D Artagnan đi thẳng đến chuồng ngựa. Trời vừa tảng sáng. Anh nhận ra ngựa của anh và của Porthos buộc ở máng ăn nhưng máng rỗng không. Nghĩ thương hại mấy con vật tội nghiệp anh lần đến một góc chuồng ngựa và thấy lấp lánh một ít rơm có lẽ thoát khỏi cuộc vơ vét đêm qua. Anh lấy chân vun rơm thì thấy mũi giày *****ng phải một vật tròn tròn và có lẽ *****ng phải chỗ phạm, nên nó hét lên một tiếng, chống đầu gối nhổm dậy và dụi mắt. Đó là Mousqueton, đêm qua không còn rơm cho mình, nên lấy rơm ăn của ngựa để nằm.
- Mousqueton, - D Artagnan bảo, - Nào, ta lên đường!
Nhận ra tiếng nói của bạn chủ mình, Mousqueton vội vàng đứng dậy và đánh rơi mấy đồng louis kiếm được khi đêm một cách bất hợp pháp.
D Artagnan nhặt một đồng louis ngửi và nói:
- Ô! Cái thứ vàng này có mùi kỳ cục thật, mùi rơm.
Mousqueton đó đừ mặt một cách đến là thật thà và có vẻ thật bối rối khiến chàng Gascon bật cười và bảo:
Porthos có lẽ sẽ nổi giận đấy, Mousqueton thân mến ạ, nhưng tôi thì tôi tha thứ cho cậu, song hãy nhớ rằng vàng này cần dùng để chữa cho các vết thương của chúng ta, và hãy vui lên nào.
Tức thì Mousqueton miệng cười toe toét, nhanh nhẩu thắng ngựa cho chủ và leo lên ngựa mình mà chẳng nhăn nhó bao nhiêu.
Vừa lúc ấy Porthos đi đến với bộ mặt cáu kỉnh và hết sức ngạc nhiên trông thấy d Artagnan với vẻ cam chịu và Mousqueton khá hớn hớ.
- Ái chà! - Anh nói, - Chắc là đã có cấp bậc cho cậu và Nam tước cho tôi phải không?
- Chúng tôi sắp đi kiếm mảnh bằng chứng nhận, - D Artagnan nói, - Và khi ta trở về tiên sinh Mazarin sẽ ký.
- Thế ta đi đâu? - Porthos hỏi.
- Trước hết đi Paris, - D Artagnan đáp, - Tôi muốn thu xếp vài công việc.
- Nào ta về Paris, - Porthos nói.
Và cả haỉ đi về Paris.
Tới mấy cửa ô họ kinh ngạc thấy thái độ doạ nạt của thành phố.
Chung quanh một cỗ xe bị phá tan tành dân chúng không ngớt phần chửi rủa, trong khỉ mấy người định đi trốn thì bị bắt giữ, chúng là một ông già và hai người đàn bà.
Trái lại khi d Artagnan và Porthos xin vào thì họ mơn trớn hết lời. Họ cho rằng đó là những người rời bỏ phe nhà vua và họ muốn thu hút về với họ.
- Vua đang làm gì? - họ hỏi.
- Vua ngủ.
- Còn mụ Tây Ban Nha?
- Bà ta mơ màng.
- Còn cái tên người Ý đáng nguyền rủa ấy?
- Lão ta thức, - D Artagnan đáp. - Như vậy các bạn phải giữ vững, bởi vì rằng nếu họ ra đi, chắc hẳn là để làm chuyện gì đó. Nhưng vì rốt cuộc các bạn là những kẻ mạnh hơn, không nên gay gắt với phụ nữ và ông già, và nên nhắm đúng những mục đích thực sự.
Dân chúng nghe những lời đó với vẻ thú vị và để cho mấy bà bị giữ đi, họ cảm ơn d Artagnan bằng một cái nhìn hùng hồn.
- Thôi bây giờ, tiến lên nào! - D Artagnan nói.
Và họ tiếp tục đi, xuyên qua các lũy chướng ngại, bước qua những dây xích, bị xô đẩy, bị căn vặn và cũng hỏi han lại những người khác.
Đến Hoàng cung, d Artagnan trông thấy một viên đội đang huấn luyện quân sự cho sáu trăm thị dân. Đó là Planchet, anh đang đem những điều nhớ được ở trung đoàn Piémont ra giúp cho đội tự vệ thành thị.
Đi qua trước mặt d Artagnan, anh nhận ra chủ cũ của mình.
- Kính chào ông d Artagnan, - Planchet nói với vẻ hãnh diện.
- Kính chào ông Dulaurier, - D Artagnan đáp.
Planchet đứng sựng lại trố đôi mắt thao láo và ngơ ngác ra nhìn d Artagnan. Hàng người đầu tiên thấy chỉ huy của mình dừng chân cũng đứng lại, cứ như thế cho đến hàng cuối cùng.
- Những bọn thị dân ấy thực là kỳ lạ một cách ghê gớm, - D Artagnan nói với Porthos.
Và anh lại tiếp tục đi.
Năm phút sau anh xuống ngựa trước khách sạn "La Chevrette.
Mỹ nhân Madeleine chạy ra đón d Artagnan.
- Bà Turquaine thân mến của tôi ơi, - D Artagnan nói, - Nếu bà có tiền bạc nhiều thì hãy chôn vùi cho nhanh lên; nếu bà có đồ tư trang hãy giấu ngay đi; nếu bà có con nợ, hãy đòi bằng được, nếu bà có chủ nợ thì chớ có trả họ.
- Tại sao thế? - Madeleine hỏi.
- Bởi vì Paris sắp biến thành tro bụi, như Babylone không hơn không kém, mà chắc hẳn bà đã nghe nói đến!(1)
- Thế ông chia tay tôi trong tình hình như thế này ư?
- Phải đi ngay bây giờ, - D Artagnan nói.
- Ông đi đâu?
- A! Nếu bà có thể bảo cho tôi biết điều đó, thì quả là bà giúp tôi một việc thực sự đấy.
- Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa!
D Artagnan giơ tay ra hiệu cho bà chủ quán hãy bớt những lời kêu ca than vãn đi vì có kêu cũng bằng thừa. Và anh hỏi:
- Có thư từ gì cho tôi không?
- Có một bức thư cũng vừa mới đến.
Và bà đưa thư cho anh.
- Thư của Arthos! - D Artagnan reo lên khi nhận ra nét chữ cứng cáp và dài của bạn.
- A, - Porthos nói, - xem anh ta nói những chuyện gì nào, d Artagnan mở thư và đọc:
"D Artagnan thân thiết,
Du Vallon thân mến,
Các bạn thân thiết của tôi ơi, có lẽ đây là lần cuối cùng các bạn nhận được tin tức của tôi. Aramis và tôi, chúng tôi cực khổ lắm, nhưng lạy Chúa, lòng dũng cảm của chúng tôi và kỷ niệm về tình bạn của chúng ta nâng đỡ chúng tôi. Hãy luôn nhớ đến Raoul. Tôi gửi gắm các bạn những giấy tờ để ở Blois, và trong hai tháng rưỡi nữa, nếu các bạn không nhận được tin tức về chúng tôi thì hãy xem những giấy tờ đó. Hãy ôm hôn thật mạnh tử tước hộ người bạn tận tụy này.
Arrthos"
- Chắc chắn là tôi sẽ ôm hôn nó, - D Artagnan nói, - Và như thế nó ở trên đường đi của chúng ta. Và nếu như nó bất hạnh bị mất đi, Arthos tội nghiệp của chúng ta, thì từ ngày hôm nay nó trở thành con trai của tôi.
- Và tôi - Porthos nói, - Tôi sẽ cho nó làm người thừa kế toàn hưởng của tôi.
- Xem Arthos còn nói gì nữa nào?
"Nếu trên các ngả đường đi, các cậu gặp một tên Mordaunt thì hãy coi chừng. Tôi không thể nói nhiều về điều đó ở trong thư".
- Mordaunt! - D Artagnan kinh ngạc kêu lên, - Mordaunt, được lắm, - Porthos nói, - Ta sẽ nhớ.
- Này, nhưng còn có lời tái bút của Aramis.
Thật thế, - D Artagnan nói.
Và anh đọc:
"Các bạn thân mến, Chúng tôi giấu giếm các bạn nơi trú ngụ của chúng tôi vì hiểu rõ lòng tận tụy anh em của các cậu và biết rõ rằng các cậu sẵn sàng đến để chết cùng với chúng tôi".
- Mẹ kiếp! - Porthos đùng đùng nổi giận hét lên làm Mousqueton bắn đi tới cuối phòng, - Như vậy là cậu đang gặp nguy hiểm chết người à?
D Artagnan đọc tiếp:
"Arthos truyền lại cho cậu Raoul, còn tôi truyền lại cho cậu một cuộc trả thù. Nếu may mắn các cậu tóm được một tên Mordaunt nào đó, thì hãy bảo Porthos dẫn nó đến một xó và vặn cổ nó đi. Tôi không dám nói gì hơn trong một lá thư.
Aramis"
- Nếu chỉ có thế thì dễ dàng lắm, - Porthos nói.
- Trái hẳn lại cậu ạ, - D Artagnan rầu rầu đáp - Vì không thể được.
- Sao vậy?
- Vì đúng là cái tên Mordaunt mà chúng ta phải gặp ở Boulogne-sur-Mer và đi cùng hắn sang Anh.
- Thế thì, đáng lẽ đuổi theo tên Mordaunt ấy, Chúng ta đuổi theo các bạn của ta. - Porthos nói với những cử chỉ có thể làm kinh hãi cả một đội quân.
- Tôi có nghĩ đến điều đó, - D Artagnan nói, - Nhưng bức thư không có ngày cũng chẳng có con niêm.
- Đúng thế, - Porthos nói.
Và anh đi đi lại lại trong phòng như một kẻ lạc lối, làm mọi điệu bộ và chốc chốc lại rút gươm gần ra khỏi vỏ.
Còn d Artagnan đứng ngây ra như một người thất đảm và trên gương mặt anh hiện lên nỗi đau buồn sâu sắc nhất.
- A! Thãt là một chuyện không hay! - Anh nói - Arthos coi thường chúng ta, anh ấy muốn chết một mình, không tốt!
Nhìn thấy hai nỗi thất vọng tầy đình ấy, Mousqueton khóc rưng rức ở trong góc phòng.
- Thôi, - D Artagnan nói, - Làm như thế chẳng được tích sự gì. Chúng ta hãy đi gặp và ôm hôn Raoul như ta đã nói, và có khi nó nhận được tin của Arthos.
- Ô đó là một ý kiến hay, - Porthos nói, - D Artagnan thân mến ạ, thực ra tôi không biết cậu định làm gì, nhưng cậu có rất nhiều ý kiến. Ta hãy đến gặp Raoul đi.
- Kẻ nào *****ng đến ông chủ ta lúc này hãy coi chừng, - Mousqueton nói, - Ta sẽ lột xác nó ra.
Họ lên ngựa và ra đi. Đến phố Saint-Denis, họ thấy một đám tụ hội dân chúng. Đó là ông de Beaufort vừa mới từ Vendôme tới và được ông chủ giáo giới thiệu với đám dân Paris kinh ngạc và mừng rỡ.
Với ông de Beaufort, họ coi như từ nay mình là kẻ bất khả chiến bại.
Đôi bạn rẽ sang một phố nhỏ để khỏi gặp hoàng thân và đi đến cửa ô Saint-Denis. Mấy lính canh hỏi hai kỵ sĩ:
- Có đúng là ông de Beaufort đã tới Paris không?
- Đúng quá rồi còn gì, - D Artagnan đáp, - và bằng chứng là ông ấy phái chúng tôi đi đón cha ông ấy là cụ de Vendôme cũng sắp tới nơi.
- Ông de Beaufort muôn năm! - Lính canh hô to.
Và họ kính cẩn lui ra để những phái viên của ông hoàng vĩ đại đi qua.
Ra khỏi cửa ô, con đường như bị ngốn ngấu bởi những con người không hề biết mệt mỏi hay chán nản; ngựa của họ bay đi và họ không ngớt bàn tán về Arthos vả Aramis.
Mousqueton chịu đựng mọi nỗi đau đớn không thể tưởng tượng nổi, nhưng người nô bộc tuyệt vời ấy tự an ủi, nghĩ rằng hai ông chủ của mình còn nếm trải biết bao nỗi đau khổ khác. Bây giờ hắn đi tới coi d Artagnan như ông chủ thứ hai và hắn tuân lệnh anh còn nhanh nhảu hơn và nghiêm chính hơn đối với Porthos.
Doanh trại đóng ở giữa Saint-Omer et Lambres; đôi bạn đi vòng đến tận trại và kể lại cho quân đội biết chi tiết về cuộc đi trốn của vua và hoàng hậu mà ở đây chỉ mới được nghe tin không rõ ràng. Họ thấy Raoul ở cạnh lều của mình nằm trên một bó rơm mà con ngựa đang rút vụng mấy cọng. Chàng thanh niên mắt đỏ ngầu và có vẻ thất vọng. Thống chế de Grammont và bá tước de Guise trở về Paris và cậu bé tội nghiệp thấy mình lẻ loi.
Lát sau, Raoul ngước mắt lên trông thấy hai kỵ sĩ đang nhìn mình anh nhận ra và chạy tới, hai tay dang ra.
- Ô! Các ông bạn thân mến đấy ư? - Anh reo lên,
- Các ông đến tìm tôi à? Các ông có đưa tôi đi với các ông không? Các ông có mang đến tin tức gì của vị đỡ đầu của tôi không?
- Thế anh không nhận được tin à? - D Artagnan hỏi.
- Chao ôi? Không, ông ạ, và tôi chẳng biết thực sự bây giờ ông ấy ra sao. Thành thử ra… Ôi! Thành thử ra tôi lo lắng đến phát khóc.
Quả thật hai giọt nước mắt lớn lăn trên đôi má sạm nâu của chàng thanh niên.
Porthos quay đi để người ta khỏi nhìn thấy trên khuôn mặt phương phi mà hiền lành của anh những gì đang diễn ra trong trái tim anh.
D Artagnan từ lâu lắm rồi mới thấy mình xao xuyến mạnh đến thế. Anh nói:
- Anh bạn ơi, việc gì phải thất vọng. Anh không nhận được thư của bá tước, thì chúng tôi nhận được… một…
- Ô! Thật ư? - Raoul reo lên.
- Và thư đáng yên tâm nữa kia, - D Artagnan nói khi nhìn thấy nỗi vui mừng mà tin tức ấy đem lại cho cậu thanh niên.
- Ông có thư đấy không? - Raoul hỏi.
- Có, nghĩa là tôi đã có, - D Artagnan vừa nói vừa làm bộ lục tìm, - Đợi tí, chắc nó ở trong túi áo, bá tước nói về việc trở về, phải không Porthos.
Vốn là Gascon, d Artagnan không muốn một mình gánh chịu sự nói dối.
- Phải đấy, - Porthos húng hắng nói.
- Ôi! Đưa thư cho tôi, - Raoul nói.
- Ô Tôi mới còn đọc mà. Chẳng lẽ lại mất. A! khổ chưa, túi tôi bị thủng.
- Ồ! Đúng thế, ông Raoul, - Mousqueton nói. - Lá thư rất đáng mừng; các ông đây đã đọc cho tôi nghe và tôi đã khóc vì vui sướng.
- Ông d Artagnan ơi, - Raoul bình tĩnh lại được một nửa và hỏi, - Ít ra ông cũng biết bá tước ở đâu?
- A! Thế đấy! - D Artagnan nói, - Chắc chắn là tôi biết, nhưng, Chúa ơi! Đó là một điều bí mật.
- Tôi hy vọng là không phải đối với tôi.
- Không phải đối với anh, cho nên tôi sẽ nói ông ấy ở đâu?
Porthos trố mắt ngạc nhiên nhìn d Artagnan, d Artagnan lẩm bẩm: "Ta sẽ nói ở đâu để nó không thể tìm nhỉ?".
- Ông ấy đang ở Constantinople.
- Chỗ bọn Thổ Nhĩ Kỳ! - Raoul hốt hoảng kêu lên. - Lạy Chúa?
- Ông nói gì vậy?
- Ơ kìa, điều ấy làm anh sợ hãi ư? - D Artagnan nói. - Bọn Thổ thì là cái thá gì đối với những người như bá tước de La Fère và tu viện trưởng D Herblay?
- A! Bạn của ông đi cùng với ông bá tước à? - Raoul nói, - Điều ấy làm tôi yên tâm đôi chút.
"Cái thằng quỉ sứ d Artagnan ấy thật là nhanh trí!" Porthos lẩm bẩm, anh phục lăn cái mưu mẹo của bạn.
Vội chuyển hướng câu chuyện, d Artagnan nói:
- Đây là năm mươi pistol mà bá tước gửi cùng một chuyến thư cho anh. Tôi đoán là anh không còn tiền và món tiền này đến kịp thời.
- Thưa ông, tôi hãy còn hai mươi pistol.
- Ồ, cứ cầm lấy, thể là bảy mươi đồng.
- Và nếu anh muốn thêm nữa…, - Porthos nói và thọc tay vào túi.
- Xin cảm ơn, - Raoul đỏ mặt nói, - Nghìn lần cảm ơn ông.
Vừa lúc ấy Olivain hiện ra.
- Nhân tiện hỏi anh, - D Artagnan nói, cố để tên hầu nghe thấy.
- Anh có hài lòng về Olivain không?
- Vâng, cũng được ạ.
Olivain giả tảng không nghe thấy gì và đi vào lều.
- Anh trách gì cái thằng bố láo ấy?
- Nó tham ăn lắm, - Raoul nói.
- Ô! Thưa ông - Olivain nghe lời cáo buộc lại xuất hiện và nói.
- Nó hơi có tính ăn cắp.
- Ô, thưa ông!
- Và nhất là nhát như cáy.
- Ô! ô! ô! Ông ơi, ông bôi xấu tôi, - Olivain nói.
- Gớm nhỉ! - D Artagnan nói, - Olivain này, hãy nhớ rằng những người như bọn ta không thể để bọn nhút nhát hầu hạ, ăn cắp của chủ, ăn mứt kẹo vả uống rượu vang của chủ còn tha thứ được, chứ nhút nhát thì ta xẻo tai đi. Hãy trông ông Mousqueton kia, bảo ông ấy cho xem những vết thương danh dự, và nhìn xem tính dũng cảm thường lệ của ông ấy đã tô điểm vẻ uy phong lên gương mặt ông ấy như thế nào.
Mousqueton lên đến chín tầng mây, và nếu hắn dám thì hắn đã ôm hôn d Artagnan, trong khi chờ đợi hắn tự hứa với mình sẵn sàng chết vì anh nếu như cơ hội đến.
- Raoul hãy tống cổ thằng vô lại này đi, - d Artagna nói. - Vì nó nhát gan, có ngày nó làm mất thể diện.
- Ông hỏi rằng tôi nhát gan, - Olivain la lên, - Bởi vì hôm nọ ông toan đánh nhau với người cầm cờ của trung đoàn Grammont; và tôi từ chối không đi theo ông.
- Này, Olivain, - D Artagnan nghiêm khắc nói. - Một tên hầu không bao giờ được trái lệnh.
Rồi kéo nó ra chỗ khác anh bảo:
- Nếu chủ mày sai thì mày đã làm đúng, và đây là một êquy thưởng cho mày. Nhưng nếu có bao giờ chủ mày bị lăng nhục mà mày không xả thân vì chủ, thì tao sẽ cắt lưỡi mày và đem quét lên mặt mày đấy. Hãy nhớ lấy!
Olivain cúi mình và nhét đồng êquy vào túi.
- Raoul này, - D Artagnan nói, - Bây giờ ông Du Vallon và tôi phải đi làm nhiệm vụ sứ giả. Tôi không thể nói với anh là nhằm mục đích gì? Vì chính tôi cũng không biết, nhưng nếu anh cần điều gì thì cứ viêt thư cho bà Madeleine Turquaine ở khách sạn "La Chevrette phố Tiquetonne, và cứ rút tièn ở quỹ đó như ở quỹ nhà băng: tất nhiên cần tiết kiệm vì tôi không dồi dào như quỹ của ông Tổng giám thu d Emery đâu.
Và sau khi ôm hôn đứa con nuôi tạm thời anh chuyển nó sang cánh tay lực lưỡng của Porthos. Porthos nhấc bồng nó và để nó bám một lúc vào trái tim cao quý của chàng khổng lồ ghê gớm.
- Nào, ta lên đường, - D Artagnan nói.
Và họ đi Boulogne-sur-Mer, tới nơi trời gần tối, ngựa của họ đẫm mồ hôi và sùi cả bọt mép.
Họ đứng lại trước khi vào thành phố và cách đấy mười bước, có một người trẻ tuổi vận đồ đen trông như đang chờ đợi ai, và khi trông thấy họ, anh ta cứ nhìn chằm chằm mãi.
D Artagnan đến gần hắn ta và thấy hắn vẫn không rời mắt nhìn mình, anh nói:
- Ê, này ông bạn, tôi không thích người ta cứ nhìn mình từ đâu đến chân như vậy.
Người thanh niên không đáp lại câu đó của d Artagnan mà hỏi.
- Thưa ông, xin ông cho biết ông có phải từ Paris đến không?
D Artagnan cho rằng đó là một kẻ tò mò nào muốn biết tin tức về kinh đô, nên đáp bằng một giọng mềm mỏng hơn.
- Phải đấy, ông ạ.
- Ông có phải vào nghỉ ở quán Huy hiệu Anh quốc không? Các ông có được Các hạ giáo chủ Mazarin giao cho một sứ mệnh không?
- Có, ông ạ.
Nếu vậy thì chính tôi là người ông cần liên hệ, tôi là Mordaunt.
- A! - D Artagnan tự nhủ thầm, - Kẻ mà Arthos dặn ta phải coi chừng.
- A - Porthos lẩm bẩm. - Kẻ mà Aramis muốn ta vặn cổ.
Cả hai người chăm chú nhin gã thanh niên.
Gã hiểu lầm cái vẻ nhìn ấy và nói:
- Các ông nghi ngờ lời tôi nói chăng? Nếu vậy tôi sẵn sàng đưa ra mọi bằng chứng.
- Không, ông ạ, - D Artagnan nói, - Chúng tôi sẵn sàng theo ý ông.
- Vậy thì, các ông ơi, - Mordaunt nói, - Chúng ta đi ngay không chậm trễ, bởi vì hôm nay là ngày hạn cuối cùng mà ông giáo chủ đã hẹn với tôi. Tàu của tôi đã sẵn sàng, nếu các ông không đi thì tôi đi một mình, và tướng Olivier Cromwell chắc đang rất sốt ruột đợi tôi trở về.
- A! a, - D Artagnan nói, - Như vậy là chúng ta được phải đến tướng Olivier Cromwell.
- Ông không mang một bức thư gửi cho Ngài ư? - Người thanh niên hỏi.
- Tôi có một bức thư mà tôi chỉ được mở phong bì ngoài khi tới London, nhưng là vì ông đã nói là phải gửi tới ai rồi, cho nên chẳng cần phải đợi khi tôi đến đó.
D Artagnan xé luôn phong bì. - Quả thật bức thư để:
"Gửi ngài Olivier Cromwell, tướng lãnh quân đội quốc gia Anh".
- A! - D Artagnan nói, - Sứ mệnh lạ lùng.
- Ông Olivier Cromo là người như thế nào? - Porthos hỏi khẽ.
- Một người trước làm rượu bia, - D Artagnan đáp.
- Phải chăng lão Mazarin muốn làm một vụ đầu cơ rượu bia giống như chúng ta đã đầu cơ rơm? - Porthos nói.
- Nào, nào, ta đi thôi, các ông ơi, - Mordaunt sốt ruột nói.
- Ồ, ồ! Không ăn tối à? - Porthos kêu, - Ông Cromwell không chờ được một chút hay sao?
- Vâng, nhưng còn tôi? - Mordaunt nói.
- Ông thì sao? - Porthos hỏi.
- Tôi, tôi rất vội.
- Ồ! Nếu là việc ông thì chẳng can hệ gì đến tôi, - Porthos nói, - Và tôi sẽ ăn tối dù có được phép hay không được phép của ông.
Cái nhìn mơ hồ của gã thanh niên chợt rực lên và như sắp tóe ra một tia chớp, nhưng gã tự kiềm chế.
- Ông ạ, - D Artagnan nói, - Cần miễn thứ cho những lữ khách đói bụng. Vả lại bữa ăn của chúng tôi chẳng làm ông bị muộn lắm đâu. Chúng tôi sẽ phóng ngay đến quán. Ông cứ đi bộ ra bến, chúng tôi ăn một miếng, rồi sẽ theo kịp ông thôi mà.
- Xin tuỳ ý các ông – Mordaunt nói, - Miễn là chúng ta sẽ ra đi.
- May quá, - Porthos lẩm bẩm.
- Tên tàu là gì? - D Artagnan hỏi.
- Tàu Standard.
- Được rồi. Nửa giờ nữa chúng ta sẽ lên tàu.
Và đôi bạn thúc ngựa phóng đến quán Huy hiệu Anh quốc.
Vừa phi d Artagnan vừa hỏi:
- Cậu thấy gã thanh niên thế nào?
- Tôi chẳng ưa cái thằng ấy chút nào, - Porthos nói, và tôi chỉ thấy ngứa ngáy chân tay dữ dội, muốn làm theo lời dặn của Aramis.
- Chớ có làm như vậy, - Porthos thân mến ạ; đó là một phái viên của tướng Cromwell. Tôi chắc rằng chúng mình sẽ được tiếp đãi tồi tệ nếu báo cho ông ấy biết là chúng ta đã vặn cổ người bộ hạ tin cẩn của ông ấy.
- Mặc kệ - Porthos nói, - Tôi thấy Aramis là người có ý kiến hay.
- Hãy nghe tôi, - D Artagnan nói, - Khi sứ mệnh của chúng mình làm xong.
- Thì sao?
- Nếu nó đưa chúng ta trở lại Pháp…
- Sao nữa?
- Thì rồi ta sẽ tính.
Đôi bạn tới quán Huy hiệu Anh quốc ăn uống ngon lành, rồi đi ngay ra cảng. Một con tàu sẵn sàng giương buồm, và trên boong tàu, họ nhận thấy Mordaunt đang đi đi lại lại ra vẻ sốt ruột lắm.
Trong lúc, con thuyền chờ họ ra cặp mạn tàu Standard, d Artagnan nói:
- Cái gã thanh niên kia giống một cách lạ lùng một người nào đó mà mình đã quen, nhưng không nhớ được là ai.
Họ đến chỗ bắc cầu và lát sau đã lên tàu.
Nhưng đưa ngựa lên lâu hơn và đến tám giờ tối mới nhổ neo được.
Gã thanh niên sốt ruột giậm chân và bắt người ta phải kéo buồm lên…
Porthos mệt lử vì ba đêm qua không ngủ và vì một cuộc đường chạy ngựa bảy mươi dặm, vào phòng là ngủ ngay liền.
D Artagnan kiềm chế nỗi ghê tởm đối với Mordaunt, đi dạo với hắn ở trên boong và kể lể đủ mọi thứ chuyện để buộc hắn phải nói.
Mousqueton thì say sóng.
------------------
Chú thích:
(1) Babylone: thành phố cổ xưa, ở trên đất Irắc ngày nay, bị quân Hitxít phá trụi vào khoảng hơn một nghìn năm trước Công nguyên.
Người Scotch phản bội lời thề, vì một đồng xu, bán rẻ Đức vua
Giờ đây, xin bạn đọc hãy để mặc con tàu Standard lặng lờ trôi không phải về phía London nơi mà d Artagnan và Porthos đã ngĩ là sẽ đến, nhưng con tàu lại chạy vế phía Durham, nơi mà Mordaunt trong thời gian lưu trú ở Boulogne-sur-Mer đã nhận được thư từ ra lệnh cho anh ta phải trở về đó. Xin các bạn hãy theo chúng tôi đến danh trại quân đội nhà vua đóng ở bên này sông Tyne, cạnh thành phố Newcastle.
Tại đó, giữa hai con sông, những tấm lều vải của một đội quân nhỏ trải ra trên biên giới giáp xứ Scotch nhưng vẫn ở trên đất Anh. Đã nửa đêm. Qua những bắp chân trần, những vạt áo ngắn, nhưng áo tới sặc sỡ và cái lông chim trang trí trước mũ nỉ của họ, ta vẫn có thể nhận ra những người dân vùng cao nguyên Scoth đang canh phòng uể oải. Mặt trăng lướt giữa hai đám mây lớn. Từng quãng chiếu sáng những khẩu súng hỏa mai của các lính canh và làm nổi bật mạnh mẽ những bức tường, những mái nhà và những tháp chuông của thành phố mà vua Charles I vừa mới nộp cho các toán quân của nghị viện, cũng như thành phố Oxford và Newark, họ còn cầm cự vì ông ta trong niềm hy vọng một sự hoà giải. Trong một mái lều rộng lớn ở một đầu doanh trại, đông đảo sỹ quan Scotch đang họp một cuộc hội nghị do lão bá tước de Loewen vị chỉ huy của họ chủ trì.
Cạnh lều, một người mặc kỵ sỹ đang nằm ngủ trên thảm cỏ, tay phải duỗi ra trên thanh kiếm.
Cách đấy năm chục bước, một người khác cũng vận y phục kỵ sỹ đứng nói chuyện với một lính canh Scotch dường như thông thạo tiếng Anh nên mặc dầu là người nước ngoài anh ta cũng hiểu được những câu trả lời của gã lính canh nói bằng thổ ngữ xứ Perth.
Chuông đồng hồ thành phố Newcastle điểm một giờ sáng, người kỵ sỹ ngủ choàng dậy và sau khi làm mọi cử chỉ của một người tỉnh dậy sau một giấc ngủ sâu, anh ta chăm chú nhìn ngó xung quanh.
Thấy chỉ có một mình mình. Anh đứng lên, rẽ quặt ngang và đi qua chỗ người kỵ sỹ đang nói chuyện với gã lính canh.
Chắc là đã hỏi chuyện xong vì một lát sau anh này từ giã người lính và đàng hoàng đi theo người kỵ sĩ nọ.
Đến chỗ bóng một chiếc lều dựng trên lối đi, người kỵ sĩ đi ra đứng lại đợi bạn và hỏi bằng thứ tiếng Pháp thuần tuý nhất từng được nói từ vùng Rouen đến Tour:
- Thế nào, bạn thân mến của tôi?
- Chà? Bạn ơi, chẳng còn thì giờ để mất đâu, cần phải báo trước cho nhà vua.
- Có chuyện gì xảy ra thế?
- Dài lắm, không thể nói được. Vả lại lát nữa cậu cũng sẽ được nghe cơ mà. Hơn nữa, chỉ một lời nói hở ra ở đây là hỏng hết mọi việc. Ta đi tìm Milord de Winter.
Và hai người đi đến phía cuối doanh trại. Do doanh trại chẳng rộng hơn năm trăm bước vuông, chẳng mấy chốc họ đã tới lều của người cần tìm kiếm.
- Tony, chủ của anh ngủ à? - Một kỵ sỹ nói bằng tiếng Anh với tên hầu nằm ở ngăn thứ nhất dùng làm phòng đợi.
- Thưa bá tước, không ạ, - Tên hầu đáp, chắc là không phải, hoặc nếu có ngủ thì cũng chỉ mới chợp mắt thôi, vì rằng sau khi cáo biệt đức vua về, ông chủ tôi cứ đi đi lại lại đến hơn hai tiếng đồng hồ và tiếng bước chân của ông mới ngừng độ một phút. Với lại, ông có thể xem đây, - Tên hầu vua nói thêm vừa vén tấm rèm cửa lên.
Quả thật Winter đang ngồi trước một ở cửa sổ để không khí ban đêm lọt vào, ông buồn rầu nhìn lên mặt trăng đang khuất sau những đám mây đen lớn.
Đôi bạn đi đến gần de Winter. Ông không nghe thấy gì, vẫn cứ ngồi nguyên, đầu tỳ lên bàn tay, mắt ngước nhìn trời. Mãi đến lúc thấy có người đặt tay lên vai mình, ông mới quay lại nhận ra Arthos và Aramis và giơ tay ra bắt tay họ. Ông nói:
- Các ông có nhận thấy đêm nay mặt trăng đỏ quá như nhuộm một màu máu không?
- Không - Arthos đáp, - Tôi thấy vẫn như mọi khi.
- Ông hiệp sỹ hãy nhìn xem - de Winter bảo.
- Xin thú thật rằng, tôi cũng đồng ý với bá tước de La Fère, - Aramis đáp, - và tôi thấy chẳng có gì khác thường cả.
- Thưa bá tước, - Arthos nói, - trong một tình cảnh thật là bấp bênh như tình cảnh chúng ta hiện nay, thì chính là cần phải xem xét ngay trên mặt đất, chứ không phải trên trời. Ông đã xem xét những người Scotch của chúng ta chưa và ông có tin chắc họ không?
- Những người Scotch à? - de Winter hỏi, - Những người Scotch nào?
- Ôi, Chúa tôi, - Arthos nói, - những người Scotch của chúng ta chứ còn ai nữa, những người mà nhà vua trông cậy những quân sĩ Scotch của bá tước Loewen.
- Không, - de Winter đáp, rồi ông nói thêm - Như vậy, các ông hãy nói xem có phải các ông không thấy như tôi cái màu đỏ đó kia đang che phủ bầu trời?
- Không thấy một chút nào cả! - Arthos và Aramis cùng đáp.
Vẫn băn khoăn về ý kiến ấy, de Winter lại nói:
- Các ông hãy cho tôi biết có đúng là có một truyền thuyết ở Pháp kể rằng trước hôm bị ám sát, vua Henri IV ngồi chơi cờ với ông de Bassompierre và trông thấy có những vết máu ở trên bàn cờ phải không?
- Phải - Arthos đáp, - Và ngài thống chế kể lại cho tôi nghe nhiều lần.
- Thế đấy, - de Winter lẩm bẩm - Và ngày hôm sau Henri IV bị giết chết.
- Nhưng bá tước ơi, cái ảo ảnh của Henri IV có liên quan gì đến ông kia chứ? - Aramis hỏi.
- Chẳng có gì cả, các ông ạ; kể ra tôi cũng điên rồ đi bàn với các ông những chuyện như vậy, khi mà vào giờ này các ông đến lều tôi chắc hẳn có tin tức gì quan trọng.
- Vâng, thưa Milord, - Arthos nói, - Tôi muốn nói chuyện với đức vua.
- Với đức vua ư? Nhưng vua đang ngủ.
- Tôi cần tiết lộ với vua những điều rất hệ trọng.
- Những chuyện đó để đến mai không được ư?
- Cần để vua biết ngay bây giờ, và có lẽ cũng đã quá muộn.
- Thế thì vào ngay đi, - de Winter nói.
Lều của de Winter dựng cạnh lề vua, hai lều thông nhau bằng một thứ hành lang. Việc canh phòng hành lang ấy không giao cho lính gác mà giao cho một tên hầu phòng tin cẩn của vua Charles I để trong trường hợp khẩn cấp nhà vua có thể liên hệ ngay với người bầy tôi trung thành của mình.
- Các ông này đi cùng với tôi, - de Winter nói.
Tên hầu cúi chào và để cho đi qua.
Quả thật vua Charles I không cưỡng nổi cơn buồn ngủ đang ngủ thiếp đi trên một chiếc giường dã chiến, mặc áo chẽn đen, chân đi ủng dài, thắt lưng nới lỏng, mũ để bên mình. Mấy người tiến lại.
Arthos đi đầu lặng yên ngắm nghía một lát bộ mặt thanh tao mà tái nhợt khuôn trong mớ tóc đen dài dính vào thái dương bởi mồ hôi của một giấc ngủ thảng thốt, những đường gân xanh to nổi lên như căng đầy nước mắt dưới cặp mắt mệt mỏi.
Arthos buông một tiếng thở dài; tiếng thở dài ấy khiến vua tỉnh dậy đủ biết nhà vua ngủ chập chờn như thế nào.
Vua mở mắt, rồi chống khuỷ tay nhổm người lên và nói:
- A! Bá tước de La Fère đấy à?
- Vâng, thưa Hoàng thượng, - Arthos đáp.
- Ông thức canh chừng trong khi tôi ngủ, và ông mang tin tức gì đến cho tôi phải không?
- Chao ôi! - Arthos đáp. - Hoàng thượng đoán đúng.
- Tin tức xấu, phải không? - Vua rầu rầu mỉm cười và nói.
- Vâng thưa Hoàng thượng.
- Không sao, người mang tin là người được hoan nghênh, vả chẳng bao giờ ông đến tôi mà không làm cho tôi vui lòng. Ông do Henriette cử đến tôi, lòng tận tụy của ông không cần biết đến Tổ quốc đến tai hoạ.
Tin tức mà ông mang đến, dù thế nào đi nữa, ông cứ nói hẳn hoi.
- Thưa Hoàng thượng, ông Cromwell đã đến Newcastle tối nay.
- A! Để đánh tôi chăng? - Vua nói.
- Không đâu, thưa Hoàng thượng, để mua ngài.
- Ông nói gì thế?
- Thưa Hoàng thượng, tôi nói rằng ngài còn nợ quân đội Scotch bốn trăm nghìn livres
- Về tiền lương muộn trả? Phải, tôi biết. Từ gần một năm nay những người Scotch dũng cảm và trung thành của tôi chiến đấu vì danh dự.
Arthos mỉm cười, nói:
- Ấy thưa ngài, dù danh dự là một điều tốt đẹp, họ cũng chán chiến đấu vì nó rồi, và đêm nay họ đã bán ngài lấy hai trăm nghìn livres, tức là một nửa số tiền nợ họ.
- Không thể có chuyện ấy được, - Nhà vua kêu lên - Người Scotch bán vua của họ lấy hai trăm nghìn livres.
- Những người Do Thái rõ ràng đã bán Chúa của họ lấy ba mươi xu.
- Thế tên Judas nào đã làm cái việc mua bán đê mạt ấy?
- Bá tước de Loewen.
- Ông có chắc chắn không?
- Tôi đã nghe điều đó bằng chính tai mình.
Nhà vua buông một tiếng thở dài, dường như trái tim ông tan vỡ và gục đầu vào hai bàn tay mình.
- Ôi Những người Scotch - Ông nói,
- Những người Scotch mà ta gọi là những kẻ trung thành của ta những người Scotch mà ta gửi gắm thân mình khi ta trốn thoát ở Oxford, những người Scotch! Đồng bào của ta, những người Scotch! Anh em của ta! Nhưng ông ơi, ông có thật chắc chắn như thế không?
- Nằm sau tấm lều của bá tước de Loewen và vén rèm lên, tôi đã trông thấy hết cả và nghe thấy hết cả.
- Thế khi nào thì việc mua bán ghê tởm ấy phải hoàn tất?
- Trong buổi sáng ngày hôm nay. Hoàng thượng thấy đấy, không thể chậm trễ được nữa.
- Để làm gì cơ chứ, bởi vì ông nói rằng tôi đã bị bán rồi cơ mà.
- Để vượt qua sông Tyne, để sang đất Scotch, để đến với Lord Montrose, ông ta không bán ngài.
- Tôi sẽ làm gì ở Scotch? Làm một cuộc chiến tranh du kích ư? Một kiểu chiến tranh như vậy chẳng xứng dáng với một ông vua.
- Tấm gương của Robert Bruce(1) còn đó để xá miễn cho ngài.
- Không, không, tôi chiến đấu quá lâu rồi. Nếu chúng muốn bán tôi chúng cứ việc nộp tôi đi, và nỗi hổ nhục muôn đời về sự phản phúc của họ sẽ rơi xuống đầu họ.
- Thưa Hoàng thượng, - Arthos nói,
- Có thể một ông vua phải hành động như vậy, nhưng một người chồng hay một người cha không nên hành động như vậy. Tôi đến đây nhân danh vợ và con gái của ngài, và nhân danh vợ và con gái và hai con nữa của ngài đang còn ở London, tôi xin nói với ngài rằng: Thưa Ngài, Ngài phải sống, Thượng đế muốn như vậy?
Nhà vua đứng dậy, siết chặt dây lưng, gài thanh kiếm, lấy khăn lau mồ hôi trán và nói:
- Vậy thì, phải làm gì bây giờ?
- Thưa ngài, trong tất cả quân đội của ngài có một trung đoàn nào ngài có thể trông cậy không?
- De Winter, - Vua nói, - Ông có tin vào sự trung thành của trung đoàn ông không?
- Thưa Hoàng thượng, đó là những con người, mà những con người dễ trở thành rất yếu đuối hoặc rất độc ác. Tôi tin ở sự trung thành của họ, nhưng tôi không dám bảo đảm, tôi có thể gửi gắm tính mạng tôi cho họ nhưng tôi do dự khi phải gửi gắm họ tính mạng của Hoàng thượng.
- Thế này vậy, - Arthos nói, - không có trung đoàn, chúng ta có ba người tận tụy, thể là đủ. Xin Hoàng thượng hãy lên ngựa, đi ở giữa chúng tôi, chúng ta sẽ vượt qua sông Tyne, sang đất Scotch và chúng ta sẽ thoát.
- Ông có đồng ý như thế không, de Winter? - vua hỏi.
- Có, thưa Hoàng thượng.
- Còn ông hiệp sĩ D Herblay?
- Thưa ngài, tôi đồng ý.
- Vậy thì phải làm theo như các ông đã muốn, de Winter, hãy ra lệnh đi!
De Winter đi ra, trong khi ấy vua sửa sang y phục.
Những tia sáng đầu tiên của ban ngày bắt đầu lọt qua những ô cửa lều, thì de Winter vào.
- Thưa ngài, tất cả đã sẵn sàng, - Ông nói.
- Còn chúng ta? - Arthos hỏi.
- Grimaud và Blaisois đã thắng ngựa xong rồi.
- Thế thì, - Arthos nói, - ta không để mất một phút nào nữa và đi ngay.
- Ta ra đi nào, - Vua nói.
- Thưa ngài, - Aramis nói, - Ngài không bảo cho bè bạn biết à?
- Bạn bè của tôi ư, - Charles I buồn bã lắc đầu nói, - Tôi chẳng còn bạn bè nào khác ngoài ba ông ra. Một người bạn hai mươi năm chẳng bao giờ quên tôi; hai người bạn mà tám ngày tôi sẽ không bao giờ quên. Ta đi thôi, các ông, ta đi thôi.
Vua ra khỏi lều và thấy ngựa của mình đã sẵn sàng. Đó là một con ngựa màu vàng nhạt mà ông cưỡi được ba năm rồi và rất quý mến nó.
Con ngựa trông thấy ông, mừng rỡ hí lên.
- A! - Vua nói, - Ta hơi bất công, còn đây nữa, nếu không phải một người bạn thì ít ra cũng là một sinh vật yêu mến ta. Mày, mày sẽ trung thành với ta phải không, Arthus?
Như hiểu những lời nói đó, con ngựa giơ cái mũi bốc khói đến gần mặt vua và mừng rỡ nhếch mép lên để lộ hàm răng trắng nhơn.
- Phải rồi, phải rồi - Nhà vua lấy hai tay vuốt ve nó và nói, - Tốt lắm, Arthus, ta hài lòng về mày.
Và với cái dáng bộ nhẹ nhàng đã khiến nhà vua nổi tiếng là một trong những kỵ sĩ giỏi nhất châu Âu, Charles nhảy phắt lên mình ngựa, rồi quay lại phía Arthos, Aramis, và de Winter, ông nói:
- Nào, tôi chờ các ông đây.
Nhưng Arthos vẫn đứng yên, mắt đăm đăm và tay giơ về phía một vạch đen men theo bờ sông Tyne và trải ra trên một chiều dài gấp đôi bề dài của doanh trại. Giữa lúc còn đang tranh tối tranh sáng, anh chưa phân biệt được rõ ràng và nói:
- Đường vạch kia là cái gì ấy nhỉ? Hôm qua tôi không trông thấy.
- Chắc là sương mù từ sông bốc lên, - Vua nói.
- Thưa ngài, đó là một cái gì đặc và chắc hơn là hơi nước.
- Đúng vậy - de Winter nói, - Tôi thấy như một hàng rào chắn màu đo đỏ.
- Đấy là quân địch, - Arthos kêu lên, - Chúng từ Newcastle ra và bao vây chúng ta.
- Quân địch, - Vua nói. - Đúng là quân địch. Muộn quá rồi, kia kìa! Bên cạnh thành phố, chỗ có mặt trời, các ông có thấy những sườn sắt lấp lánh không?
Người ta gọi như vậy những lính mặc giáp sắt mà Cromwell trang bị cho các đội cận vệ.
- A! - vua nói, - chúng ta sắp được biết có đúng là những người Scotch của ta phản bội không?
- Ngài làm gì bây giờ? - Arthos hỏi.
- Ra lệnh cho họ công kích và cùng với họ đè bẹp những quân phiến loạn kia.
Và nhà vua thúc ngựa phóng đến lều của bá tước de Loewen.
- Chúng ta hãy đi theo ngài, - Arthos bảo.
- Nào ta đi, - Aramis nói.
- Nhà vua bị thương chăng - de Winter nói, - tôi trông thấy những vết máu trên mặt đất.
Và ông phóng theo hai người bạn. Arthos ngăn ông lại, bảo:
- Ông đi tập hợp trung đoàn ông lại; tôi thấy thế nào chúng ta sẽ cần đến nó.
De Winter quay ngựa lại, còn đôi bạn tiếp tục đi.
Vài giây sau, vua tới lều của viên tướng tổng chỉ huy quân đội Scotch, vua nhảy xuống đất và bước vào.
Viên tướng đang ở giữa các chỉ huy chủ yếu.
- Đức vua? - Họ vừa kêu vừa đứng lên và nhìn nhau với vẻ kinh ngạc.
Charles đứng trước mặt họ, mũ trên đầu, lông mày nhíu lại, ông cầm roi ngựa vụt vào chiếc ủng của mình mà nói:
- Phải rồi các ông ạ, đích thân nhà vua đây; nhà vua đến hỏi các ông về tình hình xảy ra.
- Thưa ngài, có chuyện gì ạ? - Bá tước dờ Loewen hỏi.
Nổi giận đùng đùng, vua nói:
- Có chuyện gì à? Tướng Cromwell đã đến Newcastle đêm qua, các ông biết mà tôi không được thông báo; có chuyện là quân địch ra khỏi thành phố và chặn đường qua sông Tyne, các lính canh ắt phải trông thấy cuộc vận động đó, vậy mà tôi không được thông báo; có chuyện là bằng một hiệp ước hèn hạ, các ông đã bán đứng nhà vua cho nghị viện lấy hai trăm nghìn livres, ít ra là tôi được thông bảo về việc đó. Đấy, những chuyện ấy đấy, các ông ạ. Tôi buộc tội các ông, các ông hãy trả lời hoặc thanh minh đi.
- Thưa Hoàng thượng, - Bá tước de Loewen lắp bắp - Ngài đã lầm vì một báo cáo sai nào đó.
- Chính mắt tôi trông thấy quân đội địch trải ra giũa tôi và xứ Scotch, - Charles I nói, - và hầu như tôi có thể nói rằng chính tai tôi đã nghe bàn luận những điều khoản của cuộc mua bán ấy.
Những viên chỉ huy Scotch đến lượt mình nhíu lông mày lại nhìn nhau.
Hổ thẹn chín người, bá tước de Loewen lẩm bầm:
- Thưa hoàng thượng, chúng tôi sẵn sàng trình với ngài mọi bằng chứng.
- Ta chỉ cần mỗi một bằng chứng thôi, - Vua nói. - Hãy đưa quân đội ra chiến đấu và tiến thẳng đến quân thù.
- Thưa ngài, không thể được?
- Có ai ngăn cản vậy - Charles I quát lên.
- Hoàng thượng biết rằng có đình chiến giữa chúng ta và quân đội Anh, - Bá tước đáp.
- Nếu có đình chiến thì quân Anh cũng phá bỏ nó rồi khi chúng ra khỏi thành phố trái với những điều ước buộc chúng phải ở yên trong thành. Ta đã nói với các ông rằng các ông phải cùng tôi xuyên qua quân địch và trở về Scotch. Nếu các ông không làm như vậy thì được? Hãy chọn lựa giữa hai cái tên nó phân biệt những kẻ đáng khinh bỉ và phỉ nhổ với những con người khác. Hay là các ông là những kẻ hèn nhát, hoặc các ông là những kẻ phản bội?
Mắt của những người Scotch rừng rực lên như ta thường thấy trong những tình huống tương tự. Họ đi từ chỗ cực kỳ hổ thẹn đến chỗ cực kỳ trâng tráo, và hai viên tộc trưởng xông đến bên cạnh nhà vua.
- Thế thì phải đấy, - Họ nói, - Chúng tôi đã hứa giải thoát xứ Scotch và nước Anh khỏi tay những kẻ uống máu và vàng bạc của xứ Anh và Scoch . Chúng tôi đã hứa và chúng tôi giữ lời.Vua Charles Stuart , ông là tù nhân của chúng tôi!
Và cả hai người cùng giơ tay ra để bắt giữ nhà vua.
Nhưng trước khi ngón tay của họ chạm đến người vua thì cả hai đã ngã xuống, một người ngất đi và một người chết.
Arthos đã đập đầu một người bằng báng súng và Aramis đã dùng kiếm đâm xuyên qua thân hình người kia.
Bá tước de Loewen và những chỉ huy khác lùi lại trước sự cứu viện bất ngờ như từ trên trời rơi xuống người mà họ tưởng đã là tù nhân của họ. Nhân đó Arthos và Aramis kéo nhà vua ra khỏi mái lều phản bội mà ông đã mạo hiểm dấn thân mình vào một cách đến là thiếu thận trọng rồi cả ba người phóng ngựa trở về. Họ gặp de Winter dẫn đầu trung đoàn mình đang tiến lại. Vua ra hiệu cho ông đi theo mình.
----------------
Chú thích:
(1) Vua, người Norman, lánh sang xứ Scotch và liên minh với hoàng gia xứ này.
Bốn người đi vào trong lều. Thực tế chưa có một kế hoạch hành động nào phải quyết định ngay một kế mới. Nhà vua buông mình xuống chiếc ghế bành và nói.
- Tôi thất bại rồi.
- Không đâu, thưa Ngài, - Arthos nói, - Ngài chỉ bị bội phản thôi.
Vua buông một tiếng thở dàỉ.
- Bị phản bội, bị phản bội bởi những người Scotch mà tôi đã sinh ra giữa lòng họ, mà tôi bao giờ cũng ưu ái hơn người Anh. Ôi! Bọn khốn khiếp!
- Thưa ngài, bây giờ không phải là lúc trách móc mà là lúc tỏ ra ngài là vua và nhà quý tộc. Đứng lên, ngài hãy đứng lên? Vì rằng ở đây ít ra ngài cũng có ba người sẽ không phản bội ngài, ngài có thể yên tâm! A! Nếu như chúng ta có tới năm người. - Arthos lẩm bẩm, nghĩ đến d Artagnan và Porthos.
- Ông nói gì vậy? - Charles đứng lên và hỏi.
- Thưa ngài, tôi nói rằng chỉ còn có một cách. Milord de Winter chịu trách nhiệm về trung đoàn của ông hoặc na ná như vậy, ta không tranh cãi về chữ nghĩa; ông dẫn đầu quân của ông; chúng tôi đi bên cạnh Hoàng thượng; chúng ta chọc thủng những chỗ trong quân đội của Cromwell và chúng ta sẽ đi sang Scotch.
- Còn một cách nữa, - Aramis nói - đó là một người trong chúng ta mặc quần áo và cưỡi ngựa của vua, trong khi quân địch bám theo người ấy, nhà vua có lẽ đi thoát.
- Ý kiến hay lắm - Arthos nói, - và nếu Hoàng thượng muốn ban vinh dự đó cho một người trong số chúng tôi, chúng tôi sẽ rất biết ơn.
- Ông thấy lời khuyên ấy thế nào, de Winter? - Vua nói và nhìn với vẻ khâm phục hai người kia mà sự bận tâm duy nhất là chọn cho mình những nỗi nguy hiểm đe doạ nhà vua.
- Thưa Hoàng thượng, nếu như có một cách đề cứu vua thì đó chính là kiến nghị mà ông D Herblay vừa mới đề ra. Cho nên chúng tôi tha thiết xin Hoàng thượng lựa chọn ngay vì chúng ta không còn thì giờ nữa.
- Nhưng nếu tôi chấp nhận, thì đó là cái chết, ít ra cũng là một người tù tội đối với người đóng vai tôi.
- Đó là niềm vinh dự đã cứu được vua của mình! - de Winter nói.
Nhà vua nước mắt lưng tròng nhìn người bạn già của mình, tháo dải huy chương Thánh linh mà ông đã đeo để nghênh tiếp hai người Pháp đi theo mình và quàng vào cổ de Winter đang quỳ xuống để nhận cái dấu hiệu kinh khủng của tình thân hữu và lòng tin cậy của vua mình.
- Thật là chính đáng, - Arthos nói, - Ông ấy phụng sự lâu hơn chúng ta nhiều.
Nghe vậy, nhà vua quay lại nhìn rưng rưng nước mắt và nói:
- Các ông hãy đợi một lát, tôi vẫn còn hai dải huân chương để ban cho các ông.
Rồi ông đến chỗ cái tủ huân chương của chính mình lấy ra hai dải huân chương Jarretière.
Arthos vội nói:
- Những huân chương này không thể dành cho chúng tôi.
- Tại sao vậy ông? - Charles hỏi.
- Những huân chương này hầu như chỉ dành cho những bậc vương hầu mà chúng tôi chỉ là những nhà quý tộc bình thường.
- Ông thử điểm qua tất cả những ngai vàng có mặt trên mặt đắt này, - Nhà vua nói, - Và tìm xem có những trái tim nào lớn hơn trái tim của các ông không. Không, không, các ông không thừa nhận giá trị của mình nhưng tôi đây, tôi công nhận nó. Hãy quỳ xuống, bá tước.
Arthos quỳ xuống vua quàng cho anh giải huân chương từ trải qua phải như thường lệ và nâng thanh kiếm lên, rồi đáng lẽ dùng câu nói thường lệ: "Trẫm tặng thưởng huân chương này cho khanh, khanh hãy dũng cảm, trung thành và chính trực", thì vua nói:
- Ông bá tước, ông dũng cảm, trung thành và chính trực, tôi tặng thưởng huân chương này cho ông.
Rồi ông quay sang phía Aramis, vua bảo:
- Ông hiệp sỹ, đến lượt ông.
Và nghi thức cũng lại bắt đầu với những lời như vậy, trong khi de Winter nhờ các giám mã cởi chiếc áo giáp đồng đang mặc ra để trông giống vua hơn.
Trao huân chương cho Aramis xong, vua ôm hôn cả Aramis và Arthos.
Đứng trước một tấm gương tận tụy lớn lao như vậy, de Winter lấy lại mọi sức lực và can đảm của mình và nói:
- Thưa Hoàng thượng chúng tôi đã sẵn sàng.
Nhà vua nhìn ba người quý tộc và hỏi:
- Như vậy ta phải chạy trốn à?
- Thưa Hoàng thượng, - Arthos nói, - Đi trốn xuyên qua một đội quân, ở khắp các nước trên thế giới coi là công kích.
- Như vậy, - Charles nói - ta sẽ cầm kiếm ở trong tay mà chết.
- Ông bá tước, ông hiệp sỹ ơi, nếu như có bao giờ tôi còn là vua…
- Thưa Hoàng thượng, ngài đã ban vinh dự cho tôi nhiều hơn là thuộc về nhưng người quý tộc bình thường, như vậy chúng tôi mới là người mang ơn.
- Nhưng thôi ta đừng để mất thì giờ, vì ta đã để mất khá nhiều rồi đó.
Nhà vua bắt tay lần cuối cùng cả ba người, đổi mũ với de Winter, rồi đi ra.
Trung đoàn của de Winter đứng trên một nền đất cao vượt doanh trại, vua cùng với ba người bạn đi ra đó.
Doanh trại lính Scotch như đã tỉnh giấc hắn; mọi người ra khỏi lều và đến xếp hàng như để đi chiến đấu.
- Nhìn xem, - vua nói - Phải chăng họ hối hận và sẵn sàng ra trận.
- Thưa Hoàng thượng, - Arthos nói, - Nếu họ hối hận thì họ sẽ đi theo chúng ta.
- Được - vua nói, - Ta làm gì bây giờ?
- Ta hãy xem xét quân đội địch, - Arthos nói.
Cả nhóm người đều dán mắt vào cái vạch thẳng mà lúc tảng sáng họ tưởng là sương mù và bây giờ những tia nắng đầu tiên tố giác là một đạo quân bố trí chiên đấu. Không khí trong lành như thường thấy vào lúc sớm tinh mơ này. Người ta phân biệt rõ ràng những trung đoàn, những lá cờ và đến cả màu sắc các binh phục và ngựa.
Lúc ấy Arthos trông thấy trên một ngọn nhỏ hơi nhô ra phía trước phòng tuyến địch, xuất hiện một người dáng thấp, đậm và nặng nề. Người ấy đứng giữa mấy sỹ quan và đang chĩa ống nhòm sang nhóm người có vua đứng.
- Người ấy, - Aramis nói, - Có quen biết Hoàng thượng không?
Charles mỉm cười, nói:
- Người ấy là Cromwell.
- Vậy thì ngài hãy sụp mũ xuống để ông ta khỏi nhận ra sự thay thế.
- Ôi, - Arthos nói, - Chúng ta đã mất nhiều thì giờ rồi.
- Vậy thì, - Vua nói, - Ban mệnh lệnh và ta đi thôi.
- Ngài ra lệnh chứ? - Arthos hỏi.
- Không, tôi phong ông làm trung tướng, - Vua nói.
- Vậy thì, - Arthos nói, hãy nghe đây, Milord de Winter, thưa Hoàng thượng, xin ngài hãy đứng xa ra; điều chúng tôi sắp nói ra đây không liên can đến Hoàng thượng.
Vua mỉm cười và lùi lại ba bước.
- Tôi đề nghị như thế này, - Arthos nói. - Ta chia trung đoàn của ta ra làm hai đội kỵ binh ông dẫn đầu đội thứ nhất, Hoàng thượng và chúng tôi dẫn đầu đội thứ hai. Nếu không có gì đến cản trở lối đi của chúng ta, thì tất cả chúng ta cùng công kích để chọc thủng phòng tuyến địch và ta sẽ nhảy xuống sông Tyne, rồi lội hoặc bơi qua. Trái lại nếu quân địch ngăn cản chúng ta trên đường, thì ông và quân của ông hãy liều chết cho đến người cuối cùng; còn chúng tôi và vua tiếp tục tiến theo đường của mình. Một khi chúng tôi tới bờ sông, nếu đội kỵ binh của ông làm tròn nhiệm vụ của mình thì dù địch có đông dày đến ba hàng chúng tôi cũng đánh bằng được.
- Lên ngựa! - Winter nói.
- Lên ngựa! - Arthos nói, - mọi việc đã được tính trước và quyết định rồi.
- Vậy thì, - vua nói, - Các ông tiến lên! Và ta sẽ tập hợp nhau lại bằng mật khẩu xưa kia của Pháp: Montjoie và Saint-Denis! Tiếng kêu của nước Anh bây giờ đang được nhắc lại bởi quá nhiều kẻ phản bội.
Mấy người lên ngựa, vua lên ngựa của de Winter, de Winter lên ngựa của vua, rồi de Winter đứng lên hàng đầu của đội kị binh thứ nhất vua với Arthos bên phải và Aramis bên trái, đứng lên hàng đầu đội kỵ binh thứ hai.
Tất cả quân đội Scotch nhìn những sự chuẩn bị đó, với sự bất động và im lặng của nỗi hổ thẹn.
Có mấy viên chỉ huy đi ra khỏi hàng ngũ và bẻ gãy gươm kiếm của mình.
- Hay! - Vua nói, - Điều đó an ủi ta không phải tất cả họ là phản bội.
Lúc ấy tiếng de Winter vang lên, ông hô:
- Tiến lên!
Đội kỵ binh thứ nhất chuyển động, đội thứ hai nối theo và đi xuống khỏi nền đất cao.
Một trung đoàn giáp sĩ địch quân số gần bằng bên này đang triển khai từ phía sau ngọn đồi và rạp ngựa phóng sang nghinh chiến.
Vua chỉ sang Arthos và Aramis xem diễn biến đó.
- Thưa ngài, - Arthos nói, - Trường hợp này đã được tính trước, nếu như quân sĩ của de Winter làm nhiệm vụ của mình, thì sự kiện này sẽ cứu chúng ta, chứ không phải làm hại chúng ta.
Giữa lúc ấy vượt lên tất cả tiếng ngựa phi ngựa hí, tiếng de Winter vang lên:
- Tuốt kiếm ra tay!
Nghe mệnh lệnh ấy tất cả các thanh kiếm tuốt ra khỏi vỏ như những ánh chớp.
Say sưa vì tiếng ồn ào và quang cảnh đó, vua cũng hô lên:
- Nào, các ông tuốt kiếm ra tay.
Nhưng nghe mệnh lệnh ấy mà vua làm gương, chỉ có Arthos và Aramis tuân theo.
- Chúng ta bị phản bội rồi, - Vua nói nhỏ.
- Khoan đã, Arthos nói. - Có lẽ họ không nhận ra tiếng hoàng thượng và đợi mệnh lệnh của viên chỉ huy đội của họ.
Họ lại không nghe thấy mệnh lệnh của đại tá họ hay sao! Nhưng xem kìa!- Vua kêu lên và ghìm ngựa đứng phắt lại khiến nó khuỵu chân xuống và vua phải túm lấy dây cương ngựa của Arthos.
- A! a, đồ khốn mạt! Đồ phản trắc! - de Winter la lên trong khi quân của ông rời hàng ngũ chạy tản mác ra ngoài cánh đồng.
Chỉ có khoảng mười lăm người ở lại quanh ông và đợi chờ cuộc công kích của đội giáp sĩ của Cromwell.
- Ta hãy ra cùng chết với họ - Vua nói.
- Ta cùng chết! - Arthos và Aramis cùng nói.
- Tất cả những trái tim trung thành hãy đến với tôi! - de Winter hô to.
- Tiếng hô đó vang đến tai đôi bạn, họ phóng vút ngựa lên.
- Không dung tha! - Một lời hô bằng tiếng Pháp bỗng vang lên đáp lại lời hô của de Winter một giọng nói khíển họ rùng mình.
Còn de Winter nghe giọng nói đó tái người đi và như hoá đá.
Gíọng nói ấy là của một kị sĩ cưỡi trên một con tuấn mã màu đen, dẫn đầu một trung đoàn Anh mà trong khi công kích thật hăng hái anh ta đã vượt trước đến mười bước.
- Chính hắn? - de Winter lẩm bẩm, mắt nhìn trân trân và buông thõng thanh kiếm bên mình. Trông thấy dải huân chương màu lơ và con ngựa màu vàng nhạt của de Winter, nhiều người đã lầm lẫn và kêu:
- Vua! Vua.
- Không phải, không phải vua đâu!- Người kỵ sĩ nọ kêu lên - Đừng có lầm lẫn. Có phải không, Milord de Winter, rằng ông không phải là vua? Có phải ông là bác của tôi không?
Và cùng lúc ấy, Mordaunt, vì chính là hắn chĩa nòng súng ngắn vào de Winter, súng nổ, viên đạn xuyên qua ngực của vị quí tộc già khiến ông nảy bật người trên yên và ngã vào trong tay Arthos.
Ông lẩm bầm:
- Kẻ phục thù!
- Mi hãy nhớ đến mẹ ta - Mordaunt vừa hét lên vừa nhảy băng qua do ngựa phóng quá đà.
- Đồ khốn kiếp! - Aramis vừa kêu vừa nã một phát súng gần như sát đầu nòng vào Mordaunt do hắn đi sát gần anh; nhưng chỉ có kíp nổ còn đạn xịt.
Lúc ấy cả trung đoàn địch xông vào đoàn người đã chống cự.
Hai người Pháp bị vây quanh dồn ép, bao trùm. Sau khi biết chắc là de Winter chết, Arthos buông xác ông ta tuốt kiếm và bảo bạn.
- Nào, Aramis, vì danh dự của nước Pháp.
Và hai lính Anh ở sát gần hai nhà quí tộc ngã gục ngay xuống bị đánh tử thương.
Ngay lúc ấy một tiếng hò la khủng khiếp vang lên và ba chục lưỡi kiếm lấp lánh trên đầu họ.
Bỗng nhiên một người lao ra từ giữa hàng ngũ quân Anh mà anh ta xô đẩy và nhảy bổ vào Arthos, ôm chặt lấy anh bằng đôi tay gân guốc của mình, giằng lấy thanh kiếm của anh và nói vào tai anh:
- lm lặng! Đầu hàng đi! Đầu hàng tôi tức là không đầu hàng.
Một người khổng lồ cũng nắm lấy hai cổ tay Aramis và ôm chặt lấy anh khiến anh cố vùng vẫy mà không thoát ra được.
- Đầu hàng đi! - Người ấy nói và nhìn anh chằm chặp.
Aramis ngẩng đầu lên và Arthos quay lại:
D art…, - Arthos vừa kêu lên thì bị chàng Gascon bịt chặt lấy miệng:
- Tôi xin hàng? - Aramis vừa nói vừa đưa thanh gươm cho Porthos.
- Bắn! Bắn! - Mordaunt trở lại chỗ đôi bạn và hô.
- Tại sao lại bắn? - Viên đại tá nói, - Tất cả mọi người đều đầu hàng rồi.
- Con trai của Milady, - Arthos bảo d Artagnan.
- Tôi đã nhận ra nó.
- Tên mục sư đấy, - Porthos bảo Aramis.
- Tôi biết rồi.
Cùng lúc ấy, các hàng ngũ bắt đầu dãn mở ra.
D Artagnan cầm lấy cương ngựa Arthos, và Porthos cầm cương ngựa Aramis. Mỗi người cố đưa tù binh của mình ra xa bãi chiến trường.
Cuộc chuyển dịch ấy để lộ nơi de Winter đã ngã xuống. Với bản năng thù hằn, Mordaunt đã tìm lại ông, từ trên lưng ngựa cúi xuống nhìn ông với một nụ cười khả ố.
Arthos vốn điểm tĩnh là thế, thò tay vào bao súng hãy còn súng.
- Anh làm gì thế? - D Artagnan hỏi.
- Hãy để tôi giết nó.
- Không được có một cử chỉ nào khiến người ta có thể cho rằng anh biết nó, nếu không thì cả bốn chúng ta cùng đi đời.
Rồi quay về phía gã thanh niên, anh nói:
- Bắt được món bở! Ông bạn Mordaunt này, bắt được món bở!
- Ông du Vallon và tôi mỗi người đều có một tù binh: những người được tặng huân chương Jarretière.
Mordaunt nhìn Arthos và Aramis bằng cặp mắt đỏ ngàu và nói:
- Nhưng mà tôi thấy hình như đây là những người Pháp.
- Thực tình tôi chẳng biết gì cả, - D Artagnan nói và hỏi Arthos - Ông là người Pháp phải không?
- Đúng, tôi là người Pháp, - Arthos trịnh trọng đáp.
- Thế thì ông bạn thân mến ơi. Ông đang là tù binh của người đồng quốc đấy.
- Nhưng vua đâu? - Arthos băn khoăn hỏi - Vua đâu?
- Ê! Chúng tôi bắt giữ vua rồi.
- Phải, - Aramis nói, - Bằng một sự phản bội đê hèn.
Porthos bấm tay bạn và mỉm cười nói:
- Ồ, thưa ông, chiến tranh tiến hành bằng cả vũ lực lẫn sự khôn ngoan. Trông kìa!
Quả nhiên lúc ấy người ta trông thấy đội kỵ binh phải bảo vệ cuộc rút chạy của Charles đang tiến ra đón trung đoàn Anh; họ quây quanh vua đang đi bộ một mình trong khoảng trống. Ông hoàn trông bình thản, nhưng người ta thấy rõ ông đã phải chịu đựng đau khổ như thế nào để tỏ ra bình thản; vì vậy mồ hôi chảy ròng ròng trên trán ông và ông lau thái dương và môi ông bằng một chiếc khăn tay cứ mỗi lần khăn rời khỏi miệng lại thấy nhuộm máu.
- Đây là Nabuchodonosor(1)! - Một giáp sĩ cựu thanh giáo của Cromwell trông thấy kẻ mà người ta gọi là bạo chúa kêu lên.
- Ông nói gì vậy, Nabuchodonosor à? - Mordaunt nói với một nụ cười ghê rợn. - Không đâu, đây là vua Charles I, ông vua Charles tử tế đã tước đoạt của các thần dân để thừa hưởng.
Charles ngước mắt nhìn xem kẻ láo xược nào nói như vậy, nhưng không nhận ra hắn. Tuy nhiên vẻ uy nghiêm bình thản và sùng tín của gương mặt ông khiến mắt của Mordaunt phải cụp xuống.
Nhìn thấy hai người bạn quí tộc, một ở trong tay d Artagnan, một ở trong tay Porthos, vua nói:
- Xin chào các ông! Ngày hôm nay tệ hại quá, nhưng ơn Chúa, không phải lỗi tại các ông. Ông bạn già de Winter của tôi đâu?
Hai người quí tộc quay đầu lại và im lặng.
- Hãy tìm xem Straffordd đâu(2) ở đâu, - Mordaunt nói bằng cái giọng the thé.
Charles rùng mình: tên quỷ sứ đã đánh trúng. Strafford là nỗi ân hận đời đời, là bóng đen ban ngày, là ma quái ban đêm của ông: Vua nhìn xung quanh và thấy một xác chết dưới chân mình, đó là de Winter.
Charles không kêu một tiếng, không rỏ một giọt nước mắt, song mặt ông tái nhợt hẳn. Ông quỳ một chân xuống đất, nâng đầu de Winter dậy và hôn lên trán. Rồi tháo dải huân chương Thánh linh mà ông đã quàng vào cổ bạn, ông thành kính đặt lên ngực mình.
- De Winter bị giết rồi à? - D Artagnan dán mắt vào xác chết và hỏi.
- Ừ, bởi tay thằng cháu ông ấy, - Arthos nói.
- Ồ, thế thì người đầu tiên trong chúng ta ra đi, - D Artagnan lẩm bẩm, - Đó là một con người dũng cảm, cầu cho ông được yên nghỉ.
Vua vừa mới lấy lại những huy hiệu của vương vị xong, thì viên đại tá chỉ huy trung đoàn tiến lại và bảo:
- Charles Stuart, tù binh của chúng tôi, có đầu hàng không?
- Đại tá Thomlison, - Charles nói, - Nhà vua không đầu hàng đâu; con người nhượng bộ trước vũ lực, có thế thôi.
- Đưa gươm đây.
Vua rút thanh gươm ra và tì vào đầu gối mà bẻ gẫy.
Lúc ấy một con ngựa không người cưỡi, mép sùi bọt, mũi hếch ra, chạy tới. Nhận ra chủ, nó đứng lại bên ông và mừng rỡ hí vang; đó là con Arthus.
- Nào các ông hãy dẫn tôi đi, tuỳ các ông đi đâu thì đi.
Rồi vội vàng quay đầu lại, ông nói:
- Khoan đã, hình như Winter cựa quậy, nếu ông ta còn sống, thì vì những điều thiêng liêng nhất mà các ông còn có trong lòng, chớ nên bỏ vị quý tộc cao thượng ấy.
- Ồ, hãy yên trí, vua Charles ạ, - Mordaunt nói, - Viên đạn đã xuyên qua tim.
D Artagnan vội bảo Arthos và Aramis:
- Đừng nói một lời nào, đừng có một cử chỉ nào, đừng nhìn sang Porthos, vì rằng Milady không chết, và linh hồn mụ ta đang sống trong thể xác thằng quỷ sứ kia!
Phân đội kỵ binh tiến về thành phố, mang theo chiến lợi phầm đế vương; nhưng đi được nửa đường thì một phụ tá của tướng Cromwell mang lệnh đến bảo đại tá Thomlison dẫn vua đến Holdenby-Castle.
Đồng thời những người liên lạc phóng đi tất cả các ngả đường để báo tin cho nước Anh và tất cả châu Âu rằng Charles Stuart đã là tù binh của tướng Olivier Cromwell.
------------------------
Chú thích:
(1) vua xứ Babylone từ 605 đến 562 trước C.N., đã mở nhiều cuộc hành quân chống Ai Cập, Liđi, xâm lấn Ả Rập, phá huỷ vương quốc của Juyđa cùng kinh đó là Jêrudalem
(2) Tể tướng Anh, sủng thần của vua, bị nghị viện xử tử mà vua Charles I không dám can thiệp.
- Các ông có đến chỗ tướng quân không? - Mordaunt hỏi d Artagnan và Porthos. - Các ông biết đấy, ngài triệu các ông tới sau công việc này.
- Trước hết, - D Artagnan nói - chúng tôi đưa tù binh của chúng tôi đến nơi an toàn. Ông có biết rằng những nhà quí tộc ấy đáng giá mỗi người một nghìn năm trăm pistol không?
Mordaunt cố kiềm chế mà vẻ hung dữ vẫn bật ra trong ánh mắt khi hắn nhìn hai người kia mà nói:
- Ồ cứ yên trí, các kỵ sĩ của tôi sẽ canh giữ họ và canh giữ cẩn thận là khác; tôi xin bảo đảm với các ông về họ.
- Tự tôi canh giữ còn cẩn thận hơn, - D Artagnan nói, - Vả chăng, cần cái gì nào; một căn phòng với những người canh gác, hay là lời nói đơn giản hơn rằng họ không tìm cách chạy trốn đâu.
- Tôi sẽ thu xếp việc này, rồi chúng tôi sẽ có vinh dự đến trình diện tướng quân và hỏi ngài xem có điều gì chuyển đến Các hạ của chúng tôi không.
- Thế các ông định ra đi ngay à? - Mordaunt hỏi.
- Sứ mệnh của chúng tôi đã hoàn thành, chẳng có gì giữ chúng tôi ở lại nước Anh nữa, ngoài hảo ý của con người vĩ đại mà chúng tôi được phải đến.
Gã thanh niên cắn môi và ghé vào tai viên đội mà nói:
- Ông hãy theo dõi những người này thật sát, khi nào biết rõ họ ở đâu ông hãy đến đợi tôi ở cổng thành.
Viên đội ra hiệu tuân lệnh.
- Thế rồi, đáng lẽ đi theo đám tù binh bị dẫn vào thành phố, Mordaunt đi về phía ngọn đồi nơi Cromwell đã xem trận đánh và vừa mới sai dựng lều cho mình.
Cromwell đã cấm không để cho ai vào chỗ mình; nhưng người lính canh biết rõ Mordaunt là một trong số những người thân tín nhất của vị tướng, nên nghĩ rằng lệnh đó không nhằm anh tả.
Thế là Mordaunt vạch tấm rèm cửa lều và trông thấy Cromwell ngồi trước một cái bàn tì mặt vào hai bàn tay và quay lưng lại.
Chẳng biết ông có nghe tiếng Mordaunt đi vào không, những Cromwell không ngoảnh lại. Mordaunt đứng lại gần cửa.
Cuối cùng, sau một lát, Cromwell ngẩng vầng trán nặng nề lên và linh cảm như thấy ai đó, ông thong thả quay đầu lại. Trông thấy gã thanh niên, ông báo:
- Tôi đã bảo là tôi muốn ngồi một mình cơ mà?
- Thưa ngài, tôi tưởng điều ngăn cấm đó không nhằm vào tôi, - Mordaunt nói, - Tuy nhiên, nếu ngài ra lệnh, tôi sẵn sàng đi ra ngay.
- A, ông đấy à, Mordaunt! - Cromwell nói, như bằng sức mạnh của ý chí mình, vén tấm màn đang che cặp mắt ông - Vì ông đã đến đây, tốt thôi, hãy ở lại.
- Tôi xin dâng ngài những lời chúc mừng của tôi - Mordaunt nói.
- Những lời chúc mừng của ông? Về việc gì?
- Về việc bắt được Charles Stuart. Bây giờ ngài là chúa tể của nước Anh.
- Tôi còn hơn thế nữa kia, cách đây hai tiếng đồng hồ, - Cromwell nói.
- Thế là thế nào, thưa tướng quân?
- Nước Anh đã cần đến tôi để bắt tên bạo chúa, bây giờ tên bạo chúa đã bị bắt. Ông có trông thấy hắn không?
- Thưa ngài, có ạ.
- Thái độ hắn thế nào.
Mordaunt ngập ngừng, rồi chân lý như tự bật ra khỏi miệng hắn:
- Bình thản và đường hoàng.
- Hắn nói gì?
- Vài câu từ biệt bạn bè.
"Bạn bè à? - Cromwell lẩm bẩm, - Thì ra hắn, hắn cũng có bạn bè"?
Rồi cao giọng:
- Có chống cự không?
- Thưa ngài không, hắn ta bị mọi người bỏ rơi, trừ ba bốn người; cho nên hắn không có cách gì chống cự.
- Hắn nộp gươm cho ai?
- Hắn không nộp mà bẻ gẫy.
- Hắn ta làm thế là hay; nhưng đáng lẽ đừng bẻ mà để dùng thì hay hơn và có lợi hơn.
Một lát im lặng.
Rồi Cromwell nhìn chằm chằm Mordaunt và hỏi:
- Hình như viên đại tá chỉ huy trung đoàn đứng bảo vệ cho nhà vua, cho Charles, bị giết rồi phải không?
- Phải đó, thưa ngài.
- Bị ai giết? - Cromwell hỏi.
- Tôi ạ.
- Tên ông ta là gì?
- Lord de Winter.
- Bác của ông ư? - Cromwell kêu lên.
- Bác của tôi - Mordaunt nói, - Những kẻ phản bội nước Anh không phải họ hàng nhà tôi.
Cromwell trầm ngâm một lắt, nhìn gã thanh niên kia, rồi với một nỗi u buồn sâu sắc mà Shakespeare miêu tả thật tài tình; ông nói:
- Mordaunt, ông là một bộ hạ ghê gớm.
- Khi Chúa đã ra lệnh, - Mordaunt nói, - Không có gì phải mặc cả với mệnh lệnh của Người. Abraham đã giơ dao lên đầu Isaac, mà Isaac là con trai của ông ta.
- Phải, - Cromwell nói, - Nhưng Chúa đã không để hoàn thành sự hy sinh ấy.
- Tôi đã nhìn xung quanh tôi, - Mordaunt nói, - Và tôi chẳng nhìn thấy dê lớn dê con đứng lại trong các bụi cây ngoài cánh đồng.
Cromwell nghiêng mình nói:
- Mordaunt, ông là kẻ dũng mãnh trong số những kẻ dũng mãnh.
- Thế còn mấy người Pháp họ xử sự thế nào.
- Như những người nghĩa hiệp.
- Phải rồi, phải rồi, - Cromwell lẩm bẩm. - Những người Pháp chiến đấu tốt và quả thật nếu ống nhìn thấy của tôi tốt, hình như tôi đã trông thấy họ ở hàng đầu.
- Đúng là họ ở hàng đầu.
- Tuy nhiên còn sau ông, - Cromwell nói.
- Đó là lỗi tại những con ngựa của họ, chứ không phải tại họ.
Lại im lặng một lát.
- Thế còn bọn Scotch?
- Họ đã giữ lời cam kết, - Mordaunt đáp, - Và án binh bất động.
- Bọn khốn nạn! - Cromwell lẩm bẩm.
- Sĩ quan của họ xin gặp ngài, - Mordaunt nói.
- Tôi không có thì giờ. Đã trả tiền họ chưa?
- Đêm nay ạ.
- Họ nói hãy đi đi, hãy trở về núi non của họ mà che giấu nỗi sỉ nhục của họ, nếu như núi non đủ cao đề che giấu; tôi chẳng có việc gì với họ nữa và họ cũng chẳng có việc gì với tôi nữa. Và bây giờ hãy đi đi, Mordaunt.
- Trước khi ra đi, - Mordaunt nói, - Thưa chủ soái tôi có mấy điều muốn hỏi và một điều muốn cầu xin ngài.
- Với tôi ư?
Mordaunt cúi mình và nói:
- Tôi đến với ngài, vị anh hùng của tôi, người che chở tôi, người cha của tôi, và tôi xin nói: Thưa chủ soái, ngài có hài lòng về tôi không?
Cromwell ngạc nhiên nhìn anh ta.
Gã thanh niên vẫn thản nhiên.
- Có, - Cromwell nói, - Từ khi biết ông, tôi thấy ông không những đã làm nhiệm vụ của mình, mà còn làm hơn thế nữa; ông là người bạn trung thành, người thương lượng khôn khéo, người lính dũng cảm.
- Ngài có nhớ rằng, tôi là người đầu tiên đưa ra ý kiến thương lượng với bọn Scotch về việc bỏ rơi vua của họ
- Phải, ý kiến ấy là của ông, đúng thế. Tôi đã chưa đẩy lòng khinh bỉ những con người đi tới chỗ ấy.
- Tôi có phải sứ giả tốt khi sang Pháp không?
- Phải, và tôi đã đạt được những gì tôi yêu cầu ở Mazarin.
- Có phải tôi đã luôn luôn chiến đấu hăng hái vì quang vinh và lợi ích của ngài không?
- Có lẽ quá hăng hái là khác, và đó là điều tôi đã khiển trách ông lúc nãy. Nhưng mà ông muốn đi tới đâu với tất cả những câu hỏi?
- Thưa chúa công, để thưa với ngài rằng đã đến lúc chỉ cần một lời nói của ngài có thể thưởng công cho tất cả mọi việc phụng sự của tôi.
- A! - Olivier nói với một cử chỉ hơi khinh thị, - Đúng đấy tôi quên rằng mọi việc phục vụ đều cần được thù lao, ông đã phục vụ tôi và chưa được đền bù.
- Thưa ngài, tôi có thể được đền bù ngay bây giờ và vượt cả những điều tôi mong ước.
- Thế là thế nào?
- Tôi đã có phần thưởng trong tầm tay và hầu như tôi đã nắm được.
- Phần thưởng gì vậy? - Cromwell hỏi. - Người ta đã hiến vàng cho ông ư? Ông yêu cầu một cấp bậc chăng? Hay là ông muốn cai trị một vùng?
- Thưa ngài, ngài có chấp nhận điều thỉnh cầu của tôi không ạ?
- Phải xem đó là cái gì đã chứ!
- Thưa ngài, khi ngài bảo tôi: Hãy thực hiện một mệnh lệnh, có bao giờ tôi trả lời: Hãy xem mệnh lệnh gì nào?
- Nếu như điều mong ước của ông không thể nào thực hiện được thì sao?
- Khi ngài có một điều mong muốn và giao cho tôi phải hoàn thành, có bao giờ tôi đáp lại rằng: Không thể nào thực hiện được.
Nhưng một yêu cầu gì mà phải rào trước đón sau đến thế.
- A, xin ngài cứ yên tâm, - Mordaunt nói với vẻ đơn giản - nó chẳng làm ngài phá sản đâu.
- Thôi này, - Cromwell nói, - Tôi hứa sẽ chấp nhận yêu cầu của ông chừng nào nó ở trong quyền hạn của tôi. Nói đi.
- Thưa ngài, - Mordaunt đáp, - Sáng nay người ta bắt được hai tủ binh, ngài cho tôi xin hai người đó.
- Chắc là họ dạm tiền chuộc lớn lắm phải không? - Cromwell nói.
- Trái lại, thưa ngài, tôi chắc rằng họ nghèo.
- Thế họ là bạn bè của ông à?
- Vâng, thưa ngài, - Mordaunt reo lên. - Đó là bạn của tôi, bạn thân thiết mà tôi có thể hy sinh tính mạng của tôi cho họ.
- Được, Mordaunt ạ, - Cromwell nói, với một cử chỉ vui vẻ ông lấy lại được quan niệm tốt hơn về người thanh niên. - Được, tôi cho anh, tôi cũng chẳng muốn biết họ là những ai; đấy anh muốn làm gì họ thì làm.
- Xin cảm ơn ngài, - Mordaunt reo lên. - Xin cảm ơn ngài! Sinh mạng tôi nay thuộc về ngài, và nếu có mất nó đi, tôi vẫn còn chịu ơn ngài, xin cảm ơn, ngài vừa mới trả công cho tôi thật hậu hĩ.
Và hắn quỳ xuống chân Cromwell. Vị tướng thanh giáo không muốn hoặc làm ra bộ không muốn để người ta bày tỏ kính lễ với mình như đối với nhà vua, ông không chịu nhưng gã thanh niên cứ nắm lấy tay ông mà hôn.
Khi hắn đứng lên, Cromwell ngăn lại và hỏi:
- Sao? Thế không xin những phần thưởng khác à? Không xin vàng bạc ư? Không xin cấp bậc ư?
- Thưa chúa công, ngài đã cho tôi tất cả những gì ngài có thể cho được, và kể từ ngày hôm nay, tôi coi như ngài hết nợ với tôi rồi.
Và Mordaunt lao ra khỏi lều của vị tướng với một nỗi vui mừng tràn ngập cả trái tim và đôi mắt của mình.
Cromwell nhìn theo. Ông lẩm bẩm:
- Hắn đã giết chết bác hắn! Chao ôi! Những bộ hạ của ta là những của gì thế này? Tên này không đòi hỏi gì hoặc làm như không đòi hỏi gì, có lẽ trước Thượng đế hắn đã yêu cầu nhiều hơn cả những kẻ sẽ đến đòi hỏi vàng bạc, các tỉnh thành và bánh ăn của những người cùng khổ; chẳng có kẻ nào phụng sự ta không công. Charles I là tù binh của ta có lẽ còn có bạn bè, còn ta, ta chẳng có bạn bè nào cá.
Và thở dài, ông lại tiếp tục nỗi trầm ngâm bị Mordaunt ngắt quãng.
Trong khi Mordaunt đi về phía lều của Cromwell, thì d Artagnan và Porthos dẫn tù binh của anh đến ngôi nhà mà người ta thu xếp cho các anh ở tại Newcastle.
Việc Mordaunt dặn dò viên đội không thoát khỏi mắt chàng Gascon: cho nên anh cũng đưa mắt dặn dò Arthos và Aramis hết sức thận trọng. Vì vậy Arthos cứ lặng lẽ đi bên cạnh những người chiến thắng; điều đó cũng chẳng khó vì mỗi người đã có bao nhiêu điều phải suy nghĩ và giải đáp.
Nếu như có người phải kinh ngạc thì đó là Mousqueton, khi đứng ở ngưỡng cửa, hắn trông thấy bốn người bạn đang đi. Có viên đội và khoảng một chục người đi kèm. Hắn giụi mắt không thể tin đó là Arthos và Aramis, nhưng rồi hắn buộc phải thừa nhận sự thật hiển nhiên. Cho nên hắn sắp cuống quít lên với những lời cảm thán, thì Porthos bắt hắn im lặng ngay bằng một cái trừng mắt ghê gớm không còn cho phép bàn cãi gì nữa.
Mousqueton đứng sững ra ở cửa đợi chờ sự giải thích một việc kỳ lạ đến thể; điều làm đảo lộn đầu óc hắn hơn cả là cả bốn người bạn có vẻ như không nhìn nhận nhau nữa.
Ngôi nhà mà d Artagnan và Porthos dẫn Arthos và Aramis tới là do tướng Cromwell thu xếp cho các anh đến ở từ hôm trước, nó ở vào góc phố, có một khoảng vườn và chuồng ngựa ngoặt sang phố bên.
Các ở cửa ở tầng sát đất có chắn song sắt như thường thấy ở các thị xã nhỏ, nên trông giống hệt cửa sổ nhà tù.
Hai người bạn đưa tù binh vào nhà trước và đứng ở ngưỡng cửa.
Sau khi sai Mousqueton dắt ngựa vào chuồng, Porthos nói:
- Tại sao chúng ta không vào cùng họ.
- Vì rằng, - D Artagnan đáp, - Trước hết phải xem viên đội kia và tám hay mười người cùng đi muốn gì ở chúng ta đã.
Viên đội cùng người của hắn vào đóng ở trong vườn.
D Artagnan hỏi họ muốn gì và tại sao lại đóng ở đó. Viên đội đáp.
- Chúng tôi được lệnh giúp các ông canh giữ tù binh.
Chẳng có gì phải nói về điều ấy, trái lại đó là một sự quan tâm nhã nhặn mà mình phải tỏ ra biết ơn mới đúng, d Artagnan bèn cảm ơn viên đội và cho hắn một đồng cuaron để uống rượu mừng sức khỏe tướng Cromwell.
Viên đội nói rằng những người thanh giáo không uống rượu và bỏ đồng tiền vào túi mình.
– Ôi, d Artagnan thân mến ơi, - Porthos nói, - thật là một ngày ghê sợ!
- Cậu nói gì thế, Porthos? Ngày chúng ta tìm lại được bạn bè mà cậu bảo là ngày ghê sợ?
- Ừ? Nhưng mà trong một hoàn cảnh như thế này ư?
- Đúng là hoàn cảnh rắc rối thật, - D Artagnan nói, - Nhưng không sao, ta hãy vào nhà và cố nhìn cho sáng tỏ hơn một chút tình huống của chúng ta.
- Tình huống rắc rối lắm, - Porthos nói, - Và bây giờ tôi mới hiểu vì sao Aramis dặn đi dặn lại tôi là phải bóp cổ cái tên Mordaunt ghê tởm ấy.
- Im nào, - D Artagnan bảo, - Chớ có nói cái tên ấy ra.
- Nhưng mình nói tiếng Pháp, mà họ lại là người Anh cơ mà.
D Artagnan nhìn Porthos với vẻ khâm phục, mà một con người biết điều không thể từ chối trước những điều dị thường đủ loại.
Rồi do Porthos nhìn lại anh mà chẳng hiểu tý gì về sự kinh ngạc của anh, anh đẩy Porthos và bảo:
- Ta vào thôi.
Porthos vào trước, d Artagnan vào sau, anh đóng cửa lại cẩn thận rồi lần lượt ôm hôn hai người bạn.
Arthos buồn rũ rượi, Aramis hết nhìn Porthos lại nhìn d Artagnan mà chẳng nói một lời, nhưng cái nhìn của anh truyền cảm đến nỗi d Artagnan hiểu rõ. Anh nói:
- Các anh muốn biết làm thế nào mà chúng tôi lại ở đây phải không? Trời ơi! Thật là dễ đoán. Mazarin đã phải chúng tôi mang một bức thư cho tướng Cromwell.
- Nhưng thế nào mà cậu lại ở bên cạnh Mordaunt. - Arthos nói, - Mordaunt mà tôi đã dặn cậu phải đề phòng, hả d Artagnan?
- Và tôi đã dặn cậu là phải bóp cổ, hả Porthos! - Aramis nói theo.
- Vẫn là do Mazarin. Cromwell cử Mordaunt sang gặp Mazarin; Mazarin sai chúng tôi đến Cromwell. Có định mệnh trong tất cả các chuyện này.
- Phải, d Artagnan, cậu nói đúng. Một định mệnh chia rẽ chúng ta và làm hại chúng ta. Vậy thì Aramis, ta không bàn đến nữa, và chúng ta hãy sửa soạn chịu đựng số phận của chúng ta.
- Mẹ kiếp! - D Artagnan nói, - Trái lại, ta cứ bàn chứ; bởi vì đã thoả thuận một lần cho mãi mãi rằng chúng ta bao giờ cũng bên nhau dù trong những mục đích trái ngược nhau.
- Ồ phải, rất trái ngược nhau! - Arthos mỉm cười nói, bởi vì tôi xin hỏi cậu, cậu phục vụ mục đích gì ở đây? A! d Artagnan, hãy xem tên Mazarin khốn khiếp dùng cậu vào việc gì. Cậu có biết rằng hôm nay cậu phạm tội gì không? Tội bắt vua, sỉ nhục vua, giết vua.
- Ồ, ồ! - Porthos nói, - Anh tưởng như vậy ư?
- Arthos, anh nói quá lên đây, - D Artagnan, - Chúng tôi không đến nỗi như thế đâu.
- Ồ, lạy Chúa, trái lại chúng tôi nói đúng đấy. Tại sao lại bắt giũ một ông vua. Khi người ta muốn kính trọng ông như một vị chủ, người ta không mua ông như mua một kẻ nô lệ. Cậu tưởng rằng Cromwell trả giá ông hai trăm nghìn livres là để đặt lại ông lên ngôi đấy chứ? Các bạn ạ, họ sẽ giết vua, hãy tin chắc như vậy và nó vẫn là cái tội nhỏ nhất họ có thể phạm. Thà chém đầu còn hơn là sỉ nhục một ông vua.
- Tôi chẳng bảo là không, - D Artagnan nói, - Dù sao đó là điều có thể xảy ra, nhưng tất cả những chuyện ấy có làm gì chúng tôi đâu? Tôi đến đây vì tôi là người lính, vì tôi phục vụ những người chủ của tôi, nghĩa là những người trả lương cho tôi. Tôi đã thề phục tùng và tôi phục tùng; nhưng các anh, các anh chẳng thể thốt gì tại sao các anh lại đến đây; và các anh phục vụ lợi ích gì nào?
- Lợi ích thiêng liêng nhất trên đời này, - Arthos nói. – Lợi ích của hoạn nạn, của vương quyền và của tôn giáo. Một người bạn một người vợ, một người con gái đã thiết tha kêu gọi chúng tôi đến giúp đỡ họ. Chúng tôi đã giúp đỡ họ theo khả năng nhỏ mọn của chúng tôi và Chúa sẽ chứng giám cho chúng tôi là có tâm mà thiếu lực. D Artagnan ạ, cậu có thể nghĩ theo cách khác và xem xét vấn đề theo một kiểu khác, bạn ạ. Tôi không ngăn cản cậu đâu, nhưng tôi trách cứ cậu.
- Ô, ô! - D Artagnan đáp, - Ông Cromwell là người Anh, chống lại vua của ông ấy là người Scotch, thì rốt cuộc có làm gì tôi đâu?
- Tôi là người Pháp, tất cả những chuyện ấy chẳng liên quan gì đến tôi Tại sao anh lại bắt tôi chịu trách nhiệm?
- Thôi, ta hãy đi vào thực chất, - Porthos bảo.
Arthos lại nói:
- Bởi vì tất cả những người quý tộc đều là anh em, bởi vì cậu là nhà quý tộc, bởi vì vua ở tất cả các nước đều là những người cao nhất trong những nhà quý tộc; bởi vì đám dân chúng mù quáng, bội bạc và tồi tệ luôn luôn thích hạ thấp những gì cao hơn mình; và chính cậu, d Artagnan con người của giới lãnh chúa cổ, con người có tên đẹp đẽ, có tay kiếm sắc bén, cậu đã góp phần nộp một ông vua cho bọn buôn bán rượu bia, bọn thợ may, bọn đánh xe! A! D Artagnan là một người lính, có thể cậu đã làm tròn nhiệm vụ, nhưng là nhà quý tộc cậu là người phạm tội, tôi xin nói với cậu như vậy.
D Artagnan nhai một chiếc cọng hoa, không trả lời và thấy khó chịu, bởi vì khi tránh cái nhìn của Arthos anh gặp cái nhìn của Aramis.
- Còn cậu Porthos, - Bá tước tiếp lời, như ái ngại cho sự bối rồi của d Artagnan, - Cậu là tấm lòng tốt nhất, ngươi bạn tốt nhất người lính tốt nhất mà tôi được biết; cậu mà tâm hồn khiến cậu xứng đáng sinh ra trên những phẩm cấp của một triều đình và sớm muộn sẽ được một ông vua thông minh thưởng công; Porthos thân mến của tôi ơi, là nhà quý tộc bằng những phong cách, những thị hiếu và lòng Pomme-de- Pincảm, cậu cũng có tội như d Artagnan đấy.
Porthos đỏ mặt lên, nhưng vì thích thú hơn là ngượng ngùng, tuy nhiên vẫn cúi đầu xuống ra chiều hổ thẹn và nói:
- Phải rồi, phải rồi, bá tước thân mến ạ, tôi chắc rằng anh nói đúng.
Arthos đứng dậy. Anh đi tới d Artagnan chìa tay ra và nói:
- Thôi nào, đừng hờn dỗi nữa, con trai thân yêu của tôi, vì rằng tất cả những điều tôi nói với cậu, tôi đã nói nếu không phải bằng tiếng nói, thì ít ra cũng bằng tấm lòng của một người cha. Cậu hãy tin rằng, nếu cảm ơn cậu đã cứu mạng tôi và không đã động một lời nào về tình cảm của tôi cho cậu biết thì chắc hẳn là dễ dàng cho tôi hơn nhiều.
- Dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên rồi, Arthos ạ, - D Artagnan vừa đáp vừa siết chặt tay bạn, - Nhưng cũng vì anh có những tình cảm quái gở mà mọi người không có. Ai có thể tưởng tượng một con người biết phải chăng mà rời bỏ nhà cửa mình, rời bỏ nước Pháp, rời bỏ đứa con nuôi, một chàng trai tuyệt diệu - Vì rằng chúng tôi mới gặp nó ở doanh trại - để chạy đi đâu? Đi cứu viện cho một vương triều thối rữa và mọt ruỗng nó sắp sụp đổ một sớm một chiểu như một túp lều cũ nát. Cái tình cảm mà anh nói đẹp thật đấy, đẹp quá đến nỗi nó thành siêu nhân.
Không để mình mắc bẫy vào cái ngón láu cá Gascon mà người bạn giăng ra khi **ng chạm đến tình yêu thương cha con của anh với Raoul, Arthos đáp:
- D Artagnan này, dù sao chăng nữa cậu cũng biết rõ ràng trong thâm tâm cái tình cảm ấy là đúng; nhưng tôi đã sai lầm đi tranh cãi với ông chủ của mình, d Artagnan, tôi là tù binh của cậu, cậu cứ đối xử với tôi đúng như thế.
- A, Chúa ơi! - D Artagnan nói, - Ông cũng thừa biết ông chẳng bị như thế lâu nữa đâu, ông tù binh của tôi ạ
- Không, - Aramis nói, - chắc hẳn họ sẽ đối xử với chúng ta như những tù binh ở Philip-Haugh.
- Thế người ta đã đối xử với tù binh ở Philip-Haugh như thế nào? - D Artagnan hỏi.
- À - Aramis trả lời - người ta đã treo cổ một nửa và đem bán nửa còn lại.
- Thế thì tôi xin bảo đảm với các anh rằng, - D Artagnan nói, -Cchừng nào còn một giọt máu trong huyết quản tôi thì các anh sẽ không bị bắn hoặc treo cổ! Chúng cứ đến đây! Với lại anh có trông thấy cái cổng kia không, Arthos?
- Thì sao?
- Khi nào muốn, các anh cứ việc đi bằng cái cổng ấy vì rằng từ lúc này trở đi anh và Aramis, các anh tự do như khí trời.
- Tôi công nhận điều đó, d Artagnan thân mến ạ - Arthos đáp, - Nhưng cậu không còn là chủ của chúng tôi nữa: cậu thấy rõ là cổng đã bị canh gác rồi.
- Thì phá mà ra chứ, - Porthos nói. - Ở đấy có gì nào? Mười người là cùng.
- Chẳng là quái gì đối với bốn chúng ta nhưng đối với hai chúng tôi là quá nhiều đấy. Thôi này, chia rẽ như chúng ta hiện nay thì chúng tôi phải chết thôi.
- Nhìn xem cái số nó là như vậy; hồi trước trên đường Vendôme, d Artagnan quả cảm là thế, vậy mà các cậu đã bị bại trận, giờ đây đến lượt Aramis và tôi. Vì những điều như vậy không bao giờ xảy ra khi cả bốn chúng ta đoàn kết lại với nhau, vậy thì chúng tôi sẽ chết như de Winter; còn tôi, tôi xin tuyên bố rằng tôi chỉ đồng ý cả bốn chúng ta cùng trốn.
- Không thể được - D Artagnan nói - Chúng tôi ở dưới quyền Mazarin.
- Tôi biết chứ và không ép buộc gì cậu hơn. Những điều biện luận của tôi chẳng kết quả gì đâu, chắc hẳn là nó rất tệ vì chẳng có chút tác động nào đến những tâm trí rất là đúng đắn như của các cậu.
- Vả chăng, - Aramis nói, - Dù những biện luận ấy có tác dụng đi chăng nữa, thì tốt hơn cả là không nên làm nguy hại đến hai người bạn tuyệt diệu của chúng ta như d Artagnan và Porthos. Các cậu hãy yên trí, chúng tôi chết và làm vẻ vang cho các cậu; còn riêng tôi, Arthos ạ, tôi cảm thấy hãnh diện đi tới trước những mũi súng và cả sợi dây thừng nữa cùng với anh, vì rằng chưa bao giờ tôi thấy anh cao cả như hôm nay.
D Artagnan chẳng nói chẳng rằng, nhưng sau khi gặm nát cái cọng hoa, anh gặm đến các móng tay. Cuối cùng anh nói:
- Các anh tưởng tượng rằng người ta sẽ giết các anh à? Để làm gì kia chứ? Ai quan tâm đến cái chết của các anh? Vả lại các anh là tù binh của chúng tôi cơ mà.
- Ngốc! Đại ngốc! - Aramis nói, - thế ra cậu chưa biết rõ Mordaunt à! Này, chỉ nhìn nhau có một cái thôi mà tôi đã trông thấy trong cái nhìn của hắn rằng chúng tôi đã bị kết án rồi.
- Này - Aramis ơi, - Porthos nói, - Sự thực là tôi rất bực đã không bóp cổ nó chết như cậu đã dặn đấy.
- Ê, Tôi sợ cóc gì cái thằng Mordaunt ấy? - D Artagnan kêu, - Mẹ kiếp! Nó cứ ám tôi xem, tôi sẽ nghiền nát nó ra, đồ sâu bọ ấy! Các anh không phải trốn, tôi xin thề rằng ở đây các anh cũng an toàn như cách đây haỉ mươi năm Arthos ở phố Férou và Aramis ở phố Vaugirard.
Chợt Arthos chỉ tay ra phía một trong hai cửa sổ có chắn song sắt đang soi sáng căn phòng và nói:
- Này, các cậu sắp biết sự tình ra sao đấy vì chính nó đang chạy đến kia kìa.
- Ai kia?
- Mordaunt.
Quả thật, nhìn theo hướng Arthos trỏ, d Artagnan trông thấy một kỵ sĩ đang phi nước đại tới.
Đó là Mordaunt.
D Artagnan băng mình ra khỏi căn phòng.
Porthos định ra theo, nhưng d Artagnan bảo:
- Cậu hãy ở lại và chỉ ra khi nào tôi gõ gõ vào cánh cửa.