nữa!" Tử Úy hỏi:"Bao giờ thì nàng mới sống lại?" Ðáp:"Tính từ hôm nay, đúng một trăm ngày!" Hỏi:"Khi nàng sống lại thì tìm nàng ở đâu?" Ðáp:"Ở dưới mộ!" Hỏi: "Ở dưới mộ thì làm sao đón về nhà được?" Ðáp:"Ðể thiếp chỉ cách cho!" Hỏi:"Cách nào?" Ðáp:"Vào buổi chiều ngày thứ một trăm, chàng cứ dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ thiếp. Khi thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây bên mộ rồi hót đủ bốn tiếng thì chàng phải cho gia nhân đào mộ thiếp lên ngay, đưa thiếp về nhà! Xin chàng nhớ kỹ cho một điều là sớm một chút cũng hỏng mà trễ một chút cũng chẳng xong!" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn cáo biệt.
Mười ngày sau, quả nhiên Tử Úy lâm trọng bệnh, bụng cứ sình lên như cái trống. Tử Úy bèn sai gia nhân đi mời thày lang tới hốt thuốc cho mình. Uống thuốc xong, Tử Úy đi cầu ra phân đen như bùn.
Mười ngày sau, quả nhiên Tử Úy khỏi bệnh. Tử Úy bèn đi mua sẵn một bộ quần áo phụ nữ với một cái chăn mới, rồi ngồi đếm ngày rất cẩn thận.
Vào sáng ngày thứ một trăm, theo đúng lời dặn, Tử Úy dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ Liên Tỏa, đem theo bộ quần áo với cái chăn. Chờ từ sáng tới chiều, khi mặt trời đã ngả về tây, Tử Úy mới thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây cạnh mộ. Ðôi chim cất tiếng hót bốn tiếng rồi bay đi. Tử Úy mừng quá, vội giục gia nhân:"Ðược rồi đó! Hãy phạt cỏ, đào mộ lên đi!" Gia nhân vâng lời mà đào. Ðào tới quan tài thì thấy gỗ đã mục. Mở nắp ra coi thì thấy mặt mũi Liên Tỏa vẫn còn tươi như người sống. Tử Úy bèn lấy tay chà xát khắp châu thân Liên Tỏa, lấy bộ quần áo mới ra mặc cho, lấy chăn quấn kín châu thân. Rồi sai gia nhân khiêng về nhà trước, đặt lên giường, đốt lò sưởi, đắp chăn ấm.
Lát sau, Tử Úy về nhà, đưa tay sờ mũi Liên Tỏa, thì thấy có chút hơi thở nhè nhẹ, mong manh như sợi tơ. Tử Úy bèn sai gia nhân lấy nước cháo rót vào miệng. Gần sáng, Liên Tỏa sống lại.
Tuần sau, Liên Tỏa sinh hoạt bình thường, chẳng khác chi người sống. Từ đó, hai người chung sống bên nhau vô cùng tương đắc.
Một hôm, Liên Tỏa nói với Tử Úy:"Trên hai chục năm qua thiếp nằm dưới mộ mà bây giờ thiếp cứ tưởng như mình vừa tỉnh một giấc mơ dài!"
Dịch khước tâm tràng canh diện mục
Hồi thiên thủ đoạn tối kham xung
Lăng Dương miếu mạo kim hà tại
Thỉnh dữ tiên sinh đính tửu bằng
Huyện Tuyên Thành, tỉnh An Huy, có núi Lăng Dương. Trên đỉnh, có điện thờ thần linh, tên Thập Vương Ðiện. Ở hai bên hành lang đông tây, có hai hàng tượng gỗ, tạc hình các quan chức âm phủ, trạm trổ rất công phu, mặc quần áo thực, trông như người sống. Ở hành lang phía đông, có tượng phán quan râu dài, đứng nghiêm, mặt mũi hung dữ, sơn màu xanh lè, bộ râu thậm thượt, sơn màu đỏ chót. Những kẻ không kiêng kỵ thường gọi tượng này là Tông Sư Râu. Dân chúng trong vùng đồn rằng đêm nào người ta cũng nghe thấy có tiếng khảo đả ở hai bên hành lang và thuật lại nhiều chuyện rất rùng rợn. Vì thế, vào ban đêm, ít có người dám lên gần điện.
Ở chân núi, có ngôi làng Lục Dương. Trong làng, có nho sinh, họ Chu, tên Nhĩ Ðán, tên chữ Tiểu Minh, thực thà chất phác, học hành chăm chỉ song trí nhớ kém, tiến bộ chậm chạp, văn chương xoàng xĩnh. Thế nhưng, Tiểu Minh lại nổi tiếng là người gan dạ. Tiểu Minh có vợ họ Phùng, tính rất hiền thục, song kém nhan sắc.
Trong huyện, lại có thị ngự họ Ngô, đã hồi hưu, có cô con út rất đẹp, tên Giáng Tiên. Năm Giáng Tiên 13, thị ngự hứa gả cho nho sinh họ Trịnh, song sắp tới ngày cưới thì Trịnh sinh bị bệnh mà thác. Ba năm sau, thị ngự lại hứa gả cho nho sinh họ Vương, song cũng sắp tới ngày cưới thì Vương sinh cũng bị bệnh mà thác. Năm ấy, Giáng Tiên đã 19 song thị ngự chưa hứa gả cho ai khác.
Trong vùng, các nho sinh lập một hội văn, hùn tiền thuê một hội quán để hàng tháng họp mặt yến ẩm, bình luận văn chương. Tiểu Minh cũng có chân ở trong hội.
Một tối, trong buổi họp mặt ở hội quán, bỗng có nho sinh nói đùa:"Này Tiểu Minh! Bạn nổi tiếng là người gan dạ. Bây giờ, nếu bạn dám lên Thập Vương Ðiện vác tượng phán quan râu dài xuống đây thì chiều mai anh em sẽ hùn tiền làm một bữa tiệc thịnh soạn để đãi bạn" Tiểu Minh chẳng đáp, chỉ mỉm cười rồi đứng dậy bỏ đi.
Lát sau, có tiếng Tiểu Minh từ ngoài cửa vọng vào: "Ðã lên điện thỉnh được Tông Sư Râu xuống đây chơi rồi này!" Nhóm nho sinh sửng sốt, cùng đứng bật dậy. Tiểu Minh vác tượng vào đặt ở giữa bàn. Nhóm nho sinh kinh hãi, cùng chạy tới góc phòng, đứng rúm lại với nhau. Tiểu Minh lấy hồ và chén, đem tới trước tượng, rót rượu vào chén mà khấn:"Xin mời đại tông sư dùng với tiểu sinh một chén!" rồi rót rượu xuống đất. Tiểu Minh làm như thế ba lần. Nhóm nho sinh càng co rúm lại với nhau ở góc phòng, đứng dựa vào nhau mà run rẩy. Lát sau, có nho sinh kinh hãi quá, giục:"Thôi Tiểu Minh ơi! Bạn làm ơn vác tượng lên núi trả lại điện giùm đi!" Tiểu Minh bèn lấy chén mới, rót rượu mà khấn:"Tiểu sinh hành động điên cuồng, xin đại tông sư thứ lỗi. Nếu chẳng chê tiểu sinh là kẻ nghèo hèn thì hôm nào thấy hứng, xin mời đại tông sư quá bộ tới tệ xá ở gần đây để cùng uống. Tiểu sinh rất hân hạnh được đón tiếp!" Khấn xong, rót rượu xuống đất, rồi vác tượng đi. Nhóm nho sinh đều phục Tiểu Minh là người gan dạ. Tiểu Minh vác tượng lên núi, vào hành lang điện, trả lại chỗ cũ. Về nhà, Tiểu Minh thuật chuyện cho vợ nghe. Phùng thị kinh hãi, nói:"Mạo phạm quỷ thần như thế mà chẳng sợ bị tội chết hay sao?" Tiểu Minh cười, đáp:"Mượn tượng cho bạn bè coi rồi đem trả lại chỗ cũ thì có chi mà gọi là mạo phạm?"
Chiều sau, nhóm nho sinh hùn tiền làm tiệc đãi Tiểu Minh. Mọi người cùng yến ẩm, nói cười vui vẻ.
Gần tới nửa đêm, bữa tiệc mới tan. Tiểu Minh về nhà, thấy còn tửu hứng, bèn lại thắp đèn, đi tìm hồ rượu, đem ra phòng khách, ngồi uống một mình. Chợt thấy có người vén rèm bước vào, Tiểu Minh nhìn lên thì nhận ra là phán quan, vội đứng dậy nói:"Kính chào đại tông sư! Ðêm qua trót mạo phạm, phải chăng đêm nay tới tệ xá để lấy mạng?" Phán quan vuốt râu, mỉm cười, nói:"Chẳng phải thế! Ðêm qua, nhờ lòng hào sảng của nhân huynh, đã được uống bốn chén hảo tửu. Ðêm nay, rảnh rỗi, thấy hứng nên chiếu theo lời hẹn mà tới đó thôi!" Tiểu Minh mừng lắm, bèn kéo áo mời ngồi, rồi đem bộ đồ rượu đi rửa, bày lại lên bàn. Tiểu Minh toan nhấc hồ rượu đem đi hâm thì phán quan cản lại, nói:"Ðêm nay tiết trời ấm áp, có thể uống lạnh được!" Tiểu Minh vâng lời rồi vào nhà trong bảo vợ:"Nàng hãy xuống bếp làm đồ nhắm đãi khách!" Phùng thị hỏi:"Ai thế?" Tiểu Minh đáp:"Phán quan trên Thập Vương Ðiện" Phùng thị kinh hãi quá, nói: "Thôi, ở trong này đi, đừng ra ngoài ấy nữa!" Tiểu Minh cười, đáp:"Mời khách tới nhà, khách tới lại chẳng ra tiếp, có phải là vô lễ không? Làm đồ nhắm xong, bảo con ở lên gõ cửa để ta xuống lấy. Ðừng bắt nó bưng lên, kẻo nó kinh hãi, sẽ đánh đổ mất!" Nói xong, lại trở ra phòng khách. Phùng thị đành phải xuống bếp.
Lát sau, con ở lên gõ cửa. Tiểu Minh xuống bếp đem đồ nhắm lên, rồi rót rượu mời phán quan cùng mình yến ẩm. Trong tiệc, Tiểu Minh hỏi:"Quý tính ngài ra sao?" Phán quan đáp:"Họ Lục!" Hỏi:"Quý danh ngài ra sao?" Ðáp:"Chẳng có tên!" Hỏi:"Văn chương âm phủ có khác gì văn chương dương thế không?" Ðáp:"Ðại loại thì cũng như nhau" Hỏi:"Ngài có rành về các điển cố văn chương dương thế không?" Ðáp:"Cũng có biết chút ít!" Rồi cùng đem văn chương ra bàn luận, ý kiến rất tương đắc.
Phán quan uống rượu rất hào, uống liền một lúc mười chén mà vẫn chưa say. Tiểu Minh đã uống suốt buổi chiều nên mới uống thêm vài chén đã thấy vách tường nghiêng ngả, phải dựa lưng vào thành ghế mà ngủ. Ðến khi tỉnh giấc, bấc đèn đã lụi, khách đã đi rồi.
Từ đó thành lệ, cứ ba tối một lần, phán quan lại tới. Tình bạn mỗi ngày một thêm thân thiết.
Một tối, Tiểu Minh lấy văn bài mình mới làm đưa ra, nói:"Xin chấm giùm cho!" Phán quan chẳng khách sáo, cầm bài lên coi rồi đặt bút phê:"Dở lắm!"
Tuần sau. Một tối, Tiểu Minh say quá, nằm lăn xuống tràng kỷ ngủ, để mặc phán quan ngồi uống một mình. Lát sau, Tiểu Minh chợt mơ màng thấy ngực mình đau ê ẩm. Mở mắt ra coi, thấy phán quan một tay cầm dao, một tay đang kéo tim phổi mình ra khỏi lồng ngực, Tiểu Minh kinh hãi quá, vội lên tiếng hỏi:"Vốn chẳng oán thù, sao lại giết nhau?" Phán quan cười, đáp:"Ðâu có giết! Chỉ thay tim thôi! Ðừng có sợ!" rồi nhét tim phổi trở vào lồng ngực Tiểu Minh như cũ. Phán quan khép vết rạch, lấy vải quấn quanh, rồi nói:"Xong rồi!" Nghĩ chắc tràng kỷ phải bê bết máu, Tiểu Minh nhỏm dậy coi thì thấy vẫn sạch khô nên ngạc nhiên lắm. Ðưa mắt nhìn quanh, thấy trên bàn có một bọc vải, Tiểu Minh hỏi:"Bọc gì thế?" Phán quan đáp:"Tim của nhân huynh!" Hỏi:"Sao lại phải thay?" Ðáp:"Vì thấy văn dở quá nên biết bị tắc tim. Xét bao vạn xác chết, mới thấy một tim thông, nên mổ lấy đem tới, để thay cho nhân huynh. Bây giờ đem tim tắc về đền lại xác chết!" Ðáp xong, xách bọc ra khỏi phòng.
Sáng sau, Tiểu Minh lấy gương ra soi thì thấy vết rạch đã liền, chỉ còn một vết đỏ. Từ đó, trí nhớ khác hẳn, đọc bài một lần là thuộc, văn chương tiến bộ vượt mức, hành văn khác hẳn khi trước.
Tuần sau, Tiểu Minh lại lấy văn bài mình mới làm đưa ra, nói:"Xin chấm giùm cho, xem đã được chưa?" Phán quan coi xong, nói:"Ðược rồi!" Hỏi:"Ðậu hiếu liêm (cử nhân) được không?" Ðáp:"Ðược!" Hỏi:"Ðậu cao không?" Ðáp:"Cao!" Hỏi:"Ðậu thứ mấy?" Ðáp:"Ðậu thủ khoa!" Hỏi:"Bao giờ thì đậu?" Ðáp:"Mùa thu năm nay!" Hỏi:"Ðậu tiến sĩ được không?" Ðáp:"Không!" Hỏi:"Sao vậy?" Ðáp:"Phúc đức mỏng lắm, chẳng thể đại quý hiển được!" Mùa thu năm ấy, Tiểu Minh đi thi hương. Khi trường thi yết bảng, quả nhiên đậu thủ khoa.
Nhóm nho sinh trong hội văn tới nhà mừng, đòi cho xem bài thi. Tiểu Minh lấy bài đưa ra. Nhóm nho sinh coi xong, cùng nhìn nhau kinh ngạc. Có kẻ hỏi:"Sao văn chương bạn lại có thể tiến bộ tới mức ấy?" Tiểu Minh đáp:"Vì thay tim" Hỏi:"Ai thay cho?" Ðáp:"Lục phán quan ở Thập Vương Ðiện" Hỏi:"Giới thiệu cho nhau có được không?" Ðáp:"Ðược chớ sao không!"
Tuần sau, khi phán quan tới, Tiểu Minh nói: "Nhóm nho sinh trong hội văn thấy văn chương tiến bộ, muốn nhờ giới thiệu!" Phán quan đáp:"Ðược!"
Hôm sau, nhóm nho sinh tới hỏi:"Có giới thiệu được không?" Tiểu Minh đáp:"Ðược!" rồi thuật chuyện cho nghe. Nhóm nho sinh mừng lắm, nhờ chuyển lời thỉnh phán quan tới hội quán văn dự tiệc vào tiết nguyên tiêu, tối rằm tháng giêng, đầu canh một. Tiểu Minh chuyển lời. Phán quan ưng thuận.
Ðúng hẹn, phán quan tới. Thấy bộ râu đỏ của khách cử động, cặp mắt sáng loáng như điện chớp, nhóm nho sinh kinh hãi xanh mặt, răng đánh lập cập, lủi dần hết, chỉ còn lại có phán quan với Tiểu Minh. Tiểu Minh nói:"Họ kinh hãi, lủi hết rồi! Xin mời về tệ xá đối ẩm vậy!" Phán quan đáp:"Xin vâng!"
Tới nhà, Tiểu Minh đem rượu ra mời khách. Ðến khuya, Tiểu Minh say khướt, nói lè nhè:"Thay tim cho, đã đội ơn rất nhiều. Nay muốn phiền việc khác, chẳng biết có được không?" Phán quan hỏi:"Việc gì?" Ðáp:"Tiện nội vốn xấu xí, kết duyên với tiểu sinh từ hồi còn ít tuổi. Trộm nghĩ tim mà còn có thể thay được thì chắc diện mạo cũng có thể đổi được, nên muốn xin đại tông sư đổi diện mạo cho tiện nội, chẳng biết có được không?" Cười, nói:"Ðược! Song phải để từ từ, chờ dịp!"
Ba ngày sau, vào lúc quá nửa đêm, Tiểu Minh đang ngủ, bỗng nghe có tiếng gõ cổng, vội vùng dậy, chạy ra mở. Nhận ra là phán quan, Tiểu Minh bèn mời vào nhà. Thắp đèn lên thì chợt thấy khách xách theo một bọc vải, máu đào còn nhỏ giọt, Tiểu Minh kinh hãi, hỏi:"Bọc gì thế?" Phán quan đáp:"Ðầu mỹ nhân! Hôm nọ nhân huynh có dặn lo cho sắc đẹp của lệnh chính. Ðêm nay vừa tìm được đầu một mỹ nhân nên đem tới để thực hiện lời hứa!" rồi cầm bọc vải chạy thẳng tới cửa phòng Phùng thị. Tiểu Minh đang lo cửa phòng vợ mình bị khóa, nên vội chạy theo để mở thì đã thấy phán quan đặt bàn tay phải lên cánh cửa rồi thấy cánh cửa tự động mở tung. Phán quan chạy thẳng tới giường Phùng thị. Tiểu Minh cũng chạy tới theo thì thấy vợ mình đang ngủ. Phán quan đưa bọc vải cho Tiểu Minh cầm, rồi rút từ hia ra một lưỡi dao sáng loáng, ấn vào cổ Phùng thị, ngọt tựa bổ dưa. Ðầu Phùng thị rơi ra gối. Phán quan lấy đầu mỹ nhân trong bọc, ráp lên cổ, ngắm nghía cho ngay ngắn, lấy tay ép đầu dính vào mình, rồi lấy gối phủ quanh. Sau đó, trao đầu Phùng thị cho Tiểu Minh, nói:"Cất đầu lệnh chính đi, phòng khi cần dùng tới!" rồi xin cáo biệt.
Sáng ra, Phùng thị tỉnh giấc. Thấy cổ ngưa ngứa, Phùng thị đưa tay xoa thì thấy một vật nhỏ tròn tròn. Giật ra coi, thấy là cục máu, Phùng thị kinh hãi quá, vội gọi con ở lấy nước rửa mặt. Con ở bưng chậu nước lên thì thấy đầu nữ chủ rối bù, tóc xõa kín mặt, đệm giường thấm máu, nên rất kinh hãi, há miệng đứng nhìn. Rửa mặt xong, Phùng thị thấy chậu nước đỏ lòm, còn con ở thì thấy nữ chủ là một người khác lạ. Cả chủ lẫn tớ cùng cực kỳ kinh hãi. Phùng thị sai con ở đi lấy gương soi. Thấy mình chẳng phải là mình, Phùng thị hoảng hốt, lên tiếng gọi chồng. Tiểu Minh chạy vào. Phùng thị hỏi:"Sao diện mạo thiếp lại khác lạ thế?" Tiểu Minh đáp:"Lục phán quan đã đổi đầu cho nàng cũng như đã thay tim cho ta!" Lúc đó Phùng thị mới vỡ lẽ. Tiểu Minh nhìn vợ, thấy quả là một trang mỹ nhân khác lạ, mi thanh mục tú, má lúm đồng tiền, cực kỳ xinh đẹp, tựa người trong tranh. Tiểu Minh hỏi vợ:"Nàng có ưng chăng?" Phùng thị mỉm cười, không đáp. Tiểu Minh liền chạy tới vạch cổ vợ ra coi thì thấy chỉ có một vết nhỏ, màu hồng lạt.
Năm ấy, tối rằm tháng giêng, nhằm tiết nguyên tiêu, cô con út của Ngô thị ngự là Giáng Tiên, lên núi Lục Dương vãn cảnh, có tì nữ theo hầu. Trong đoàn khách đăng sơn, có một tên cướp háo sắc. Nhìn thấy Giáng Tiên xinh đẹp, tên cướp ưa thích lắm, bèn dò hỏi cho ra nhà thị ngự.
Ba ngày sau, cũng vào buổi tối, tên cướp leo thang, vượt tường vào nhà, rút dao khoét cửa phòng Giáng Tiên, lẻn vào phòng chém chết tì nữ, rồi xông tới giường toan cưỡng chiếm Giáng Tiên. Giáng Tiên la hét, ra sức chống cự. Tên cướp tức giận, đâm chết Giáng Tiên rồi bỏ chạy. Phu nhân nghe tiếng huyên náo ở phòng con, vội sai hai tì nữ chạy tới coi. Vào phòng, thấy hai xác chết, chúng kinh hãi quá, tri hô ầm ĩ. Cả nhà nhốn nháo, cùng chạy lên coi rồi cùng gào khóc thất thanh. Tới nửa đêm, thị ngự sai gia nhân đem xác tì nữ xuống quàn ở nhà ngang, rồi đem xác Giáng Tiên lên quàn ở phòng khách, cắt hai tì nữ ngồi canh. Lát sau, hai tì nữ mệt quá, nằm lăn ra ngủ.
Sáng sau, thị ngự sai gia nhân khâm liệm xác con thì thấy xác đã bị mất đầu. Thị ngự giận lắm, cho rằng hai tì nữ đã chểnh mảng, để chó lên phòng khách tha mất đầu con, nên ra lệnh đánh đòn.
Thị ngự sai gia nhân lên huyện đường trình vụ án mạng. Quan tể giận lắm, ra lệnh cho thuộc hạ phải ráo riết lùng bắt tên cướp. Ba tháng sau, thuộc hạ vẫn chưa tìm ra manh mối.
Một hôm, có kẻ phong thanh nghe được chuyện Phùng thị đổi đầu với một mỹ nhân, trông giống đầu cô con út của thị ngự, bèn tới mách thị ngự. Thị ngự nửa tin nửa ngờ, song cũng vẫn sai bà vú đi dò xét. Bà vú tới nhà Tiểu Minh, gõ cổng xin việc. Tiểu Minh cho vào gặp Phùng thị. Thấy mặt Phùng thị, bà vú kinh hãi, đưa tay bụm miệng cho khỏi kêu lên. Bà vú giả vờ xin việc, Phùng thị từ chối, nói rằng nhà mình đã đủ người làm. Bà vú về thuật chuyện. Thị ngự nghe xong, chỉ thấy hoang mang, chẳng hiểu ra sao. Cuối cùng, thị ngự lại nghi rằng Tiểu Minh đã dùng yêu thuật sát hại con mình.
Hôm sau, thị ngự đích thân tới thăm Tiểu Minh. Sau một tuần trà, Tiểu Minh hỏi:"Chẳng hay lão quan tới tệ xá có điều chi dạy bảo?" Thị ngự đáp:"Lão phu nghe đồn lệnh chính vừa đổi đầu với tiện nữ nên lão phu muốn tới xin túc hạ cho gặp lệnh chính để xem lời đồn có đúng hay không?" Tiểu Minh nói:"Thưa, được!" rồi gọi vợ ra chào khách. Thấy diện mạo Phùng thị đúng là diện mạo con gái mình nhưng tay chân thì khác hẳn, thị ngự cũng chẳng hiểu ra sao. Tiểu Minh hỏi vợ:"Nàng có nhận ra quan thị ngự không?" Phùng thị ngơ ngác, lắc đầu. Thị ngự nói:"Chắc là túc hạ đã dùng yêu thuật sát hại tiện nữ!" Tiểu Minh đáp:"Tiện nội nằm mộng thấy được đổi đầu. Tiểu sinh cũng rối trí, chẳng hiểu ra sao. Nay lão quan lại nghi cho tiểu sinh sát hại lệnh ái thì thực là oan cho tiểu sinh!" Thị ngự ra về song trong lòng vẫn nghi là Tiểu Minh đã dùng yêu thuật sát hại con mình.
Sáng sau, thị ngự làm đơn kiện, nạp lên huyện đường. Quan tể đọc đơn, nửa tin nửa ngờ, sai lính đi bắt vợ chồng Tiểu Minh cùng con ở lên huyện đường thẩm vấn. Cả ba cùng khai như lời Tiểu Minh đã nói với thị ngự. Quan chẳng biết kết án ra sao, đành thả cho về.
Ba tối sau, phán quan tới đối ẩm. Tiểu Minh thuật chuyện thị ngự kiện mình, rồi hỏi: "Có cách chi minh oan được cho nhau chăng?" Phán quan đáp: "Có! Dễ lắm! Ðể bảo chính con gái nói cho cha mẹ biết!" rồi cáo biệt.
Ðêm ấy, thị ngự nằm mộng thấy con gái về nói: "Tiểu nữ và con tì nữ cùng bị kẻ cướp họ Dương, tên Ðại Niên ở Tô Khê sát hại. Vì diện mạo vợ Chu hiếu liêm xấu xí nên Lục phán quan ở Thập Vương Ðiện lấy đầu tiểu nữ mà đổi cho. Vì thế, tuy tiểu nữ đã thác song diện mạo vẫn còn. Xin phụ thân chớ nghi oan cho Chu hiếu liêm!" Thị ngự tỉnh giấc, lấy làm lạ, bèn thuật lại cho phu nhân nghe. Phu nhân nói chính mình cũng nằm mộng thấy như thế. Thị ngự bèn đích thân lên huyện đường, thuật lại giấc mộng của vợ chồng mình cho quan tể nghe.
Hôm sau, quan sai thuộc hạ đi Tô Khê điều tra hư thực thì thấy rằng ở Tô Khê quả có một kẻ tên Dương Ðại Niên. Quan liền sai lính tới tìm bắt. Lính tìm bắt được, trói giải về huyện. Quan sai lính khảo đả điều tra. Bị đòn đau quá, Ðại Niên đành phải thú nhận hết tội lỗi. Quan liền lên án tử hình Ðại Niên.
Thị ngự tới nhà Tiểu Minh, xin Phùng thị nhận mình làm cha. Phùng thị hỏi ý chồng. Tiểu Minh chấp thuận. Phùng thị bèn đồng ý. Thị ngự liền xin đầu cũ của Phùng thị đem về chôn cất với thi thể của con.
Năm ấy, Tiểu Minh chẳng tin lời phán quan, cứ đi thi hội (thi tiến sĩ). Văn chương cực hay song vẫn bị hỏng vì phạm trường quy. Ba năm sau, lại đi thi rồi lại hỏng. Ba năm sau nữa, lại đi thi rồi lại hỏng. Thấy ba lần thi, ba lần hỏng, Tiểu Minh mới tin lời phán quan là đúng. Vì thế, giấc mộng tiến sĩ ấp ủ từ ba chục năm qua, nay đột nhiên trở thành nguội lạnh. Thi hỏng lần thứ ba, về tới nhà thì vợ sanh con trai. Tiểu Minh đặt tên con là Nhĩ Vĩ.
Năm năm sau. Một tối, phán quan tới, nói:"Chẳng còn thọ lâu đâu!" Tiểu Minh hỏi:"Bao giờ thì chết?" Ðáp: "Ðúng năm hôm nữa thôi!" Hỏi:"Có giúp gì được nhau không?" Ðáp:"Không! Mệnh trời đã định, ai mà đổi được? Vả lại, dưới mắt thường nhân thì sống chết là hai song dưới mắt đạt nhân thì sống chết chỉ là một. Sao cứ nghĩ sống là vui, chết là buồn?" Khen:"Lời nói chí lý thay!"
Sáng ra, Tiểu Minh tự sửa soạn vải liệm, quan quách. Năm hôm sau, Tiểu Minh tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo đẹp, lên giường nằm rồi thác.
Tối ấy, Phùng thị ôm quan tài chồng mà khóc. Bỗng thấy chồng xăm xăm từ ngoài cổng bước vào, Phùng thị kinh hãi quá, suýt la lên. Chợt nghe thấy tiếng chồng nói:"Ðừng sợ! Ta thác rồi song thấy chẳng khác chi khi còn sống. Thương nàng mẹ góa con côi, nên mới hiện về thăm một lát mà thôi!" Phùng thị cảm động, mếu máo, nói:"Thiếp nghe nói ai thác mà còn linh thiêng thì có thể hoàn hồn, tái sinh được. Lang quân còn linh thiêng, sao chẳng trở về sống với vợ con?" Tiểu Minh đáp:"Ai đổi được mệnh trời? Làm gì có chuyện hoàn hồn với tái sinh!" Hỏi:"Thế bây giờ xuống âm phủ, lang quân làm nghề gì?" Ðáp:"Nhờ Lục phán quan tiến dẫn, ta đã được cử giữ chức chủ bạ, coi sóc hồ sơ. Quan tước tuy nhỏ song được cái công việc nhàn nhã lắm!" Phùng thị vừa toan lên tiếng hỏi nữa thì Tiểu Minh đã gạt đi, nói:"Lục phán quan cùng về với ta. Nàng hãy xuống bếp làm tiệc đi!" Nói xong, lại xăm xăm bước ra khỏi cổng. Phùng thị bèn xuống bếp làm tiệc rồi đem lên bày ở chỗ cũ. Chợt nghe thấy trong phòng có tiếng rót rượu, rồi có tiếng nói cười của chồng với khách, hào khí vẫn thanh cao như trước. Tới nửa đêm, đột nhiên tiếng nói cười im bặt.
Từ đó, cứ bốn tối một lần, Tiểu Minh lại hiện về thăm vợ. Lần nào về, cũng dặn dò vợ đủ mọi gia vụ rồi mới bảo vợ làm tiệc đãi khách. Có tối ở lại tới gần sáng. Thỉnh thoảng lại hiện về thêm một lần để bồng con.
Ba năm sau. Tối nào Tiểu Minh cũng hiện về dạy con học. Nhĩ Vĩ mới lên 8 song cũng đã thông minh. Học cha được một năm đã biết cách làm văn.
Bảy năm sau. Nhĩ Vĩ 15, thi đậu vào trường huyện. Từ đó, Tiểu Minh rất ít về thăm nhà. Năm thì mười họa mới hiện về một lát mà thôi.
Một tối, Tiểu Minh hiện về nói với vợ:"Tối nay ta về để vĩnh biệt nàng!" Phùng thị hỏi:"Lang quân đi đâu?" Ðáp:"Vâng mệnh Thượng Ðế, ta đi làm quan ở xa. Cách trở phiền hà, chẳng về được nữa!" Phùng thị ôm lấy chồng mà khóc. Tiểu Minh nói:"Ðừng làm thế! Con đã lớn, gia nghiệp vẫn còn, đủ sống là được rồi! Từ thượng cổ tới nay, có cặp loan phượng nào được đoàn tụ với nhau mãi mãi đâu?" Rồi quay qua nói với con:"Con hãy gắng trở thành một người tốt. Mười năm nữa, ta sẽ gặp lại con lần chót!" Nói xong, xăm xăm bước ra khỏi cổng mà đi. Từ đó, tuyệt vô âm tín.
Mười năm sau. Nhĩ Vĩ 25, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan, chức hành nhân. Một hôm, Nhĩ Vĩ phụng mệnh vua đi tế thần ở núi Tây Nhạc. Khi cùng đoàn tùy tùng qua huyện Hoa Âm, chợt thấy một cỗ xe từ xa xông thẳng vào đoàn ngựa của mình, Nhĩ Vĩ lấy làm lạ, giương mắt nhìn thì nhận ra cha đang ngồi trong xe với một xa phu. Nhĩ Vĩ vội xuống ngựa, nằm phục bên trái đường mà khóc. Tiểu Minh bảo xa phu dừng xe, nói:"Con làm quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ta thác, nhắm mắt được rồi!" Nhĩ Vĩ vẫn nằm phục, chẳng dám đứng dậy. Tiểu Minh bèn bảo xa phu phóng xe đi. Lúc đó, Nhĩ Vĩ mới khép nép đứng dậy, nhìn theo. Chợt thấy xe dừng lại, rồi thấy cha tháo bội đao đeo ở bên người, trao cho xa phu. Xa phu chạy tới trao cho Nhĩ Vĩ rồi quay trở lại xe. Nhĩ Vĩ còn đang bàng hoàng thì bỗng nghe thấy tiếng cha nói vọng từ xa tới:"Ðeo bội đao vào người thì sẽ được quý hiển!" Rồi thấy xe vụt phóng đi. Nhĩ Vĩ vội lên ngựa đuổi theo song vì xe phóng nhanh quá nên Nhĩ Vĩ đuổi không kịp. Trong nháy mắt, xe đã biến mất hút. Nhĩ Vĩ dừng cương, buồn bã hồi lâu. Rút bội đao ra coi thì thấy cách chế tạo cực kỳ tinh xảo. Lại thấy trên bội đao có khắc dòng chữ:"Mật muốn lớn song tâm muốn nhỏ, trí muốn tròn song hành muốn vuông"
Nhĩ Vĩ làm quan, được thăng dần tới chức tư mã. Sanh được năm trai, đặt tên là Nhĩ Thẩm, Nhĩ Tiềm, Nhĩ Vật, Nhĩ Hồn, Nhĩ Thâm. Một đêm, Nhĩ Vĩ nằm mộng thấy cha về, nói:"Bội đao nên cho thằng Nhĩ Hồn!" Tỉnh giấc mới biết là chiêm bao.
Khi về già, Nhĩ Vĩ vâng lời cha, đem bội đao cho Nhĩ Hồn. Về sau, Nhĩ Hồn làm quan tới chức tổng hiến, cũng nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, chính trực như cha.
Danh hoa cao chiếm nhất chi xuân
Nhẫn thính hoàng ngôn biệt tặng nhân
Lưu đắc hoàng kim vô dụng xứ
Phân minh a mẫu ngộ nhi thân
Thủ phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, có thanh niên họ Lương, tên Hữu Tài, con của một gia đình khá giả.
Ðược cha mẹ nuông chiều, Hữu Tài thường đàn đúm với lũ bạn du đãng, đứng đầu là thanh niên họ Mã, tên Ðắc Lợi. Cha mất, Hữu Tài ở với mẹ. Mẹ mất, Hữu Tài bán nhà, lấy tiền đi rượu chè, cờ bạc với Ðắc Lợi và lũ bạn. Bị mọi người trong vùng ghét bỏ, Hữu Tài bèn đem chút tiền còn lại sang thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông, mua một căn nhà nhỏ để cư ngụ và một gánh hàng xén bán dạo để kiếm kế sinh nhai.
Tỉnh Sơn Ðông có dãy Thái Hành Sơn, gồm nhiều ngọn núi cao. Trên đỉnh ngọn Vương Sơn, có ngôi chùa Vương Sơn Tự. Hàng năm, cứ vào ngày rằm tháng tư, khi chùa mở hội Quỳ Hương, có tới hàng ngàn thanh niên nam nữ trong vùng rủ nhau lên chùa trẩy hội. Vào giữa trưa, có một thiền sư ra Phật điện thỉnh chuông rồi thắp một nén hương, cắm vào bát nhang trên bàn thờ Phật. Khách trẩy hội cùng quỳ xuống đất, la liệt trong chùa, ngoài sân. Khi nén hương đã tàn, khách rủ nhau đứng dậy, cùng vào điện lễ Phật.
Năm ấy, sáng ngày rằm tháng tư, Hữu Tài theo đám đông lên chùa trẩy hội. Quá trưa, tới sân chùa, thấy trong đám khách quỳ hương có một nữ lang xinh đẹp, tuổi chừng 17, 18, Hữu Tài thích quá, vội quỳ xuống sân, lê gối lại gần. Thấy có kẻ lạ lê lại gần mình, nữ lang cau mày, lê gối tránh xa. Hữu Tài lại lê theo. Nữ lang tức giận, đứng phắt dậy, bỏ buổi l, rảo bước ra về. Hữu Tài cũng vội đứng dậy chạy theo. Ra tới cổng chùa, thấy nữ lang đã biến mất, Hữu Tài thất vọng, lủi thủi ra về.
Dọc đường, thấy ở phía đằng trước có hai người đang đi, Hữu Tài vội rảo bước. Khi bắt kịp, Hữu Tài nhận ra một người chính là nữ lang trên chùa, còn người kia là một bà lão. Hữu Tài chợt nghe thấy bà lão nói với nữ lang:"Mẹ chỉ có một mình con. Nay con đã lớn, mẹ mong con sớm có chồng. Mẹ vẫn cầu Trời khấn Phật cho con lấy được một tấm chồng đàng hoàng, tử tế, chứ chẳng cần phải danh giá, giàu sang! Nếu con cứ chịu khó theo mẹ lên chùa lễ Phật như thế này thì tốt lắm!" Nghe thấy thế, Hữu Tài mừng lắm, rảo bước vượt qua, rồi quay đầu lại, cúi chào bà lão. Bà lão gật đầu đáp l. Hữu Tài nói: "Thưa lão mẫu, con họ Lương, tên Hữu Tài. Chẳng hay lão mẫu họ chi?" Bà lão đáp:"Lão thân họ Vân!" Nói:"Trưa nay con lên chùa trẩy hội, được gặp hiền muội đây. Chẳng hay hiền muội tên chi?" Ðáp:"Em tên Thúy Tiên!" Hỏi:"Bây giờ lão mẫu đi đâu?" Ðáp:"Lão thân về nhà!" Hỏi:"Nhà ta ở đâu?" Ðáp:"Ở phía tây dãy núi này, cách đây chừng bốn chục dặm!" Hỏi:"Trời tối rồi, làm sao lão mẫu về kịp?" Ðáp:"Chính vì thế mà hai mẹ con vừa mới bàn tính với nhau xong!" Hỏi:"Thế lão mẫu quyết định ra sao?" Ðáp:"Hai mẹ con đã quyết định tới ngủ nhờ nhà bào huynh của lão thân ở gần đây!" Nói:"Lúc nãy, con đi ở đằng sau, tình cờ được nghe lão mẫu nói với Thúy muội là lão mẫu chỉ mong có một chàng rể đàng hoàng, tử tế nên con nghĩ con có thể xin làm rể của lão mẫu được!" Vân bà bèn quay qua hỏi Thúy Tiên:"Lương lang đây muốn xin cưới con làm vợ đó, con có chịu không?" Thúy Tiên lắc đầu đáp:"Con không chịu!" Hỏi:"Tại sao?" Ðáp: "Vì con thấy gã có tướng vô hạnh, bất nghĩa!" Hữu Tài vội nói:"Thưa lão mẫu, Thúy muội mới gặp con có một lần mà đã quyết đoán như vậy thì quả là lầm! Có quỷ thần chứng giám, con xin thề với lão mẫu là con rất đứng đắn, thủy chung!" Nghe thấy thế, Vân bà liền quyết định: "Ðã dám thề thốt nặng lời như vậy thì lão thân cũng phải tin thôi! Lão thân bằng lòng gả con cho đó!" Nghe mẹ nói, Thúy Tiên tái mặt song cũng chỉ im lặng, chẳng dám phản đối. Hữu Tài bèn quay qua hỏi chuyện Thúy Tiên. Thúy Tiên chẳng thèm đáp. Thấy thế, Vân bà nói:"Con phải nói chuyện với Lương lang đi chứ" Thúy Tiên đáp: "Có chuyện gì đâu mà nói!" Hữu Tài bèn nói lảng sang chuyện khác:"Chắc từ đây tới nhà cữu phụ cũng còn xa! Xin lão mẫu dừng chân, để con đi thuê kiệu!" Nói xong, chạy đi ngay. Lát sau, Hữu Tài trở lại với bốn phu khiêng, mời Vân bà và Thúy Tiên lên kiệu. Vân bà dắt Thúy Tiên lên ngồi rồi chỉ đường cho nhóm phu khiêng. Hữu Tài đi chân theo sau, trông tựa đầy tớ theo hầu chủ vậy. Hữu Tài luôn miệng nhắc nhở nhóm phu khiêng phải đi chầm chậm cho êm kiệu.
Lát sau, vào một sơn thôn, tới cổng một biệt thự, Vân bà nói:"Ðến nơi rồi!" Nhóm phu khiêng liền dừng chân, hạ kiệu. Vân bà dắt Thúy Tiên xuống. Hữu Tài vội lấy tiền ra trả cho nhóm phu khiêng quay về. Vân bà dắt Thúy Tiên và Hữu Tài qua cổng, vào sân. Thấy có hai ông bà lão đang đứng ở giữa sân tựa hồ như chờ khách, Hữu Tài vội chắp tay cúi đầu chào. Hai ông bà đáp l. Vân bà giới thiệu với Hữu Tài:"Ðây là đại ca và đại tẩu của mẹ" Rồi quay qua giới thiệu với hai ông bà:"Ðây là cháu Hữu Tài, họ Lương, vị hôn phu của cháu Thúy Tiên" Hai ông bà niềm nở mời mọi người vào sảnh đường ngồi uống trà, nói chuyện.
Lát sau, gia nhân bày tiệc. Sau bữa tiệc, ông lão nói với Vân bà:"Hôm nay tốt ngày, hiền muội nên cho hai cháu làm lễ thành hôn ngay!" Vân bà vâng dạ, rồi quay qua nói với Thúy Tiên:"Cữu phụ đã dạy thế thì con hãy đi tắm gội, trang điểm, rồi ra đây làm lễ thành hôn!" Thúy Tiên cau mày, quay nhìn Hữu Tài, nói:"Tôi biết anh là kẻ chẳng ra gì! Giờ đây, tôi vâng lời mẹ tôi mà làm lễ thành hôn với anh! Tuy nhiên, anh chớ nên tính chuyện ăn đời ở kiếp với tôi, kẻo sau này anh lại trách tôi là không nói trước!" Hữu Tài chẳng thèm để ý tới lời nói của Thúy Tiên, chỉ xua tay, đáp:"Ðược rồi! Ðược rồi!" Ông lão bèn sai gia nhân bày hương án giữa sảnh đường cho Thúy Tiên và Hữu Tài làm lễ giao bái.
Lễ xong, ông lão sai gia nhân đưa Vân bà đi nghỉ, rồi đưa vợ chồng Thúy Tiên vào chung phòng. Thấy Hữu Tài mặt mũi bẩn thỉu, chân tay nhăn nhúm, ghét bám đầy người, mồ hôi nồng nặc, Thúy Tiên bắt Hữu Tài phải đi tắm rửa sạch sẽ rồi mới cho vào ngủ chung.
Sáng sau, Vân bà bảo Hữu Tài:"Con hãy lên xin phép cữu phụ, cữu mẫu cho về trước. Mẹ sẽ dắt em Thúy Tiên tới sau!" Hữu Tài bèn lên chào ông bà lão rồi xin phép ra về. Tới nhà, Hữu Tài quét dọn phòng khách cho sạch sẽ rồi ngồi chờ. Lát sau, quả nhiên Vân bà dắt Thúy Tiên tới. Vân bà đảo mắt nhìn quanh căn phòng một lượt rồi nói:"Nhà nghèo thế này thì lấy gì mà nuôi vợ? Thôi, để mẹ về sửa soạn cho ít đồ rồi sáng mai mẹ sẽ bảo tụi nhỏ đem sang đây cho!" Nói xong, Vân bà từ biệt.
Sáng sau, quả nhiên Hữu Tài thấy có một bọn tiểu đồng, tì nữ đem đồ đạc, quần áo, thức ăn sang xếp đầy phòng khách nhà mình. Một tì nữ tới nói với Thúy Tiên: "Lão phu nhân sai tiểu tì sang đây ở để hầu hạ tiểu thư!" Thúy Tiên gật đầu. Một tiểu đồng cầm một gói lớn tới trao cho Hữu Tài, nói:"Lão phu nhân sai tiểu nhân đem gói tiền này sang biếu hiền lang!" Hữu Tài mừng lắm, nhận gói, gửi lời cám ơn lão phu nhân rồi mời cả bọn ở lại ăn trưa. Chúng đều từ chối rồi xin phép ra về.
Ðược gói tiền của Vân bà cho, Hữu Tài quyết tâm bỏ nghề hàng xén, ở nhà ăn chơi. Hữu Tài bèn liên lạc với Ðắc Lợi ở Thái Nguyên, bảo gã rủ lũ bạn du đãng ngày trước sang Tế Nam, tới nhà mình rượu chè, cờ bạc, Ðắc Lợi bèn dẫn lũ chúng sang. Thúy Tiên lánh mặt, chẳng chịu ra tiếp. Hữu Tài bèn đàn đúm trở lại với lũ chúng.
Cờ bạc được đúng một năm thì Hữu Tài thua vừa hết gói tiền của Vân bà cho. Hữu Tài xin tiền vợ. Thúy Tiên lấy tiền ra cho. Hữu Tài lại đem cờ bạc rồi lại thua hết. Xin lần thứ nhì, Thúy Tiên cũng cho. Xin lần thứ ba, Thúy Tiên cũng cho. Xin lần thứ tư, Thúy Tiên nói:"Hết rồi!" Hữu Tài bèn nói:"Nếu hết rồi thì hãy dắt tôi về nhà lão mẫu để tôi xin!" Thúy Tiên lắc đầu từ chối. Vì thế, tuy đã làm rể hơn một năm mà Hữu Tài vẫn chưa biết nhà mẹ vợ mình ở chốn nào. Muốn có tiền để cờ bạc, Hữu Tài phải lấy cắp nữ trang của vợ đem đi bán. Thúy Tiên biết chuyện nên một hôm nói với chồng:"Anh cờ bạc đã thua hết gói tiền của mẹ tôi cho. Anh xin tôi ba lần, tôi đều lấy tiền ra cho. Anh xin tôi lần thứ tư, tôi chẳng còn tiền để cho anh vì tôi cũng hết rồi. Nay anh lại lấy cắp nữ trang của tôi đem đi bán để lấy tiền cờ bạc thì thực là quá lắm! Nếu bây giờ anh chịu tuyệt giao với lũ bạn của anh thì tôi sẽ xin với mẹ tôi cho anh thêm chút vốn mà làm ăn!" Hữu Tài chỉ ậm ừ, song vẫn chứng nào tật nấy. Thúy Tiên bèn cất giấu hết nữ trang, đề phòng chồng còn hơn đề phòng trộm cướp.
Một sáng, Hữu Tài còn đang ngủ, Ðắc Lợi đã dẫn lũ bạn tới gõ cửa. Thúy Tiên lờ đi như không nghe tiếng, song vì chúng cứ gõ mãi nên Thúy Tiên đành phải ra mở, bảo chúng vào ngồi chờ Hữu Tài ở phòng khách. Ðược nhìn thấy Thúy Tiên lần đầu, chúng đều sững sờ kinh ngạc vì nhan sắc khuynh thành của Thúy Tiên.
Lát sau, Hữu Tài ngủ dậy, ra tiếp bạn. Chúng xúm lại nói đùa:"Anh giàu quá mà cứ than là nghèo!" Hữu Tài hỏi:"Tôi giàu ở chỗ nào?" Ðắc Lợi đáp:"Hôm nay tụi tôi mới được gặp chị. Chị đẹp quá! Chắc chị là tiên chứ chẳng phải là phàm! Tuy nhiên, tụi tôi lại nghe nói anh chị chẳng được tương đắc. Vậy thì tại sao anh không đem bán chị đi, lấy tiền mà rượu chè, cờ bạc? Nếu đem bán chị cho nhà giàu thì cũng được năm trăm lạng, còn nếu đem bán chị cho kỹ viện thì có thể được tới ngàn lạng. Anh giàu ở chỗ đó chứ còn ở chỗ nào!" Hữu Tài chẳng đáp song trong bụng mừng thầm là đã được Ðắc Lợi gợi cho một ý kiến quá hay. Buổi tối, sau khi tin lũ bạn ra về, Hữu Tài vào phòng than với vợ:"Nàng à! Nhà mình nghèo quá, chẳng biết phải làm sao đây?" Thúy Tiên cứ lờ đi, chẳng đáp. Thấy thế, Hữu Tài tức tối, quay ra đá thúng đụng nia, gọi tì nữ lên la mắng vô lý, cố ý gây sự với vợ. Thúy Tiên vẫn cứ lờ đi, chẳng nói năng chi.
Sáng sau, Thúy Tiên sai tì nữ đi chợ mua rượu thịt về làm một bữa tiệc thịnh soạn cho hai vợ chồng. Giữa tiệc, Thúy Tiên nói:"Thấy anh cứ than nghèo, lo lắng suốt ngày đêm, tôi cũng muốn giúp anh, song tôi hết tiền rồi! Làm vợ mà chẳng giúp được chồng, tôi cũng hổ thẹn lắm. Suy đi nghĩ lại, tôi thấy nhà mình chẳng còn vật chi đáng giá, ngoại trừ con tì nữ. Vì thế, tôi muốn bàn với anh đem bán nó đi, lấy vốn mà làm ăn!" Hữu Tài lắc đầu, nói:"Bán nó đi thì được bao nhiêu?" Thúy Tiên im lặng.
Lát sau, đột nhiên Thúy Tiên nói:"Chắc anh cũng biết rằng khi anh cần tiền mà tôi có là tôi cho anh ngay, chẳng hề từ chối. Song bây giờ tôi cũng kiệt quệ rồi, chẳng còn tiền để cho anh nữa. Tôi có bổn phận phải chia sẻ nỗi lo âu với anh. Tôi nghĩ kỹ rồi! Bây giờ anh chẳng còn cách gì hay hơn là cách đem bán tôi cho nhà giàu. Làm như thế, anh vừa kiếm được nhiều tiền hơn là bán con tì nữ, mà lại vừa giữ được nó ở nhà để sai bảo!" Nghe thấy thế, Hữu Tài mừng lắm song vẫn giả vờ kinh ngạc, nói:"Việc gì mà đã đến nỗi phải làm như vậy?" Thúy Tiên nghiêm nét mặt, nói:"Tôi khuyên anh nên làm như vậy vì chỉ có cách đó mới cứu anh thoát khỏi cảnh túng quẫn mà thôi! Anh cũng chẳng cần phải để ý tới dư luận làm gì!" Trong bụng, Hữu Tài mừng lắm, song ngoài mặt, vẫn làm ra vẻ buồn bã, nói:"Cứ để thủng thẳng xem sao đã!" Tuy nói thế nhưng sáng sớm hôm sau, Hữu Tài đã tìm tới kỹ viện Mai Hoa, ngỏ ý muốn bán vợ. Mụ chủ kỹ viện đòi cho xem mặt. Hữu Tài liền dắt mụ về nhà, gọi Thúy Tiên ra tiếp. Thúy Tiên chỉ ra chào hỏi mụ vài câu rồi lại trở vào phòng. Thấy Thúy Tiên có nhan sắc khuynh thành, mụ mừng lắm, đòi mua ngay. Mụ hỏi:"Ðúng giá bao nhiêu?" Hữu Tài đáp:"Ngàn lạng!" Hai bên cò kè bớt một thêm hai rồi giờ lâu ngã giá, thỏa thuận ngoài tám trăm. Sợ Hữu Tài đổi ý, mụ đòi Hữu Tài phải ký ước thư ngay. Hữu Tài liền ký.
Tin khách về rồi, Hữu Tài vào phòng thuật chuyện cho vợ nghe. Thúy Tiên nói:"Thế là kể từ nay tình nghĩa đôi ta đã hết. Tuy nhiên, trước khi vào kỹ viện, tôi phải về thăm mẹ tôi một lần! Trước kia, mẹ tôi có giúp đỡ anh đủ thứ, nay anh đem bán tôi cho kỹ viện thì anh cũng nên theo tôi về mà nói với mẹ tôi một lời!" Hữu Tài nói:"Chỉ sợ lão mẫu ngăn cản, không cho tôi bán nàng thôi!" Thúy Tiên lắc đầu, nói:"Mẹ tôi chẳng ngăn cản anh đâu vì mẹ tôi vẫn biết là tôi chẳng muốn lấy anh mà!" Nghe vợ nói có lý, Hữu Tài bèn theo lời.
Sáng sau, hai vợ chồng dắt tì nữ về thăm Vân bà. Gần nửa đêm, về tới nhà. Qua ba lần cổng, một lần sân, vào tới sảnh đường, thấy nhà cửa đồ sộ, đèn nến sáng chưng, lầu gác nguy nga, kẻ hầu người hạ tấp nập, Hữu Tài kinh ngạc lắm. Trước kia, Hữu Tài có được nghe nói về chuyện giàu sang của Vân bà, song cũng chỉ biết lờ mờ thế thôi chứ chẳng ngờ Vân bà lại giàu sang tới mức ấy! Nay thấy nhà cửa bề thế quá, Hữu Tài lại đâm lo, chỉ sợ Vân bà ngăn cản, không cho mình bán Thúy Tiên!
Thúy Tiên bảo tì nữ xuống bếp thăm bè bạn, còn mình thì dắt Hữu Tài lên lầu gặp mẹ. Vân bà thấy con dắt rể về giữa đêm khuya thì sửng sốt, hỏi:"Có việc chi gấp mà nửa đêm lại dắt nhau về đây?" Thúy Tiên lộ vẻ oán hận, lấy ngón tay chỉ mặt Hữu Tài, nói:"Trước kia con đã nói với mẹ rằng gã này có tướng vô hạnh, bất nghĩa mà mẹ chẳng tin, cứ ép con phải lấy gã. Nay thì quả đúng như lời con đã nói! Gã vô hạnh, bất nghĩa quá lắm!" Vân bà hỏi:"Vô hạnh, bất nghĩa như thế nào?" Ðáp:"Gã đã cờ bạc thua hết cả tiền ở trong nhà rồi bây giờ gã lại bán con cho kỹ viện!" Ðáp xong, Thúy Tiên móc túi lấy ra hai đĩnh vàng, đặt lên bàn, nói:"Hai đĩnh vàng này là của mẹ cho con để gây dựng cơ đồ cho chồng, may mà chưa bị chồng cướp đoạt. Bây giờ thì còn chồng đâu nữa mà gây dựng cơ đồ? Vậy con xin hoàn lại mẹ!" Rồi quay qua Hữu Tài, mắng:"Ðồ chó má! Ngày trước anh bán hàng xén, làm ăn vất vả nên mặt mũi lem luốc, chân tay nhăn nhúm, ghét bám đầy người, mồ hôi nồng nặc. Từ khi lấy tôi, anh được mẹ tôi chu cấp tiền bạc, chỉ ở nhà thụ hưởng cơm áo nên da dẻ mới được nhẵn nhụi thế này! Ðược ăn không ngồi rồi, anh lại đàn đúm với lũ bạn cũ. Có mặt mẹ tôi đây, tôi có vu oan cho anh điều gì không?" Hữu Tài cúi đầu, nín thở, chẳng đáp được lời nào. Thúy Tiên mắng tiếp:"Tôi tự biết là mình chẳng có nhan sắc khuynh thành để lấy được một tấm chồng giàu sang. Vì thế khi mẹ tôi ép tôi lấy anh, tôi đành vâng lời để mẹ tôi mừng là tôi chẳng ế chồng. Tôi về làm vợ anh, có thiếu bổn phận gì không, có phụ bạc gì không, mà anh nỡ đem bán tôi cho kỹ viện? Mẹ tôi cho tôi hai đĩnh vàng để gây dựng cơ đồ cho anh thì tôi dư sức xây nhà cao cửa rộng, mua vườn tậu ruộng cho anh song tôi chẳng làm vì tôi thấy rõ cái chân tướng vô hạnh, bất nghĩa của anh. Anh chỉ có cái tướng đi ăn mày thôi. Tôi chẳng thể làm bạn bạc đầu với anh được!"
Bọn tì nữ nghe thấy tiểu thư to tiếng ở trên lầu thì rủ nhau chạy lên coi. Nghe tiểu thư kể tội Hữu Tài, chúng liền nổi giận, vây chặt lấy Hữu Tài mà mắng chửi thậm tệ, rồi quay qua nói với Thúy Tiên:"Tiểu thư nói làm chi cho mệt? Ðể tụi tiểu tì giết quách gã đi cho rồi!" Hữu Tài sợ quá, rập đầu xuống đất, van lạy:"Tôi biết tội đã nhiều, tôi hối hận lắm, xin tha cho tôi!" Thúy Tiên càng giận, mắng:"Bán vợ cho nhà giàu thì đã là cái giống đại ác rồi, còn bán vợ cho kỹ viện thì chẳng biết phải gọi là cái giống chi?" Nghe thấy thế, bọn tì nữ căm tức vô cùng, xúm lại xé rách hết quần áo, rồi cùng rút trâm cài đầu, đâm vào người Hữu Tài. Hữu Tài khóc thét lên, năn nỉ: "Xin các tiểu nương tha cho tôi!" Thúy Tiên bèn ngăn bọn tì nữ lại, nói:"Tha cho gã! Trừng trị như thế cũng đủ rồi! Ðể mặc gã ở đây, ta đi thôi!" Nói xong, bước tới cầm tay Vân bà, dắt xuống lầu. Bọn tì nữ cũng lục tục xuống theo.
Hữu Tài ngồi im trên lầu nghe ngóng. Lát sau, khi thấy lặng tiếng người, Hữu Tài mới nghĩ tới việc trốn về nhà. Thế nhưng, thấy đêm đã khuya, tinh thần mệt mỏi Hữu Tài lại nằm xuống ngủ. Khi thức giấc, mở mắt nhìn lên, chẳng thấy nóc nhà đâu mà chỉ thấy một bàu trời trăng lặn sao thưa, Hữu Tài kinh hãi quá, vội ngồi nhỏm dậy, đưa mắt nhìn quanh. Thấy ngôi nhà đồ sộ đã biến mất, mặt trời đỏ ối đang lấp ló sau vòm lá um tùm, còn mình thì đang ngồi cheo leo trên một tảng đá chênh vênh ở vách núi, giữa rừng cây rậm rạp, Hữu Tài kinh hoàng cực độ, chỉ sợ bị té xuống vực thẳm thì tan xác. Thấy mỏi lưng, Hữu Tài bất giác vặn mình cho đỡ mỏi thì đột nhiên tảng đá lở ra, rớt xuống vực, hất Hữu Tài vào không trung. Trong một thoáng, Hữu Tài nghĩ mình sắp chết nhưng rồi đột nhiên, Hữu Tài lại thấy bụng mình rơi trúng một cành cây, chân tay chới với. Mở mắt nhìn xuống dưới, thấy vực thẳm không đáy, Hữu Tài kinh hãi quá, vội nhắm mắt lại, gắng dùng chút hơi tàn để ôm quặp lấy cành cây, chẳng dám nhúc nhích. Thân thể sưng vù vì bị trâm đâm, Hữu Tài gào khóc kêu cứu song chỉ nghe thấy tiếng vang vọng của núi rừng. Kiệt sức, Hữu Tài lại nghĩ mình sắp chết.
Lát sau, khi mặt trời lên cao, có một tiều phu vào rừng đốn củi. Khi đi qua vách núi, thấy Hữu Tài nằm co quắp, bám vào cành cây bên bờ vực thẳm, tiều phu liền ròng dây xuống, bảo Hữu Tài bám vào rồi kéo lên. Thấy Hữu Tài đã kiệt sức, tiều phu liền bỏ buổi đốn củi, cõng về nhà săn sóc. Khi Hữu Tài tỉnh lại, tiều phu hỏi:"Họ tên chi?" Hữu Tài đáp:"Họ Lương, tên Hữu Tài" Hỏi:"Nhà cửa ở đâu?" Ðáp:"Ở thủ phủ Tế Nam" Hỏi:"Sao lại vào giữa rừng cây ở đây mà nằm như thế?" Hữu Tài bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, tiều phu cũng lấy làm lạ. Hữu Tài hỏi:"Ðây là đâu?" Tiều phu đáp:"Là phía tây dãy Thái Hành Sơn, cách ngọn Vương Sơn chừng bốn chục dặm!" Hữu Tài thấy lời nói của tiều phu phù hợp với lời nói của Vân bà. Hôm sau, thấy sức khoẻ đã phục hồi, Hữu Tài bèn cám ơn tiều phu rồi xin cáo biệt.
Tới nhà, Hữu Tài thấy cửa ngõ mở toang. Vào nhà, thấy phòng ốc trống rỗng, bao nhiêu đồ đạc, quần áo của Vân bà cấp cho khi trước đều đã biến mất, chỉ còn trơ lại có hai vật cũ của mình là chiếc võng rách với chiếc bàn gãy chân. Mệt quá, Hữu Tài lên võng ngủ. Lát sau, tỉnh giấc, thấy bụng đói cồn cào, Hữu Tài vào trạn mò cơm thì thấy chẳng còn một hạt. Hữu Tài bèn mò sang hàng xóm xin ăn, làm hàng xóm cũng phải ngạc nhiên. Lát sau, đúng hẹn, mụ chủ kỹ viện đem vàng và ước thư tới để mua Thúy Tiên. Hữu Tài liền thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Mụ đành đem vàng ra về.
Hữu Tài định trở lại nghề bán hàng xén song không còn vốn. Mấy hôm sau, Hữu Tài mắc bệnh phù thũng, nhưng vì đã bị mang tiếng là kẻ vô hạnh nên chẳng ai giúp đỡ chút gì. Hết phương kế sinh nhai, Hữu Tài đành phải bán rẻ căn nhà, lấy con dao bếp giắt vào người rồi đem bọc tiền vào ở trong hang núi. Hàng ngày, Hữu Tài đem tiền ra chợ mua cơm. Tiêu mãi, hết tiền, lại vô nghệ nghiệp, Hữu Tài phải đi ăn xin. Có kẻ nói:"Còn con dao giắt trong người, sao đã phải đi ăn xin?" Hữu Tài hỏi:"Nói thế là nghĩa gì?" Kẻ ấy đáp:"Thì hãy bán dao đi, lấy tiền mà mua cơm!" Hữu Tài nói:"Ðâu có được! Ở trong hang, cần phải có dao để đề phòng lang sói!" Ít lâu sau, Hữu Tài lại bị bệnh phong cùi.
Một hôm, Hữu Tài từ trong núi ra chợ ăn xin. Dọc đường, tình cờ gặp Ðắc Lợi, Hữu Tài rủ ngồi xuống vệ đường hàn huyên. Trong khi trò chuyện, bất thần Hữu Tài rút dao giắt trong người, đâm chết Ðắc Lợi. Lính bắt giải lên huyện đường. Quan tể hỏi tại sao lại sát nhân? Hữu Tài bèn trình bày đầu đuôi câu chuyện. Quan nghe chuyện cũng thương tình, chẳng nỡ lên án tử hình mà cũng chẳng ra lệnh đánh đập, chỉ ra lệnh hạ ngục.
Thế nhưng, vì bị giam cầm khổ sở rồi lại bị mắc chứng bệnh nặng, chẳng đủ cơm ăn thuốc uống, nên mới bị tù có một tháng, Hữu Tài đã lăn ra chết ở trong ngục.
Sư môn phong nghĩa cảm bình sinh
Hiếu học lân tài lưỡng dụng tình
Tự thị tư văn đồng cốt nhục
Báo ân nguyên bất vấn u minh
Huyện Thuận Thiên, tỉnh Hà Bắc, có núi Nùng Sơn. Trên núi, có chùa Chánh Ðô. Trong huyện, có thương gia họ Trần, rất giàu có, mở một cửa tiệm lớn ở chợ huyện. Trần ông góa vợ, có một trai tên Quân, đậu cử nhân. Trần Quân thuật chuyện:
Trước kia, nhà sư trụ trì chùa Chánh Ðô mở lớp dạy học, thu học phí vào cuối tháng. Dân chúng trong vùng cho con lên theo học rất đông. Trần ông cũng cho con lên theo học. Trong đám học trò có một nho sinh vừa giỏi lại vừa chăm, được nhà sư cho cư ngụ ngay trong chùa. Trần Quân ưa thích nho sinh ấy lắm, muốn được kết bạn. Một hôm, Trần Quân tới gần làm quen, nói:"Ðệ họ Trần. Huynh họ chi?" Nho sinh đáp:"Ðệ họ Chử" Hỏi: "Phải chăng quê huynh cũng ở vùng này?" Ðáp:"Chẳng phải! Quê đệ ở huyện Ðông Sơn, tỉnh Triết Giang!" Vì hợp tính nhau, chẳng bao lâu, hai người trở thành bạn thân.
Cuối năm, học trò ở xa đều xin phép về quê ăn Tết, duy có Chử sinh là không xin về. Trần Quân ngạc nhiên, hỏi:"Sao huynh không xin phép về quê ăn Tết?" Chử sinh đáp:"Ðường thì xa mà nhà thì nghèo, đệ không có tiền về, phải ở lại đây đi làm để kiếm tiền trả học phí!" Hỏi:"Huynh có hay học khuya không?" Ðáp:"Có! Ðêm nào đệ cũng thức khuya để học cho khỏi uổng học phí vì kiếm tiền vất vả lắm! Thời gian đệ học trong hai ngày có thể nói là bằng thời gian các bạn đồng môn học trong ba ngày!" Trần Quân cảm phục lắm, nói:"Ðệ muốn về xin phép gia nghiêm cho lên đây ở chung với huynh để học, huynh có chịu không?" Chử sinh lắc đầu, can:"Không nên! Nhà sư chùa này văn chương dở lắm, chẳng đáng làm thày mình lâu đâu. Ở Triết Giang, vùng quê đệ, có vị túc nho, văn chương giỏi lắm, đáng làm thày mình. Tiên sinh sang vùng này kinh doanh song vì còn thiếu vốn nên tạm thời phải mở lớp dạy học ở cửa Phụ Thành, nhận học trò nội trú. Hết tháng này, đệ sẽ xin thôi học ở đây để sang đó xin theo học. Huynh cũng nên sang đó mà xin theo học!" Hỏi:"Ai thế?" Ðáp:"Lã tiên sinh!" Trần Quân bèn về xin cha cho mình tới nội trú ở nhà Lã tiên sinh. Trần ông chấp thuận.
Cuối tháng, hai người trang trải xong học phí cho nhà sư rồi rủ nhau tới nhà Lã tiên sinh, xin nội trú để theo học. Tiên sinh nhận lời, cho hai người ở chung một phòng. Hai người bèn dọn tới ở nhà thày, ban ngày cùng học một bàn, ban đêm cùng nằm một giường. Chử sinh học rất thông minh, lướt mắt đọc một lần là nhớ, lắng tai nghe một lượt là thông nên được thày rất nể trọng.
Tháng sau, một hôm Chử sinh xin thày cho mình về quê thăm nhà ít bữa. Trần Quân lấy làm lạ vì thấy trước kia, khi còn ở chùa, chẳng bao giờ Chử sinh xin về quê thăm nhà, mà bây giờ mới tới đây học được có một tháng đã xin về. Mười ngày sau, thấy Chử sinh chưa trở lại nhà thày, Trần Quân càng lấy làm lạ.
Hôm sau, Trần Quân có việc phải lên chùa Thiên Ninh. Tình cờ nhìn thấy Chử sinh đang ngồi làm diêm ở hành lang chùa, Trần Quân kinh ngạc, vội chạy tới hỏi: "Sao huynh lại nghỉ học?" Thấy bạn tới, Chử sinh tỏ vẻ ngượng ngùng, đứng dậy nắm tay bạn, nhìn thẳng vào mắt hồi lâu, rồi buồn bã đáp:"Ðệ nghèo lắm, cuối tháng chẳng có học phí nạp thày nên phải tới đây làm diêm để kiếm tiền nạp. Nạp xong, đệ mới xin theo học tiếp!" Trần Quân cảm khái, suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:"Huynh hãy trở lại nhà thày học đi! Ðệ sẽ nạp học phí cho!" Chử sinh lắc đầu, hỏi:"Huynh lấy tiền ở đâu ra mà nạp cho đệ?" Trần Quân đáp:"Ðệ đã có cách, xin huynh chớ hỏi!" Chử sinh đứng suy nghĩ hồi lâu rồi thở dài, nói:"Nể lời huynh, đệ xin vâng!" Nói xong, thu dọn đồ nghề làm diêm, đem trả lại nhà chùa. Trên đường về nhà thày, Chử sinh dặn:"Xin huynh chớ tiết lộ chuyện đệ làm diêm với thày! Nếu thày có hỏi tại sao đệ về thăm nhà lâu thế thì huynh cứ nói giùm là đệ bận việc nhà!" Trần Quân gật đầu.
Hôm sau, Trần Quân về nhà, lấy trộm tiền của cha, đem tới nạp thày, nói là tiền của Chử sinh gửi nạp học phí. Thày tưởng thực nên nhận. Mấy hôm sau, Trần ông kiểm soát lại sổ sách thì thấy là mình bị mất tiền.
Tháng sau, Trần Quân về thăm nhà. Trần ông hỏi: "Mày có lấy trộm tiền của tao không?" Trần Quân thú thực:"Thưa có!" Hỏi:"Mày lấy để làm gì?" Ðáp:"Con lấy để giúp người bạn họ Chử nạp học phí!" Trần ông mắng: "Sao mày ngu thế?" rồi bắt Trần Quân phải xin nghỉ học.
Chử sinh biết chuyện, ngượng quá, cũng xin nghỉ học theo. Tiên sinh hỏi:"Sao lại xin nghỉ học?" Chử sinh đáp:"Con nghèo lắm, chẳng có học phí nạp thày nên Trần sinh phải lấy trộm tiền của thân phụ để nạp giùm con. Trần ông biết chuyện, bắt Trần sinh phải xin nghỉ học. Vì thế, con ngượng quá, cũng xin nghỉ theo!" Tiên sinh mắng:"Không có tiền, sao chẳng nói? Bây giờ cứ ở lại đây mà học, chẳng phải nạp tiền ăn, tiền ở, tiền học chi hết!" Chử sinh lặng im, chẳng đáp. Tiên sinh bèn trả lại học phí cho Chử sinh, sai đem hoàn lại Trần ông. Từ đó, tiên sinh coi Chử sinh như con ruột.
Trần Quân nhớ bạn, tới lớp học mời Chử sinh đi uống rượu. Chử sinh từ chối. Trần Quân cứ cố mời. Chử sinh vẫn từ chối. Trần Quân rơm rớm nước mắt, hỏi: "Huynh muốn tuyệt tình bạn hay sao?" Chử sinh thở dài, đáp:"Chẳng phải thế, song đi một lần thì thành lệ, mà thành lệ thì tốn tiền của huynh! Nếu huynh hứa rằng vài ba tháng mới tới rủ một lần thì đệ xin vâng!" Trần Quân gật đầu rồi mời đi. Chử sinh đành chiều bạn. Từ đó, cứ hai tháng một lần, Trần Quân lại tới lớp học mời Chử sinh đi uống rượu.
Hai năm sau, Trần ông mất. Trần Quân được thừa hưởng gia sản lớn của cha. Làm tang lễ cho cha xong, Trần Quân tới nhà tiên sinh xin theo học lại. Tiên sinh hỏi:"Có gia sản lớn, còn xin theo học làm chi?" Ðáp:"Xin theo học để biết thêm nghĩa lý" Tiên sinh bèn cho theo học. Tuy nhiên, vì bỏ học đã hai năm nên so với Chử sinh, chữ nghĩa văn chương của Trần Quân thua sút lắm.
Nửa năm sau, thân mẫu tiên sinh mất ở Triết Giang. Trưởng nam tiên sinh là Lã Huỳnh bèn lên đường tới Hà Bắc rước cha về quê làm tang lễ cho bà nội. Vì nghèo quá, Lã Huỳnh phải đi ăn xin ở dọc đường để tìm tới lớp học của cha. Ðược tin thân mẫu thày mất, học trò bảo nhau góp tiền phúng điếu và biếu thày lộ phí về quê. Trần Quân góp nhiều gấp đôi. Chử sinh không có tiền góp, cứ rơm rớm nước mắt, thở dài. Trần Quân an ủi:"Ðệ đã góp cả phần của huynh rồi!" Trước khi từ biệt đám học trò, tiên sinh gọi riêng Trần Quân ra một nơi mà bảo: "Học thày chẳng tày học bạn. Mời Chử sinh về nhà mà học!" Trần Quân đáp:"Xin vâng" Tiên sinh đi rồi, Trần Quân liền mời Chử sinh về nhà mình ở, dạy mình học. Chử sinh ưng thuận. Chẳng bao lâu, Trần Quân được nhận vào học ở trường huyện.
Năm sau, triều đình mở khoa thi hương ở Hà Bắc từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 8. Trần Quân rủ Chử sinh: "Ta cùng đi thi, huynh nghĩ thế nào?" Chử sinh đáp:"Ðệ chẳng cầu công danh thì đi thi để làm chi?" Trần Quân nói:"Văn chương của đệ kém lắm! Ði thi một mình, không người giúp đỡ, khó lòng mà đậu!" Chử sinh nói:"Nếu thế thì để đệ đi thi giùm cho!" Trần Quân nói:"Làm sao mà đi thi giùm được? Quan trường mà biết thì cả hai cùng bị ngồi tù!" Chử sinh nói:"Chẳng sao đâu! Ðệ đã có cách!" Trần Quân hỏi:"Cách nào?" Chử sinh lắc đầu, đáp:"Xin đừng hỏi! Cứ để từ từ rồi sẽ rõ!"
Sáng ngày 10 tháng 8, Chử sinh dậy sớm, ra khỏi nhà. Lát sau, trở về, dắt theo một khách lạ, giới thiệu với Trần Quân:"Ðây là Lưu ca, húy Thiên Nhược, biểu huynh của đệ, nhà cũng ở gần đây! Hôm nay, đệ đi thi giùm huynh nên đến nhờ Lưu ca tới đây dắt huynh về nhà Lưu ca chơi. Năm hôm nữa, khi trường thi đóng cửa, Lưu ca sẽ đưa huynh về. Huynh đừng có lo chi tới chuyện thi cử cả, cứ an tâm mà ở chơi với Lưu ca!" Trần Quân gật đầu rồi đi theo Thiên Nhược.
Hai người vừa bước ra khỏi cổng thì chợt Chử sinh tất tưởi chạy theo, gọi:"Trần huynh! Hãy chờ đệ dặn điều này!" Trần Quân vội đứng lại. Thiên Nhược cũng đứng lại theo. Chử sinh chạy tới nắm lấy ống tay áo của Trần Quân mà kéo lại, làm cho Trần Quân ngã chúi xuống đất. Thiên Nhược vội đỡ Trần Quân dậy rồi nói với Chử sinh: "Hiền đệ cứ về đi! Ðể ngu ca dặn lại Trần huynh cho!" Chử sinh bèn quay về. Trần Quân hỏi Thiên Nhược:"Chử huynh muốn dặn đệ điều chi?" Thiên Nhược chỉ mỉm cười, không đáp. Thấy thế, Trần Quân cũng thôi không hỏi nữa, tiếp tục đi theo Thiên Nhược.
Tới nhà Thiên Nhược, Trần Quân thấy trong nhà chỉ có một tiểu đồng chứ chẳng có đàn bà con gái. Thiên Nhược sai tiểu đồng đi dọn một phòng riêng cho Trần Quân rồi đi bày tiệc rượu. Sau khi yến ẩm, Thiên Nhược dắt Trần Quân đi ngoạn cảnh ở quanh vùng.
Hôm sau, trong lúc ngồi đàm đạo với Trần Quân, Thiên Nhược hỏi:"Ở gần đây có hoa viên nhà Lý hoàng thân đẹp nổi tiếng, huynh có biết không?" Trần Quân đáp:"Ðệ có nghe nói, song chưa tới bao giờ" Hỏi:"Có kỹ viện Mai Hoa cũng nổi tiếng lắm, huynh có biết không?" Ðáp:"Ðệ cũng nghe nói, song cũng chưa tới bao giờ! Tuy nhiên, đệ có quen với một kỹ nữ ở trong viện!" Hỏi:"Sao huynh chưa tới kỹ viện mà lại quen với kỹ nữ ở trong viện?" Ðáp:"Vì trước kia đệ được bạn bè giới thiệu rồi dẫn tới nhà riêng của kỹ nữ ấy để nghe ca hát và xướng họa" Hỏi:"Ai thế?" Ðáp:"Lý Át Vân!" Hỏi:"Huynh thấy Át Vân thế nào?" Ðáp:"Ðệ thấy Át Vân ca hát đã hay mà xướng họa lại giỏi, chẳng hổ danh là đệ nhất kỹ nữ ở vùng này!"
Bốn hôm sau, nhằm tết trung thu, Thiên Nhược nói:"Chiều nay, tết trung thu, nhà Lý hoàng thân sẽ mở cổng hoa viên cho du khách vào coi. Ta cũng nên bắt chước du khách, đem chút rượu vào, vừa uống vừa thưởng hoa cho đỡ buồn. Lúc nào chán, huynh cứ nói, đệ sẽ đưa về!" Trần Quân ưng thuận. Thiên Nhược bèn bảo tiểu đồng đem rượu với chén theo. Tới nơi, thấy du khách đông quá, Trần Quân còn đang tìm cách chen chân thì chợt thấy Thiên Nhược nắm tay mình kéo vào vườn. Tới hồ sen, Thiên Nhược dắt Trần Quân đến gốc liễu, rồi dắt xuống ngồi trên chiếc thuyền nhỏ neo ở cạnh bờ. Tiểu đồng theo sát hai người. Thiên Nhược bảo tiểu đồng lấy chén rót rượu. Thiên Nhược mời Trần Quân đối ẩm với mình. Rượu được vài tuần, bỗng Thiên Nhược nói với tiểu đồng:"Thày nghe nói kỹ viện Mai Hoa mới mộ được một kỹ nữ nổi danh. Con thử tới hỏi xem hiện thời cô ấy có mặt ở trong viện không? Nếu có, con cứ nói với viện chủ rằng thày muốn xin cho cô ấy được theo con về đây một lát!" Tiểu đồng vâng dạ rồi chạy đi ngay.
Lát sau, tiểu đồng trở về, dắt theo một kỹ nữ. Thấy kỹ nữ chính là Át Vân, Trần Quân vội đứng dậy chào. Át Vân có vẻ mặt rầu rầu, chỉ khẽ gật đầu chào lại. Thấy Át Vân chẳng vồn vã như xưa, Trần Quân lấy làm lạ. Thiên Nhược bèn bảo Át Vân ngồi xuống ghế, cạnh hai người, rồi nói:"Bữa nay, ta có vị khách quý đây tới thăm, nàng hãy hát cho nghe một khúc!" Át Vân khẽ đáp:"Xin vâng!" rồi cất tiếng hát khúc Vĩnh biệt, giọng hát thê lương. Trần Quân chẳng vui, nói:"Hôm nay là tết trung thu vui vẻ, chúng tôi tới đây là để thưởng hoa chứ có phải là để dự tang lễ đâu mà nàng lại hát khúc sầu muộn ấy? Tôi chắc Lưu huynh đây cũng cùng một ý như tôi!" Thiên Nhược chẳng nói chi, còn Át Vân thì gượng mỉm cười, nói:"Xin cố nhân thứ lỗi cho!" Rồi đứng dậy, cố lấy vẻ mặt vui tươi, cất tiếng hát khúc Diễm tình. Thấy thế, Trần Quân vui lắm, cũng đứng dậy, tới cầm tay Át Vân, nói:"Lần trước gặp nàng, được nghe nàng hát khúc Giặt khăn bên suối, tôi có thuộc lòng nhưng vì lâu rồi nên đã quên hết! Bây giờ nàng có thể hát lại khúc ấy cho nghe một lần nữa được chăng?" Át Vân gật đầu, sửa giọng rồi hát:
Tròng đầy nước mắt, đứng soi gương,
Thấp thoáng trong dòng, bóng mỹ nương.
Cúi xuống ngắm nhìn, đôi gót nhỏ,
Gượng cười, đôi má lúm đồng tiền.
Tay áo gạt ngang, lau nước mắt,
Sợ người trông thấy, lại bi thương
Trần Quân vui lắm, nhẩm thuộc lòng khúc ấy. Thiên Nhược bèn sai tiểu đồng lấy tiền ra trả cho Át Vân, rồi dắt trở về kỹ viện.
Át Vân đi rồi, Thiên Nhược quay qua nói với Trần Quân:"Bây giờ ta hãy lên bờ coi hoa!" rồi đứng dậy, bước lên bờ. Trần Quân vội bước theo. Vào một hành lang, thấy trên vách có đề rất nhiều thơ phú của du khách, ca tụng thắng cảnh trong hoa viên, Trần Quân bỗng nổi hứng, cũng rút bút trên giá, đề lên vách một bài thơ.
Khi mặt trời bắt đầu lặn, Thiên Nhược nói:"Chắc giờ này thì trường thi đã đóng cửa! Thôi, để đệ đưa huynh về!" rồi rảo bước lên đường. Trần Quân cũng vội rảo bước đi theo. Lát sau, tới cổng nhà Trần Quân, Thiên Nhược nói:"Thôi, huynh vào nhà đi, đệ về đây!" rồi quay người bước đi. Trần Quân nhìn theo, chớp mắt đã thấy Thiên Nhược đi xa tắp, trông chỉ còn nhỏ bằng ngón tay.
Trần Quân đóng cổng, vào nhà thì thấy nhà tối om, chẳng một bóng người. Toan lên tiếng gọi gia nhân thắp đèn thì chợt thấy Chử sinh lù lù từ ngoài sân bước vào phòng khách. Dụi mắt nhìn thì thấy Chử sinh đã biến thành khách lạ. Còn đang kinh hãi, đột nhiên Trần Quân thấy khách lạ bước tới gần mình, ngã lăn xuống đất. Rồi có tiếng gia nhân gọi nhau ơi ới:"Thắp đèn đem lên coi! Công tử nhà ta đi thi về rồi! Chắc là công tử nghĩ bài thi mệt quá nên bây giờ bị ngã, đang nằm hôn mê bất tỉnh trên phòng khách kia kìa!"
Gia nhân vội thắp đèn đem lên, xúm nhau lại khiêng khách lạ lên giường. Trần Quân dụi mắt nhìn thì thấy mình đang nằm trên giường, chung quanh toàn là gia nhân đứng cầm đèn. Lúc đó Trần Quân mới vỡ lẽ rằng khách lạ chính là mình chứ chẳng phải là ai khác.
Trần Quân vùng dậy nhìn quanh. Thấy Chử sinh ngồi ở mép giường, Trần Quân vội đuổi hết gia nhân xuống nhà dưới để mình nói chuyện với Chử sinh. Chử sinh lên iếng:"Trước hết, xin huynh hãy bình tĩnh mà nghe đệ nói, chớ có kinh hãi! Thú thực với huynh, đệ là ma chứ chẳng phải là người! Ðáng lẽ đệ phải đi đầu thai từ lâu rồi, song vì cảm cái tình bạn quý báu của huynh nên đệ đã xin với Diêm Vương cho hoãn ít bữa, để ở lại đi thi giùm huynh. Hôm nọ đệ kéo cho huynh ngã chúi ở ngoài cổng là cốt để đẩy hồn huynh ra khỏi xác, nhờ Lưu ca dắt xuống âm phủ chơi dăm ngày, còn đệ thì nhập vào xác của huynh mà đi thi giùm. Bây giờ, việc thi giùm đã xong, đệ xin trả lại xác cho huynh!" Trần Quân vội hỏi: "Thế huynh đi thi giùm đệ, làm bài có được không?" Chử sinh đáp:"Chắc là được!" Nói:"Nếu thế thì xin huynh ở lại thêm ít lâu để đi thi hội giùm đệ!" Chử sinh lắc đầu, đáp: "Chẳng được đâu!" Hỏi:"Sao vậy?" Ðáp:"Vì kiếp trước huynh không tu nhân tích đức nên kiếp này phúc phận mỏng lắm, chẳng sao đậu tiến sĩ được! Vả lại cũng tới ngày đệ phải đi đầu thai rồi!" Hỏi:"Huynh phải đi đầu thai làm con ai?" Ðáp:"Ðệ cũng chưa biết, song đệ muốn được đi đầu thai làm con thày Lã ở Triết Giang vì thày đã lấy tình cha con mà đối xử với đệ!" Hỏi:"Muốn đi đầu thai làm con thày thì phải làm thế nào?" Ðáp:"Phải nhờ người xin với Diêm Vương!" Hỏi:"Huynh đã nhờ ai chưa?" Ðáp:"Ðã! Ðệ đã nhờ Lưu ca vì Lưu ca hiện đang làm quan lớn dưới âm phủ, quyền thế lắm!" Hỏi:"Ðã có kết quả gì chưa?" Ðáp:"Chưa! Cũng chẳng biết là có được hay không!" Hỏi:"Thế nhưng hôm nay thì huynh vẫn còn ở lại đây với đệ chứ?" Ðáp:"Không đâu! Bây giờ đệ phải đi ngay! Tuy nhiên, tối mai đệ sẽ trở lại đây lần chót để báo tin cho huynh biết về kết quả thi cử!" Nói xong, Chử sinh xăm xăm bước ra khỏi cửa. Trần Quân thấy đói, kêu gia nhân bưng cơm lên cho ăn, rồi đi ngủ.
Sáng sau, Trần Quân dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, tìm tới hoa viên nhà Lý hoàng thân, xin vào thưởng hoa. Ðược người canh cổng cho vào, Trần Quân tới thẳng hành lang để xem có bài thơ của mình đề trên vách hay không thì thấy có, song nét mực đã phai, tựa hồ như bị ai lấy nước kỳ cọ tẩy xóa vậy. Lúc đó, Trần Quân mới vỡ lẽ rằng hôm qua Thiên Nhược đã dắt hồn mình tới đây.
Dời hoa viên, Trần Quân tìm tới kỹ viện Mai Hoa, xin được gặp Át Vân. Mụ chủ cho biết là Át Vân đã chết được ba ngày. Lúc đó, Trần Quân mới vỡ lẽ rằng kỹ nữ mà hôm qua Thiên Nhược sai tiểu đồng đi mời tới hoa viên chính là hồn ma của Át Vân. Trên đường về, Trần Quân cứ suy nghĩ mãi về các sự việc kỳ lạ này.
Tối ấy, quả nhiên Trần Quân thấy Chử sinh bước vào nhà, nói:"Việc đệ thi giùm huynh đã có kết quả. Huynh đã đậu thủ khoa! Còn việc đệ nhờ Lưu ca giúp cũng đã có kết quả. Diêm Vương đã cho đệ đi đầu thai làm con thày Lã ở Triết Giang!" Rồi tiếp:"Huynh làm ơn lấy bút son ra viết giùm hai chữ Chử đỏ vào hai bàn tay cho đệ!" Trần Quân lấy bút ra viết rồi nói:"Ðể đệ bảo gia nhân bày tiệc rượu cho chúng ta yến ẩm đàm đạo" Chử sinh gạt đi, nói:"Không được đâu! Bây giờ đệ phải đi ngay, chẳng có thì giờ ở lại! Nếu huynh còn nhớ tới tình bạn thì sau khi đi xem bảng tân khoa, hãy tới nhà thày Lã ở Triết Giang mà gặp đệ. Thôi, đệ phải đi đây!" Trần Quân cảm động, rơm rớm nước mắt, tiễn Chử sinh ra cổng. Tới cổng, Trần Quân thấy một người đang đứng lảng vảng ở bên ngoài, lưng đeo túi lớn. Chử sinh vừa bước ra khỏi cổng thì liền bị người ấy xòe bàn tay, ấn vào đỉnh đầu, làm cho thân hình xẹp xuống. Khi Chử sinh chỉ còn bằng ngón tay, người ấy cúi xuống nhặt bỏ vào túi đeo trên lưng, buộc kỹ miệng túi, rồi cất bước đi.
Ðầu tháng 9, Trần Quân đi xem bảng thì quả nhiên thấy mình đậu thủ khoa. Trần Quân mừng lắm, trong lòng cứ thầm cám ơn Chử sinh.
Tuần sau, Trần Quân sắm sửa hành trang, tiền bạc, quà cáp, đem đi Triết Giang. Tới nơi, hỏi thăm được nhà thày Lã, bèn tìm tới. Thày trò gặp nhau, hàn huyên mọi nỗi. Trần Quân hỏi:"Thày có khỏe không?" Tiên sinh đáp:"Khỏe" Hỏi:"Cô có khỏe không?" Ðáp:"Khỏe! Hôm qua cô vừa sanh em trai. Cô nghỉ sanh đã hơn mười năm, bỗng năm nay lại hoài thai!" Hỏi:"Em bé có khỏe không?" Ðáp:"Khỏe, duy có điều là hai bàn tay cứ nắm chặt, gia nhân lực lưỡng mở cũng chẳng ra!" Nói:"Thày để con vào mở hai nắm tay cho em bé!" Hỏi:"Anh có bùa phép gì?" Ðáp:"Con đâu có bùa phép gì song con nghĩ là con mở được vì em bé với con là chỗ bạn thân. Trong hai bàn tay của em bé, thế nào cũng có hai chữ Chử đỏ!" Tiên sinh lắc đầu chẳng tin song vẫn dắt Trần quân vào thăm đứa bé. Cả nhà cùng theo vào.
Vừa nhìn thấy Trần Quân, đứa bé liền xoè hai bàn tay, duỗi thẳng mười ngón. Cả nhà cùng lấy làm lạ, xúm lại coi. Thấy trong hai bàn tay đứa bé có hai chữ Chử đỏ, cả nhà cùng kinh hãi, còn Trần Quân thì nhận ra đúng là bút tích của mình. Tiên sinh hỏi:"Sao anh lại biết rõ thế?" Trần Quân bèn thuật lại cho mọi người nghe chuyện Chử sinh thú thực rằng mình là ma cũng như chuyện Chử sinh đi thi giùm. Ai cũng cho là chuyện kỳ lạ. Tiên sinh liền đặt tên cho đứa bé là Lã Chử. Trần Quân bèn đem tiền bạc quà cáp ra tạ thày về việc thày đã dạy dỗ mình. Hôm sau, Trần Quân xin cáo biệt thày để về quê, dọn nhà lên kinh đô cư ngụ, làm ăn, buôn bán.
Mười ba năm sau.
Ðầu mùa thu, nhân chuyến lên kinh đô dự khoa thi hội, tiên sinh đem theo cả gia đình đến ở nhờ nhà Trần Quân. Khoa ấy, tiên sinh thi đậu tiến sĩ, rồi thuê nhà cư ngụ luôn ở kinh đô.
Năm ấy, Lã Chử đã mười ba tuổi, học hành thông minh lắm. Cuối năm, được nhận vào học ở quốc tử giám.