Chiếc bánh nướng của người kế tục cha Marteau chứa đựng cái gì?
Chiếc bánh nướng của người kế tục cha Marteau chứa đựng cái gì?
Nửa giờ sau La Ramée trở về vui vẻ và hoạt bát như một người đã ăn ngon và nhất là uống tốt. Hắn thấy rõ là - bánh rất ngon và rượu vang thật là tuyệt diệu.
Trời đẹp và cho phép tiến hành cuộc chơi dự định. Trò chơi cầu dài, tức là chơi ở ngoài trời rộng rãi. Như vậy đối với ông quận công chẳng có gì dễ dàng hơn là làm theo điều Grimaud dặn dò, nghĩa là ném bóng ra ngoài hào rãnh.
Tuy vậy khi mà hai giờ chưa điểm thì quận công chưa đến nỗi vụng về quá, vì hai giờ là giờ quy định. Nhưng cho đến lúc ấy ông vẫn cứ bị thua mấy ván, điều đó cho phép ông phát cáu và liên tiếp đánh hỏng như người ta thường bị trong trường hợp tương tự.
Cho nên, khi hai giờ đúng vang lên, các quả bóng bắt đầu văng ra phía ngoài hào trước nỗi vui mừng lớn của La Ramée, hắn ghi mười lăm điểm mỗi lần bóng của hoàng thân trật ra ngoài.
Ném trật ra ngoài tới tấp đến nỗi chả mấy chốc thiếu bóng. La Ramée toan bảo người nào đó ra ngoài hào nhặt bóng. Nhưng quận công nhận xét rất chí lý rằng làm như vậy mất thì giờ, và tiến gần đến tường thành, chỗ ấy như viên quan cảnh sát nói cao ít nhất là năm mươi bộ, thì ông chợt nom thấy một người đàn ông đang làm lụng ở một trong số nghìn mảnh vườn nhỏ mà các người nông dân khai khẩn ở bên kia bờ hào.
- Ê! Anh bạn này! - Quận công kêu lên.
Người đàn ông ngầng lên, và quận công suýt bật ra một tiếng kêu kinh ngạc. Người đàn ông ấy, người nông dân ấy, người làm vườn ấy, chính là Rochefort mà quận công tưởng vẫn còn ở trong nhà tù Bastille.
- Có chuyện gì ở trên ấy đấy? - người đàn ông hỏi.
Bác làm ơn ném các quả bóng lên cho chúng tôi, - quận công bảo.
Người làm vườn gật đầu và ném bóng lên; La Ramée và các vệ sĩ đi nhặt. Một quả bóng rơi đúng chân quận công, và vì quả bóng ấy rõ ràng gửi ông, nên ông bỏ vào túi.
Rồi ra hiệu cám ơn với người làm vườn xong, ông quay trở lại cuộc chơi.
Nhưng rõ ràng là quận công vớ phải một ngày đen đủi, các trái bóng tiếp tục bay lung tung; đáng lẽ phải rơi vào trong giới hạn của sân chơi thì hai quả lại văng ra ngoài hào; nhưng vì người làm vườn không còn ở đấy nữa để ném trả bóng, nên mất bóng, rồi quận công tuyên bố rằng ông xấu hổ vì vụng về đến thể và ông không muốn chơi nữa.
La Ramée khoái chí vì đã đánh bại hoàn toàn một vị thân vương.
Ông hoàng trở về nhà và đi nằm; hầu như ông nằm suốt ngày từ khi người ta tước hết sách vở của ông.
La Ramée lấy quần áo của hoàng thân đi, lấy cớ là nó đầy bụi phải mang đi chải, nhưng thực ra là để yên trí rằng ông ta không đi đâu được. Một con người đến là cẩn thận như La Ramée!
May thay hoàng thân đã kịp giấu quả bóng dưới cái gối ngang.
Cửa vừa đóng là quận công dùng răng xé ngay cái vỏ quả bóng vì người ta không để cho ông một dụng cụ sắc cạnh nào, ông vẫn phải ăn bằng những con dao bạc có lưỡi gập lại được nhưng không cắt được.
Dưới lượt vỏ là một bức thư viết mấy dòng sau đây:
"Thưa Đức ông, các bạn bè của ngài vẫn quan tâm, và giờ giải thoát ngài sắp tới. Ngày kia ngài hãy đòi ăn một cái bánh do người làm bánh mới đã mua cửa hiệu của người chủ cũ, và chính là Noirmont đầu bếp của ngài, chỉ mở cái bánh khi nào có một mình ngài, tôi hy vọng ngài sẽ hài lòng cái đựng bên trong.
Kẻ môn hạ luôn luôn tận tụy với Điện hạ, dù ở ngục Bastille hay bất cứ đâu.
Bá tước de Rochefort!
Tái bút. – Điện hạ có thể tin cậy ở Grimaud về mọi mặt, đó là một người rất thông minh và hết lòng tận tụy với chúng ta".
Từ khi quận công de Beaufort từ bỏ vẽ tranh người ta đã trả lại lửa cho ông. Ông tiếc ngẩn tiếc ngơ mà đốt thư của bà De Montbazon, và sắp sửa đốt cả quả bóng, thì chợt nghĩ rằng nó có thể có ích để gửi thư trả lời Rochefort.
Ông bị canh riết lắm, vì vừa mới nghe tiếng cử động của ông, La Ramée vào. Hắn hỏi:
- Đức ông cần gì thế?
- Tôi rét, - quận công đáp, - nên tôi khơi lửa lên cho ấm. Bạn thân mến ạ, ông biết đấy, các căn phòng của Tháp đài Vincennes nổi tiếng là lạnh lẽo. Người ta có thể giữ băng ở đấy và lượm được diêm tiêu Puylaurens, thống chế Ornano và vị phó trụ trì cậu của tôi đã chết ở trong những căn phòng, mà như là bà De Rambouillet nói, về phương diện ấy, đáng giá với lượng thạch tín của nó.
Và ông quận công lại nằm kềnh ra giường và giúi quả bóng xuống dưới gối. La Ramée hơi mỉm cười.
Thực ra hắn cũng là một người tốt và rất mến người tù lừng lẫy này và có thể sẽ rất khổ tâm nếu tai họa xảy ra đến với ông. Mà những tai họa liên tiếp này xảy ra với ba nhân vật mà quận công vừa mới nêu tên là không thể chối cãi được.
- Đức ông ạ, - hắn nói, - không nên buông mình vào nhưng ý nghĩa như vậy. Chính là những ý nghĩ đó giết chết người ta, chứ không phảì diêm tiêu đâu.
- Này, bạn thân mến ơi, - quận công nói, - Ông thật là tử tế, giá mà tôi được như ông đi ăn bánh nướng và uống rượu vang Bourgogne ở hàng cái người kế tục cha Marteau ấy, thì tôi sẽ khuây khoả.
- Đức ông ơi, thực tế là bánh nướng của lão ấy là loại bánh trứ danh và rượu vang thì là thứ rượu đáng tự hào.
- Dù sao thì hầm rượu và bếp núc của lão cũng hơn đứt của ông De Chavigny.
- Vậy thì thưa Đức ông, - La Ramée sa vào bẫy nói, - Ai cấm ngài nếm thử. Vả chăng tôi cũng đã hứa rằng ngài sẽ là khách hàng.
- Anh nói phải đấy, - quận công đáp - nếu tôi phải tù chung thân ở đây như lão Mazarin đã có lòng tốt sai nói cho tôi biết, thì tôi cũng cần phải tạo cho mình một sự giải trí trong những ngày già nua, tôi cũng phải trở nên tham ăn chứ.
- Thưa Đức ông, - La Ramée nói, - hai tin đó là một lời khuyên hay, chẳng phải là vì thế mà ngài sẽ già nua đi đâu.
"Hay, - quận công de Beaufort nói riêng với mình, - bất cứ người nào, để mất trái tim và linh hồn của mình, nếu không mắc hai thì cũng đã mắc một trong bảy đại tội(1) từ sự hoa lệ của trời; dường như tội của thày đội La Ramée là tham ăn. Được chúng ta sẽ lợi dụng nó".
Rồi ông nói to:
- Này, La Ramée thân mến ơi, ngày kia là ngày lễ phải không?
- Đúng đấy, lễ Pentecôte.
- Ngày kia, anh có thể cho tôi một bài học không?
- Về cái gì cơ?
- Về phàm ăn.
- Xin vui lòng, thưa Đức ông.
- Nhưng là một bài học giữa hai người thôi, chúng ta sẽ cho bọn vệ sĩ đi ăn ở căng tin của De Chavigny, còn chúng ta sẽ làm một bữa tối ở đây mà tôi để ông điều khiển.
- Hừm? - La Ramée thốt lên.
Lời mời thật cám dỗ. Dù rằng tể tướng có nghĩ đến điều bất lợi khi gặp La Ramée, thì hắn ta cũng là một tay lão luyện biết hết những cạm bẫy mà một tù nhân giăng ra. Ông de Beaufort đã sửa soạn bốn mươi kế để vượt ngục; bữa ăn này liệu có che giấu một mưu mô nào không?
Hắn suy nghĩ một lát, nhưng kết quả của những suy nghĩ là tự hắn đặt thức ăn và rượu và như vậy chẳng ai có thể trộn bột gì vào thức ăn hoặc nước gì vào rượu.
Còn chuốc rượu cho hắn say ư, ông quận công chẳng thể có ý đồ ấy, và hắn bật cười với ý nghĩ ấy, rồi một ý nghĩ đến với hắn và hoá giải tất cả.
Quận công theo dõi bản độc thoại thầm của La Ramée bằng con mắt khá lo âu theo chừng những biểu hiện trên nét mặt hắn, nhưng cuổi cùng gương mặt viên cảnh sát rạng rỡ hẳn lên.
- Thế nào, - quận công hỏi - được chứ?
- Thưa Đức ông, được, nhưng với một điều kiện.
- Điều kiện gì.
- Grimaud sẽ hầu bàn cho chúng ta.
Không có gì tuyệt hơn đối với hoàng thân.
Tuy nhiên ông có khả năng biểu lộ một sự khó chịu ra mặt và kêu lên.
- Cút mẹ cái thằng Grimaud của ông đi. Nó sẽ làm hỏng cả buổi liên hoan.
- Tôi sẽ ra lệnh cho nó đứng đằng sau Điện hạ và không cho nó chẳng sủa lấy một lời, Điện hạ sẽ không trông thấy nó, không nghe thấy nó, và với một chút thiện ý thôi, Điện hạ sẽ tưởng tượng như nó ở cách xa ngài đến trăm dặm…
- Bạn thân mến ơi - quận công nói. - Ông có biết tôi đã nhìn thấy rất rõ ràng cái gì trong chuyện này không? Đó là ông nghi ngờ tôi.
- Thưa Đức ông, ngày kia là lễ Pentecôte rồi.
- Thì sao? Lễ Pentecôte có liên quan gì đến tôi. Dễ thường ông sợ rằng Thánh linh sẽ giáng thế dưới hình dạng một lưỡi lửa để mở các cửa nhà tù của tôi ra chăng?
- Không ạ, nhưng tôi đã kể với ngài cái điều mà lão pháp sư quái ác kia tiên đoán.
- Hắn tiên đoán gì?
- Rằng chẳng quá ngày lẽ Pentecôte, ngài sẽ ra khỏi lâu đài Vincennes.
- Thế anh tin ở bọn pháp sư à? Đồ ngốc!
- Tôi mà quan tâm đến những chuyện ấy ư? - La Ramée vừa nói vừa búng ngón tay - Nhưng chính Đức ông Giulio ông ta lo ngại, với tư cách người Ý, ông ta mê tín dị đoan.
- Quận công nhún vai. Rồi với một vẻ thực thà đóng kịch rất giỏi ông nói:
- Thôi được! Tôi đồng ý Grimaud, vì không thể cũng không xong. Nhưng tôi không muốn ai nữa ngoài Grimaud; anh sẽ đảm đương tất. Anh đặt bữa ăn thế nào tùy anh, tôi chỉ yêu cầu một món duy nhất là một cái bánh nướng như anh đã nói với tôi. Anh nhớ nói là đặt cho tôi để vị kế tục cha Marteau làm cho khéo hơn, và anh hứa hẹn với bác ta về sự chiếu cố của tôi không những suốt trong thời gian tôi ở tù, mà cả sau này khi tôi ra tù nữa.
- Ngài vẫn tin là ngài sẽ ra tù à? - La Ramée hỏi.
- Ấy chết? - Hoàng thân đáp, - có chăng là đến khi nào Mazarin chầu trời. Tôi kém lão ta mười lăm tuổi, ông vừa cười vừa nói thêm - Đúng là ở Vincennes người ta sống mau hơn.
- Đức ông! - La Ramée kêu lên, - kìa Đức ông!
- Hay là người ta chết sớm hơn, cũng vậy thôi! - Quận công nói tiếp.
- Thưa Đức ông, tôi đi bảo dọn bữa tối đây.
- Anh có cho rằng anh có thể sử dụng người học trò của anh vào việc gì không?
- Tôi hy vọng chứ, thưa Đức ông.
- Nếu anh còn có thì giờ, - quận công lẩm bẩm.
- Đức ông nói gì vậy? - La Ramée hỏi.
- Đức ông bảo là anh chớ dè sẻn túi tiền của ông giáo chủ, ông ta rất muốn đảm nhiệm tiền trợ cấp của chúng ta.
La Ramée dừng lại ở cửa và hỏi.
- Đức ông muốn tôi cắt ai đến với ngài.
- Ai cũng được, trừ Grimaud.
- Viên sĩ quan vệ sĩ nhé?
- Với bàn cờ của hắn nữa.
- Vâng.
Và La Ramée đi ra.
Năm phút sau, viên sĩ quan vệ sĩ vào và quận công de Beaufort có vẻ đang chìm đắm sâu xa trong những tính toán tuyệt vời của nước cờ.
Tư tưởng con người ta thật là kỳ lạ, và một dấu hiệu, một lời nói, một hy vọng gây nên trong đó những biến đổi như thế nào. Quận công ở tù năm năm rồi. Một cái nhìn về phía sau khiến thấy năm năm ấy tuy trôi chậm thật nhưng dường như còn không dài đằng đẵng bằng hai ngày, bằng bốn mươi tám giờ nó đang ngăn cách ông với thời điểm ấn định cho cuộc vượt ngục.
Rồi lại có một điều đặc biệt làm ông bận tâm ghê gớm đó là cuộc vượt ngục tiến hành như thế nào. Người ta đã làm cho ông hy vọng kết quả, nhưng lại giấu ông những chi tiết cụ thể chứa đựng trong cái bánh nướng bí hiểm. Những bạn bè nào chờ đợi ông? Thế ra sau năm năm tù đầy ông vẫn còn bè bạn ư? Trong trường hợp ấy ông là một hoàng thân được biệt đãi.
Điều kỳ lạ hớn nữa là ông quên rằng ngoài bạn bè ra, có được một người đàn bà vẫn nhớ đến ông; đúng là bà ta có lẽ không phải nhất nhất trung thành với ỏng rồi nhưng bà ta không quên ông, thế cũng là nhiều rồi.
Như vậy là có quá nhiều hơn mức cần thiết những điều khiến ông quận công phải bận tâm. Trong cuộc chơi cờ và trong cuộc chơi ném cầu, cũng vậy, và buổi chiều đến lượt viên sĩ quan lại đánh bại ông như La Ramée đã đánh bại ông ban sáng.
Song những cuộc thất bại liên tiếp của ông cũng có lợi, đó là nó dẫn ông hoàng tới tận tám giờ tối; thế là lợi được ba tiếng đồng hồ.
Rồi thì đêm sẽ đến và cùng với ban đêm là giấc ngủ.
Ít ra quận công nghĩ như vậy, nhưng giấc ngủ là một vị thần tính khí bất thường và đúng vào lúc người ta vời đến thì nó lại bắt người ta chờ đợi đến tận nửa đêm, trằn trọc mãi trên tấm nệm giống như thánh Laurent trên giá sắt lò lửa. Cuối cùng ông thiếp đi.
Nhưng rạng sáng là ông tỉnh giấc. Ông đã mơ những giấc mơ kỳ quặc: ông thấy mình mọc cánh, tất nhiên là ông muốn bay. Thoạt tiên, cánh đỡ ông bay vù vù nhưng đến một độ cao nào đó, chỗ tựa kỳ lạ ấy đột nhiên bị hẫng, đôi cánh ông bị gẫy và ông thấy hình như mình lăn xuống những vực thẳm không đáy, ông chợt tỉnh dậy, trán đẫm mồ hôi và mình mẩy rã rời như đã rơi từ trên trời xuống thật.
Ông ngủ tiếp, để rồi lại lang thang trong một mê cung toàn là những giấc mơ rất hung dữ; cứ vừa chợp mắt là linh hồn ông vươn theo một mục đích duy nhất: vượt ngục, lại bắt đầu tìm cách vượt ngục. Người ta tìm thấy một đường hầm dẫn ra ngoài Vincennes; ông dẫn mình vào con đường ấy, và Grimaud tay cầm đèn bước đi trước ông; nhưng dần dần đường hầm hẹp lại, tuy nhiên ông quận công vẫn tiếp tục đi; cuối cùng đường hầm chặt bó lại đến nỗi kẻ đào tẩu cổ gắng đi xa hơn cũng uổng công: hai bên thành tường co hẹp lại và ép chặt lấy ông; ông muốn gọi bác ta đến giúp ông ra khỏi cái lỗ hẻm này nó đang siết ông đến ngạt thở, nhưng không làm sao mà thốt lên được một lời. Thế là ở phía đầu đường nơi ông đi vào có tiếng bước chân của những người đuổi theo ông, nó không ngừng tiến gần lại, ông bị phát hiện rồi, của còn hy vọng trốn thoát.
Những thành tường như đồng tình với kẻ thù của ông, ông càng muốn chạy, chúng càng ép chặt lấy ông. Cuối cùng ông nghe tiếng La Ramée rồi ông trông thấy hắn. Hắn giơ bàn tay ra và đặt lên vai ông mà cười phá lên. Ông bị tóm lại và dẫn đến căn phòng thấp có vòm cong nơi thống chế Ornano, Puylaurens và cậu của ông đã bỏ mạng; ba nấm mồ lù lù ở đấy, gồ lên trên mặt đất, và một cái hố thứ tư mở toang hoác ra chỉ còn đợi một xác người.
Cho nên lúc trước quận công cố sức để ngủ bao nhiêu, thì đến khi tỉnh dậy cố sức để thức bấy nhiêu; và khi La Ramée vào hắn thấy ông nhợt tái và phờ phạc đến nỗi hắn phải hỏi xem ông có bị ốm không.
Một vệ sĩ nằm trong phòng, nhưng không ngủ được vì đau răng do ẩm thấp, nói:
- Quả thật, Đức ông qua một đêm hoảng loạn lắm và hai ba lần ngủ mê cứ kêu cứu hoài.
- Đức ông làm sao thế? - La Ramée hỏi.
- Chỉ tại cậu thôi, đồ ngốc ạ! - quận công nói. - Những chuyện vớ vẩn hão huyền về vượt ngục của cậu hôm qua ám ảnh tôi và khiến tôi nằm mơ thấy mình chạy trốn và khi chạy trốn thì bị ngã gẫy cổ.
La Ramée bật cười và nói:
- Đức ông thấy đấy, đó là một sự cảnh cáo của Trời; cho nên tôi mong rằng ngoài giấc mơ, Đức ông chớ bao giờ phạm những điều dại dột như vậy.
Quận công lau mồ hôi vẫn còn ròng ròng trên trán, mặc dù ông đã tỉnh hẳn và nói:
- La Ramée thân mến ơi, anh nói đúng đấy, tôi chỉ còn muốn nghĩ đến uống rượu và ăn thôi.
- Sụyt! - La Ramée nói.
Rồi hắn kiếm cớ cho bọn vệ sĩ lần lượt đi ra.
- Thế nào? - Quận công hỏi khi còn lại hai người với nhau.
- Này nhé bữa tiệc tối đã được đặt rồi, - La Ramée nói.
- A! Thế gồm những gì nào? Nào, ông đầu bếp của tôi? - Quận công nói.
- Đức ông đã hứa là tin cậy ở tôi cơ mà.
- Thế có một cái bánh nướng chứ?
- Dĩ nhiên rồi! Như một cái tháp ấy.
- Do người kẻ tục cha Marteau làm?
- Đặt bác ta làm mà.
- Thế anh có bảo là đặt cho tôi không?
- Có
- Bác ta trả lời sao?
- Là sẽ làm hết sức để vừa lòng Điện hạ.
- Hay lắm! - Quận công vừa nói vừa xoa xoa tay.
- Ghê thật. Đức ông ngoạm vào thói tham ăn như thế đấy! Từ năm năm nay, tôi chưa bao giờ thấy ngài mặt mày hoan hỉ như lúc này.
Quận công thấy rõ mình chưa thật làm chủ được mình. Nhưng vừa lúc ấy ông hiểu rằng nghe như có tiếng ở ngoài cửa và ông hiều rằng làm những ý La Ramée bây giờ là việc cấp bách, thì Grimaud vào và ra hiệu với La Ramée là bác có điều gì muổn nói với hắn.
La Ramée đến gần Grimaud nghe bác nói thầm thì.
Trong khi đó, quận công tĩnh tâm lại.
Ông nói:
- Tôi đã cấm người ấy hiện diện ở đây nếu không được tôi cho phép cơ mà.
- Thưa Đức ông. - La Ramée nói, - cần tha thứ cho hắn, vì chính tôi gọi hắn đến.
- Thế tại sao anh lại gọi hắn đến, bởi vì anh biết rằng hắn làm tôi phật lòng.
- Xin Đức ông nhớ lại điều đã thỏa thuận, - La Ramée nói - và hắn còn phải hầu chúng ta trong bữa tiệc trứ danh ấy chứ. Đức ông quên mất bữa tiệc ấy rồi à?
- Không đâu, nhưng tôi quên mất Grimaud.
- Đức ông biết rằng không có hắn thì không có bữa tiệc.
- Thôi được, tuỳ ông làm thế nào thì làm.
- Lại đây anh chàng, - La Ramée bảo, - và nghe tôi nói đây.
Grimaud bước lại gần với vẻ mặt nhăn nhó nhất. La Ramée nói tiếp:
- Đức ông ban cho tôi vinh dự là là mời tôi ăn bữa tối mai chỉ có tôi với ngài thôi.
Grimaud ra hiệu như muốn nói rằng bác ta chẳng thấy gì có liên quan đến bác trong việc này cả.
- Có chứ, có chứ, - La Ramée nói - trái lại việc này liên quan đến việc anh đấy; bởi vì anh sẽ có vinh dự là hầu tiếp chúng tôi, chưa kể là dù chúng tôi có chén ngon miệng và nốc đã khát đến mây thì chắc chắn vẫn còn cái gì đó ở dưới đáy đĩa và đáy chai và cái gì đó ấy là phần anh.
Grimaud cúi mình ra hiệu cảm ơn.
- Và bây giờ, thưa Đức ông - La Ramée nói, - xin Đức ông thứ lỗi, hình như ông De Chavigny sẽ vắng mặt mấy ngày, và trước khi đi, ông ta đã báo trước là sẽ có những mệnh lệnh ban cho tôi.
Quận công thử trao đổi một cái nhìn với Grimaud, nhưng mắt Grimaud cứ trơ như đá.
- Đi đi! - quận công bảo La Ramée, - và cố gắng về cho thật sớm.
- Đức ông muốn phục thù ván cầu hôm qua chăng?
Grimaud khẽ gật đầu một cái khó mà nhận thấy.
- Phải, - quận công nói, - nhưng hãy coi chừng La Ramée thân mến ạ, ngày ngày nối tiếp nhau nhưng chẳng giống nhau đâu, thành ra hôm nay tội quyết định sẽ giã cho anh một trận ra trò.
La Ramée ra. Grimaud mắt theo dõi theo, còn toàn thân không xê dịch đến một ly; rồi khi nhìn thấy cửa đóng lại, bác vội vã rút ở túi ra một cái bút chì và một mảnh giấy.
- Xin Đức ông viết đi, - bác nói.
- Nhưng viết gì cơ?
Grimaud giơ một ngón tay ra hiệu và đọc:
"Mọi thứ sẵn sàng vào tối mai. Các anh hãy cảnh giới từ bảy giờ đến chín giờ và có sẵn hai ngựa cưỡi. Chúng tôi sẽ xuống bằng lối cửa sổ thứ nhất của hành lang…"
- Rồi sao nữa? - quận công hỏi.
- Rồi thế nào ư, Đức ông? - Grimaud ngạc nhiên hỏi.
- Thế là hết à?
- Đức ông còn muốn nói gì thêm nữa. - Grimaud đáp, bác bao giờ cũng muốn sự gọn gàng nghiêm ngặt nhất.
Quận công ký.
- Bây giờ, - Grimaud nói - Đức ông có còn quả bóng không hay mất rồi?
- Bóng nào?
- Quả bóng đựng bức thư ấy.
- À còn. Tôi nghĩ là có thể nó còn có ích cho chúng ta. Bóng đây.
Quận công moi quả bóng ở dưới gối ra và đưa cho Grimaud mỉm cười một cách khoan khoái nhất.
- Để làm gì? - quận công hói.
- Thưa Đức ông, - Grimaud nói, tôi sẽ khâu mảnh giấy vào trong quả bóng, và lúc nào chơi cầu, ngài sẽ ném quả bóng xuống hổ.
- Nhỡ bị mất thì sao?
- Đức ông cứ yên tâm. Sẽ có người nhặt.
- Một người làm vườn phải không? - Quận công hỏi.
Grimaud gật đầu.
- Vẫn người hôm qua à?
Grimaud lại gật đầu.
- Bá tước de Rochefort phải không?
Grimaud gật đầu luôn ba cái.
- Nhưng, này, - quận công nói, - ít ra hãy cho tôi biết vài chi tiết về cách chúng ta trốn ra như thế nào chứ?
- Tôi bị cấm tiết lộ, - Grimaud đáp, - ngay cả trước lúc thực hiện.
- Nhưng ai sẽ đợi tôi ở bên kia bờ hào?
- Thưa Đức ông, tôi không biết gì cả.
- Nhưng ít ra thì cũng cho tôi rõ cái gì đựng ở trong cái bánh nướng trứ danh ấy chứ, nếu như bác không muốn tôi phát điên lên.
- Thưa Đức ông, trong đó có hai con dao găm một sợi dây có nút và một quả lê cay đắng(2).
- Tốt lắm, tôi hiểu rồi.
Đức ông thấy là sẽ có cái dùng cho mọi người.
- Chúng ta dùng hai con dao găm và sợi dây - quận công nói.
- Và chúng ta cho La Ramée xơi trái lê cay đắng, - Grimaud tiếp lời.
- Grimaud thân mến của tôi ơi, - quận công bảo - bác không hay nói, nhưng khi bác nói thì phải công nhận rằng bác nói ra vàng ra bạc.
-----------------
Chú thích:
(1) Theo đạo Gia-tô, bảy đại tội là: ngạo mạn, ghen ghét, biển lận, dâm đãng, tham ăn, giận dữ, lười nhác.
(2) Một dụng cụ hình trái lê có lò-xo đem tọng vào trong mồm thì nó gang cả hai hàm ra khiến không thể kêu la được.
Cùng với thời gian mà quận công de Beaufort và Grimaud toan tính vượt ngục, thì có hai người cưỡi ngựa và một thằng hầu theo sau đi vào Paris bằng phố cửa ô Saint-Marcel.
Hai người đó là bá tước De La Fère và tử tước De Bragelonne.
Đây là lần đầu tiên chàng thanh niên đến Paris và Arthos chẳng tô son vẽ phấn gì cho kinh đô, người bạn cố tri của mình, khi đưa chàng trai trẻ vào xem bằng phía ấy. Thật vậy cái làng Touraine cuối cùng trên chặng đường còn ưa nhìn hơn Paris trông ở phía mặt đối diện với Blois. Cho nên phải nói rằng thật xấu hổ cho cái thành phố từng được ca tụng này, nó gây một tác dụng tồi tệ cho chàng trai trẻ.
Arthos vẫn giữ cái vẻ vô tư lự và thanh thản của mình.
Là người dẫn đường cho người bạn đổng hành của mình trong cái mê cung mênh mông này, khi tới Xanh Mêda, Arthos đi theo phố Bưu Trạm rồi phố Cực Hình, phố Hào,Vaugirard, Saint - Médard, rồi phố , khi tới phố Férou thì đi vào. Đến giữa phố, Arthos ngước mắt lên mỉm cười và chỉ cho chàng trai trẻ xem một ngôi nhà có vẻ ngoài sang trọng và nói:
- Này Raoul, đây là một ngôi nhà mà tôi ở bảy năm êm đềm nhất và phũ phàng nhất của đời mình.
Chàng thanh niên mỉm cười theo và cúi chào ngôi nhà, lòng hiếu thảo của cậu đối với người đỡ đầu cho mình biểu lộ trong mọi hành động của cuộc sống.
Còn đối vôi Arthos, như chúng ta đã nói, Raoul không những là trung tâm mà, không kể những kỷ niệm cũ ở trung đoàn, còn là đối tượng duy nhất của tình yêu thương và người ta hiểu lần này trái tim Arthos có thể yêu tha thiết và sâu sắc đến nhường nào.
Hai lữ khách dừng chân ở phố Chuồng Bồ Câu cũ, chỗ có biển quán Con Cáo Xanh. Arthos biết quán rượu này từ lâu, hàng trăm lần anh đã đến đây cùng các bạn, nhưng từ hai mươi năm nay đã có bao nhiêu đổi thay ở trong quán, bắt đầu từ những người chủ.
Các lữ khách trao ngựa cho mấy tên hầu, và do ngựa thuộc giống quý, họ dặn dò phải trông nom thật chu đáo, chỉ cho ăn rơm và lúa mạch và rửa ngực và chân ngựa bằng rượu vang ấm. Họ đã đi hai mươi dặm trong ngày. Trước tiên phải săn sóc ngựa của mình như những kỵ sĩ thực thụ thường làm, sau đó họ gọi hai phòng cho họ:
- Anh đi tắm rửa và sửa soạn quần áo đi, - Arthos nói, - tôi sẽ giới thiệu anh với một người quen.
- Hôm nay ư thưa ông? - Chàng thanh niên hỏi.
- Nửa giờ nữa.
Chàng trai trẻ cúi chào.
Có lẽ kém chịu đựng mệt nhọc hơn Arthos, một con người như bằng thép, Raoul thực sự muốn xuống tắm trong dòng sông Sein mà anh từng nghe nói đến rất nhiều, song vẫn cho rằng kém đứt sông Loire, sau rồi đi nằm một lát; nhưng vì bá tước de La Fére đã nói vậy nên cậu chỉ biết vâng lời.
- À này, Raoul, - Arthos nói, - anh ăn vận chăm chút vào nhé, tôi muốn người ta thấy anh đẹp trai.
- Thưa ông, - chàng trai trẻ mỉm cười đáp, - tôi hy vọng rằng không phải là chuyện hôn nhân. Ông biết tôi đã hứa hẹn với Louise.
Arthos cũng mỉm cười và nói:
- Không đâu, cứ yên trí, mặc dù tôi sẽ giới thiệu anh với một phụ nữ.
- Một phụ nữ ư? - Raoul hỏi
- Phải, và tôi mong rằng anh sẽ yêu mến người ấy.
Chàng thanh niên nhìn bá tước thoáng băn khoăn; nhưng thấy Arthos, mỉm cười, anh cũng vững dạ.
- Người phụ nữ ấy bao nhiêu tuổi ạ? - Tử tước De Bragelonne hỏi.
- Raoul thân mến của tôi ơi, - Arthos nói, hãy nhớ rằng câu hỏi như vậy từ nay về sau chớ bao giờ lặp lại. Khi anh có thể đoán tuổi trên nét mặt một người đàn bà, thì tuổi người ta là vô ích, còn khi đã không thể đoán mà hỏi thì là tọc mạch.
- Người ấy có xinh đẹp không?
Cách đây mười sáu năm, bà ta không những được coi là xinh đẹp nhất, mà còn là người phụ nữ duyên dảng nhất nước Pháp.
Câu trả lời ấy làm cho cậu tử tước yên tâm hoàn toàn. Arthos không thể có một dự định nào về cậu ta và về một người đàn bà đã được coi là xinh đẹp nhất và duyên dáng nhất nước Pháp một năm trước khi cậu ra đời.
Raoul bèn về phòng mình và với cái tính làm dáng rất hợp với tuổi trẻ, anh làm theo những lời dặn dò của Arthos, nghĩa là ra sức trang điểm cho nó có vẻ đẹp đẽ bảnh bao nhất. Mà cũng là chuyện dễ dàng thôi đối với một con người mà thiên nhiên đã tạo ra sẵn như vậy. Khi cậu lại ra mắt, Arthos đón nhận với nụ cười cha con mà vừa qua anh đã đón tiếp d Artagnan, nhưng nó đượm một niềm vẻ trìu mến sâu xa hơn.
Arthos liếc nhìn chân, tay và tóc Raoul, ba cái dấu hiệu của chủng tộc, giòng giống, mái tóc đen nhành rẽ ngôi giữa theo kiểu thời bấy giờ và buông rũ thành búp khuôn lấy gương mặt có nước da hơi sạm; những đôi găng bằng da hoẵng màu xam xám hoà hợp với cái mũ dạ và làm nổi bật hai bàn tay thanh tú, tao nhã, còn đôi ủng đồng màu với găng và mũ, bó khít đôi bàn chân nhỏ nhắn như chân đứa trẻ mười tuổi.
- Nào, - Arthos lẩm bẩm - nếu nàng không hãnh diện về nó thì đúng là nàng khó tinh.
Lúc ấy là ba giờ chiều, nghĩa là giờ thích hợp cho những cuộc viếng thăm. Hai người đi dọc phố Grenelle sang phố Cây Hồng, vào phố Saint Dominique, và dừng lại trước một dinh thự nguy nga ở trước mặt dinh Jaccobins, và trên có gia huy dòng họ De Luynes.
- Đây rồi, - Arthos nói.
Anh bước vào toà nhà với bước đi đĩnh đạc đường hoàng chứng tỏ cho tên gác cổng Thụy Sĩ rằng người khách vào có quyền như vậy.
Anh bước lên bậc thềm gặp một thằng hầu ăn mặc quần áo dấu ngày lễ. Anh hỏi xem bà công tước de Chevreuse có nhà không và có thể tiếp ông bá tước de La Fère không.
Một lát sau tên hầu ra và nói rằng mặc dầu bà công tước de Chevreuse không được hân hạnh quen biết bá tước de La Fère, nhưng bà vẫn xin mời ông vào.
Arthos theo tên hầu đi qua một dãy dài các gian phòng và cuối cùng dừng lại trước một cửa đóng. Đây là phòng khách. Arthos ra hiệu cho tử tước Bragelonne đứng nguyên tại chỗ.
Tên hầu mở cửa và trình báo là bá tước de La Fère đến.
Bà de Chevreuse mà chúng tôi đã nói đến luôn trong truyện Ba người lính ngự lâm nhưng chưa có dịp đưa lên sân khấu lúc này vẫn được coi như một phụ nũ tuyệt đẹp. Quá vậy, hồi ấy bà đã bốn tư bốn lăm tuổi rồi, mà nom cứ như mới băm tám băm chín; tóc vẫn hoe vàng, cắp mắt to thông minh và linh hoạt mà những âm mưu luôn luôn mở rộng ra và ái tình luôn luôn khép lại, và cái vóc người yểu điệu khiến nhìn đằng sau vẫn như cô thiếu nữ hồi nào cùng với Anne d Autriche nhảy qua cái hào ở Tuileries, cái hào năm 1683 đã cướp đi ngôi báu nước Pháp của một kẻ kế vị.
Vả chăng đó bao giờ cũng vẫn là tạo vật cuồng điên ấy, nó đã ném lên những cuộc tình duyên của mình một dẩu ấn độc đáo đến nỗi những cuộc tình duyên ấy hầu như trở thành một vinh hiển cho gia đình mình.
Bà đang ở trong một khuê phòng mà cửa sổ trông ra vườn. Theo mốt mà bà de Rambouillet đưa ra khi xây dựng dinh thự của mình, khuê phòng ấy chăng một tấm Damas màu lơ thêu hoa hồng và cành lá kim tuyến. Với tuổi của bà de Chevreuse thì ở trong một khuê phòng như vậy là đỏm dáng quá nhất là trong tư thế của bà lúc này, nghĩa là nằm trên một chiếc ghế dài và tụa đầu vào tấm thảm.
Bà cầm một quyển sách hé mở và một cái nệm dỡ cánh tay cầm sách.
Nghe tên hầu báo, bà hơi nhấc mình dậy và tò mò nhô cái đầu ra.
Arthos xuất hiện.
Anh vận đồ nhung tím với những thêu ren cùng màu; các dây tua bịt bạc đánh nâu, áo choàng không có chút thêu kim tuyến nào và một chiếc lông chim giản dị màu tím cắm trên chiếc mũ dạ đen.
Chân anh dận đôi ủng bằng da đen, ở thắt lưng đeo thanh kiếm có cái chuôi lộng lẫy mà Porthos hồi xưa đến phố Fréjus đã từng ngắm nghĩa thèm thuồng nhưng Arthos không bao giờ muốn cho mượn cả.
Những tấm thêu ren làm thành cái cổ áo gập xuống của chiếc sơ mi; những dải đăng-ten cũng rũ xuống đôi ủng.
Trong tất cả con người của vị khách vừa mới được trình báo dưới một cái tên hoàn toàn xa lạ với bà de Chevreuse, toát lên một vẻ quý tộc thượng lưu khiến bà hơi nhổm dậy và ra hiệu một cách duyên dáng mời khách ngồi xuống một chiếc ghế bên cạnh bà.
Arthos thi lễ và ngồi xuống. Tên hầu sắp sửa rút lui thì Arthos ra hiệu giữ hắn lại. Anh nói bà công tước:
- Thưa bà, tôi không được bà quen biết mà dám mạo muội đến trình diện tại quý dinh thự, nhưng đã đạt kết quả vì bà đã chiếu cố tiếp tôi. Bây giờ tôi xin bà ban cho nửa giờ hội kiến.
- Thưa ông, tôi đồng ý, - bà de Chevreuse trả lời với nụ cười duyên dáng nhất.
- Nhưng chưa hết đâu, thưa bà. Ôi! Tôi thật là tham lam quá, tôi biết mà! Cuộc hội kiến mà tôi yêu cầu là một cuộc hội kiến riêng giữa hai người và trong khi ấy có một điều mong mỏi thiết tha là không bị ngắt quãng.
- Lúc này tôi không tiếp cả, - bà công tước de Chevreuse bảo với tên hầu. - Thôi, ra đi.
Tên hầu đi ra.
Một lát im lặng, trong đó hai nhân vật ngay từ lúc thoạt nhìn đã nhận ra nhau ngay là thuộc dòng dõi cao sang, nên ngắm nghía nhau mà chẳng một ai hề thấy lúng túng, bối rối.
Bà công tước de Chevreuse đầu tiên phá tan sự im lặng.
- Thế nào, thưa ông, - bà mỉm cười nói, - Ông không thấy rằng tôi nóng lòng mong đợi ư?
- Còn tôi, thưa bà, - Arthos nói, - tôi nhìn với vẻ thản phục và hâm mộ.
- Thưa ông, - bà công tước nói, - xin ông thứ lỗi tôi muốn được biết ngay tôi nói chuyện với ai. Ông là người trong triều đình đó là điều không thể chối cãi, thế mà tôi chưa hề gặp ông trong cung bao giờ. Phải chăng ông mới ở nhà ngục Bastille ra?
- Thưa bà, không phải, - Arthos cười đáp, - nhưng có lẽ tôi đang ở trên đường dẫn tới đó.
- A! Trong trường hợp ấy, ông hãy mau mau nói rõ ông là ai và đi đi, - bà công tước nói với giọng vui vẻ rất duyên dáng ở bà, - bởi vì tôi đã bị liên lụy khá nhiều như thế rồi, và chẳng còn muốn để mình bị nguy hại thêm nữa.
- Tôi là ai ư, thưa bà? Người ta đã báo tên tôi là bá tước de La Fère. Bà chẳng biết cái tên ấy bao giờ. Ngày xưa tôi mang một tên khác mà có lẽ bà đã biết đấy, nhưng chắc bà đã quên rồi.
- Ông cứ nói đi.
- Ngày xưa, - bá tước de La Fère nói, - tôi tên gọi là Arthos.
Bà de Chevreuse giương to mắt kinh ngạc. Như bá tước nói hiển nhiên là cái tên ấy chưa bị xoá hẳn trong ký ức bà dù rằng nó lẫn lộn trong bao nhiêu kỷ niệm cũ.
- Arthos à? Khoan đã… - Bà nói.
Và bà đặt hai ngón tay lên trán như muốn bắt hàng nghìn ý nghĩ thoáng qua trong đó phải dừng lại giây lát để có thể nhìn rõ ràng trong cái đám lóng lánh và tạp sắc ấy.
- Bà có muốn tôi giúp dỡ một chút không? - Arthos mỉm cười nói.
- Vâng, - bà công tước mệt mỏi vì tìm kiếm đáp, - xin ông vui lòng…
- Cái tên Arthos ấy gắn liền với ba người linh ngự lâm trẻ tuổi tên là d Artagnan, Porthos và…
Arthos ngừng lại:
- Và Aramis, - bà công tước vội vã nói.
- Và Aramis, đúng thế, - Arthos nói tiếp, - vậy là bà không hoàn toàn quên cái tên ấy?
- Không, - bà nói - không đâu, Aramis tội nghiệp! Đó là một nhà quý tộc tuyệt diệu, tao nhã, kín đáo và làm thơ hay, tôi ngờ rằng ông ấy đã gặp bước không may.
- Tồi tệ nhất ấy; ông ta là tu viện trưởng.
- À à! Khổ chưa? - Bà de Chevreuse vừa nói vừa lơ đễnh nghịch nghịch chiếc quạt. - Thật vậy, thưa ông, tôi xin cảm ơn ông.
- Cảm ơn về cái gì, thưa bà?
- Về việc đã nhắc lại với tôi kỷ niệm ấy, nó là một trong những kỷ niệm êm ái nhất thời thanh xuân của tôi.
- Thế bà có cho phép tôi nhắc lại một kỷ niệm thứ hai không, - Arthos hỏi.
- Nó cũng gắn với người kia à?
- Có và không?
- Thật tình, xin ông cứ nói nữa đi, - bà de Chevreuse nói - với một người như ông, tôi mạo hiểm tất cả.
Arthos cúi mình. Rồi nói tiếp:
- Aramis liên hệ với một cô bán quần áo trẻ tuổi ở thành Tour.
- Một cô bán quần áo trẻ tuổi ở thành Tour? - Bà Chevreuse lặp lại.
- Vâng, một cô em họ của ông ta, tên gọi Marie Michon.
- À! Tôi biết cô ta, bà de Chevreuse kêu lên, - chính ông Aramis từ trận vây thành La Rochelle đã viết thư cho cô ấy để báo trước về một cuộc âm mưu tiến hành chống ông Buckingham tội nghiệp ấy.
- Đúng thế, - Arthos nói - bà có vui lòng cho phép tôi nói về cô ta không?
Bà de Chevreuse nhìn Arthos, rồi nói:
- Vâng, miễn là ông đừng nói nhiều điều không hay về cô ấy.
- Tôi sẽ là một kẻ bội bạc, - Arthos nói - và tôi coi sự bội bạc không phải như một khuyết điểm hoặc một tội ác mà là một điều xấu xa, như thế còn tồi tệ hơn.
- Thưa ông, ông mà bội bạc với Marie Michon ư?- Bà de Chevreuse vừa nói vừa thử đọc trong cặp mắt của Arthos. - Nhưng tôi làm sao lại có thể thế được? Chưa bao giờ ông quen riêng cô ta.
- Ồ, thưa bà, biết đâu đấy? - Arthos nói tiếp - Có một câu tục ngữ dân gian nói rằng chỉ có núi non mới không gặp nhau? Và những câu tục ngữ dân gian đôi khi đúng không thể tưởng tượng được.
- Ôi, nói tiếp đi, ông ơi, nói tiếp đi! - Bà de Chevreuse cuồng quít nói, - bởi vì ông không thể tưởng tượng rằng cuộc trò chuyện này làm tôi thích thú biết chừng nào.
- Bà cổ vũ tôi, - Arthos nói - vậy tôi xin nói tiếp. Cô em họ Aramis, cô Marie Michon ấy, rốt cuộc là cô bán quần áo trẻ tuổi ấy, mặc dầu địa vị tầm thường, cô quen biết những người cao sang nhất; cô gọi những mệnh phụ lớn nhất trong triều là bạn bè mình, và hoàng hậu dù kiêu hãnh đến mấy với tư cách vừa là người Áo vừa là người Tây Ban Nha, cũng gọi cô là em gái mình.
- Than ôi! - Bà de Chevreuse khẽ buông một tiếng thở dài và hơi nhíu đôi lông mày, động tác chỉ riêng bà có và nói. - Từ ấy đến nay đã bao sự đổi thay.
- Và Hoàng hậu rất đúng, - Arthos nói tiếp, bởi vì cô ta hết lòng tận tụy với bà đến mức làm trung gian cho bà với anh của bà ấy là vua Tây Ban Nha.
- Do việc ấy cô ta bị quy vào một trọng tội, - bà de Chevreuse nói.
- Đến nỗi, - Arthos nói, - ngài giáo chủ ngài giáo chủ thực sự kia cơ một buổi sớm nọ đã quyết định cho bắt cô Marie Michon tội nghiệp và đưa hẳn đến lâu đài Loches. May thay chuyện ấy không thể làm bí mật, đến mức nó không thoát ra ngoài được. Trường hợp ấy đã được dự phòng: nếu Marie Michon bị một mối nguy hiểm nào đó đe doạ, hoàng hậu sẽ phải gửi tới cho cô một cuốn sách kinh nhật tụng đóng và bọc bằng nhung xanh.
- Đúng thế thưa ông? Ông biết thật là tường tận.
- Một buổi sáng, cuốn sách xanh được hoàng thân Marcillac mang tới. Không còn thì giờ nữa. May thay, Marie Michon và một nữ tỳ của cô tên là Ketty mặc quần áo đàn ông hợp một cách tuyệt vời. Hoàng thân cấp cho Marie Michon một bộ quần áo kỵ sĩ và cho Ketty một bộ quần áo thằng hầu, giao cho họ hai con ngựa thật tốt, và hai kẻ chạy trốn nhanh chóng rời khỏi thành phố Tour về phía Tây Ban Nha. Họ run sợ trước mỗi tiếng động nhỏ, men theo những con đường quanh co vì không dám đi theo đường cái và khi nào không gặp hàng quán thì tìm nhà xin nghỉ trọ.
- Thực hoàn toàn đúng vậv, - bà de Chevreuse vỗ tay kêu lên - Nhưng thật là lạ lùng.
Bà ngừng bặt.
- Rằng tôi đã theo dõi hai người chạy trốn từ đầu đến cuối cuộc hành trình, phải không? - Arthos nói. - Không đâu, thưa bà, tôi sẽ chẳng lạm dụng thời giờ của bà như vậy, mà tôi chỉ đi theo họ tới một làng nhỏ vùng Limousin, ở giữa Tulle và Angoulême, một làng nhỏ tên là Roche - l Abeille.
Bà de Chevreuse thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc và nhìn Arthos với vẻ sửng sốt khiến anh lính ngự lâm cũng mỉm cười.
- Khoan đã, thưa bà, Arthos nói tiếp, - bởi vì điều còn lại để nói với bà sẽ khác hẳn điều mà tôi đã nói.
- Thưa ông, - bà de Chevreuse nói, - tôi ngỡ ông là một thày phù thủy, tôi sẵn sàng nghe tất cả, nhưng thực ra…, thôi, không sao, xin ông cứ tiếp tục.
- Lần ấy, ngày sao mà dài lê thê và mệt mỏi thế, trời thì rét, đó là ngày mười một tháng Mười. Trong làng không có hàng quán hay lâu đài nào, nhà ở của nông dân thì tiều tụy bẩn thỉu. Marie Michon là một người rất quý phái giống như hoàng hậu chị cô, cô đã quen với hương hoa và áo quần là lượt; cô bèn quyết định xin nghỉ trọ ở nhà một mục sư.
Arthos ngừng một lát.
- Ồ! Nói tiếp đi, - nữ công tước nói, - tôi đã bảo trước ông là tôi sẵn sàng chờ đợi mọi chuyện mà.
- Hai lữ khách gõ cửa, lúc ấy đã muộn, vì mục sư đã đi nằm, bảo họ cứ vào họ vào vì cửa không đóng. Trong các làng người ta sống rất tin cậy. Một ngọn đèn thắp trong buồng mục sư. Marie Michon, đóng vai một chàng kỵ sĩ tuyệt diệu nhất trần đời, đẩy cửa, thò đầu vào và xin nghỉ trọ.
- Rất sẵn sàng, chàng kỵ sĩ trẻ ạ, - mục sư nói, - nếu như anh vui lòng với bữa tối còn lại của tôi và với nửa căn phòng này của tôi.
Hai lữ khách trao đối với nhau một lát, vị mục sư nghe họ cười phá lên, rồi ông chủ hay nói đúng hơn bà chủ đáp:
- Cám ơn mục sư tôi nhận lời.
- Vậy thì các bạn ăn đi và cô giữ thật yên lặng, - mục sư nói, - bởi vì tôi cũng đã chạy cả ngày và chẳng phiền lòng nếu được ngủ đêm nay.
Rõ ràng bà de Chevreuse đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt và từ sửng sốt đến rụng rời; nhìn Arthos gương mặt bà có một vẻ biểu hiện không thể nào tả nổi; người ta thấy như là muốn nói, song lại ím lặng, sợ bỏ sót một lời nào của người đối thoại.
- Rồi sao nữa? - Bà hỏi.
- Rồi sao ư? - Arthos nói - đúng là chỗ khó nói nhất.
- Nói đi, nói đi, cứ nói đi! Có thể nói với tôi tất cả. Vả chăng chuyện ấy không can hệ gì đến tôi, đó là chuyện của cô Marie Michon.
- À đúng thế! - Arthos nói - Vậy xin kể tiếp. Marie Michon ăn cùng với con hầu, và ăn xong, theo điều đã được cho phép, cô trở vào căn phòng nơi vị chủ nhà nghỉ, còn Ketty ngả lưng trên chiếc ghế bành ở ngăn đầu tiên, tức là nơi họ vừa ăn.
- Thưa ông, - bà de Chevreuse nói, trừ phi ông là ma quỷ hiện hình, thực tình tôi không hiểu, làm thế nào mà ông biết rõ từng chân tơ kẽ tóc như vậy.
- Cái cô Marie Michon ấy thật là một người đàn bà kiều diễm, - Arthos nói tiếp, - đó là một trong những tạo vật điên cuồng, trong đầu óc luôn luôn có những ý nghĩ lạ lùng nhất, đó là một trong những sinh vật sinh ra để làm tình làm tội tất cả chúng ta chừng nào chúng ta còn tồn tại. Nhân nghĩ rằng chủ nhà là một vị mục sư, cô gái đỏng đảnh nảy ra ý nghĩ rằng giữa muôn vàn những kỷ niệm vui tươi mà mình đã sẵn có, thì đây có khi sẽ là một kỷ niệm thú vị cho tuổi già của cô là đã làm tội một kẻ tu hành.
- Bá tước ơi, xin thề là ông làm cho tôi kinh hãi lắm!
- Than ôi! - Arthos lại tiếp, - vị mục sư tội nghiệp chẳng phải là một ông thánh Ambroise, mà cô Marie Michon, tôi xin nhắc lại, là một tạo vật đáng yêu quý.
Bà công tước nắm lấy tay Arthos mà kêu lên:
- Ông ơi, hãy nói ngay lập tức cho tôi biết làm sao mà ông biết hết ngọn ngành chuyện ấy, nếu không tôi sẽ gọi một thày tăng ở tu viện Vieux - Augustins đến để trừ tà cho ông.
Arthos bật cười nói:
- Thưa bà chằng có gì dễ hiểu hơn. Một kỵ sĩ, được trao một sứ mệnh quan trọng đến xin ngủ trọ ở nhà mục sư một tiếng đồng hồ trước khi cô ấy đến, và đúng lúc ấy, mục sư được mời đi tới chỗ một kẻ sắp chết, ông ta vội rời không những khỏi nhà mình mà rời khỏi làng đi suốt đêm. Thế là người của Chúa đầy lòng tin cậy ở vị khách trọ của mình, mà vị khách này cũng là một nhà quý tộc, nên ông đã bỏ lại cho khách cả nhà cửa, bữa ăn tối và phòng nghỉ. Như vậy là Marie Michon đã ngỏ lời xin nghỉ trọ không phải với vị mục sư mà với khách của mục sư.
- Thế người kỵ sĩ ấy, vị khách ấy, vị quý tộc ấy đã đến trước cô ta là ai?
- Chính tôi, bá tước de La Fère, - Arthos vừa nói vừa đứng dậy và cung kính chào nữ công tước de Chevreuse.
Nữ công tước qua một lát kinh hoàng, rồi bỗng bật cười nói:
- Ôi! Thực tình mà nói, thật là kỳ khôi và cái cô Marie Michon điên dại ấy đã tìm thấy hơn cả điều mình mong ước. Bá tước thân mến, hãy ngồi xuống và kể tiếp đi nào.
- Bây giờ còn lại điều tôi tự buộc tội mình. Tôi đã nói với bà rẳng, chính tôi tôi cũng đi vì một sứ mệnh cấp bách; từ mờ sáng tôi đã lặng lẽ ra khỏi phòng, để mặc cho người bạn đồng phòng của tôi ngủ tiếp. Trong gian ngoài, cô hầu cũng vẫn ngủ, đầu ngả trên ghế bành, trông thật xứng đáng với bà chủ. Khuôn mặt xinh đẹp của cô ta làm tôi chú ý, tôi tiến gần lại và nhận ra cô bé Kettty mà anh bạn Aramis của chúng tôi đã thu xếp cho theo hầu bà ta. Do đó mà tôi biết được rằng người lữ khách kiều diễm là…
- Marie Michon? - Bà de Chevreuse vội vã cướp lời.
- Marie Michon, - Arthos nhắc lại - Thế là tôi ra khỏi nhà, đến chuồng ngựa, thấy ngựa đã thắng yên cương và tên hầu của tôi đã sẵn sàng, chúng tôi ra đi.
- Thế không bao giờ ông quay trở lại cái làng đó à? Bà de Chevreuse hấp tấp hỏi.
- Thưa bà, một năm sau.
- Thế sao?
- Tôi muốn thăm lại mục sư tử tế ấy. Tôi thấy ông đang bận về một chuyện mà ông chẳng hiểu gì cả.
Trước đó tám ngày, ông nhận được một chiếc nôi nhỏ trong có đứa con trai ba tháng với một túi đầy tiền vàng và một mảnh giấy ghi mấy dòng chữ đơn giản "11 tháng Mười, năm 1633".
- Đó là ngày xảy ra cuộc phiêu lưu kỳ lạ ấy, - bà de Chevreuse nói.
- Phải, nhưng ông mục sư không hiểu gì ngoài việc đêm hôm ấy ông đã ở bên cạnh một kẻ sắp chết, bởi vì Marie Michon cũng đã rời khỏi nhà mục sư trước lúc ông trở về.
- Ông biết không, năm 1643 khi Marie Michon trở về Pháp đã cho hỏi ngay tin tức về đứa trẻ, bởi vì đang lẩn trốn cô không thể trông nom nó được; nhưng sau về Paris cô ấy muốn được nuôi nấng dạy dỗ nó ở bên mình.
- Thế vị mục sư nói gì với cô ta? - Đến lượt Arthos hỏi.
- Ông ấy cho biết là một vị lãnh chúa mà ông không quen biết đã có ý muốn nhận nuôi nó, bảo đảm tương lai cho nó và đã mang nó đi theo.
- Sự thật là như vậy.
- A! Tôi hiểu rồi? Vị lãnh chúa ấy chính là ông đây, chính là cha thằng bé?
- Sụyt! Đừng nói to thế bà ơi, nó ở ngoài kia.
- Nó ở ngoài kia à? - Bà de Chevreuse kêu lên và vội vàng đứng dậy - Nó ở kia, con trai của tôi, con trai của Marie Michon ở kia! Tôi muốn gặp nó ngay bây giờ!
- Xin bà hãy chú ý đừng để nó biết rõ cha nó và mẹ nó, - Arthos ngắt lời.
- Ông đã giữ kín điều bí mật, và ông đã dẫn nó tới đây vì nghĩ ràng nó sẽ làm cho tôi sung sướng. Ôi, xin cảm ơn, xin cảm ơn ông!
Bà de Chevreuse vừa kêu lên vừa nắm chặt lấy tay Arthos và cố đưa lên môi hôn.
- Xin cảm ơn! Ông là một tấm gương cao quý.
Arthos vừa rút bàn tay vừa nói:
- Tôi dẫn nó đến đây với bà, để đến lượt bà cũng làm cho nó một cái gì. Cho tới nay tôi đã trông nom việc giáo dục nó và tin rằng đã khiến nó trở thành một người quý tộc hoàn tất, nhưng đã đến lúc tôi thấy mình buộc phải sống trở lại cuộc đời lang thang và nguy hiểm của người đảng phái. Ngay ngày mai tôi sẽ lao vào một công việc phiêu lưu và có thể bị giết chết; thế là sẽ chỉ còn có bà để đẩy nó vào thế giới thượng lưu mà nó được gọi đến để giành một vị trí.
- Ồ! Ông yên tâm? - Bà công tước nói. - Tiếc thay lúc này tiền nong tôi không còn mấy, nhưng cái gì còn lại của tôi là của nó; còn về vận hạnh và tước vị của nó thì…
- Về điều này bà khỏi phải lo: tôi đã cho nó thừa hưởng lãnh địa Bragelonne mà tôi thừa kế, lãnh địa ấy sẽ cho nó nhận tước vị tử tước và mười nghìn livres niên thu.
- Thưa ông, - nữ công tước nôi, - tôi xin lấy linh hồn mình ra mà thề rằng ông là một nhà quý tộc chân chính! Nhưng tôi đang nóng lòng gặp chàng tử tước trẻ tuổi của chúng ta. Cậu ta đâu?
- Ở ngoài phòng khách kia, tôi sẽ bảo nó vào.
Arthos toan bước ra cửa, thì bà de Chevreuse ngăn lại.
- Nó có đẹp không? - Bà hỏi.
Arthos mỉm cười đáp:
- Nó giống mẹ nó.
Cùng lúc anh mở cửa và ra hiệu cho chàng trai trẻ vào, cậu xuất hiện ở ngưỡng cửa.
Bà de Chevreuse không thể ngăn mình thốt lên một tiếng kêu lên mừng rỡ, khi trông thấy một chàng kỵ sĩ tuấn tú đến thế, thật vượt mọi kỳ vọng mà niềm kiêu hãnh của bà có thể ấp ủ.
- Tử tước, lại gần đây, bà công tước de Chevreuse cho phép anh hôn tay bà.
- Cậu thiếu niên bước lại với một nụ cười duyên dáng, rồi ngả mũ, quỳ đầu gối xuống đất và hôn tay bà de Chevreuse.
- Thưa bá tước, - cậu quay về phía Arthos mà nói, - phải chăng vì muốn nương nhẹ tính nhút nhát của tôi mà ông nói rằng đây là nữ công tước de Chevreuse, và đúng ra là hoàng hậu phải không ạ?
- Bà de Chevreuse cầm lấy tay cậu, kéo ngồi xuống bên cạnh mình và nhìn cậu bằng cặp mắt long lanh mừng vui và nói.
- Không phải đâu, tử tước ơi. Tiếc thay tôi không phải là hoàng hậu, vì rằng nếu là hoàng hậu thì ngay lúc này đây, tôi sẽ làm cho anh tất cả những gì mà anh xứng đáng, nhưng nào, - bà khó lòng tự ghìm mình áp đôi môi lên vầng trán đến là thanh khiết của cậu và nói tiếp - Nào anh thích làm nghề gì?
Arthos đứng ngây ra nhìn hai người với vẻ sung sướng khôn tả.
Bằng một giọng vừa êm ái vừa vang vang, Raoul nói:
- Thưa bà, đối với một quý tộc, hình như chỉ có một nghề, đó là binh nghiệp. Ông bá tước đã dạy dỗ tôi với một ý định là làm tôi thành một người lính, tôi chắc thế, và ông đã để cho tôi hy vọng là sẽ giới thiệu tôi với một vị nào đó ở Paris có thê tiển cử tôi với ngài Hoàng thân.
- Phải tôi hiểu, một binh sĩ trẻ như anh mà phục vụ dưới quyền một vị tướng như ông ta thì thật là hợp quá.
- Nhưng này, khoan đã… quan hệ cá nhân giữa tôi với ông ta không được tốt lắm, do những chuyện xích mích giữa bà de Montbazon, mẹ ghẻ tôi, với bà de Longueville; nhưng qua hoàng thân de Marcillac là bạn cũ của tôi, ông sẽ giới thiệu anh bạn trẻ của chúng ta với bà de Longueville, bà sẽ viết một bức thư cho anh bà, ông hoàng thân, ông ấy yêu mến bà ta quá tha thiết nên không thể không làm ngay tức khắc cho bà tất cả những gì bà đòi hỏi.
- Thế là mọi chuyện được thu xếp rất tuyệt, - bá tước nói - Song bây giờ liệu tôi có dám dặn dò bà một điều khẩn gấp bậc nhất không? Tôi có lý do để mong muốn rằng chiều ngày mai tử tước không ở Paris nữa.
- Thưa bá tước, ông có ý muốn rằng người ta biết là ông quan tâm đến anh ta không?
- Tốt hơn hết đối với tương lai của anh ta có lẽ là đừng để ai biết rằng anh ta đã từng quen biết tôi.
- Ôi, thưa ông! - Chàng trẻ kêu lên.
- Bragelonne này, - bá tước nói, anh biết rằng tôi không bao giờ làm điều gì mà không có lý do.
- Vâng, thưa ông, - chàng trai trẻ nói, - tôi biết rằng ở ông là sự khôn ngoan cực điểm, và tôi sẽ tuân lời ông như tôi đã từng quen làm như vậy.
- Thôi, bá tước cứ để anh ấy cho tôi, - nữ công tước nói. - Tôi sẽ cho đi tìm hoàng thân de Marcillac, may ra lúc này ông ấy đang ở Paris, và tôi sẽ không rời anh ta chừng nào công việc chưa xong.
- Tốt lắm, thưa bà công tước, xin đa tạ bà. Hôm nay tôi cũng có nhiều nhiều việc phải làm và lúc trở về, tức là khoảng sáu giờ chiều, tôi sẽ đợi tử tước ở khách sạn.
- Tối nay ông làm gì?
- Chúng tôi sẽ đến tu viện trưởng Scarron vì có thư cho ông ấy và cũng sẽ gặp một người bạn ở đấy.
- Được rồi, - bà công tước nói, - tôi sẽ qua đấy một lát, vậy ông chớ từ giã phòng khách này trước khi gặp tôi.
Arthos chào bà de Chevreuse và sửa soạn ra đi.
- Ơ này, ông bá tước, - bà công tước cười nói - người ta từ giã bạn bè một cách nghiêm khắc đến thế ư?
- A!- Arthos lẩm bẩm và hôn tay bà.
- Nếu như trước đây tôi đã biết sớm rằng Marie Michon là một con người tuyệt vời đến thế!
Anh vừa rút lui vừa thở dài.
Ở phố Tournelles có một ngôi nhà mà tất cả những phu khiêng kiệu và tất cả những thằng hầu ở Paris đều biết, tuy nhiên đó chẳng phải nhà của một vị đại thần hay một nhà tài chính. Người la không ăn, không chơi và không nhảy múa ở đấy bao giờ.
Ngôi nhà đó là của ông Scarron nhỏ bé.
- Ở nhà ông tu viện trưởng sắc sảo hóm hỉnh ấy, người ta vui cười thoả thích; người ta tuôn ra bao nhiêu tin tức; những tin ấy nhanh chóng được bình luận, xé vụn ra và chế biến hoặc thành truyện, hoặc thành những bài thơ trào phúng, đến nỗi ai cũng muốn đến chơi một lát với ông Scarron nhỏ bé, nghe ông nói và rồi đi kể lại những điều ông đã nói. Có nhiều người nóng lòng đến đấy để nói lời của mình và nếu nó có kỳ cục, thì họ vẫn là những kẻ được hoan nghênh.
Ông tu viện trưởng bé nhỏ Scarron được coi là tu viện trưởng chăng qua vì ông sở hữu tu viện, chứ hoàn toàn không phải ông thuộc giới chức nhà thờ; xưa kia ông là một trong những kẻ hưởng lộc thánh đỏng đảnh nhất của thành phố Meung nơi ông ở. Nhân một hôm hội giả trang, ông định mua vui một cách cực điểm cho cái thành phố tử tế này mà ông là linh hồn. Ông bèn sai tên hầu bôi mật ong vào khắp người ông, rồi trải một cái nệm lông ra, ông lăn mình vào trong đô thành thử ông biến thành một loài chim kỳ cục nhất chưa từng thấy.
Ông bắt đầu đến viếng thăm các bạn trai và bạn gái trong bộ quần áo lạ đời ấy. Lúc đầu, người ta theo dõi với vẻ kinh ngạc, rồi với những tiếng la ó, rồi những kẻ thô lỗ chửi rủa ông, trẻ con ném đá vào ông, cuối cùng ông phải bỏ chạy để tránh những quả đạn.
Ông chạy trốn rồi mà mọi người vẫn đuổi theo: săn, dồn, ép mọi bề.
Scarron chẳng còn cách nào thoát là nhảy xuống sông. Ông bơi như một con cá, nhưng nước giá như băng. Scarron đang nhễ nhại mồ hôi, bị nhiễm lạnh đột ngột, khi sang đến bờ bên kia thì bại liệt.
Người ta thử tìm mọi cách đã biết để khôi phục hoạt động chân tay cho ông; chữa chạy khiến ông đau đớn quá đến nỗi ông tống khứ tất cả các thày thuốc và tuyên bố rằng ông thích bệnh tật hơn. Rồi ông trở về Paris nơi danh tiếng con người trí tuệ của ông đã được thiết lập ông cho làm một cái ghế đi động theo sáng kiến của mình. Một hôm ông ngồi trong chiếc ghế ấy và đến thăm hoàng hậu Anne d Autriche, bà hoàng cảm phục trí tuệ của ông đã hỏi ông có mong muốn một tước vị gì không.
- Thưa Hoàng hậu, - Scarron đáp - có một tước vị mà tôi rất tham vọng.
- Tước vị gì? - Hoàng hậu hỏi.
- Thưa, tước vị bệnh nhân của người, - tu viện trưởng đáp.
Và Scarron đã được phong là Bệnh nhân của Hoàng hậu với một khoản trợ cấp một nghìn năm trăm livres.
Tuy nhiên, một hôm phái viên của giáo chủ đã nói cho biết rằng ông đã sai lầm vì tiếp đãi ông chủ giáo.
- Tại sao vậy? - Scarron hỏi, - đó chẳng phải là một người dòng dõi hay sao?
- Có chứ.
- Đáng mến không?
- Không chối cãi được.
- Thông tuệ không?
- Khốn thay, ông ấy quá thừa.
- Vậy thì cớ sao ông lại muốn tôi thôi không gặp gỡ một người như vậy? - Scarron hỏi.
- Bởi vì ông ta nghĩ xấu.
- Thật ư? Nghĩ xấu về ai?
- Về ông giáo chủ…
- Sao lại thế nhỉ? - Scarron nói. - Ông Gilles Despréaux nghĩ xấu về tôi tôi vẫn tiếp tục gặp gỡ ông ta, thế mà ông lại bắt tôi không được gặp ông chủ giáo chỉ vì ông ta nghĩ xấu về một người khác ư? Không thể được!
Câu chuyện ngừng ở đấy, còn Scarron vì bực tức, càng gặp gỡ ông de Gondy nhiều hơn.
Buổi sáng hôm chúng ta đến đúng vào kỳ hạn phát tiền quỹ, theo lệ thường. Scarron sai tên hầu mang phiếu đến quỹ trợ cấp để lĩnh lương quý nhưng ông được trả lời:
"Nhà nước không còn tiền cho tu viện trưởng Scarron".
Lúc tên hầu mang thư trả lời đó về nhà thì có quận công de Longueville đang ở chơi, ông đề nghị sẽ cấp cho Scarron một khoản trợ cấp to gấp đôi khoản trợ cấp mà lão Mazarin cắt đi của ông, nhưng lão bại liệt ranh ma không nhận. Thế là chỉ đến bốn giờ chiều tất cả thành phố đều biết tin về việc giáo chủ cắt lương Scarron.
Hôm ấy lại đúng vào ngày thứ năm, ngày tiếp khách của tu viện trưởng; người ta ùn ùn kéo đến nhà ông, và người ta ủng hộ phong trào La Fronda một cách điên cuồng ở khắp nơi trong thành phố.
Arthos đi đến phố Saint-Honoré gặp hai người quý tộc mà anh không quen, họ cũng đi ngựa như anh, có một tên hầu đi theo như anh và đi cùng đường với anh.
Một trong hai người đó ngả mũ ra và nói với anh:
- Thưa ông, ông có tin rằng cái lão Mazarin đê tiện ấy đã cắt tiền trợ cấp của ông Scarron đáng thương ấy không?
- Đó là một việc đại vô lý, Arthos vừa đáp vừa chào lại hai người kỵ sĩ.
Người ban nãy lại nói:
- Người ta thấy rõ ông là người trung thực và cái lão Mazarin ấy là một tai vạ thật sự.
- Chao ôi! Thưa ông, - Arthos đáp - Ông nói điều ấy với ai vậy?
Và họ chia tay nhau hết sức lễ phép.
- Chúng ta đến đó tối nay thật là vừa hay, - Arthos nói với tử tước - Chúng ta sẽ chúc mừng con người tội nghiệp ấy.
Nhưng ông Scarron là ai mà làm náo động cả kinh thành Paris lên thế - Raoul hỏi. - Một ông thượng thư bị thất sủng chăng?
- Ô, lạy Chúa, không phải đâu, tử tước ạ, - Arthos đáp, - đó chỉ là một vị quý tộc nhỏ bé rất thông tuệ, bị thất sủng với ngài giáo chủ chăng qua là vì đã làm một bài thơ gì đó chống lại ông ta.
- Các nhà quý tộc có làm thơ không? - Raoul ngây thơ hỏi - tôi e rằng như vậy là tự hạ mình.
- Phải đấy, tử tước thân mến ạ, khi làm thơ tồi, - Arthos cười đáp, - nhưng nếu làm thơ hay thì lại càng rạng rỡ. Hãy xem ông de Rotrou đấy Tuy nhiên, - Arthos nói tiếp với cái giọng khi người ta ban một lời khuyên bổ ích, - tôi cho rằng không làm thơ thì hơn.
- Thế ông Scarron có phải là thi sĩ không? - Raoul hỏi.
- Phải, tử tước được báo trước rồi đấy: đến nhà ông ấy là phải chú ý rất cẩn thận, chỉ nói năng bằng cử chỉ, hoặc tốt hơn hết là lắng nghe thôi.
- Thưa vâng, - Raoul đáp.
- Anh sẽ thấy tôi chuyện trò nhiều với một vị quý tộc trong số bạn tôi: đó là tu viện trưởng De Herblay mà anh vẫn thường nghe tôi nói đến.
- Tôi có nhớ, thưa ông.
- Thỉnh thoảng anh đến gần chúng tôi như muốn nói chuyện, nhưng chớ nói, và cũng chớ có nghe. Làm thế cốt để những kẻ quấy rầy khỏi làm phiền chúng tôi thôi.
- Được ạ, tôi sẽ tuân theo ông từng điểm một.
Arthos đi thăm hai nơi ở Paris. Rồi đến bảy giờ hai người đi về phía phố Tournelles. Đường phố tắc nghẽn những phu trạm, ngựa và bọn đầy tớ đi bộ, Arthos đi lách qua để vào và chàng trẻ tuổi theo sau.
Người đầu tiên đập vào mắt Arthos khi vào là một người ngồi trong một chiếc ghế lớn lắp bánh xe lăn có che một cái tán bằng thảm thêu, dưới tán thấy động đậy một thân hình bọc trong một tấm mền gấm với khuôn mặt nhỏ nhắn hãy còn trẻ cười cợt nhưng thỉnh thoảng tái nhợt đi, song cặp mắt lúc nào cũng biểu lộ một tinh thần linh hoạt, thông minh và duyên dáng. Đó là tu viện trưởng Scarron luôn luôn tươi cười, giễu cợt.
Chung quanh cái thứ lều lưu động ấy, chen chúc một đám các vị quý tộc và các phu nhân. Căn phòng rất tinh tươm và bày biện tao nhã. Trên những ô cửa sổ lớn buông những tấm rèm bằng lụa thêu hoa màu sắc trước kia sặc sỡ nay đã hơi phai lạt; thảm phủ tường giản dị nhưng nhã nhặn. Hai tên hầu rất lễ phép và được huấn luyện quen với những phong cách lịch sự hầu hạ rất khéo léo.
Vừa chợt thấy Arthos, Aramis chạy ra ngay nắm lấy tay anh và giới thiệu với Scarron, chủ nhân tỏ ra rất vui mừng và cung kính đối với vị khách mới và nói một câu chúc mừng rất hóm hỉnh với cậu tử tước. Raoul ngẩn người vì chưa được chuẩn bị với những chuyện ứng đối văn hoa, song anh thi lễ rất tao nhã. Sau đó Arthos được Aramis giới thiệu với hai ba lãnh chúa và được họ chúc mừng. Sự ồn ào lắng dần và cuộc chuyện trò lại tiếp tục lan rộng.
Sau khoảng bốn năm phút để trấn tĩnh và nhận diện tỉ mỉ, Raoul thấy cửa mở và một tên hầu báo có cô Paulet đến.
Arthos chạm vào vai tử tước và bảo:
- Hãy nhìn kỹ người phụ nữ này, vì đó là một nhân vật lịch sử: chính vua Henri IV đến nhà bà ta khi bị ám sát.
Raoul rùng mình: từ mấy hôm nay, lát lát một tấm màn lại vén lên cho anh thấy một quang cảnh lịch sử: người đàn bà vẫn còn trẻ và vẫn còn đẹp, đang vào kia đã từng biết Henri IV và nói chuyện với ngài.
Ai nấy tíu tít bên cạnh bà khách mới đến vì bà vẫn còn thời thượng lắm. Đó là một phụ nữ cao, vóc người thanh tú và yểu điệu có mái tóc rậm vàng óng như Raphaen vẫn hằng yêu thích và Titien thường vẽ cho các nàng Madeleine của mình. Cái màn hung hung hoang dã ấy hoặc có lẽ cái vẻ vương giả mà bà ta đã chinh phục được ở các phu nữ khác đã khiến bà giành được biệt danh Sư tử cái(1).
Những phu nhân mỹ miều ngày nay nhằm đạt tới danh hiệu phong lưu đài các ấy sẽ hiểu rằng chẳng phải nó từ nước Anh tới như có lẽ họ tưởng, mà chính từ người đồng hương xinh đẹp và trí xảo của họ, cô Paulet.
Cô Paulet đi thẳng đến chỗ Scarron, giữa những tiếng rì rầm nổi lên từ tứ phía lúc cô vào.
- Thế nào, ông tu viện trưởng thân mến? - Cô nói giọng bình thản, - Vậy, ông nghèo túng phải không? Chúng tôi vừa mới biết chuyện đó chiều nay ở nhà bà de Rambouillet, ông de Grasser nói với chúng tôi.
- Vâng, nhưng Nhà nước bây giờ lại giàu lên, - Scarron đáp: - Ta cũng phải biết hy sinh cho đất nước mình chứ!
Chợt một người phái Fronda mà Arthos nhận ra là nhà quý tộc anh đã gặp ở phố Saint Honoré nói:
- Ngài giáo chủ sắp mua thêm cho mình một nghìn năm trăm livres, phấn sáp và nước hoa một năm đấy.
- Nhưng còn Nàng Thơ nàng sẽ nói gì? - Aramis nói bằng giọng ngọt xớt của mình, - Nàng Thơ cần đến sự xuềnh xoàng mạ vàng chăng? Bởi vì cuối cùng:
Si Virgilio puer aut tolerabile desit.
Hospitium caderent omnes a crinibus hydri(2).
- Hay! - Scarron vừa giơ tay ra cho cô Paulet vừa nói, - nhưng nếu tôi không còn con giao long của tôi nữa thì ít ra tôi cũng còn con sư tư cái của tôi.
Tối hôm ấy, mọi lời nói của Scarron đều có vẻ tuyệt diệu. Đó là đặc ân của sự ngược đãi. Ông Ménage (3) có những cảm hứng bột phát.
Cô Paulet sắp đến chỗ của mình mọi khi, nhưng trước khi ngồi xuống, từ trên tầm cao của mình, cô đưa mắt lướt một cái nhìn vương hậu xuống tất cả cử toạ và dừng lại ở Raoul.
Arthos mỉm cười bảo Raoul:
- Anh được cô Paulet chú ý đấy, tử tước ạ, đến chào cô đi. Cứ tự nhiên như mình là một người dân tỉnh lẻ chất phác; nhưng chớ có đã động đến chuyện vua Henri nhé.
Tử tước đỏ mặt tiến lại phía Sư tử cái, và lẫn vào ngay với đám lãnh chúa quây quanh chiếc ghế.
- Thế là đã hình thành hai nhóm rõ rệt: một nhóm vây quanh ông Ménage, và một nhóm xúm quanh cô Paulet. Scarron chạy từ nhóm này sang nhóm kia, điều khiển chiếc ghế có bánh xe ở giữa đám đông ấy một cách khéo léo hết sức, chẳng khác một người hoa tiêu lão luyện dẫn một con thuyền giữa mặt biển lởm chởm những đá ngầm.
- Lúc nào chúng ta nói chuyện với nhau? - Arthos hỏi Aramis.
- Lát nữa, - Aramis đáp: Lúc này chưa đông khách lắm, ta dễ bị chú ý.
Vừa lúc ấy cửa mở và một tên hầu báo có ông chủ giáo đến.
Nghe vậy, tất cả mọi người đều quay ra, vì cái tên ấy đã trở thành rất nổi tiếng
Arthos cũng nhìn ra. Cho đến nay anh mới chỉ nghe tên tu viện trưởng Gôngdy mà chưa biết người.
Anh trông thấy đi vào một người nhỏ nhắn, đen đủi, xấu xí, cận thị tay chân vụng về đủ thứ trừ việc tuốt kiếm và rút súng, thoạt tiên ông ta đi đến một cái bàn mà ông suýt xô đổ, nhưng với tất cả những cái đó ông có một cái gì cao ngạo và hãnh diện trên gương mặt. Đến sát Scarron, ông mới nhận ra và nói:
- Thế nào, tu viện trưởng, ông bị thất sủng rồi hả?
Lời nói ấy như câu kinh lễ được nhắc đến trăm lượt trong buổi chiều nay rồi, và Scarron đã phải trả lời đến câu thứ một trăm về vẫn một chủ đề ấy. Cho nên ông im bặt đi, nhưng rồi một cố gắng tuyệt vọng đã cứu ông. Ông nói:
- Ngài giáo chủ Mazarin rất muốn nghĩ tới tôi.
- Kỳ diệu nhỉ? - Ménageơ kêu lên.
- Nhưng rồi ông làm thế nào để tiếp tục đón chúng tôi? Ông chủ giáo nói tiếp. - Nếu thu nhập của ông tụt xuống, buộc lòng phải cử ông làm chanoine(4) ở nhà thờ Đức bà.
- Ô! Không đâu, - Scarron nói, - tôi làm luỵ cho ông nhiều quá.
- Hay là ông có những nguồn nào khác mà chúng tôi không biết?
- Tôi sẽ vay hoàng hậu.
- Nhưng hoàng hậu chẳng có gì cho riêng mình đâu, - Aramis nói, - bà ấy chẳng sống dưới chế độ cộng đồng đó sao?
Ông chủ giáo quay lại cười với Aramis và giơ một đầu ngón tay ra hiệu thân mật. Ông nói:
- Xin lỗi tu viện trưởng thân mến của tôi, ông bị muộn, và tôi phải tặng ông một món quà.
- Quà gì vậy? - Aramis hỏi.
- Một cái dải mũ.
Ai nấy quay về phía chủ giáo, ông rút ở túi ra một dải lụa hình dáng kỳ lạ.
- A!- Scarron nói, - một cái dải Fronda.
- Đúng thế, - chủ giáo nói, - Ở La Fronda, người ta làm đủ mọi thứ. Cô Paulet này, tôi dànhl cho cô một cái quạt ở La Fronda. De Herblay, tôi sẽ cho ông người bán găng tay của tôi, bác ta làm găng ở La Fronda; còn ông, Scarron: tôi sẽ cho ông người hàng bánh của tôi với tín dụng vô thời hạn; bác ta làm bánh ngon tuyệt vời cho La Fronda.
Aramis cầm dải lụa quấn quanh mũ.
Vừa lúc ấy cửa mở và một tên hầu kêu to:
- Bà công tước de Chevreuse!
Nghe tên bà de Chevreuse, tất cả mọi người đứng dậy.
Scarron vội vã lăn chiếc ghế bành của mình ra phía cửa. Raoul đỏ mặt lên. Arthos ra hiệu cho Aramis và anh này đến nép sau một khuông cửa sổ.
Giữa những lời chúc tụng cung kính đón bà vào, nữ công tước de Chevreuse đưa mắt tìm kiếm một người hay một vật gì. Cuối cùng bà nhận ra Raoul và mắt bà rực sáng lên; bà nom thấy Arthos và trở nên mơ màng; rồi nhìn thấy Aramis ở bên cửa sổ, bà để lộ sau cái quạt một vẻ bất ngờ khó nhận biết.
- Tiện đây, - bà nói như để xua đuổi những ý nghĩ đang xâm chiềm đầu óc mình mà mình không muốn, - xin hỏi, cái ông Voiture tội nghiệp ấy ra sao rồi? Ông Scarron có biết không?
Vị lãnh chúa đã hỏi chuyện Arthos ở thành phố Honoré nói:
- Sao? Ông Voiture ốm à? Và có chuyện gì nữa?
Ông chủ giáo nói:
- Ông ta mải chơi bài không bảo tên hầu mang áo đến thay, thành thử bị cảm lạnh và sắp chết.
- Ở đâu thế?
- Ôi lạy Chúa! Ở chỗ tôi. Cứ tưởng tượng xem ông Voiture tội nghiệp đó đã có một lời nguyền long trọng là không chơi bài bạc nữa. Sau ba ngày không giữ nổi, ông ta lần đến toà tổng giám mục để tôi giải lời nguyền đó cho ông. Khốn nỗi lúc ấy tôi đang bận việc rất quan trọng với ông tham nghị Broussel tử tế ấy ở tít sâu trong phòng tôi thì Voiture chợt thấy hầu tước de Luynes đang ngồi ở bàn đợi một chân bài. Hầu tước gọi và mời Voiture ngồi vào bàn. Voiture đáp rằng không thể chơi, nếu tôi không giải lời nguyền cho ông ấy. Luynes mượn danh nghĩa tôi mà cam kết và nhận tội về mình. Voiture ngồi vào bàn chơi, thua mất bốn trăm êquy, khi ra về thì cảm lạnh, đi nằm để không còn dậy được nữa.
Aramis lấp ló sau tấm rèm cửa sổ hỏi:
- Ông Voiture thân mến ấy ốm đến thế kia à?
- Hỡi ôi! - Ông Ménage đáp, - Ông ta ốm nặng lắm, và con người vĩ đại ấy có lẽ sắp từ giã chúng ta, deserel Orbem(5)
- Hừ, ông ấy mà chết ư! - Cô Paulet nói với vẻ châm biếm. - Ông ấy chẳng muốn chết đâu? Ông ta có đầy cung phi xung quanh như ông vua Thổ Nhĩ Kỳ. Bà de Saintot chạy đến nấu cháo, bà Renaudot sưởi mền chăn cho ông; và ông ta lại chẳng có đến cả bạn gái của chúng ta, nữ hầu tước de Rambouillet gửi thuốc sắc đến hay sao.
- Nàng Parthenie thân mến của tôi, - Scarron cười nói, - cô không yêu mến ông ta?
- Ồ oan cho tôi quá, bệnh nhân thân mến của tôi ạ! Tôi chẳng ghét ông ta mấy đâu và tôi sẽ vui lòng cầu kinh cho linh hồn ông được yên nghỉ.
Bà de Chevreuse từ chỗ ngồi nói với:
- Bạn thân mến ơi, chẳng phải không dưng mà người ta tặng bà cái biệt danh Sư tử cái, và bà công kích dữ quá.
- Thưa bà, dường như bà ngược đãi quá đáng một nhà thơ lớn - Raoul đánh liều lên tiếng.
- Ông ta mà là một nhà thơ lớn à? Này, tử tước ơi người ta thấy rõ là ông từ tỉnh lẻ đến như ông nói với tôi ban nãy, và ông chưa trông thấy ông ta bao giờ. Ông ta là một nhà thơ lớn ư? Hê, ông ta chưa cao đến năm bộ.
- Hoan hô! Hoan hô! - Một người cao lớn, có bộ ria kiêu hãnh và một thanh kiếm đồ sộ nói. - Hoan hô, nàng Paulet kiều diễm? Đã đến lúc đặt lại cái ông Voiture bé nhỏ ấy vào đúng vị trí của mình.
- Tôi lớn tiếng tuyên bố rằng tôi cho là tôi giỏi về thi ca, và tôi luôn luôn thấy thơ ca của ông ta dở lắm.
- Cái vị anh hùng rơm ấy là ai thế, thưa ông? - Raoul hỏi Arthos.
- Ông Scudéry.
- Tác giả Clédi và Grand Cyrus vĩ đại ấy à?
- Mà ông ta soạn chung với cô em gái lúc này đang nói chuyện với cái cô xinh đẹp ngồi gần ông Scarron ở kia kìa.
Raoul quay đầu lại và quả nhiên nom thấy hai khuôn mặt mới vừa vào: Một thật kiều diễm, thật mảnh mai, thật ủ dột, đóng khung trong mái tóc đen lánh với cặp mắt nhung giống như những cánh hoa pensée tím ngắt phía dưới lóng lánh một đài hoa vàng óng; khuôn mặt kia là một bà có vẻ đỡ đầu cô gái, vẻ lạnh lùng, khô héo và úa vàng, một khuôn mặt thực thụ của một bà già khó tính hoặc sùng tin, Raoul tự hẹn với mình sẽ không ra khỏi phòng khách khi chưa nói chuyện với cô thiếu nữ mắt nhung; do một ý nghĩ trớ trêu cô ta vừa mới gợi nhớ đến Louise, mặc dầu cô chẳng giống chút nào cô bé Louise tội nghiệp mà anh bỏ mặc đau đớn ở lâu đài La Vallière, và ở giữa cả cái thế giới thượng lưu này anh đã lãng quên trong chốc lát.
Trong lúc ấy Aramis xích đến gần vị chủ giáo, ông ta với vẻ cười cợt khi nói vào tai anh ta mấy tiếng. Mặc dầu có sự kiềm chế, Aramis cũng không ngăn nổi một động tác nhẹ.
- Cười đi! - Ông de Retz bảo anh, - người ta nhìn chúng mình đấy.
Rồi ông rời anh để lên chuyện trò với bà de Chevreuse đang có một đám đông vây quanh.
Aramis giả bộ cười để đánh lạc hướng mấy thính giả tọc mạch, và nhác thấy Arthos lại đến đứng ở chỗ cửa sổ ban nãy anh đã đứng, sau khi ném vài lời sang trái sang phải, anh chẳng phải vờ vịt gì nữa mà đến thẳng chỗ Arthos.
Vừa giáp mặt nhau là hai người chuyện trò ngay kèm theo bao nhiêu cử chỉ.
Raoul bèn đến gần họ theo như Arthos đã dặn.
Arthos cao giọng nói:
- Đó là một bài thơ ngắn của ông Voiture mà ông tu viện trưởng đó cho tôi nghe và tôi thấy là không thể so sánh.
Raoul đứng một lát gần họ, rồi ra hoà mình trong nhóm bà de Chevreuse có cô Paulet và cô Scudéry đứng hai bên.
Này - Ông chủ giáo nói, - tôi xin phép không hoàn toàn đồng ý với ông de Scudéry; tôi thấy trái lại, ông de Voiture là một nhà thi sĩ thuần tuý. Ông ta hoàn toàn thiếu những tư tưởng chính trị.
- Vậy thế nào? - Arthos hỏi.
- Ngày mai, - Aramis vội vã đáp.
- Mấy giờ?
- Sáu giờ.
- Ở đâu?
- Ở Saint Mandé.
- Ai bảo cậu?
- Bá tước de Rochefort.
Chợt có một người nào đó đến gần.
- Còn những tư tưởng triết lý? Chính đó là những cái thiếu ở ông Voiture đáng thương kia, tôi thì tôi tán thành ý kiến của ông chủ giáo: thi sĩ thuần tuý.
- Phải đấy. - Ông Ménage nói, - về thi ca, chắc chắn ông ta kỳ tài rồi, song sau này, hậu thế khi khâm phục ông thì cũng trách ông một điều, ấy là đã đưa vào cấu tạo của thơ một sự tự do phóng túng quá đáng; ông ta giết chết thi ca mà không biết.
- Giết chết, từ ấy đúng đấy. - Scudéry nói.
- Nhưng văn chương của ông ta thật là kiệt tác! - Bà de Chevreuse nói.
- Ồ! Về phương diện ấy, - cô Scudéry nói, - đó là một người lẫy lừng thật sự.
- Đúng - Cô Paulet đối đáp, - nhưng chừng nào ông ta còn bông phèng, bởi vì trong thể văn thư tín nghiêm túc thì ông ta thật thảm hại, và nếu ông ta không nói các điều ra một cách sống sượng, thì các bạn cũng phải thừa nhận rằng ông ta nói rất dở.
- Nhưng it ra cô phải đồng ý rằng cách bông đùa của ông ta không thể bắt chước được.
Ông Scudéry vân về ria mép mà nói:
- Hẳn như thế; duy tôi thấy là cái khôi hài của ông ta miễn cưỡng và sự bông đùa của ông ta thì quá suồng sã, đọc Thư cá Chép cá Meung của ông ấy mà xem.
Chưa kể những cảm hứng tuyệt diệu nhất của ông ta thường đến từ dinh Rambouillet, - Ménage nói tiếp. - Cứ xem élide và Alcidalis.
Aramis đến gần đám đông và cung kính chào bà de Chevreuse, bà đáp lại bằng một nụ cười duyên dáng, còn tôi, tôi cáo buộc ông ta là đã tự do quá trớn đối với các đại thần. Ông ta thường không phải với bà hoàng thân với ông thống chế d Albert, với ông de Schomberg, với cả hoàng hậu nữa.
- Sao? Với hoàng hậu à? - Scudéry vừa hỏi vừa bước chân phải lên như đứng thủ thế. - Mẹ kiếp! Tôi không biết điều đó. Mà ông ta cư xử không phải với hoàng hậu như thế nào?
- Ông không biết bài "Tôi nghĩ" của ông ta sao?
- Không, - bà de Chevreuse nói.
- Không, - cô Paulet nói.
- Quả vậy, tôi cho rằng hoàng hậu chỉ truyền cho ít người biết thôi, nhưng tôi, tôi nắm chắc trong tay.
- Và ông thuộc chứ?
- Tôi chắc là có nhớ.
- Nào? nào! - mọi người nhao nhao lên.
Aramis kể:
- Chuyện ấy xảy ra trong trường hợp như thế này. Ông de Voiture ngồi trong cỗ xe của hoàng hậu, bà cùng ông ta đi dạo chơi tay đôi trong rừng Fontainebleau. Ông ta làm ra vẻ đang ngẫm nghĩ để hoàng hậu hỏi xem ông ta nghĩ gì. Y như rằng, điều đó diễn ra.
Hoàng hậu hỏi:
- Ông de Voiture, ông đang nghĩ gì thế?
Voiture mỉm cười và giả vờ suy nghĩ năm giây để người ta tương rằng ông ứng khẩu thành thơ và đáp:
"Tôi nghĩ rằng sau bao tháng năm ròng
Nàng bị đoạ đày gian khổ bất công
Số mệnh đã thưởng cho nàng xứng đáng
Nào danh dự, nào vinh quang xán lạn;
Nhưng khi xưa trong cảnh ngộ đáng thương
Chắc nàng còn sung sướng trăm đường
Tôi không nói rằng vì nàng đã yêu đương.
Dù vần gieo đến là thích hợp".
Scudéry, Ménage và cô Paulet nhún vai.
- Khoan đã, khoan đã. - Aramis nói, - có ba đoạn cơ mà!
- Ồ! - Cô Scudéry nói, - hãy nói là ba khúc, đây bất quá là một ca khúc.
"Tôi nghĩ thương thần ái tình tội nghiệp
Hằng cấp cho nàng vũ khí của mình
Nhưng giờ đây bị đuổi khỏi cung đình
Chẳng còn cung tên, chẳng còn vẻ mỹ miều say đắm,
Ngồi cạnh nàng đây, ơi nữ hậu Marie,
Nghĩ mà buồn chăng thể làm chi
Khi nàng đã phũ phàng bạc đãi
Những kẻ hy sinh vì nàng mà không hề sợ hãi".
- Ô! về cái nét sau cùng này, - bà de Chevreuse nói, - tôi không biết nó có nằm trong các quy tắc của thi ca không, nhưng tôi xin miễn thứ cho nó vì đó là sự thật, và bà de Hautefort, bà de Sennecey nếu cần sẽ đồng ý với tôi, chưa kể ông de Beaufort.
- Này, này, - Scarron nói, - điều ấy chẳng còn can hệ gì đến tôi nữa đâu; kể từ sáng hôm nay tôi chẳng còn là bệnh nhân của hoàng hậu nữa.
- Thể còn khúc cuối - Cô Scudéry bảo, - còn khúc cuối nữa. Nào!
- Có đây - Aramis nói - khúc này có ưu thế là nói rõ cả tên riêng, thành thử không còn lầm vào đâu được nữa.
"Chúng tôi đây - những nhà thi sĩ,
Mang trong đầu những ý nghĩ cuồng điên
Tâm trạng nàng đang hớn hở hồn nhiên
Hay ủ dột, suy tư trầm lắng,
Nàng sẽ làm gì nếu chốn này vắng lặng
Thấy hiện lên de Buckingham,
Và ai sẽ là người thất sủng
Ngài quận công hay ông cố Vincent(6)".
Đến đoạn cuối cùng này chỉ có một tiếng kêu thốt lên về sự xấc xược của Voiture.
Nhưng mà - cô thiếu nữ mắt nhung thì thào, - khổ một nỗi là riêng tôi, tôi thấy những câu thơ ấy tuyệt diệu.
Đó cũng là ý kiến của Raoul, anh ta sán đến gần Scarron và đỏ mặt nói
- Thưa ông Scarron, xin ông làm ơn bảo cho tôi biết người phụ nữ trẻ tuổi kia là ai mà một mình một ý kiến chống lại tất cả cuộc hội họp trứ danh này.
- A! A! - Chàng tử tước trẻ tuổi của tôi ơi, - Scarron nói. - Tôi chắc rằng anh mong muốn đề nghị với cô một tên minh tiên công và phòng ngự phải không?
Raoul lại đỏ mặt đáp:
- Xin thú thật là tôi thấy những vần thơ ấy rất hay.
- Mà hay thực đấy chứ, - Scarron nói, - nhưng sụyt! Giữa những nhà thơ với nhau, họ chẳng nói như thế đâu:
- Nhưng tôi. - Raoul nói, - tôi chẳng có vinh dự là thi sĩ, và tôi xin hỏi ông
- Đúng đấy: người phụ nữ trẻ ấy là ai chứ gì? Đó là cô Ấn Độ xinh đẹp.
- Thưa ông, xin ông thứ lỗi, - Raoul đỏ mặt nói, - Ông nói thế tôi cũng chẳng rõ gì hơn trước. Than ôi, tôi là dân tỉnh lẻ.
- Có nghĩa là anh chưa biết gì về cái thứ văn chương kiểu cách ở đây nó ròng ròng ở cửa miệng mọi người. Càng hay! Chàng tuổi trẻ ạ, càng hay! Đừng tìm hiểu làm gì, mất thì giờ thôi; và khi nào anh hiểu thì cũng nên hy vọng rằng người ta chẳng nói cái kiểu văn hoa ấy nữa.
- Vậy thì xin ông thứ lỗi, - Raoul nói, - xin ông hãy rủ lòng nói cho tôi biết người mà ông gọi là cô gái Ấn Độ xinh đẹp ấy là ai thế?
- Phải, chắc hắn đó là một trong những người đàn bà kiều diễm nhất hiện nay, cô Françoise d Aubigné.
- Phải chăng cô ấy thuộc dòng họ ông Agrippa danh tiếng, bạn của vua Henri IV ?
- Cháu gái nội ông ta đấy. Cô ấy từ Martitique đến, chính vì thế mà tôi gọi là cô gái Ấn Độ xinh đẹp(7).
Raoul trợn tròn mắt, và nó gặp cặp mắt của vị phu nhân trẻ đang mỉm cười.
Người ta tiếp tục bàn tán về Voiture.
Cô d Aubigné lân la đến bên ông Scarron như để tham gia vào câu chuyện của ông với chàng tử tước trẻ, cô nói:
- Thưa ông, ông không tán thưởng những người bạn của ông Voiture tội nghiệp à? Ông nghe xem họ vừa ca ngợi vừa vặt lộng ông ta! Người này tước mất của ông lương tri, người kia tước mất tính độc lập người khác… Thế thì, lạy Chúa? Họ để lại cái gì cho ông ta, cho cái bộ hoàn chính lừng lẫy ấy? Theo cách nói của cô de Scudéry.
Cả Scarron và Raoul đều cười rộ. Cô gái Ấn Độ xinh đẹp tự mình cũng ngạc nhiên về tác động do mình gây ra, cúi mặt xuống và lấy lại cái vẻ chất phác của mình.
- Đấy là một người thông tuệ, - Raoul nói.
Arthos vẫn đứng ở khung cửa sổ nhìn bao quát toàn cảnh nụ cười khinh khi đọng trên môi.
Bà de Chevreuse bảo ông chủ giáo:
- Ông gọi hộ bá tước dờ La Fère; tôi cần nói chuyện với ông ấy.
- Nhưng tôi, - chủ giáo đáp - tôi lại cần người ta tin rằng không nói chuyện với ông ta. Tôi rất mến và khâm phục ông ấy, vì tôi có biết về những cuộc phiêu lưu cũ của ông, ít ra là vài chuyện nhưng tôi chỉ tính đến chào ông ta vào sáng ngày kia.
- Tại sao lại sáng ngày kia? - Bà de Chevreuse hỏi.
- Chiều mai bà sẽ biết, - Ông chủ giáo cười nói.
- Ông Gondy thân mến ơi, - bà công tước nói. - kể ra ông nói cứ như là tử vi ấy.
Rồi bà quay về phía Aramis và gọi:
- Ông De Herblay, ông có vui lòng tối nay làm hộ vệ cho tôi một lần nữa không?
- Có gì vậy, bà công tước? -Aramis đáp. - Xin sẵn sàng tối nay, ngày mai và mãi mãi; xin bà cứ ra lệnh.
- Thế thì ông hãy tìm hộ tôi bá tước de La Fère, tôi muốn nói với ông ấy.
Aramis đến chỗ Arthos, rồi cùng trở lại với anh.
Bà công tước đưa một bức thư cho Arthos và nói.
- Thưa bá tước, đây là cái mà tôi đã hứa với ông. Người được chúng ta che chở sẽ được tiếp đãi chu đáo.
- Thưa bà, - Arthos nói, - anh ta sẽ sung sướng được chịu ơn bà.
- Về phương diện ấy ông chẳng có gì phải ganh tị với anh đâu vì rằng chính tôi, tôi nhờ ơn ông mà được biết ông ta, - người đàn bà ranh mãnh đáp và nở một nụ cười gợi nhớ đến Marie Michon cho cả Aramis và Arthos.
Nói xong bà đứng dậy và gọi xe của mình. Cô Paulet đã về rồi và cô Scudéry cũng ra về.
Arthos bảo Raoul:
- Tử tước, anh hãy đi theo bà công tước de Chevreuse, hãy nói với bà cho anh vinh hạnh đỡ bà lên xe, rồi cảm ơn bà.
Cô gái Ấn Độ xinh đẹp đến chỗ Scarron để xin cáo lui.
- Cô đã về cơ à? - Ông nói.
- Tôi là một trong những người cuối cùng ra về, ông thấy đấy.
- Nếu ông có những tin tức về ông de Voiture, nhất là những tin tốt lành, xin ông làm ơn gửi cho tôi vào ngày mai.
- Ồ, ông ta có thể chết bây giờ, - Scarron đáp.
- Thế là thế nào? - Cô thiếu nữ mở mắt hỏi.
- Bài tán dương ông ta đã làm xong rồi.
Và họ vui cười chia tay nhau; cô thiếu nữ ngoái đầu lại để nhìn người bại liệt đáng thương với vẻ thích thú, còn người bại liệt dõi theo cô bằng con mắt tình tứ.
Các nhóm khách thưa thởt dần. Scarron không làm ra bộ nhìn thấy một số tân khách đã chuyện trò bí mật với nhau, thư từ đã đến với nhiều người, và buổi tối hội họp dường như có một mục đích bí mật nó đi trệch khỏi chuyện văn chương mà họ đã bàn cãi om sòm.
Những điều đó có can hệ gì đến Scarron? Bây giờ người ta cứ việc hoạt động thoải mái cho phong trào La Fronda ở ngay nhà ông; vì từ sáng hôm nay như ông đã nói, ông không còn là bệnh nhân của hoàng hậu nữa rồi.
Còn về Raoul, quả nhiên anh đã đưa bà công tước ra tận xe của bà, bà ngồi và đưa bàn tay cho anh hôn; rồi do một trong những cơn ngẫu hứng cuồng điên đã khiến bà thật đáng yêu quý và nhất là thật nguy hiểm, bà đột nhiên ôm lấy đầu anh và hôn lên trán mà nói:
- Tử tước ơi mong rằng những điều chúc mừng của tôi và cái hôn này sẽ mang lại hạnh phúc cho anh.
Rồi bà đẩy anh ra xa và bảo người xà ích đánh xe đến dinh Luynes. Cỗ xe đã lăn bánh, bà de Chevreuse còn giơ tay ra hiệu với anh một lần cuối qua cửa xe, Raoul quay trở vào cứ ngẩn người ra.
Arthos hiểu rõ những gì đã diễn ra và mỉm cười.
- Tử tước, lại đây, - anh nói, - đã đến lúc anh rút lui rồi đấy; ngày mai anh đi đến quân đội của Ngài hoàng thân, chúc anh ngủ ngon đêm cuối cùng của người thành thị.
- Tôi sẽ là người lính ư? - Chàng thanh niên hỏi. - Ôi! Thưa ông xin hết lòng cảm ơn ông!
- Xin từ biệt bá tước, tôi trở về tu viện của tôi, - tu viện trưởng De Herblay nói.
- Xin từ biệt tu viện trưởng, - Ông chủ giáo nói - ngày mai tôi giảng kinh và tối nay có đến vài chục bài phải tham khảo.
- Xin từ biệt quý vị, - bá tước nói, - còn tôi, tôi sẽ ngủ hai mươi bốn giờ liền, vì mệt mỏi lắm.
Ba người chào nhau sau khi trao đổi với nhau một cái nhìn cuối cùng. Scarron liếc mắt theo dõi họ qua các ô cửa phòng khách.
Chẳng có ai trong bọn họ sẽ làm như họ nói đâu. Scarron lẩm bẩm với nụ cười ranh ma của mình. Nhưng họ cứ việc làm, những con người quý tộc trung hậu! Biết đâu họ chẳng làm thế nào để trả lại trợ cấp cho ta?…, Họ thì họ có thể vung cánh tay lên, thế là quá nhiều; còn ta, than ôi! Ta chỉ có cái lưỡi, nhưng ta sẽ cố gắng chứng minh rằng đó là một cái gì đáng kể.
- Ơ này? Champenois, mười một giờ điểm rồi đấy. Đến đẩy ta về giường nào. Quả tình cái cô tiểu thư d Aubigné ấy thật là kiều diễm
Nói rồi, kẻ bại liệt tội nghiệp ấy biến vào trong buồng ngủ, cánh cửa khép lại sau lưng ông ta, và những ngọn đèn sáng lần lượt tắt dần trong căn phòng khách ở phố Tournelles.
---------------------
Chú thích:
(1) chỉ một người đàn bà phong lưu đài các.
(2) Nếu thằng bé không dành cho Viếcgin một nơi ở tử tế, thì mọi người sẽ rơi từ cái bờm của con giao ong (tiếng La-tinh)
(3) Một học giả Pháp (thế kỷ XVII), soạn những sách về ngôn ngữ và làm thơ.
(4) Thày tu giúp việc trợ giáo.
(5) Từ giã thế gian. (Tiếng la-tinh).
(6) cha Vincent là linh mục nghe xưng tội của hoàng hậu
(7) Hồi thế kỷ XVI, Christope Colone khám phá ra châu Mỹ tưởng là đã đi tới Ấn Độ, nên người ta quen gọi dân bản xứ là người Ấn Độ. Martinique là một hòn đào ở Trung Mỹ.
Arthos trở dậy vào lúc trời vừa rạng sáng và mặc quần áo. Qua nước da xanh tái nhiều hơn thường ngày và những dấu vết mất ngủ còn đọng lại trên gương mặt anh, rất dễ thấy rõ là hầu như suốt đêm anh không chợp mắt. Trái với thói quen của một người vững vàng và dứt khoát ấy, sáng nay ở toàn bộ con người anh có một cái gì đó chậm chạp và lưỡng lự.
Anh đang sửa soạn cho sự ra đi của Raoul và tìm cách tranh thủ thời gian. Trước tiên, anh tự mình trau chuốt thanh kiếm rút ra từ chiếc bao da ướp hương, xem xét chuôi kiếm có ngay ngắn không và lưỡi kiếm có gắn chặt vào chuôi không.
Rồi anh bỏ vào đáy chiếc va-li dành cho chàng trẻ tuổi một túi nhỏ đựng đầy tiền louis. Anh gọi Olivain, một thằng hầu theo anh đi từ Blois, sai hắn xếp rương quần áo trước mặt mình, chăm lo chu đáo mọi thứ cần thiết cho một chàng thanh niên sắp ra trận. Cuối cùng, sau gần một tiếng đồng hồ giải quyết những việc tỉ mỉ ấy, anh mở cửa dẫn đến phòng tử tước và nhẹ nhàng bước vào.
Mặt trời đã rực rỡ rọi vào căn phòng qua những ô cửa sổ rộng rãi mà đêm qua Raoul về muộn đã quên không buông rèm. Cậu vẫn còn ngủ, đầu gối một cách duyên dáng lên cánh tay. Mớ tóc dài đen lánh phủ nửa vầng trán thanh tú và lấm tấm hơi nước ẩm ướt đang lăn thành giọt long lanh trên gò má của đứa trẻ mệt. Arthos đến gần, mình cúi xuống trong tư thế đầy về âu sầu trìu mến, anh ngắm hồi lâu cậu thiếu niên miệng đang mủm mỉm, mí mắt he hé, mà những giấc mơ hẳn là êm đềm và giấc ngủ nhẹ nhàng; vị thần hộ mệnh cậu đã đặt biết bao âu yếm và mến thương vào trong sự canh gác thầm lặng của mình. Dần dà Arthos bị cuốn vào cơn mộng mê say trước cái thời thanh xuân đến là phong phú và trong sáng này. Tuổi thanh xuân của chính anh cũng lại hiện ra, mang theo tất cả những kỷ niệm ngọt ngào như hương thơm hơn là những tư tưởng.
Từ cái quá khứ ấy đến hiện tại là một vực thẳm. Nhưng trí tưởng tượng có cánh bay của thiên thần và tia chớp: nó vượt qua biển cả mà ta suýt bị chìm đắm, qua những bóng đêm mà áo giác của ta cũng tan biến, qua hang sâu mà hạnh phúc của ta bị nuốt chửng. Anh nghĩ đến cả chặng đầu của cuộc đời anh đã bị tan nát bởi một người đàn bà; và anh kinh hoàng nghĩ đến ái tình nó sẽ tác động đến thế nào đối với một tư chất vừa thanh tú vừa cường tráng như vậy.
Nhớ lại tất cả những gì mà mình đã phải chịu đựng, anh nhìn trước tất cả nhưng gì mà Raoul có thể sẽ phải chịu đựng và một niềm thương cảm trìu mến, sâu xa trào lên trong tim anh và toả ra cả cái nhìn ướt lệ của anh trùm lên cậu thiếu niên.
Vừa lúc ấy Raoul bừng tỉnh giữa cái cơn thức giấc trong trẻo không một gợn mây, không bóng tối và không mỏi mệt nó đặc trưng cho một số tư chắt tinh tế như loài chim. Đôi mắt Raoul dừng lại ở đôi mắt Arthos và chắc hẳn cậu hiểu rõ những gì đã diễn ra trong trái tim con người ấy đang chờ đợi sự tỉnh giấc của cậu như một tình lang chờ đợi phút tỉnh giấc của tình nương, vì rằng cái nhìn của cậu đến lượt mình chan chứa một niềm yêu thương vô bờ bến.
- Ông đứng đấy ư, thưa ông? - Cậu kính cẩn nói. - Sao ông không đánh thức tôi?
- Phải, Raoul, tôi đứng đây, - bá tước đáp. - Thấy anh ngủ ngon, tôi muốn để anh ngủ thêm chút nữa, anh bạn ạ; ngày hôm qua thức khuya quá, hẳn là anh rất mệt.
- Ôi thưa ông, ông tốt quá! - Raoul nói.
Arthos mỉm cười và hỏi:
- Anh thấy trong người thế nào?
- Thưa ông tuyệt diệu ạ, hoàn toàn lại sức và dễ chịu.
- Thế là anh còn lớn nữa đấy, - Arthos tiếp tục nói với vẻ quan tâm cha con và vẻ nhã nhặn của một người đứng tuổi đối với cậu thiếu niên - và ở tuổi anh sự mệt mỏi cũng gấp đôi.
Thẹn thùng vì bao sự ân cần ấy, Raoul nói:
- Ôi! Thưa ông, xin ông thứ lỗi cho; một lát nữa tôi sẽ ăn mặc xong ngay mà.
Arthos gọi Olivain và quả nhiên chỉ mười phút sau, với tính đúng giờ giấc mà Arthos từng trải trong quân ngũ đã truyền lại cho cậu con nuôi, chàng trai trẻ đã sẵn sàng. Cậu bảo tên hầu:
- Bây giờ anh sửa soạn hành trang cho tôi đi.
- Hành trang của anh đang đợi anh, Raoul ạ, - Arthos nói. - Tôi trực tiếp đôn đốc việc soạn va-li, và chẳng còn thiếu gì nữa. Cả va-li anh với rương hòm của thằng hầu chắc hẳn đã xếp lên ngựa rồi, nếu như người ta làm theo lệnh tôi.
- Thưa bá tước, - Olivain nói, - mọi thứ đều đã làm theo ý ngài, và ngựa cũng đang đợi.
- Thưa ông, - Raoul kêu lên, - thế mà tôi thì ngủ trong khi ông hết lòng trông nom đến tất cả những việc nhỏ nhặt ấy! Ôi, thưa ông, thật tình là ông ban cho tôi nhiều ân huệ quá.
- Như vậy là anh cũng yêu mến tôi một chút đấy chứ? Tôi hy vọng ít ra là như thế, - Arthos nói với giọng trìu mến.
Raoul tự kiềm chế gần như đến ngạt thở để khỏi bộc lộ nỗi xúc động của mình bằng một cử chỉ bồng bột thân thương và kêu lên.
- Ôi thưa ông! Ôi! Xin Chúa chứng giám tôi hết lòng yêu quý ông và tôn kính ông.
- Này, anh xem có quên cái gì không. - Arthos vừa nói vừa giả bộ tìm kiếm xung quanh để che giấu nỗi xúc động của mình.
- Thưa không ạ, - Raoul nói.
Tên hầu đi tới gần Arthos với vẻ ngập ngừng và nói nhỏ:
- Cậu tử tước không có kiếm, vì tối hôm qua ngài bá tước đã bảo tôi lấy đi thanh kiếm mà cậu đã bỏ ra.
- Được, - Arthos nói, - điều ấy tôi lo.
Raoul không tỏ ra nhận thấy cuộc đối thoại ấy. Cậu đi xuống, chốc chốc lại nhìn bá tước để xem phút chia tay đã tới chưa, nhưng Arthos vẫn tỏ vẻ điềm nhiên.
Đến bậc tam cấp. Raoul trông thấy ba con ngựa.
- Ô thưa ông, ông tiễn tôi ư? - Cậu nói, mặt mày rạng rỡ hẳn lên. Niềm vui mừng ánh lên trong mắt Raoul và cậu nhẹ nhàng nhảy lên mình ngựa.
Arthos cũng thong thả lên ngựa sau khi đã nói khẽ một lời với tên hầu, nên đáng lẽ đi theo sau ngay thì hắn trở lên nhà. Raoul mừng rỡ được bá tước đi cùng, nên không nhận thấy hoặc làm ra bộ không nhận thấy gì hết.
Hai người quý tộc ra Pont Neuf, đi dọc các kè hay đúng hơn như hồi ấy người ta gọi là mảng Pépin, và đi men theo các bức tường của toà Biệt trang lớn Grand Chatelêt . Họ vào phố Saint-Denis thì tên hầu đuổi kịp.
Họ đi đường rất im lặng. Raoul cảm thấy rõ ràng phút chia tay đang đến; cả ngày hôm qua bá tước bảo ban làm mọi thứ liên quan đến cậu. Hơn nữa, những cái nhìn của ông tăng bội phần trìu mến, và vài lời ông bật ra chan chứa yêu thương. Chốc chốc một suy nghĩ hoặc một điều khuyên nhủ thốt ra thì lời lẽ đầy vẻ ân cần lo lắng.
Sau khi qua cửa ô Saint-Denis, và tới ngang tầm toà Récollets, Arthos liếc nhìn con ngựa của từ tước và nói:
- Raoul, tôi vẫn thường bảo anh phải đề phòng điều này và chớ có quên, vì đó là một khuyết điểm lớn của một người cưỡi ngựa. Nhìn xem! Con ngựa của anh đã mệt rồi, sùi cả bọt mép ra, trong khi con ngựa của tôi vẫn như mới ở chuồng ra. Anh ghì hàm thiếc mạnh quá làm cho nó cứng cả mõm; và hãy chú ý, anh sẽ không thể làm nó vận động với sự lanh lẹn cần thiết. Sự an toàn của người kỵ sĩ đôi khi nằm trong sự tuân theo lẹ làng của con ngựa. Tám ngày nữa, anh hãy nhớ tới điều đó, vì anh sẽ không phải vận động trong một trường đua ngựa mà là trên một bãi chiến trường.
Rồi để điều nhận xét ấy khỏi mang một vẻ quan trọng nặng nề đột nhiên Arthos nói tiếp:
- Raoul xem kìa, cánh đồng đẹp thế kia; săn bắn chim đa đa thì tuyệt.
Raoul được một bài học tốt và tỏ ra rất khâm phục, vì nó được đưa ra một cách tế nhị dịu dàng biết chừng nào.
- Hôm nọ tôi còn chú ý một điều nữa, - Arthos nói, - đó là khi dùng súng ngắn, tay anh duỗi thẳng quá, nên bắn mất chính xác. Vì anh bắn mười hai phát thì trượt ba.
- Còn ông thì cả mười hai phát đều trúng đích, - Raoul cười đáp. - Bởi vì tôi gập cánh tay và tì lên khuỷu tay.
- Raoul, anh có hiểu rõ điều tôi muốn nói không?
- Dạ, có ạ. Theo lời khuyên, tôi đã tập một mình và đã thành công mỹ mãn.
- Này, - Arthos nói tiếp, - cũng như khi tập đấu kiếm, anh công kích đối phương dữ quả. Ở tuổi anh thường mắc khuyết điểm ấy, tôi biết lắm; những cử động của thân mình khi công kích thường làm trệch đường mũi kiếm; và nếu anh phải đương đầu với một địch thủ bình tĩnh, hắn sẽ chặn đứng anh từ nước kiếm đầu tiên anh chơi như vậy, bằng một miếng gỡ đơn giản hoặc bằng ngay một nhát đâm thẳng.
- Vâng, như ông vẫn thường làm như vậy, nhưng chẳng ai có được lòng quả cảm và sự lanh lẹn khéo léo như ông.
Chà, một cơn gió mát! - Arthos nói, - đó là một kỷ niệm của mùa đông. Nhân tiện, dặn anh thêm; nếu anh đi ra tuyến lửa, mà anh sẽ ra thôi, vì anh đã được tiến cử với một vị trưởng rất mê thuốc súng, thì hãy nhớ rằng trong một cuộc chiến dấu đặc biệt, như thường hay xảy ra đối với những người kỵ binh chúng ta, hãy nhớ kỹ là đừng bao giờ bắn trước cả. Kẻ nào bắn trước ít khi trúng địch thủ, bởi vì hắn nổ súng chẳng qua vì sợ mình sẽ bị mất súng trước một kẻ thù có súng; khi nào hắn bắn, anh hãy cho ngựa của mình chồm lên; cái động tác ấy đã hai ba lần cứu tôi thoát chết rồi đấy.
- Tôi sẽ ứng dụng, dù chỉ là để tạ ơn.
- Ơ này! - Arthos kêu, - phải chăng kia là những kẻ săn bắn trộm bị người ta bắt giữ? Ờ, đứng rồi. Raoul, lại còn một điểm quan trọng nữa: nếu anh bị thương trong một cuộc công kích, nếu anh ngã ngựa và còn chút sức lực, thì rời ngay khỏi con đường mà trung đoàn anh đi, nếu không nó có thể trở lại và anh sẽ bị giày xéo dưới vó ngựa. Bất cứ trường hợp nào, nếu bị thương, anh viết thư ngay cho tôi, hoặc nhờ người viết; chúng tôi rất thông thạo về những vết thương, - Arthos vừa nói thêm vừa mỉm cười.
- Xin cảm ơn ông. - Cậu thiếu niên rất xúc động đáp.
- A! Chúng ta đến Saint-Denis rồi! - Arthos lẩm bẩm.
Quả thật lúc ấy họ đến cổng thị trấn có hai lính canh. Một tên nói với tên kia:
- Hình như lại một nhà quý tộc trẻ tuổi nữa sắp sung vào quân đội.
Arthos quay đầu lại, bất cứ cái gì liên quan đến Raoul, dù gián tiếp anh đều thích thú.
- Do đâu mà anh đoán biết được? - Arthos hỏi.
- Thưa ông, - tên lính canh đáp, - do cái dáng vẻ của cậu nhà. Với lại cậu cũng đến tuổi rồi. Đó là người thứ hai trong ngày hôm nay.
- Thế sáng nay cũng có một người trẻ tuổi như tôi đến đây à? - Raoul hỏi.
Vâng, thực vậy, một người vẻ mặt cao sang và trang bị ngựa rất oách, ra dáng con nhà gia thế.
- Đó sẽ là một bạn đồng hành của tôi đó, thưa ông, - Raoul vừa đi vừa nói, - Nhưng than ôi! Anh ta sẽ không làm tôi quên được người mà tôi bị mất.
- Raoul, tôi không chắc anh sẽ đuổi kịp anh ta đâu, - Arthos nói, - bởi vì tôi cần nó, chuyện với anh tại đây, và cái điều tôi nói cũng chiếm khá thời gian, nên nhà quý tộc ấy sẽ đi trước anh đấy.
- Dạ xin tuỳ ý ông.
Vừa trò chuyện, họ vừa đi qua các phố đông nườm nượp nhân ngày lễ rồi đến trước một giáo đường cổ trong đó đang cầu lễ misa đầu tiên.
- Raoul, ta xuống ngựa đi, - Arthos bảo. - Olivain giữ ngựa cho chúng tôi và đưa tôi thanh kiếm.
Arthos cầm lấy thanh kiếm, rồi hai nhà quý tộc đi vào nhà thờ.
Arthos dâng nước thánh cho Raoul. Trong trái tim người cha có một chút gì như mối yêu thương ân cần của một tình lang đối với tình nương của mình vậy.
Cậu thiếu niên chạm vào tay Arthos, chào và làm dấu thánh.
Arthos nói một câu gì đó với lnột người canh gác, hắn cúi mình và đi về phía những hầm mộ táng.
- Lại đây Raoul, - Arthos bảo, - chúng ta đi theo người này.
Người canh mở cổng rào những ngôi mộ vua chúa và đứng ở bậc trên còn Arthos và Raoul đi xuống. Phía dưới sâu của cầu thang nhà mồ được chiếu sáng bởi một cây đèn bạc đặt ở bậc cuối cùng.
Ngay bên dưới cây đèn ấy có một nhà táng chân chống bằng gỗ sồi, phủ một tấm mùng lớn bằng gấm tím thêu hoa huệ vàng.
Lòng đầy ưu sầu và vẻ uy nghiêm của nhà thờ vừa đi qua chuẩn bị sẵn cho chàng thiếu niên đi đến tình huống này, cậu bước xuống thong thả và trang trọng, rồi bỏ mũ đứng nghiêm trước di hài của vị vua cuối cùng. Vị vua ấy chỉ phải đi theo tổ tiên khi kẻ kế vị ông đến nối gót ông, và dường như ông nằm đó để nói với niềm kiêu hãnh của con người đôi khi rất dễ phẩn khich khi ở trên, rằng: "Hỡi cát bụi trần gian, ta đợi người!"
Một lát im lặng.
Rồi Arthos giơ ngón tay chỉ vào cỗ quan tài và nói:
- Cái phần mộ vô định này là của một con người yếu hèn và không quyền thế vậy mà lại có một triều đại đầy những biến cố lớn lao. Vì ở trên ông vua, có trí tuệ của một người khác canh giấc, giống như cây đèn kia canh giấc bên trên cỗ quan tài này và chiếu sáng nó.
- Người kia là vua thực sự, Raoul ạ; người này chỉ là một bóng ma và người kia đặt linh hồn mình vào đó(1). Song le cái quyền uy quân chủ ở nước ta nó mạnh mẽ biết chừng nào, con người kia chẳng được vinh dự có một nấm mồ dưới chân của kẻ mà vì họ ông ta đã đem cả cuộc đời để tạo nên niềm quang vinh. Bởi vì, Raoul, hãy nhớ lấy điều này, nếu như người ấy đã làm cho nhà vua nhỏ bé thì ông ta đã làm cho vương vị lớn lao hơn, và trong cung điện Louvre cất giữ hai điều: vua thì chết và vương vị không chết, Raoul này, triều đại ấy đã qua đi, vị tể tướng mà ông chúa của mình hết sức kiềng nể, sợ hãi và căm ghét, khi xuống mồ đã kéo theo mình cả nhà vua mà ông không muốn để còn sống một mình, chắc hẳn vì ngại rằng nhà vua sẽ phá hoại sự nghiệp của ông ta, bởi vì nhà vua chỉ có thể kiến thiết khi có ở bên cạnh mình hoặc Chúa trời hoặc anh linh của Chúa. Vậy mà trong khi ấy, cả thiên hạ coi cái chết của tể tướng như một giải thoát.
Những người đương thời thật là mù quáng, và chính tôi, đã có mấy lần ngang nhiên ngăn cản những ý đồ của con người vĩ đại ấy. Ông nắm cả nước Pháp trong tay mình và tuỳ theo ông siết chặt lại hay buông tay ra mà bóp nghẹt nó hoặc cho nó thở thoải mái.
Nếu như trong cơn giận dữ khủng khiếp của mình, ông đã không nghiền nát tôi ra, tôi và các bạn thân của tôi, chắc hẳn là để hôm nay tôi có thể nói với anh rằng: này Raoul hãy luôn luôn biết phân biệt nhà vua và vương vị; vua chỉ là một con người, vương vị là ý thức của Chúa; khi nào anh hoài nghi không biết cần phải phụng sự ai, thì hãy bỏ đi cái vỏ ngoài vật chất mà giữ lấy cái nguyên lý vô hình, là tất cả.
Tuy nhiên Chúa muốn làm cho cái nguyên lý ấy có thể sờ thấy được và cho nó hiện thân vào một con người. Raoul ơi, tôi nhìn tương lai của anh dường như qua một đám mây. Tôi tin rằng tương lai anh sẽ sáng sủa hơn của chửng tôi.
Chúng tôi đã có một tể tướng mà không có vua; trái hẳn lại, anh có một ông vua mà không có tể tướng(2). Vậy thì anh có thể phụng sự, yêu mến và kính trọng đức vua. Nếu như ông vua ấy là một bạo chúa vì mọi sự toàn năng đều có cái choáng váng thúc đẩy nó đi đến bạo quyền - thì anh hãy phụng sự, yêu mến và kính trọng vương vị, nghĩa là cái điều không bao giờ sai lầm, nghĩa là ý thức của Chúa trên cõi trần này, nghĩa là cái tia lửa trời nó làm cho hạt bụi trở thành lớn lao và thần thánh đến nỗi chúng ta, những nhà quý tộc cũng vào hạng danh gia thế phiệt, cũng thành chẳng có nghĩa lý gì trước cái hình hài nằm ở bậc cuối cùng của cầu thang này, giổng như hình hài ở trước ngai vàng của Đấng cứu thế.
- Thưa ông, tôi sẽ tôn thờ Chúa - Raoul nói - Tôi sẽ kính trọng vương vị, tôi sẽ phụng sự Đức vua, và nếu như phải chết, tôi sẽ cố gắng chết hoặc vì Đức vua, hoặc vì vương vị, hoặc vì Chúa. Ông hiểu tôi rõ ràng chứ?
Arthos mỉm cười và nói:
- Anh là một thiên bẩm cao quý. Đây là thanh kiếm của anh.
Raoul quỳ một chân xuống đất.
Arthos nói tiếp:
- Thanh kiếm này đã được cha tôi, một nhà quý tộc trung hậu mang. Đến lượt tôi lại mang nó và đôi lần tôi đã làm rạng rỡ nó khi chuôi kiếm ở trong lòng bàn tay tôi và bao kiếm đeo ở bên sườn tôi. Raoul, nếu như bàn tay anh hãy còn yếu đề sử dụng thanh kiếm này thì càng hay, anh sẽ có thêm thì giờ để tập tành và để chỉ tuốt nó ra khi nào nó cần phải trông thấy ánh mặt trời.
Raoul đón nhận thanh kiêm từ tay bá tước và nói:
- Thưa ông, tôi chịu ơn ông về mọi thứ; tuy nhiên thanh kiếm này là tặng vật quý báu nhất mà ông đã cho tôi. Tôi xin thề với ông rằng tôi sẽ mang nó với tư cách một người biết ơn.
Rồi cậu kính cẩn ghé môi hôn lên chuôi kiếm.
- Tốt lắm, - Arthos nói, - tử tước hãy đứng lên và chúng ta ôm hôn nhau.
Raoul đứng dậy và xúc động tràn trề, nhào mình vào cánh tay Arthos.
Bá tước cảm thấy trái tim mình như tan ra, lẩm bẩm.
- Thôi vĩnh biệt, và hãy nhớ tới tôi.
- Ôi vĩnh viễn! Vĩnh viễn? - Chàng trẻ kêu lên. - Ôi, tôi xin thề như vậy, và nếu có điều bất hạnh xảy ra với tôi thì tên ông sẽ là cái tên cuối cùng tôi thổt ra, sẽ là kỷ niệm của tôi, ý nghĩa cuối cùng của tôi.
Arthos vội vã đi lên để che giấu nỗi xúc động của mình. Anh lấy một đồng tiền vàng cho người canh mộ, cúi mình trước bàn thờ, rồi rảo bước ra cổng nhà thờ. Olivain chờ ngoài đó cùng với hai con ngựa kia.
Arthos trỏ tấm dải đeo gươm của Raoul và bảo:
- Olivain, buộc lại vòng thanh kiếm, nó hơi trễ xuống quá. Được rồi. Bây giờ anh đi theo tử tước cho đến khi nào Grimaud đuổi kịp các anh; bác ấy đến thì anh từ giã tử tước. Raoul, nghe đấy chứ? Grimaud là một người lão bộc đầy lòng quả cảm và thận trọng: bác ấy sẽ đi theo anh.
- Thưa vâng, - Raoul đáp.
- Nào lên ngựa, tôi muốn được trông thấy anh ra đi.
Raoul tuân lệnh và nói:
- Xin vĩnh biệt ông! Xin vĩnh biệt người che chở kính yêu của tôi.
Arthos vẫy tay chào, vì không dám nói nên lời, còn Raoul cất mũ và đi xa dần.
Arthos đứng lặng im và nhìn theo cho đến lúc Raoul khuất sau chỗ đường rẽ.
Rồi ném cương ngựa vào tay một người nhà quê, anh lững thững bước lên bậc, trở vào nhà thờ, đến một góc tối tăm nhất và cầu nguyện.
--------------------------
Chú thích:
(1) chỉ tể tướng Richelieu và vua Louis XIII
(2) chỉ vua nhỏ Louis XIV và Mazarin.
Thời gian trôi đi đối với người tu giống như đối với những kẻ đang lo chạy trốn; tuy nhiên nó trôi chậm chạp hơn.
Trái hẳn với những người khác khi có một quyết định mạo hiểm thì rất hăng hái nhưng lại nguội lạnh dần khi thời điểm thực hiện tới gần, quận công de Beaufort mà tinh thần quả cảm sôi sục đã trở thành ngạn ngữ, lại bị cột lại trong sự trì trệ của năm năm tù túng, ông quận công như xô đẩy thời gian ở phía trước mình và hết lòng mong mỏi giờ hành động đến. Trong cuộc vượt ngục lẻ loi của mình, ngoài những dự định mà ông nuôi dưỡng cho tương lai, phải thu nhận rằng đó là những dự định hãy còn rất mơ hồ và không chắc chắn, còn bắt đầu có một sự trả thù nó làm dãn nở con tim ông. Trước tiên việc chạy trốn của ông là một việc tai hại đối với De Chavigny mà ông thù hằn vì những hình phạt nho nhỏ hắn đã bắt ông phải chịu, rồi nó là một việc còn tai hại hơn nữa đối với Mazarin mà ông ghê tởm do chính những lời chửi rủa thậm tệ ông dành cho lão.
Rõ ràng là có những tỉ lệ phân minh giữa những tình cảm mà ông de Beaufort dành cho giám ngục và tể tướng, cho kẻ thủ hạ và người chủ.
Ông de Beaufort còn biết rõ chân tơ kẽ tóc tình hình bên trong Palais Royal và chẳng lạ gì những quan hệ giữa hoàng hậu và giáo chủ. Từ trong tù, ông dàn dựng tất cả những vận động kịch tính ấy, nó sắp sửa diễn ra, khi từ văn phòng tể tướng đến phòng riêng Anne d Autriche vang lên tiếng đồn rằng ông de Beaufort tẩu thoát rồi? Tự nói với mình điều ấy, ông de Beaufort khẽ mỉm cười, tưởng như mình đã ở bên ngoài rồi, đang thở hít không khí đồng nội và rừng cây, hai chân kẹp chặt mình một con ngựa lực lưỡng và hét to lên: "Ta tự do rồi!"
Đúng là khi trở về với mình, ông vẫn ở giữa bốn bức tường dày, trông thấy La Ramée đứng cách mười bước đang quay quay hai ngón tay quanh nhau, và ở ngoài tiền sảnh, những tên lính gác đang cười đùa hoặc uống rượu.
Sự bất định của ý tưởng con người thật ghê gớm: vật duy nhất khiến quận công lãng ý khỏi cảnh tượng khả ố đó chính là bộ mặt cau có của Grimaud, bộ mặt mà thoạt đầu tiên ông thù ghét và rồi sau đó trở thành tất cả mối kỳ vọng của ông. Đối với ông, Grimaud giống như một Antinios(1).
Chẳng cần phải nói rằng tất cả điều đó là một trò của trí tưởng tượng dữ dội của người tù. Grimaud bao giờ cũng vẫn thế. Cho nên bác đã giành được lòng tin cậy hoàn toàn của cấp trên là La Ramée, lúc này có lẽ hắn còn tin cậy ở bác hơn là ở chính mình, vì như chúng tôi đã nói, La Ramée thấy trong thâm tâm mình có một điểm yếu nào đó đối với ông de Beaufort.
Cho nên gã La Ramée tốt bụng ấy coi như một lễ hội bữa tiệc đêm xoàng xĩnh đối ẩm với người tù của mình, La Ramée chỉ có một khuyết điểm là tham ăn; hắn đã thấy rõ là bánh rất ngon, rượu vang tuyệt diệu.
Người thay thế cha Marteau lại đã hứa với hắn một chiếc bánh nướng nhân thịt chim trĩ, chứ không phải nhân thịt gà vịt, và rượu Chambertin, chứ không phải rượu Mâcon. Tất cả những thứ đó được tôn cao bởi sự hiện diện của vị hoàng thân trứ danh này, ông ta thực ra rất tốt bụng, đã nghĩ ra bao nhiêu ngón kỳ khôi xỏ Chavigny và bao nhiêu trò đùa chua cay chống lại lão Mazarin. Tất cả những cái đó làm cho ngày lễ Pentecôte đẹp đẽ sắp tới đối với La Ramée trở thành một trong bốn kỳ lễ lớn trong năm.
Vậy nên La Ramée ngóng đợi sáu giờ tối, sốt ruột chẳng kém gì ông quận công.
Ngay từ sáng hắn đã lo toan mọi việc tỉ mỉ và chỉ tin cậy ở bản thân mình, đích thân đến thăm người kế nghiệp của cha Marteau. Bác chủ hiệu mới vượt xa chủ cũ; bác ta trỏ cho cho Ramée xem một cái bánh nướng khổng lồ thật sự, trên mặt trang trí gia huy của ông de Beaufort, bánh hãy còn rỗng, nhưng bên cạnh để sẵn một con trĩ và hai con đa đa châm rất sang trọng nên trông giống như những cái nùn gài kim.
La Ramée trông mà ứa nước miếng, và trở về phòng quận công, vừa đi vừa xoa xoa hai bàn tay.
Càng may hơn nữa, như chúng tôi đã nói, De Chavigny tin cậy ở La Ramée, nhân có chút việc đã ra đi từ buổi sáng, thành thử La Ramée trở thành phó cai quản tòa lâu đài.
Còn Grimaud tỏ ra cau cau có có hơn bao giờ hết.
Buổi sáng ông de Beaufort đã chơi với La Ramée một ván cầu; qua một dấu hiệu của Grimaud, ông hiểu rằng phải chú ý đến mọi việc.
Grimaud bước đi đằng trước, vạch ra con đường mà buổi tối họ sẽ phải đi theo. Cuộc chơi cầu diễn ra trong một khoảng đất rào ở cái sân nhỏ của lâu dài.
Đó là một nơi khá vắng vẻ chỉ đặt lính canh khi ông de Beaufort chơi cầu; vả chẳng do tường thành cao lắm, việc đề phòng như thế dường như cũng là thừa.
Có ba cửa phải mở trước khi đến sân bóng: mỗi cửa có chìa khoá khác nhau.
Khi đến sân, Grimaud đi như một cái máy đến ngồi cạnh một ụ súng buông thõng chân ra phía ngoài tường. Hiển nhiên là sẽ buộc thang dây ở chỗ ấy.
Tất cả động tác ấy, quận công de Beaufort hiểu hết, còn La Ramée chẳng hề biết tí gì.
Ván cầu bắt đầu. Lần này ông de Beaufort số đỏ, có thể nói ông muốn ném vào đâu là trúng đấy. La Ramée bị thua trắng.
Bốn tên lính gác ông de Beaufort theo dõi ông và đi nhặt bóng.
Cuộc chơi kết thúc, ông de Beaufort tha hồ cười về sự vụng về của La Ramée và cho bọn lính hai đồng louis để chúng cùng bốn tên khác đi uống rượu chúc mừng ông.
Bọn lính gác xin phép La Ramée, hắn đồng ý, nhưng chỉ cho đi buổi tối thôi. Cho đến lúc ấy La Ramée quan tâm đến những chi tiết quan trọng; do phải chạy việc hắn muốn rằng nhân viên không lúc nào được rời mắt khỏi người tù.
Còn ông de Beaufort thì tỏ ra để cho tên lính canh dọn dẹp các thứ giúp ông thì ông vừa ý hơn là tự mình làm. Cuối cùng chuông đồng hồ điểm sáu giờ. Mặc dầu bảy giờ mới bắt đầu, bữa ăn dọn xong xuôi. Trên tủ buýp-phê bày cái bánh to tướng có gia huy quận công, trông cái vỏ bánh vàng óng cũng đủ rõ là bánh nướng vừa chín tới.
Các món khác của bữa tiệc cũng như vậy.
Mọi người đều sốt ruột, bọn lính gác thì chờ đi uống rượu, La Ramée đợi ngồi vào bàn ăn, còn ông de Beaufort nóng lòng tẩu thoát.
Chỉ riêng Grimaud vẫn thản nhiên như không. Có thể nói Arthos xưa kia đã huấn luyện bác vì đã tiên đoán trường hợp đại sự này.
Có những lúc ngồi nhìn bác, quận công de Beaufort tự hỏi phải chăng mình đang nằm mơ, và cái bộ mặt lầm lì như đá kia có thật giúp việc mình không và có lẽ sẽ linh hoạt lên khi nào thời điểm tới.
La Ramée cho bọn lính gác ra và dặn chúng uống mừng sức khỏe hoàng thân, rồi sau khi chúng đi khỏi, hắn khoá các cửa lại, bỏ chìa khoả vào túi, trỏ vào bàn ăn như muốn nói với hoàng thân:
- Tôi đã sẵn sàng, bắt đầu lúc nào xin tuỳ Đức ông.
Hoàng thân nhìn Grimaud, Grimaud nhìn đồng hồ.
Mới gần sáu giờ mười lăm, cuộc vượt ngục ấn định vào bảy giờ, như vậy là còn phải chờ bốn mươi lăm phút nữa.
Để tranh thủ mười lăm phút, hoàng thân mượn cớ cuốn sách hay muốn đọc nốt chương xem dở. La Ramée tới gần nhìn qua vai hoàng thân xem sách gì mà lôi cuốn ông đến nỗi chưa chịu ngồi vào bàn ăn, khi bữa tiệc đã dọn xong.
Đó là cuốn "Bình luận" của César mà chính La Ramée đã kiếm cho ông xem cách đây ba hôm, trái với lệnh của Chavigny.
La Ramée tự nhủ từ nay sẽ không đi ngược lại những quy chế của lâu đài nữa.
Trong khi chờ đợi, hắn đi mở các nút chai và ra ngửi chiếc bánh.
Sáu giờ rưỡi, quận công đứng lên và nói với vẻ trịnh trọng:
- Dứt khoát César là con người vĩ đại nhất thời xưa.
- Đức ông thấy vậy ư? - La Ramée nói.
- Phải.
- Còn tôi, - La Ramée nói, - tôi thích Annibal(2).
- Tại sao vậy, thày La Ramée? - Quận công hỏi.
- Bởi vì ông ta không để lại những bình luận. - La Ramée vừa nói vừa cười hô hố.
Quận công hiểu câu nói bóng gió và ngồi vào bàn vừa ra hiệu cho La Ramée ngồi xuống đối diện với mình.
Viên phó quan cảnh sát không để mời đến lần thứ hai.
Không có bộ mặt nào biểu đạt rõ rêt hơn bộ mặt một kẻ tham ăn khi ngồi trước một mâm cỗ ngon; do đó khi La Ramée nhận đĩa xúp từ tay Grimaud, khuôn mặt hắn ta lộ ra một vẻ tràn trề hạnh phúc.
Quận công mỉm cười nhìn hắn.
- Mẹ kiếp! - Ông kêu lên. - La Ramée này, anh có biết rằng nếu có ai nói rằng lúc này ở nước Pháp có một kẻ nào sung sướng hơn anh, tôi sẽ không tin.
- Thực tình, Đức ông nói đúng đấy, - La Ramée nói, - Còn tôi, xin thú nhận rằng khi đói bụng thì không cái gì nhìn ngoạn mục hơn là một mâm cỗ ngon lành, và nếu như ngài nói thêm rằng, cái người làm vinh dự cho bữa tiệc này là cháu nội của Henri đại đế, thì, thưa Đức ông, ngài sẽ hiểu rằng cái vinh dự mà người ta được hưởng sẽ nhân đôi cái thú vị mà người ta được nếm.
Đến lượt mình, hoàng thân cúi mình, và một nụ cười khó nhận biết thoáng trên mặt Grimaud đang đứng sau lưng La Ramée.
- La Ramée thân mến của tôi ơi, thực ra chỉ có anh mới khéo đặt một lời tán tụng.
Trong niềm xúc động chứa chan của tâm hồn mình, La Ramée đáp:
- Không đâu, thưa Đức ông, thật tình tôi nghĩ thế nào nói thế, chẳng có gì gọi là tán tụng trong điều tôi vừa nói đâu.
- Thế ra ông gắn bỏ với tôi lắm à? - Quận công hỏi.
- Nghĩa là, - La Ramée đáp, - tôi sẽ không nguôi lòng nếu như Điện hạ ra khỏi lâu đài Vincennes.
- Thật là kỳ cục cái cách chứng minh nỗi ưu phiền của anh (ý hoàng thân muốn nói ưu ái).
- Nhưng thưa Đức ông, ngài sẽ làm gì ở bên ngoài cơ chứ? Cơn điên giận nào khiến ngài xích mích với triều đình có thể sẽ đưa ngài đến ngục Bastille chứ không phải Vincennes nữa. Ông De Chavigny chẳng phải người dễ ưa, tôi đồng ý, - La Ramée vừa nói tiếp, vừa nhẩm nháp một cốc rượu vang madère, - nhưng ông Du Tremblay thì còn tệ hại hơn.
- Đúng đấy? - Quận công nói, ông thích thú với câu chuyện xoay vần và chốc chốc lại nhìn đồng hồ mà chiếc kim chạy chậm chạp đến nản lòng.
- Ngài trông đợi gì ở người em của một lão thày tu nuôi nấng Ờ trong trường dòng của giáo chủ de Richelieu! Chà Đức ông hãy tin ở lời tôi rằng cũng còn đại phúc và nhờ có hoàng hậu vẫn còn mong điều lành cho ngài, ấy là tôi nghe đồn như vậy, nên bà mới có ý đưa ngài tới đây, ở đây còn có dạo chơi, đánh cầu, ăn uống tử tế và không khí thoáng đãng.
- Kể ra, - hoàng thân đáp, - La Ramée này, cứ nghe anh nói thì tôi thật là bạc bẽo vì một lúc nào đó đã có ý nghĩ ra khỏi đây phải không?
- Ồ, thưa Đức ông, bạc bẽo quá đi chứ! - La Ramée nói tiếp, - nhưng Điện hạ có bao giờ nghĩ tới điều ấy một cách nghiêm túc đâu.
- Có chứ, - quận công đáp, - và tôi phải thú thật với anh rằng, có thể đó là một điều điên rồ, tôi chẳng bảo là không, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn còn nghĩ đến đấy.
- Vẫn bằng một trong bốn mươi mưu kế à, thưa Đức ông?
- Ờ, phải đấy.
- Đức ông ơi, -La Ramée nói, - vì rằng chúng ta đang lúc thổ lộ tâm can với nhau, xin ngài hãy nói cho tôi biết một trong bốn mươi chước tẩu mà Điện hạ nghĩ ra.
- Vui lòng thôi, - quận công nói, - Grimaud, đưa chiếc bánh nướng đây…
- Tôi xin nghe, - La Ramée nói và ngả người trên chiếc ghế bành vừa nâng cốc và liếc nhìn ánh mặt trời chiếu qua chất hồng ngọc lỏng chứa trong cốc.
Quận công ngước nhìn đồng hồ, còn mười phút nữa là điểm bảy giờ.
Grimaud đem bánh đến trước hoàng thân, ông cầm con dao lưỡi bằng bạc định cắt cái nắp bánh ra; nhưng La Ramée sợ dao cùn sẽ làm hỏng cái bánh đẹp đẽ kia bèn đưa con dao có lưỡi thép của mình ra.
- Cảm ơn La Ramée? - Quận công nói và cầm lấy dao.
- Thế nào, thưa Đức công? - Viên quan cảnh sát nói, - cái mưu kế trứ danh ấy thế nào.
- Có cần phải nói với anh cái mưu kế mà tôi trông cậy nhất, cái mưu kế mà tôi đã quyết định đem dùng đầu tiên không nhỉ?
- Vâng, vâng, cái ấy đấy, - La Ramée đáp.
Quận công bèn một tay moi chiếc bánh, tay kia cầm dao cắt khoanh một vòng và nói:
- Thế thì ông La Ramée ơi, trước tiên tôi ước ao có một chàng trai tử tế như ông làm kẻ canh giữ tôi đấy.
- Được, ngài đã có rồi đấy. Rồi sao nữa, thưa Đức ông?
- Tôi xin tự chúc mừng về việc đó.
La Ramée cúi chào:
- Tôi tự nhủ rằng, - hoàng thân nói tiếp, - một khi đã có ở bên mình một chàng trai tử tế như La Ramée, tôi sẽ cố gắng làm sao để anh ta nhờ một người bạn của tôi mà anh ta không biết rõ mối quan hệ với tôi, tiến cử cho một người trung thành tận tụy với tôi và có thể thông đồng với tôi để chuẩn bị cho tôi vượt ngục.
- Nào! Nào! - La Ramée nói, - tưởng tượng không đến nỗi tối ấy.
- Có phải không nào? - Hoàng thân lại nói - giả dụ người đầy tớ của một vị quý tộc nào đó là kẻ thù của lão Mazarin, như bất cứ quý tộc nào cũng cần phải như vậy.
- Sụyt! Đức ông ơi, ta đừng nói chuyện chính trị, - La Ramée bảo.
- Khi tôi đã có người đó ở bên mình, - quận công nói tiếp, - chỉ cần anh ta khôn khéo một chút và gây được lòng tin của kẻ canh giữ tôi, hắn dựa vào anh ta, trông cậy ở anh ta, thế là tôi sẽ có được tin tức ở bên ngoài.
- À phải, - La Ramée nói, - nhưng làm thế nào mà có được tin tức ở bên ngoài.
- Ồ! Chẳng có gì dễ dàng hơn, - quận công de Beaufort đáp – chẳng hạn lúc chơi ném cầu.
- Lúc chơi ném cầu à? - La Ramée hỏi, hắn bắt đầu chăm chú hết sức vào câu chuyện của quận công.
- Phải, này nhé, tôi ném quả bóng xuống hồ, một người ở sân đó nhặt lấy quả bóng đựng một bức thư. Đáng lẽ ném trả tôi quả bóng mà tôi đánh rơi từ trên tường thành, người ấy ném cho tôi một quả bóng khác; quả ấy chứa một bức thư. Như thế là chúng tôi đã trao đổi được ý kiến với nhau mà chẳng nhìn thấy gì hết.
- Quỷ quái thật! - Quỷ quái thật? - La Ramée vừa kêu lên vừa gãi gãi tai. - Đức ông nói ra điều ấy với tôi, hay đấy, tôi sẽ giảm sát những kẻ nhặt bóng.
Quận công mỉm cười.
- Nhưng mà, - La Ramée nói tiếp, - tất cả những cái đó, rốt cuộc là một kế để liên lạc tin tức mà thôi.
- Tôi thấy như thế là nhiều rồi.
- Nhưng chưa đủ.
- Anh thứ lỗi cho nhé. Giả dụ tôi bảo một người bạn rằng: "Vào ngày này, giờ này…, anh sẽ có mặt ở bên kia bờ hào với hai con ngựa dắt theo".
- Được? Rồi sao nữa? - La Ramée nói với vẻ hơi lo lắng - trừ phi các con ngựa ấy có cánh để bay lên tường luỹ và tìm ngài…
- Ồ, lạy chúa! - Hoàng thân lững lờ nói, - chẳng cần ngựa mọc cánh để bay lên tường thành, mà tự tôi, tôi sẽ có cách xuống.
- Cách gì?
- Một cái thang dây.
- À, La Ramée gượng cười nói, - cái thang dây chẳng dễ gửi đi như lá thư vào trong quá bóng.
- Nhưng nó được gửi vào vật khác.
- Vào vật khác? Vào vật khác! Vào cái gì?
- Trong một cái bánh nướng chẳng hạn.
- Trong một cái bánh nướng? - La Ramée hỏi.
- Phải. Hãy giả thiết một điều như thế này, - quận công nói - Giả thử bác đầu bếp của tôi, bác Noirmont đã mua lại cửa hiệu của cha Marteau…
- Thì sao? - La Ramée run bắn lên hỏi.
- Thì La Ramée vốn là kẻ phàm ăn, nhìn các bánh nướng của bác chủ hiệu, thấy chúng ngon lành hơn bánh của các vị chủ trước, bèn đến mời tôi nếm thử. Tôi nhận lời với điều kiện là La Ramée cùng ăn với tôi. Để được thoải mái hơn. La Ramée đã tống bọn vệ sĩ đi và chi giữ lại Grimaud để hầu bàn chúng tôi. Grimaud là người mà một anh bạn tôi đã cử cho tôi, tên đầy tớ ấy đã thông đồng với tôi và sẵn sàng giúp tôi làm việc. Thời điểm vượt ngục đã ấn định vào bảy giờ. Vậy thì đến bảy giờ kém mấy phút…
- Bảy giờ kém mấy phút? - La Ramée nhắc lại, mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên trán.
- Đến bảy giờ kém mấy phút, - quận công vừa nói tiếp, vừa gắn luôn lời nói với hành động, - tôi bóc cùi bánh nướng ra. Tôi thấy ở trong đó có hai con dao găm, một thang dây và một cái nhét miệng. Tôi dí một con dao găm vào ngực La Ramée mà bảo: "Anh bạn tôi ơi, tôi rất khổ tâm, nhưng nếu anh động đậy, nếu anh kêu lên một tiếng, thì anh toi mạng đấy!".
Như chúng tôi đã nói, khi thốt lên những tiếng cuối cùng này, ông quận công đã gắn hành động vào lời nói. Quận công đứng cạnh hắn, dí mũi dao vào ngực hắn với một giọng không cho phép kẻ nghe giữ một chút hoài nghi nào về quyết định của ông.
Trong khi ấy, Grimaud vẫn im lặng lôi từ trong cái bánh ra con dao găm thứ hai, cái thang dây và trái lê cay đắng.
La Ramée đưa mắt theo dõi vật đó với một nỗi kinh hãi tăng dần.
Hắn nhìn quận công với một vẻ hoảng hốt, giá vào lúc khác chắc đã khiến ông hoàng thân phải phì cười, và hắn kêu lên:
- Ôi! Đức ông ơi, ngài chẳng nỡ lòng nào giết tôi.
- Không, nếu như anh không chống lại việc đi trốn.
- Nhưng thưa Đức ông, nếu tôi để ngài trốn, thì tôi sẽ là một kẻ khuynh gia bại sản.
- Ta sẽ đền bù cái giá mua chức việc của anh.
- Thế ngài quyết định dứt khoát rời lâu đài à?
- Mẹ kiếp! Còn phải hỏi.
- Tất cả những điều tôi có thể sẽ nói với ngài chằng làm ngài thay đổi quyết định ư?
- Tối nay, ta muốn tự do.
- Nếu tôi tự vệ, nếu tôi gọi người, nếu tôi kêu lên thì sao?
- Lời thề của quý tộc, ta sẽ giết người.
Lúc ấy, chuông đồng hồ vang lên.
- Bảy giờ, - Grimaud nói, cho đến lúc ấy bác chưa thốt nửa lời.
- Bảy giờ, - quận công nói, - anh xem ta muộn rồi đấy.
La Ramée cử động một cái như để chiếu lệ. Quận công chau mày và viên quan cảnh sát cảm thấy mũi dao găm sau khi xuyên qua quần áo sắp sửa chích vào ngực hắn.
- Thôi được, thưa Đức ông, - hắn nói, - như thế đủ rồi. Tôi sẽ không động đậy.
- Ta mau lên nào, - quận công nói.
- Đức ông ơi, xin gia ân một điều cuối cùng.
- Điều gì? Nói đi, mau lên.
- Xin Đức ông trói chặt tôi lại.
- Tại sao lại trói?
- Để người ta khỏi tưởng tôi là kẻ đồng loã với ngài.
- Đưa tay ra? - Grimaud bảo.
- Không phải đằng trước, trói quặt tay ra đằng sau cơ.
- Lấy gì mà trói? - Quận công hỏi.
- Lấy thất lưng của ngài ạ - La Ramée nói.
Quận công tháo dây lưng đưa Grimaud, bác liền trói tay La Ramée lại theo cách làm vừa lòng hắn.
- Giơ chân ra? - Grimaud bảo.
La Ramée giơ chân, Grimaud lấy một tấm khăn xé ra thành mảnh và cột La Ramée lại.
- Bây giờ đến thanh kiếm. - La Ramée nói, - buộc đốc kiếm của tôi lại!
Quận công dứt một dải băng quần cụt của mình để thực hiện điều mong mỏi của kẻ hộ vệ.
- Còn bây giờ cho tôi xin quả lê cay đắng, - La Ramée tội nghiệp nói. - Nếu không họ sẽ xử tội tôi vì tội đã không kêu lên, ấn sâu vào Đức ông ơi, ấn sâu vào.
Grimaud sắp sửa thực hiện điều ao ước của viên cảnh sát, thì hắn ra hiệu như muốn nói điều gì.
- Nói đi, - quận công bảo.
- Bây giờ, nếu như vì ngài mà có tai họa gì xảy ra với tôi, thì xin Đức ông chớ quên rằng tôi có một vợ và bốn con nhỏ.
- Cứ yên tâm! Ấn sâu vào, Grimaud!
Trong một giây đồng hồ, La Ramée bị bịt miệng, nằm lăn ra đất, vài ba cái ghế bị lật đổ để có dấu hiệu chiến đấu. Grimaud móc trong túi áo viên cảnh sát ra tất cả các chìa khoá, trước tiên mở cửa phòng, đi ra và khoá hai vòng lại. Rồi hai thày trò vội đi ra hành lang dẫn đến cái sân cầu nhỏ. Họ liên tiếp mở và đóng lại ba lần cửa. Sự nhanh nhẹn làm rạng rỡ tài khéo léo của Grimaud. Cuối cùng họ ra đến sân chơi cầu. Sân hoàn toàn vắng vẻ không có lính canh, cũng chẳng có ai ở các cửa sổ.
Quận công chạy đến bờ tường và trông thấy ở phía bên kia hào ba kỵ sĩ với hai con ngựa dắt tay. Quận công ra hiệu với họ, đúng là họ đến đón ông.
Trong lúc ấy, Grimaud buộc dây leo. Không phải thang dây mà là một cuộn dải lụa với một cái que ngắn để ngồi lên và tụt dần xuống.
- Xuống đi, - quận công bảo.
- Thưa Đức ông, tôi xuống trước à? - Grimaud hỏi.
- Tất nhiên rồi, - quận công đáp. - Nếu người ta bắt được tôi, tôi cũng chỉ ngồi tù lại là cùng; còn nếu người ta tóm được bác thì bác bị treo cổ.
- Đúng đấy, - Grimaud nói.
Lập tức Grimaud cưỡi lên cái que, bắt đầu cuộc xuống nguy hiểm, quận công nhìn theo bất giác kinh hoàng; khi xuống được ba phần tư bức tường thì bất ngờ dây dứt. Grimaud ngã lộn xuống hào.
Quận công thốt kêu lên một tiếng, nhưng Grimaud chẳng hề kêu ca; vậy mà chắc hẳn bị thương nặng lắm, vì bác vẫn nằm sóng soài ở chỗ mình rơi xuống.
Một người lập tức tụt xuống hào buộc Grimaud vào một dây và hai người kia kéo Grimaud lên.
Người đứng dưới hào nói:
- Đức ông cứ xuống đi, chỉ cách có khoảng mười lăm bộ và bãi cỏ êm lắm.
Quận công đã hành sự. Công việc đối với ông khó khăn hơn vì của còn thanh đỡ; ông phải xuống bằng sức đôi tay mà từ trên cao năm chục bộ. Nhưng như chúng tôi đã nói, ông quận công lực lưỡng, khéo léo lại rất bình tĩnh, sau có gần năm phút ông chỉ còn cách mặt đất mười lăm bộ, ông buông dây ra và nhảy xuống chẳng đau đớn gì cả.
Ông leo ngay lên bờ hào và thấy Rochefort. Hai người quý tộc kia ông không quen. Grimaud bị ngất được buộc lên một con ngựa.
- Thưa các ông, - hoàng thân nói, - sau này tôi sẽ cảm tạ các ông; còn bây giờ không thể để mất một phút nào. Ta phải lên đường, nào lên đường! Ai quý mến tôi hãy theo tôi!
Rồi ông nhảy phốc lên mình ngựa, phi nước đại, hít không khí vào đầy ***g ngực và hét lên với một nỗi vui mừng khôn tả:
Tự do!…Tự do?…Tự do!…
------------------------
Chú thích:
(1) Một chàng thanh niên Hy Lạp rất đẹp trai, trước là nô lệ sau là sủng thần của hoàng đế Harđiêng.
(2) Annibal (247-183 trước Công nguyên) - một danh tướng xứ Cactagiơ đã từng chinh phục Tây Ban Nha và Ý.