Trước khi mở ra lời giới thiệu rất dài về tác giả tập Thần đồng đạo Cơ đốc này, tôi đã nhắc đến việc ngài Bonaparte ra lệnh để ông yên một mình. Đó là lệnh đưa ra khi cơn giận của ông có thể lên đến đỉnh điểm. Trái với những người khác khi ông một mình im lặng, khi các suy ngẫm dịu xuống thì chỉ còn sức tưởng tượng còn sôi sục, một cơn bão tố đang hình thành trong ông và khi nó bùng phát, sấm sét sẽ phải giáng vào ai đó.
Ông ăn tối một mình, khi ngài Réal đến cùng với bản báo cáo rộng như bản ông nhận được ban sáng nhưng phản ứng của ông rất khác, khi thấy ngài Tổng tài đang dài người trên bàn trước tấm bản đồ rộng. Ông đang nghiên cứu đoạn đường từ Rhin đến Ettenheim, đo khoảng cách, tính thời gian đi lại.
Thấy ông Réal vào, ngài đệ nhất Tổng tài chủ ngón tay xuống bàn và nói:
- Ông Réal, ông chịu trách nhiệm về bộ Cảnh sát của tôi, ngày nào ông cũng đến gặp tôi mà lại quên nói với tôi công tước Enghien cách biên giới của chứng ta có bốn dặm và đang tổ chức một cuộc âm mưu quân sự?
- Tôi đến chính là để báo cho ngài mọi chuyện đây - ông Réal bình tĩnh đáp - Công tước Enghien không cách biên giới của ngài bốn dặm mà đang ở Ettenheim, ông ta không rời khỏi đó, tức là còn cách mười hai dặm.
- Mười hai dặm đã là gì? - Bonaparte hỏi - Chẳng phải Georges còn cách sáu mươi dặm, Pichegru cách tám mươi dặm đó ư? Còn Moreau, hắn ở đâu? Có cách bốn dặm không? Hắn ở ngay phố Anjou-Saint-Hororé, cách điện Tuileries có bốn trăm bước thôi, hắn chỉ cần phẩy tay ra hiệu cho đồng đảng đang ở sát hắn tại Paris thì… giả dụ hắn thành công thì một tên Bourbon đã ở thủ đô lên kế vị tôi rồi. Thế đấy, thế là tôi thành con chó mà người ta có thể tóm ngoài đường trong khi bọn ám sát tôi thành những thánh nhân!
Ngài Talleyrand cùng với ngài đệ tam Tổng tài cùng bước vào.
Bonaparte tiến thẳng đến ngài Bộ trưởng ngoại giao.
- Bộ của ngài làm cái quái gì mà để quân kẻ thù của tôi tập hợp ở Ettenheim thế?
- Tôi không biết gì về chuyện này - ông Talleyrand bình tĩnh như mọi khi đáp -và Massias cũng không báo cáo gì về vấn đề này.
Cách trả lời và cách bao biện ấy càng khiến ngài Bonaparte tức điên:
- Thật may là những tin tức trong tay tôi cũng đủ rồi, tôi biết cách trừng trị âm mưu của chúng, đầu của kẻ phạm tội sẽ là lẽ công bằng.
Nói xong ông sải những bước dài trong phòng khách theo thói quen của mình.
Đệ nhị Tổng tài, ông Cambacères phải cố gắng mới theo kịp òng nhưng khi nghe đến câu "Đầu của kẻ phạm tội sẽ là lẽ công bằng" thì ông này dừng lại.
- Tôi nghĩ giả dụ có nhân vật như vậy thì tình hình cũng không nghiêm trọng đến vậy chứ.
- Ngài nói gì thế thưa ngài? - Bonaparte nhìn ông này từ đầu đến chân - Ngài biết tôi không muốn đụng vào kẻ định ám sát tôi à. Tôi sẽ xử lý việc này theo ý của tôi và không nghe lời khuyên nào hết, nhất là từ ngài. Tôi thấy dường như chính ngài đã dính dáng đến máu nhà Burbon từ khi ngài bỏ phiếu tử hình vua Louis XVI. Nếu tôi không có được trong tay luật pháp cho phép chống lại hung thủ, tôi sẽ dùng luật tự nhiên, dùng quyền tự vệ hợp lẽ của mình.
Hắn và người của hắn không có mục đích nào khác là muốn cái mạng của tôi. Tôi bị tấn công từ mọi phía, khi thì có dao găm, khi thì lửa, bọn chúng còn tạo ra súng gió, thuốc nổ, chúng dồn tồi bằng các cuộc phản loạn. Thế nào ngày lại ngày, xa hay gần bọn chúng sẵn sàng ra tay giết người! Thế mà không lực lượng nào, không toà án nào trên mặt đất này mang công lý đến cho tôi, tôi cũng không được như người bình thường khác là lấy chiến tranh đáp trả chiến tranh hay sao! Ai có thể dửng dưng kết tội tôi đây? Máu phải trả bằng máu đó là phản ứng tự nhiên không thể tránh được kẻ nào gieo gió ắt phải gặt bão!
Khi ta chịu khuất phục vì sợ có nội chiến và gây xôn xao chính trị thì chỉ có nước làm mồi làm nạn nhân mà thôi! Phải thế nào mới tưởng tượng được một gia đình lưu vong có đặc quyền liên tục tấn công, động đến sự tồn tại của tôi mà tôi lại không có quyền làm ngược lại. Nó chỉ biết biết hạ người khác rồi dùng luật pháp khoác lên mình để bảo vệ mình hay sao, cơ hội phải được chia đều chứ.
Về mặt cá nhân tôi, tôi chưa làm gì động đến một ai nhà Bourbon. Cả dân tộc lớn đã đặt tôi lên lãnh đạo nó, hầu như toàn bộ châu Âu đã nhượng bộ trước lựa chọn này, và sau cùng, máu của tôi đâu phải là bùn, đã đến lúc tôi đặt nó ngang với máu của bọn chúng rồi. Chuyện gì xảy ra nếu tôi thúc đẩy việc trả thù của mình? Tôi có thể làm điều đó! Tôi có hơn một lần cơ hội nắm lấy số mạng của chúng, hơn chục lần có người đề nghị tôi lấy đầu chúng và lần nào tôi cũng từ chối thẳng thừng, không phải tôi thấy bất công trong vị thế mà chúng hại tôi mà tôi thấy mình còn rất mạnh. Tôi cứ tưởng không nguy hiểm gì và coi việc chấp nhận giết chúng như một sự hèn hạ. Châm ngôn của tôi trong chính trường cũng như trong chiến tranh đó là tất cả những cái xấu xa chỉ tha thứ được chừng nào nó tuyệt đối cần thiết ngoài ra chúng là tội ác.
Fouché vẫn chưa nói gì, ngài Bonaparte quay sang phía ông ta và cảm thấy có một chỗ dựa. Để đáp lại câu hỏi im lặng của ngài Đệ nhất Tổng tài, Fouché quay sang hỏi ông Réal:
- Thưa ngài Hội đồng, chẳng phải mọi chuyện sẽ sáng tỏ hơn khi ngài đưa ra lời khai của Le Ridant, người bị bắt cùng thời gian với Georges hay sao? Chắc là ngài uỷ viên Hội đồng nhà nước của chúng ta còn chưa đọc nó vì ngài Dubois mới chuyển cho ngài lúc hai giờ, và từ hai giờ đến lúc này vì quá bận nên ngài không có thời gian đọc nó đúng không?
Ông Réal đỏ mặt đến tận mang tai. Quả thật ông ta có nhận được văn bản mà người ta nói rất quan trọng nhưng ông ta lại không đọc, cũng không cho vào tập hồ sơ của Georges. Trong lòng tự nhủ sẽ liếc mắt đến đầu tiên ngay khi ông có thời gian rỗi. Nhưng ông ta đã không có khoảng thời gian rỗi đó, cho nên ông chỉ biết là biên bản hỏi cung chứ không rõ nội dung là gì.
Không nói được lời nào, ông mở cặp và lục tìm nó trong số các giấy tờ khác. Fouché cúi đầu xuống chỉ vào một tờ giấy và nói:
- Nó đây này.
Ngài Bonaparte hơi lấy làm lạ về con người này. Ông ta biết rõ trong cặp của uỷ viên Hội đồng có gì.
Bản cung khai này rất quan trọng. Le Ridant thú nhận có cuộc âm mưu làm phản, tuyên bố có một hoàng thân cầm đầu, người này đã từng đến Paris và có thể sắp quay trở lại. Hắn còn nói thêm đã từng thấy ở chỗ Georges Cadoudal một thanh niên khoảng ba mươi hai tuổi, rất cao quý, lịch lãm được tất cả đều kính trọng kể cả Pichegru.
Bonaparte ngắt lời ông Réal đang đọc.
- Thôi đủ rồi? - Ông nói - Thế là đủ rồi! Rõ ràng người thanh niên đó, cái kẻ được tôn kính ấy, không ai khác ngoài một hoàng tử đến từ London. Kẻ được chờ bên vách đá Biville suốt một tháng, đó chỉ có thể là công tước Enghien. Hắn vừa mất bốn mươi tám tiếng rời Ettenheim đến Paris và trở về từ Paris đến Ettenheim bằng ấy thời gian, sau một hồi bàn bạc với đồng phạm của hắn. Kế hoạch đã vạch rõ không bàn cãi vào đâu được.
Napoléon nói tiếp:
- Bá tước Altois phải đến Normande với Pichegru, còng tước Enghien tới Alsace cùng Dumounez. Nhà Bourbon muốn trở lại Pháp phải mượn đến hai tướng Cộng hoà giỏi nhất này làm tiền trạm.
Mọi người đều hiểu sau khi nghe ngài Tổng tài bày tỏ ý của mình lên quyết như vậy thì không ai dám phản đối dù là trực tiếp hay gián tiếp dự định của ông nữa.
Lebrun đưa ra vài nhận xét mơ hồ, ông ta sợ một hành động tấn công như thế từ phía Bonaparte sẽ gây ra tác động tới châu Âu.
Tổng tài thứ hai, ông Cambacères mặc dù thường ngày cũng mạnh mồm nhưng giờ đây im bặt chỉ gợi đến lòng khoan hồng, nhưng Bonaparte chỉ đáp:
- Tôi biết động cơ nào khiến ngài khuyên tôi như vậy. Đó là lòng tận tuỵ của ngài với tôi, tòi xin cảm ơn về điều đó nhưng tôi không thể để mình bị giết mà không tự vệ. Tôi sẽ cho tất cả đám người này phải run lên và dạy cho chúng biết giữ sự yên ổn là gì.
Lúc này, tình cảm bao trùm toàn bộ con người Bonaparte không phải là sợ hãi hay lòng hận thù mà là ý muốn cho toàn nước Pháp biết rằng dòng máu nhà Bourbon vốn là thứ thiêng liêng với đồng bọn của chúng nhưng chẳng có nghĩa lý gì với ông cũng như với nhưng con người của chế độ Cộng hoà.
- Nhưng rốt cuộc, ngài dùng giải pháp gì? - Cambacèrer hỏi.
- Rất đơn giản để bắt sống công tước Enghien và chấm dứt chuyện này.
Mọi người biểu quyết chỉ riêng Cambacèrer còn dám bảo vệ sự phản đối của mình đến cùng. Vậy là quyết định đã được thông qua trong hội đồng và ngài Bonaparte không phải chịu trách nhiệm một mình về chuyện này. Ông cho gọi hai đại tá Ordener và Caulaincourt vào.
Đại tá Ordener sẽ đến bên bờ sông Rhin mang theo ba trăm lính long kỵ binh, nhiều binh sĩ, quân hiến binh và vài lính bắc cầu.
Vì những người này mang lương thực chỉ trong bốn ngày nên họ được mang một khoảng ba mươi nghìn phăng nữa để khi cần thì mua lương thực trong dân. Họ sẽ qua sông Rheinau, tiến thẳng đến Ettenheim, bao vây khu phố và sẽ bắt công tước Enghien cùng tất cả những người sống lưu vong quanh ông ta đặc biệt là Dumoanel. Trong khi đó, một cánh quân khác bao gồm ít quân pháo binh đó, Kerhl ở Offenburg chờ đợi cho đến khi công tước được mang về lãnh thổ Pháp. Ngay khi mọi việc hoàn tất, đại tá Caulaincourt sẽ đến chỗ công tước Badi để trình lời giải thích về hành động họ vừa làm.
Lúc ngài Bonaparte chủ trì phiên họp Hội đồng là tám giờ vì ông sợ mình hối hận mà thay đổi quyết định nên cho hai đại tá đi ngay trong đêm. Chỉ còn lại một mình, cảm giác chiến thắng lộ rõ trên khuôn mặt Bonaparte. Sự kiện này một khi thành công có lẽ sẽ là điều ân hận suốt đời nhưng vào lúc vừa quyết định xong, ông chỉ có cảm giác mãn nguyện, dòng máu của ông cũng ngang với của các vua chúa và ngay cả một ông vua trên ngai cũng không có quyền buộc nó phải đổ.
Ồng liếc nhìn đồng hồ, đã tám giờ mười lăm. Ông Méneval, thư ký mới thay thế cho Boumerine cũng tham dự vào cuộc họp kỳ lạ ấy, vẫn ngồi tại chỗ để chờ xem ngài Tổng tài có ra lệnh gì không.
Bonaparte đi đến bàn, chỉ tay vào bàn đó rồi nói:
- Ông viết đi!
"Ngài Đệ nhất Tổng tài gửi đến Bộ trưởng Chiến tranh
Paris ngày 19 Ventose năm XII (10/3/1804)
Công dân tướng quân, mong ngài ra lệnh cho tướng Ordeler, người mà tôi mới trao cho ngài, lệnh cho anh ta đi đến Strasbourg đêm nay anh ta sẽ mang bí danh khác và đi gặp một sư trưởng.
Nhiệm vụ của anh ta liên quan đến Ettenheim, bao vây thành phố và bắt công tước Enghien, Dumounez, đại tá Anh và tất cả những người khác có liên quan. Sư đoàn trưởng, hạ sĩ quân cảnh cũng như cảnh sát trưởng sẽ cung cấp tất cả các thông tin cần thiết cho anh ta.
Ngài lệnh cho tướng Ordener lấy ba trăm quân long kỵ binh ở đội 26 phải đến Rhemau vào tám giờ tối.
Sư trưởng sẽ cử mười một lính bắc cầu đến Rheinau cũng vào tám giờ tối. Quân pháo binh hạng nhẹ có thể đi xe hoặc ngựa độc lập. Phải chuẩn bị từ bốn hoặc năm chiếc tàu lớn đủ để đưa ba trăm người và ngựa qua sông chỉ trong một chuyến.
Quân số chỉ có bánh mỳ trong vòng bốn ngày và mang đủ đạn dược. Sư trưởng sẽ gặp ở đó một đại uý hay một sĩ quan, một trung uý cảnh sát và ba bốn quân hiến binh. Ngay khi tướng Ordener vượt qua sông Rhin, anh ta sẽ tiến về Ettenheim, đến nhà công tước và nhà Dumouriez. Công việc này hoàn tất, anh ta sẽ trở lại Strasbourg.
Khi qua Lunéville, tướng Ordener sẽ lệnh cho một sĩ quan đi xe đến Strasbonrg trước để chờ lệnh. Đến Strasbourg, tướng Ordenerr sẽ bí mật sai hai mật vụ đi báo tin. Cùng ngày giờ ấy, ngài lệnh cho hai trăm long kỵ bmh đội 26 dưới sự chỉ huy của tướng Caulamcourt đến bao vây Offemburg và bắt bà nam tước Reich, nếu bà ta không bị bắt ở Strasbourg vì có thể một người anh đang sống ở Strasbourg có thể báo tin trước cho bà ta.
Từ Offemburg, tướng Caulamcourt sẽ chỉ huy quân tiến lại gần Ettenheim, khi anh ta biết tướng Ordener đã đến đó. Họ sẽ chuẩn bị trợ thủ cho nhau đồng thời, sư trưởng cũng sẽ cho ba trăm quân đến Kerlh cùng bốn pháo hạng nhẹ để chiếm một trạm ngựa nhỏ ở Wilstardt để không còn chỗ trung gian giữa hai đường nữa.
Hai tướng Caulamconrt và Ordener phải lưu ý không được để quân lính làm ảnh hưởng đến dân chúng, ngài sẽ cấp cho họ khoảng mười hai nghìn phăng. Nếu họ không thể hoàn thành nhiệm vụ mà muốn lưu lại ba bốn ngày để hoàn tất công việc thì họ được phép. Còn nếu lâu hơn trên lãnh thổ nước ngoài, họ sẽ gặp bất hạnh lớn.
Ngài ra lệnh cho chỉ huy Neufbrissac để một trăm người qua tả ngạn con sông cùng hai đại bác. Trạm ngựa sẽ được giải phóng ngay khi hai cánh quân trở về. Tướng Caulaincourt chỉ đem theo khoảng ba chục quân hiến binh bên mình, còn lại tướng Ordener, sư đoàn trưởng sẽ tuỳ tình hình di chuyển.
Nếu xảy ra trường hợp ở Euenheim không có công tước Enghien, Mourieg và những người khác thì phải gửi mật báo đặc biệt về khi ấy ngài ra lệnh bắt chủ trạm ngựa ở Kerlh và những người khác để có thể có tin tức về chuyện đó.
BONAPARTE".
Lúc ông đang ký tài liệu quý hoá ấy thì có người vào báo công dân Chateaubriand đến.
Như tôi đã nói ở trên, ông Chateaubriand cùng tuổi với ngài Bonapalte tức là vào thời điểm ấy, họ cùng ba mươi lăm tuổi. Cả hai đều có vóc dáng nhỏ nhắn. Tất cả những ai từng có hân hạnh quen biết Chateaubriand đều đồng ý với tôi là họ chưa từng thấy ai cao ngạo như ông trừ sự kiêu căng của ngài Bonaparte.
Vẻ kiêu căng của tác giả Thần đồng đạo Cơ đốc là thứ còn sống sót sau tất thảy, khi tài sản tiêu tan, mất nghiệp chính trị hay khi có thành công trong văn chương. Vào lúc vinh quang này, vẻ kiêu căng ấy còn lớn hơn nữa.
Về phần mình, ngài Bonaparte chỉ cần một bước nữa là bước đến bậc cao tột đỉnh mà con người có thể đạt đến cho nên sự kiêu ngạo của ông không chấp nhận bị đem ra so sánh với bất cứ ai, trong quá khứ cũng như ở hiện tại.
- Chào ngài Chateaubriand - Bonaparte nói và tiến về phía ông - Ngài thấy đấy tôi vẫn chưa hề quên ngài.
- Xin cảm ơn công dân Tổng tài. Cuối cùng ngài đã hiểu là có những người chỉ có giá trị ở vị trí của họ.
- Tôi nhớ lại lời của César: "Thà là người đứng đầu ở quê còn hơn làm người thứ hai ở Rome". Sự thật là lẽ ra ngài không phải giải khuây ở nhà ông chú quý hoá của tôi, giữa những phiền nhiễu vụn vặt của giáo chủ, giữa thói khoác lác của các quý ông giám mục Châlons và những lời dối trá không ngớt của giám mục Maroc trong tương lai.
- Cha Guillon - Chateaubriand nói.
- Ngài cũng biết chuyện của ông ta đó - Bonaparte nói tiếp - Lợi dụng có tên giống nhau, ông ta cho rằng sau khi thoát được một cách kỳ diệu khỏi vụ thảm sát Cannes, ông ta đã rửa tội cho phu nhân Lamballe ở Force. Chẳng câu nào trong chuyện này là sự thật cả… thế ngài đã làm gì ở đó để giải khuây?
- Tôi sống ở mức có thể nhất giữa những kẻ đã chết. Tôi làm tất cả những gì người nước ngoài đến Rome muốn làm, đó là mơ mộng. Chính bản thân Rome cũng là một giấc mơ rồi, phải thấy ánh trạng từ trên cao Trinité-du-Mot, những công trình xa xa như những nét phác thảo của hoạ sĩ hay như những bờ biển chìm hơi sương nhìn từ một mạn tàu. Vầng trăng, cái khối cầu mà người ta ngỡ ở một thế giới đã chết ấy lại toả thứ ánh sáng tái nhợt lên trên thành Rome hoang tàn. Nó chiếu đến các khu phố không dân cư, những quảng trường công viên tịnh không có bóng người, những tu viện và hành lang của nó cũng vắng lặng như hành lang ở Colisée. Tôi tự hỏi chuyện gì xảy ra nơi đây cách đây mười tám thế kỷ cũng vào giờ này. Những ai ở đây đã xuyên qua bóng tốt những toà tháp này. Không chỉ nước Ý cổ đại đã chết mà nước Ý thời trung cổ cũng không còn. Trong khi tất cả dấu vết của hai nước ấy còn in trong thành phố vĩnh hằng. Nếu thành phố Rome hiện đại trưng ra nhà thờ Saint-Pietre và những kiệt tác của nó thì thành Rome xa xưa chống lại bằng đền thờ Panthéon và những mảnh vụn của nó. Nếu một thành phố dẫn nhưng nhà tài phiệt của mình xuống từ Capitol thì thành phố xưa đưa các giáo chủ từ Vatican đến. Dòng sòng Tibre chia hai vinh quang ngơi nghỉ trong cùng lớp bụi ấy. Rome vô thần ngày càng chìm sâu vào nấm mồ của nó và Rome Cơ đốc cũng lún xuống hầm mộ của mình.
Bonaparte thả mình mơ màng trong cách miêu tả thú vị thành Rome, tai ông lắng nghe nhà thơ nhưng mắt ông lại nhìn xa xăm. Mãi sau, ông nói:
- Thưa ngài nếu như tôi đến Rome, nhất là với cương vị của một tham tán đại sứ Pháp, tôi sẽ thấy trong Rome thứ khác với Rome của César, của Dioclétien và của Grégorie VII, tôi sẽ thấy ở đấy không chỉ di sản sau ngàn năm mà còn thấy bà mẹ của thế giới La Mã tức là từ một đại đế chế chưa từng đâu có; nhất là tôi sẽ thấy bà hoàng Địa Trung Hải với bình lưu tuyệt vời, độc nhất thiên hạ, được các nền văn minh cày xới cộng với sự thống nhất các dân tộc châu Âu. Một tấm gương lần lượt phản chiếu Marseille, Venice, Corinthe, Athenes, Constantinople, Smyrne, Alexandrie, Cyrène, Calthage và Cadix; quanh nó, ba phần của thế giới cũ là châu Âu, châu Phi và châu Á chỉ cách có vài ngày đường.
Nhờ nó, người nào làm chủ Rome và Italie có thể đi đến khắp nơi, theo dòng Rhône, trái tim nước Pháp, theo dòng Eridan, trái tim nước Ý, qua eo Gibraltar đến Senégal, đến mũi Hảo Vọng đến hai miền châu Mỹ, qua eo Dardanelles đến biển Marmara, đến Bosphore, Pont-Euxin tức là Tartare, qua biển Đỏ đến Ấn Độ, Thibet, đến châu Phi, Thái Bình Dương tức là đến miền cực kỳ rộng lớn, qua sông Nil đến đi Ai Cập, đến Thèbes, Memphis, Eléphantine, Ethiopie, đến sa mạc tức là đến miền mới lạ. Để chuẩn bị cho sự nghiệp lớn lao sau này của mình, có thể còn vượt cả César và Charlemagne, thế giới vô thần đã lớn mạnh quanh biển này. Cộng đồng Cơ đốc giáo cũng ôm nó trong tay được ít lâu. Những Alexandre, Anmbal, César đều được sinh ra bên bờ của nổ. Và biết đâu, một ngày người ta lại nói Bonaparte được sinh ra từ trong lòng nó! Thành Milan cũng mang một câu vọng "Charlemagne", Tunis cũng hoà theo "thánh Louis". Quân A Rập xâm lăng cũng túa ra bên bờ của nó; các cuộc thập tự chinh lần lượt trèo lên, suốt ba nghìn năm qua, nền văn minh soi sáng nó, từ mười tám thế kỷ qua, Calvaire ngự trị nó!
Mà nếu số phận đưa ngài quay trở lại Rome, tôi cũng bạo gan mà nói với ngài rằng: "Ngài Chateaubriand, khá thi sĩ, khá mơ mộng và khá thông thái đã nhìn Rome bằng quan điểm của mình đã đến lúc một con người thực tế, thay vì chìm mình trong những giấc mơ trên chính thành phố hãy lao mình vào chân trời sâu rộng hơn. Chẳng còn gì để làm với thành phố đã hai lần là thủ đô của nhân loại; phải để cánh đồng ấy tự cày lấy thôi". Nếu một ngày tôi là chủ Tây Ban Nha cũng như đứng đầu Italie, tôi sẽ cho lấp eo biển Gibraltar đến nước Anh, tôi sẽ phải xây chân tường thành trong lòng đại dương. Như vậy, thưa ngài Chateaubriand, Địa Trung Hải không còn là biển nữa mà sẽ là một cái hồ của nước Pháp.
Nếu một con người thiên tài như ngài không báo giờ quay trở lại Rome nữa, điều này có thể lắm, và nếu tôi còn cầm quyền thì tôi sẽ cử ngài đến đó không phải với tư cách một chân thư ký quèn mà là đại sứ thật sự. Tôi sẽ nói với ngài: "Đừng lưu luyến cái thư viện nữa, hãy để nó cho Paris Ovide, Tacite hay Slléton, ngài hãy chỉ mang một tấm bản đồ thôi, bản đồ Địa Trung Hải, và đừng bao giờ để rời mắt khỏi nó dù là giây lát. Dù ở đâu trên thế giới, hứa với ngài ngày nào tôi cũng sẽ giữ nó”.
Xin từ biệt ngài Chateaubriand.
Chateaubriand cúi đầu đi ra, ông vừa có cảm giác một bàn tay mạnh mẽ đặt lên trán mình làm vỡ vụn ý chí và khiến thói tự cao phải oằn xuống.
Lúc ngài Bonaparte và Chateaubriand chia tay sau khi cân đo cao thấp giống như hai vận động viên điền kinh gặp mặt để thách đấu hơn là một người đến nhận lệnh từ chỉ huy, thì tướng Ordener lên xe đi Strasbourg, vừa đến nơi, anh đến gặp sư trưởng đóng quân ở đây. Sư trưởng đã nhận lệnh đáp ứng mọi yêu cầu không cần hỏi lý do. Ông ta giao cho viên tướng tạm quyền bấy giờ gọi là tướng Frion, ba trăm long kỵ binh của đội số 26, những lính làm cầu kèm theo mọi thứ mà tướng Ordener cần thiết.
Tướng Ordener đến Schelestadt, cử một đội trưởng quân hiến binh cải trang đến Ettenheim dò la xem hoàng thân và tướng Dumounez có ở đó hay không. Người này về báo cả hai đều ở Ettenheim.
Ngày sau đó, tướng quân Ordener đi đến Rheinau. Nhờ phà và năm tàu lớn hợp lại, họ qua sông Rhin chỉ trong một chuyến.
Khoảng năm giờ sáng, lâu đài của hoàng thân đã bị bao vây hoàn toàn. Nghe thấy tiếng ngựa và tiếng mở cửa, hoàng thân nhảy xuống giường vớ lấy khẩu súng trường hai viên, mở cửa sổ và nhìn thấy công dân Charlot, đại đội trưởng, đội hiến binh quốc gia số 38 đang hét với những người mà anh ta nhìn thấy trên cửa sổ lâu đài:
- Nhân danh nhà nước Cộng hoà, hãy mở cửa ra.
Ông hoàng định nổ súng (và nếu thế chắc chắn công dân Charlot cũng nhả đạn) thì đại tá Grunstein ngủ trong phòng cạnh đó vội vã chạy ra cửa sổ đặt tay lên khẩu súng và nói:
- Tâu đức ông, ngài cũng đồng loã trong vụ này ư?
- Không hề mảy may, Grunstein thân mến ạ.
- Nếu vậy - Grunstein nói - mọi kháng cự đều vô ích, chúng ta đã bị bao vây, đức ông cũng thấy đấy, tôi còn thấy nhiều lưỡi lê ách lên. Đối với kẻ khiêu khích, đó là tên cầm đầu, nếu ngài giết chúng thì ngài sẽ thua và chúng tôi cũng vậy.
- Đúng thế! - Hoàng thân ném súng xuống và nói - Cứ để chúng vào nhưng phá cửa mà vào. Tôi không quen bọn Cộng hoà nên không mở cửa cho chúng được.
Trong lúc quân lính phá cửa, hoàng thân vội vã mặc quần áo.
Nhiều tiếng kêu "Đốt lửa lên!" vang lên nhưng nhanh chóng câm bặt. Một người chạy đến nhà thờ để rung chuông bị bắt ngay và kẻ đi báo tin cho tướng Dumounez, bị tóm không kịp kháng cự (chứng ta biết rằng đó không phải là Dumounez mà là Thumery).
Ông hoàng bị dẫn ra khỏi phòng trong lúc người ta lục lọi tất cả giấy tờ của ông. Ông ta được đưa đến một cái cối xay gần điện Tulleries. Phần còn lại, người ta không cần phải phá cửa. Hôm trước một đội trưởng hiến binh Pferdsdorff đã được cử đến để chỉ dẫn tất cả những nơi ông hoàng ở. Pferdsdorff cùng vài hiến binh và hơn chục long kỵ binh trung đoàn hai hai đã vào nhà bằng cách nhảy qua tường bao quanh sân.
Khi tập hợp các tù nhân, người ta không tên thấy Dumounez trong số họ. Khi được hỏi, ông hoàng nói Dumounez chưa bao giờ ở Ettenheim và ông thậm chí chưa từng gặp người này. Những người bị bắt là: Hoàng thân, hầu tước Thumer, nam tước Grunstein, trung uý Schmidt.
Cha Weinbom, cựu sáng tập toà giám mục Strasbourg, cha Michel, thư ký toàn giám mục Strasbourg, Jacques thư ký tin cẩn của công tước Englủen, Simon Fenand, cận vệ và hai người hầu có tên là Pierre Poulain và Joseph Canone.
Ban đầu công tước tỏ ra sợ khi bị dẫn độ về Paris.
- Ông ta bắt được tôi rồi - Công tước nói - ông Đệ nhất Tổng tài sẽ cho giam giữ tôi. Ta thấy bực khi không bắn vào ông, chỉ huy ạ. Nếu thế người của ông đã bắn ta và thế là bây giờ mọi chuyện đã chấm dứt.
Một chiếc xe bò chở rơm đã sẵn sàng. Người ta tống tù nhân lên xe và dẫn đi giữa hai hàng súng đến tận sông Rhin. Sau đó họ qua sông Rhin, đi đến Plobsheim dừng lại ăn trưa. Sau bữa trưa, công tước lên xe cùng chỉ huy Charlot và đội trưởng hiến binh. Một hiến binh khác lên cạnh đại tá Grunstein.
Họ đến Strasbourg khoảng năm giờ chiều. Mọi người đến lâu đài bản doanh của đại tá Charlot. Nửa giờ sau, công tước bị đưa lên xe ngựa ba bánh để đưa vào thành còn những người khác đi xe bò hoặc cưỡi ngựa của nông dân. Đại tá Charlot cho tập trung tất cả ở phòng khách. Đệm ngủ trải luôn ở đó, bên ngoài cửa có một toán lính và bên trong có hai toán khác liên tục túc trực suốt đêm.
Hoàng thân ngủ không ngon giấc. Ông không thể yên tâm trước cái cách diễn ra mọi việc. Những lời cảnh báo trước đây như sống dậy trong tâm trí của ông và ông tự trách mình đã không cảnh giác.
Thứ sáu ngày 16 tháng Ba, công tước được thông báo sẽ đổi chỗ ở. Tướng quân Leval, chỉ huy trưởng tại Strasbourg và trưởng Friron đến thăm ông. Cuộc viếng thăm lạnh lùng và tẻ ngắt. Công tước được đưa đến phòng cạnh thềm, bên phải ngôi nhà, nối với phòng của quý ông Thumery, Schmidt và Jacques, nhưng ông cũng như người của mình không thể đi qua đi lại gặp nhau.
Dẫu sao, người ta cũng để ông được phép đi dạo trong một khu vườn nhỏ phía sau am. Một tốp lính hơn mười người cùng một sĩ quan canh gác cạnh đó, bá tước Grunstein bị chia cách với ông bằng cách được sắp xếp ở phòng đầu sân bên kia. Công tước rất buồn trước sự chia cắt này. Ông bắt đầu viết cho nữ công tước vợ mình, trao cho tướng Leval và nhờ ông này chuyển giúp nhưng không nhận được lời hồi âm nào, điều này càng khiến ông đau buồn gấp bội. Tất cả mọi giao tiếp đều bị cấm.
Bốn giờ chiều, người ta đến xem xét giấy tờ của ông. Người ta đọc qua loa, phân chia thành từng tập rồi gửi về Paris.
Mười một giờ đêm, công tước lên giường đi ngủ, dù rất mệt mỏi, nhưng ông không sao chợp mắt được. Ông Machine, phụ trách khu này đến thăm ông trên giường, an ủi vài câu gượng ép.
Thứ bảy, ngày 17, công tước Enghien không nhận được hồi âm nào cho lá thư ông viết tới nữ công tước Rohan. Ông đang ở trong tình trạng gần như tuyệt vọng. Người ta đến cho ông ký vào biên bản. Buổi tối, họ thông báo ông được phép đi dạo trong vườn với sĩ quan canh gác và các bạn tù của mình. Sau đó, ông ăn tối và ngủ ngon hơn.
Chủ nhật ngày 18, lúc một giờ rưỡi sáng, người ta đến đưa công tước đi ông chỉ kịp mắc quần áo và ôm hôn các bạn của mình.
Ông đi một mình giữa hai sĩ quan hiến binh và hai hiến binh. Đến quảng trường Eglise, trung uý Petermann và một hiến binh trèo lên xe, ngồi cạnh ông trong khi Blitersdorff và một liến binh khác trèo lên ghế đánh xe.
Chiếc xe dẫn công tước đến quận 20 vào lúc mười một giờ hôm sau, đó cũng là trạm gác. Họ ở lại đó năm tiếng trong khi đó chắc chắn những chi tiết của thảm cảnh hãi hùng đang diễn ra sắp kết thúc. Lúc bốn giờ chiều, chiếc xe đi về phía lâu đài Vincennes và đến nơi vào quãng nửa đêm. Đã đến lúc các nhà Tổng tài của nhà nước Cộng hoà ra lệnh bắt như sau:
"Paris ngày 29 Ventôse năm thứ XII
của nền Cộng hoà Duy nhất và Bậc khả chia cắt
Chính phủ Cộng hoà lệnh bắt:
Công tước Enghien, về tội cầm vũ khí chống lại nhà nước Cộng hoà, cấu kết với quân Anh tham gia vào vụ phản loạn làm nguy hại đến an ninh nội bộ và an ninh ngoài nước. Công tước sẽ bị đưa ra xét xử tại Uỷ ban Quân sự bao gồm bảy thành viên do chỉ huy trưởng Paris chỉ định và tập hợp tại Vincennes.
Chánh án, ngài Bộ trưởng Chiến tranh, chỉ huy trưởng Paris chịu trách nhiệm về sự có mặt của bị cáo.
BONAPARTE
HUGUES MARET
CHỈ HUY TRƯỞNG PARIS
MURAT"
Chiều theo luật quân sự, sư đoàn trưởng phải thành lập uỷ ban xét xử và ra lệnh xét xử. Murat vừa là chỉ huy trưởng Paris vừa là sư trưởng. Lệnh bắt của các vị Tổng tài nói trên có chữ ký của Murat là vì ông buộc phải ký vào đó. Biết mình lỡ tay, ông thấy vô cùng đau xót. Ông là một người dũng khí, xốc nổi nhưng cũng tốt bụng. Ông có được thông báo hội đồng Tổng tài ra quyết định bắt công tước Enghien, trong lúc sốt ruột thấy anh vợ luôn bị những âm mưu lật đổ mới mọc lên đe doạ, ông đã vỗ tay tán đồng quyết định ấy. Nhưng khi công tước Enghien đã bị bắt, ông lại chịu trách nhiệm giải quyết hậu quả đáng sợ trong cuộc bắt bớ này thì ông chột dạ.
- Chà! - Ông thất vọng ném cái mũ ra xa - Ngài Đệ nhất Tổng tài lại muốn dìm bộ quân phục của mình trong máu đây!
Sau đó ông chạy ra cửa sổ hét to:
- Đóng ngựa vào xe!
Xe vừa chuẩn bị xong, ông lao lên và ra lệnh: "Đến Saint-Clou!"
Ông không muốn nhượng bộ ngay lập tức một mệnh lệnh mà theo ông là một vết nhơ cho Bonaparte và cho bản thân ông. Murat đến gặp anh vợ, giải thích về nỗi lòng của mình, về sự lo lắng và đau xót trước sự việc. Nhưng Bonaparte đã giấu trong chiếc mặt nạ bằng đồng chính những cảm xúc như thế của ông. Ông tỏ ra mạnh mẽ, không thể lay chuyển, coi đó là sự yếu đuối hèn kém và nói:
- Được rồi, nếu chú sợ, tôi sẽ chỉ định ai sẽ là người ký lệnh xét xử ngay trong ngày.
Chắc hẳn chúng ta còn nhớ chuyện ngài Tổng tài Bonaparte đã ra lệnh cho Savary đến rình bên vách đá Biville hồi họ đợi chuyến tàu của các ông hoàng cập bến. Savary là một trong chúng con người hiếm thấy, khi anh ta hiến dâng là hiến dâng toàn bộ cả thể xác lẫn tâm hồn không hề kêu ca. Anh ta yêu quý Bonaparte, không có quan điểm chính trị nào cả, anh ta chỉ đơn thuần tôn thờ ngài Đệ nhất Tổng tài.
Ngài Tổng tài đã cho thảo lệnh, tự tay ký rồi sai Savary mang chúng đến cho Murat chủ trì việc xét xử. Mệnh lệnh đó rất đầy đủ và rõ ràng. Do vậy Murat bị ngài Tổng tài thúc đẩy mạnh quá trong lòng vừa rủa thầm vừa vò đầu bứt tai, ông tự tay viết mệnh lệnh sau:
"Chinh quyền Paris
Ngày 29 Ventôse, Nhà nước Cộng hoà năm thứ XII
Tổng chỉ huy trưởng Paris
Căn cứ thi hành lệnh của chính phủ, uỷ ban quân sự bảy thành viên sẽ do Tổng chỉ huy trưởng Paris bổ nhiệm và đã bổ nhiệm những người sau:
Tướng quân Hulin, chỉ huy đội Hồng vệ binh bảo vệ các Tổng tài chủ toạ.
Đại tá Guiton, chỉ huy Trung đoàn thiết giáp số 1.
Đại tá Bazancourt, chỉ huy Trung đoàn bộ binh số 4
Đại tá Ravier, chỉ huy Trung đoàn bộ binh số 18
Đại tá Banois, chỉ huy Trung đoàn bộ binh số 96
Đại tá Rabbe, chỉ huy Trung đoàn bảo vệ thủ đô số 2
Công dân Autancourt, tham mưu đội Hiến binh ưu tú giữ nhiệm vụ báo cáo viên uỷ ban này được thành lập ngay tại lâu đài Vincennes để xét xử nghi phạm như chính phủ quy định, mọi văn bản sẽ được trao lại cho chủ toạ.
J. MURAT"
Tù nhân vừa bước vào Vincennes.
Quản lý lâu đài này có tên là Harel. Ông ta được thăng chức điều hành sau vụ Ceracchi và Aréna. Thật trùng hợp khi vợ ông ta lại là chị em cùng vú nuôi với công tước Enghien.
Ông Harel không nhận được mệnh lệnh nào. Người ta hỏi ông có chỗ nào cho tù nhân không, ông đáp là không, chỉ có phòng của chính ông và phòng họp. Lập tức ông Harel được lệnh đi chuẩn bị một chỗ để tù nhân có thể ngủ trong khi chờ phán quyết. Lệnh này kèm theo việc đào trước cái hố trong sân.
Harel đáp điều này rất khó vì sân lát gạch. Người ta tìm chỗ để đào và họ tìm thấy một cái hố có sẵn ở lâu đài.
Bảy giờ tối, công tước bước vào lâu đài. Ông lả đi vì đói và lạnh, không có vẻ buồn nhưng hơi lo lắng. Vì phòng của ông chưa được sưởi ấm nên ông chủ toà lâu đài cho công tước ở phòng của mình. Sau đó, người ta cho tìm đồ ăn trong làng.
Hoàng thân ngồi vào bàn và mời chủ toà lâu đài cùng ăn. Ông Harel từ chối và muốn phục vụ hoàng thân. Thế là ông hoàng đưa ra hàng lố câu hỏi về phòng thủ của toà lâu đài Vincennes và về các sự kiện đã xảy ra. Rồi đột nhiên ông hoàng quay lại hoàn cảnh của mình:
- Này, ông chủ thân mến, ông có biết người ta định làm gì tôi không?
Ông Harel không biết và không thể nói gì về chủ đề này. Nhưng vợ ông nấp sau tấm bình phong che rèm nghe rõ mọi việc đang xảy ra. Khi có lệnh đào hố, bà hình dung ra ngay tương lai thế nào nên khóc nấc lên. Tôi đã nói bà là chị em cùng vú nuôi với công tước Enghien.
Công tước vội vàng đi ngủ do chuyến đi quá mệt mỏi. Nhưng chưa kịp chợp mắt, trung uý Noirot, trung uý Jacquin, đại uý Autancourt và hiến binh Nerva, Tharsis vào phòng của ông.
Với sự tham dự của công dân Molin, đại uý trung đoàn 18, là lục sự do báo cáo viên chỉ định, tất cả tham dự buổi thẩm vấn:
- Họ, tên, tuổi, phẩm vị của ông là gì? - đại uý Autancourt hỏi.
- Tôi tên là Louis-Antoine-Henri de Bourbon, công tước Enghien, sinh ngày 2 tháng 8 năm 1772 tại Chantilly - Hoàng thân đáp.
- Ông rời Pháp từ bao giờ?
- Tôi không thể nói chính xác nhưng tôi nghĩ đó là ngày 16 tháng 7 năm 1789, tôi đi cùng Hoàng thân Condé là ông của tôi, cha tôi là công tước Bourbon, bá tước Artois và các con ông ấy.
- Ông sống ở đâu sau khi rời Pháp?
- Khi rời Pháp, tôi luôn đi cùng cha mẹ từ Monge đến Bruxelles. Ở đó, chúng tôi ở nhờ chỗ vua Sardaigne khoảng mười sáu tháng. Tôi đã ở Worn và vùng lân cận đó, bên bờ sông Rhin.
Khi quân đội Condé được thành lập, tôi tham gia chiến đấu. Tôi lập chiến dịch năm 1792 ở Brabant cùng quân của công tước Bourbon và quân đội của công tước Albert.
- Ông sống ở đâu sau khi hoà bình lập lại giữa Cộng hoà Pháp và đế chế Áo?
- Chúng tôi chấm dứt chiến dịch cuối cùng ở gần Gratz. Đến khi đó quân đội được bán cho nước Anh và hội giải ngũ. Tôi ở lại Gratz và khu gần đó khoảng tám, chín tháng vừa để chờ tin của ông nội tôi đang ở bên Anh để đòi khoản trợ cấp cho tôi. Trong khoảng thời gian ấy, tôi được giáo chủ Rohan cho phép đến xứ của ông. Tôi ở lại đó hai năm. Khi Giáo chủ qua đời, tôi chính thức yêu cầu nghị viện Ba de cho tôi tiếp tục chiến đấu tại đó và ông đã đồng ý.
- Ông chưa bao giờ sang Anh và chính quyền này cũng không gửi tiền cho ông chứ?
- Tôi chưa bao giờ sang Anh nhưng tôi vẫn nhận được một khoản và chỉ dựa vào đó để sống.
- Ông có liên lạc với giới quý tộc Pháp sống lưu vong ở London và gặp họ từ bao giờ
Tất nhiên, tôi vẫn liên lạc với ông và cha tôi nhưng từ lâu rồi không gặp họ, từ 1794 hay 95 gì đó.
- Ông giữ chức vụ gì trong quân đội Condé?
- Chỉ huy quân Tiên phong, trước năm 1796, tôi tự nguyện phục vụ tại tổng hành dinh của ông tôi.
- Ông biết tướng Pichegru chứ?
- Tôi cho là mình chưa bao giờ gặp ông ta, tôi không hề có quan hệ gì với người này. Tôi biết ông ta muốn gặp tôi những tôi tảng lờ không biết ông ấy.
- Ông biết tướng Dumouriez chứ? Ông có quan hệ với ông này không?
- Không, tôi chưa bao giờ thấy ông ta.
- Từ ngày hoà bình lập lại, ông chưa bao giờ liên lạc với nội bộ phe Cộng hoà chứ?
- Tôi có viết cho vài người bạn nhưng chỉ là thư thường không ảnh hưởng gì đến chính phủ.
Đại uý Autancourt chấm dứt cuộc hỏi cung, cho công tước Jacquin, trung uý Noirot hai viên hiến binh và chính Autancourt ký vào biên bản. Nhưng khi ký, công tước viết mấy dòng sau:
"Trước khi ký vào biên bản, tôi tha thiết yêu cầu được đặc cách gặp ngài Đệ nhất Tổng tài. Tên tuổi, địa vị cách nghĩ của tôi cũng như tình hình tệ hại của tôi cho tôi hy vọng ông sẽ không từ chối lời đề nghị này.
"LOUIS-A-H-DE BOURBON
Lúc đó Bonaparte đã lui về La Malmaison nơi ông cấm ai đến quấy rầy mình. Đó là địa điểm ẩn náu khi ông tuyệt đối muốn được ở một mình để suy nghĩ.
Phu nhân Bonaparte, hoàng hậu trẻ Hortense và toàn thể phụ nữ trong nhà đều tuyệt vọng. Nhiều lần Joséphine mạnh dạn đi vào phòng và trực tiếp đặt vấn đề. Nhưng ngài Bonaparte đã đáp lại bằng giọng dứt khoát.
- Cô im đi, để tôi yên. Các người là đàn bà thì đừng tham gia vào chính trị.
Về phần mình, tối ngày 20 tháng Ba, ông thư giãn chút ít, bình tĩnh sải bước rộng, hai tay chắp sau lưng và đầu chúi về phía trước như mọi khi. Cuối cùng, ông ngồi xuống một chiếc bàn và thấy có bộ bài liền nói to.
- Xem nào, ai trong số các phu nhân cho tôi chơi bài với?
Phu nhân Rémusat đứng dậy ngồi đối diện với ông nhưng chỉ vài phút, ông đã ném bộ bài xuống, không xin lỗi và đi ra.
Để hoàn toàn thoát khỏi vụ việc này, chúng ta cũng thấy ông rất tuyệt vọng, Bonaparte đã trút toàn bộ nhiệm vụ cho Murat.
Cuộc thẩm vấn kết thúc, hoàng thân mệt đến nỗi đi ngủ ngay lập tức Nhưng chỉ được một tiếng người ta lại vào phòng của ông, đánh thức ông dậy, bắt ông mặc quần áo rồi đưa xuống phòng hội đồng.
Chủ toạ hội đồng xét xử, tướng Hulin, có sự nghiệp may mắn hiếm thấy. Ông là người Thuỵ Sĩ, sinh tại Genève năm 1758. Giống như phần lớn người Genève khác, ông ta làm nghề sửa đồng hồ. Hầu tước Congflans thấy ông cao ráo và đẹp trai đã cho ông đi săn cùng. Khi tiếng súng đầu tiên từ nhà ngục Bastille vang lên là lúc ông ta đang chạy trong bộ trang phục tuyệt đẹp và thế là được phong làm tướng quân. Ông không hề cải chính sự nhầm lẫn đó, đứng đầu một đoàn người anh dũng nhất xông vào sân nhà tù của triều đình. Sau đó, ông mang quân hàm đại tá mà không ai phản đối cả. Chỉ mới vài tuần trước ông mới được phong hàm tướng quân. Lòng can đảm mà ông chứng tỏ cũng đáng nể lắm. Số là, trận đấu với Launay vừa kết thúc, ông đã chiến đấu rất kiên cường, chỉ dừng lại khi kiệt sức nằm vật xuống đất, tuy vậy vẫn không ngăn được ông hạ một sĩ quan nữa và cho hắn nát như tương.
Có thể vì nhớ lại lòng nhân ái ấy mà ông được bổ nhiệm làm chủ toạ uỷ ban xét xử công tước Enghien. Hoàng thân được xét hỏi lần thứ hai về đủ mọi chuyện. Nhưng trong một hội đồng chiến tranh thì chỉ có một việc phải làm là nếu hoàng thân nhận tội thì cho thi hành bản án. Và bản án đó như sau:
...
"1) Uỷ ban tuyên bố người có tên Louis-Antoine-Henri de Bourbon, tức công tước Enghien, thừa nhận là thủ phạm đã cầm vũ khí chống lại nước cộng hoà Pháp.
2) Thừa nhận là thủ phạm phục vụ cho chính phủ Anh, kẻ thù của dân tộc Pháp.
3) Thừa nhận là thủ phạm đã tiếp nhận lính từ chính phủ Anh, giúp họ mưu mô trên đất Pháp và cùng họ làm phản gây mất an ninh trong và ngoài nước.
4) Thừa nhận là thủ phạm đứng đầu một tổ chức lưu vong và những người khác do nước Anh hậu thuẫn đóng bên biên giới nước Pháp và ở các xứ Fribóurg và Baden.
5) Thừa nhận là thủ phạm liên lạc với người Strasbourg định gây tình hình có lợi cho nước Anh.
6) Thừa nhận là thủ phạm đồng loã trong cuộc mưu phản do người Anh giật dây nhằm vào tính mạng của ngài Đệ nhất Tổng tài và nếu âm mưu này thành công sẽ về Pháp nắm quyền"
Đọc xong phần khép tội trên, chủ toạ đọc nốt phần cuối liên quan đến áp dụng hình phạt. Phần này cũng được rành mạch như phần trên và uỷ ban thống nhất tuyên án tử hình cho người có tên Louis-Antoine-Henri de Bourbon tức công tước Enghien vì tội làm gián điệp, cấu kết với kẻ thù nước cộng hoà, âm mưu làm mất an ninh quốc gia.
Có một điều kỳ lạ khiến chính các thành viên của uỷ ban không nhận ra đó là không ai được báo trước mục đích họ được triệu tập làm gì. Một trong số thành viên uỷ ban còn phải đứng hàng tiếng trong hành lang mà không làm sao cho người ta nhận ra mình. Một người khác, vừa nhận lệnh vội đến thẳng Vincennes cứ tưởng mình bị bắt nên hỏi mãi phải làm gì để vào nhà giam.
Về lời yêu cầu mà công tước xin gặp ngài Bonaparte, một thành viên uỷ ban đề nghị nên chuyển nó đến chính phủ. Cả uỷ ban đều đồng ý nhưng có một tướng quân đứng sau ghế của ngài chủ toạ, người này hình như đại diện cho ngài Tổng tài, tuyên bố lời đề nghị này chưa đúng lúc, uỷ ban nên chuyển sang việc khác và dành việc làm thoả mãn phạm nhân sau.
Khi bản án đã xong, tướng Hulin với cây bút định viết cho ngài Bonaparte mong muốn của công tước Enghien thì người ban nãy bảo yêu cầu chưa phải lúc hỏi:
- Ngài làm gì thế?
- Tôi viết cho ngài Tổng tài - Hulin đáp - Tôi chuyển mong muốn của hội đồng xét xử và của phạm nhân đến ông ấy.
- Công việc của ngài thế là xong rồi - Người đàn ông ấy nói và cất bút đi - Bây giờ chuyện này không liên quan đến tôi nữa.
Sau khi tham dự buổi xét xử, Savary đi ra gặp đội hiến binh ưu tú và đứng ngoài bãi đất gần lâu đài. Viên sĩ quan chỉ huy toán quân nước mắt vòng quanh đến trình bày người ta xin anh ta cái cọc để thi hành bản án của uỷ ban quân sự.
- Đưa nó cho họ. - Savary nói.
- Nhưng tôi biết đặt nó ở đâu bây giờ?
- Ở chỗ nào mà anh không thể làm ai bị thương ấy.
Cái anh chàng đáng thương đi tìm khắp nơi. Sau khi xem xét mãi, anh ta quyết định chọn chỗ cái hố là chắc ăn nhất vì không thể làm ai bị thương được.
Cuộc họp hội đồng đã xong, công tước lại lên phòng mình đi ngủ. Đang ngủ ngon người ta lại đến gọi ông dậy để đọc bản án và thi hành nó. Vì bản án phải được đọc ở chỗ hành quyết nên người ta bắt ông ra khỏi giường và mặc quần áo. Ông hoàng không nghĩ người ta dẫn mình đi bắn đến nỗi khi xuống cầu thang dẫn đến hố của pháo đài ông hỏi:
- Chúng ta đi đâu thế này?
Cảm thấy hai cánh tay bị lạnh, ông xiết tay người quản lý lâu đài đang xách đèn hỏi nhỏ:
- Người ta cho giam tôi vào một xà lim à?
Chỉ một lát sau ông sẽ được giải thích hết nên chẳng ai cần trả lời. Dưới ánh sáng của ngọn đèn từ tay Harel, người ta đọc bản án của ông. Công tước thản nhiên nghe đọc. Sau đó ông rút một lá thư từ trong túi, chắc ông đã phòng sẵn cho tình huống này.
Lá thư có kèm một lọn tóc và một chiếc nhẫn vàng. Ông trao nó cho trung uý Noriot, người ông cảm thấy gần gũi và thân thiện nhất từ khi về Vincennes. Viên chỉ huy chịu trách nhiệm xử bắn hỏi ông:
- Ngài có muốn quỳ không?
- Sao phải làm thế? - ông hoàng hỏi.
- Để đón nhận cái chết.
- Một người Bourbon chỉ quỳ gối trước Chúa mà thôi!
Đám lính lùi lại vài bước. Đúng lúc ấy một con chó nhỏ vốn theo chân công tước từ Ettenheim chạy ra khỏi phòng đến dụi vào chân ông và sủa lên vui vẻ. Hoàng thân cúi xuống để vuốt ve nó, khi thấy đám lính chuẩn bị vũ khí, ông nói:
- Hãy chăm sóc cho con Fidèle đáng thương của tôi, đó là tất cả những gì tôi yêu cầu các vị - Rồi đứng thẳng dậy, ông nói - Tôi thuộc về các anh, hãy làm đi!
Bốn khẩu lệnh lần lượt: " Chuẩn bị vũ khí!", " Lên đạn!", " Ngắm!", "Bắn!", tiếng nổ chát chúa vang lên và hoàng thân đổ vật xuống. Ông nằm sấp và còn nguyên quần áo trong cái hố đào từ trước. Chỉ một lát sau, thi thể đã bị lấp đầy đất. Đám lính lấy chân dậm đất để cố gắng xoá đi dấu vết họ để lại trên cỏ.
Mới đọc xong bản án, tất cả các thành viên của uỷ ban quân sự đã muốn rời khỏi Vincennes. Ai cũng gọi xe nhưng họ bối rối trước cổng lâu đài vì chẳng có chiếc xe nào của những người vừa tham gia vào cái chết của một ông hoàng bất hạnh trước khi tiếng súng vang báo hiệu mọi việc đã kết thúc cả.
Mãi sau cửa mới mở và người nào người nấy vội lên xe, ra lệnh cho người đánh xe rời khỏi cái lâu đài đáng nguyền rủa này càng nhanh càng tốt. Có thể nói rằng tất cả những con người anh hùng này có thể trên chiến trường, đối diện với cái chết họ sẽ không lùi một bước nhưng bây giờ đang hấp tấp chạy chốn trước một thây ma.
Savary có lẽ là người bị ấn tượng hơn những người khác cũng lên đường về Paris. Đến trạm gác, anh gặp ngài Réal đi đến Vincennes trong bộ quần áo hội đồng. Anh chặn ông lại hỏi:
- Ngài đi đâu đấy?
- Đến Vincennes - ông Réal đáp.
- Ngài đến đó làm gì? - Savary hỏi.
- Thì đến thẩm vấn công tước Enghien theo lệnh của ngài Đệ nhất Tổng tài chứ là gì nữa.
Công tước Enghien đã chết cách đây mười lăm phút rồi - Savary nói.
Ông Réal kêu lên ngạc nhiên gần như khiếp hãi và tái mét người.
- Ôi tại sao lại vội vàng làm hại ông hoàng bất hạnh ấy thế?
"Câu trả lời cho câu hỏi đó, tôi bắt đầu nghi ngờ cái chết của công tước Enghien là tác phẩm của ngài Đệ nhất Tổng tài" - Savary đã nói như vậy trong tập Hồi ức của mình.
Ông Réal quay trở lại Paris còn Savary thẳng đến Malmaison để báo cáo cho ngài Đệ nhất Tổng tài biết mình thấy gì. Lúc đó là mười một giờ. Ngài Tổng tài cũng ngạc nhiên như ngài Réal khi nghe thông báo về cái chết này. Làm sao họ lại thẳng thừng với phạm nhân khi ông hoàng muốn gặp ông?
- Theo những gì tôi biết về tính cách của ông ta, tất cả có thể dàn xếp được giữa chúng tôi - Ngài Bonaparte nói rồi lại bước những bước dài - Trong chuyện này có điều gì đó khiến ta không hiểu! Việc uỷ ban đồng ý thỉnh cầu của công tước Enghien thì có gì phức tạp. Mà mong muốn ấy có ngay từ lúc đầu vụ xét xử! Việc tiến hành bản án chỉ diễn ra sau khi ngài Réal thẩm vấn một điểm quan trọng cần làm sáng tỏ cơ mà.
Ông nhắc lại:
- Ở đây có cái gì đó đang xảy ra với tôi? Vụ này chẳng đi đến đâu và chỉ nhằm mục đích khiến tôi trở nên bỉ ổi!
Cũng khoảng mười một giờ, đô đốc Truguet hoàn toàn chưa biết sự kiện định mệnh này xảy ra, đến La Malmaison để báo cáo với ngài Đệ nhất Tổng tài công việc do ông chịu trách nhiệm tổ chức tàu thuyền ở Brest. Không thể vào phòng làm việc của ngài Tổng tài vì ông đang tiếp Savary, viên đô đốc hải quân đành chờ ở phòng khách. Ông ngạc nhiên khi thấy phu nhân Bonaparte nước mắt lã chã và ở tình trạng rất tuyệt vọng. Bà vừa được tin vụ hành quyết hoàng thân, bà không thể dấu được nỗi sợ hãi cho tương lai sau thảm hoạ kinh khủng này.
Chính bản thân đô đốc khi được tin bất ngờ này cũng phải rùng mình và nỗi lo lắng càng tăng lên khi ngài Tổng tài cho gọi ông. Đến phòng làm việc của ngài Bonaparte, ông cố gắng trình bày:
- Thưa công dân Tổng tài, tôi đến báo cáo công việc ngài giao cho tôi về hạm đội Brest.
- Cảm ơn - Bonaparte nói và tiếp tục đi đi lại lại, sau đó ông đột ngột dừng lại - Này Truguet, lại bớt được một tên Bourbon.
- Ái chà! - Truguet nói - Có phải Louis XVIII không may chết rồi không?
- Không. Thế đã tốt! - Bonaparte giận dữ nói - Tôi đã cho bắt công tước Enghien ở Enenheim; tôi cho giải hắn về Paris và sáu giờ sáng nay hắn đã bị bắn ở Vincennes.
- Nhưng mục đích của hành động nghiêm khắc này là gì vậy?
- Thực tình, đã đến lúc phải chấm dứt bọn sát nhân nhắm vào tôi Bây giờ, người ta sẽ không nói tôi muốn sắm vai Monck nữa - Bonaparte đáp.
Hai ngày sau thảm hoạ đó, Boumerine lo ngại trước tình trạng của phu nhân Bonaparte liền gởi thư hỏi xem bà có thể tiếp anh ta không. Lá thư khẩn được chấp nhận, Boumerine chạy vội đến La Malmaison và được đưa ngay vào phòng nơi chỉ có Joséphine, phu nhân Louis Bonaparte và Rémusat. Cả ba đều rất buồn.
- Boumerine đây rồi - Phu nhân Bonaparte kêu lên khi nhìn thấy anh chàng này - Ôi thật là bất hạnh khủng khiếp! Giá ngài biết ông ta từ trước đến giờ! Ông ấy lánh mặt, sợ tiếp xúc với tất cả mọi người, thế mà ai lại đổ cho ông ta có hành động như thế chứ?
Boumerine biết mọi chi tiết về cuộc hành án qua Harel nên kể lại.
- Thật là ác độc! - Joséphine kêu lên. Ít ra người ta cũng không bảo đó là lỗi của tôi vì tôi đã cố gắng ngăn cản dự định thảm thiết này. Ông ấy không nói cho tôi biết nhưng tôi đã đoán được. Ôi giá ngài biết ông đã từ chối lời thỉnh cầu của tôi thế nào? Tôi đến quỳ gối trước ông ấy thế mà ông ấy giận dữ nói "Hãy đi mà lo chuyện của cô. Đây không phải là chuyện của đàn bà, hãy để tôi yên?" Rồi ông ấy đẩy mạnh tôi như lần ông ấy về Ai Cập. Rồi dư luận Paris sẽ thế nào? Tôi chắc là đâu đâu cũng có lời nguyền rủa bởi vì ở đây ngay cả những kẻ nịnh bợ cũng có vẻ e dè trước sự có mặt của ông ấy. Ngài cũng biết khì không hài lòng về mình ông ấy cũng tỏ ra như vậy với tất cả mọi người rồi đấy; không ai dám nói với ông ấy nửa lời. Còn đây là tóc và chiếc nhẫn vàng ông hoàng tội nghiệp xin tới gửi cho một người yêu dấu của ông ta. Viên đại tá mà ông ấy tin tưởng đã đưa cho Savary và Savary trao lại cho tôi. Savary cũng nước mắt lưng tròng khi kể với tôi về giây phút cuối cùng của công tước đến nỗi chính cậu ta cũng phải xấu hổ. "Ôi, kể ra thì không sao thưa phu nhân - Anh ta vừa nói vừa gạt nước mắt - nhưng người ta không thể nhìn một con người như thế ra đi mà không thấy xót xa”.
Ngài Chateaubriand chưa đi đến đại sứ quán Valais, lúc ngang qua vườn Tuileries tình cờ nghe được một nam một nữ đang rao tin chính thức. Những người qua đường vội dừng lại, sững sờ trước những lời sau:
"Bản án của uỷ ban quân sự đặc biệt triệu tập tại Vincennes đã tuyên án tử hình cho người có tên là Louis-Antoine-Henri de Bourbon tức công tước Enghien, sinh ngày 2 tháng 8 năm 1772 ở Chantilly".
Lời rao ấy giáng xuống ông như tiếng sét nổ ngang tai, trong giây lát, ông cũng sững sờ như những người khác. Sau đó, ông trở về nhà ngồi vào bàn viết đơn xin từ chức rồi ngay ngày hôm đó gửi cho Bonaparte.
Ngài Bonaparte nhận ngay ra nét chữ của Chateaubriand, ông xoay xoay lá thư trong tay mấy lần rồi mới bóc niêm phong và đọc. Đọc xong ông giận giữ ném nó xuống bàn:
- Càng tốt! - Chúng tôi không bao giờ có thể hoà hợp được, ông ta chỉ là quá khứ, tôi mới là tương lai!
Phu nhân Bonaparte quả không nhầm khi lo ngại ảnh hưởng của cái chết của công tước Enghien. Qua những người rao tin, Paris hồi âm lại bằng những lời bàn tán xôn xao, không chỗ nào nói đến từ "xét xử" công tước Enghien mà đâu đâu cũng nói "ám hại" công tước Enghien. Không ai tin công tước là thủ phạm và đã có một cuộc hành hương thật sự kéo đến xem hố chôn ông ta.
Nhưng người ta đã cho lấp cỏ lên đó khiến không ai có thể nhận ra chỗ nào là chỗ chàng trai trẻ bị chôn nếu không có một con chó chỉ cho họ vì lúc nào nó cũng nằm lên chỗ ấy. Đám người nhìn trân trân vào cái hố cho đến khi trước mắt khiến hình ảnh ấy nhào đi, thế là họ thì thầm gọi:
- Fidèle! Fidèle! Fidèle!
Con chó đáng thương đáp lại những tiếng gọi trìu mến ấy bằng những tiếng rên dài và buồn bã.
Một buổi sáng, người ta tìm mãi mà không thấy con Fidèle đâu, chỗ của nó vẫn còn hiển hiện với những ai nhìn thấy bằng tấm lòng, còn Fidèle lo ngại cảnh sát đã biến mất.
Chúng ta trở lại với Pichegru, ban đầu ông ta chối bỏ tất cả mọi việc nhưng một cận vệ của Moreau đã nhận ra ông ta là người bí mật đến nhà ông chủ của hắn thì Pichegru không chối cãi nữa và chịu chung số phận như Georges.
Khi đến nhà ngục Temple, người ta dành cho Pichegru một phòng tầng trệt. Đầu giường của ông quay ra cửa sổ nên chiếc bàn nhỏ bên cạnh giường được ánh sáng từ cửa sổ chiếu vào rất rõ, nhờ đó ông có thể đọc trên giường. Bên ngoài cửa sổ có một nhóm canh gác có thể quan sát nhất cử nhất động của ông ta trong phòng.
Giữa Georges và Pichegru chỉ có một phòng chờ nho nhỏ ngăn cách. Có một cảnh sát bị nhốt vào phòng này, chìa khoá do người gác cổng giữ. Anh ta chỉ có thể báo động bằng cách gọi ngoài cửa sổ, khi đó lính gác ngoài hành lang sẽ chạy đi báo tin cho người gác cổng.
Như vậy Pichegru hầu như có hai cảnh sát kè kè không rời mắt nửa giây, thêm nữa phòng của ông ta chỉ cách có một bức vách với phòng của ngài Bouvet de Lozier, chúng ta chắc còn nhớ ông này đã từng có tự tử bằng dây cà vạt. Cách đó ba bốn bước về phía tiền sảnh phía bên phải là phòng của Georges mở cửa suốt ngày đêm. Có hai cảnh sát hiến binh và một cảnh sát hình sự theo dõi ông ta.
Sau buổi gặp ngài Réal, Pichegru giống như Georges trước đây từng bị hai hiến binh ở trong phòng, đã yêu cầu điều hai lính gác phiền toái này đi. Lời đề nghị được chuyển đến ngài Bonaparte. Ông nhún vai nói:
- Việc gì phải làm hắn ta mệt mỏi một cách vô ích? Đám lính ấy ở trong phòng không phải để ngăn hắn ta chạy trốn mà để ngăn hắn tự tử. Và một khi ai đó muốn chết thật sự thì thế nào cũng đạt được mục đích.
Người ta để cho Pichegru một lọ mực và cây bút lông ngỗng cho ông ta làm việc. Đó là những dự định liên quan đến việc chỉnh đốn kinh tế đảo Guyane, thứ làm ông rất thích. Rõ ràng với khả năng hoạch định chiến lược gấp đôi ngày thường, là con người giỏi tính toán số liệu cộng với những ký niệm đi săn trên mảnh đất trên biển này ông bắt tay vào việc ngay với niềm hân hoan thích thú.
Việc Bonaparte ám chỉ Pichegru có ý định tự vẫn không phải là vô căn cứ. Hầu tước Rivière đã kể có đôi lần đi lang thang cùng Pichegru ở Paris vì sợ về nhà dễ bị bắt, viên tướng đã đột ngột dừng lại, gí họng súng vào đầu mình và nói:
- Kỳ thực, không cần phải trốn đi đâu nữa, chúng ta dừng lại ở đây thôi!
Ông Rivière đã xông vào gỡ khẩu súng ra. Pichegru ít ra là lúc đó đã nghĩ lại và bỏ ý định tự tử. Sau đó ông dẫn Rivière đến nhà một phụ nữ đồng ý cho họ ẩn nhờ trên phố Noyers. Đến đó, Pichegru đặt con dao găm lên bàn và nói:
- Còn một tối như hôm nay nữa thôi rồi tất cả sẽ chấm hết.
Charles Nodiers, trong những hồi ức về thời kỳ cách mạng đã kể một chuyện khá kỳ lạ, nó giống như một điềm báo cho người mười một năm sau phải vào Temple: "Giống như tất cả bộ tham mưu, Pichegru thắt cà vạt bằng lụa đen khít quanh cổ. Không như mốt thời đó đeo cà vạt kiểu Saint-Just, anh chàng này chỉ quấn một nút. Theo lệnh của Saint-Just, mọi người đều để nguyên trang phục khi đi ngủ, Pichegru và hai thư ký của mình ngủ cùng một phòng, mỗi người có một tấm nệm trải xuống sàn nhà. Pichegru rất ít ngủ, chỉ ba bốn tiếng gần sáng mà thôi".
Một đêm, Nodiers đang chìm trong giấc ngủ nặng nề, ông ta gặp một cơn ác mộng trong đó các thổ dân da đỏ xiết cổ mình thì ông ta cảm thấy có một bàn tay luồn xuống cổ nới nút cà vạt ra. Ông bật thức giấc, mở mắt và nhận ra tướng quân đang quỳ gối cạnh mình.
- Là tướng quân ư?
- Ngài cần tôi sao?
- Không - Pichegru đáp - Ngược lại, chính ông mới cần tôi.
- Ông bị đau và kêu la, tôi nhìn qua cũng biết ngay lí do. Khi đeo cà vạt chặt, cần phải cho chúng nghỉ ngơi khi ta đi ngủ nếu không chỉ cần quên đi là gây ra nghẽn máu và sẽ chết tức thì. Đó là một cách tự tử đấy.
Trong những lần ngài Réal đến thăm và hỏi han về cách thuộc địa hoá đảo Guyane, ông hỏi xem liệu Pichegru có cần gì không.
- Có sách, mang cho tôi sách - Pichegru đã yêu cầu.
- Sách lịch sử ư? - ông Réal hỏi.
- Không! Sách lịch sở ư, tôi đội trên đầu quá nhiều rối, hãy gửi cho tôi sách của Sénèque: Tôi giống như một con bạc.
- Tướng quân - Ngài Réal vừa nói vừa cười - Một con bạc chỉ đọc Sénèque khi nó đã thất bại hoàn toàn. Ngài đâu đến mức như vậy!
Đồng thời, Pichegru cũng muốn được gửi bức chân đung người ta vẽ ông mà ông gắn bó nhất. Sách của Sénèque được gửi đến và ngài Desmaret đi lấy bức hoạ nhưng thấy nó bị thay đổi nên lại thôi không gửi nữa.
Khi đấy chỉ có mỗi sách, Pichegru hỏi bức hoạ đâu, người ta đưa ra lý do từ chối: nó quá xấu.
- Thế đấy! - Pichegru nói với người gác cổng - Tôi nghĩ ngài Réal đã chế giễu tôi khi ông ấy nói về Cayenne với tôi.
Và ông ta sốt ruột chờ ngài Réal đến thăm lần thứ hai.
Nhưng vào thời điểm ấy, vụ việc của Công tước Enghien xảy ra khiến cho ngài Réal bận tối tăm mặt mũi, không có thời gian đến thăm Pichegru lần nữa. Chính thế mà người này quyết định tự tử. Ban đầu ông ta kêu lạnh nhưng vì trong phòng có một lò sưởi nên người ta cho đốt lửa. Muốn vậy, người ta phải mang đến những thanh củi khô cho dễ cháy.
Ngày hôm sau nữa, khi vào phòng ban sáng, người ta đã thấy ông nằm trên giường thanh thản, bất động. Họ lay gọi.
Ông đã chết!
Một giờ sau khi nhận được tin dữ, tức là khoảng tám giờ sáng, Savary đang gác ở Tuileries thì nhận được một tờ giấy của một hiến binh ưu tú, hôm ấy chỉ huy trạm gác ở Temple. Anh ta báo vài phút trước, tướng Pichegru đã được phát hiện chết trên giường và mọi người đang chờ ai đó đến xem xét sự việc. Ngay lập tức Savary chuyển tờ giấy đến cho ngài Tổng tài thứ nhất. Ông cho gọi anh ta đến, tưởng Savary biết nhiều hơn. Thấy anh này không biết gì, ông bảo:
Nhanh lên, đến đó xem có tin tức gì không. Một cái chết cho kẻ chinh phục Hà Lan mới hay hớm làm sao!
Savary không để lỡ một phút nào vội chạy đến Temple, đúng lúc ngài Réal cũng vừa tới nơi theo chức danh chánh án đến xem xét tình hình. Chưa một ai vào phòng ngoài người gác đã phát hiện tai nạn trước tiên. Ngài Réal và Savary được đưa lại gần chiếc giường của nạn nhân và nhận ra ông ta rất rõ dù khuôn mặt đã trở nên đỏ bầm do hậu quả của chứng ứ máu.
Ông tướng ấy nằm nghiêng bên phải, quanh cổ, chiếc cà vạt bị xoắn như một sợi dây cáp. Hình như ông ta đã quấn nó ở mức chặt nhất có thể, sau đó lấy một đoạn củi dài mười lăm centimet luồn vào rồi vặn cho đến khi sợi dây siết mạnh cho đến lúc không còn tỉnh táo nữa, đổ vật xuống gối, do sức nặng của cái cổ đè xuống, đoạn củi không níu chặt không để đây nới ra. Trong trường hợp này, việc ứ máu chưa thể xảy ra nên tay òng ta còn luồn lên cổ và chạm vào cái tay quay.
Bên cạnh đó là chiếc bàn nhỏ, trên bàn, một quyển sách mở sẵn như ai đó vừa đọc dở dang. Đó là cuốn sách Sénèque mà ngài Réal đã gửi cho ông ta. Nó vừa mở đúng trang mà Sénèque nói: "Kẻ nào muốn làm phản trước hết phải đừng sợ chết”.
Rất có thể, đây là đoạn cuối cùng Pichegru đã đọc. Ông ta tưởng, nhất là sau tin đồn về cái chết của công tước Enghien, trước sau viễn cảnh ông cũng không hơn gì ngoài bản án của ngài Tổng tài hoặc phải chết.
Người ta cho thẩm vấn tất cả những ai có thể biết các chi tiết về cái chết bất ngờ và kỳ lạ ấy bởi lẽ, suy nghĩ đấu tiên nảy ra trong đầu Savary là ngài Bonaparte sẽ bị đổ lỗi đầu tiên về cái chết ấy.
Trước tiên, anh thẩm vấn viên hiến binh gác trong phòng chờ ngăn giữa Georges và Pichegru. Suốt đêm, người này không nghe thấy gì ngoài lúc một giờ sáng có tiếng tướng Pichegru ho nhưng ông ta đã nén lại ngay chắc vì sợ làm mọi người xung quanh thức giấc. Tiếp đó, Savary thẩm vấn viên hiến binh gác ngoài cửa sổ, người thấy tất cả mọi việc trong phòng nhưng anh này cũng khẳng định không thấy gì cả. Thế là ngài Réal đâm ra tuyệt vọng.
Dù không có gì chứng tỏ rõ hơn là vụ tự tử nhưng dù nói gì người ta vẫn cho là ông ta bị siết cổ.
Quả nhiên, người ta nói như vậy, nhưng sự thất lại không đúng. Kể ra cũng chẳng có lý do gì để Pichegru phải nghĩ quẩn vì ngài Tổng tài đã giao ông ta một dự án mà ông ta dành cả đời theo đuổi cơ mà, dự án sử dụng đến tiếng tăm của chính ông.
Ngài Bonaparte không chỉ đặc ân cho Pichegru, người thầy cũ của mình ở Brienne mà còn giao cho ông một nhiệm vụ vinh dự ở Cayenne, nhiệm vụ sẽ xoá bớt tiếng xấu của ông dù bản án của Moreau có như thế nào.
Vả lại sau sức ép dư luận về vụ hành quyết công tước Enghien, dại gì ông lại phải nhân lên lời bàn tán xì xào của công chúng chống lại ông bằng cách ám hại Pichegru trong đêm.
Tiếc thay, - Ngài Bonaparte nói với Réal khi thấy ông này quay lại - Chúng ta cứ ngỡ đã giải quyết vấn đề Guyane theo cách của ông ấy chỉ với 6 triệu người da đen và 6 triệu đồng !
Nếu như cảnh sát dùng mọi biện pháp để bắt Georges thì từ lúc rời London đến Paris và từ ngày đặt chân lên đất Pháp cho đến ngày thứ sáu, mồng 9 tháng Ba; vừa có người không rời mắt nửa bước khỏi ông ta, đó là nhân viên tinh nhuệ nhất trong số quân của công dân Fouché, anh chàng Thợ Nề.
Cũng chính ông Fouché biết rằng Georges là người không thể không dùng vũ khí khi bị tấn công nên ông ta không muốn anh chàng Limousine ra mặt vì nhỡ tay Bretagne nổi giận thì Thợ Nề nguy mất.
Fouché trù tính bắt Georges tại dinh của mình. Mãi chín rưỡi tối nó mới đến chỗ ông ta. Ông ta cho gọi Limousine đang ở phòng bên cạnh.
- Anh cũng nghe rồi đấy - Fouché nói - Bây giờ chúng ta chỉ còn phải bắt Villeneuve và Burban nữa.
- Khi nào cần, chúng ta sẽ bắt họ. Tôi biết họ đang ở đâu.
- Đối với những người này thì chưa vội, chúng ta còn thời gian. Chỉ có điều đừng để mất dấu của họ.
- Thế tôi đã để mất dấu của Georges chưa?
- Chưa. Nhưng ngài lại để sót mất một thứ, chính ngài ấy.
- Tôi?
- Đúng vậy.
- Thứ gì?
Tiền của Georges. Khi chúng tôi rời London, ông ta có hơn một trăm nghìn phăng bên mình.
- Anh sẽ chịu trách nhiệm tìm thấy số tiền ấy chứ?
- Tôi sẽ gắng hết sức, chỉ có điều không có gì dễ biến mất như tiền.
- Anh sẽ bắt đầu truy lùng nó ngay tối nay.
- Tôi có được nghỉ ngơi đến tối mai không?
- Bằng giờ này ngày mai, tôi có cuộc hẹn với ngài Tổng tài thứ nhất. Tôi sẽ rất vui nếu cổ thể trả lời tất cả các câu hỏi của ông ấy.
Ngày hôm sau, đúng chín rưỡi, Fouché đã có mặt tại Tuileries. Đó là thời điểm trước khi có quyết định bắt công tước Enghien. Khi đến cuộc bắt Georges, là chúng ta vừa lui lại một bước.
Fouché thấy ngài Tổng tài thứ nhất đang bình tĩnh và khá vui vẻ.
- Tại sao ông không đến báo việc bắt Goerges chotôi? - Ngài hỏi.
Bởi vì cũng phải để việc gì đó cho người khác làm chứ - Fouché đáp.
- Ông biết tình tiết vụ bắt đó không?
- Hắn đã giết một cảnh sát có tên là Buffet và làm bị thương Caniolle.
- Hình như cả hai đều đã có vợ.
- Vâng.
- Cần phải dành một khoản cho vợ của hai con người đáng thương đó.
- Tôi đã nghĩ đến rồi: một khoản trợ cấp cho người phụ nữ goá và một khoản tiền thưởng cho vợ người bị thương.
- Lẽ ra nước Anh phải trả khoản này mới đúng.
- Thì chính họ chứ ai.
- Sao lại thế?
- Nếu không cũng là Cadoudal. Nhưng vì tiền cửa Cadoudal cũng là tiền của nước Anh thì tóm lại vẫn là nước Anh thanh toán tiền thôi.
- Nhưng người ta nói với tôi hắn chỉ có một nghìn hay một nghìn hai trăm phăng bên người, khi khám xét chỗ ở của hắn, người ta có thấy gì nữa đâu.
- Hắn rời London với một trăm nghìn phăng. Hắn đã tiêu mất ba mươi nghìn từ khi về Paris. Hắn chỉ còn bảy mươi nghìn, khoản này thừa để trả cho hai người phụ nữ kia.
- Nhưng bảy mươi nghìn ấy ở đâu? - Ngài Bonaparte hỏi.
- Chúng đây - Fouché nói.
Rồi đặt lên bàn một túi vàng nhỏ và cái ngân phiếu.
Bonaparte tò mò dốc xuống bàn. Có bốn mươi nghìn phăng bằng tiền vàng Hà Lan còn lại là ngân phiếu.
- Kỳ lạ! Bây giờ người Hà Lan lại trả tiền cho những kẻ ám sát tôi sao?
- Không, chắc chúng sợ tiền Anh sẽ gây nghi ngờ đó thôi.
- Làm sao ông tìm được khoản này?
- Ngài cũng biết câu tiên đề của giới cảnh sát rồi đấy: "Anh hãy tìm đàn bà là ra tất"
- Tốt lắm! Rồi sao?
- Tôi đã cho tìm phụ nữ và tôi đã thấy.
- Hãy nói rõ xem nào, tôi thấy tò mò quá.
- Được thưa ngài, tôi biết có một nàng Izai nào đó, một người có quan hệ với chúng và thuê một phòng nhà chị bán hoa quả để thỉnh thoảng bọn làm phản tụ tập. Cô ta vừa đến gần đó thì Georges lên xe, hắn đoán đã bị theo dõi nên chỉ kịp ném cái túi nhỏ vào tạp dề của cô ta và kêu "Đến nhà Carob bán nước hoa!" Chỉ Camolle nghe thấy những lời này và cũng chỉ kịp nói với một nhân viên:
- Bám theo ả!
- Thế có nghĩa là gì? - Bonaparte hỏi.
Nghĩa là đuổi theo và không rời mắt khỏi cô ta.
Georges đã lao xe đi, cô ta đi lang thang trên phố, nhưng khi đến ngã tư Odéon khi đó Georges vừa bị bắt, cô ta thấy có đám đông nên không dám đi qua. Bấy giờ cô ta mới biết Georges đã bị bắt. Không dám về nhà, cô ta trốn tại nhà một cô bạn và nhờ người này giữ hộ cái túi. Tôi đã cho khám xét nhà người bạn của cô ta và tìm thấy cái túi. Chuyện chỉ có thế. Lạy Chúa! Quả không có gì dễ hơn.
- Thế ông không cho bắt Izai sao?
- Có chứ, nhưng chúng tôi không cần cô ta nữa. Đó là một cô bé ngoan đạo đáng được Chúa phù hộ.
- Sao lại thế? - Bonaparte nhíu mày hỏi - Ông biết thừa là tôi không thích những hành động phản nghịch.
- Ngài có biết gì đeo trên cổ cô ta không?
- Sao ông lại muốn tôi biết nó? - Bonaparte hỏi và dù không muốn ông vẫn bị sự tò mò lôi cuốn trong câu chuyện với Fouché, một ưu thế mà Bonaparte không có so với Fouché đó là biết lắng nghe.
- Là vì cô ta có một chiếc phù hiệu có ghi dòng chữ như sau: "Mảnh vỡ của cây thánh giá chính gộc. Tín đồ sùng đạo ở Sainte-Chapelle Paris và giáo đoàn Saint-Pierre ở Lille”.
- Thôi được rồi - Bonaparte nói - Một cô nàng Saint-Lazare. Đám trẻ của anh chàng Buffet bất hạnh và Camolle sẽ được nuôi dưỡng bằng ngân sách Nhà nước. Ông mang năm mươi nghìn phăng tiền tìm thấy tại nhà cô bạn Izai cho chị goá Buffet, còn lại cho Caniolle. Tôi thêm vào khoản trợ cấp một nghìn phăng cho chị gái Buffet.
- Chắc ngài muốn cô ta chết vì sung sướng hay sao?
- Tại sao vậy?
- Vì chị ta thấy rằng việc chồng mình chết đã là may mắn lắm rồi.
- Tôi không hiểu - Bonaparte sốt ruột nói.
- Sao ngài không hiểu cơ chứ! Tay chồng là một tên vô lại, ngày nào cũng say xỉn và đánh đập vợ. Kể ra tội đồ Georges của chúng ta ném một viên đá cũng trúng hai đích đấy.
- Bây giờ, khi mọi việc bắt Georges đã hoàn tất, ông hãy chuyển dần các biên bản hỏi cung cho tôi chừng nào chúng đến tay ông. Tôi muốn theo dõi vụ này từng bước và thật cẩn thận.
- Tôi sẽ mang bản đầu tiên ngay đây - Fouché nói - Nguyên bản từ chính miệng Georges và ngài Réal đấy.
- Thỉnh thoảng, các ông cũng thay đổi lời cung của tội phạm chứ?
- Chắc ngài cũng biết các bài diễn văn không bao giờ ở trên báo Le Moniteur như ở trên trục đúng không? Việc các lời cung cũng vậy, chúng tôi không thay đổi, chúng tôi chỉ cho chúng chau chuốt hơn thôi.
- Hãy xem bản khẩu cung của Georges nào.
Fouché chuyển một tập giấy cho ngài Tổng tài thứ nhất.
Ông vội vã cầm nó lên, lật qua một số câu hỏi thủ tục, chuyển ngay sang trang thứ tư.
Hỏi: Ông ở Paris từ bao giờ?
Đáp: Cách đây năm, sáu tháng. Tôi không nhớ rõ thời điếm.
Hỏi: Ông đã trọ đâu?
Đáp: Không đâu cả.
Hỏi: Mục đích đến Paris của ông là gì?
Đáp: Tấn công ngài Tổng tài thứ nhất.
Hỏi: Dùng dao găm à?
Đáp: Không, dùng vũ khí như đội cận vệ của hắn.
Hỏi: Ông giải thích xem nào.
Đáp: Tôi dùng sĩ quan của tôi đã đếm kỹ các cận vệ của Bonaparte, họ có ba mươi người. Tôi cùng hai mươi chín người của mình sẽ chiến đấu giáp lá cà với họ sau khi chăng dây cản đường ở Champs-Élysées. Cuối cùng, bằng quyền lợi chính đáng và sức mạnh từ lòng can đảm của chúng tôi, Chúa sẽ phán xét phần còn lại.
Hỏi: Ai là người đến Pháp cùng làm nhiệm vụ này với ông?
Đáp: Các hoàng thân. Một trong số họ lẽ ra phải đến gặp chúng tôi ngay khi tôi thông báo các điều kiện đủ để đạt đến mục đích của mình.
Hỏi: Những người nào thường gặp ông ở Paris?
Đáp: Cho phép tôi không trả lời ông. Tôi không muốn tăng thêm số nạn nhân nữa.
Hỏi: Pichegru có vị trí gì trong kế hoạch tấn công ngài Tổng tài thứ nhất không?
Đáp: Không. Ông ta không khi nào muốn nhắc đến chuyện này.
Hỏi: Nhưng nếu việc tấn công của ông thành công, ông ta có thuận hành động vì lợi ích cái chết của ngài Tổng tài chứ?
Đáp: Đó là bí mật của ông ta chứ không phải là của tôi.
Hỏi: Giả sử vụ tấn công của ông thành công, dự định của ông và của các đồng phạm khác là gì?
Đáp: Đưa nhà Bourbon thay vị trí ông Tổng tài.
Hỏi: Thế người nào nhà Bourbon đã được chỉ định?
Đáp: Louis-Xavier-Starnilas, chúng ta vẫn biết ngài là Louis XVIII.
Hỏi: Như vậy, kế hoạch đã được thoả thuận và được thực thi trong sự đồng thuận với các ông hoàng nước Pháp phải không?
Đáp: Đúng thế, thưa công dân thẩm phán.
Hỏi: Như vậy, ông đã đồng loã với những cựu hoàng tộc?
Đáp: Đúng, thưa công dân thẩm phán.
Hỏi: Ai cung cấp tiền và vũ khí cho các ông?
Đáp: Tôi có tiền để dành từ lâu, còn vũ khí thì chưa có.
Bonaparte giở sang trang khác nhưng không thấy gì. Bản hỏi cung kết thúc ở đấy.
- Dự định của Georges thật là phi lý hết sức - ông nói - Định ám sát tôi bằng số người như đoàn tuỳ tùng của tôi ư?
- Ngài đùa à! - Fouché nói với nụ cười chế nhạo - Người ta đâu có muốn ám sát ngài. Người ta chỉ muốn giết ngài. Đó là trận chiến Ba Mươi, một kiểu đọ gươm thời trung cổ có thêm quân hộ tống.
- Đấu gươm với Georges à?
- Ngài chẳng cũng muốn đấu với Moreau không cần ai chứng kiến đó thôi.
- Moreau là Moreau, ông Fouché ạ. Đó là một đại tướng quân, một người đánh chiếm các thành trì, một kẻ thắng trận với cách làm biên giới nước Pháp rộng ra, việc nghỉ hưu của ông ta được coi như Xénophone. Trận Hohenlinden đã đưa ông ta ngang tầm với những tướng Hoche hay Pichegru, trong khi đó Georges chỉ là thủ lĩnh của bọn kẻ cướp một dạng Spartacus của Bảo hoàng mà thôi, một kẻ mà để chống lại hắn, người ta chỉ cần tự vệ chứ không chiến đấu, đừng quên điều đó, ông Fouché ạ.
Nói xong, ngài Bonaparte đứng dậy để ám chỉ cho Fouché biết công việc của ông ta đã xong.
Hai tin kinh hoàng về việc hành quyết công tước Enghien và vụ tự sát của Pichegru vừa khiến Paris xôn xao cách nhau chỉ vài ngày. Cũng phải nói việc hành quyết tàn bạo một người khiến người ta khó tin người kia tự tử được. Nhất là trong nhà ngục Temple, nơi giam giữ hầu hết các phạm nhân, tin này còn gây ra những ảnh hưởng đáng sợ hơn và lời dự đoán của ngài Réal với Savary lúc Pichegru chết đã trở thành sự thật: "Chúng ta có chứng minh việc tự tử của ông tướng này cũng vô ích, chúng ta không thể ngăn mọi người cho rằng chính chúng ta đã xiết cổ ông ấy".
Tôi đã đưa ra ý kiến của mình, một ý kiến hoàn toàn chủ quan về cái chết của vị tướng đó, bây giờ sẽ chính đáng hơn khi đưa ra ý kiến của những người sống trong cùng nhà tù với kẻ chiến thắng Hà Lan. Họ đã xét ở một góc độ nào đó, tham dự vào một cuộc đời rất đỗi vinh quang nhưng cũng không ít chông gai của ông ta.
Chúng ta sẽ lần lượt nghe những tù nhân sống gần phạm vi ấy nói về sự việc này. Đó là một người mà chúng ta chưa nhắc đến tên lần nào, một người có ảnh hưởng đen tối lên cuộc đời Pichegru, kẻ bán sách người Thuỵ Sĩ tên là Fauche-Borel, người đã chuyển lời mới đầu tiên từ hoàng thân Condé đến ông và đã bị bắt và đưa vào Temple ngày 1 tháng Bảy năm ngoái.
Nhà tù này lần lượt đón các tội phạm: Moreau, Pichegru, Georges và tất cả tòng phạm trong vụ đại phản loạn như Joyaut, bí danh Villeneuve, Roger tức L’oiseau, và cuối cùng là Coster-Saint-Victor. Coster-Saint-Victor được các cô nàng xinh đẹp lẳng lơ che giấu nên thoát được sự truy lùng của cảnh sát khi mỗi tối đổi một chỗ ở. Khi được hỏi, Fouché đã nói: Các ông hãy cho một người biết mặt hắn theo dõi ngoài cửa tụ điểm vui chơi Frascati và các ông sẽ không mất ba ngày là tóm được hắn ra vào nơi này.
Quả nhiên ngày thứ hai, Coster đã bị bắt.
Vào thời điểm công tước Enghien bị bắt, tại Temple đã có 107 phạm nhân và nhà tù không còn chỗ cho công tước nữa. Từ đó đến trạm gác cách 5 giờ đồng hồ, người ta đành tìm tạm một chỗ để ông chờ cho đến khi có bản án cuối cùng. Tôi đã kể lại cái chết của công tước Enghien. Bây giờ, tôi xin nhắc lại là có không chỉ một người ở Temple, về tinh thần, cho là Pichegru bị ám sát.
Fauche-Borel không những khẳng định Pichegru bị siết cổ mà còn chỉ ra kẻ đã làm chuyện ấy. Ông ta đã viết năm 1807 như sau:
"Tôi khẳng định vụ ám sát do người có tên là Spon, quân nhân đội quân tinh nhuệ, thực hiện cùng hai kẻ gác cửa khác, một đã chết hai tháng sau vụ việc đó, người kia tên là Savard bị nhận diện là một kẻ tàn sát tháng Chín năm 1792”.
Các tù nhân khác càng chịu tác động trong niềm tin Pichegru bị sát hại và bị tiêm nhiễm suy nghĩ người ta siết cổ Pichegru khi thấy tướng Savary mặc quân phục đại lễ kèm theo bộ tham mưu đông đảo kéo đến gặp Georges Cadoudal. Trong khi ấy, Georges vừa cạo râu xong, đang nằm trên giường, hai tay bị xích đặt lên bụng. Hai nhân viên hiến binh gác ông ta đã hoàn tất cái việc tra tấn nho nhỏ mà người ta quy định ấy. Tất cả bộ tham mưu vội vã vào phòng Georges. Nhìn họ đều gấp gáp tận hưởng cái hoàn cảnh ủ dột của viên tướng Bảo hoàng, con người mà về phần mình đang gắng chịu đựng sự hiện diện của họ. Cuối cùng, sau mười phút kiểm tra và thì thào to nhỏ, tất cả lại cuốn gói đi ra y như lúc họ vội vã đi vào vậy.
- Thế cái đám quần áo diêm dúa ấy là gì thế? - Georges hỏi một vệ binh.
- Đó là em của ngài Tổng tài thứ nhất - Một trong số tháp tùng tướng Savary và đám tham mưu của ông ta đáp.
- Hẳn rồi- Georges nói - Các vị còng tay tôi là tốt lắm.
Tuy thế, biên bản cũng dần dần hoàn thiện và việc dự thẩm đang ở những bước cuối cùng. Nội quy trong Temple cũng có phần lơi lỏng hơn. Người ta để cho các phạm nhân được ra khỏi phòng và tụ tập trong vườn. Nhưng như thế không có nghĩa việc vượt ngục là dễ dàng. Savary là người có quyết định cao nhất trong nhà tù Temple, và dù có ghét các phạm nhân điều đó không ngăn việc anh ta thường xuyên đến đây nhiều hơn mức cần thiết.
Một hôm, vừa ra khỏi phòng giam, Moreau giáp mặt anh ta nhưng tự ông ta đã quay lưng và đóng cửa lại.
Với tướng Moreau, không có điều gì lạ và cảm động hơn là các cử chỉ tôn kính sâu sắc của tất cả lực lượng phục vụ trong nhà tù: mọi người đều ngả mũ và chào ông theo kiểu nhà binh. Nếu ông ngồi xuống, mọi người nhanh chóng vây quanh và chờ xem ông muốn với gì, họ yêu cầu ông kể lại những trận đánh khiến ông thành đối thủ của Bonaparte và đặt ông lên trên các tướng lĩnh khác. Mọi người đều biết, chỉ cần ông ra lệnh, họ sẽ mở cửa Temple thay vì đóng chặt. Ông có được một ân huệ trong đời đó là được phép gặp vợ con. Ngày nào người mẹ trẻ cũng đem con đến thăm ông. Thỉnh thoảng, người ta còn mang đến cho Moreau loại rượu vang Clos-Vougeot hảo hạng. Ông chia cho tất cả những người bị ốm thậm chí cả những người khoẻ mạnh. Cũng cần kể thêm rằng những tù nhân chơi bóng, khi đã nóng lên cũng được coi như bệnh nhân, nhận những ly rượu Clos-Vougeot. Điều phân biệt Georges và các phạm nhân khác là vẻ tươi vui và vô tư của họ. Họ chơi hết mình, ầm ĩ như đám học trò trong giờ ra chơi, trong số đó phải kể đến hai thanh niên đẹp trai và hào hoa phong nhã nhất Paris là Coster de Saint-Victor và Roger tức Oiseau.
Một hôm Roger đang nóng khi chơi bóng bỏ chiếc khăn quấn cổ ra, Saint-Victor nói với anh ta:
- Cậu có biết là mình cócái cổ đẹp như Antinous không?
- Thực ra - Roger đáp - Cùng đáng để khen nó lắm, chỉ tám ngày nữa là nó bị chặt rồi.
Chẳng bao lâu, tất cả đã sẵn sàng cho việc đưa phạm nhân ra trước toà trình điều tra đã lên tới năm mười bảy người, họ đã nhận lệnh chuẩn bị để đưa sang Conciergene.
Cả nhà tù đã mang một sắc thái hoàn toàn mới. Phấn khởi khi thoát khỏi thời kỳ cầm tù, đối với một số người sẽ là thoát khỏi phần cuối cuộc sống, tất cả đều hát rống lên khi chuẩn bị cất hòm rương, buộc tay lại, tư trang lại, người thì hát hò, người thì huýt sáo, ai có thể làm ồn thế nào thì ra sức làm thế ấy, nỗi buồn và nghĩ ngợi chỉ dành cho những ai ở lại Temple.