Mãi tới hơn bốn giờ chiều, chuyến tàu Bắc mới xình xịch vào ga Diêu Trì. Tàu bữa nay không đông, lại có nhiều người xuống, nên vừa lên tàu là tôi đã có chỗ ngồi. Một người đàn ông trạc bốn mươi, đeo kính cận dầy, nhác thấy tôi lên đã vội dịch người vào sát góc băng phía cửa sổ toa, dành chỗ cho tôi. Tôi nhìn anh, khẽ gật đầu cảm ơn rồi ngồi xuống. Sau một hồi chộn rộn kẻ xuống người lên và đợi tàu lấy nước, gần hai tiếng sau tàu mới lại chuyển bánh. Tôi móc gói thuốc, đẩy nhẹ ra mốt điếu, đưa mời người đàn ông đeo kính ngồi bên. Anh lễ độ cảm ơn, cầm lấy điếu thuốc giữa hai ngón tay anh chợt run run. Giờ thì tôi mới nhận rõ hơn, một khuôn mặt coi trí thức nhưng rám nắng, có vẻ hơi rụt rè lại có vẻ tuồng như đang tần ngần xúc động trước mọi vật. Người đồng hành mới mẻ này chưa cho phép tôi đoán ngay được anh là người như thế nào. Anh không giống một cán bộ đi công tác, lại càng không có dáng dấp của một con buôn. Hành lý của anh chỉ vỏn vẹn một chiếc túi du lịch, thứ của nước ngoài, nhưng đã cũ kỹ, luôn để sát bên người. Có điều tôi không thể nhầm lẫn được, là ánh mắt anh long lanh vui vẻ, và cả khuôn mặt anh toát ra vẻ hồ hởi khác thường. Tôi hỏi:
- Anh đi thành phố Hồ Chí Minh?
- Dạ, vâng..
Anh đáp thế, rồi lặng yên cúi xuống. Tôi nhìn theo hướng mắt anh thấy đôi bàn chân xỏ dép của anh cũng thiệt sạm nắng. Có một sự tương phản quá rõ, giữa cặp kính cận khá dầy với đôi bàn chân chai sạm như chân nông dân kia. Anh chầm chậm rít từng hơi thuốc, rồi đưa điếu thuốc "Du lịch" lên nhìn và nói:
- Lâu rồi tôi không hút thuốc này, giờ hút thấy nó lạt, vì gần hai năm nay tôi hút toàn thuốc lào. Gia đình tôi ở Sài Gòn, nhưng hai năm nay tôi không có ở đó.
Câu nói làm tôi thoáng sực nghĩ tới một điều ngờ ngợ, nhưng chưa biết sao, thì anh đã tiếp:
- Không giấu gì anh, tôi vốn là một thiếu tá quân đội ngụy. Tôi vừa mới ra khỏi trại học tập có bốn hôm thôi. Cùng được về với tôi trong chuyến này còn có bảy tám anh em nữa, họ ngồi ở toa bên..
Tôi kêu lên:
- ủa, sao vậy? Vậy thì tôi xin thành thật chúc mừng anh!
Cảm ơn anh, thiệt tình mấy bữa nay tôi mừng quá, đi trên tàu chẳng ngủ nghê gì ráo, vậy mà không thấy mệt. Nghĩ rằng cuộc đời rồi vẫn cứ còn mở rộng trước mặt mình, nghĩ trong nội nhật ngày mai gặp lại vợ con, tôi thấy khỏe ra, lắm khi cứ ngỡ như chiêm bao..
Anh ngập ngừng hỏi tôi:
- Anh cũng về Sài Gòn?
- vậng, nhưng cũng có thể tôi chưa về ngay, tính ghé lại Nha Trang ít hôm. Hổm rầy tôi đi lai rai từ Hà Nội vô, đâu ghé đó. Cũng đã ghé được bốn chỗ, lấy được một mớ chất liệu để viết ký sự.. Nhưng kiểu này tàu vô tới Nha Trang đã khuya lơ, ghé lại lắt nhắt quá, có khi tôi về luôn!
Người sĩ quan vừa ở trại cải tạo mới ra đó ngó tôi
- Vậy ra anh viết văn? Cha, thiệt hân hạnh cho tôi quá. Trước kia tôi cũng ham văn chương, nhưng phải nói thứ đó khó, không phải cứ ham là làm được. Tôi liệu bề không kham nổi, mới theo đuổi về điện. Tốt nghiệp kỹ sư ra, tôi tưởng ổn rồi, ai dè..
Anh chợt dừng lại. Giữa lúc đó, con tàu bỗng như bị dãn ra ở chỗ móc nối các toa, rít lên nghe ken két. Tàu đang lên đèo, ở khúc Cổ Mã. Tôi nhìn qua cửa sổ. Chiều hôm lặng lẽ đổ bóng tối xuống sườn non. Đầu tàu kéo các toa phía trước đang trườn lên dốc núi chênh vênh. ở phía biển, sắc trời vẫn còn sáng hơn, xanh thẫm bên trên những ngọn sóng vừa khuất mình. Nhưng rồi bầu trời biển kia cũng dần dần đen đậm. Đèn trong toa bật sáng. Tôi day sang anh bạn đường mới quen:
- Từ chiều tới giờ anh đã ăn chưa?
- Ăn rồi anh, chúng tôi đã ăn lúc tàu ghé ga.
- Vậy mình uống cà phê nghe, nếu anh không sợ phải thức thêm một đêm nữa.
- Không, tôi không sợ. Nhưng căng tin trên tàu đâu có cà phê?
- Tôi có!
Anh hơi ngạc nhiên khi thấy tôi cẩn thận, nhè nhẹ lôi từ trong túi xách ra một cái phích nhỏ mạ kền. Cái phích này đi đâu tôi cũng đem theo, thường để pha trà, nhưng hồi chiều một anh bạn ở Qui Nhơn đã châm đầy cà phê, và theo lời anh nói, để cho tôi khỏi ngủ, khỏi bỏ qua cơ hội ngó nhìn sự kỳ diệu của biển miền Trung trong đêm trường.
Chúng tôi uống cà phê trong buổi đầu đêm, trong lúc con tàu kiên nhẫn đang xuống đèo, để rồi không bao lâu sau lại vòng vèo leo lên rặng Cù Mông. Chúng tôi lấy làm thú vị vì cà phê ngon và còn rất nóng. Anh bạn ngồi bên chậm rãi nhấm nháp từng ngụm nhỏ, coi bộ còn thích thú hơn tôi nhiều. Rồi đốt thêm một điếu thuốc nữa, anh nói:
- Hồi nãy, tôi bảo với anh là tôi những tưởng đời tôi vậy là đã quá êm đẹp, không dè nửa chừng lại trắc trở.. Vâng, ban đầu thì là thế, như tôi nghĩ.. Tôi làm kỹ sư, với số lượng dư dật, rồi đã lấy vợ, đã có con. Vợ tôi là một cô giáo, tánh nết hiền hậu. Về hình thức nếu tính theo điểm mười, thì vợ tôi chí ít cũng được bảy. Thưa anh nói theo kiểu đời cũ, thì như vậy là ổn. Các con tôi đều học giỏi và ngoan ngoãn. Tôi đi làm ở Thủ Đức, sau đó đi xây dựng một cơ sở phát điện, kế được đi qua úc, Tân Tây Lan và Nhật Bổn để tu nghiệp. Lúc về, tôi tham gia xây dựng thủy điện Đa Nhim..
Nghe anh vừa nói tới đó, tôi bỗng giật mình, nghĩ không lẽ con người mới từ tại cải tạo ra này lại là người tôi đã từng được nghe nói tới? Cách đây không lâu tôi có đi thăm một người chị, vợ một đại tá nguyên là thủ trưởng của tôi đã hy sinh trong hồi chống Mỹ, mà tôi coi như chị ruột. Chị là Chủ tịch một phường trong quận Phú Nhuận. Khi tôi tới thì gặp lúc chị đang có khách. Khách là một phụ nữ nhỏ nhắn, tuổi khoảng trên ba mươi, trông còn rất trẻ và khá đẹp. Cô ta đến chơi, cùng đứa con gái út lối mười hai tuổi. Ngồi nói chuyện với cô ta, người chị của tôi kéo đứa con gái sát vào lòng mình, vuốt tóc nó. Lúc hai mẹ con ra về, chị đưa ra cổng và tôi loáng thoáng nghe chị nói: "Ráng lên em, đừng buồn, chị đang đề nghị xin cho chú ấy về. Nhớ ghé chị chơi luôn nghe!". Thế rồi tôi nghe một tiếng "dạ" nghèn nghẹn. Lát sau người chị trở vô, nói với tôi: "Cái cô hồi nãy tên là Ngọc, có chồng trước làm kỹ sư trên Đa Nhim, sau bị động viên làm sĩ quan Nha kiến tạo. Hồi giải phóng, chồng cô đi học tập, lúc đầu ở trong này, rồi ra ngoài Bắc. Cổ ở nhà đi dạy học, nuôi con, chờ đợi. Thời Ngụy vợ chồng cổ biết chị hoạt động, nhưng vẫn rất thích gởi tụi con nhỏ đến học chị, vì thấy chị dạy dỗ mấy đứa nhỏ đàng hoàng.. Tới lúc chị bị bắt, hai vợ chồng giúp đỡ chị nhiều lắm. Anh chồng đi học tập như vậy chớ vô trỏng còn viết được cả một bộ sách dầy tới năm bảy trăm trang, ghi lại những kiến thức và knh nghiệm về thủy điện. Mới rồi anh ta gởi thư về khoe với vợ, rồi bảo chừng nào ra, sẽ xin đi làm thủy điện để lấy công chuộc tội. Cô ta đưa cái thư cho chị coi. Thư viết thiệt cảm động, chị giữ lấy đem đưa cho mấy anh quen trong thành ủy. Mấy ảnh xem xong nói ta rất cần và quý những con người như thế, bảo chị nghiên cứu kỹ thêm trường hợp này rồi báo lên để mấy ảnh xin lãnh về".
..Từ câu chuyện như vậy nên khi nghe anh bạn đồng hành mới quen này nói trước kia đã từng làm công trình thủy điện Đa Nhim, tôi liền ngờ ngờ, nghĩ bụng hay chính là anh ta, chồng của cô giáo Ngọc nọ quận Phú Nhuận. Thì anh ta cũng vừa bảo rằng vợ mình làm cô giáo đấy thôi. Tôi nghĩ, thôi có lẽ đúng rồi. Nhưng tôi vừa sợ lầm, lại vừa muốn anh kể, nên cứ im lặng. Anh nói tiếp:
- Cái điều tệ hại đáng lấy làm xấu hổ nhứt của tôi mà bây giờ được học tập, được nhìn thấy phải tính từ lúc tôi chưa phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho cái quân đội bán nước đó ấy là sự tôi không biết hoặc làm ngơ không tìm biết gì về cách mạng, về nhân dân, về các anh đang gian khổ hy sinh và đổ máu. Vừa qua tôi đi học tập cải tạo năm năm, cực thì có cực, nhưng gộp chung mà nói, bất cứ thằng nào trong bọn tôi cũng sướng hơn các anh, hưởng thụ hưởng lạc đủ thứ, bất kể các thứ đó từ đâu tới. Chỉ riêng điều đó không thôi, đã làm một lỗi lớn, chớ chưa nói tới những hành động khác, như nhúng tay vô máu. Tôi chưa hề nhúng tay vô máu, chưa hề bắn một phát đạn vô các anh nói theo nghĩa đen, nhưng tôi đã làm nên nhiều trạm phát điện lớn nhỏ cho nhiều căn cứ, hậu cần có, tiền phương có. Nói tóm lại, tôi đã tạo điều kiện để làm ngăn trở cuộc chiến đấu thần thánh mà gần đây dần dần tôi mới vỡ lẽ hai chữ thần thánh nó là như thế nào. Tôi rất có lý do để biện bạch rằng tôi vốn là một kỹ sư, chẳng qua tôi bị bắt buộc, bị động viên, bị lùa vào cuộc phản dân tộc, như bao nhiêu người đã nói. Và chính tôi cũng đã nói. Nhưng thử hỏi tôi có thể mạnh miệng mà nói như vậy hoài được không? Tôi nghĩ là không, bởi nói một lần là đủ, chớ không nên lập lại. Bây giờ tôi lập lại, tôi nghe cũng thấy chướng quá, kỳ quá, và chỉ càng tăng thêm sự hổ thẹn mà thôi. Chúng tôi là con người, các anh cũng là con người. Sao các anh lại có thể chịu đựng được cảnh xa vợ xa con, sao các anh lại có thể ngủ bờ ngủ bụi, mà chúng tôi thì không? Tại sao chúng tôi mới biết ăn ngon, mà các anh lại không. Sự xấu hổ, sự đáng ghét nhứt của chúng tôi giờ đây ngó thấy được là ở chỗ đó, trước khi nói tới các chuyện khác, nhưng tính gom lại tất cả, rõ ràng là có tội trọng. Tội ác đâu chỉ hàm nghĩa nhúng tay vô máu. Ngày ba mươi tháng tư, khi tôi chạy từ Vũng Tàu về, chui vào nhà, không lâu sau ngó lên bầu trời Sài Gòn thấy đầy lũ trực thăng chạy trốn, rồi cũng không lâu sau đã nghe tiếng xe tăng các anh ầm ầm tiến vào.
Lúc đó thú thật tôi không hề có ý định dắt díu vợ con bỏ chạy, cũng không ngán sợ bị các anh trừng phạt, lòng tôi chỉ tràn ngập một cảm giác xấu hổ và nhục nhã. Ngược lại, vợ tôi thì vô cùng lo sợ, quýnh quáng cả lên. Hễ nghe có tiếng động nào ngoài cửa là vợ tôi tưởng các anh đã ập tới để lôi tôi đi, đem xắp hàng chung với các sĩ quan binh lính ngụy khác, ria cho một loạt AK. Cứ thế, cho đến chiều tối, vẫn không thấy gì. Vợ tôi mới mở hé cửa, rón rén ra phố, chạy tới nhà của chị Tư, một nhà quen mà lâu nay vợ chồng tôi biết chắc là cơ sở cách mạng và chúng tôi rất quí mến. Tôi cần phải nói một chút về gia đình này cho anh nghe. Hồi trước thì gia đình có bốn người. Chị Tư, hai đứa con với bà mẹ của chị. Nhưng trên một năm rồi, Chị Tư bị bắt, chỉ còn lại bà mẹ và hai đứa cháu. Chồng chị Tư đi tập kết, chị ở lại nuôi mẹ nuôi con nhờ vào một lớp vỡ lòng chị mở riêng tại nhà. Tất cả mấy đứa con tôi tôi khi ở lứa tuổi lên sáu đều đến đó học; phần vì nhà ở gần, nhưng cái chính là vì chị dạy dỗ trẻ nhỏ hết sức tốt. Vợ tôi là cô giáo mà còn phải thừa nhận như vậy. Thưa anh, người cách mạng, người Việt cộng đầu tiên mà tôi biết là người phụ nữ đó. Và đó là một phụ nữ rất bình thường. Ngày chị đến ở trong phố tôi, chị đâu mới có hăm lăm. Gia đình có ba người: chị, đứa con trai lên ba và bà mẹ. Nghe nói chồng chị đã mất. Tôi tin điều đó, lòng dấy lên nỗi xót thương người vợ trẻ góa bụa. Ai ngờ tới mười năm sau, tôi mới vỡ lẽ chồng chị vẫn còn, đi tập kết và đã trở về. Không phải chỉ có chúng tôi biết việc đó, trong phố cũng có người biết. Nhưng sở dĩ chúng tôi biết, nguyên do là vì vào năm thứ mười ấy, bỗng nhiên chị có thai, sinh thêm một cháu gái nữa. Mặc dù bà mẹ bảo với hàng phố rằng con mình dại dột, do cả tin vào một anh chàng công chức nào đó dưới Long Xuyên mới sanh chuyện rầy rà, còn anh kia thì đã bỏ chị,
Phải nói rằng cái cớ đó lan ra, trong xóm cũng có người tin, là vì chuyện như vậy vẫn xảy ra nhan nhản. Nhưng vợ chồng tôi lại nghi vấn, và chắc cũng có người ngờ rằng không phải như vậy. Tôi và vợ tôi đều có nhận xét, một người như chị, không dễ gì bị một gã công chức lèm nhèm nào đó dưới tỉnh lẻ xí gạt. Đành rằng khi đó chị vẫn còn trẻ, hơn nữa chị cũng có nhan sắc. Nhưng thưa anh, cái nhan sắc của chị, nếu anh tiếp xúc thì anh sẽ thấy vừa rất dễ mến vừa lại phải nể trọng. Không, khi đó hoàn toàn tôi không tin chị bị gạt gẫm bởi một chuyện đơn giản như thế. Nhưng cái chuyện người chồng trở về thì mỗi lúc tôi càng thêm khẳng định. Việc xảy ra cùng một lúc đem lại hai mặt lợi và hại. Trước tiên, những ai hiểu vấn đề như chúng tôi, sẽ thấy thêm thương thêm mừng cho chị, sẽ thấy chị nay không còn đơn độc, và cùng với việc chồng chị trở về, chúng tôi càng hiểu là vấn đề miền Nam, các anh không bỏ qua một phút. Người ra đi năm xưa giờ đã trở lại. Cường độ các trận đánh ngày một thêm dữ dội. Đứa con gái của nhà chị láng giềng ấy ngày một lớn lên. Vợ tôi bảo:"Con bé xinh ghê, mà lại giống hệt anh nó!" Đúng vào lúc con bé lên ba thì mặt hại của vấn đề bắt đầu ló ra. Một thằng thám báo ở khu phố, phăng từ sự trạng đó, đã theo dõi chị sát sao mà cả chị lẫn chúng tôi đều không hay biết. Rồi thình lình vào một chiều nọ, nhà chị bị vây xét. Chị bị bắt cùng một số tang vật, như máy in Rônêô, máy đánh chữ, hàng xấp tài liệu mới vừa in xong. Bọn chúng đẩy dúi chị lên xe. Trong xóm nhiều người khóc. Vợ con tôi cũng khóc nức nở. Đi làm về nghe chuyện, tôi ngồi thừ ra. Ngó bộ đồ nhà binh mặc trên người, ngó cái bông mai thiếu tá đeo trên ve áo, tôi bỗng thấy chúng trở nên lãng nhách, thiếu điều tôi muốn lột ra đem vụt. Lúc đó, tôi bắt đầu thấy một cái gì hơi chướng ở nơi mình. Lúc đó chúng tôii ngon quá mà. Ăn uống thì không thiếu thức gì, vợ con mặc toàn đồ sang may bằng hàng hàng tốt, trong nhà lớp ti vi, lớp tủ lạnh, rồi còn có riêng cả một chiếc Đắc Sun để thỉnh thoảng chở bầy thê tử đi Cấp chơi.
Trong lúc gia đình chúng tôi sung túc phủ phê như vậy thì gia đình chị đó ngay khi dọn đến đã nghèo túng, và suốt cho tới ngày chị bị bắt, cả gia đình đều trông cập vào đồng tiền ít ỏi do chị dạy học tự kiếm được. Chính chúng tôi đã tự ý đóng tăng thêm tiền học của con mình cho chị. Có lần thấy chị cho các cháu nghỉ học một tuần, vợ tôi bảo chắc chị đi móc ráp thăm chồng. Cả hai chúng tôi bàn tính mua biếu chị một thứ quà gì đó, làm ra vẻ vô tình, nhưng có dụng ý, để chị đem vô cho ảnh, ví dụ như thuốc bổ, sữa hoặc cà phê. Lần nào chị cũng từ chối, nhưng vợ tôi nài ép, rồi làm bộ giận dỗi, riết chị mới nhận. Có lần, sau khi nhận, nước mắt chị chảy ròng ròng. Vợ tôi ôm lấy chị, òa khóc theo. Cả hai đều hiểu nhau hết, nhưng không ai thốt lên một lời nào cả.. Thưa anh, hồi đó nói chung chúng tôi sống ích kỷ, sống cho mình là chính, còn như giúp đỡ người khác, giúp đỡ các anh chị đang hoạt động cách mạng, đôi khi cũng có, nhưng đó chẳng qua vì trước tiên họ đã giúp chúng tôi. Vả lại, suy cho cùng, phần các anh chị đem lại cho chúng tôi là phần lớn. Cho tới hôm nay thì tôi thấy là vô cùng to lớn..
Tôi nói:
- Anh em chúng tôi đi kháng chiến, thì tất nhiên là có hoàn cảnh đóng góp trực tiếp rồi, nhưng ngoài ra còn có biết bao người góp phần một cách thầm lặng, dù lớn dù nhỏ, tất cả cộng lại mới có một ngày ba mươi tháng tư. Tôi biết có rất nhiều anh em khi ở hàng ngũ địch mà vẫn giúp đỡ cách mạng, trong khi anh em đó thực ra chưa hẳn đã giác ngộ hoàn toàn về cách mạng.
Câu nói thốt ra tới đó, tôi đã kịp dừng lại. Tuy qua câu chuyện anh kể, mỗi lúc tôi càng thêm tin chắc rằng người đang kể là người tôi đã nghe nói tới, nhưng biết đâu sự đời có thể lầm lẫn, nên tôi vẫn phòng hờ, đợi coi có thật đúng là anh không. Đã bao lần tôi ghìm lại, ấy cũng còn có ý lắng nghe anh nói về mình, tự phân giải về mình. Lúc này, sau khi tôi nói ra những lời trên, con người từ trại cải tạo mới ra đó chợt sững tôi, mắt chớp chớp, ướn ướt sau làn kính. Anh ngồi im, lâu sau mới nói giọng run run:
- Xin cảm ơn anh. Anh nói như vậy là công bằng, e rằng còn quá công bằng là khác. Dạ vâng, đúng là có như thế thật.. Nhưng riêng tôi thì tôi lại không làm được gì. Có lẽ tính ra thì cũng có đấy, nhưng không đáng kể.
- Khi người nữ cán bộ kia bị bắt, vợ chồng anh có giúp gì được cho chị ta không?
Một lần nữa, cái câu vừa vượt ra khỏi miệng tôi, suýt đã để hở ra là tôi có biết về anh. Nhưng may mà anh không để ý, hoặc câu hỏi của tôi cũng đang hợp với lô gích của câu chuyện anh vừa kể cho tôi nghe anh bảo:
- Chúng tôi có giúp chị ấy. Vợ tôi thương chị lắm, nên cô ta đã sắp đặt khéo léo để thăm nuôi chị, nhờ lo lót nắm được anh cảnh sát trong nhà lao. Còn tôi, nào nói ngay, tôi có nhờ một thằng bạn thân ở tòa án lập thế giảm mức án cho chị xuống khi tụi nó sửa đoạn đem ra xử. Đáng lẽ năm năm thì tụt xuống còn có ba năm. Đó, chúng tôi giúp được cho chị ấy như vậy..
- Anh thấy chưa tôi nói: Mới nghe qua, đã có tới ba người giúp rập vào rồi. Anh nè, vợ anh nè, và anh bạn của anh. Cái trận đánh Mỹ của chúng ta vừa rồi phải nói là có nhiều tình huống hay thiệt. Đố cha thằng Mỹ nào lần cho ra hết mọi nguyên do manh mối về cuộc bại trận của nó.
Anh bạn đường của tôi giờ đây bỗng day sang cầm nắm lấy tay tôi. Anh nói giọng đầy phấn chấn:
- Mấy bữa nay tôi quá đỗi mừng, đêm nay tôi lại càng vui thêm. Về tới trong đó, chỉ còn non tháng nữa là Tết, thế nào tôi cũng mời anh tới ăn Tết với vợ chồng tôi. Vợ tôi nấu nướng có hạng lắm. Anh nhận lời nghe?
- Được rồi, tôi sẽ đến!
- Anh cho tôi xin địa chỉ của anh?
- Lát nữa tôi ghi, mình còn nhiều thì giờ mà!
Con tàu dài dặc của chúng tôi vẫn lao tới trong đêm đầy sao. Đã qua bao nhiêu ga rồi, chúng tôi cũng không để ý. Chỉ biết là tàu đang chạy giữa núi và biển. Núi sừng sững in hình trên nền trời đêm, uy nghi và trầm mặc. Biển ở sát kề, mênh mông một cõi sóng xa vời. Nhờ có bầu trời rạng chiếu những vì sao, tôi nhìn thấy liên tiếp những vịnh biển thuyền đậu im lìm như đang ngủ, bao ghềnh bãi mờ mịt sương đêm và bên vợ đường chợt hiện đôi ngọn tháp chàm đã trơ trơ đứng đó qua bao niên kỷ.
Anh bạn đường của tôi cũng đang nhìn như tôi, mắt long lanh như đang chứa đựng cả một niềm xúc động tinh khôi, khác lạ. Chúng tôi lại châm thuốc. Bỗng nhớ lúc khởi đầu câu chuyện, anh nói về ngày ba mươi tháng tư, trong cơn sợ hãi, vợ anh đã chạy tới ngôi nhà bà mẹ (một ngôi nhà đối với tôi thực ra không lạ lẫm gì!) nhưng rồi theo đà câu chuyện anh đã bỏ qua. Tôi nhắc anh, thì anh mới sực nhớ.
- ờ, quên, tôi quên.. Phải, trong ngày đó, các anh thì vui mừng, còn tụi tôi thì kinh hãi. Vậy mà lạ quá, vợ tôi chạy tới đó lát sau trở về, nỗi lo sợ trên mặt vợ tôi đều tan biến. Cô ta vừa thở vừa kể lại rằng căn nhà đó giờ không chỉ có bà mẹ và hai đứa cháu, căn nhà đó đang đông nghẹt, và có cả chị Tư nữa. Nghĩa là chị ấy đã từ nhà lao trở về nhà. Vợ tôi còn kể chị ấy có lời cảm ơn chúng tôi và bảo vợ tôi về dặn tôi đừng lo lắng gì, cứ bình tĩnh, sẽ không có bất cứ cuộc tắm máu nào xảy ra đâu, cách mạng sẽ có chính sách đối xử đúng đắn với binh lính sĩ quan chế độ cũ. Ngay bữa đó, chị Tư liền trở thành người lãnh đạo cao nhứt ở phường chúng tôi. Mọi sự hỗn độn trong buổi đầu, liền được chị sắp đặt có trật tự, kể cả việc chúng tôi lóng ngóng lo cho số phận mình. Anh coi, một người phụ nữ vừa ở tù ra, còn ốm yếu xanh xao như vậy mà lại phải bắt tay ngay vào việc lo toan cho một cái phường gần hai chục ngàn dân đủ điều phức tạp thì trong chúng tôi dẫu có thằng nào là con thú cũng phải biết suy nghĩ. ấy là tôi chưa nói chị còn có mẹ già, con nhỏ, và chồng thì thì chưa gặp lại. Tôi bảo vợ tôi rằng: phước đức cho phường mình có được chị Tư, từ rày hễ chị dặn sao mình phải nghe làm vậy! Vợ tôi kêu tôi cùng đi với cô ta tới thăm chị, tôi do dự dãn ra, sợ mọi người cho rằng mình bợ đỡ, để né tội. Nhưng vợ tôi không chịu. Dang ca một lúc, cuối cùng tôi đi. Gặp tôi, chị bắt tay, tươi cười nói: "Anh biết tôi là Việt cộng từ khuya rồi chớ gì. Bây giờ tôi chịu thiệt đó! Rồi chị dặn: Các anh đừng có lo hoảng, cách mạng sẽ không trả thù như người ta nói đâu, khi nào có chính sách cụ thể đối với các anh, chúng tôi sẽ phổ biến cặn kẽ. Còn bây giờ, anh cứ ngồi nhà, sai Ngọc nấu cơm ngon cho mà ăn!"
ít lâu sau, tôi đi trình diện, kế đó có giấy gọi đi học tập. Vợ tôi lại hoảng lên, khóc dữ. Và chị Tư cũng khóc, vì nhận được giấy báo chồng chị đã hy sinh chỉ trước ngày giải phóng có vài tháng. Thế là trong ngày thắng lợi, chồng chị không bao giờ trở về nữa, người chồng mà suốt hai mươi năm trời, chị chỉ gặp lại vài lần vào thăm ở chiến khu. Tn đau đớn đó đến với chị giữa lúc chị vẫn cứ phải đảm đương công việc chung. Tôi nổi gai ốc cả người về sự mất mát đó, và thưa anh, tự nhiên rồi tôi ngó thấy những giọt nước mắt của vợ tôi thiệt là bé mọn, và chuyện tôi đi học tập chẳng có chi mà phải kêu rêu. Khi chị Tư hỏi tôi: "Anh nghĩ sao về việc đi học tập?". Tôi nói tôi thấy đi là phải, tôi chấp nhận, không kèo nài, kể lể để nhờ xin bảo lãnh gì cả. Tôi có thể nào mở miệng nói ra điều gì trước một người đàn bà chịu tang đó không? Vả lại, tại sao tôi phải nói xin, trong khi tự tôi, tôi cũng thấy là mình cần phải gội rửa. Chị Tư bảo là chị rất mừng thấy tôi xác định rõ ràng như vậy. "Anh cứ đi, rồi tôi sẽ xin cho anh về sớm hơn. Ngọc và các cháu ở nhà, sẽ có chúng tôi và cô bác bảo bọc, không lo!" Chị nói với tôi như vậy. Thế là tôi đi, năm đầu ở trong đó, năm sau ra Bắc. Những công việc ở trại cải tạo, tôi không kể dài dòng, nói chung là lao động và học tập, cực khổ và lo lắng, nhớ vợ, nhớ con.. Nhưng ngoài công việc lao động, sinh hoạt tập thể, tôi còn tranh thủ làm được một việc khác. Thưa anh, tôi ghi lại rất tỉ mỉ về những hiểu biết và kinh nghiệm có được của tôi về điện học, đặc biệt là thủy điện. Tôi quyết tâm chuẩn bị để khi được ra, tôi sẽ xin đóng góp về ngành đó, ngành mà tôi tin là tôi sẽ làm nên điều có ích. Thành thật mà nói, đất nước chúng ta có biết bao con sông ngọn thác có thể biến thành nguồn điện vô tận, vậy mà chúng ta chưa khơi dậy bao nhiêu.. Tôi ghi chép vào giờ nghỉ trưa, sau bữa cơm chiều. Gần ba năm ròng, tôi viết đầy bảy trăm trang giấy học trò. Khi khởi sự làm công việc này, tôi có trình báo với các anh quản đốc trại, đưa bản viết cho các ảnh coi. Các ảnh chẳng những không ngăn trở, lại còn khuyến khích tôi làm việc đó. Quyển ghi chép của tôi coi như đã hoàn tất, cách đây hai tháng..
Nói tới đây, anh dừng lại, im lặng một lát, rồi mở cái túi dụ lịch để sát bên người, lấy ra một bó vở học trò có mấy mưới cuốn buộc chặt lại với nhau. Anh rụt rè đưa cho tôi:
- Đây, anh coi.. ở trại ra, tôi chỉ có cái này là quý, với vài vật kỷ niệm nhỏ.. như cái đĩa mà tôi đã khắc cảnh thủy điện Thác Bà, lúc trại tôi ở đó..
Ngoài bó tập, anh còn lục lọi lấy cái đĩa đưa tôi coi. Tôi nâng bó tập lên, ước lượng nó phải nặng tới trên một ký lô. Nhưng bó bản thảo này thật không thể tính trọng lượng đơn thuần. Tôi nao lòng nghĩ tới những dòng chữ từ đâu mà có, từ đâu sinh ra, chi chít lấp kín cả bảy trăm trang giấy kia. Và cái đĩa, cái đĩa nhôm đơn sơ, thu gọn nơi lòng đĩa toàn cảnh thủy điện Thác Bà do chính tay anh khắc trổ chi ly, khéo léo.
Sau kh cầm lại bó tập, và cái đĩa, anh thận trọng cất vào túi và nói:
- Trong các lá thư gởi về, tôi có kể việc làm này cho vợ con tôi nghe, hôm nay ngày mấy tôi viết tới trang thứ mấy, hôm đó tiết trời giá lạnh phương bắc làm cóng buốt cả tay ra sao, tôi cũng tả cho vợ con nghe. Anh ơi, thư nào tôi cũng dặn vợ phải cố chịu đựng đợi tôi về, gặp chuyện chi rối rắm thì hỏi chị Tư hoặc các anh, chị ở phường, tuyệt đối không nên nghe kẻ xúi giục hoặc dụ dỗ. Thú thiệt cùng anh, tôi lo nhứt là vụ di tản. Vẫn tin ở vợ mình, nhưng vẫn lo, lòng luôn canh cánh, vì sự đời biết đâu mà lường trước được. Ngay như bốn bữa nay hay như bây giờ trên đường về ngồi bên cạnh anh đây, tôi cũng cứ phập phồng, mặc dù mới nhận được thư vợ hồi tháng trước..
Tôi hỏi:
- Trong thư, vợ anh có cho anh biết là anh đã được lãnh về không?
- Có, vợ tôi có nói, và hy vọng tôi được về sớm.. Nhưng sao anh biết?
- Thì tôi nghĩ thế. Vì chị Tư đã hứa, chắc thế nào chị cũng giữ lời hứa!
- Phải rồi, đúng như vậy!
Tôi khẽ lắc đầu:
- Cũng không hẳn như vậy đâu.. Đúng là chị Tư đã báo lên trên để xin anh về. Nhưng nếu nhưanh không có sự quyết tâm phấn đấu rất tốt thì anh cũng chưa được về sớm như vầy đâu. Anh đi có ba năm phải không?
- Dà..
Bây giờ không ghìm giữ nữa, tôi nói thẳng ra:
- Các anh ở thành ủy biết việc của anh đấy. Thư anh gởi về, vợ anh đưa chị Tư Lộc xem, và chị Tư Lộc đưa các anh trong thành ủy coi. Các ảnh rất xúc động và vui mừng, đã xin cho anh về.
- Trời ơi, sao anh biết rõ vậy?
Sự ngạc nhiên nơi anh bạn đường của tôi đã dâng lên tới cực độ. Anh xoay hẳn người qua, chụp lấy hai tay tôi:
- Sao mà anh còn biết cả chị Tư tên Lộc nữa?
Tôi nói:
- Chị Tư Lộc là chị dâu của tôi chớ ai mà tôi không biết! Nhưng tôi liền cười:
- Nói vậy chớ không phải chị dâu thiệt đâu, nhưng tôi vẫn coi chị như thế, vì anh Tư chồng chị trước kia là thủ trưởng của tôi, anh ấy là một đại tá sư đoàn trưởng. Hồi 45, ảnh đã dẫn tôi vô bộ đội, dìu dắt tôi từ một đứa trẻ nhỏ trở thành người chiến sĩ, từ một chiến sĩ thành một chánh ủy trung đoàn. Tôi coi anh như anh ruột của mình. Khi bị thương nặng, biết mình khó qua khỏi, ảnh có dặn chúng tôi lúc chiến thắng trở về, nhờ tìm giùm vợ con ảnh. Chúng tôi đã hứa, và cùng nhau giao ước làm tròn lời hứa đó, hễ đứa nào còn sống thì phải hết lòng bảo bọc lo lắng cho vợ con ảnh. Về Sài Gòn ít bữa, tôi đã tìm gặp chị Lộc. Từ đó tới nay, chíng tôi không bao giờ quên lời hứa với người anh đã khuất, thường xuyên lui tới thăm nom, có chút tiền dư hay đi đâu xa về có được miếng ngon vật lạ gì cũng đều đem lại chia sớt cho chị. Nhưng điều quan trọng hơn, là chúng tôi đã giúp chị nuôi các cháu học hành sao cho khỏi chật vật, để các cháu được trưởng thành, được nên người. Đây này, vừa rồi đi qua các tỉnh, thấy nhiều cuốn sách mà ở thành phố Hồ Chí Minh không có, tôi đều mua mỗi thứ hai cuốn, một cuốn cho các con chị, một cuốn cho các con tôi. Bữa rồi ghé Quảng Ngãi gặp đường phèn, đường phổi, khi mua tôi cũng mua như thế.. Anh tính, ở thời buổi chúng ta hôm nay, có thể nào chỉ biết chăm chắm o bế riêng cho bản thân mình không, khi còn có bao mối nợ, bao con người. Ví dụ chuyện của anh, chị Lộc đã không quên. Trước kia còn chiến tranh chị phải giả bộ đóng vai một người vợ goá, cơ cực đủ điều. Lúc cò hòa bình, chị lại trở thành một góa phụ thật, còn cực nhọc bận bịu gấp bội trong trách nhiệm của một chủ tịch phường, thế mà chịvẫn luôn săn sóc ngó trông vợ con anh. Tôi cũng hay lại chỗchị, nên có lần tôi đã gặp. Vừa rồi anh nói ngay trên đường về, anh cũng còn phập phồng. Tôi có thể nói một cách chắc chắn với anh rằng, nhờ chị Lộc thu xếp, động viên, vợ anh đã đi dạy và hiện vẫn đang dạy, dĩ nhiên có bô bối cực khổ hơn, nhưng vợ anh vẫn nguyên vẹn, đợi anh về. Cho nên anh khỏi lo, khỏi phập phồng chi cho mệt.
- ảnh gặp vợ tôi lâu chưa?
- Cách đây ít tháng, cả con nhỏ út của anh nữa. Nghe chị Tư bảo hai đứa nó chơi thân với nhau lắm!
- Dà, hai đứa nó xấp xỉ bằng tuổi nhau..
Tôi với tay cầm cái phích, mở nắp, rót thêm lượt cà phê nữa. Vừa còn đủ hai ly cho hai chúng tôi. Cà phê vẫn còn nóng và có vẻ như sánh đậm hơn. Tôi cười nói:
- Nè, anh thấy tối nay tôi đãi anh chầu cà phê này có phải là có lý lắm không?
Anh ngó tôi, chưa hiểu tôi tính nói gì. Tôi tiếp:
- Bởi vì hồi trước, anh đã gởi biếu tôi cà phê cho sư đoàn trưởng của chúng tôi mà!
Anh bạn vùng cười, cái cười bật thành tiếng nghe giòn dã hơn tất cả mọi lúc. Nghe tiếng cười mở rộng và nhìn ánh mắt lóng lánh sáng rỡ của anh, tôi khấp khởi vui mừng và với lòng ước muốn chân thành, tôi mường tượng ra một ngày xa sẽ được bất ngờ gặp lại anh ở Đa Nhim hay ở một công trình thủy điện nào đó. Là bởi tôi tin, một con người đã làm được cuộc trở về như hôm nay, thế nào rồi cũng làm được cuộc hành trình mới mẻ cho ngày hôm sau.
Bấy giờ ở xa xa phía trước, chợt lấp loáng ánh đèn của một nhà ga. Có ai đó trong toa kêu là đã tới Hảo Sơn. Đã mười một giờ đêm. Tàu không đổ lại. Nhà ga nhỏ cô đơn dưới triền núi lướt nhanh qua khung cửa toa tàu. Không bao lâu, tôi bỗng thấy con tàu lại như bị căng ra, kêu lên tợ tiếng rãn của các đốt xương sống nhiều người. Tàu lại lên dốc, để rồi lại xuống đèo. Và từ quãng chân đèo này, con tàu trườn cặp bên một bãi biển kỳ ảo, vi vu một rừng thông non tơ. ấy lại Đại Lãnh. Bờ bãi trắng ngà, lồ lộ như vòng tay con gái uốn cong dịu dàng bên mé riềm sóng, từ đó tôi ngước lên nhìn thấy ở trên kia sừng sững đột khởi bao ngọn núi lớn lao, hùng vĩ.
1982
Lúc bóng tối đổ xuống trên cầu tàu, thì những chiếc đèn treo xanh đỏ trên các trụ sắt cũng bật cháy. Kính màu rọi ra một thứ ánh sáng dịu dàng và hơi tối. Chỉ vừa đủ trông thấy được, ngoài kia, phường tài tử thị trấn đã khởi đầu đêm vui của họ bằng một bài bình bán vắn. Kẻ ngồi, người đứng. Trời nóng, có anh chỉ vận độc một chiếc "xà rông" tơ, tay ôm đàn ghi ta vừa đàn vừa rảo gót lui lui tới tới. Trong một góc cầu tối nhất mà ánh đèn không rọi đến, có hai người ngồi nép mình to nhỏ. Một người đẫy đà ngồi đối diện với một gã nhỏ bé. Hai người không để ý gì đến cuộc đàn hát. Thỉnh thoảng gã bé nhỏ lại khẽ "dạ" một tiếng.
Người cao lớn móc trong túi ra một gói thuốc, búng banh bách. Y ngoạm lấy một điếu rồi chìa bao thuốc cho gã nọ. Gã này cóm róm tiếp lấy điếu thuốc bằng cả hai tay. Que diêm xòe cháy. Người có vóc dáng đẫy đà ấy mặc bộ đồ nhà binh, đội chiếc mũ lưỡi trai đính sọc hiệu đại úy tiểu khu trưởng. Còn gã buộc một chiếc khăn mùi xoa túm góc. Được mồi điếu thuốc đã đốt nơi tay tên kia, xem chừng gã lấy làm hân hạnh lắm.
Tên nọ đăm đăm nhìn gã:
- Hai Nhỏ, tôi thì tôi tin anh. Nhưng anh có dám đoan với tôi là sự báo cáo của anh nãy giờ đã thiệt chắc chưa?
- Chắc chắn, thưa ông Ba, em ở Hiệp Hưng từ nhỏ tới giờ, thằng Chính Hơn em đâu có lạ gì nó!
Gã người bé nhỏ lanh lẩu đáp. Và vừa luộc lại một chéo khăn trên đầu bị tuột, gã tiếp lời:
- Đúng là Chín Hơn cầm đầu vụ đòi tăng lương. Xin miễn ông Ba cho lính "xên" nó, tức nhiên tụi cu ly nhà máy hết dám rục rịch!
- Tôi không thường về nhà máy nên không rõ. Vậy chớ hồi Việt Minh còn ở đây, nó làm gì cho Việt Minh?
- Chín Hơn hả? Nó làm xã đội du kích. Việt Minh rút ra ngoài Bắc, nó trở vô làm trong nhà máy xay. Nó coi chạy bàn gằn. Đó là nghề của nó thuở giờ, nên người ta gọi nó là Chín Bàn Gằn. Cu ly thảy đều khoái nó, Chín Bàn Gằn nói gì cu ly cũng nghe.
Tên quan ba vỗ vai Hai Nhỏ:
- Thôi được rồi. Nhưng mà, nè...
- Dạ chi?
- Có chắc là chiều mai Chín Hơn nó về Hiệp Hưng không?
- Chắc, sáng mai nó lên thăm bà già vợ, chiều mai thì đi chuyến xe ngựa năm giờ về.
Quan Ba ẩn nắm tay Hai Nhỏ:
- Tốt, việc này mà thành thì công anh lớn lắm.
Rồi y móc ví, lấy bạc lật đếm. Những tờ giấy bạc kêu sột soạt trong bóng tối khiến Hai Nhỏ bồn chồn, khấp khởi. Đếm xong, Ba ẩn chìa ra:
- Công anh báo cáo, tôi thưởng ba trăm...
Hai Nhỏ rón tay ra định cầm. Nhưng Ba ẩn chưa vội trao cho gã. Y dặn:
- Đêm mai anh sẽ cùng đi với lính của tôi, chỉ cho trúng xe ngựa Chín Hơn thì sẽ có thưởng thêm nữa, nghe không?
Hai Nhỏ nghe nói, gã hơi lo:
- Lính đi cũng đủ sức rồi. Còn tôi, cần gì đi ông Ba?
- Cần lắm chớ... Xe ngựa về Hiệp Hưng nườm nượp, tụi lính nó đâu biết chiếc nào Chín Hơn đi.
Hai Nhỏ gật đầu:
- Cũng được, tôi đi cũng được...
- Thì có gì đâu mà không được!
Hai Nhỏ dạ một tiếng. Tiếng dạ của gã lần này nghe hơi yếu, không thật hợp với nỗi lo lắng đang lan man trong đầu gã. Là vì từ thuở bé, tay gã chưa hề nhúng máu hay phạm một tội ác gì. Năm nay gã hăm sáu. Trọn thời thơ ấu và tuổi niên thiếu ở Hiệp Hưng, gã chưa bị hư hỏng. Khoảng ba năm nay, gã đi chuyên tải rượu từ thị trấn về cho người chủ tiệm bài nhì ở chợ. Thời gian đó gã mới bắt đầu bị nhiễm độc. Nghề nghiệp bắt gã phải đi đi về về trên con đường từ làng ra thị trấn. Cái con đường chỉ trong hai năm mà đã nổi lên hàng chục quán rượu và vô số là gái điếm. Quãng đường ngắn ngủi ấy quyến gã vào vòng trụy lạc và túng ngặt, dần dần gã đã trở thành một tay sai cho Ba ẩn, quan ba kiêm chủ nhà máy xay gạo Hiệp Hưng, hiện đang ngồi trước mắt gã đây.
Bấy giờ, sau khi đã đưa tiền cho Hai Nhỏ, Ba ẩn đứng dậy. Y vừa cúi xốc lại quân phục vừa nói:
- Có tiền rồi, vô quán nhậu một chầu cho sướng, rồi sắm cho em gái anh một cái áo để nó se sua với người ta. Từ rày muốn gặp tôi thì cứ gặp ở đây chớ đừng vô bót hay xấn xả gặp tôi giữa phố, nghe chưa?
- Dạ!
Ba ẩn kéo sụp mũ rảo bước lên bờ. Hai Nhỏ vẫn đứng đó. Gã run rẩy lật đếm lại xếp bạc. Ngoài đầu cầu, phường tài tử thị trấn vẫn đờn địch ca xang. Rõ là từ nãy giờ họ không để ý gì đến công chuyện của gã. Gã bình tĩnh đút bạc vào túi áo khách, lủi đi như gió lên bờ.
Hai Nhỏ lần theo con đường phố vàng nhợt ánh đèn. Gã bớt lo rồi. Chuyện ngày mai thì mai sẽ liệu. Giờ trước khi về thì gã tạt vào quán. Gọi rượu và gọi một con gà luộc. Gã chỉ ăn một góc, còn gần nguyên con thì gã lột khăn trên đầu xuống túm lấy đem về cho em.
Dẫu rằng gã đã làm việc phản bội, như đêm nay gã đã phản bội làng quê của gã, nhưng đối với em gái thì lúc nào gã cũng nghĩ đến. Hồi sau Tết, chính gã đã đón em lên đây ở. Có tiền được ăn uống no nê, gã cũng không quên mua lấy một món ngon về cho em. Gã thương em gái của gã lắm. Là vì bây giờ gã chỉ còn mỗi mình nó là ruột thịt. Còn người ở Hiệp Hưng, ở xóm nhà máy xay thì gã kể như là không có, kể như là họ khinh khi gã lắm. Dạo trước, hồi túng ngặt, gã có lỡ lấy trộm của người vợ chủ quán A Sủi một cái quần. Từ đó, hễ nói tới gã họ cứ gọi gã là thằng ăn cắp quần đàn bà. Tức quá, gã dọn lên đây, thế là chỉ đi chở rượu tiện dịp ghé qua thôi chớ không thèm về cố cư ở Hiệp Hưng nữa.
*
* *
Những hũ rượu đã chuyển lên xe. Chiếc xe ngựa chất đầy rượu hơi trì về phía sau nên hai con ngựa thỉnh thoảng lại lui mấy bước, độp vó xuống mặt đường. Lão Bảy Hạc đã lau tắm và cho ngựa ăn xong mà vẫn chưa thấy Hai Nhỏ đến. Lão nghĩ bụng: "Có lẽ xe ngựa Tư Tôn, Chính Hơn đã đi về được nửa đường rồi. Bữa nay Hai Nhỏ đi với cái ngữ nào hay nằm say trong xó nào cũng nên!". Trời tối từ lâu. Mưa bụi và bóng tối phủ trùm trong khắp thị trấn. Đèn ở cầu tàu đã bật sáng trên một tiếng đồng hồ, lão Hạc mới chợt nhìn thấy dạng Hai Nhỏ cỡi xe đạp hộc tốc chạy về. Lão vớ cái nón nỉ trên gọng xe, chụp lên đầu. Hai Nhỏ chạy ngang kêu:
- Đợi tôi trả xe cho người ta một chút nghe, ông Bảy?
Một hồi sau Hai Nhỏ trả xe xong trở về vừa nhảy lên xe vừa nói:
- Đi đi, ông Bảy!
Đáng lẽ thì lão phải chửi cho gã một câu về cái tội gã bắt lão ngồi đợi từ nãy giờ. Nhưng lãi chỉ ngoái đầu ra sau mà nhìn gã một lượt. Hai Nhỏ cất tiếng cười nức nức:
- Chắc giận tôi lắm hả ông già? Cảm phiền nghe, bởi mắc công chuyện mà...
- Thôi, khuya rồi! Anh lấy cái đèn trong góc đốt giùm tôi đi!
Hai Nhỏ mò soạn tìm cái đèn lục lăng tháp kính đỏ bật diêm thắp và trao ra. Lão Hạc mắc lên đằng trước chỗ lão ngồi. Lão vung roi, giật nhẹ cương. Hai con ngựa rún rún chân, cất vó lôi xe chạy tới. Chiếc xe chở đầy những hũ rượu, nhưng hũ nào cũng đã chèn kỹ, chạy không hề bị xốc chạm. Lão Hạc ngồi hai gối chân chụm vào nhau, miệng ngậm ống vố, lão đưa mắt nhìn cảnh vườn tược hai bên chìm trong mưa bụi. Thỉnh thoảng mưa hắc vào mặt lão, lão cũng không vuốt. Khi thuốc trong ống vố sắp tàn, lão mới lấy thuốc thồn thêm vào. Dưới ánh đèn lù mù, giữa bộ râu rậm che k1n cả miệng, cối thuốc đỏ hồng của lão tuôn khói trắng bay ra sau. Thoạt tiên Hai Nhỏ còn kêu lên vì khói thuốc làm gã ngợp thở. Nhưng chỉ chốc sau thì không thấy gã kêu nữa. Gã đã ngủ rụi. Tiếng ngáy pho pho của gã đã bắt đầu trỗi dậy hòa với tiếng cọ khe khẽ của các hũ rượu. Lão Hạc ngó Hai Nhỏ đăm đăm. Lão nhìn gã bằng đôi mắt sầu não. Vừa nhìn lão vừa vò râu và gậm gậm ống vố. Lòng lão đang rất đỗi xốn xang. Là vì lâu nay trên con đường dài tải rượu về làng, gã con trai này đã bắt đầu trở thành một kẻ du dãng. Không phải lão có lòng sính làm phúc thương hại anh ta, nhưng bởi anh ta chính người cùng làng, là con của Tám Lân, người bạn già lao khổ của lão đã bị kẹt bè chết trên sông Bassac trong một chuyến đi mướn theo bè từ Kông-pông Chàm về. Lão Hạc sầu não xót xa ấy là vì vậy. Dạo này lại thấy Hai Nhỏ thường gặp gỡ tên quan Ba ẩn, nằm đêm lão càng hổ thẹn với người bạn già nối khố. Cái con bé Mận, em gái Hai Nhỏ, lão Hạc thương như con. Con bé cũng quý lão lắm. Những khi xe lão lên thị trấn nghỉ lại, nó thường nấu cơm cho lão ăn. Từ ngày con bé lên ở chợ, thấy nó cứ lớn phỗng lên mà lão đâm lo. ở chợ rẫy đầy những dân đứng bến, quan lính quốc gia, cả sĩ quan người Mỹ cũng thường về. Hai Nhỏ thì lại nhập với bọn đó, bỏ con bé cù bơ cù bất...
Lão Hạc nghĩ tới lui về hai anh em Hai Nhỏ, mãi khi thuốc trong ống vố đã tắt ngấm, phì phèo không ra khói nữa lão mới hay. Nhét thuốc vào cối xong thì vừa lúc xe cũng gần đến cầu sắt. Lão Hạc cho ngựa chạy chậm lại. Đến chân cầu, lão nhảy xuống vuốt ve hai con ngựa yêu của lão, rồi tóm ngắn dây cương dắt qua. Đáng lẽ thì con ngựa chạy luôn, nhưng bởi ván cầu nhiều thớt bị lính bót rút về làm củi, ngựa đi có thể sụp chân, nên lão phải dắt.
Tiếng chân ngựa nện xuống ván rung sắt thành cầu khiến Hai Nhỏ giật mình tỉnh giấc. Gã lồm cồm ngồi dậy dụi mắt:
- Tới cầu rồi hả ông Bảy?
- ừ...
Hai Nhỏ nhóng người tới trước. Nhìn những khe ván cầu trụt tối sâu thăm thẳm, gã đâm hoảng:
- Chậm chậm, cho tôi xuống, ớn quá!
Rồi gã nhảy xuống đi bộ. Sang tới đầu cầu bên kia, Hai Nhỏ leo lên. Chợt lão Hạc đứng lại lắng tai nghe, rồi khều gã:
- Hai Nhỏ, hình như ngựa của ai đi lạc hí rân ở trong đồng kìa!
Hai Nhỏ niểng đầu, mắt chớt lạch:
- ờ, chắc ngựa của người ta lạc...
Xa xa quả có tiếng ngựa hí lên rền rĩ. Lão Hạc lấy ống vố trên miệng xuống:
- Nè, nó kêu hệt như con ngựa Kim của thằng Tư Tôn mầy Hai?
Hai Nhỏ nghe câu ấy, liếc lão Hạc một cái rồi đáp:
- Chắc không phải đâu, ngựa thì con nào kêu như con nấy.
Lão Hạc gật gù:
- ờ, không lẽ thằng Tư Tôn với Chín Hơn bây giờ còn tạc vô xóm ngủ...
Nói xong lão lên xe. Chiếc xe chồm lên một chút, lại chạy lủi vào bóng tối.
Từ đó dẫn về tới Hiệp Hưng, Hai Nhỏ thức luôn không ngủ nữa. Gã nói luôn miệng, tuồng như có sự gì vui lắm. Gã móc túi lấy ra một gói thuốc thơm hiệu "ách chuồn" kề miệng cắn ngoạm một điếu và đưa mời lão Hạc. Lão Hạc lắc đầu:
- Tôi hút không quen!
- Cứ hút, hút chơi mà, giàu có gì thứ này. Ông già sao khách sáo quá!
- Không phải khách sáo, tại tôi không quen.
Hai Nhỏ cất gói thuốc vô túi. Gã vẫn vui vẻ:
- Nè, chốc nữa về quán A Sủi, tôi đãi một chầu vịt tiềm, ông già có khứng không?
Thấy lão Hạc lặng thinh, gã lại tiếp lời, vẻ cảm động:
- Lâu nay tôi tính khi làm ăn có tiền thế nào cũng đãi ông một tiệc. Thiệt tình chớ không phải nói giỡn đâu. ở đời, tôi nhỏ chớ biết phải quấy lắm. Tánh tôi vậy, chắc ông già cũng hiểu!
Lão Hạc vẫn chụm hai đầu gối chân vào nhau, ngồi im. Nghe gã nói, bụng lão vừa có sự cảm động vừa bực tức. Cảm động là sao? Là vì gã vẫn có một chút tình gì đối với lão đó. Còn bực tức, bởi vì gã là một thằng con nít mà nói nghe xấc quá, đòi khoản đãi lão thứ này vật nọ. Lão Hạc không dè Hai Nhỏ lại học thói ấy mau đến thế, và tiền đâu gã có mà định khoản đãi lão? Nhưng lão vẫn lặng im. Tật lão là trước một người nào càng khoe khang cấc lấc thì lão càng cứ im. Loại người đó tưởng lão phục họ, kỳ thực lão buồn cười và khinh thị họ nhiều lắm. Nhưng đối với Hai Nhỏ, sự khinh thị của lão thì ít mà nỗi thương hại thì nhiều. Lão Hạc nhìn thẳng tới trước, cất giọng hỏi:
- Hai Nhỏ, lóng rày anh làm ăn khá lắm phải không? Bộ chủ tiệm bài nhì trả tiền lên cho anh à?
Hai Nhỏ hơi luống cuống. Hồi sau, gã nói:
- Đâu có... Trả như cũ thôi. Nhưng nhờ tôi chắc mót hùn vốn với thằng cha Tư, mua kỳ đà, xương cọp bán cho tiệm thuốc Thành Nguyên. Nhờ cái khoản đó chớ!
Lão Hạc hơi ngạc nhiên, và nghi Hai Nhỏ nói láo. Vì tiệm thuốc bắc Thành Nguyên ở thị trấn lão tới cất hàng hoài, chớ có thấy cái xương cọp nào.
Khoảng mười hai giờ khuya, xe về tới Hiệp Hưng, dừng lại tại bến xe ngựa đối diện quán A Sủi. Thấy không có xe của Tư Tôn, lão Hạc hỏi Tư Tôn với Chín Hơn về chưa thì người chủ quán A Sủi bảo không thấy.
*
* *
Rạng ngày hôm sau như mọi bữa, lão Hạc ra ngồi quán A Sủi đợi khách. Mới ngồi vào ăn cháo lòng với tốp cu ly máy xay thì bọn đàn bà đi chợ về kêu cứu om sòm. Họ học rằng gặp Tư Tôn dắt xe đi thất thểu ở dọc đường. Xe anh ta bị đón đường hồi đêm hồm qua, Chín bàn Gằn bị một tốp người lạ mặt bắt đi. Còn Tư Tôn bị chúng nó trói nhét giẻ vô miệng khênh bỏ giữa đồng trống.
Lão Hạc nghe nói liền đóng yên ngựa rồi cùng ba người cu ly lên xe tức tốc chạy đi. Tới lúc nắng lên thì gặp Tư Tôn tại cây số 5. Anh ta mệt đừ, dắt xe đi hết muốn nổi. Mà xe thời chỉ có một ngựa. Con ngựa Kim đi lẽo đẽo đằng sau, nó bị vết dao chém nơi cổ, buộc một chiếc khăn rằn xanh. Lão Hạc xốc Tư Tôn lên xe, anh em cu ly tiếp dắt xe và ngựa đi bộ về.
Trọn ngày hôm ấy, xóm nhà máy xay Hiệp Hưng bàn tán xôn xao. Mọi người đều nghi Chín Bàn Gằn bị quốc gia bắt. Riêng lão Hạc và một số anh em cu ly thì biết rõ như vậy và còn biết cả người chỉ bắt nữa. Tư Tôn kể lại là khi anh bị trói bỏ xuống ruộng, bọn kia kéo lên xe vừa đi vừa nói chuyện, anh ta thoáng nghe thấy tiếng léo xéo của Hai Nhỏ.
Quả thật, đến chiều có người ở gần bót về nói là hồi chạng vạng hôm trước chị ta trông thấy lính khiêng Chín Bàn Gằn vô bót. Không nghi ngờ gì nữa, tất cả thợ và cu ly vác gạo định nhất tề làm reo. Người tầng khạo coi nhà máy cho Ba ẩn năn nỉ để cho y báo cáo lên ông Ba. Anh em thợ thấygạo bà con miệt ruộng đem đến xay còn ứ nhiều quá. Vả lại nhằm mùa gặt, đình lại thì bà con thiếu gạo ăn. Do đó anh em chưa đình công vội, mà đưa hai điều kiện. Một là giải quyết yêu cầu tăng lương lần trước, hai là đòi cương quyết phải thả anh Chín Bàn Gằn.
Người tầng khạo ra đi. Ngày hôm sau y trở về. Quan Ba ẩn vẫn lùng nhùng không dứt khoát. Hắn nói về lương thì hắn sẽ xét, còn Chín Bàn Gằn quả thật là hắn không biết.
Ba ẩn vẫn giữ thói man trá cũ. Số lúa của bà con nông dân vừa xay xong, tức thì tất cả thợ đình chỉ công việc. ống khói nhà máy Hiệp Hưng đương cuộn khói đen kịn, bỗng nhiên súp lê ba hồi dài. Làn khói yếu ớt dần rồi tắt hẳn.
Quan Ba ẩn tiếp được tin ấy, đứng ngồi không yên. Bởi y tính chắc sẽ dùng món lợi nhà may xay trong tháng tới mà mua thêm cho đủ số mười chiếc đò máy. Mười chiếc đò mang tên Lê ẩn của y sẽ rầm rộ chạy trên sông Bassac, không một ai kình chống nổi. Bây giờ dự định của y gặp khó khăn, nhân cơ hội này mấy tên tiểu khu trưởng lân cận rất có thể cướp mất súng sông của y.
Cho nên sáng sau, y đi xe hơi về Hiệp Hưng. Xe dừng trước sân nhà máy, y hỏi người tầng khạo kêu mấy đại biểu thợ tới cho y nói chuyện. Đại diện thợ đốt máy, đốt lò, cu ly vác gạo tới gần mười người. Quan Ba ẩn trên xe nhảy xuống. Y nện gót giày bước tới lui nhìn mọi người rồi cất giọng hùng hồn:
- Mấy người thay mặt cho anh em thợ phải không? Tốt lắm, làm sự gì có hàng ngũ như vậy là tốt. Ngô tổng thống ngài thường kêu gọi anh em cần lao có điều gì cứ bày tỏ trật tự chớ không nên làm rối, làm rối là vô tình mắc mưu Cộng sản, rất hại. Còn mấy người đây là đại diện, là người cần lao chánh hẩu, là phần tử rất được trên chú trọng. Bây giờ tuy chưa vô Đảng chớ cũng như hồi vô rồi. Tôi nói Đảng đây là đảng Cần lao nhân vị, một đảng đi đầu trong phong trào quốc gia...
Quan Ba ẩn còn đang tiếp lời thì đã có người la lên:
- Thôi, chúng tôi hiểu rồi. Bữa nay xin cho anh em biết về vấn đề lên lương và anh thợ Chín Bàn Gằn có được thả không? Anh em thợ cần hiểu điều đó!
Quan Ba ẩn hơi dội, nhưng vẫn cố vui vẻ:
- Khoan, mấy người đừng nóng, để tôi nói cho nghe. Tất nhiên là về lương công nhật của anh em, tôi biết, anh em sống còn vất vả lắm. Nhưng anh em nên biết là nhà máy chúng tôi thu lợi không đặng khá, trả lên ngay ắt nhà máy khó chạy nổi. Đó là lẽ thứ nhất. Còn anh em nói Chín Bàn Gằn gì đó, bảo là chúng tôi bắt... Không, thiệt là không có. Tôi có biết Chín Bàn Gằn là anh nào đâu... Mấy người coi chừng tụi Cao Xuyên nó bắt đa, chớ quân đội quốc gia chúng tôi đâu có phép làm chuyện ám muội như vậy.
Một anh thợ đại diện lên tiếng:
Vậy là ông không chấp nhận lời yêu cầu của anh em?
- Không phải, không phải tôi không chấp nhận. Nhưng là vì, bởi vì... như tôi vừa nói.
Quan Ba ẩn nói chưa hết lời, chợt cu ly ùn ùn kéo tới chung quanh. Một người thợ đại diện đứng lên chồng bao gạo nói:
- Ông chủ nhà máy đã trả lời là lương không thể lên được và không biết Chín Bàn Gằn là ai hết, anh em tính sao?
Tiếng thét vang rền đáp lại đòi nghỉ và đòi thả Chín Bàn Gằn ra. Vừa thét đám thợ vừa giậm cẳng khiến bụi cám bốc mù.
Quan Ba ẩn thất sắc, mặt đỏ bừng, y thét lớn:
- Làm loạn hả? Tụi bay tính làm loạn hả? Nghỉ làm, được, tụi bây cứ nghỉ đi, coi ai chết đói cho biết. Còn Chín Bàn Gằn, tao bắt, tao không thả gì hết thảy!
Thợ đứng chung quanh rất đông và ngày càng tới đông hơn. Quan Ba ẩn đâm hoảng. Người tầng khạo nãy giờ pha ly nước chanh, bưng ra xán đến gần đưa cho y. Đương bị mất mặt, y vung tay gạt ly nước chanh rơi xuống nền xi măng bể ngướu.
*
* *
Đêm nay Hai Nhỏ đã uống rượu đến tờ giấy bạc cuối cùng. Sau một trận say èm trong quán, lúc gã chợt tỉnh thì thấy đêm đã khuya lắm. Trong thị trấn im vắng, gã vươn vai đứng dậy lần về gian nhà lá cuối phố của gã. Hôm về Hiệp Hưng, ngày sau đi đâu gã thấy hình như ai cũng nhìn gã bằng con mắt soi mói. Gã nghĩ bụng: chắc họ đã biết rõ việc làm phản bội của gã. Đôi lúc gã vững tâm tự nhủ: "- Làm chó gì mà biết được!" Thế nhưng gã vẫn lo. Nhất là mấy thằng thanh niên vác gạo đồng chạnh với gã. Gặp gã, chúng cứ ngó lườm lườm. Cho nên sau khi cất rượu lên tiệm bài nhì, gã vội vàng đón xe về ngay, không dám nấn ná ở đêm. Gã sợ bị "tiêu" lắm. Chết đi đã thiệt thân, lại bỏ em gái nhỏ không ai nuôi. Gã sợ nhất điều đó. Sáng nay hay tin quan Ba ẩn bị thợ nhà máy làm dữ đã phải hứa thả Chín Bàn Gằn, gã lo ghê quá.
Rượu trong người vẫn chưa thoát ra hết, nên gã đi dật dờ rất lâu mới về tới nhà. Gian nhà lá tối om om. Gã đinh ninh là con Mận em gã đã ngủ rồi. Cất tiếng gọi không thấy trả lời, gã lẩm bẩm: "- Con nhỏ ngủ mê quá, tụi con gái mười sáu chắc đều ngủ mê như vậy". Rội gã giơ tay đập cửa. Nhưng cửa mở trống tự lúc nào, thành thử gã đập vào khoảng không khí, người bị chúi nhủi vô trong. Gã kêu lên và quờ quạng khắp nơi mà không thấy em gã nằm đâu cả. Phỏng chừng chắc con nhỏ còn thức chơi với lũ con gái nhà lò bún. Sẵn mệt và buồn ngủ, gã quờ chân đóng cửa rồi nằm sấp xuống chõng định đánh một giấc. Chợt thình lình có người đập cửa, và tiếng bà chủ lò bún hỏi vọng vào:
- Chú Hai Nhỏ về rồi đó hả? Dậy, dậy mau. Quỷ thần ơi, chú đi đâu mà đi biệt vậy. Tụi nó chở con Mận đi rồi!
Hai Nhỏ nghe nói vùng dậy:
- Ai chở, ai chở em tôi thím Tư? Hả?
- Tụi bót Ba ẩn chớ ai!
- Thiệt hả?
Thím Tư lò bún giậm cẳng:
- Tụi nó đi xe máy dầu xông vô. Con Mận la làng. Tụi nó dụ dỗ, con Mận càng la dữ. Sau chúng nó bắt con Mận bỏ vô cái thùng bên hông xe. Một thằng nói:
- Thứ còn mới nguyên như mày ở chơi một đêm làm giàu một tháng, anh mày cũng chịu rồi, còn mày cứ làm bộ cớn rớn hoài.
Hai Nhỏ kêu trời. Gã lột áo vứt vào nhà rồi chạy vụt về hướng bót. Gã chạy tuột cả chiếc khăn túm đầu, tóc bay xấp xải. Bên tai gã văng vẳng tiếng em gái gã đang kêu la thảm thiết. Sự thực thì gã đã từng hại đời nhiều đứa con gái ở chợ này. Cưỡng bức, gã cũng đã từng cưỡng bức. Song bây giờ đến lượt lũ chúng nó động tới em gái gã, đứa em gái nhỏ nhoi độc nhất mà gã hết sức yêu mến thì gã lại không chịu nổi.
Người lính gác trại thấy bóng gã xuất hiện bất ngờ, hoảng hốt lên cò súng:
- Ai, đứng lại!
Tiếng nạt lớn làm Hai Nhỏ đứng sững. Dẫu sao gã cũng chưa điên. Gã nói to:
- Tôi, tôi là Hai Nhỏ. Em gái tôi... Em gái tôi... Cho tôi vào, cho tôi gặp ông Ba!
Người lính hạ mũi súng:
- Hai Nhỏ đó hả? Anh còn muốn gặp ông Ba à?
Người lính vừa nói vừa ngước mặt lên
Hai Nhỏ ngước nhìn theo. Trên từng gác cao le lói ánh sáng, vọng ra tiếng cười hô hố. Có tiếng nhạc dồn dập và tiếng rượu khui nổ bôm bốp. Người lính lại nói:
- Cho anh vào thì tôi chết. Anh qua đầu đường ngồi đợi mà đón em anh về.
Hai Nhỏ như quẫn trí. Giọng nói của anh lính làm gã bàng hoàng. Lúc ấy người gã hơi tỉnh rượu, thì đồng thời gã cũng vừa nhận ra sự bất lực ở gã. Gã đứng sững một hồi rồi sang bên lề đường ngồi ôm đầu. Đường vắng vẻ không có ai. Không có ai ngoài gã với cái bóng đen thui thủi của gã in trên sỏi đá. Bấy giờ Hai Nhỏ mới cảm thấy đầy đủ sự bơ vơ cùng tột của gã. Gã có cảm giác hầu như chung quanh mình đều là biển cả mênh mông, không có một bóng thuyền, không có một mảnh gỗ nào để gã có thể bấu víu. Đương nhiên bỗng gã nghĩ tới làng quê Hiệp Hưng, tới xóm nhà máy và hình dung thấy tất cả mọi người. Cả những người trước đã gọi gã là thằng ăn cắp quần. Nhưng bây giờ người nào coi cũng dễ chịu chứ không có ai hung dữ và tệ bạc cả. Trong cái biển nước mênh mông mà gã đang bơi lội một cách tuyệt vọng kia, ctợt như có bóng thuyền ló dạng, ngày một tiến gần về phía gã...
Gã ngồi như vậy, trên hai tiếng đồng hồ, sương xuống ướt cả mái tóc. Bỗng có tiếng gì lộp cộp sau lưng dội tới. Hai Nhỏ giật mình ngẩng lên. Từ đằng xa một chiếc xe ngựa đang đi đến. Xe chạy qua chỗ gã ngồi mấy sải chợt dừng lại, trên xe một người nhảy xuống. Hai Nhỏ vùng kêu:
- Ông Bảy, ông Bảy ơi!
Chính là lão Bảy Hạc. Lão đi lại, ngơ ngác:
- ủa, Hai Nhỏ! Bây giờ còn ngồi làm gì ở đây?
Không thấy Hai Nhỏ đáp, lão Hạc tưởng mình hỏi động tới công chuyện kín của gã, lão vội vàng lùi lại. Nhưng mới lùi mấy bước, chợt lão nghe cánh cửa trại bót rít ken két. Hai Nhỏ bỏ mặc lão đứng đấy mà chạy nhào về phía cửa. Lão nhìn thấy bóng một đứa con gái lảo đảo bước ra. Nhờ ánh đèn rọi sáng, lão nhận đúng là con Mận. Nó đi coi bộ hết nổi, tóc tai rối tung và áo quần nhầu nát. Lão Hạc thoáng hiểu. Tim lão như dừng đập và mắt lão long lên. Lão đứng lặng giữa đường. Hai Nhỏ cõng xốc con bé lên vai đi ra, lão mới vội chạy lại. Hai Nhỏ kêu thét lên:
- Mận ơi, Mận!
Cô gái khốn khổ ngả đầu vài vai anh nó. Lâu sau nó rên rỉ:
- Anh ơi... Anh... Ha... ai... ơi!
Tiếng kêu đau thương ấy hình như phát ra giữa đôi môi đương bậm lại đến ứ máu. Hồi sau thì không nghe thấy nó kêu nữa. Hai Nhỏ trở mình ôm em vào lòng. Mắt gã ráo hoảnh. Cái đôi mắt chỉ đỏ chứ không có nước mắt. Gã nhấc đầu em gã lên tận mặt, để trong phút này có thể nhìn rõ gương mặt tròn trĩnh và đôi mắt ngây thơ của đứa em đang cố giương lên mà nhìn gã.
Hơn nữa tiếng sau thì con bé mệt quá ngất đi. Sau khi nó đã gắng sức giơ hai tay lên vòng lấy cổ của anh nó. Người lính bên kia đường bấy giờ cũng như điên lên. Anh ta xốc xốc lưỡi lê vào tờng khoét đổ một mảng tường to. Hai Nhỏ ôm chặt lấy em. Gã cứ ngồi như thế rất lâu. Rồi bỗng gã vùng ôm em đứng dậy. Lão Hạc níu lấy vai gã:
- Đi đâu, anh còn định đi đâu nữa?
Vừa nói lão xăng tay áo đón lấy con bé, đi thoăn thoắt đến bên xe. Sau khi đặt con bé nằm vào một nơi trong xe, lão gọi Hai Nhỏ nói như ra lệnh:
- Còn anh cũng lên đi... Nghe lời tôi về Hiệp Hưng. Không chỗ ở thì tôi chứa, có đói thì đi vác gạo mà ăn! Còn cái nhà này ở đây, bỏ, bỏ hết!
Hai Nhỏ lúc này không dám cãi một tiếng, ríu ríu bước lên xe. Gã vừa đặt đít xuống chợt va nhằm chân một người ngồi nghẻo đầu ngủ, không rõ là ai. Gã không buồn xem là ai nữa, lặng lẽ mà nhìn đứa em dáng tội nghiệp đang nằm sóng sượt dưới chân gã. Đằng trướcm, lão Hạc đã cho xe chạy. Chiếc xe quẹo qua cuối phố, trút bỏ vầng ánh sáng ghê rợn của khu bót lại sau lưng. Bánh gỗ bị sắt bắt đầu nghiến sỏi đường rào rạo. Lão Hạc ngồi im như bức tượng. ánh đèn lục lăng soi mờ bộ mặt đen rám và đôi mắt đỏ như tôm luộc của lão. Cái cối thuốc giữa cụm râu rậm che kín miệng lão vẫn đỏ hỏn như mọi đêm, nhả khói ra sau. Lúc xe qua cầu sắt, lão Hạc lại xuống. Hai Nhỏ còn thức nhưng gã không xuống như lần trước. Tiếng chân ngựa nện xuống ván rung sắt thành cầu. Người nằm ngủ phía sau trở mình cất tiếng rên khe khẽ. Chốc sau người đó ngóc đầu dậy. Mặt anh ta băng bó, máu dây ra từng vệt khô xám. Chợt Hai Nhỏ trố mắt, hoảng hồn thụp đầu xuống. Gã vừa nhận ra người đó là Chín Hơn và gã cúi trốn khổ sở như vậy chừng Chín Hơn ngã người xuống như cũ, gã mới dám khe khẽ ngóc đầu lên.
*
* *
Khoảng ba giờ khuya xe về tới Hiệp Hưng. Quán A Sủi vẫn còn đèn. Một số thợ hình như vẫn còn ngồi đợi. Khi lão Hạc kêu lên:
- Anh em ơi, Chín Hơn về rồi đây nè!
Mọi người chạy đổ ra. Chị vợ Chín Hơn bồng con nhỏ chạy nhào tới. Mọi người vui mừng xúm dìu Chín Hơn xuống. Chợt nhác thấy bóng ai lù lù trên xe, một người hỏi:
- Còn ai ở trỏng nữa đó, ông Bảy?
Lão Hạc lặng lẽ đáp:
- Anh em Hai Nhỏ!
- Hai Nhỏ à? Lôi nó xuống mà nện cho nó một trận đi!
Một anh vừa nói vừa hùng hổ nhảy lên xe. Nhưng lão Hạc đã nắm vai anh ta đẩy xuống. Mắt lão hấp háy nhìn mọi người, rồi cất giọng khàn khàn nói:
- Bà con à, phải, Hai Nhỏ ở trong xe đó. Chính tôi chở nó về, cả em nó nữa. Nhưng em nó thì... hồi tối người ta hiếp nó. Tôi nghĩ rằng để nó ngoài chợ e nó không sống đặng nên tôi chở về chữa chạy...
Lão Hạc nghẹn ngào. Lão cố dằn, nuốt cổ ừng ực trỏ vào xe:
- Còn anh nó, thằng Hai Nhỏ, bà con đã biết. Nó đã làm phản... Tại nó mà chú Thím Hơn bị bắt, bị đánh đau. Nhưng tôi vẫn cứ chở nó về, bà con có trách, tôi xin chịu...
Lão Hạc đứng lặng hồi lâu hai chân lão đi lập cập.
Rồi lão bưng mặt ngửa lên trời:
- Anh Tám Lân, anh chết đi gởi gắm hai đứa con cho tôi mà tôi không làm tròn bổn phận. Anh Tám Lân ơi, tôi có lỗi với anh...
Mọi người đứng sững sờ bên đường. Mấy anh thợ không nói, lặng lẽ đi đến nơi xe đổ. Một người cầm đèn cho hai người đỡ con bé dậy khiêng đi. ánh đèn ngôi quán dọi mờ đôi mắt lờ đờ hé mở của con Mận. Hai cánh tay của nó xuôi rũ riệt. Mấy người đàn bà, cả vợ Chín Hơn, trông thấy thế thì òa lên khóc nức nở. Hai Nhỏ vẫn ngồi nép mình trong xe. Bỗng Chín Hơn từ trong quán gượng đi ra. Anh bước lên quờ quạng nắm lấy tay Hai Nhỏ kéo xuống. Biết chiều nay gã chưa ăn uống. Chín Hơn bảo người chủ A Sủi còn có thức thì dọn ra cho gã ăn.
Quả là trọn ngày nay Hai Nhỏ chưa ăn cơm thật. Gã đói lắm. Song bây giờ thì gã đâu còn bụng dạ nào mà ăn được. Gã ngồi cúi gằm đầu trước bàn, không nói một lời. Lúc cái tiếng rên khe khẽ của con Mận từ nhà lão Hạc vọng lại, ruột của gã như bị tiếng ấy róc xé chảy máu. Cuối cùng gã gục xuống bàn mà khóc một cách thảm thiết. Gã khóc cho đến lúc gà trong xóm cất tiếng gáy, đến tận lúc bên ngoài bóng đêm đã nhợt dần và bầu trời thì đã bắt đầu rựng sáng.
Tàu chúng tôi sau khi đưa chiếc tàu buôn Thụy Điển ra khỏi cửa bể thì neo lại. Là vì đến khuya chúng tôi còn phải đón một chiếc tàu Liên Xô vào cảng. Lúc tiếng chuông trên tàu đánh lên báo hiệu neo đã thả xong thì vừa đúng tám giờ tối. Tôi nhận gác phiên đầu. Tôi đem treo đèn mũi và đèn lái rồi ra đứng ngoài boong. Tất cả thủy thủ đều tranh thủ đi ngủ lấy một giấc. Chỉ còn lại có tôi và người thuyền phó. Người thuyền phó ấy tức là anh Năm Trường, vốn đồng hương với tôi. Bóng tối đã buông xuống mặt bể từ lâu. Trước mặt tôi ngọn hải đăng Long Châu vẫn đều đều chớp lóe. Quanh chỗ tàu đậu và dọc về phía hòn Xám Buối Chẩu hiện ra nhan nhản những cánh buồm thuyền lưới. Mỗi chiếc thuyền lưới mang một ánh đèn nhỏ, lặng lẽ lướt đi lướt lại trên mặt biển. Anh Năm Trường bàn với người cấp dưỡng trên tàu là ông Tư Già, định gọi thuyền mua cá nấu cháo. Ông Tư cấp dưỡng đồng ý. Tôi với anh Năm Trường đi ra lái tìm gọi một chiếc thuyền mua cá nấu cháo. Ông Tư cấp dưỡng đồng ý. Tôi với anh Năm Trường đi ra lái tìm gọi một chiếc thuyền ở gần nhất. Anh Năm bắt tay lên miệng gọi lớn. Có tiếng người têrn thuyền ơi ới đáp lại. Nhưng rồi không rõ vì sao, chẳng thấy một thuyền nào cặp bến. May sao giữa lúc ấy, có một chiếc hướng mũi chèo về tàu. Chiếc thuyền đó đi rất chậm, đôi lúc như vùng vằng định trở mũi, mãi sau mới cặp vào mạn tàu. Tôi cầm chiếc đèn bão giơ lên. Trước mũi thuyền, một anh con trai chạy ra bám vịn thành tàu. Đó là một thanh niên có đôi vai rất rộng, bộ ngực anh ta nở căng cả áo và mái tóc anh ta đẫm nước. Sau lái thuyền, có một ông lão bịt khăn đầu rìu. Dưới chân ông lão là cái bếp lửa mới nhóm lên, cháy vờn vờn.
Anh Năm Trường vui vẻ hỏi vọng xuống:
- Có con cá nào ngon không anh bạn? Cho chúng tôi mua một con!
Anh con trai không đáp, hất mớ tóc trên đầu, đoạn cúi dỡ sạp mũi. Dưới khoang thuyền, tiếng cá quẫy lạch bạch. Những cái sống lưng cá to đen và những vẩy cá như bạc hiện ra lấp loáng trước mắt tôi. Nhưng anh trai trẻ nọ trông lầm lì quá. Đôi bàn tay anh ta quờ quạng dưới khoang chẳng mấy là nhanh nhẹn, xem chiều như miễn cưỡng nữa. Sau cùng anh ta nhấc lên được một con cá. Song thực tình chẳng phải là con cá chúng tôi đang ao ước tí nào. Một con cá nhụ coi như mới chết, mình không được dịu. Tôi kêu lên:
- Con cá ấy bé quá, mà nó lại chết!
- Anh chọn cho tôi một con đủ trên mười người ăn. Chúng tôi cần cá to và ngon để nấu một nồi cháo! Anh Năm Trường nói vào.
Anh con trai đáp nho nhỏ:
- Không còn con nào to đâu, cũng thế cả thôi!
Giọng nói của anh ta rõ là giọng nói của một người bán mà không thiết bán. Tôi lấy làm lạ quá. Rõ ràng vừa rồi dưới khoang thuyền có nhiều con cá trườn sống lưng rất to, đâu phải tôi trông lầm. Tôi định nói, nhưng chưa kịp thốt lời thì sau lái ông lão đã nói lớn:
- Có, còn mấy con song to các bác ạ!
Vừa nói lão vừa bò tuông ra mũi. Tôi nhìn thấy lão rõ hơn. Đó là một ông lão khoảng trên năm mươi. Đầu lão như húi trọc, tóc lún phún trổ ra ngoạm lấy mang tai. Dưới gáy lão in dấu một vết sẹo to như đường dao chém. Người lão coi gầy nhưng cứng cáp. Chiếc áo nâu ngắn tay đang mặc không gài cúc để lộ ra một chiếc thánh giá bằng đồng nhỏ buộc lủng lẳng trước ngực. Lão nói như thét với anh con trai:
- Chậc... Bắt cái song ấy. Gớm, sao mày lại dấm dớ thế, hử?
Anh con chưa kịp cúi xuống khoang thì lão huých luôn cùi tay vào người anh ta và giật lấy chiếc vợt. Nhanh như cắt, lão đã lùa ngay được một con cá vào vợt và nhấc lên. Tôi thấy một con cá song rất to đè trĩu đáy vợt. Thân con cá màu nâu sẫm điểm vằn đen, mang nó thở đều đặn và nơi mũi phì phò những bong bóng nước nhỏ. Nằm trong lưới vợt mà nó xòe cái đuôi ra to như một bàn tay giang rộng. Thực là một con cá đẹp song đẹp đẽ. Anh Năm Trường trông thấy cũng ưng ý ngay. Nhưng anh ta đưa mắt nhìn anh con trai nọ bảo:
- Anh kia có cá to mà sao không muốn bán thế, bộ anh cho chúng tôi không có tiền à? Cán bộ công nhân chúng tôi quả thực không giàu, nhưng thừa sức mua mấy con cá của anh mà.
Người thanh niên nọ ngước mắt lên, lặng lẽ nhìn người thuyền phó chúng tôi. Có lẽ anh ta định nói gì, nhưng ông lão đã quắc mắt nhìn. Cái tia sáng đôi mắt ông lão đã chặn lời anh ta. Bấy giờ thật bụng tôi cũng chẳng thương hại cho anh ta một chút nào. Cái sự anh ta làm trở ngại việc mua bán của chúng tôi thật là sai quấy hẳn đi rồi. Thì anh ta còn định nói gì nữa kia chứ!
Ông lão hai tay chấp cái cán vợt nâng lên. Bộ điệu như vừa là để cho chúng tôi trông thấy tỏ rõ con cá, lại như vừa có vẻ xin lỗi. Anh con trai bấy giờ trở nên một người vô phận sự. Anh ta bò ra sau lái, có vẻ như vẫn còn hậm hực điều gì. Anh Năm Trường hỏi ông lão giá cá bao nhiêu một cân. Ông lão đáp mỗi cân giá một nghìn hai. Chúng tôi thuận mua con cá ấy với giá sáu nghìn hai trăm đồng. Ông lão đưa vợt lên. Tôi đón lấy, lật vợt hất con cá xuống boong tàu. Người đánh cá già sau khi nhận đủ tiền thì xin buộc thuyền vào mạn tàu để nghỉ nấu cơm và đợi con nước khuya.
Trên tàu, tiếng dao thớt của ông Tư cấp dưỡng đã khua lên. Tôi vào bếp bỏ thêm than vào lò chuẩn bị bắc nước. Anh Năm Trường ngồi với tôi một lúc, trước khi xuống cabin ngủ, anh dặn tôi:
- Hễ thấy tàu đến thì đánh chuông, chừng nào cháo chín kêu tụi tôi dậy. Chốc nữa thế nào anh cũng phải uống với tôi một cốc rượu. Từ lúc anh xuống đây tôi chưa được thấy anh uống rượu bây giờ!
Tôi cười không đáp, vặn cây đèn cho cháy sáng hơn rồi ra ngoài, ngồi im, ngửa mặt nhìn trời. Đêm tháng mười, bầu trời lấp lánh các vì sao. Những ngôi sao có tên gọi cùng với những ngôi sao khác chiếu lên nền trời thứ ánh sáng xanh dịu. Gió biển từng cơn từ khơi thổi vào khiến cho tôi mát tỉnh người. Đêm sang thu ở cửa biển thế này thường gợi cho tôi nhiều mơ ước và cảm hứng muốn viết. Bên mạn tàu, ông lão và anh con trai đang hạ buồm xuống. Ông lão ghì sợi dây luộc lòng và anh con trai thì kéo sợi lèo trôn. Trên thuyền, ánh lửa đã nhóm cháy sáng. Tôi đưa mắt nhìn qua ánh lửa chập chờn soi rọi, thấy trong mui có một bức tượng nhỏ Đức Bà Maria và Chúa Hài Đồng tạc bằng đá xám, hơi bé và thô, đặt trên một cô con gái ngồi cạnh bếp lửa. Một cô gái ở biển, có đôi cườm tay đầy đặn, đôi gò má bầu bĩnh rám nắng. Mái tóc cô cũng đẫm nước như anh con trai. Cô ngồi bó gối vào lòng, nhè nhẹ đưa tay đun những que củi đang cháy kêu lắc rắc. Anh con trai sau khi xếp buồm trên mui xong thì đến ngồi bên. Anh ta lặng lẽ tựa lưng mình vào lưng người con gái và duỗi hai chân ra. Tôi đoán chừng họ là hai vợ chồng. Anh con trai ngồi im như thế rất lâu. Tôi nhận thấy cái khuôn mặt đó lầm lì thế nào. Dường như anh ta có sự ấm ức trong lòng mà chưa bộc ra được. Người con gái đưa mắt liếc nhìn, đoạn với tay lên mui lấy một chiếc khăn nâu vắt lên vai anh ta, khẽ bảo:
- Lau đi cho khô tóc.
Anh chồng trẻ vẫn lặng thinh không đáp. Thình lình anh ta hất chiếc khăn sang một bên và nói chõ vào khoang:
- Bố làm thế thì thật không còn mặt mũi nào!
Trong khoang có tiếng dặng hắng của ông lão. Rồi tiếng ông lão nói ra:
Mày bảo sao?... Hừ... tao làm cho tao ăn cả đấy!
- Không phải chuyện bố ăn hay tôi ăn. Lúc nãy tôi đã bảo bố đừng bán, thế mà bố chẳng nghe. Bây giờ đã trót vậy, tốt hơn hết là đem số tiền bán con cá song ấy hoàn lại cho tập đoàn...
Tôi giật nảy mình. Câu đó làm tôi hiểu ra. Tôi có ngờ đâu con cá song chúng tôi vừa mua là của một tập đoàn phường lưới. Thật chẳng dè câu chuyện bán cá đơn giản vừa rồi lại ẩn náu cái uẩn khúc như vậy. Tiếng ông lão rít lên:
- Mày nói gì thế, thằng khốn. Không đời nào thằng già này chịu thế. Mày còn dại lắm con ạ... Không, không...
Thấy mình nói khí to, sợ trên tàu nghe thấy, lão liền hạ thấp giọng. Nhưng tôi vẫn nghe được tiếng lão ta nói tiếp:
- Ai biết được. Chẳng có thuyền nào trông thấy. Đêm hôm tối tăm thế này...
Anh con trai cười:
- Hừ... Hằng ngày bố vẫn cầu nguyện "Chúa ở khắp mọi nơi... thông biết mọi sự" đấy thôi!
Ông lão lặng im.
Anh con trai nói thêm:
- Thế là bố đã không giữ điều răn thứ bảy của Chúa!
Anh con trai mới nói xong thì người con gái quay mặt lại. Cô ta lấy tay cấu khẽ chồng, cau mày.
- Mày dạy lại tao đấy à? Phải, kinh thánh có răn là không được tham của người. Chúa dạy thế. Nhưng đó là Chúa dạy chớ lấy của người khác. Mà tao, tao chẳng có lấy của ai sốt. Của tao làm ra, tao có quyền bán đi. Như vậy là tao không mảy may phạm tội tới điều răn của Chúa.
Ông lão nói với giọng vừa tức giận vừa hả hê. Nói xong lão ngồi nhổm dậy. Kế đó tôi thấy lão mò mẫm tìm vật gì. Lão với tay ra sau lái nói: "Đốt tao cái đóm!" Cô con dâu rút một cọng đóm đốt, trao cho lão. Ông lão hút thuốc. ánh sáng que đóm bùng lên. Tôi nhìn thấy cái ống điếu của lão hút thật to và dài. Loại điếu của người miền núi, tôi chỉ thấy trong một dịp lên Hoàng Su Phì. Tiếng điếu rít lên ồng ộc. Anh con trai lại nói:
- Ăn cắp của một người đã có tội. Ăn cắp của nhiều người càng có tội hơn. Của tập đoàn là của nhiều người. Chúng ta lấy phần của một trăm hai mươi thuyền... Thế mà bố bảo là không có lỗi.
Ông lão bị con dồn vào chỗ thất thế, không lựa lời gì để nói được nữa. Lão tựa lưng vào vách thuyền. Hồi sao lão cất lên một tiếng thở dài não ruột. Trong ánh sáng chập choạng, bóng lão nhổm dậy. Hai tay lão quờ quạng về phía trước nắm chặt lấy then thuyền. Lão nói, giọng không quát tháo như lúc nãy, mà đay nghiến và kể lể:
- Trước kia... mày có biết đâu. Tao đối với bố tao không có như mày đối với tao bây giờ. Tao sống với bố qua những ngày cơ cực không sao nói xiết. Biển cả mênh mông này, chỗ nào mà chẳng có pha mồ hôi của tao, của bố. Chẳng phải đổ mồ hôi không đâu, mà còn đổ cả máu nữa, con ạ. Năm đó mày hãy còn bé, vả lại ở trên bãi mày không thể biết được một trận bão chưa từng thấy. Tao với bố đã chịu qua một đêm một ngày giữa biển. Và không sao bẻ lái như ý muốn. Cuối cùng thuyền rập vào bờ. Không phải là bờ cát đâu, mà rập vào đá. Bố bị chết chuyến ấy, người bị rập giữa đá với thuyền. Còn tao, tao kịp nhảy ra, nhưng vỡ đầu và ngất lịm đi. Vết sẹo trên đầu này của tao có phải là do tao đi ăn cắp, ăn trộm bị người ta chém cho đâu. Không, đó là vì tao vật lộn với miếng ăn để nuôi mày đấy. Bu mày cũng thế, suốt đời cực khổ chẳng ngước mặt lên được. Đời tao với bu mày có biết ăn chơi đàn đúm như chúng mày ngày nay đâu. Bu mày chết, mày làm gì biết được cái cảnh chết đau đớn ấy. Chết vì ăn phải nhiều cá quá. Dạo đó người ở Cát Hải - Gia Luận không có gạo ăn, cá mang lên chả đổi được gạo. Tao cõng xác bu mày đi chôn. Sức tao yếu quá, đến nỗi không thể lê chân đi tìm được chỗ nào cao ráo, đành phải chôn bu mày ở đầu bãi. Cái bãi mà bây giờ chiều chiều bọn bay vẫn xi nê xi niết đấy... Chuyện đó chắc mày đã nghe bà con nói. Tao hình như chưa kể với mày một lần nào. Là vì tao không muốn nhắc lại làm gì. Nhắc lại, mày nghe có thể có ích cho mày, nhưng tao thì lại không chịu nổi. Sau khi bu mày chết, tao sống một mình trơ trọi. Nhiều đêm chợt nghĩ tới chuyện cũ thì không sao ngủ được, nước mắt cứ trào ra. Mặt khác lại không yên thân với chủ thuyền. Chiếc thuyền rập nát trong trận bão biển năm đó nào có phải của tao đâu, của thằng Mã Chiếm đấy chứ. Thế là phải làm trả nợ thuyền suốt hai năm đấy con ạ. Nào ngờ vẫn không chết, sống qua khỏi cái năm đói ghê gớm nhất, rồi lần lần tách ra khỏi sợi dây thòng lọng của thằng Mã Chiếm tròng trên cổ tao suốt mười chín năm trời. Lần hồi, tao dành dụm sắm được thuyền cùng đi lưới chung với bà con. Cho đến nay tao năm mươi nhăm tuổi, mới nhẹ thở được một tí. Nếu Chúa không thương xót thì còn gì thân tao, và mày cũng không được khôn lớn như ngày nay. Thế mà ngày nay chính mày lại làm cho tao ngạt thở. Lúc nãy mày lảm nhảm những gì thế, hở?... Chịu thô, mày đối với tao thực không bằng người dưng kẻ chợ. Cầu Chúa tha tội cho mày...
Trên boong tàu, tôi cúi nhìn xuống. Dưới ánh sao đêm mờ nhạt, ông lão quỳ một gối chân, đang giơ tay lên ngực lên chán làm dấu. Giữa lúc ấy tôi nghe vẳng tới một tiếng nức nở. Đó là tiếng khóc của người con dâu. Cô ta ngừng cời than, úp hai bàn tay vào mặt, đôi vai khẽ rung lên. Anh con trai không động đậy. Rõ là anh ta đang đứng trước một cuộc phản công hết sức mãnh liệt. Lời lẽ nửa đay nghiến nửa thở than của người bố già ấy đã đưa anh vào một tình thế khó tháo gỡ. Người bố từ chỗ trước kia bị thất thế, giờ hóa ra chủ động. Rõ ràng ông ta đang đưa con mình vào một chỗ đã định, bắt người cont rai trẻ dừng lại ở đó mà suy nghĩ, mà đắn đo để rồi uể oải không cất chân bước lên được nữa.
Tôi miết chặt hai ngón chân cái xuống sàn tàu, dán mắt lo lắng nhìn về phía anh bạn trẻ của tôi. Lưng anh ta vẫn dựa vào vai vợ nhưng hai chân từ từ co lại. Anh ngồi im như một bức tượng. Chỉ có đôi lông mày hơi nhíu và đôi mắt mở trừng trừng, long lanh đọng ánh than lửa từ bếp hắt lên. Tôi không rõ anh ta đang nghĩ gì. Điều chắc chắn là tâm trạng anh ta không được bình thường. Tôi chợt thấy anh ta thúc nhẹ khủy tay vào sườn vợ, chừng như bảo vợ nín đi, đừng có khóc nữa.
Rất lâu sau, dưới thuyền vẫn im lìm. Tiếng sóng đều đều vỗ ộp oạt vào mạn thuyền và tàu, càng làm cho sự yên tĩnh lộ rõ hơn. Anh con trai từ lúc nghe gợi nhắc về cái quá khứ cũ của bố mẹ, vẫn cứ ngồi im phăng phắc, khiến tôi sốt ruột. Nhưng tôi vẫn kiên trì chờ đợi và hy vọng. Bấy giờ tôi thấy hết sức cần đòi hỏi ở anh con trai ấy một câu nói. Cái câu nói của anh và của chính lòng tôi đang mong đợi. Cốt sao anh ta đừng tạo một sự căng thẳng, đừng làm cho người vợ yếu lòng kia phải cất tiếng khóc một lần nữa. Thời gian trôi qua rất chậm và nặng nề. Vẫn không thấy anh con trai hé miệng. Tôi sắp sửa nản lòng, thì người con trai ấy đã lên tiếng.
- Nỗi khổ của bố ngày xưa, tôi rõ lắm... Bố ạ, khi bố nhớ lại những cảnh ấy thì bố có nghĩ là tại sao bây giờ bố được dễ thở không? Chẳng nhẽ bố lại không nhớ vì thế nào, nhờ ai mà thằng Mã Chiếm nó chịu buông cái sợi dây thòng lọng của nó ra hay sao? Bố cứ nghĩ xem...
Tôi thở phào nhẹ cả người. Anh con trai đã nói lên cái câu nó mà chỉ có trong lứa tuổi anh mới nói được. Lời nói khiến ông lão im đi một chập rất lâu không đáp. Tôi bỗng nghe từ dưới cabin có tiếng chân người đi lên. Thì ra anh Năm Trường. Anh đến bên tôi. Khi anh sắp mở miệng định nói thì tôi đã kịp giơ tay chặn lại. Tôi kéo anh đi về phía mũi. Anh Năm Trường lo lắng hỏi:
- Cái gì thế, anh?
Tôi nói: "- Chuyện gác thì không có gì xảy ra, nhưng có chuyện này... " Rồi tôi thuật lại cho anh nghe câu chuyện giữa bố con ông lão thuyền cá. Cuối cùng tôi chép miệng:
- Bọn mình cũng sơ suất, lẽ ra phải hỏi cẩn thận rồi hãy mua.
- Không hề gì. Vả lại mình có biết đâu. Giờ cá đã sắp ăn rồi không thể trả lại được!
Nói đoạn anh Năm Trường bảo tôi cùng đi với anh lại chỗ chiếc thuyền buộc. Đến nơi tôi với anh im lặng ngồi nép xuống. Dưới thuyền, ông lão vừa hút xong một hơi thuốc lào nữa rồi ngả lưng nằm xuống. Đằng lái anh con trai đã xây lưng lại. Anh ta đưa tay vuốt vuốt làn tóc ướt của vợ. Vợ anh đã thôi khóc, ngồi yên cho chồng mân mó tóc mình. Một lúc sau chị rũ nhẹ mái tóc, lúi húi tìm đèn đốt lên. Chị lấy đũa cả giở vung xới cơm. Mùi cơm nếp bốc hơi thơm ngát đến tận mũi chúng tôi. Chị ta bày ra trên sạp lái một chiếc mâm gỗ, trên có đặt ba cái bát và một con cá nhụ nước. Chị rướn người vào khoang nói:
- Bố ra xơi cơm!
- Cứ ăn đi, bố chưa đói đâu. Ông lão đáp.
Người con dâu lộ vẻ không yên tâm. Chị ta lo bố chồng còn giận. Nhưng anh chồng đã nhắc trên giá xuống một chiếc bát to. Anh sẻ một nửa con cá và xới cơm nếp, cẩn thận để riêng ra. Anh đưa mắt ra hiệu bảo vợ ăn. Hai vợ chồng cùng ăn với nhau. Anh con trai ban đầu còn cầm đũa về sau cứ vắt xôi trong tay mà ăn ngấu nghiến. Chị vợ thì ăn nhỏ nhẻ từng miếng một. Chốc chốc chị liếc chồng và nâng bát che nụ cười tủm tỉm.
Bỗng ông lão lên tiếng, chừng như sau bao nhiêu lâu nghĩ ngợi:
- Tuổi già như tao không hề quên tạ ơn ai bao giờ. Nhưng có cái tao nghĩ mãi chẳng ra. Đảng và Chính phủ bày ra cái tập đoàn làm gì nhỉ? Nói thực, tao có thích vào tập đoàn đâu. Tao mà vào tập đoàn là tại mày, là vì tao không chịu nổi cái miệng thế. Có ngày đây rồi không dư dả đâu mà góp nuôi cha xứ được!
- Sao lại không? Mấy tháng nay cha vẫn sống đầy đủ đấy chứ!
Ông lão im đi một chập, hồi sau nói:
- Ngày mai chủ nhật thuyền về bến Quảng, tao cấm mày nói ra điều gì đấy nghe không?
- Ngày mai tôi có việc bận phải lên thị xã đấy bố ạ!
- Việc gì?
- Tôi đi họp thanh niên.
Ông lão tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Thế mày không đi lễ à... Mà thôi, cũng được, đã đi họp thì đừng đi lễ.
Anh con trai trả lời: - Tôi đi họp nhưng tôi cũng không bỏ lễ.
- Đi đâu thì đi nhưng giữ cẩn thận cái mồm anh đấy!
- Nếu nhỡ bà con biết thì sao?
- Làm thế nào mà biết được?
Anh con trai ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Bố nên nghe tôi, tốt hơn hết là đem trả số tiền bán cá lại cho ban quản trị tập đoàn đi bố ạ!
Câu nói của anh con trai như lời tuyên bố cuối cùng, như một tiếng chuông đánh vang lên lần chót. Chúng tôi nghe thấy hình như ông lão rít chặt hai hàm răng lại. Anh Năm Trường đập nhẹ vào vai tôi một cái. Tôi đinh ninh là nhất định hai bố con sẽ cãi nhau to. Cô con dâu cũng quả có nỗi lo như tôi. Chị ta phát nhẹ tay vào lưng anh chồng, môi bậu lại. May sao giữa lúc đó trên mặt bể có tiếng động cơ. Tôi khều anh Năm Trường nói khẽ: "- Tàu đến!". Anh Năm đứng lên nhìn, nhưng lắc đầu nói: "- Không phải!".
Chiếc "Maiascốpki" chưa đến. Đó là chiếc "Vĩ ngư" của Trung Quốc đi đánh cá về. Tàu chạy ngang mặt chúng tôi về mé phải. Có lẽ tàu đánh được nhiều cá lắm nên trông rất khẳm. Anh con trai nọ buông câu chuyện đang nói với bố, mải lo nhìn tàu. ánh mắt anh lộ vẻ thèm thuồng. Tàu chạy khỏi rồi, anh bảo vợ:
- Thích thật, giá mà cho tớ được đi đánh cá trên tàu thì tớ đi ngay!
- Thì anh cứ đi đi, có ai buộc chân anh ở thuyền đâu. Ông lão xen vào. Ngừng một lúc, lão tiếp lời:
- Mà cái thứ như anh người ta cóc có cần... Anh đi, tôi đây cũng chả thiết. Anh ở đây, anh chỉ độc làm khổ tôi...
Anh con nghe bố nói thì vùng cười:
- Không có tôi bố sẽ ra khỏi tập đoàn chứ gì?
- Không biết!
- Thế thì tôi chẳng đi đâu cả. Chừng nào bố thích được cái tập đoàn đó thì chừng ấy tôi mới đi!
- Ma quỷ! Mày bất hiếu bất mục thế thì Chúa không chứng cho mày đâu!
- Sao, bố nói sao? - Anh con trai hỏi lại.
- Tao nói Chúa không chứng cho mày. Mày mà cứ thế thì rồi mày chết sa địa ngục.
Anh con trai bèn cười nữa, và nói:
- Chưa biết ai sa địa ngục đấy. Tôi thì tôi cứ thẳng một mạch lên thiên đường cho bố xem!
Hai bố con cứ thế mà nói. Không khí dưới thuyền đã trở nên dễ chịu hơn. Dẫu sao, qua một trận cãi vã, họ vẫn là bố con ruột thịt với nhau. Nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy cuộc cãi vã đến đây chưa phải là đã kết thúc. Từ lời nói đến việc thực hiện được ý muốn, người con sẽ còn phải vượt qua bao nhiêu khó khăn nữa. Tôi hình dung nỗi khó ấy mà lo thay cho anh. Nhưng bây giờ tôi trông anh có vẻ ung dung chứ không vội vã. Sau khi thôi nói với bố, anh ta day qua cọ cọ nằm lên đôi vai tròn trĩnh của vợ. Anh áp miệng nhá nhá hàm răng lên cái đôi vai đó. Chúng tôi không nghe họ nói thêm gì nữa. Vừa lúc ấy, chợt có tiếng người cấp dưỡng gọi. Cháo đã chín, bay mùi hành thơm phức. Tôi với anh Năm Trường rời chỗ ngồi. Đồng hồ tàu điểm mười một giờ. Tôi xuống cabin đánh thức anh em dậy. Chốc sau chúng tôi đã quây quần ở quầy lái, múc chuyên tay nhau những bát cháo cá tươi. Anh Năm Trường đem chai rượu ra rót vào những chiếc cốc sứ nhỏ. Trước khi ăn chúng tôi mời ông lão thuyền cá. Ông lão từ dưới thuyền đáp: "- Cám ơn các bác, chúng tôi vừa mới lỗi cơm xong!". Anh Năm Trường bưng một cốc rượu bước ghé ra mời ông lão. Nhận ra rượu, ông lão cảm ơn nhiều lượt, rồi hai tay đỡ lấy cốc rượu uống thẳng một hơi. Uống xong lão "khà" một tiếng khoái trá. Anh Năm Trường lại rót một cốc khác nói rõ là mời anh con trai. Nhưng anh ta lắc đầu:
- Tôi không biết uống đâu!
- Sao lại không? Uống đi chứ, một hớp thôi...
Và mặc dù anh con trai từ chối, người thuyền phó vẫn nài anh ta uống cho được. Ông lão chuyển cốc rượu ra sau lái với vẻ mặt ngạc nhiên trước sự thay đổi thái độ của người thuyền phó đối với con mình. Người con gái e thẹn tiếp lấy cốc rượu nơi tay ông lão đưa lại cho chồng. Anh con trai không từ chối được, bưng lấy cốc. Tôi mỉm cười nhìn anh bưng cốc rượu uống. Hẳn chỉ có riêng tôi với anh Năm Trường là hiểu được ý nghĩa của cốc rượu tặng ấy. Sau đó, chúng tôi cùng húp cháo nóng một cách ngon lành. Nhưng gương mặt của thủy thủ ngồi quanh tôi đều đỏ hồng lên. Trên trán họ lấm tấm rịn ra những giọt mồ hôi nhỏ. Lúc sắp ăn xong, đồng chí hoa tiêu kêu lên:
- Tàu đến kia rồi!
Tôi buông thìa cháo đang ăn, nhìn ra khơi. Quả nhiên thấy có ánh đèn tàu xuất hiện ở cuối mặt bể. Đồng thời chợt nghe từ phía ấy phát lên những tiếng nổ rất ấm. Vô số những pháo hoa xanh đỏ, vàng từ tàu "Maia" bay vọt lên không trung. Chúng tôi reo hò thích thú. Mọi người đều hiểu. Đêm nay đúng là đêm kỷ niệm Cách mạng tháng Mười, các thủy thủ Liên Xô bắn pháo hoa để chào mừng ngày lễ lớn.
ánh đèn tàu "Maia" mỗi lúc một đến gần. Đèn tàu sáng rực như đèn điện ở một vùng phố nhỏ. Tôi đến cởi hộ dây cho chiếc thuyền lưới. Ông lão gò lưng kéo mạnh sợi dây buộc lòng. Cánh buồm nâu từ từ bị lôi sểnh lên. Tiếng chuông trên buồng lái reo giật. ống khói tàu khọt khẹt như người hắt hơi. Chiếc thuyền lưới tách ra khỏi tàu, xa dần. Tôi chỉ còn vừa kịp nhìn thấy chiếc lưng vạm vỡ và đôi vai rộng của người con trai. Rồi bóng thuyền khuất mất trên mặt biển tối.
Tôi bảo anh Năm Trường:
- Anh Năm à, tôi e rằng bọn mình vừa rồi ăn phải mấy miếng cá không được xã hội chủ nghĩa lắm.
Người thuyền phó đồng hương của tôi đáp:
- Tớ thì tớ nghĩ khác. Tớ tin là anh con trai sẽ thắng ông bố!
Bấy giờ tiếng máy khởi động mạnh làm thành tàu rung lên. Đèn tàu bật sáng, chân vịt sau lái bắt đầu khuấy nước ùng ục. Tàu chúng tôi quay mũi nhằm hướng chiếc "Maiaxcốpki" mà chạy lướt tới. Tôi đưa mắt nhìn từng chùm pháo hoa ngũ sắc đang bay múa tuyệt đẹp từ trên lưng chừng không là là buông xuống, chiếu sáng những ngọn sóng hình lưỡi búa.
Trước mũi tàu, sóng nước bị rẽ ra, vỡ tan, đầm đìa ánh sáng. Còn các vì sao xanh biếc trên trời kia thì cứ như là cùng lướt đi theo tàu chúng tôi không đành lòng tạm biệt.
Trời đang có mưa.
Những người tù biết trời mưa khi họ vừa bị lùa ra khỏi khám. Họ đón lấy giọt mưa với nỗi sung sướng thầm lặng. Ngót một năm rồi họ bị nhốt kín. Sống với roi vọt và bóng tối, họ thèm ánh mặt trời, thèm mưa, thèm cỏ cây. Họ khao khát mọi thứ tầm thường nhất mà xưa nay thiên nhiên vẫn rộng lòng ban phát cho mọi người.
Quả là ai cũng muốn bước thật chậm. Người nào cũng muốn đặt bàn chân lâu lâu trên đất. Bởi vì họ hiểu rằng chẳng mấy chốc nữa họ sẽ xa đất rất lâu. Và có thể là sẽ xa đất mãi mãi.
Côn Đảo với họ ngày nào còn là một hòn đảo ghê rợn trong tưởng tượng thì bây giờ tất cả mọi hiện thực ghê rợn về hòn đảo ấy đã gần gũi lắm.
Nhưng cái khoảng cách giữa cổng khám và những chiếc xe đợi chờ họ đi đâu có xa. Nên dẫu họ có đi chậm mấy, dẫu họ có nuối tiếc, cuối cùng rồi cũng không thể giữ được mãi hơi hướng của đất dưới đôi bàn chân.
Người tù lê bước đi sau hết là một phụ nữ có mang. Trong bóng tôi, chị thu hai cánh tay bị còng lên ngực, ngửa mặt đón lấy hạt mưa. Một người đi trước ý chừng sợ chị té, quay lại hỏi:
- Chị Lộc, chị đâu rồi?
- Tôi đây!
Chị đáp, và đi tới ánh sáng của một chiếc đèn "pin" chiếu thẳng vào mặt chị. Tên lính vừa bấm đèn đó quát:
- Sao đi chậm vậy, hả?
Dĩ nhiên là tên lính ấy không hiểu lý do về sự đi chậm của chị. Hắn đâu hiểu nỗi mừng rỡ của chị khi bắt gặp những giọt mưa rơi xuống. ánh đèn pin vẫn chưa tắt trên khuôn mặt người phụ nữ. Trông chị chưa quá hăm tám. Khuôn mặt trái xoan thon thả và xanh xao kia, cái đôi mắt sáng không chớp kia có cái gì rất đỗi trang nghiêm, vượt lên trên số phận tù tội của chị. Dường như chị không thấy có tên lính cùng tiếng quát của hắn. Tên lính thì lại nhận ra đó là một thái độ bướng bỉnh. Hắn vung khẩu tômxơn lên. Nhưng có tiếng người nói sau lưng:
- Đừng, chị ấy có thai!
Cũng chẳng rõ ai nói. Một người tù nào đó. Sau câu nói, mọi người đinh ninh một trận đòn sẽ xảy ra. Nhưng không, tên lính không đánh ai cả.
- Chị Lộc, chị mệt lắm không?
- Không sao. Giờ tôi thấy dễ chịu hơn. Mưa mát quá!
Xe hơi chở họ chạy đi. Mưa rơi lộp độp trên mui xe phủ vải bạt. Trận mưa đêm gợi cho người đi đày nhiều nỗi nhớ. Người nào cũng im lặng nghĩ đến vợ, đến con, nghĩ đến những người đồng chí thương mến đã cùng sống với mình qua những phút gian lao.
Chị phụ nữ mang thai ngồi bẹp dưới sàn xe. Hai tay chị đặt nơi bụng. Chị nghe tiếng mưa rơi rõ hơn tiếng ù ù của xe chạy. Từng giọt mưa cứ thấm vào lòng chị nỗi lo âu lạnh giá. Chị đang nghĩ đến đứa con. Đêm nay lại bắt đầu những thử thách mới, gian khổ khôn lường. Một câu hỏi luôn luôn ám ảnh chị: "Liệu con mình còn sống được không? Liệu mình còn gìn giữ được nguồn hy vọng tươi sáng mà bấy lâu mình mong đợi không?
Thật mong manh quá.
Sự sống của người đi đày vốn đã mỏng manh rồi, nói chi đến sự sống của đứa bé phải ra đời trong cảnh đi đầy. Cách đây mươi bữa, cơn phong ba ở Phú Lợi đã thổi qua đầu chị. Nay sẽ là biển cả nổi sóng, là hòn đảo chết cứ mỗi lúc một hiện ra, đen sạm. Nay không những chị phải vượt biển mà chị còn phải vượt cạn, vượt qua tất cả những gì tàn bạo nhất của kẻ thù dành cho chị và đứa con của chị. Đứa con! Ôi hai tiếng ấy có những mãnh lực gì, hai tiếng ấy có những tình yêu và hy vọng gì mà tự thuở còn con gái chị đã nghe nó từ xa. Có chồng rồi, chị Lộc nghe tiếng ấy gọi dậy trong lòng. Có lẽ như hầu hết những người con gái Việt Nam khác, trời đã phú sẵn cho chị tấm lòng của người mẹ ngay từ lúc chị chưa biết tình yêu. Chị không thể hiểu được khi nghe nói có những người đàn bà thành phố không muốn đẻ con, nuôi con. Họ chỉ thích kéo dài cuộc sống son rỗi, nhàn hạ. Chị không hẳn là những người phụ nữ thành thị, cũng không hẳn là người phụ nữ nông thôn. Chị có sống ở cả hai nơi. Nhưng bất kỳ ở đâu, sao chị cũng ham bế đứa con trẻ trên tay. Với chị, tiếng khóc của đứa trẻ nào mới sinh chị nghe cũng nô nức. Chị có chồng hơi muộn. Hứa hẹn với nhau thì lâu, nhưng làm lễ cưới chậm. Có chồng được vài tháng, trong một đêm vợ chồng nằm áp mặt vào nhau, chị thủ thỉ bảo chồng rằng: "Anh ơi, nếu có đẻ con nhiều thì hai đứa mình rán nuôi nghe, đừng để sơ sẩy đứa nào nghe!" Anh Lý, chồng chị, chẳng nói sao cả. Nhưng chị biết, dù đêm tối, chị biết anh ấy cười. Người tỉnh ủy viên đó hay có cái nụ cười tủm tỉm như thế. Bây giờ anh ấy ở đâu? Chị cũng không rõ. Đời cách mạng, chồng một nơi, vợ một nẻo. Lúc thụ thai được một tháng chị bị bắt. Trước những miếng đòn khảo tra của bọn công an, chị cố tìm cách tránh né sao cho đừng trúng bụng. Có hai cái chị gìn giữ cẩn thận nhất. Đó là những bí mật của Đảng và đứa con. Nhưng bí mật của Đảng thì chắc chắn giữ được, chớ miếng đòn kẻ địch đánh lên thân thể thì không sao tránh xiết được.
Sau những lần bị tra tấn, chị thường soát lại coi mình có nói câu gì có hại cho đoàn thể không. Rồi chị bình tĩnh để ý nghe coi cái thai có bị hề hấn gì không.
Độ này đứa bé chòi đạp mạnh khiến chị đau lói, choáng váng. Tính ra thì cũng đã gần ngày. Đứa bé đi vào nhà tù khi nó chớm tượng hình người. Thế là những dự định nho nhỏ của chị cũng không thể có được nữa rồi. Một chiếc nôi đan bằng mây, một cái mũ len xanh da trời nếu chị sanh con gái. Cái mũ sẽ đỏ tươi nếu chị đẻ con trai. Làm sao có thể có được trong cái cảnh đi đày này những tấm tã trắng, chùm vải ngũ sắc treo trên nôi, nhịp võng đưa nghe kẽo kẹt, và nhất là nụ cười của chồng khi anh ấy cúi xuống bên con...
Ngồi trên xe dẫn ra cái bến biển đày ải, chị Lộc chụm hai khuỷu tay bị còng lại đặt lên bụng, như giữ lấy đứa con cho nó khỏi bị xốc.
Cơn mưa mỗi lúc một to. Trong xe tối quá, ngột ngạt quá. Chị Lộc ước: "- Phải chi tấm vải bạt kia trụt hở ra một chút thì thật là sướng". Chị muốn thở một cái. Nhưng biết làm sao. Tấm vải bạt nọ móc vào mui xe bởi những chiếc móc sắt rất khít khao. Mà tay người nào cũng bị xiềng cả. Có muốn mở cũng không được.
Lát sau chị Lộc chợt thấy có tay ai quờ quạng chạm lên tay mình. Tiếp theo đó là một giọng nói khàn khàn.
- Con có mệt lắm không?
Chị Lộc nhận ra ngay ông Sáu, người tù cao niên nhất đã ở tù chung với chị tại Phú Lợi. Chị đáp:
- Con hơi ngột... Bác Sáu có ngột không?
Ông già an ủi:
- Rán một chút nữa cháu. Gần tới rồi!
- Tới đâu?
- Chắc là nó đưa mình tới bên Ba Son.
Ông già trả lời. Mấy ngón tay gầy của ông đưa đi đưa lại vuốt vuốt bàn tay Lộc. Một nỗi xúc động kỳ lạ dâng lên trong người chị. Khi những ngón tay gầy guộc khô chai đó rờ rẫm tay chị, và cái còng nơi cổ tay ông già chạm phải cái còng trên cổ tay chị bật lên một tiếng kêu.
Còng số tám U.S.A. Cái nào cũng hệt như nhau. Nhưng hai bàn tay thì thuộc hai thế hệ khác.
"Đứa con trong bụng mình lại là một lớp người sau nữa". Chị Lộc nghĩ.
Trong một chuyến đi đày mà có tới ba lớp người đẻ trước sinh sau. Chị tự hỏi: "Liệu cái còng trên tay mình và tay bác Sáu sau này có còn siết lấy cổ tay con mình nữa không?" Trả lời câu hỏi đó của chị là tiếng xe hãm rít ở phía trước. Rồi chiếc xe chở chị cũng đột ngột dừng lại. Mọi người bị ngã quỵ vào nhau. Có tiếng giày đinh từ trên xe nhảy xuống, giẫm lạo xạo trên đá sỏi.
Tên lính đi ra sau xe mở tầm vải bạt. Mọi người trong xe nhỏm dậy. Tên lính gầm gừ:
- Chưa xuống đâu, đợi đó!
Chị Lộc đã thở được một hơi. Chị thấy trong người dễ chịu hơn. Ông Sáu kêu:
- Đúng là bến Ba Son rồi!
Dưới ánh sáng của những bóng điện mắc trên lưới thép gai giăng quanh, chị Lộc thấy những tên lính gác cắp súng đứng liền nhau. Sóng sông Sài Gòn vỗ ì oạp vào bờ đá. Hai chiếc tàu sắt đậu lù lù dưới bến, mõm há ra. Những xe trước rú lên, ghé đít vào sát bửng sắt của con tàu bây giờ biến thành cái cầu.
Những người tù nhảy xuống, hai tay bị còng cứ thu thu nơi ngực. Chiếc tàu nuốt lấy hết người này đến người khác. Cái mõm tham lam ấy chứa đến bảy tám xe người mà vẫn chưa chịu đóng lại.
Chiếc xe chị Lộc quay đầu, chạy lùi về mõm tàu. Tên lính thét:
- Xuống!
Mọi người đều nhảy, trừ chị Lộc. Chị không dám nhảy. Có hai anh ghé vào đỡ chị xuống. Tên lính liền thúc báng súng vào lưng họ, khiến họ ngã chúi. Họ coi đó là sự thường, lồm cồm ngồi dậy.
Đám người bị lùa xuống tàu sau những họng súng garăng lắp lê sáng loáng. Chị Lộc lần đầu bước lên tàu há mồm. Chạy trên tấm sắt dày, chị nghe lạnh ngắt bàn chân. Xuống đây đèn bật sáng lên, tù được tháo còng, để rồi liền đó họ bị cùm chân vào những thanh sắt dài thượt sơn đen đặt trên sàn tàu. Đó là những thanh quyện văn minh nhất mà người Mỹ đã chế tạo.
Chị Lộc đút chân vào cái quyện sắt ấy rồi, bỗng thấy trong người bần thần khó chịu. Chị khẽ tựa vào lưng một người ở phía sau.
Hầm tàu quả là một cái dạ dày háu đói đến tàn nhẫn. Nó cứ nuốt lấy những người tù bị lùa chạy qua tấm sắt. Đến lúc nó không thể nào chứa thêm được nữa thì hai sợi dây lòi tói lớn bằng bắp tay từ từ móc lôi tấm bửng sắt lên. Mõm tàu khép lại. Tiếng lòi tói, tiếng sắt khua động rền rĩ. Đó là tiếng còi chào giã bến của những tàu loại này.
Đèn trong hầm tàu cũng tắt nốt.
Tàu xình xình lướt đi trên mặt sông Sài Gòn. Chị Lộc cắn chặt môi giữ cho mình khỏi khóc. Bị tra tấn chị chẳng hề ứa một giọt nước mắt. Vậy mà bây giờ chị muốn khóc làm sao. Chị rưng rưng nhớ tuổi nhỏ, nhớ má chị, nhớ tình yêu hé ra trong những ngày đen tối. Giây phút ấy chị thấy lại cái bến sông mà chị thường giặt giũ gội tóc. Chị cảm thấy tay mình như còn ấm nóng cái bàn tay âu yếm vụng về của anh Lý, mới ngày nào vừa cầm dắt chị đi qua một cánh đồng. Chị còn nhớ gió chiều thổi lật những gốc rạ, và phía chân đồng như hãy còn ầm ĩ vọng lại bên tai chị tiếng sấm báo hiệu trời sắp sa mưa.
Con tàu sình sình trườn đi trong đêm tối. Tiếng ồn ào của thành phố im dần. Cuối cùng Sài Gòn chỉ còn dậy lên rào rào như một tổ ong. Sóng nước vã lách chách vào mạn tàu. Cứ mỗi lúc chị Lộc nghe tiếng sóng vỗ mạnh hơn. Tàu bắt đầu bị nhồi lắc.
- Biển rồi!
Một người trong hầm tàu kêu lên.
Tiếng kêu như một lần nữa báo cho những người đi đày biết rằng cái gì ở lại sau lưng đều đã ở lại. Gió lùa qua các cửa sổ tròn. Chị Lộc sợ nhận lầm, nên chị nhổm lên nhìn. Sau cửa, chỉ có đêm đen, với những lượn sóng bổ nhào, đầm đìa ánh sáng.
"Ra tới biển thật rồi!". Chị tự nhủ và ngồi xuống. Nhưng bấy giờ chị thấy bụng hơi đau. Rồi cơn đau bất ngờ oặn lên khiến chị lặng người đi. Hai tay chị bíu lấy thanh sắt quyện chân, mồ hôi vã ra hai bên thái dương. Trạng thái cơ thể báo cho chị biết rằng đây không phải là một cơn đau bụng thường. Chị gắng chịu cho tới lúc không dám im chịu nữa. Chị phều phào gọi:
- Mấy anh ơi!
- Gì đó?
- Tôi đau quá!
- Ai? Chị Lộc hả, sao?
Những đôi bàn chân đưa tới, sờ soạng trong bóng tối tìm chị. Tiếng ông Sáu hỏi:
- Con Lộc hả? Sao đó con?
- Dạ, con đau bụng quá. Có lẽ...
Ông già không đợi Lộc nói nữa, quát luôn:
- Ai ở gần cửa đập cửa kêu tụi nó coi! Nói có người chuyển bụng đẻ...
Tấm cửa sắt ngăn hầm tàu và những căn phòng ở phía trước bị gót chân người giậm rầm rầm. Người giậm cửa có lẽ mỏi cả chân rồi mà cánh cửa vẫn không động đậy.
- Chắc tụi nó ngủ. Đạp mạnh nữa đi!
Tấm cửa sắt lại bị những người gần đấy đạp dữ dội. Lát sau cánh cửa kêu rít lên. Đèn trong hầm tàu bật sáng. Tên lính thò đầu qua khe cửa mở hé, hỏi:
- Làm cái gì om sòm vậy?
- Có một người phụ nữ chuyển bụng đẻ.
Tên lính trố mắt:
- Đẻ hả! Ai đó?
- 1090
- Thiệt là rắc rối quá. Thôi để tôi báo trung úy. Tên lính rụt đầu vào. Những người trong hầm tàu sốt ruột chờ hắn trở lại. Chị Lộc bây giờ đã nằm xuống hầm tàu. Mà chân trái chị vẫn bị giữ trong quyện sắt.
Tên lính đã trở lại. Lần này có cả tên trung úy đi theo. Hai tên lách mình qua cửa. Tên trung úy quay sang nói gì với tên lính. Tên lính liền móc xâu thìa khóa cúi xuống ở thanh cùm bên phía chị Lộc và hất hàm:
- Số 1090, rút chân ra nghe!
Chị Lộc từ từ rút chân mình ra.
Thanh cùm lại đóng khép những bàn chân kia lại. Tên trung úy nói:
- Trên tàu không lo được chuyện chửa đẻ!
- Y tá của các ông đâu?
- Không có y tá!
Giữa đám đông người bỗng có một cánh tay giơ lên:
- Tôi làm việc đó được. Mở cùm cho tôi!
Người vừa nói ngồi tận trong xó tàu. Sự lên tiếng của anh ta đem lại hy vọng cho cả hầm tàu. Tên trung úy ngó lơ chỗ khác một lúc rồi day lại hỏi:
- Thằng nào mới nói đó?
- Tôi, 1212!
- Mày biết làm cái nghề đó à?
- Biết.
Tên trung úy đứng lưỡng lự một chốc rồi bảo tên lính:
- Mở cho nó ra!
Chùm chìa khóa lại khua lên. Tên lính mở thanh cùm sắt trong vách tàu cho người tù số 1212 rút chân ra.
- Chúng tôi xin đi thêm hai người nữa!
Hai anh ngồi cạnh anh 1212 vừa nói vừa rút chân ra luôn. Tên trung úy thét:
- Không, không được!
Tên lính nói nhỏ vào tai tên trung úy:
- Thưa trung úy, cứ cho tụi nó đi. Hai thằng đó có thể nấu nước.
Mọi người lao xao:
- Ông không có y tá thì để chúng tôi giúp đỡ nhau.
Tên trung úy cười gằn:
- Mấy người giỏi gánh vác cho nhau lắm... Thì cứ đi theo mà gánh vác. Nhưng tôi cho hay phải lo chỗ nằm cho chị ta đó. ở trên đẻ thì được chớ không nằm được đâu!
Ba người tù bước ra. Họ tiến đến chỗ chị Lộc, đỡ chị dậy, dìu đi. Sóng biển bây giờ xô mạnh hơn. Con tàu chao lắc quá, nên bước đi của họ cũng rõ là vất vả hơn. Họ miết ngón chân xuống sàn tàu, người nghiêng nghiêng.
Cánh cửa sắt khép lại.
Khi bốn người đã đi, không khí trong hầm tàu có cái gì không giống trước. Đành là tên lính không tắt đèn. Do đó mà hầm tàu có ánh sáng. Nhưng cái khác trước đây là mọi người đều ngồi dậy cả. Những tiếng nói lào xào:
- Cho hai người đi thêm là rất hay!
- Phải rồi, tin tụi nó đâu được.
- Quân khốn nạn quá. Chị em có chửa xin hưỡn lại đẻ cũng không được. Thằng Diệm mà chết thì mả của nó rồi cũng bị trời đánh tét hai như mả ông già nó thôi!
- Tôi sợ thằng nhỏ khó sống. Cô ta bị nó đánh cũng nhiều...
- Trời ơi... Mong sao mẹ tròn con vuông. Ra đảo rồi thì tụi mình cố mà đùm bọc cho hai mẹ con...
Mọi người nguyền rủa, bàn bạc lo lắng. Ngót ba trăm con người ấy đang hồi hộp đón đợi sự ra đời của một con người. Họ chờ cánh cửa nhích ra. Khi mà biển cả trong đêm thâu vẫn gào lên. Và gió rú dữ dội. Gió xát vào mạn tàu, thổi hù hù qua các cửa sắt. Những người đi đày chợt quên khuấy cái hòn đảo khủng khiếp mà con tàu sẽ đưa họ đến trong ngày mai. Bây giờ hầu như không ai nghĩ tới hòn đảo chết chóc ấy nữa. Cả hầm tàu nghĩ tới đứa bé, và người mẹ của nó. Họ hy vọng và họ ngờ vực. Đêm đi đày không im lìm tăm tối nữa. Hình như đêm bị đánh thức, sáng lòa từ lúc ông già Sáu thét người đạp cửa, anh 1212 lên tiếng - "Tôi làm việc đó được!" và hai anh khác tự động rút phắt chân ra khỏi cùm, đứng dậy.
Một người ở cạnh chỗ chị Lộc nằm ban nãy nói:
- Giờ phải sửa soạn chỗ nằm cho hai mẹ con chớ!
Người đó nói đoạn liền cởi áo của mình ra, lặng lẽ trải lên khoang tàu.
Người thứ hai bên cạnh cũng làm y như vậy. Người thứ ba, rồi người thứ tư cởi áo mình chuyền lại. Cứ thế, loáng sau chỗ đó đã lợp thành nệm. Một cái nệm tạo nên bằng những tấm áo tù có in ba chữ tắt C.T.P. Đến lúc người tù trải áo kêu lên: "Thôi, thôi, nhiều quá rồi!" Thì những tấm áo vẫn còn chuyền tới trên tay. Và người ta vẫn còn cởi áo.
Những ai sau khi đã cởi áo của mình ra quả là họ thấy có lạnh hơn, nhưng lại thấy yên lòng hơn lúc còn mặc áo.
Không biết con tàu đã vượt thêm bao nhiêu dặm biển nữa rồi. Thời gian có vẻ đi chậm lại. Ai cũng bồn chồn tự hỏi:
- Sao lâu quá chẳng biết có chuyện gì xảy ra không?
Mọi người nôn nao muốn chạy lại kéo cửa mà tìm tới chỗ chị Lộc. Nhưng thanh quyện sắt giữ chặt chân họ. Làm sao mà chạy đi cho được.
Bọn người ở Bắc Mỹ chế cây cùm phải nói là khéo. Chỉ vài thanh sắt thôi mà giữ được cả trăm con người.
Nhưng những con người ở đây không chạy được thì họ cũng chẳng chịu yên. Họ dùng một chân còn lại đạp cửa. Cánh cửa sắt lại tung lên rầm rầm. Nhưng nó vẫn không mở ra.
Thình lình giữa lúc ấy có tiếng thét từ bên cửa vọng lại. Rồi có ai ngã dúi vào cửa. Mọi người trong hầm tàu đều nhổm lên. Bên kia cửa hình như có tiếng giày đinh nện xuống sàn tàu lốp cốp, tiếng đấm đá huỳnh huỵch, tiếng giằng xé, la lối, gầm ghè. Đột nhiên, cánh cửa mở xịch ra. Người mở cửa không phải tên lính mà là một trong số hai người tù ban nãy. Anh ta rán sức kéo cánh cửa. Còn tên trung úy và mấy tên lính thì đang cố ghì lại. Thừa cơ hội đó, anh tù 1212 bế đứa bé đỏ hỏn chun lòn qua cửa. Anh ta chạy bổ vào giữa đám người trong hầm tàu. Tên trung úy và mấy tên lính lảo đảo rượt theo. Nhưng mọi người đã cản chúng lại. Anh tù 1212 nói qua hơi thở hổn hển:
- Nó... nó tính liệng thằng nhỏ xuống biển.
- Trời...
Cả hầm tàu gầm lên. Tức khắc tên trung úy và mấy tên lính bị lôi té sấp xuống. Chúng bị những người tù đè chặt. Tên trung úy bị một bàn tay siết lấy cổ họng. Hắn kêu ằng ặc. Khi ông già Sáu quay lại thì thấy đôi mắt tên trung úy đã trợn ngược. Ông nói:
- Buông nó ra!
Bàn tay đang bóp cổ tên trung úy từ từ nới nhẹ. Tên trung úy nghẽo vật cổ, lưỡi thè lè trông rất ghê sợ.
Hắn đã tắt thở.
Chiếc tàu đó không bao giờ đi tới Côn Đảo. Cơn phẫn nộ đã đẩy những người tù tới hành động mà họ không tính trước. Sau khi chuồi cái xác tên trung úy qua cửa sổ, những người tù bắt tên lính mở cùm. Họ trèo ra khỏi hầm tàu, bắt hết bọn lính trói lại, rồi kề súng buộc tên cầm lái chạy về hướng mũi Cà Mau.
Đến trưa hôm sau, chiếc tàu rướn vào bãi cạn Viên An, mỏm đất chót vót của Cà Mau. Những người tù đổ xăng đốt chiếc tàu. Họ lùa bọn lính lên bãi đước mới mọc, và bồng theo cả đứa bé oa oa khóc.
- Cho đến bây giờ, đứa bé cũng hãy còn. Nó đã lên bảy, mập mạnh và rất nghịch ngợm. Giá như mẹ nó không nói thì tôi cũng chẳng biết nó được sinh ra trong cái đêm dữ dội ấy đâu.
1964
Trời đang có mưa.
Những người tù biết trời mưa khi họ vừa bị lùa ra khỏi khám. Họ đón lấy giọt mưa với nỗi sung sướng thầm lặng. Ngót một năm rồi họ bị nhốt kín. Sống với roi vọt và bóng tối, họ thèm ánh mặt trời, thèm mưa, thèm cỏ cây. Họ khao khát mọi thứ tầm thường nhất mà xưa nay thiên nhiên vẫn rộng lòng ban phát cho mọi người.
Quả là ai cũng muốn bước thật chậm. Người nào cũng muốn đặt bàn chân lâu lâu trên đất. Bởi vì họ hiểu rằng chẳng mấy chốc nữa họ sẽ xa đất rất lâu. Và có thể là sẽ xa đất mãi mãi.
Côn Đảo với họ ngày nào còn là một hòn đảo ghê rợn trong tưởng tượng thì bây giờ tất cả mọi hiện thực ghê rợn về hòn đảo ấy đã gần gũi lắm.
Nhưng cái khoảng cách giữa cổng khám và những chiếc xe đợi chờ họ đi đâu có xa. Nên dẫu họ có đi chậm mấy, dẫu họ có nuối tiếc, cuối cùng rồi cũng không thể giữ được mãi hơi hướng của đất dưới đôi bàn chân.
Người tù lê bước đi sau hết là một phụ nữ có mang. Trong bóng tôi, chị thu hai cánh tay bị còng lên ngực, ngửa mặt đón lấy hạt mưa. Một người đi trước ý chừng sợ chị té, quay lại hỏi:
- Chị Lộc, chị đâu rồi?
- Tôi đây!
Chị đáp, và đi tới ánh sáng của một chiếc đèn "pin" chiếu thẳng vào mặt chị. Tên lính vừa bấm đèn đó quát:
- Sao đi chậm vậy, hả?
Dĩ nhiên là tên lính ấy không hiểu lý do về sự đi chậm của chị. Hắn đâu hiểu nỗi mừng rỡ của chị khi bắt gặp những giọt mưa rơi xuống. ánh đèn pin vẫn chưa tắt trên khuôn mặt người phụ nữ. Trông chị chưa quá hăm tám. Khuôn mặt trái xoan thon thả và xanh xao kia, cái đôi mắt sáng không chớp kia có cái gì rất đỗi trang nghiêm, vượt lên trên số phận tù tội của chị. Dường như chị không thấy có tên lính cùng tiếng quát của hắn. Tên lính thì lại nhận ra đó là một thái độ bướng bỉnh. Hắn vung khẩu tômxơn lên. Nhưng có tiếng người nói sau lưng:
- Đừng, chị ấy có thai!
Cũng chẳng rõ ai nói. Một người tù nào đó. Sau câu nói, mọi người đinh ninh một trận đòn sẽ xảy ra. Nhưng không, tên lính không đánh ai cả.
- Chị Lộc, chị mệt lắm không?
- Không sao. Giờ tôi thấy dễ chịu hơn. Mưa mát quá!
Xe hơi chở họ chạy đi. Mưa rơi lộp độp trên mui xe phủ vải bạt. Trận mưa đêm gợi cho người đi đày nhiều nỗi nhớ. Người nào cũng im lặng nghĩ đến vợ, đến con, nghĩ đến những người đồng chí thương mến đã cùng sống với mình qua những phút gian lao.
Chị phụ nữ mang thai ngồi bẹp dưới sàn xe. Hai tay chị đặt nơi bụng. Chị nghe tiếng mưa rơi rõ hơn tiếng ù ù của xe chạy. Từng giọt mưa cứ thấm vào lòng chị nỗi lo âu lạnh giá. Chị đang nghĩ đến đứa con. Đêm nay lại bắt đầu những thử thách mới, gian khổ khôn lường. Một câu hỏi luôn luôn ám ảnh chị: "Liệu con mình còn sống được không? Liệu mình còn gìn giữ được nguồn hy vọng tươi sáng mà bấy lâu mình mong đợi không?
Thật mong manh quá.
Sự sống của người đi đày vốn đã mỏng manh rồi, nói chi đến sự sống của đứa bé phải ra đời trong cảnh đi đầy. Cách đây mươi bữa, cơn phong ba ở Phú Lợi đã thổi qua đầu chị. Nay sẽ là biển cả nổi sóng, là hòn đảo chết cứ mỗi lúc một hiện ra, đen sạm. Nay không những chị phải vượt biển mà chị còn phải vượt cạn, vượt qua tất cả những gì tàn bạo nhất của kẻ thù dành cho chị và đứa con của chị. Đứa con! Ôi hai tiếng ấy có những mãnh lực gì, hai tiếng ấy có những tình yêu và hy vọng gì mà tự thuở còn con gái chị đã nghe nó từ xa. Có chồng rồi, chị Lộc nghe tiếng ấy gọi dậy trong lòng. Có lẽ như hầu hết những người con gái Việt Nam khác, trời đã phú sẵn cho chị tấm lòng của người mẹ ngay từ lúc chị chưa biết tình yêu. Chị không thể hiểu được khi nghe nói có những người đàn bà thành phố không muốn đẻ con, nuôi con. Họ chỉ thích kéo dài cuộc sống son rỗi, nhàn hạ. Chị không hẳn là những người phụ nữ thành thị, cũng không hẳn là người phụ nữ nông thôn. Chị có sống ở cả hai nơi. Nhưng bất kỳ ở đâu, sao chị cũng ham bế đứa con trẻ trên tay. Với chị, tiếng khóc của đứa trẻ nào mới sinh chị nghe cũng nô nức. Chị có chồng hơi muộn. Hứa hẹn với nhau thì lâu, nhưng làm lễ cưới chậm. Có chồng được vài tháng, trong một đêm vợ chồng nằm áp mặt vào nhau, chị thủ thỉ bảo chồng rằng: "Anh ơi, nếu có đẻ con nhiều thì hai đứa mình rán nuôi nghe, đừng để sơ sẩy đứa nào nghe!" Anh Lý, chồng chị, chẳng nói sao cả. Nhưng chị biết, dù đêm tối, chị biết anh ấy cười. Người tỉnh ủy viên đó hay có cái nụ cười tủm tỉm như thế. Bây giờ anh ấy ở đâu? Chị cũng không rõ. Đời cách mạng, chồng một nơi, vợ một nẻo. Lúc thụ thai được một tháng chị bị bắt. Trước những miếng đòn khảo tra của bọn công an, chị cố tìm cách tránh né sao cho đừng trúng bụng. Có hai cái chị gìn giữ cẩn thận nhất. Đó là những bí mật của Đảng và đứa con. Nhưng bí mật của Đảng thì chắc chắn giữ được, chớ miếng đòn kẻ địch đánh lên thân thể thì không sao tránh xiết được.
Sau những lần bị tra tấn, chị thường soát lại coi mình có nói câu gì có hại cho đoàn thể không. Rồi chị bình tĩnh để ý nghe coi cái thai có bị hề hấn gì không.
Độ này đứa bé chòi đạp mạnh khiến chị đau lói, choáng váng. Tính ra thì cũng đã gần ngày. Đứa bé đi vào nhà tù khi nó chớm tượng hình người. Thế là những dự định nho nhỏ của chị cũng không thể có được nữa rồi. Một chiếc nôi đan bằng mây, một cái mũ len xanh da trời nếu chị sanh con gái. Cái mũ sẽ đỏ tươi nếu chị đẻ con trai. Làm sao có thể có được trong cái cảnh đi đày này những tấm tã trắng, chùm vải ngũ sắc treo trên nôi, nhịp võng đưa nghe kẽo kẹt, và nhất là nụ cười của chồng khi anh ấy cúi xuống bên con...
Ngồi trên xe dẫn ra cái bến biển đày ải, chị Lộc chụm hai khuỷu tay bị còng lại đặt lên bụng, như giữ lấy đứa con cho nó khỏi bị xốc.
Cơn mưa mỗi lúc một to. Trong xe tối quá, ngột ngạt quá. Chị Lộc ước: "- Phải chi tấm vải bạt kia trụt hở ra một chút thì thật là sướng". Chị muốn thở một cái. Nhưng biết làm sao. Tấm vải bạt nọ móc vào mui xe bởi những chiếc móc sắt rất khít khao. Mà tay người nào cũng bị xiềng cả. Có muốn mở cũng không được.
Lát sau chị Lộc chợt thấy có tay ai quờ quạng chạm lên tay mình. Tiếp theo đó là một giọng nói khàn khàn.
- Con có mệt lắm không?
Chị Lộc nhận ra ngay ông Sáu, người tù cao niên nhất đã ở tù chung với chị tại Phú Lợi. Chị đáp:
- Con hơi ngột... Bác Sáu có ngột không?
Ông già an ủi:
- Rán một chút nữa cháu. Gần tới rồi!
- Tới đâu?
- Chắc là nó đưa mình tới bên Ba Son.
Ông già trả lời. Mấy ngón tay gầy của ông đưa đi đưa lại vuốt vuốt bàn tay Lộc. Một nỗi xúc động kỳ lạ dâng lên trong người chị. Khi những ngón tay gầy guộc khô chai đó rờ rẫm tay chị, và cái còng nơi cổ tay ông già chạm phải cái còng trên cổ tay chị bật lên một tiếng kêu.
Còng số tám U.S.A. Cái nào cũng hệt như nhau. Nhưng hai bàn tay thì thuộc hai thế hệ khác.
"Đứa con trong bụng mình lại là một lớp người sau nữa". Chị Lộc nghĩ.
Trong một chuyến đi đày mà có tới ba lớp người đẻ trước sinh sau. Chị tự hỏi: "Liệu cái còng trên tay mình và tay bác Sáu sau này có còn siết lấy cổ tay con mình nữa không?" Trả lời câu hỏi đó của chị là tiếng xe hãm rít ở phía trước. Rồi chiếc xe chở chị cũng đột ngột dừng lại. Mọi người bị ngã quỵ vào nhau. Có tiếng giày đinh từ trên xe nhảy xuống, giẫm lạo xạo trên đá sỏi.
Tên lính đi ra sau xe mở tầm vải bạt. Mọi người trong xe nhỏm dậy. Tên lính gầm gừ:
- Chưa xuống đâu, đợi đó!
Chị Lộc đã thở được một hơi. Chị thấy trong người dễ chịu hơn. Ông Sáu kêu:
- Đúng là bến Ba Son rồi!
Dưới ánh sáng của những bóng điện mắc trên lưới thép gai giăng quanh, chị Lộc thấy những tên lính gác cắp súng đứng liền nhau. Sóng sông Sài Gòn vỗ ì oạp vào bờ đá. Hai chiếc tàu sắt đậu lù lù dưới bến, mõm há ra. Những xe trước rú lên, ghé đít vào sát bửng sắt của con tàu bây giờ biến thành cái cầu.
Những người tù nhảy xuống, hai tay bị còng cứ thu thu nơi ngực. Chiếc tàu nuốt lấy hết người này đến người khác. Cái mõm tham lam ấy chứa đến bảy tám xe người mà vẫn chưa chịu đóng lại.
Chiếc xe chị Lộc quay đầu, chạy lùi về mõm tàu. Tên lính thét:
- Xuống!
Mọi người đều nhảy, trừ chị Lộc. Chị không dám nhảy. Có hai anh ghé vào đỡ chị xuống. Tên lính liền thúc báng súng vào lưng họ, khiến họ ngã chúi. Họ coi đó là sự thường, lồm cồm ngồi dậy.
Đám người bị lùa xuống tàu sau những họng súng garăng lắp lê sáng loáng. Chị Lộc lần đầu bước lên tàu há mồm. Chạy trên tấm sắt dày, chị nghe lạnh ngắt bàn chân. Xuống đây đèn bật sáng lên, tù được tháo còng, để rồi liền đó họ bị cùm chân vào những thanh sắt dài thượt sơn đen đặt trên sàn tàu. Đó là những thanh quyện văn minh nhất mà người Mỹ đã chế tạo.
Chị Lộc đút chân vào cái quyện sắt ấy rồi, bỗng thấy trong người bần thần khó chịu. Chị khẽ tựa vào lưng một người ở phía sau.
Hầm tàu quả là một cái dạ dày háu đói đến tàn nhẫn. Nó cứ nuốt lấy những người tù bị lùa chạy qua tấm sắt. Đến lúc nó không thể nào chứa thêm được nữa thì hai sợi dây lòi tói lớn bằng bắp tay từ từ móc lôi tấm bửng sắt lên. Mõm tàu khép lại. Tiếng lòi tói, tiếng sắt khua động rền rĩ. Đó là tiếng còi chào giã bến của những tàu loại này.
Đèn trong hầm tàu cũng tắt nốt.
Tàu xình xình lướt đi trên mặt sông Sài Gòn. Chị Lộc cắn chặt môi giữ cho mình khỏi khóc. Bị tra tấn chị chẳng hề ứa một giọt nước mắt. Vậy mà bây giờ chị muốn khóc làm sao. Chị rưng rưng nhớ tuổi nhỏ, nhớ má chị, nhớ tình yêu hé ra trong những ngày đen tối. Giây phút ấy chị thấy lại cái bến sông mà chị thường giặt giũ gội tóc. Chị cảm thấy tay mình như còn ấm nóng cái bàn tay âu yếm vụng về của anh Lý, mới ngày nào vừa cầm dắt chị đi qua một cánh đồng. Chị còn nhớ gió chiều thổi lật những gốc rạ, và phía chân đồng như hãy còn ầm ĩ vọng lại bên tai chị tiếng sấm báo hiệu trời sắp sa mưa.
Con tàu sình sình trườn đi trong đêm tối. Tiếng ồn ào của thành phố im dần. Cuối cùng Sài Gòn chỉ còn dậy lên rào rào như một tổ ong. Sóng nước vã lách chách vào mạn tàu. Cứ mỗi lúc chị Lộc nghe tiếng sóng vỗ mạnh hơn. Tàu bắt đầu bị nhồi lắc.
- Biển rồi!
Một người trong hầm tàu kêu lên.
Tiếng kêu như một lần nữa báo cho những người đi đày biết rằng cái gì ở lại sau lưng đều đã ở lại. Gió lùa qua các cửa sổ tròn. Chị Lộc sợ nhận lầm, nên chị nhổm lên nhìn. Sau cửa, chỉ có đêm đen, với những lượn sóng bổ nhào, đầm đìa ánh sáng.
"Ra tới biển thật rồi!". Chị tự nhủ và ngồi xuống. Nhưng bấy giờ chị thấy bụng hơi đau. Rồi cơn đau bất ngờ oặn lên khiến chị lặng người đi. Hai tay chị bíu lấy thanh sắt quyện chân, mồ hôi vã ra hai bên thái dương. Trạng thái cơ thể báo cho chị biết rằng đây không phải là một cơn đau bụng thường. Chị gắng chịu cho tới lúc không dám im chịu nữa. Chị phều phào gọi:
- Mấy anh ơi!
- Gì đó?
- Tôi đau quá!
- Ai? Chị Lộc hả, sao?
Những đôi bàn chân đưa tới, sờ soạng trong bóng tối tìm chị. Tiếng ông Sáu hỏi:
- Con Lộc hả? Sao đó con?
- Dạ, con đau bụng quá. Có lẽ...
Ông già không đợi Lộc nói nữa, quát luôn:
- Ai ở gần cửa đập cửa kêu tụi nó coi! Nói có người chuyển bụng đẻ...
Tấm cửa sắt ngăn hầm tàu và những căn phòng ở phía trước bị gót chân người giậm rầm rầm. Người giậm cửa có lẽ mỏi cả chân rồi mà cánh cửa vẫn không động đậy.
- Chắc tụi nó ngủ. Đạp mạnh nữa đi!
Tấm cửa sắt lại bị những người gần đấy đạp dữ dội. Lát sau cánh cửa kêu rít lên. Đèn trong hầm tàu bật sáng. Tên lính thò đầu qua khe cửa mở hé, hỏi:
- Làm cái gì om sòm vậy?
- Có một người phụ nữ chuyển bụng đẻ.
Tên lính trố mắt:
- Đẻ hả! Ai đó?
- 1090
- Thiệt là rắc rối quá. Thôi để tôi báo trung úy. Tên lính rụt đầu vào. Những người trong hầm tàu sốt ruột chờ hắn trở lại. Chị Lộc bây giờ đã nằm xuống hầm tàu. Mà chân trái chị vẫn bị giữ trong quyện sắt.
Tên lính đã trở lại. Lần này có cả tên trung úy đi theo. Hai tên lách mình qua cửa. Tên trung úy quay sang nói gì với tên lính. Tên lính liền móc xâu thìa khóa cúi xuống ở thanh cùm bên phía chị Lộc và hất hàm:
- Số 1090, rút chân ra nghe!
Chị Lộc từ từ rút chân mình ra.
Thanh cùm lại đóng khép những bàn chân kia lại. Tên trung úy nói:
- Trên tàu không lo được chuyện chửa đẻ!
- Y tá của các ông đâu?
- Không có y tá!
Giữa đám đông người bỗng có một cánh tay giơ lên:
- Tôi làm việc đó được. Mở cùm cho tôi!
Người vừa nói ngồi tận trong xó tàu. Sự lên tiếng của anh ta đem lại hy vọng cho cả hầm tàu. Tên trung úy ngó lơ chỗ khác một lúc rồi day lại hỏi:
- Thằng nào mới nói đó?
- Tôi, 1212!
- Mày biết làm cái nghề đó à?
- Biết.
Tên trung úy đứng lưỡng lự một chốc rồi bảo tên lính:
- Mở cho nó ra!
Chùm chìa khóa lại khua lên. Tên lính mở thanh cùm sắt trong vách tàu cho người tù số 1212 rút chân ra.
- Chúng tôi xin đi thêm hai người nữa!
Hai anh ngồi cạnh anh 1212 vừa nói vừa rút chân ra luôn. Tên trung úy thét:
- Không, không được!
Tên lính nói nhỏ vào tai tên trung úy:
- Thưa trung úy, cứ cho tụi nó đi. Hai thằng đó có thể nấu nước.
Mọi người lao xao:
- Ông không có y tá thì để chúng tôi giúp đỡ nhau.
Tên trung úy cười gằn:
- Mấy người giỏi gánh vác cho nhau lắm... Thì cứ đi theo mà gánh vác. Nhưng tôi cho hay phải lo chỗ nằm cho chị ta đó. ở trên đẻ thì được chớ không nằm được đâu!
Ba người tù bước ra. Họ tiến đến chỗ chị Lộc, đỡ chị dậy, dìu đi. Sóng biển bây giờ xô mạnh hơn. Con tàu chao lắc quá, nên bước đi của họ cũng rõ là vất vả hơn. Họ miết ngón chân xuống sàn tàu, người nghiêng nghiêng.
Cánh cửa sắt khép lại.
Khi bốn người đã đi, không khí trong hầm tàu có cái gì không giống trước. Đành là tên lính không tắt đèn. Do đó mà hầm tàu có ánh sáng. Nhưng cái khác trước đây là mọi người đều ngồi dậy cả. Những tiếng nói lào xào:
- Cho hai người đi thêm là rất hay!
- Phải rồi, tin tụi nó đâu được.
- Quân khốn nạn quá. Chị em có chửa xin hưỡn lại đẻ cũng không được. Thằng Diệm mà chết thì mả của nó rồi cũng bị trời đánh tét hai như mả ông già nó thôi!
- Tôi sợ thằng nhỏ khó sống. Cô ta bị nó đánh cũng nhiều...
- Trời ơi... Mong sao mẹ tròn con vuông. Ra đảo rồi thì tụi mình cố mà đùm bọc cho hai mẹ con...
Mọi người nguyền rủa, bàn bạc lo lắng. Ngót ba trăm con người ấy đang hồi hộp đón đợi sự ra đời của một con người. Họ chờ cánh cửa nhích ra. Khi mà biển cả trong đêm thâu vẫn gào lên. Và gió rú dữ dội. Gió xát vào mạn tàu, thổi hù hù qua các cửa sắt. Những người đi đày chợt quên khuấy cái hòn đảo khủng khiếp mà con tàu sẽ đưa họ đến trong ngày mai. Bây giờ hầu như không ai nghĩ tới hòn đảo chết chóc ấy nữa. Cả hầm tàu nghĩ tới đứa bé, và người mẹ của nó. Họ hy vọng và họ ngờ vực. Đêm đi đày không im lìm tăm tối nữa. Hình như đêm bị đánh thức, sáng lòa từ lúc ông già Sáu thét người đạp cửa, anh 1212 lên tiếng - "Tôi làm việc đó được!" và hai anh khác tự động rút phắt chân ra khỏi cùm, đứng dậy.
Một người ở cạnh chỗ chị Lộc nằm ban nãy nói:
- Giờ phải sửa soạn chỗ nằm cho hai mẹ con chớ!
Người đó nói đoạn liền cởi áo của mình ra, lặng lẽ trải lên khoang tàu.
Người thứ hai bên cạnh cũng làm y như vậy. Người thứ ba, rồi người thứ tư cởi áo mình chuyền lại. Cứ thế, loáng sau chỗ đó đã lợp thành nệm. Một cái nệm tạo nên bằng những tấm áo tù có in ba chữ tắt C.T.P. Đến lúc người tù trải áo kêu lên: "Thôi, thôi, nhiều quá rồi!" Thì những tấm áo vẫn còn chuyền tới trên tay. Và người ta vẫn còn cởi áo.
Những ai sau khi đã cởi áo của mình ra quả là họ thấy có lạnh hơn, nhưng lại thấy yên lòng hơn lúc còn mặc áo.
Không biết con tàu đã vượt thêm bao nhiêu dặm biển nữa rồi. Thời gian có vẻ đi chậm lại. Ai cũng bồn chồn tự hỏi:
- Sao lâu quá chẳng biết có chuyện gì xảy ra không?
Mọi người nôn nao muốn chạy lại kéo cửa mà tìm tới chỗ chị Lộc. Nhưng thanh quyện sắt giữ chặt chân họ. Làm sao mà chạy đi cho được.
Bọn người ở Bắc Mỹ chế cây cùm phải nói là khéo. Chỉ vài thanh sắt thôi mà giữ được cả trăm con người.
Nhưng những con người ở đây không chạy được thì họ cũng chẳng chịu yên. Họ dùng một chân còn lại đạp cửa. Cánh cửa sắt lại tung lên rầm rầm. Nhưng nó vẫn không mở ra.
Thình lình giữa lúc ấy có tiếng thét từ bên cửa vọng lại. Rồi có ai ngã dúi vào cửa. Mọi người trong hầm tàu đều nhổm lên. Bên kia cửa hình như có tiếng giày đinh nện xuống sàn tàu lốp cốp, tiếng đấm đá huỳnh huỵch, tiếng giằng xé, la lối, gầm ghè. Đột nhiên, cánh cửa mở xịch ra. Người mở cửa không phải tên lính mà là một trong số hai người tù ban nãy. Anh ta rán sức kéo cánh cửa. Còn tên trung úy và mấy tên lính thì đang cố ghì lại. Thừa cơ hội đó, anh tù 1212 bế đứa bé đỏ hỏn chun lòn qua cửa. Anh ta chạy bổ vào giữa đám người trong hầm tàu. Tên trung úy và mấy tên lính lảo đảo rượt theo. Nhưng mọi người đã cản chúng lại. Anh tù 1212 nói qua hơi thở hổn hển:
- Nó... nó tính liệng thằng nhỏ xuống biển.
- Trời...
Cả hầm tàu gầm lên. Tức khắc tên trung úy và mấy tên lính bị lôi té sấp xuống. Chúng bị những người tù đè chặt. Tên trung úy bị một bàn tay siết lấy cổ họng. Hắn kêu ằng ặc. Khi ông già Sáu quay lại thì thấy đôi mắt tên trung úy đã trợn ngược. Ông nói:
- Buông nó ra!
Bàn tay đang bóp cổ tên trung úy từ từ nới nhẹ. Tên trung úy nghẽo vật cổ, lưỡi thè lè trông rất ghê sợ.
Hắn đã tắt thở.
Chiếc tàu đó không bao giờ đi tới Côn Đảo. Cơn phẫn nộ đã đẩy những người tù tới hành động mà họ không tính trước. Sau khi chuồi cái xác tên trung úy qua cửa sổ, những người tù bắt tên lính mở cùm. Họ trèo ra khỏi hầm tàu, bắt hết bọn lính trói lại, rồi kề súng buộc tên cầm lái chạy về hướng mũi Cà Mau.
Đến trưa hôm sau, chiếc tàu rướn vào bãi cạn Viên An, mỏm đất chót vót của Cà Mau. Những người tù đổ xăng đốt chiếc tàu. Họ lùa bọn lính lên bãi đước mới mọc, và bồng theo cả đứa bé oa oa khóc.
- Cho đến bây giờ, đứa bé cũng hãy còn. Nó đã lên bảy, mập mạnh và rất nghịch ngợm. Giá như mẹ nó không nói thì tôi cũng chẳng biết nó được sinh ra trong cái đêm dữ dội ấy đâu.
1964